text
stringlengths 1
377k
|
---|
Trung Quốc, và nhiều người chịu chết chứ không chịu làm trái lương tâm, như trường hợp anh em một viên thái sử nước Tề dưới đây ở thời Khổng tử. Thôi Trữ, một đại phu tể tướng nước Tề giết Tề Trang công (bài V.18 có nhắc tới vụ này). Quan thái sử Tề chép: “Thôi Trữ giết vua”, bị Thôi đem chém. Em người đó lãnh chức thái sử thay anh, cũng chép như vậy, cũng bị chém. Nước láng giềng có một người hay việc ấy, sợ sau khi hai người kia bị Thôi giết rồi, không còn ai chép sự thực nữa, bèn qua xin làm chức thái sử. Thôi Trữ thấy vậy phải than và sợ những quan thái sử. Viết bộ Xuân Thu là Khổng tử muốn truyền tục đẹp đó cho đời sau. Từ khi đệ tử hiểu ông nhất, tức Nhan Hồi, chết rồi, ông thường buồn, phàn nàn với Tử Cống: Không có ai hiểu ta. Tử Cống hỏi: Sao thầy lại than không ai biết thầy? Ông đáp: Ta không oán trời, không trách người, học từ những việc thấp là nhân sự mà đạt lên cao tới thiên lí. Hiểu ta có lẽ chỉ có trời chăng (XIV.35)? Ông tự so sánh với người xưa, bảo: “Không khuất chí mình, không để nhục thân mình là Bá Di, Thúc Tề chăng?”, bảo: “Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên chịu khuất chí mình, nhục thân mình, nhưng lời nói hợp nghĩa lý, hành vi đắn đo, chỉ được vậy thôi” – bảo: “Ngu Trọng, Di Dật ở ẩn, không nói gì cả, giữ thân được trong sạch, không làm quan là hợp với quyền nghi.” Còn ông thì “Ta khác các ông ấy: chẳng có gì nhất định phải làm, chẳng có gì nhất định không nên làm” (vô khả, vô bất khả |
– XVIII.8). Tư Mã Thiên còn cho rằng vào thời này ông hận không làm được gì để người khác khen mình (Tật một thí nhi danh bất xưng – XV.19) cho nên mới ráng viết Kinh Xuân Thu. Chỉ là lời phỏng đoán vậy thôi, nhưng rõ ràng là tinh thần ông đã suy. Năm 481 (năm 14 đời Lỗ Ai công), Khổng tử 71 tuổi, bọn gia thần họ Thúc bắt được một con vật lạ, mình nai, đuôi bò, có một cái sừng ở trán. Ông bảo là con kì lân, và nhớ lại hồi thân mẫu ông sắp sinh ra ông cũng mộng thấy một con kì lân. Ông buồn chán, bảo: “Chim phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên Hoàng Hà. Ta hết hy vọng rồi” (IX.8). Người Trung Hoa tin Phượng là một linh điểu, vua Thuấn được người ta dâng một con, rồi tới đời Văn vương có chim phượng họ ở núi Kì. Bức đồ là bức có hình bát quái, thời Phục Hi có con long mã đội nó trên lưng, hiện trên sông Hoàng Hà, nên gọi là Hà Đồ. Hai vật đó là những điềm thánh nhân xuất hiện. Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương không ra đời và đạo ông không thể nào thi hành được. Cái mộng ông nối gót Chu công thế là tiêu tan. Bộ Xuân Thu ông viết chấm dứt ở việc bắt được kì lân. Năm sau Tử Lộ chết bất đắc kì tử ở nước Vệ trong một cuộc nổi loạn, chỉ vì thói hiếu dũng, như Khổng tử đã đoán. Chung quanh chỉ còn Tử Cống là học trò thân tín. Từ đó ông đau ốm hoài. Năm sau nữa 479, một hôm Tử Cống tới thăm, thấy ông |
chống gậy, dạo bước ở trước cửa. Thấy Tử Cống, ông ngẩn đầu lên bảo: Tứ, sao anh tới trễ vậy? Ông rớt nước mắt nói lời cuối cùng với Tử Cống: Thiên hạ loạn từ lâu mà không thấy một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây. Bảy ngày sau ông mất ở Lỗ, vào tháng tư năm 16 đời vua Ai công, thọ 73 tuổi. Trong Nhà giáo họ Khổng (sách đã dẫn) tôi đã chép lễ mai táng ông, lời điếu của Ai công, và sử để tang ông ba năm của môn đồ; riêng Tử Cống còn ở lại trong một căn nhà lá giữ mộ thêm ba năm nữa. Ông chi có một người con trai, Bá Ngư, tư cách trung bình, đã chết trước, nhưng có một cháu nội có tài đức, tên cấp, tự là Tử Tư, sau này truyền được một phần đạo của ông trong cuốn Trung dung. Đó, Tư Mã Thiên cho ta biết được bấy nhiêu về Khổng tử. Hơn hai ngàn năm nay biết bao nhiêu nhà khảo cứu về Khổng học cũng không cho ta biết được gì hơn. Những điều chúng tôi tóm tắt lại ở trên, có một số còn phải tồn nghi; những điều tin được (phần nhiều ở trong Luận ngữ) thì cũng thường không biết chắc được xảy ra trong hoàn cảnh nào, vào năm nào. Tuy nhiên nếu vì vậy mà bảo đời của Khổng tử chỉ là một “huyền thoại” (un mythe) thì cũng quá, và dù sao ông vẫn là triết gia mà chúng ta biết rõ hơn hết trong số các triết gia thời Tiên Tần và tập Xuân Thu quả là của ông viết. Dưới đây, chúng tôi thử lập một niên biểu về đời ông, xen với |
niên biểu các biến cố lớn thời đó chép trong Từ Hải. Những niên đại về Khổng tử chỉ có tính cách phỏng chừng, sai một hai năm là thường, có thể sai cả chục năm. Năm Việc lớn các nước Đời Khổng tử Chu Linh vương năm 21 551 Khổng tử sanh ở ấp Trâu nước Lỗ. Lỗ Tương công năm 22 549? Mồ côi cha. Chu Cảnh vương năm 544 Lập chí học. 1 541 Lỗ Chiêu công năm 1 Cưới vợ là Khiên thị, người Tống. 537 Sinh con trai là Lí (Bá Ngư). 533 Làm chức lại cho họ Quí (coi gạt thóc, giữ cừu bò). Bắt đầu dạy học (không chắc, có sách nói 532 khoảng 30 tuổi mới dạy học). Công tử nước Lỗ Là 531? Khí Tật tự lập là Bình Mẹ chết. vương Tề Cảnh công qua chơi Lỗ. Gặp Khổng tử, hỏi về 530 Tần Mục công. Vua Sở giết Ngũ xa. Ngũ viên bỏ Sở qua 529 Qua Lạc ấp (Chu) khảo về lễ (?) Ngô Trịnh, Sở diệt nước Cử Vương tử Triều nổi 527 Khổng tử qua Tề, vì Lỗ loạn. loạn Chu Kính vương năm 522 Học nhạc thiều. Vương tử Triều chạy qua Sở. Họ Quí đánh Tề Cảnh công hỏi ông về chính trị sự, muốn 520 đuổi Lỗ Chiêu công dùng ông sau bị triều thần ngăn, không dùng trốn qua Tề, ở Tề cho nữa. đến chết. Lỗ Chiêu công chết ở 519 Về Lỗ. Tề. Dương Hổ làm loạn ở Lỗ, muốn mời ông ra giúp 518? Lỗ Định công lên ngôi y, ông không chịu, (vào khoảng năm 505 chứ không chắc). Ngô đánh Sở. Sở Công sơn Phất Nhiễu làm loạn ở Lỗ, chiếm đất 516 Chiêu vương chạy qua Phí. Mời ông tới, ông định tới rồi nghe lời can Tùy |
của Tử lộ, không đi. Thân Bao Tư (Sở) xin Tần giúp quân cứu Sở 510 Lỗ Định công dùng ông làm Trung Đô tể Chiêu vương, đưa về Dĩnh (Kinh đô Sở) 506 Tề tặng Lỗ một đoàn Được cất lên chức Tư không. (Tử Lộ, Tử Du… lữ nhạc cũng ra làm quan) Ngô vương Phù Sai 505 đánh bại Việt vương Làm Đại Tư Khấu. Câu Tiễn Theo Định công đi hội kiến với vua Tề ở Giáp 502 Lỗ Ai công năm 1 Cốc. Làm á tướng ở Lỗ. Khuyên vua Lỗ phá ba thành Xuất công Triếp lên 501 của ba họ Mạnh, Quí, Thúc. Chỉ phá được hai ngôi ở Vệ (?) thành của họ Thúc và họ Quí. 500 Tống diệt Tào Giết Thiếu Chính Mão (ngờ). Vua Lỗ và họ Quí không trọng dụng ông nữa, Người Lỗ bắt được 497 ông bỏ về quê hương qua Vệ mười tháng. Bị con kì lân giam ở thành Khuông. Vệ loạn. Tử Lộ bất Qua Bồ một tháng rồi về Vệ. Vào yết kiến Nam 496 đắc kì tử ở Vệ tử. Lại bỏ Vệ qua Tào, Tống. 495 Chu Kính vương 41 Ở Tống, Hoàn Khôi muốn hại ông. Phiêu bạt sang Trịnh, qua Trần. Tần và Sở tranh 494 Lỗ Ai công 16 nhau ngôi bá, thường xâm lấn Trần, ông lại trở về Bồ. 493 Bị nạn ở Bồ 492 Về Vệ rồi lại rời Vệ. Bật Hật ở Tấn mời ông tới, ông định đi, rồi nghe lời Tử Lộ can lại thôi. Định qua Tấn để gặp đại 488 phu Tấn là Triệu Giản tử, tới sông Hoàng Hà lại quay về Vệ. Vệ Linh công hỏi về chiến trận có thể vào lúc này. Ông 60 tuổi, đương ở Trần, có tin Lỗ Định công |
chết rồi Quí hoàn tử chết. Con Hoàn tử là Khang 487 tử mời Nhiễm Cầu (lúc đó theo Khổng tử) về Lỗ giúp mình. 485? Qua Thái. Qua Diệp (Sở). Diệp công hỏi về chính sự. Trở về 484 Thái. Dọc đường gặp mấy ẩn sĩ. Trường Thư, Kiệt Nịch… Thầy trò Khổng bị vây và tuyệt lương ở Trần Thái. Sở Chiêu vương cho quân lại giải vây cho 483 ông. Ông qua Sở. Vua Sở tính dùng ông, bị quần thần cản, lại thôi. Sở cuồng Tiếp Dư khuyên ông đừng lo sửa đổi xã hội nữa. Ông chán nản, muốn đi Cửu Di có lẽ vào lúc này. Trở về Vệ. Bàn về thuyết chính danh. Ông không vị vua Vệ (tức Xuất công Triếp, cháu nội Vệ Linh công vì Triếp cự cha là Khoái Quí). 482? Vợ chết. Quí Khang tử mời về Lỗ. Ông về nhưng không tham chính. Lỗ Ai công và Quí Khang tử hỏi về chính sự. Năm này có lẽ Bá Ngư chết? Ông cử chính hành vi chính trị của Nhiễm Cầu trong việc thu thuế và đánh nước Chuyên Du. Nhan Hồi chết vào năm này? Từ khi về nước, ông lo sửa nhạc và viết bộ Xuân 481 Thu. Ông chấm dứt bộ Xuân Thu ở việc bắt được kì lân. 480 Ông buồn về việc đó. Môn sinh thân tín chỉ còn Tử Cống ở gần ông. 479 Ông mất ở Lỗ, thọ 73 tuổi ta. CHƯƠNG 3. CON NGƯỜI Chúng ta chỉ biết được ít điều chắc chắn về đời Khổng tử – tôi không tin chắc lắm những việc Tư Mã Thiên chép về thời ông tham chính ở Lỗ – chúng ta cũng không biết chân dung ông ra sao. Có nhiều sách bảo ông to lớn, lùn, có tướng ngũ lộ – một |
tướng quí hiển: mắt lồi, trán gồ, mũi sư tử, yếu hầu lồi, răng ho, bàn tay to, miệng rộng, râu rậm; người ta quen hình dung ông như vậy, trong một bộ triều phục đại phu; nhưng đúng hay không thì không ai biết. Hình ảnh đó cho tôi cảm tưởng một ông lão đạo mạo, nghiêm trang, chỉ hợp một phần nào với tính tình của ông tả trong Luận ngữ thôi. Những người chép Luận ngữ sao mà ghi tỉ mỉ thế, từ những lời nói đùa, tới những cử chỉ hàng ngày, những thói quen kì cục của ông, khiến cho người đời sau biết rõ tính tình, lối sống của ông còn hơn là tư tưởng của ông nữa. Phần tư tưởng này ngày nay đã có nhiều điểm lỗi thời, có triết gia chính trị nào dựng một học thuyết cho hai ngàn rưỡi năm sau bao giờ? – nhưng con người của ông thì tôi chắc đời nào cũng có người quí mến. Không một triết gia Trung Hoa nào gây cho ta được nhiều cảm tình như ông, và không một nhà giáo Trung Hoa nào được môn sinh ngưỡng mộ, thương tiếc như vậy, phần lớn là nhờ tư cách và tính tình của ông. Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng, chúng tôi đã phác qua tư cách của ông, ở đây xin bổ túc ít điều. Luận ngữ có một thiên đặc biệt là thiên Hương đảng gồm 18 bài mà trừ bài cuối, còn thì chuyên ghi chép thái độ, cử chỉ, nét mặt, dáng đi của ông, khi ở triều đình, ở làng xóm, ở nhà, ngồi xe… chép một cách rất trung thực. Phải là những người thán phục ông tới nỗi coi nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất tiếu của |
ông đều đáng là bài học cho đời sau; lại thương tiếc vô cùng, muốn khắc vào óc mình bất kì một nét nào của của ông, mới nảy ra ý làm công việc đó được. Và nhờ vậy mà thiên Hương đảng thành một thiên đặc biệt nhất, không tiền khoáng hậu trong văn học Trung Quốc. Nhiều người không thích thiên đó, vì thấy ông: Khó tính, chẳng hạn món ăn mà chín quá, không ăn; cắt không ngay ngắn (hoặc không đúng cách) không ăn; nước chấm không thích hợp, không ăn…; rượu bán ở cửa hàng không uống, thịt mua ở chợ không ăn… (bài 8); Kì cục, như cắt áo thì tay áo bên phải ngắn hơn bên trái để dễ làm việc; không bận áo màu hồng và màu tía, vì không phải là chính sắc (bài 6); khi lên xe thì đứng ngay ngắn rồi mới nắm lấy sợi dây để bước lên, ngồi xe thì không quay đầu lại, không nói nhanh, không chỉ trỏ (bài 17); ở triều đình, khi rảo bước tiến lên thì hai cánh tay đưa thẳng ra như cánh chim (bài 3, 4) theo Tư Mã Thiên thì ngay thời Khổng tử, các đại phu nước Tề cũng đã chê thói đưa cánh tay ra như chim đó rồi; Ở triều đình, cung kính thái quá, có vẻ như giả dối: “Khi vua lâm triều, thì ông cung kính, có vẻ không yên tâm” (bài 2). “đi ngang qua ngai vua (dù là ngai trống) ông biến sắc, chân bước run run, nói như chẳng ra lời” (bài 4); khi đi sứ nước ngoài, cầm thẻ ngọc khuê thì ông khom khom như bưng chẳng nổi (…) ông biến sắc như sợ sệt, chân ren rén từng bước như noi theo một |
vật gì” (bài 5). Những lời chê đó có lí một phần cả đấy; nhưng mặt khác, chúng ta cũng thấy ông cũng có những điểm đáng cho học: Cách ăn ở của ông hợp vệ sinh: thức ăn mà sắc đã biến, hư rồi, không ăn, mùi hôi cũng không ăn, không đúng bữa không ăn, ăn thịt ít hơn cơm, rượu không uống tới say… (bài 8). Cách mặc thì lựa màu thích hợp nhau: áo ngoài và áo trong cùng một màu, hoặc cùng đen, cùng trắng, cùng vàng cả, tùy màu; ông quả có óc thẩm mỹ; lại thực tế, có sáng kiến nữa: áo ngủ dài gấp rưỡi thân người, để phủ kín mình và chân. Như vậy, ta thấy ông làm việc gì cũng suy nghĩ chín chắn không theo thói đời, không sợ khác người. Còn thái độ của ông ở triều đình thì chúng ta sẽ xét trong chương V, tiết Đức trị. TƯ CÁCH, TÍNH TÌNH Thiên Hương đảng cho ta biết tỉ mỉ về lối sống của Khổng tử; về tính tình của ông thì ta phải lượm rải rác trong tất cả các thiên khác. Ở đây tôi chỉ ghi lại hai nét mà tôi cho là nổi bất nhất trong cá tính của ông: Ông có uy mà lại rất khả ái Ông rất “humain” – có tình người, mà cũng có một số nhược điểm của con người, tuy cao thượng hơn chúng ta những cũng rất gần chúng ta. Ông có uy. Bài VII.37 bảo “ Tử… uy nhi bất mãnh” (Khổng tử oai vệ mà không dữ dằn”; bài XIX.25, Tử Cống bảo ông “khi sống được mọi người tôn kính”. Cái uy đó do ông “ôn hòa mà nghiêm trang” (bài VII.37) ít nói |
nhưng hễ nói thì xác đáng, thâm thúy. Bài XVII.19 ông bảo ông không muốn nói…vì Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn qua lại, vạn vật vẫn sinh trưởng. Khác hẳn Mặc tử, Mạnh tử, dù dạy bảo môn sinh hay đáp lời các vua chúa, ông chỉ vắn tắt một câu, hai câu, chứ không thao thao bất tuyệt. Chẳng hạn Phàn Trì hỏi về nhân, ông đáp: “Ái nhân” (bài XX.22); lần khác ông khuyên Tử Cống: “Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” (bài XV.23); Quí Khang tử hỏi ông về chính trị, ông đáp: “Chính giả, chính dã. Tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính” (Chính trị là chính đính. Ông lãnh đạo dân một cách chính đính thì ai dám không chính đính?) – (bài XII.17); Tề Cảnh ông cũng hỏi ông về chính trị, ông chỉ đáp: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (bài XII.11). Toàn là những câu đáng làm châm ngôn cả. Chỉ có một lần ông giận quá mắng Nhiễm Hữu một hơi, giọng rất hùng hồn, nhưng cũng chỉ dài khoảng 120 chữ, mà lời cũng rất thâm thúy. Bài XVI.1 đó tôi đã giới thiệu trong một đoạn ở chương II. Ông thường khuyên môn sinh phải cẩn thận lời nói (I.14, IV.24). Ông rất ghét những kẻ xảo ngôn (bài I.3, V.24) Mặc dầu ông khuyên môn sinh học Kinh Thi để biết ăn nói, đối đáp, nhưng ông cũng bảo người quân tử không cần có tài ăn nói. Nhưng nguyên nhân chính cái oai của ông là ở chỗ đức ông cao và sở học ông rộng. Ông suốt đời dạy học, bất kì hạng người nào ông cũng nhận, không một chút vị lợi; rồi ông bôn ba mười ba năm để tìm cơ |
hội thi hành đạo cứu đời của ông, “biết rằng không thể làm được mà cũng làm” (XIV.39); khi thầy trò bị tuyệt lương ở khoảng Trần, Thái, môn sinh đói quá, đau, không ngồi dậy được có người phẫn uất, hỏi ông: “Người quân tử cũng có khi cùng khốn ư?”, ông bình thản đáp: “Người quân tử có khi khốn cùng là lẽ cố nhiên, kẻ tiểu nhân khốn cùng thì làm càn”. (XV.1); ông không cần ai biết mình (IV.14), không tranh với ai (III.7); ông “dục lập nhi lập nhân” (VI.28); việc gì cứ hợp nghĩa thì làm (IV.10)…, đức của ông ở đó. Còn sự hiếu học của ông thì không ai bằng: đi đâu cũng học, gặp điều gì cũng hỏi, không thẹn gì việc hỏi người dưới, mê học nhạc Thiều tới không biết mùi thịt trong mấy tháng, học tới quên già. Tôi thích bài VII.18 trong đó ông tự xét mình: Một đại phu nước Sở, làm quan lệnh ở huyện Diệp hỏi Tử Lộ về ông. Tử Lộ không biết đáp sao. Khổng tử bảo Tử Lộ: “Sao anh không đáp: ông ấy là người phát phẫn đọc sách (tìm hiểu đạo lý) đến quên ăn, khi tìm được rồi thì vui sướng đến quên mọi lo buồn, không biết rằng cái già nó tới nơi rồi, như vậy đó”. Trách chi ông chẳng nổi tiếng là nhà bác học nhất thời đó, và các vua chúa gặp điều gì không hiểu chẳng sai người lại hỏi ông. Suốt thời Tiên Tần, không có ai coi trọng sự học như ông, và trong số môn sinh xa của ông, có lẽ chỉ Tuân Tử là noi gương được ông. Cái uy của ông như vậy hoàn toàn do tư cách |
của ông, cho nên mọi người đều phục ông, kính ông. Đặt biệt nhất là ông vừa có uy vừa rất khả ái. Ông khả ái trước hết vì ông yêu đời yêu người. Thiên Hương đảng đã cho ta thấy ông biết hưởng những lạc thú nhỏ ở đời: ăn ngon, mặc ấm và có mỹ thuật; thịt cá phải tươi, phải cắt ra sao, có nước chấm thích hợp…, mặc thì mỗi mùa một khác, màu sắc phải hợp với nhau, nhưng cái gì cũng vừa phải thôi, trừ khi uống rượu thì gặp lúc vui, gặp bạn quý ông có thể uống nhiều, nhưng không để tới say. Ông vốn không ham phú quý, biết an bần lạc đạo. Bài VII.15, ông bảo: “Ăn gạo xấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui”. Nhưng làm điều bất nghĩa mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi”. Ông rất khen Nhan Hồi: “Hiền thay, anh Hồi. Một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẻm, người khác ưu sầu không chịu nổi cảnh khốn khổ đó, anh Hồi thì vẫn không đổi niềm vui. Hiền thay anh Hồi” (VI.9). Ông cũng khen Tử Lộ là không xấu hổ vì bận áo xấu mà đứng chung với người bận áo đẹp, quí (IX.26). Và ông khuyên môn sinh học đừng vì bổng lộc (VIII.12), chỉ nên cầu đạt đạo, chứ không cầu chuyện ăn (nghĩa là bổng lộc), chỉ nên lo không đạt đạo chứ không lo nghèo (ưu đạo bất ưu bần – XV.31). Nhưng ông không chê sự phú quí, nếu họ hợp nghĩa, hợp đạo. Cho nên ông bảo “phú quí mà có thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người ta cũng làm; phú quí mà không |
thể cầu được thì ta cứ theo sở thích của ta” (VII.11). Mà sở thích của ông là học suốt đời, dạy người không mỏi, sửa đổi xã hội, ngâm thơ (Kinh Thi), học nhạc (ba tháng học nhạc Thiều ở Vệ), ca hát (gặp người nào hát hay, ông bảo hát lại cho ông cùng hát), ông quả là một nghệ sĩ yêu đời, một triết gia có nhân sinh quan khoáng đạt. Ông biết hưởng lạc ở đời, mà cách sáng suốt nhất để hưởng lạc là gặp cảnh nào sống theo cảnh nấy: “Tố phú quí hành hồ phú quí, tố bần tiện hành hồ bần tiện, tố di địch hành hồ di địch” [236]. Một môn sinh là Nguyên Tư, làm gia thần cho ông khi ông làm Tư Khấu ở Lỗ. Cứ theo lệ của nhà nước, ông phát cho Nguyên Tư chín (hay năm) trăm học (hay đấu) lúa. Nguyên Tư vốn nghèo mà thanh liêm, thấy bổng lộc nhiều quá, từ chối, như vậy là biết ở trong cảnh nghèo hèn mà không biết ở trong cảnh giàu sang. Ông bảo: “Đừng từ chối. Nếu thấy dư thì đem chu cấp cho những người trong làng xóm”. (VI.3). Có hồi chán nản vì xã hội Trung quốc, ông muốn qua ở với các dân tộc thiểu số ở miền Đông (Cửu Di). Có người bảo: “Các nơi đó bỉ lậu, làm sao ở được?” Ông đáp “Người quân tử lại ở (giáo hóa họ) thì còn gì bỉ lậu nữa?” Ông chỉ nói vậy thôi chứ không đi, nhưng nếu đi thì chắc ông cũng tìm thấy cái vui ở các nước đó (như sau này Tô Đông Pha đời Tống tìm thấy cái vui ở đảo Hải Nam với dân tộc Lê), mà cải hóa phong tục của dân bản xứ được. |
Tôi thích nhất bài XI.25, nó cho thấy bản tính yêu đời, nhiều nét khả ái của ông, tinh thần lạc quan của ông, khác hẳn hình ảnh một ông lão nghiêm khắc, cố chấp, lúc nào cũng thủ lễ mà nhiều người không đọc kỹ Luận ngữ thường tưởng tượng lầm về ông. Nghệ thuật tự sự và tả người trong bài cũng cao. Tôi xin phép chép lại trọn bài dưới đây; độc giả có đọc đi đọc lại bốn năm lần cũng vẫn còn tìm thấy thêm được ý vị. “Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu và Công Tây Hoa ngồi hầu. Khổng tử bảo: “Các anh cho rằng ta có chỗ lớn hơn các anh một ngày mà ngại, nhưng đừng ngại gì cả (Lời ông thật nhũn). Ở nhà các anh thường nói: “Chẳng ai biết ta”. Nếu có người biết thì các anh đem tài năng gì ra dùng?” Tử Lộ vội vàng: Ví như một nước có một ngàn cỗ xe, bị ép giữa hai nước lớn, lại thêm có nạn chiến tranh, nhân đó dân chúng đói khổ; cho tôi mà cầm quyền nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà lại biết đạo lí nữa. Khổng tử mỉm cười rồi hỏi: “Còn anh Cầu thì thế nào?” (Nhiễm Hữu) đáp: Như có một nước vuông vức sau bảy chục dặm hoặc năm sáu chục dặm. Cầu tôi cầm quyền nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì đợi xin bậc quân tử. (Khổng tử lại hỏi) “Xích, còn anh thì thế nào?” (Công Tây Hoa) đáp: Về lễ nhạc tôi không phải là giỏi, nhưng xin được học. Trong việc tế tự ở ngôi miếu hoặc trong hội nghị các chư hầu, Xích tôi mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ |
chương phủ mà xin làm một tên tiểu tướng (vị quan nhỏ coi việc lễ). (Khổng tử lại hỏi) “Điểm, còn anh thì thế nào?” Lúc đó Tăng Tích gảy đàn sắt vừa ngớt, đặt đàn xuống “keng!”, mà đứng dậy đáp: Chí của tôi khác ba anh đó. Khổng tử bảo: Hại gì, cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi. Tăng Tích thưa: Như bây giờ là tháng cuối xuân, y phục mùa xuân đã may xong, năm sau người vừa tuổi đôi mươi, với sáu bảy đồng tử dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu, vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà. Khổng tử trầm ngâm một chút rồi than: Ta cũng muốn như Điểm vậy”. Khổng tử rất muốn hưởng thú nhà, có lẽ không kém Lão tử sau này, nhưng vì còn xã hội, nhân quần nên không thể ở ẩn được. Một hôm Tử Lộ hỏi đường một nông phu là Kiệt Nịch, Kiệt Nịch đã không chỉ đường mà còn khuyên thầy trò Tử Lộ nên tránh đời ô trọc, mà ở ẩn như mình. Tử Lộ về kể lại cho Khổng tử nghe, ông bùi ngùi nói: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa”. Lời đó phát từ tấm lòng yêu người thắm thiết của ông. Mặc dầu sống trong một thời loạn, (coi lại chương đầu) thấy bao nhiêu cảnh phản loạn, tàn bạo, dâm bôn; mặc dầu ông chê thời ông đạo đức đã suy, người ta phần nhiều giả dói, nói mà không làm (XVI.11), hiếu sắc hơn hiếu đức…: vua thì như Tề Cảnh công “có bốn ngàn con ngựa mà không có đức gì để người dân |
khen” (XVI.12), đại phu thì như Tử Tây, một đại phu nước Trịnh khiến ông chỉ bĩu môi, bảo: “Con người ấy! Con người ấy!” (XIV.9)…; mặc dầu vậy ông vẫn tin ở con người. Ông không như Mạnh tử, Tuân tử, bảo “ai ai cũng có thể thành Nghiêu, Thuấn được”, mà chỉ cho rằng “bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau” (XVII.2), nghĩa là đại đa số có thể cải hóa được, trừ một số ít là “bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi” (XVII.3): bậc thượng trí tức bậc thánh, “mới sinh ra đã biết rồi” (sinh nhi tri chi), không cần ai dạy nữa; còn kẻ hạ ngu thì dù gặp cảnh thất bại rồi, cũng không chịu học, chịu sửa tính để tránh thất bại về sau. (XVI.9) (Xin coi thêm Đại cương Triết học Trung quốc của chúng tôi – Quyển hạ tr.68 trở đi – Cảo thơm 1965 [237] – Ở đây tôi không muốn trở lại vấn đề đó, mà chỉ xét tính tình Khổng tử thôi). Vì tin ở bản tính con người nên ông mới “hối nhân bất quyện”, và bôn ba hết nước này tới nước khác tìm cơ hội cải tạo xã hội. Ông cho yêu người, giúp người là đức cao quí nhất, cho nên khi Phàn Trì hỏi về đức nhân, ông đáp: “Nhân là yêu người” (XII.22); và sau khi Tử Lộ tỏ chí hướng của mình là mong được giàu sang để bạn bè hưởng chung, hỏi lại ông về chí hướng của ông, ông đáp: “Ta muốn các người gia được an vui, các bạn bè tin lẫn nhau, các trẻ em được săn sóc vỗ về”. ( Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi – V.25). |
Đó là mục đích mà tới ngày nay loài người vẫn còn đương theo đuổi. Ông biết là trong xã hội có nhiều người xấu, nhưng cách xử sự của ông vừa nhân, vừa trí. Ông bảo: “Không tiên liệu rằng người ta gạt mình, đứng ức đoán rằng người ta không tin mình, nhưng gặp những người như vậy, mình biết được ngay, như vậy là hiền đấy!” (XIV.31). Ông ghét một số người như bọn “xảo ngôn lệnh sắc” (I.3) bọn bẻm mép lợi khẩu (XVII.18), bọn “hương nguyện” (giả đạo đức, làm bộ cao thượng XVII.13), “ghét người nói điều xấu của kẻ khác, ghét kẻ dưới mà hủy báng người trên, ghét kẻ dũng cảm mà vô lễ, ghét người quả cảm mà cố chấp” (XV.24); ghét kẻ bóc lột người khác để làm giàu, và một lần ông muốn đuổi Nhiễm Cầu đi, không nhận là học trò mình nữa, vì Nhiễm Cầu nghe lời chủ là Quí Thị, thu thuế nặng của dân. (XI.16)… Nhưng ông cũng khuyên không nên ghét bỏ ai thái quá, nhất là kẻ bất nhân, vì không cho họ cơ hội để ăn năn, gạt bỏ hẳn ra thì họ sẽ nổi loạn (VIII.10). Và ông khuyên người ta phải khoan hồng, nhất là những kẻ ở địa vị cao: “Bậc trên mà không khoan hồng, trong việc tế lễ mà không nghiêm túc, gặp việc tang mà không bi thương, hạng người như vậy còn có gì cho ta xét nữa?” (III.26). Nếu ai có lòng tu tỉnh, xin học ông thì dù dĩ vãng không tốt, ông cũng thâu nhận, tức như trường hợp một thanh niên làng Hổ (một làng dân có tiếng là ác nghịch) lại xin học, môn sinh có người không muốn ông nhận, ông bảo: |
“Người ta tiến bộ thì mình tán thành, thoái bộ thì không tán thành, hà tất phải (nghiêm khắc) thái quá. Người ta tự tinh khiết mà mong được tiến bộ thì ta tán thành lòng tinh khiết của họ (bây giờ), chứ không kể tới dĩ vãng của họ” (VII.28). Trong Luận ngữ có rất nhiều lời khuyên về cách xử thế, xét người, không thể nào kể ra hết được, tôi chỉ lựa ít bài tỏ lòng yêu người như trên, và ít bài dưới đây nữa để độc giả thấy tình cảm của ông đối với người thân và sơ ra sao. Bài VII.9 chép: “Khi ăn với người có tang thì (vì buồn mà) ông ăn không no. Ngày nào ông đi điếu mà khóc thì ngày đó không đàn ca”. Bài IX.9: “Thấy người bận đồ sô gai (đồ tang), người bận lễ phục với người mù, thì những người đó dù nhỏ tuổi, ông cũng đứng dậy; đi qua mặt những người ấy thì ông rảo bước”. Đối với một nhạc sư mù, ông thật có ý tứ: Khi người đó lại thăm ông, ông bước đến bực thềm, ông bảo: “Đây là thềm”. Bước tới chiếu, ông bảo: “Đây là chiếu”. Mọi người ngồi rồi, ông bảo nhạc sư: “Ông mỗ ngồi kia, ông mỗ ngồi kia”. (XV.41). Ở triều về, nghe nói chuồng ngựa cháy, ông hỏi ngay: “Có ai bị thương không?” Chứ không hỏi ngựa. (X.12). Không hỏi ngựa nghĩa là chưa vội hỏi ngựa. (X.12). Vì ông cũng thương cả loài vật: đi câu cá, ông chỉ dùng cần chứ không dùng lưới; bắn chim thì không bắn chim đương ngủ. (VII.26). Ông rất đa cảm, mau nước mắt. Tôi đã kể lần Nhan Hồi chết, ông khóc lóc, bi thảm quá tới nổi môn sinh phải can. |
Lại thăm Bá Ngưu bị một bệnh nan y, ông nắm tay, thay thở: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó! Con người như vậy mà bị bệnh đó!” (VI.8). Ông thương môn sinh như con, gả con gái cho Công Dã Tràng vì “tuy nó bị tù, nhưng không phải tội của nó”; gả con gái của anh cho Nam Dung (Nam Cung Quát) vì “nước có đạo thì trò ấy tất được dùng, nước vô đạo thì không bị hình phạt”. Như vậy thì môn sinh yêu lại ông như cha, có nhiều người tuy bốn năm chục tuổi và vẫn theo ông (như Tử Lộ, Tử Cống, Nhiễm Cầu…) và khi ông chết, để tang ông ba năm, không có gì là khó hiểu cả. Ông khả ái không phải chỉ vì ông yêu đời, yêu người mà còn vì ông tự nhiên, bình dân, thân mật, vui tính, thành thực, ôn hòa… Bài X.16 bảo ở nhà, Khổng tử không có dung nghi như ở triều (cư bất dung), mà rất tự nhiên. Bài VII.4 cũng bảo khi ông nhàn cư thì đoan trang, thần thái hòa vui. Chúng ta đã thấy nhiều lúc ông thân mật với môn sinh, hội họp họ lại, hỏi chí hướng của mỗi người, phê bình họ, rồi tỏ chí hướng của mình cho họ nghe. Ông không dấu giếm họ gì cả, bảo họ: “Các trò ngờ rằng ta có điều gì giấu các trò chăng? Ta chẳng có điều gì giấu cả. Ta không làm điều gì mà chẳng cho các trò hay, Khâu này như vậy đó (VII.23). “Khâu này như vậy đó”: lời tự nhiên mà thân mật làm sao. Trần Cang không hiểu tính ông, tưởng ông truyền riêng cho Bá Ngư (con ông) một phần thâm thúy nào của đạo, hỏi Bá Ngư, Ngư thành thực đáp “không”, bấy giờ Trần Cang mới biết |
mình nghi lầm thầy (XVI.13). Một hành động rất tự nhiên, làm cho ta mỉm cười, là khi ông cầm gậy gõ vào ống chân của Nguyên Nhưỡng (một người quen biết đã lâu rất phóng túng, bỏ cả lễ phép) sau khi mắng Nhưỡng: “Hồi nhỏ không biết kính thuận người lớn, lớn lên không làm được gì đáng khen, già rồi mà không chết. Như vậy chỉ báo hại người ta thôi” (XIV.44). Ông thực khác xa Đổng Trọng Thư đời Tây Hán, “buông màn ngồi đọc sách và giảng sách, học trò ở ngoài màn cứ thứ đệ đến thụ nghiệp, có kẻ không bao giờ trông thấy mặt, (…) có khi ba năm không ngó ra ngoài vườn” (Trần Trọng Kim – Nho giáo. Quyển II, tr.27, Tân Việt in lần thứ 4); mà một số nhà Nho của ta nghiêm khắc tới nỗi con cháu nen nét không dám lại gần; họ có thể ở “sân Trình” chứ nhất định không phải là ở “cửa Khổng”, đã quá nhiễm Tống Nho mà quên lời dạy “ thiếu giả hoài chi” của Khổng tử. Trong Nhà giáo họ Khổng tôi đã kể vài lúc vui tính của ông, như khi Tử Cống hỏi ông có viên ngọc đẹp thì nên cất vào hộp nay nên cầu có thương nhân tốt mà bán đi, ông đáp: “Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi có thương nhân đây”. (IX.12). Bài đó lí thú ở chỗ Tử Cống là một người giỏi buôn bán, dùng lời lẽ một thương nhân, và ông cũng đáp lại như đáp một thương nhân. Lúc khác ông tự ví ông với một trái bầu khô, chỉ để treo mà không ăn được (XVII.7); và theo Tư Mã Thiên, có lần ông tự |
nhận ông như một con chó nhà có tang. Ông nói đùa với Nhan Hồi, bảo: “Thầy tưởng anh (đánh nhau với họ mà) chết rồi chứ”, khi gặp lại Nhan Hồi sau mấy ngày thầy trò lạc nhau ở đất Khuông (XI.22). Ông mỉa Tử Du cai trị một thành nhỏ mà dùng lễ nhạc cũng như cai trị một nước, bảo: “Mổ gà cần chi tới dao mổ bò”. Tử Du đáp: “Ngày trước Yển con nghe thầy dạy: “Người quân tử học đạo (lễ, nhạc) thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến”. Biết rằng mình quá vui tính mà lỡ lời, nên ông vội quay lại bảo các môn sinh theo ông: Này, các trò, lời anh Yển đúng, lời ta nói chỉ là đùa thôi”. Một điểm khả ái nữa của Khổng tử là ông có tinh thần bình dân, không phân biệt giai cấp, ai cũng dạy (hữu giáo vô loại XV.38), dù là người thấp mà có điều gì đáng cho mình học thì cũng học (bất sỉ hạ vấn), không chê những nghề hèn, tự nhận rằng hồi nhỏ nghèo hèn, nên học được nghề bỉ lậu (IX.6); bảo nếu phú quí mà có thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người, ông cũng làm được (VII.11). Trong bài XIII.4, ông chê Phàn Trí nhỏ nhen khi xin ông dạy cho nghề nông; không phải là ông coi nghề nông là thấp hèn, mà chỉ trách Phàn Trí không biết rằng trau dồi tư cách, học đạo trị dân thì giúp được đời nhiều hơn là cày ruộng. Ông khen Án Bình Trọng (Án Anh), tể tướng nước Tề, là khéo cư xử với bạn, lâu ngày mà vẫn tôn kính bạn (hoặc lâu ngày mà vẫn được bạn |
kính nể: “thận dữ nhân giao, cửu nhi kính chi”) (V.16). Tôi chắc chính ông cũng vậy. Tình bạn của ông với Cừ Bá Ngọc, một đại phu nước Vệ, cũng bền lắm. Khi tới Vệ, Bá Ngọc sai người lại thăm. (XIV.25). Ông lựa bạn mới giao du. Ba hạng bạn tốt là bạn chính trực, bạn thành tín, bạn biết nhiều (XVI.4). Đối với bạn thì chắc ông cũng như Tử Du: can gián một vài lần thôi, nếu nhiều lần quá thì bạn sẽ mất lòng mà xa mình (IV.26). Riêng ông thì ông chấp nhận được lời nói thẳng, dù là của người dưới. Hai lần Tử Lộ nóng nảy tới thô lỗ, xẵng giọng bảo ông: “Không có nơi nào để hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với Công sơn Phất Nhiễu” (XVII.5); “Bật Hật làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ” (XVII.7); tuy ông cũng có đáp, đưa lí do của ông, nhưng rồi ông cũng nghe lời Tử Lộ mà không đi. Đức ông cao như vậy, nên không môn sinh nào không vừa trọng vừa mến. Một lí do nữa khiến ông khả ái là ông rất gần chúng ta, phức tạp như chúng ta, cũng có một số nhược điểm như chúng ta. Trong thiên X chúng ta đã thấy ông khó tính trong việc ăn mặc, và có vài thói quen kì cục. Ông có nghệ sĩ tính mà lại rất có qui củ, rất thực tế trong hành động, chẳng hạn khi ông bảo nghe lời nói của một người rồi còn phải xem việc làm của người đó nữa (V.9), cho nên ông không chỉ vì lời nói mà đề cử một người nào, nhưng cũng không vì phẩm hạnh xấu của một người mà không nghe lời nói phải của người đó. Thái độ đó sáng suốt, có suy tính, không nông nổi. |
Bình thường ông rất nhũn, như trong bài VII.18 tôi đã dẫn ở trên, hoặc khi ông bảo ông biết được nhiều nghề vì hồi nhỏ nghèo hèn (IX.6), và khi ông bảo Tử Cống rằng ông chưa đạt được đạo người quân tử là không lo buồn, không nghi hoặc, không sợ hãi (XIV.28). Nhưng nhiều lúc ông lại tin rằng ông có sứ mạng lập lại sự nghiệp của Chu công, rằng trời cho ông có đức, Hoàn Khôi không làm gì được ông, (VII.22) rằng chỉ có trời biết ông thôi (XIV.35)… Ông rất tế nhị ngay cả với học trò, như khi ông cho Tử Cống chỉ như một món đồ dùng (chỉ dùng vào được một việc, không phải hạng đa tài), rồi thấy Tử Cống không vui, ông nói thêm: “Anh như cái hồ liễn”, nghĩa là một thứ liễn đẹp, quí đựng xôi để cúng (V.3). Nhưng cũng có khi ông tỏ ra rất khó chịu, như khi Dương Hóa sai tặng ông một con heo sữa luộc chín, ông không muốn gặp y nên rình khi y đi vắng mà lại nhà y tạ ơn; rồi ở giữa đường, bất ngờ gặp y, y hỏi ông mấy câu đại ý muốn thuyết phục ông ra làm quan với y, ông làm thinh hai lần và cuối cùng chỉ đáp gọn lỏn: “Tôi sẽ ra làm quan” (XVII.1). Cố ý bất nhã nhất là lần ông không muốn tiếp Nhụ Bi, sai người ra bảo rằng ông đau; người này vừa mới ra tới cửa, ông cầm ngay cây đàn sắt lên gảy và hát, cố y cho Nhụ Bi nghe thấy. Ông rất tin ở sứ mạng cứu đời, nhưng sau mười mấy năm bôn ba mà không được ai dùng, mấy lần ông tỏ ra chán nản, than thở muốn đi “cửu di” muốn về Lỗ…, điều đó ta hiểu được: |
ai cũng có những lúc yếu đuối như vậy. Nhưng ông nôn nóng giúp đời tới cái mức hai lần, hai kẻ phản loạn là Công sơn Phất Nhiễu và Bật Hật, mới mời ông, ông muốn đi liền thì ông quả đã vụng tính, không xét hai kẻ đó có chính nghĩa hay không, có thể làm nên sự nghiệp hay không. Cũng may mà cả hai lần Tử Lộ đều can ông và ông đổi ý, nếu không thì tất ông cũng sẽ phải bỏ họ sau một thời gian ngắn, để giữ được cái “kiên” cái “bạch” của ông, mà vừa ôm hận, vừa mang tiếng. Về điểm đó ông không bằng Mạnh Tử sau này: Mạnh Tử giữ đúng qui tắc hơn, không chịu “uổng xích nhi trực tầm”. Câu ông trả lời Tử Lộ: “Ta đâu phải trái bần khô người ta treo mà không ăn được” (XVII.7) mâu thuẫn với thái độ của ông khi ông khen Nhan Hồi (trong vụ tuyệt lương ở Trần Thái) vì Nhan Hồi đã thưa với ông: “Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ theo đó mà làm. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy mà thầy mới là bậc quân tử”. Chính vì Khổng tử có những lúc yếu ớt, mâu thuẫn nên ông mới gần chúng ta. Người đương thời (một viên thái tể) coi ông là một ông thánh vì ông đa tài (IX.6), người Trung Hoa đời sau tôn ông là một ông thánh, vì ông đã tặng cho họ một triết lý rất nhân bản, đào tạo cho họ biết bao thế hệ kẻ sĩ quân tử. Danh hiệu đó rất xứng. Và trong số bốn năm ông thánh mà tôi được |
đọc tiểu sử cùng sự nghiệp, tôi thấy Khổng thánh khả ái nhất. CHƯƠNG 4. MÔN SINH HAI LỚP MÔN SINH Môn sinh của Khổng tử tương truyền tới ba ngàn. Trong Luận ngữ chúng ta chỉ thấy ghi tên độ ba chục người (coi Bảng môn sinh ở cuối Luận ngữ – bản này thiếu vài tên không quan trọng), chỉ trừ hai người là ở trong giới quí tộc: Nam Dung (Nam Cung Quát) và Tư Mã Canh; còn thì đều ở trong giới bình dân. Có gia đình đời cha học ông, đời con cũng học, như Nhan Lộ và con là Nhan Hồi, Tăng Tích và con là Tăng Sâm. Cha chỉ kém ông 5 10 tuổi, con thì kém ông trên dưới 40 tuổi, như Nhan Hồi kém ông 39 tuổi, (có sách bảo kém 30 tuổi, có lẽ sai), Tăng Sâm kém ông 46 tuổi. Chỉ có khoảng mươi, mười hai môn sinh được ông mến, thường nhắc tới, vì có đức hoặc có tài, trong bài XI.2, ông đã kể tên mười người: Đức hạnh: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; Tài ăn nói: Tể Ngã, Tử Cống; Giỏi về chính trị: Nhiễm Hữu, Tử Lộ; Giỏi về văn học: Tử Du, Tử Hạ. Một số ra làm quan ngay khi ông còn sống, có người phục vụ với ông nữa. Tôi nhận thấy những người đó đa số thuộc về lớp hơi lớn tuổi (lớp thực lớn tuổi chỉ có hai người Nhan Lộ và Tăng Tích: Nhan thì tư cách kém, Tăng thì ưa nhàn), kém ông độ hai ba chục tuổi như Nhiễm Ung làm quan với Quí Thị ở Lỗ, sanh năm 523; Nhiễm Cầu cũng làm quan với Quí Thị ở Lỗ, cũng sanh năm 523; Tử Cống có tài biện bác, có khiếu chính trị và buôn bán, tham chính ở Lỗ, sanh năm 521; Tử Lộ làm quan ở |
Lỗ, Vệ, chỉ kém ông 9 10 tuổi. Một số khác không thích làm quan, sau dạy học. Những người này đều thuộc lớp trẻ, như Tử Hạ sanh năm 508, Tăng Sâm sanh năm 506, Tử Trương sanh năm 504[238], (Hữu Nhược sanh năm nào, chưa rõ) đều kém ông trên 40 tuổi và kém lớp làm quan từ 15 đến 20 tuổi. Nhận xét đó có thể cho tôi đoán rằng lớp người đầu tiên xin học ông có ý học để làm quan, cho nên họ theo Khổng tử tới già, cả trong những năm Khổng tử bôn ba ở các nước. Họ cần được thầy giới thiệu với các vua chư hầu và cần hỏi ý kiến thầy trong khi họ tham chính. Và các nhà cầm quyền thỉnh thoảng cũng hỏi ông về tài năng của các môn sinh ông, như Mạnh Võ Bá hỏi về Tử Lộ, Nhiễm Cầu, Công Tôn Hoa (V.7); Quí Tử Nhiên hỏi về Trọng Do, Nhiễm Cầu (XI.23), Quí Khang tử hỏi về Trọng Do, Nhiễm Cầu (VI.6), ông đáp họ đều có thể tòng chính được cả. Trái lại lớp sau cũng gồm nhiều người thông minh nhưng theo học ông để hiểu đạo, sửa mình, không thích làm chính trị mà về dạy học. Có thể do họ thấy tài giỏi như thầy mình mà còn không làm được gì nên họ chán; cũng có thể họ sống sau Khổng tử ba, bốn năm mươi năm, càng thấy xã hội loạn hơn nên càng chán nữa. NHAN HỒI, TỬ LỘ, TỬ CỐNG Theo tôi, trong số môn sinh, có 3 người yêu quí ông nhất, mỗi người theo một cách. Nhan Hồi nhỏ tuổi hơn nhất, hiền nhất, quí ông như cha, và tình giữa Khổng và Nhan đúng là tình cha con, đậm đà mà thân |
mật. Tử Lộ lớn tuổi nhất, chỉ kém Khổng 9 10 tuổi, coi Khổng nửa như thầy, nửa như anh cả, tính lại quá cương trực, nóng nảy tới thô lỗ; nhưng chính là vì yêu quí thầy, không muốn thầy mang tiếng, hoàn toàn trong trắng, nên mấy lần xẵng giọng với thầy. Tử Lộ không khi nào xa thầy, dù nguy hiểm cũng không ngại, Khổng tử biết vậy nên bảo nếu ông chán nản, bỏ Trung quốc và cưỡi bè ra biển đông thì sẽ chỉ có Tử Lộ theo mình thôi. Tử Lộ mừng (V.6). Cũng vì quí thầy, nên một lần Khổng tử đau nặng, Tử Lộ xin cầu đảo cho thầy; lần khác tưởng thầy không qua khỏi, Tử Lộ bàn với các bạn học nên táng thầy như một đại phu (các môn sinh sẽ làm gia thần). Khi qua cơn, tỉnh rồi, hay việc đó, Khổng tử mắng “Như vậy là dối ai, dối Trời chăng?” rồi nói thêm một câu rất cảm động: “Vả lại, ta chết trong tay gia thần, đâu bằng chết trong tay các trò?” Có sách bảo khi hay tin Tử Lộ bất đắc kì tử ở Vệ, dù biết trước rằng số mạng Tử Lộ như vậy, ông cũng rất đau xót. Lời đó tin được. Có thể nói ông yêu Tử Lộ chỉ kém Nhan Uyên thôi. Còn Tử Cống thì quí ông tới nỗi, hễ nghe thấy ai chê ông thì hăng hái bênh vực liền, như trường hợp Thúc Tôn Võ Thúc trong hai bài XIX.23, 24 nhất là trường hợp Tử Cẩm trong bài XIX.25: Tử Cẩm bị Tử Cống mắng là “bất trí” tức ngu, nên nói bậy. Khi Khổng tử mất, Tử Cống đã để tang ba năm như mọi môn sinh khác, rồi lại còn làm nhà ở bên mộ, coi việc khói hương cho thầy ba năm nữa. |
Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng tôi đã giới thiệu một số môn sinh xuất sắc được ông khen: Nhan Hồi, Tử Lộ, Tử Cống, Mẫn Tử Khiên, Trọng Cung…, và một số bị ông mắng, như Nhiễm Cầu, nhất là Tể Du (Tể Ngã) biếng học, có thật ngủ ngày, nhất là dám chê tục để tang ba năm là hại cho lễ, nhạc, kinh tế (XVII.21) (Lần đó ông giận lắm bảo Tể Du là hạng bất nhân, quên công cha mẹ bồng bế ba năm, nên nhẫn tâm ăn đồ ngon, mặc áo đẹp, nghe nhạc một năm sau khi cha mẹ chết). Dưới đây tôi chỉ giới thiệu thêm 6 môn sinh đã phát biểu những tư tưởng được ghi lại trong Luận ngữ. Chỉ trừ mỗi một người là Tử Cống ra làm quan còn năm người kia đều dạy học cả, và những ngôn hành của họ chắc là do môn sinh của họ ghi lại. Tử Cống chỉ lưu lại hai bài tầm thường: Bài XIX.20, Tử Cống khuyên người quân tử không nên ở chung với đám hạ lưu (mà mang tiếng) vì bao nhiêu tội ác trong thiên hạ đều dồn cả về đó. Bài sau 21, ông bảo người quân tử có lỗi thì không giấu giếm nên ai cũng thấy mà khi sửa lỗi thì ai cũng ngưỡng mộ. Tử Trương (Chuyên Tôn Sư) vào hạng môn sinh lớp sau, kém Khổng tử gần 50 tuổi, học rộng, hay hỏi, tính phóng khoáng, không câu nệ, thích làm việc khó, nhưng cẩu thả. Khổng tử chê là không giữ được đạo trung, thiên lệch, thái quá (trái với Bốc Thương (Tử Hạ) bất cập) (Bài XI.15, 17). Mới đầu có ý học để làm quan, cho nên Khổng tử khuyên: cứ |
nghe nhiều, thấy nhiều rồi thận trọng trong lời nói, việc làm thì bổng lộc tự nhiên ở trong đó (II.18). Có lẽ cũng vì muốn làm quan, nên Tử Trương trong thiên XX hai lần hỏi thầy “thế nào thì có thể tòng chính” (bài 2, 3). Sau Tử Trương đổi ý, không ra làm quan mà dạy học. Tính tò mò thắc mắc, hỏi Khổng tử về nhiều vấn đề: về hành vi của một số đại phu được thờ (Tử Văn, Trần Văn tử – bài V.18). Về sự sùng đức, biện hoặc (XII.10), cả về những đời sau này nữa, như trong bài II.23… Luận ngữ còn chép lại hai lời của ông về tư cách của kẻ sĩ: phải không tiếc tính mạng, trọng nghĩa lí, thành kính trong việc tế lễ (XIX.1); và về việc tu thân, giữ đức phải kiên cường, dốc lòng tin đạo (XIX.2). Ông rất khoáng đạt trong việc giao du. Tử Hạ (coi ở dưới) cho rằng chỉ nên kết bạn với người khá, còn người xấu thì nên cự tuyệt. Môn sinh Tử Hạ đem lời đó hỏi Tử Trương, Tử Trương bảo: “Tôi được nghe khác vậy: người quân tử tôn trọng người hiền mà dung nạp mọi người, khen kẻ lương thiện mà thương kẻ bất tài. Ta là bậc đại hiền ư thì ai mà ta không dung nạp được? Còn như ta mà bất hiền thì người ta sẽ cự tuyệt ta, chứ đâu cự tuyệt được người?” (XIX.3). Như vậy ta thấy ông mong được làm bậc đại hiền, chứ không nhũn như Tử Hạ. Khổng tử thực đã hiểu rõ môn sinh khi bảo Tử Hạ bất cập mà Tử Trương thái quá, và khuyên Tử Trương phải thận trọng trong lời nói. |
Tử Du (Ngôn Yển) cũng trạc tuổi Tử Trương, tuy có hồi làm một chức quan cai trị một ấp nhỏ (Võ Thành) – Nhưng được Khổng tử khen là giỏi văn học (XI.2), chuyên lễ nhạc và đem lễ nhạc ra dạy dân, nên Khổng tử nói đùa là dùng dao mổ bò để Về sau, chắc ông cũng thôi làm quan mà dạy học, nếu không thì cũng rất quan tâm tới việc dạy học. Trong bài XIX.12, ông chê Tử Hạ chỉ dạy học trò những “việc vẩy nước, quét tước ứng đối, tới lui”, đó chỉ là lần ngọn, còn phần gốc là đạo lí thì không dạy. Tử Hạ nghe vậy, bác ý kiến của Tử Du, bảo dạy hoc “phải theo thứ tự, điều này dạy trước, điều nào dạy sau, chứ nếu dạy cùng một lúc cả ngọn lẫn gốc thì chỉ thánh nhân mới theo được”. Chủ trương của Tử Hạ đúng. Hình như Tử Du cũng hay phê bình người khác, khen Tử Trương đức tuy cao nhưng chưa phải là bậc nhân (XIX.15). Bài XIX.14, ông theo đúng chủ trương của Khổng tử, không trọng hình thức, bảo việc “tang lễ mà biểu lộ hết lòng thương xót thì đủ rồi”. Và lời này nữa của ông, chắc cũng hợp ý Khổng tử: “Thờ vua mà can gián nhiều lần quá thì sẽ bị nhục; chơi với bạn mà can gián nhiều lần quá thì bạn sẽ xa mình” (IV.26). Hữu Nhược (Hữu tử) không rõ kém Khổng tử bao nhiêu tuổi, theo Mạnh tử thì dung nghi giống Khổng tử, nên có lần Tử Hạ, Tử Trương, Tử Du bàn với nhau nên phụng sự Hữu Nhược như phụng sự Khổng tử, Tăng tử can, họ mới thôi. (Đằng văn công – thượng – bài 4). Dù sao, ông cũng được bạn đồng môn |
trọng lắm, và trong Luận ngữ, chỉ có ông với Tăng Sâm được xưng là Hữu tử, Tăng tử; nhưng Khổng tử không nhận xét gì về ông cả. Ông nhớ nhiều, thích đạo cổ như Khổng tử và có đức cao. Ông vụ bản, cho hiếu đễ là gốc của đức nhân (I.2); của việc trị nước: người nào hiếu đễ thì không muốn xúc phạm bề trên, không muốn xúc phạm bề trên thì không làm loạn. Hai bài I.12, 13 cũng có giá trị về tư tưởng. Bài 12, ông hiểu rõ công dụng của lễ: tuy để tiết chế, cho dân khỏi phóng đãng, nhưng nhất là để điều hòa cho dân được vui vẻ, hòa hợp. Bài 13, ông khuyên ta muốn ước hẹn điều gì thì điều đó phải hợp nghĩa mới giữ được; cung kính mà hợp lễ thì mới khỏi nhục. Ông thật là người thận trọng trong hành động. Tư tưởng về chính trị của ông rất hợp với Khổng tử. Khi Lỗ Ai công phàn nàn rằng vì mất mùa, thuế thu không đủ tiêu, phải làm sao? Hữu Nhược đã không khuyên Ai công tăng thuế mà còn bảo nên giảm đi, để cho dân no đủ, mà “dân no đủ thì vua sẽ không thiếu; dân thiếu thốn thì vua không làm sao đủ được” (XII.9). Dân là gốc của nước, chủ trương của ông như vậy cũng là “vụ bản” nữa. Tử Hạ (Bốc Thương) kém Khổng tử 44 tuổi là thầy học của Ngụy Văn Hầu, Khổng tử khen là giỏi về văn học, nhưng chê là “bất cập” (XI.15) chưa đạt được đạo trung, phải cố sống sao cho ra nhà nho quân tử, có đạo đức cao, chứ đừng chỉ chú trọng tới văn học, tài nghệ (VI.11). |
Tính ông đốc tín cẩn thận, như trong cách dạy học tuần tự tiến từng bước của ông mà Tử Du đã chê ở trên; ông vì thận trọng quá mà hóa hẹp hòi như cách kết bạn của ông mà Tử Trương đã bác. Lâm Ngữ Đường trong La sagesse de Confucius (Victor Attinger – 1949) cho ông hoàn toàn là một học giả. Lời đó đúng. Trong số trên mười bài chép ngôn hành của ông, già nửa là lời bàn của ông về việc học. Theo ông, lúc nào cũng phải học. Học mà thừa thì giờ và sức khỏe thì nên làm quan, mà làm quan mà thừa thì giờ sức khỏe thì nên học (XIX.13). Người quân tử phải học rồi mới thấu đạo (XIX.7). Cách học là “mỗi người biết thêm được điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết” (XIX.5). Cái gì cũng nên học. Cả những nghề nhỏ cũng đáng xem xét, nhưng đừng nên đi sâu vào. (XIX.4). Hễ học rộng mà vững chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc gần (việc thực hành những điều đó thì là có đức nhân (XIX.6). Bài I.7 ông cũng khuyên phải coi trọng sự thực hành, đạo làm người trước hết: “Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp, hết lòng thờ cha mẹ, liều thân thờ vua, giao thiệp với bạn bè thì ăn nói phải thật tình, (người như vậy) tuy chưa hề học gì tôi cũng cho là đã học rồi”. Có lẽ chính vì ông trọng sự “hành” như vậy cho nên bị Tử Du chê là chỉ dạy học trò những việc vẩy nước, quét tước, ứng đối, tới lui. Ba bài XIX.8, 9, 10 nói về quân tử và tiểu nhân, không có gì |
đặc biệt. Tôi để ý đến bài XIX.11; trong đó ông khuyên: “không được vượt qua đại tiết, còn tiểu tiết thì tùy tiện, ở trong phạm vi hay ra ngoài cũng được”. Như vậy là ông có lúc cũng biết quyền biến, không quá cẩn thận, tới cố chấp đâu. Sau cùng là Tăng Sâm (Tử Du) có lẽ là người nhỏ tuổi nhất và chắc chắn là triết gia nổi tiếng nhất trong bọn. Ông kém Khổng tử 46 tuổi, sau truyền được đạo của thầy, viết cuốn Đại học, cuốn Hiếu kinh (?) dạy Tử Tư (cháu nội Khổng tử) rồi Tử Tư lại truyền cho Mạnh tử. Trong Nhà giáo họ Khổng tôi đã viết rằng Tăng Sâm rất có hiếu, khiêm tốn, đôn hậu, ít nói, Khổng tử chê là “lỗ” (XI.17) tức chậm chạp, gần như ngu đần. Tôi cho rằng Khổng tử chỉ nói “Ngô đạo nhất dĩ quán chi” (Đạo ta chỉ có một lẽ mà quán thông tất cả IV.15) mà Tăng Sâm (lúc đó mới khoảng 25 26 tuổi là cùng) hiểu được lẽ đó là lẽ trung thứ (Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hỉ) thì quả là một đệ tử xuất sắc, hiểu thấu được tư tưởng của thầy, vượt cả Tử Lộ, Tử Cống, chưa chắc Nhan Hồi đã hơn không”. Tăng Sâm được sinh trong một gia đình mà cha mẹ đều hiền cả. Cha là Tăng Tích (Điểm), thanh cao, bình dị, thích an nhàn, mà chúng ta còn nhớ có lần được Khổng tử khen là chí hướng giống mình vì chỉ muốn ngày xuân cùng với năm sáu thanh niên, sáu bảy đồng tử “dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu, vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà” |
(XI.25). Về mẹ ông, chúng ta được biết truyền thuyết này: cụ đương dệt vải, có người chạy vô cho hay con cụ là Tăng Sâm giết người ở chợ, cụ không tin, thản nhiên ngồi dệt; một lát sau người thứ hai cũng chạy vô báo tin đó, cụ vẫn không tin; tới lần thứ ba cụ mới hoảng hốt. Tăng Sâm nổi tiếng là có hiếu, nghiêm trang, đôn hậu, thật thà, nhất là sửa mình rất siêng. Mỗi ngày ông tự xét ba việc: làm việc gì cho ai có hết lòng không, giao thiệp với bạn bè có thành tín không, thầy dạy cho điều gì có học tập cho nhuần không? (I.4). Ông có một câu đáng làm châm ngôn: “Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân” (người quân tử dùng văn chương để họp bạn, dùng bạn để giúp nhau tiến lên đức nhân – XII.24). Ông thường nói đến đạo hiếu, cho rằng người trên mà “thận trọng trong tang lễ cha mẹ, truy niệm và tế tự tổ tiên xa thì đức của dân sẽ thuần hậu” (I.9), như vậy là người trên phải làm gương cho người dưới, mà đức hiếu là đức căn bản. Trong hai bài XIX.17, 18 ông nhắc lại lời của Khổng tử về hiếu. Ông không làm quan, nhưng cũng như Khổng tử thường được các nhà cầm quyền hỏi ý kiến như khi ông đau nặng, tự biết mình sắp chết, khuyên một đại phu nước Lỗ là Mạnh Kính Tử ba điều: cử chỉ dong mạo nên nhã, nét mặt nên nghiệm túc, thành tín, lời nói nên hợp lẽ, (VIII.4); và khi một môn sinh của ông được làm pháp quan, thỉnh ý ông, ông bảo: Người trên bỏ chính đạo, dân chúng phóng túng không giữ phép từ lâu rồi, nếu xét được thực tình của người phạm tội thì nên thương xót |
họ chứ đừng nên mừng (về tài minh quyết của mình) (XIX.19). Lần khác ông bảo kẻ sĩ tức kẻ học và tu thân để sau ra giúp nước, phải cương cường, quyết tâm vì nhiệm vụ nặng mà đường xa. Nhiệm vụ là làm điều nhân, cho nên gọi là nặng; phải làm cho tới khi chết, cho nên bảo là đường xa (VIII.7). Trong Luận ngữ có trên 10 bài ghi ngôn hành của ông. Tôi xin giới thiệu một bài nữa, bài VIII.3, vì nhiều người không hiểu hoặc hiểu lầm ông. Bài đó chép: Tăng tử bị bệnh nặng (khó qua), cho gọi các đệ tử tới, bảo: “Giở chân ta ra xem, giở tay ta ra xem. Kinh Thi có câu: “Phải nơm nớp chăm chăm như đi xuống vực sâu, như đi trên lớp băng mỏng”. Từ nay về sau ta mới biết chắc thoát khỏi hình lục đó các trò”. Thời xưa mà thời nay nhiều người cũng còn vậy, nghĩ rằng con mà làm điều gì trái phép nước tới bị tội nặng, bị hình lục (thời Khổng tử là bị chặt đầu, chặt chân, chặt tay, cắt mũi, xẻo tai, bị thiến) thì là làm nhục lớn cho cha mẹ, tổ tiên, là mang tội đại bất hiếu. Chúng ta còn nhới Tư Mã Thiên, chẳng có tội gì cả, chỉ vì bênh vực một tướng tài, ông biết chắc là không phản quốc, tức Li Lăng mà bị Hán Vũ Đế nghe lời sàm tấu, bắt ông phải chịu tội thiến, ông nhục quá chỉ muốn tự tử, phải rán nuốt nhục mà sống để soạn cho xong bộ Sử kí, mà trước khi mất, thân phụ ông giao cho ông tiếp tục. Nhưng mỗi khi nhớ đến tội đại bất hiếu đó của mình, ông lại toát mồ hôi. |
Tăng Sâm rất có hiếu nên rất sợ làm cái gì phạm tội để bị hình lục, phải “nơm nớp” giữ mình suốt đời như đi xuống vực sâu, đi trên lớp băng mỏng; và khi sắp chết mới chắc rằng mình giữ trọn được đạo hiếu. Ông bảo môn sinh giở chân, giở tay ông ra xem còn nguyên vẹn, không bị chặt vì phạm tội không, chỉ để khuyên môn sinh cũng phải giữ mình như ông, chứ không có ý khác. Đời sau có những hủ nhỏ, không hiểu đạo hiếu của cổ nhân như vậy, căn cứ vào câu “ Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương” trong Hiếu Kinh (không chắc là của Tăng Tử), mà cho rằng thân thể mình do cha mẹ sinh ra thì phải giữ trọn, không được tự hủy nó dù là tóc, da, móng tay, móng chân, cho nên ở nước ta, hồi đầu thế kỉ này, khi có phong trào Đông Kinh nghĩa thục, bọn hủ nhỏ đó không chịu cắt tóc, chê các nhà cách mang duy tân là lăng nhăng, theo Tây, bỏ đạo Khổng. Đạo Khổng có bao giờ chủ trương như vậy đâu. Mà Khổng tử còn rất khoáng đạt, đem con gái gả cho một môn sinh bị tù tội, tức Công Dã Tràng, vì ông biết rằng Công Dã Tràng bị oan. Ông không tin ở sự công bằng của luật pháp thời ông. Hành động đó của ông thật đáng phục. Tăng Sâm sau được sắp vào hàng tử phối, bốn người được thờ chung phối hướng với Khổng tử trong Khổng miếu: Nhan Uyên, Tăng Sâm, Khổng Cấp (Tử Tư), Mạnh Kha. Chúng ta thấy các môn sinh của Khổng tử đều kém xa Khổng |
và lời Tử Cống nhắc với Thúc Tôn Võ Thúc (một đại phu nước Lỗ) rất đúng: “Lấy bức tường cung thất làm thí dụ. Bức tường của Tứ tôi (mà của tất cả các môn sinh khác cũng vậy) cao tới vai, nên người đứng ngoài thấy được những cái đẹp trong nhà. Bức tường của thầy tôi (Khổng tử) cao mấy nhận (thờ đó mỗi nhận là bảy, tám thước, non 2 mét), nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu, sự kiến trúc các điện phong phú ra sao”. (XIX.23). CHƯƠNG 5. TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HOÀN CẢNH Muốn nhận định tư tưởng chính trị của Khổng tử, chúng ta đừng quên 6 điều này: Ông thuộc giai cấp quí tộc, nhưng tới đời ông đã suy, nghèo, và thời trẻ ông sống một cuộc đời ở giữa hạng quí tộc và bình dân, chỉ làm một chức lại nhỏ; vì vậy ông có nếp sống, nếp suy tư của giới quí tộc, nhưng cũng dễ gần gũi bình dân, có thiện cảm với bình dân, bênh vực bình dân, giúp cho họ thăng tiến. Về điểm đó, ông chỉ là bạn của bình dân thôi. Khác hẳn Mặc tử sau này, là người ở trong giai cấp bình dân; ông vẫn thiên về quan điểm quí tộc hơn là quan điểm bình dân, còn Mặc tử hoàn toàn đứng về quan điểm bình dân. Thủy tổ của ông là quí tộc của nhà Ân, nhưng tới đời ông đã trên năm trăm năm theo Chu, nên không còn là người Ân nữa. Ông hoàn toàn theo Chu và rất phục Chu công, người có công làm cho Chu thịnh vượng, văn minh hơn Ân. Ông sinh trưởng ở Lỗ mà vua Lỗ là hậu duệ của Chu công (Chu công phong đất Lỗ cho con là Bá Cầm – XVIII.10), do đó |
giữ được nhiều tục lệ, lễ nghi, thể chế của Chu; có thể nói Lỗ vào thời Khổng tử là trung tâm văn hóa nhà Chu, nên Khổng tử khen Lỗ có những người quân tử (V.2), và bảo nước Lỗ chỉ thay đổi một bực thôi thì đạt được đạo của tiên vương, tức đạo của Văn vương, Võ vương, nhà Chu. Ông bẩm sinh “tín nhi hiếu cổ”, nghĩa là tin và thích kinh điển của cổ nhân, thích cả lễ nghi, tục lệ cổ nhân nữa, cho nên mới có truyền thuyết rằng hồi bé ông hay chơi trò tế lễ. Ông sinh ở gần cuối thời Xuân Thu, thời mà chế độ phong kiến tuy suy nhưng vẫn còn cơ duy trì được. Tề Hoàn công là vị “bá” đầu tiên và có uy thế nhất trong số ngũ bá vẫn muợn danh thiên tử nhà Chu để họp các chư hầu, và về già mới có ý lật vua Chu nhưng chưa kịp thi thành thì chết. Như mọi người khác ở thời ông, có lẽ cả Mặc tử, Mạnh tử sau ông nữa, Khổng tử cho chế độ phong kiến là hợp pháp, hợp lí nữa, vì hoàn cảnh thời đại chưa cho ông quan niệm được một chế độ nào khác để thay chế độ phong kiến. Phải gần tới cuối đời Chiến Quốc, bọn pháp gia mới lần lần quan niệm được một chế độ mới, chế độ quân chủ chuyên chế. Chúng ta nên nhớ Chu Võ vương và Chu công lập chế độ phong kiến là vì đất đai quá rộng, không thể tự cai trị lấy hết được, phải cắt đất, phong cho người thân và công thần để họ tự trị dưới sự kiểm soát của Chu. Tới thời Khổng tử, đất có phần rộng |
hơn nữa, mà tình trạng kinh tế, xã hội không thay đổi mấy; canh nông chưa phát triển; (vì còn là thời đại đồ đồng), dân số chưa tăng bao nhiêu, cả Trung Hoa may lắm được 10 15 triệu người (5000 năm sau tới đầu thế kỉ nguyên Tây lịch mới được 58 triệu); nước lớn nhất như Tề may mắn lắm được vài triệu người, một hai ngàn chiến xa (4000 8000 quân), như vậy dù có làm bá chủ các chư hầu, tiếm ngôi thiên tử của nhà Chu thì cũng vẫn phải theo chế độ phong kiến của Chu, chứ làm sao có đủ quân để chiếm đóng, đủ quan lại để cai trị cả Trung Quốc mà lập chế độ quân chủ chuyên chế được. Vào khoảng cuối đời Khổng tử, Trung Hoa mới bắt đầu có sắt, bước qua thời đại đồ sắt; một trăm năm sau, thời Mạnh tử, có cày sắt, búa, rìu sắt, rừng rú mới được khai phá, canh nông mới phát triển mạnh, dân số tăng lên mau; rồi khoảng 50 100 năm sau nữa, mới có những võ khí bằng sắt, có cuộc cách mạng về chiến thuật: ít dùng chiến xa mà dùng bộ binh và kị binh (bắt chước rợ Hồ), có những công cuộc thủy lợi (đào kinh, đắp đê) lớn lao; và tới thế kỷ thứ ba trước kỉ nguyên Tây lịch mới có vài ba nước như Tề, Sở, Tần đủ cường thịnh để nghĩ tới việc thống nhất Trung Quốc. Tần tuy kém văn minh nhất nhưng đất đai rộng, phì nhiêu (cánh đồng Thành Đô ở Tứ Xuyên), địa thế hiểm yếu, (cửa ải Hàm Cốc) không bị các nước chung quanh quấy phá; lại nhờ các tể tướng Thương Ưởng, Lí Tư, mà có một tổ chức hành chánh (chia nước làm quận huyện, bắt năm gia đình phải tố cáo |
lẫn nhau, bắt người dân nào cũng phải có chứng minh thư, dùng những hình pháp cực nghiêm để nắm hết dân…), võ bị (người dân nào cũng phải đi lính, lính thời bình thì làm ruộng, giữ trật tự trong miền…), rồi lại dùng những thuật của pháp gia (do thám, hối lộ, ám sát) để lung lạc đại thần, tướng quân bên địch, do đó mà lần lần thôn tính được lục quốc năm 221, thống nhất Trung Quốc, bỏ chế độ phong kiến, chia sáu nước đó thành 36 quận. Khổng tử mất năm – 479 làm sao có thể nghĩ đến một sự thống nhất như vậy được? Trách ông thủ cựu; giữ chế độ phong kiến là không đặt ông vào thời đại của ông. Khổng tử không thể quan niệm được một chế độ mới, mà cũng không thể trở lại chế độ truyền hiền thời Nghiêu, Thuấn mặc dầu thời đó là thời lí tưởng theo ông, là hoàng kim thời đại của Trung Quốc như tất cả các triết gia Tiên Tần đều tin. Thời Nghiêu Thuấn trước nhà Chu, trên ngàn năm, dân còn thưa thớt, mỗi bộ lạc được vài ngàn, vài vạn người là cùng, viên tù trưởng được các bộ lạc bầu lên – sự truyền hiền có lẽ chỉ là như vậy; đến thời Khổng tử, mỗi nước chư hầu lớn như Tề có thể có một hai triệu dân, không thể bầu vua được mà sự truyền tử (quân chủ) là một giai đoạn cần thiết, trước khi nhân loại có đủ điều kiện để thành lập chế độ dân chủ đại nghị ngày nay. Sự biến chuyển từ một bộ lạc lên thành một quốc gia, kéo theo sự biến chuyển từ chế độ bầu người thủ lãnh nối ngôi (tức |
truyền hiền) lên chế độ truyền tử. Ở Trung Quốc sự biến chuyển đó xảy ra trễ nhất từ thời Thương, sớm nhất từ thời Hạ. Khổng tử làm sao có thể trở ngược lại cả ngàn rưỡi năm được? Ông phải tôn quân, chấp nhận sự truyền tử, mà chỉ tìm cách cải thiện nó thôi. Ở thời ông không ai có thể làm khác được. Sáu điều kể trên giúp ta hiểu được tại sao Khổng tử một mặt có tư tưởng bảo thủ, giữ xã hội cũ, dùng tiêu chuẩn của xã hội cũ, điều chỉnh quyền lợi, nghĩa vụ vua tôi; mặt khác có tư tưởng tiến bộ, cách mạng nữa, đào tạo một giai cấp mới; kẻ sĩ để giúp giai cấp quí tộc trị nước, thay thế hạng quí tộc thiếu tài, thiếu đức. Giai cấp mới, kẻ sĩ đó đại đa số ở trong giới bình dân, con địa chủ mới và thương nhân, vì cuối thời Xuân Thu, nông nghiệp đã phát triển nhờ phương pháp canh tác và nông khí đã được cải thiện, mà thương nghiệp cũng đã bắt đầu thịnh, nhất là ở nước Tề. Trong chương này tôi sẽ xét ba điểm căn bản trong tư tưởng chính trị của Khổng tử: Tòng Chu tức duy trì chế độ phong kiến. Chính danh để điều chỉnh chế độ đó, lập lại trật tự cho nó vững lại, khỏi băng hoại. Đức trị là qui kết của sự chính danh. TÒNG CHU Thiên Bát dật, bài 14, Khổng tử nói: “Nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẻ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu” (Ngô tòng Chu). Theo Chu tức là theo chế độ, chính trị, xã hội, pháp điển, lễ |
nhạc, giáo dục… của nhà Chu, do Chu công chế định sau khi châm chước, sửa đổi lễ chế của Hạ, Ân. Suốt đời Khổng tử chỉ mong nối được sự nghiệp của Chu công, cho nên khi bị vây ở Khuông, ông nói: “Vua Văn vương mất rồi, lễ nhạc, chế độ của ông chẳng truyền lại cho ta sao! Trời mà muốn hủy diệt văn hóa đó thì người sau đâu có được thừa hưởng nó; Trời mà chưa muốn hủy diệt văn hóa đó thì người Khuông làm gì được ta?” (IX.5). Và như tôi đã nói, ông ao ước điều đó lắm, tới nỗi nó ám ảnh ông, khiến ông thường nằm mộng thấy Chu công; khi nào lâu mà không nằm mộng thấy Chu công thì ông buồn, tự cho là mình suy rồi (VII.5). Ông tòng Chu (duy trì văn hóa của Chu) chứ không tôn Chu, tôi muốn nói: Không tôn thờ thiên tử đương thời của nhà Chu. Trong bộ Xuân Thu ông vẫn không quên nhà Chu, vẫn chép việc vua Chu trước việc của Lỗ, và các chư hầu khác, coi như “việc trong Xuân Thu là việc của thiên tử”; nhưng suốt bộ Luận ngữ chúng ta không thấy một bài nào nhắc đến vua nhà Chu thời ông cả. Việc ông qua Chu để khảo về lễ, như trong Chương II tôi đã nói, chưa chắc đã có thật, mà nếu có thật thì cũng không thấy ông nhắc đến vua Chu. Và khi thôi làm quan ở Lỗ, ông bôn ba các nước chư hầu, năm lần ở Vệ, hai lần qua Trần, một lần qua Tống, một lần qua Sở, một lần tính qua Tấn… mà không có lần nào ông có ý qua Chu cả. (Sau này Mạnh Tử cũng vậy, mặc dầu chủ trương thống nhất thiên hạ mà qua Tề, Lương, Đằng… |
chứ không qua Chu). Điều đó quả khó hiểu, Khổng tử cho rằng Chu đã yếu, nhỏ quá rồi, không thể giúp Chu phục hưng lên được chăng? Trong Xuân Thu, ông chép truyện thiên tử nhà Chu bị chư hầu gọi tới họp hội nghị ở Tiễn Thổ, mà thiên tử không dám từ chối, phải đi, và ông phải giấu việc đó, bảo “thiên vương đi tuần ở Hà Dương”. Chu bị lấn hiếp như vậy, chắc Khổng tử (và sau, Mạnh tử nữa) chán ngán, cho rằng vận của nhà Chu không thể cứu được. Chúng tôi chỉ đoán như vậy chứ trong Luận ngữ không có chỗ nào hé cho ta thấy thâm ý của Khổng tử về điểm đó cả. KHÔNG THÍCH CÁCH MẠNG Làm chính trị, hễ bảo thủ thì không thích cách mạng, hiểu theo nghĩa cổ: thay đổi mạng trời, tức hạ bệ một ông vua bằng võ lực. Khổng tử cũng vậy. Ông rất đề cao vua Thuấn, (coi các bài VIII.18, 19), cho rằng đất của Thuấn hiện rõ trong nhạc thiều, và ông có lần ham học nhạc thiều, đến nỗi ba tháng “không biết mùi thịt”, khen nhạc đó “cực hay lại cực tốt lành” (tận mĩ hĩ, hưu tận thiện dã). Còn Võ vương nhà Chu cũng được ông khen là một vị vua có tài, nhưng đức kém vua Thuấn, kém cả Văn vương (cha Võ vương) nữa, cho nên nhạc của Võ vương chỉ “cực hay thôi, chứ chưa cực tốt lành” (tận mĩ hĩ, vị tận thiện dã – III.25). Sở dĩ vậy là vì vua Thuấn được vua Nghêu nhường ngôi cho, mà Văn vương tuy đã được hai phần ba thiên hạ rồi mà vẫn thần phục nhà Ân (V.11 20); còn Võ vương phải diệt vua Trụ, nghĩa là phải dùng vũ lực, phải làm cách mạng, mới được ngôi, mặc dù là có mục |
đích chính đáng: cứu dân khỏi cái họa phải sống dưới chế độ tàn bạo của Trụ. Có thể trong thâm tâm, Khổng tử chê Võ vương dù sao cũng là một loạn thần đối với nhà Ân, chứ không thần phục nhà Ân như cha. Tôi đoán như vậy vì trong Luận ngữ – bài VII – 14, Khổng tử khen Bá Di, Thúc Tề là người nhân, mà Di, Tề rất chê Võ vương. Họ là hai người con vua nước Cô Trúc, không chịu nhận ngôi vua, bỏ đi ở ẩn, sau qua giúp Văn vương nhà Chu là người có đức. Nhưng khi Võ vương đem quân diệt Trụ, họ dập đầu trước ngựa Võ vương, can: Cha mất không chôn mà dấy can qua, có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi mà giết vua, đáng gọi là nhân không?” Võ vương không nghe; khi diệt nhà Ân rồi, thiên hạ đều tôn Chu, duy Di, Tề cho hành vi của Võ vương đáng xấu hổ, không thèm ăn lúa nhà Chu, ẩn ở núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn. Sau chịu chết đói ở trong núi. Khen Di, Tề tức là chê cuộc cách mạng bằng võ lực của Võ vương. Khổng rất ghét dũng lực và phản loạn (tử bất ngữ quái, lực, loạn, thần. VIII.20). Ông nghĩ nếu vua không đủ tư cách thì phải lựa người khác để thay một cách ôn hòa. BẢO THỦ NHƯNG CẢI THIỆN Không một nhà tư tưởng nào chỉ bảo thủ, hoàn toàn bảo thủ thôi, mà lưu danh lại đời sau được, vì như vậy không cống hiến được gì mới cho đời. Khổng tử bảo thủ, hiếu cổ vì ông hiểu rằng dân tộc nào muốn mạnh, xã hội muốn vững cũng cần phải giữ một số truyền thống không thể cắt đứt hẳn với dĩ vãng được. |
Truyền thống là một thứ keo để gắn các phần tử trong xã hội. Nhưng muốn bảo thủ thì phải sửa đổi, cải cách ít nhiều cho hợp thời, nếu không thì xã hội không tiến được, mà sẽ phải chịu một luật đào thải. Chẳng hạn thời xưa, khi tơ chưa sản xuất được nhiều, người ta dùng mũ gai, nhưng tới thời Khổng tử, tơ đã sản xuất nhiều, mũ tơ rẻ hơn, đỡ tốn công hơn, thì ông dùng mũ tơ. (IX.3). Khi Nhan Uyên hỏi phép trị nước, ông đáp: “Theo lịch nhà Hạ, ngồi xe nhà Ân, đội mũ miện nhà Chu, nhạc thì theo nhạc và vũ thiều…” (XV.10). Theo lịch nhà Hạ vì lịch nhà Hạ lấy tháng đầu làm tháng giêng (như Âm lịch của chúng ta ngày nay) tiện cho việc nông hơn là lấy tháng tí, tức tháng 11 làm tháng giêng như nhà Chu, hoặc lấy tháng sửu, tức tháng chạp làm tháng giêng như nhà Ân; dùng xe nhà Ân kiên cố, không hoa mĩ như xe nhà Chu; đội mũ miện nhà Chu vì kiểu mũ đó đẹp hơn cả. Như vậy ta thấy ông không theo hẳn nhà Chu, không hoàn toàn tòng Chu: ông chê Chu không thực tế khi làm lịch, và xa xỉ, quá trọng văn khi dùng xe. Trong một đoạn sau, khi xét về lễ, ông khuyên các việc lễ nên tiết kiệm, đừng trọng hình thức; đừng dùng nhiều hình phạt, đừng ham giết người… là ông cũng muốn sửa đổi phong tục, luật pháp của Chu, vì Chu quả có tật xa xỉ và đa sát, như mọi triều đại nào muốn cho xã hội có trật tự sau một cuộc chiến tranh diệt triều đại trước. Cải cách như vậy là biến quyền biến (bài IX.29, ông khuyên phải đứng vững trong chính đạo, nhưng cũng phải quyền biến, |
tùy thời), biết tránh cực đoan, mà vừa phải, đừng thái quá, đừng bất cập, giữ đức trung dung, mà ông khen là rất đẹp: (Trung dung chi vi đức dã, kì chí hĩ hô! VI.27). CHÍNH DANH Khi xét tư tưởng chính trị của Khổng tử, nhà nào cũng nhận rằng một qui tắc chính của ông, một phát kiến của ông là thuyết chính danh. Tử Lộ, một học trò thân của ông, ngạc nhiên khi ông đưa ra thuyết đó, chê nó là vu khoát bị ông mắng: “Do, anh thật là thô thiển. Người quân tử có điều gì không biết thì đứng nói bậy. Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lí (vì danh hiệu không hợp với thực tế); lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc, chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng; hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh thì tất phải nói ra được (nói phải thuận lí), đã nói điều gì thì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được”. (XIII.3). Trong Chương II tôi đã nói ông muốn bảo Tử Lộ rằng việc đầu tiên làm cho Vệ được yên trị là lập một công tử khác làm vua Vệ, chứ để Xuất công Triếp không được mà đón Khoái Quí về cũng không được: Khoái Quí có tội muốn ám sát mẹ. Triếp có tội cự lại cha, Khoái Quí và Triếp là cha con mà tranh nhau ngôi vua, cả hai thiếu tư cách như vậy mà trị dân thì danh bất |
chính, mà ngôn bất thuận, dân không phục, nước sẽ loạn. Quan niệm: trên phải ra trên, dưới phải ra dưới đó, không mới mẻ gì. Trước Khổng tử, các sử gia Trung Hoa đã có truyền thống chép đúng sự thực những hành vi xấu, tốt của vua chúa và các quan lớn nhỏ và phê bình một cách công tâm những hành vi đó ngay khi mới xảy ra, không kiêng nể ai cả. Theo Mạnh Tử trong Li Lâu hạ, bài 21, chẳng riêng Lỗ có Xuân Thu, mà Tấn cũng có bộ Thặng, Sở có bộ Đào Ngột, đều là những bộ sử biên niên chép với tinh thần đó. Lối chép sử ấy hàm cái ý chính danh. Nhưng Khổng tử đã có công tạo ra danh từ chính danh và lí luận, giảng giải, đặt nó thành một qui tắc trong bài XIII.3 dẫn trên. Ông bảo danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lí luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được mà xã hội sẽ hỗn loạn. Ông vua là người được Trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho dân, dạy dỗ dân, để dân được sống yên ổn. Làm trọn nhiệm vụ đó là danh xứng với thực, nếu không thì không đáng gọi, không thể gọi là vua được; cũng như cái bình đựng rượu có cạnh góc, đời trước gọi là cái “cô”, đến thời Khổng tử, người ta biến đổi nó, bỏ cạnh góc đi thì không gọi là cái “cô” được nữa. Muốn gọi nó là cái “cô” thì phải giữ những cạnh góc của nó như trước, nếu muốn |
bỏ cạnh góc đi thì phải đặt cho nó một cái tên khác. Muốn được gọi là vua, thì phải theo tiêu chuẩn vua của cổ nhân, của xã hội Chu. Ông vua nào không theo tiêu chuẩn đó thì không gọi là vua được nữa, như trường hợp Khoái Quí và Xuất Công Triếp nước Vệ, cha không ra cha, con không ra con, cha con tranh ngôi nhau, như vậy làm gương cho dân sao được, đặt lễ nhạc, hình pháp bắt dân theo sao được; tất phải lựa một người khác – anh hay em của Khoái Quí chẳng hạn – để làm vua Vệ. Khổng tử không “vị vua Vệ”, tức Xuất công Triếp (bài VII.14) chính là như vậy. Và tuy không nói ra, chứ ông cũng có ý cách mạng rồi đó. Hễ chính danh thì qui kết tất phải là cách mạng. Qui kết đó, ông không thể nói thẳng ra cho môn sinh (Tử Lộ, Tử Cống) được, mà để cho họ hiểu ngầm, vì lúc đó ông là khách của Vệ, xen vào nội chính của người ta sao được. Và môn sinh của ông chắc cũng đã hiểu ông. Tuy nhiên, như trên tôi đã nói, ông vốn không ưa cách mạng bằng võ lực như Võ vương, cho nên có lẽ ông chỉ muốn đổi vua bằng một cách ôn hòa, có thể là do sự bàn tính giữa công tộc và các đại phu ở triều đình Vệ. Trong cuộc dạy học của ông, ông không phát triển thêm thuyết chính danh, theo tôi đoán, một phần vì ông ôn hòa, không muốn cách mạng, một phần nữa vì ông ít nói. Nhưng trong mười mấy năm bôn ba, có vua chư hầu nào hỏi ông về phép trị nước, ông thường bảo họ phải sửa mình cho chính đính, hành động cho chính đính, và bốn chữ “chính giả, chính dã” (XIII.17), là một châm ngôn bất hủ của ông. Điểm này tôi sẽ xét thêm trong đoạn sau. |
Vậy muốn được danh chính thì thân phải chính. Ngôn cũng phải chính nữa: lời mình nói với việc mình làm phải hợp nhau, không được nói chiều mà làm ít (Quân tử sỉ kì ngôn nhi quá kì hành – XIV.27), không được lời nói thì kính cẩn mà trong lòng thì không; hơn nữa, phải “siêng năng về việc làm, thận trọng về lời nói” (mẫn ư sự, thận ư ngôn – I.14); và nên “chậm chạp về lời nói, mau mắn về việc làm” (nột ư ngôn, mẫn ư hành – IV.24). Như vậy là phải thành, tín. Điểm này tôi cũng sẽ xét trong đoạn sau. Để mang cái danh là vua thì phải làm tròn trách nhiệm của ông vua, nếu không sẽ mất cái danh, và mất luôn cả ngôi. Trong thiên XVI, có hai bài 2 và 3 nói đến nhiệm vụ đó. Bài 2, Khổng tử bảo: “Thiên hạ có đạo (chính trị tốt) thì thiên tử định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt; thiên hạ vô đạo (chính trị xấu) thì chư hầu định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt. Chư hầu quyết định, ra lệnh thì được khoảng mười đời, ít khi không mất nước. Đại phu quyết định, ra lệnh thì được khoảng năm đời, ít khi không mất nước. Gia thần (nghĩa là những người tay chân của đại phu) nắm quốc chính thì được khoảng ba đời, ít khi không mất nước. Thiên hạ có đạo thì chính quyền không ở trong tay đại phu. Thiên có đạo thì dân thường không bàn riêng việc nước.” Chữ đời (thế) trong đoạn trên là đời vua và Triệu Thông đưa thí dụ để dẫn chứng: nước Tề, từ khi Hoàn công xưng bá, nắm hết quyền của Thiên tử, nên đến đời Giản công, được đúng mười đời, họ Trần chuyên chính, Giản công bị giết; kể từ khi Quí Hữu chuyên quyền, được bốn đời, rồi bị bồi thần là Dương Hổ |
chiếm hết địa vị, bỏ tù Quí Hoàn tử (như vậy gần đúng với số “năm đời”; nhưng còn bồi thần chuyên quyền thì Triệu Thông bảo như Dương Hổ nước Lỗ bị diệt ngày, chứ không đợi đến ba đời. Tôi cho rằng những con số “mười đời”, “năm đời”, “ba đời” chỉ cốt cho chúng ta hiểu đại ý là những kẻ địa vị càng thấp mà nắm chính quyền thì nước càng mau bị diệt thôi. Bài 3, Khổng tử lại nói: “Quyền ban tước lộc không thuộc về công thất (nhà vua Lỗ) đã năm đời rồi, quốc chính ở trong tay các đại phu đã bốn đời rồi, cho nên con cháu Tam Hoàn đã suy vi rồi”. Tam Hoàn ở đây trỏ ba họ lớn ở Lỗ: Quí Thị, Mạnh Thị, Thúc Thị đều là hậu duệ của Hoàn Công (nước Lỗ). Trong hai bài đó Khổng tử xét nguyên nhân hỗn loạn của thời Xuân Thu và cho là tại thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm, để quyền lọt vào tay chư hầu, mà chư hầu, như Lỗ, cũng không làm tròn trách nhiệm, để quyền lọt vào tay bồi thần, vậy là khắp thiên hạ đều vô đạo, muốn cho thiên hạ hữu đạo trở lại như hồi đầu Tây Chu thì phải chính danh, áp dụng đúng tiêu chuẩn của xã hội thời Văn vương, Chu công. Thiên hạ mà loạn, lỗi trước hết là ở bọn vua chúa, điều đó Khổng tử hiểu rõ. Khi ông bảo vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề tôi (quân quân thần thần XII.11), là ông muốn cho Tề Cảnh công hiểu rằng nếu vua không ra vua thì bề tôi sẽ không ra bề tôi. Nhưng trong bộ Luận ngữ, ta thấy ông không nặng lời trách các vua chúa như Mạnh tử sau này. |
Như Tề Cảnh công, ông chỉ bảo: “có bốn ngàn con ngựa – nghĩa là có ngàn cổ xe, làm một vua chư hầu lớn – mà khi chết không có đức gì để người dân khen” (XVI.12); ông vua bị ông chê nhất, (đã chết trước ông) là Tấn Văn công, thì cũng chỉ “quyệt nhi bất chính” (xảo quyệt mà không chính đại – XIV.15); còn Tề Hoàn công ham tửu sắc, đến nỗi vì bọn tiểu nhân mà chết 60 ngày rồi mới được chôn, khiến cho triều đình Tề loạn, thì ông không chê mà còn khen là “chính nhi bất quyệt” nữa, vì Hoàn công nhờ Quản Trọng, đã có công với Trung Quốc (coi một đoạn sau nói về Quản Trọng). Sở dĩ ông có giọng ôn hòa như vậy đối với bọn vua chúa vì ông còn nặng lòng tôn quân, không như Mạnh tử một thế kỉ Trái lại đối với bọn bề tôi tiếm vị, thoán nghịch thì ông rất nghiêm khác. Vụ ông chém Thiếu Chính Mão không chắc đã có, nhưng việc sai phá ba thành của ba họ Mạnh, Thúc, Quí ở Lỗ, khi ông được cất nhắc lên chức quyền tướng quốc thì sử có chép. Nhất là vụ ông xin vua Lỗ xuất binh hỏi tội Trần Hằng, một đại phu của Tề thì Luận ngữ đã ghi lại trong bài XIV.21. Ông tự cho mình có trách nhiệm khuyến cáo các vua chúa diệt bọn nghịch thần của bất kì nước nào. Ông muốn cho Ai công đóng vai thiên tử nhà Chu, hoặc ít nhất thì cũng là vai Tề Hoàn công, mượn danh nghĩa thiên tử, mà lập lại trật tự xã hội, duy trì chế độ phong kiến. Khi quân là tội lớn, ông không tha. Ngay đến việc tiếm lễ, dùng một điệu vũ trái phép, ông cũng không chịu được. Chẳng |
hạn đầu đời Chu đã qui định: thiên tử dùng vũ “bát dật”, tám hàng, mỗi hàng tám người múa hát; chư hầu thì “lục dật”, sáu hàng, mỗi hàng sáu người; đại phu thì “tứ dật”, bốn hàng, mỗi hàng bốn người; sĩ “nhị dật”, hai hàng, mỗi hàng hai người. Quí Tôn Hoàn tử chỉ là một đại phu nước Lỗ, chỉ được dùng vũ “Tứ dật”, mà đã dùng vũ “bát dật” trong đại sảnh nhà ông ta, như vậy là tiếm lễ, tự cho mình ngang hàng với thiên tử, trên cả vua Lỗ nữa. Cho nên Khổng tử bất bình, mắng: “Việc đó mà nhẫn tâm làm được thì việc gì mà không nhẫn tâm làm được?” (Thị khả nhẫn dã, thục bất khả nhẫn dã? III.1). Về điểm trọng lễ này, tôi sẽ xét thêm ở sau. Tóm lại, qui tắc chính danh đưa tới qui kết: ai ở địa vị nào cũng phải làm trọn trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, không được việt vị, nghĩa là không được hưởng những quyền lợi cao hơn địa vị của mình. Như Khổng tử, với tư cách một đại phu trí sĩ, có trách nhiệm khuyến cáo vua Lỗ trừng trị một nghịch thần của một nước bạn, và ông đã theo “chính danh” nghiêm cẩn làm tròn trách nhiệm đó, còn Hoàn tử đã tự ban cho mình cái quyền dùng vũ “bát dật” mà chỉ thiên tử mới được dùng, là trái với qui tắc chính danh. Không việt vị còn có một nghĩa nữa: “không ở chức vụ nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó”. ( Bất tại kì vị, bất mưu kì chính – VIII.14). Trong bài XVI.2 dẫn trên, theo tôi, câu cuối quan trọng nhất: |
“Thiên hạ hữu đạo tắc chính bất tại đại phu; thiên hạ hữu đạo; tắc thứ nhân bất nghị”. Các sách xưa giải thích rằng thiên hạ có đạo thì chính quyền không ở trong tay đại phu; thiên hạ có đạo thì dân an cư lạc nghiệp, không có việc gì không tốt mà phải đem ra bàn bạc. Tôi cho hiểu như vậy không đúng với tư tưởng của Khổng tử, vì ý chính của Khổng tử không phải là tả xã hội vô đạo thì đời sống ra sao, hành động con người ra sao, hữu đạo thì đời sống ra sao (an cư lạc nghiệp) hành động con người ra sao (không phải bàn bạc về chính sự); mà là vạch cái nguyên nhân của sự hỗn loạn trong xã hội; nguyên nhân đó ở sự không theo qui tắc chính danh, mà việt vị: đại phu thì nắm chính quyền, mà thứ dân thì bàn việc nước, như vậy đều là “bất tại kì vị” mà “mưu kì chính” cả, trái với qui tắc trong bài VIII.14. “Bất tại kì vị bất mưu kì chính”, đó là điểm quan trọng đối với Khổng tử. Ai giữ phận nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội rất chặt chẽ, rất có tôn ti của Chu công thì nước sẽ trị, thiên hạ mới gọi là hữu đạo. Nhà Chu sở dĩ suy là vì mọi người, bắt đầu từ vua chúa, rồi tới quan dân đều không tôn trọng tổ chức đó, mà bỏ cái “lễ” của Chu. Và Khổng tử tin rằng nếu ông được cầm quyền thì có thể lập lại cái “lễ” cái trật tự đó được. Theo quan niệm của chúng ta ngày nay thì “thứ nhân bất nghị” là không cho dân có quyền bàn việc nước, là không dân chủ. Đúng là Khổng tử không có tư tưởng dân chủ, mặc dầu có |
thể ông cũng nhận như nhiều người trước ông rằng ý dân là ý trời, dân muốn gì là trời muốn cái đó. Tôi nói có thể vì trong Luận ngữ không có chỗ nào ông nói rõ ra như vậy cả, và trong tập độc giả đương đọc đây, tôi đã tự buộc tôi chỉ được dùng Luận ngữ để dẫn chứng thôi. Không có quan niệm dân chủ nhưng ông rất yêu dân, lo cho dân (coi mục Đức trị ở sau). Không cho dân bàn việc nước vì ông nghĩ rằng dân thời đó (có thể 99 phần 100 hay hơn nữa, không có học) chưa đủ tư cách bàn việc nước, cho họ làm việc nước thì sẽ loạn (tôi sẽ trở lại vấn đề này). Ta cứ xét ngày nay, cách thời ông hai ngàn rưỡi năm, trên thế giới giáo dục được phổ biến ra sao, mà có bao nhiêu nước, người dân được thực sự bàn việc nước, được tự do bàn việc nước, và trong một nước, kể cả những nước rất văn minh, có được mấy chục phần trăm dân chúng có đủ kiến thức để bàn về các vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao… Ở vào thời đại Khổng tử và suốt cả đời Tiên Tần, cho tới đời Thanh, muốn cho thật dân chủ thì phải theo Lão, trở vế chế độ bộ lạc nguyên thủy của nhân loại, hoặc theo Trang, dứt khoát chủ trương vô chính phủ, cho cá nhân muốn làm gì thì làm. Tư tưởng chính trị của Lão, Trang hấp dẫn thật, nhưng toàn là không tưởng, không thời nào áp dụng được. Khổng tử không cách mạng theo kiểu Lão, Trang. Ông thực tế hơn, chỉ mong cải cách xã hội lần lần thôi, tìm cách hạn chế |
bớt những cái xấu của chế độ phong kiến, điều hòa hai giai cấp quí tộc và bình dân được phần nào hay phần đó, làm dịu bớt sự bất quân, bất bình đẳng trong xã hội; cho nên một mặt ông chủ trương “bất tại kì vị, bất mưu kì chính”, mặt khác ông buộc người cầm quyền phải có tài đức xứng với chức vị của họ. Ông dạy học, đào tạo một số bình dân cho có tài đức để đưa ra trị dân, thay một số quí tộc không đủ tư cách; và khi trị dân, họ có nhiệm vụ dạy dân để cải tiến lần lần giai cấp bình dân. Như vậy, ông vẫn trung thành với giai cấp của mình và lại làm thầy, làm bạn của giai cấp bình dân, khai hóa họ, bênh vực họ; đời sống của ông như chúng ta đã thấy, rất bình dân, mặc dầu vẫn giữ vài nét của quí tộc; ông vui sống với những thanh niên bình dân hơn là với hạng quyền quí, một phần vì vậy mà môn sinh rất quí ông. Tôi nghĩ ở vào địa vị ông, sống trong thời đại của ông, giải pháp thăng tiến bình dân đó hợp lí nhất, sáng suốt nhất, là một cống hiến mới mẻ cho văn hóa Trung Quốc, khó có ai làm hơn ông được. Nội một điểm đó thôi, công của ông cũng không phải là nhỏ rồi. Ông đã đề xướng một chính sách người đời sau gọi là đức trị mà trong những đoạn dưới tôi sẽ xét. Ở đây tôi xin đưa thêm hai nhận xét về thuyết chính danh của ông. Như trên tôi đã nói, danh từ chính danh do ông đặt ra, mang nhiều nghĩa chính trị, luân lí hơn là luận lí. Đời sau Mạnh tử khi bảo “không biết có cha, có vua thì (không phải là người mà) là cầm thú”; và “hại nhân, hại nghĩa là quân tàn tạc; giết quân tàn tật là giết một thất phu, một tên dân quèn. Nghe nói |
giết một tên thất phu tên là Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua”, cũng là theo thuyết chính danh của Khổng tử với ý nghĩa luân lí. Mặc gia và Danh gia, cũng chính danh nhưng với mục đích lí luận. Sau cùng Tuân tử chính danh vừa để phân biệt người sang kẻ hèn (minh quí tiện) vừa để phân biệt những vật giống nhau, khác nhau (biệt đồng dị – Thiên Chính danh), nghĩa là với cả hai mục đích luân lí và lí luận[239]. Vậy là thuyết chính danh của Khổng tử đã gợi ý cho nhiều triết gia đời sau, và vừa trực tiếp vừa gián tiếp làm cho triết học Trung Hoa phong phú lên. Nhận xét nữa của tôi là thuyết chính danh của ông về chính trị tùy hàm cái ý bảo thủ: phải trọng những danh cũ, phải hành động hợp với những tiêu chuẩn cũ; nhưng Khổng tử không phải là không tạo ra danh từ mới, hoặc không cho danh từ cũ một nội dung mới: nhiều học giả ngờ rằng chữ nhân (nhân từ) trước ông không thấy ai dùng, từ ông trở đi mới dùng nhiều, và chữ quân tử, trước ông chỉ dùng để trỏ một địa vị trong xã hội, từ ông trở đi, nó mới trỏ phẩm cách của con người. Đó là những sáng kiến bất hủ của ông nữa. Ông đã tìm cách sang máu cho chế độ phong kiến. ĐỨC TRỊ Chính danh là bước đầu đưa tới chính sách đức trị, là điều kiện của đức trị. Tất nhiên, trước Khổng tử đã có vô số người nghĩ rằng người trị dân phải có đức thì dân mới theo, mới tạo hạnh phúc cho dân được, và một bổn phận của người trị dân là |
phải giáo hóa cho dân cho thành những người tốt, có vậy nước mới thịnh trị. Các sử gia dám phê bình thẳng thắn bậc vua chúa, chính là theo chủ trương đức trị. Ngược lên nữa, vào những thời còn chế độ thị tộc, khi một bộ lạc bầu một thủ lãnh hoặc nhiều bộ lạc bầu chung một thủ lãnh, thì cũng đều lựa những người có tư cách, có tài năng, như vậy cũng là bắt đầu có ý niệm về đức trị. Nhưng Khổng tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, phải giáo hóa dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị, ông đã đạo đức hóa chính trị. Và tất cả triết lí chính trị của ông gồm danh từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người trị dân phải có đức, phải trị dân bằng đức, chứ không bằng bạo lực. Trong khi dạy học, hoặc chuyện trò với môn sinh, hoặc đối đáp với các vua chúa, mỗi khi có cơ hội là ông không quên nhắc tới điều căn bản: người trị dân phải có đức. Luận ngữ ghi chép mấy chục chỗ như vậy, tôi chỉ xin nhớ đâu, dẫn đấy. Bài XII.11, Tề Cảnh công hỏi ông về cách trị dân, ông đáp: “Quân quân thần thần…” mà chúng ta có thể hiểu là “vua phải hết đạo vua, bề tôi phải hết đạo bề tôi…” hoặc “vua phải ra vua, có tư cách ông vua, thì bề tôi mới ra bề tôi, mới giữ đạo bề tôi…”. Quí Khang tử, một quyền thần của Lỗ, ba lần hỏi ông về chính trị. Lần đầu ông đáp: “Chính trị là chính đính (chính giả, chính dã); ông lãnh đạo dân một cách chính đính thì ai dám không chính đính” (XII.17). |
Lần thứ nhì, ông bảo: “Nếu ông không có lòng tham thì dù thưởng cho dân, họ cũng không trộm cướp”. (XII.18). Lần thứ ba, Khang tử hỏi có nên giết kẻ vô đạo để cho người khác thành kẻ lương thiện không, ông đáp: “Ông trị dân, cần gì phải dùng biện pháp giết người? Ông muốn thiện thì dân sẽ hóa thiện. Đức hạnh của người quân tử (người trị dân tốt) như gió, mà đức của dân như cỏ. Gió thổi, cỏ tất rạp xuống”. (… Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thượng chi phong tất yến. XII.19). Câu cuối chỉ có nghĩa là người trên mà có đức thì cảm hóa dân rất dễ, vì dân vốn sẵn có lòng phục, trọng, noi gương người trên mà có đức; chứ tuyệt nhiên không có ý khinh dân là cỏ rác cả, như một số người hiểu sai Khổng tử. Chính vì vậy mà Khổng tử bảo “tòng sự chính trị – tức làm việc trị dân – không có gì là khó, nếu biết giữ thân mình cho đoan chính”, (trái lại) “nếu không giữ mình cho đoan chính thì không làm sao sửa người khác cho đoan chính được”. (XIII.13). Ông nhắc lại ý đó nữa trong bài XIII.6. “Mình mà chính đáng (ngay thẳng, đàng hoàng), dù không ra lệnh, dân cũng theo, mình không chính đáng, tuy ra lệnh, dân cũng chẳng theo”. Kết quả là: “Làm chính trị mà dùng đức (để cảm hóa dân) thì như sao bắc đẩu ở một nơi, mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ theo về với mình cả). (XII.1). Đây là chủ trương vô vi của Khổng: Không phải dùng hình pháp, tránh được mọi phiền phức, biến động; khác hẳn chủ |
trương vô vi của Lão tử: phóng nhiệm, để dân sống theo bản năng, theo luật thiên nhiên, muốn làm gì thì làm, không can thiệp vào đời sống của dân mà cũng chẳng dạy dỗ dân, như thời nguyên thủy của loài người; nhất là trái hẳn với chủ trương vô vi của pháp gia: cứ theo hình pháp cho nghiêm, thưởng phạt cho đúng, là dân sợ mà nước sẽ trị. Khổng tử lại nêu gương đức hạnh của các thánh vương đời xưa cho các nhà cầm quyền theo: Như: vua Thuấn, vua (Hạ) Vũ không cho việc có thiên hạ (phú quí tột bực) làm vui (VIII.18). Vua Vũ sống giản dị mà trọng tế lễ (VIII.21). Vua Nghiêu, vua Thuấn, sự nghiệp rất lớn mà dân không tìm được chỗ nào để khen, lễ nhạc và chế độ của hai ông ấy rực rỡ (VIII.19). Đặc biệt là vua Thuấn, chỉ kính cẩn, đoan chính ngồi trên ngai, chẳng làm gì cả mà thiên hạ bình trị (vô vi nhi trị) XV.4. Có học giả cho rằng Nghiêu, Thuấn là những nhân vật không chắc có thực, và Khổng tử đã tạo nên huyền thoại về đức hạnh của hai ông ấy, để dẫn chứng cho học thuyết của ông, tặng dân Trung Hoa những thần tượng để họ ngưỡng mộ, một lí tưởng để họ theo. Có thể như vậy, mà như vậy thì cũng chẳng có gì đáng trách. Trái lại, còn nên khen ông là đã thành công lớn, vì huyền thoại đó, ngay các triết gia đời sau, cho tới đời Thanh đều tin cả, bắt đầu từ Mặc tử, Lão tử, Mạnh tử, Trang tử, tới cả bọn pháp gia như Hàn Phi nữa. PHẢI TU THÂN Để xứng đáng người thay trời trị dân, để cho thực hợp với danh, Khổng tử khuyên các vua chúa và những người có trọng |
trách phải sửa mình, tự trách mình, phải học. Bài II.21, có người hỏi Khổng tử sao không tòng chính (không ra làm quan) Khổng tử đáp: Kinh Thi có câu: “Hiếu thuận a, hiếu thuận với cha mẹ; thân ái a, thân ái với anh em”. Thi hành câu đó mà cảm hóa được người cầm quyền thì cũng là tòng chính, sao cứ phải tham gia chính trị mới là tòng chính”. Nghĩa là người dân thường cứ giữ đúng đạo con em cũng là giúp nước rồi; còn nhà cầm quyền thì cứ giữ đạo con em cũng là trị dân rồi, vì như vậy là làm gương cho dân, dân tốt thì nước không loạn. Lời đó của Khổng tử chứa cả một triết lí nhân sinh chính trị và xã hội. Hiếu, đễ vốn là những tư đức của cá nhân trong gia đình hóa ra có tính cách ảnh hưởng quan trọng tới sự thịnh suy của quốc gia. Gia đình như vậy mới thực là nền tảng của quốc gia. Sự tu thân thành ra một việc căn bản chẳng những cho cá nhân, mà cho cả gia đình và tổ quốc. Không còn tách biệt hẳn cá nhân, gia đình tổ quốc nữa; nhất cử nhất động của cá nhân đều ảnh hưởng xa gần tới đoàn thể, không có sự trọng đoàn thể mà khinh cá nhân; không có sự đối lập giữa ta và người, giữa tiểu ngã và đại ngã, giữa quí tộc và bình dân. Xã hội phong kiến tuy phân chia giai cấp, trọng sự tôn ti, nhưng trách nhiệm về sự thịnh suy của quốc gia thì ai cũng như ai, đức hạnh của kẻ trên người dưới đều cần cho quốc gia ngang nhau cả; và có thể nói bình dân mà có đức hạnh thì còn đáng |
trọng hơn, có ích cho nước hơn hạng quí tộc thiếu đức. Dù sang hèn, ai cũng phải tu thân hết, có bất bình đẳng về địa vị, nhưng về tư cách, về đạo lí thì bình đẳng hết; chưa có bình đẳng về pháp luật thì có bình đẳng về đạo đức. Công đó của Khổng tử rất lớn: ông đã cải thiện chế độ phong kiến, lí tưởng hóa nó. Câu: “Trung dung chi vi đức dã, kì chí hĩ hồ! Dân tiển cửu hĩ” trong bài VI.27 mà tôi đã có lần dẫn, sau được Tử Tư quảng diễn mà viết thành cuốn Trung Dung một tác phẩm thâm thúy, độc đáo của triết học Trung Hoa; còn bài II.21, cũng được Tăng tử quảng diễn để viết cuốn Đại học, mà đoạn đầu như sau: “Đời xưa muốn làm sáng đức trong thiên hạ thì trước hết phải trị nước mình; muốn trị nước mình thì trước hết phải tề nhà mình; muốn tề nhà mình thì trước hết phải sửa thân mình; muốn sửa thân mình thì trước hết phải chính cái tâm của mình; muốn chính cái tâm của mình thì trước hết phải làm cho tinh thành cái ý của mình; muốn làm cho tinh thành cái ý của mình thì trước hết phải có tri thức xác đáng. Tri thức xác đáng ở chỗ xét kỹ mọi vật.” “Mọi vật đã xét kỹ thì sau tri thức mới xác đáng; tri thức đã xác đáng thì sau cái ý mới chân thành; cái ý đã chân thành thì sau cái tâm mới chính; cái tâm đã chính thì sau cái thân mới được sửa; cái thân đã sửa thì sau nhà mới tề; nhà đã tề thì sau nước mới trị; nước đã trị thì sau thiên hạ mới bình. Từ thiên tử |
cho tới thứ nhân đều phải lấy sự sửa mình làm gốc, gốc loạn mà ngọn trị là điều chưa hề có; cái gốc mình đáng hậu mà lại bạc, cái ngọn mình đáng bạc mà lại hậu là điều chưa hề có”. Đoạn đó rất ngắn mà thật khúc chiết, hàm súc, sâu sắc hiếm thấy trong lịch sử triết học nhân loại, quan trọng ngang thuyết “bát chính đạo” của Phật giáo nếu không hơn, vì bát chính đạo chỉ để giải thoát cá nhân, chứ không xét sự liên quan giữa cá nhân và quốc gia, thiên hạ. Không chắc tất cả những ý trong đoạn đó là của Khổng tử, nếu chúng ta chỉ căn cứ vào bộ Luận ngữ, Tăng Tử chắc đã suy luận thêm rồi sắp đặt thành hệ thống, nhưng ý trong những câu: “Thân tu nhi hậu gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hậu thiên hạ bình” và “tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” nhất định là của Khổng tử. Quan niệm thiên tử và thứ nhân đều phải tu thân, bình đẳng với nhau về đạo đức đó đã ảnh hưởng đến Tử Tư và Mạnh tử sau này. Khi Lỗ Mục công hỏi một ông vua có ngàn cỗ xe mà muốn làm bạn với kẻ sĩ thì phải làm sao, Tử Tư đáp, giọng rất khó chịu: “Người xưa có nói: Nên thờ bậc hiền sĩ như thầy chứ đâu có nói nên làm bạn với kẻ sĩ”. Còn Mạnh tử thì nói: “Thiên hạ đều tôn trọng ba cái này: tước vị, tuổi tác và đạo đức. Tại triều đình, tước vị được quí nhất; ở làng xóm người tuổi tác được trọng nhất; còn xét về |
việc giúp đời, giáo hóa dân thì đạo đức được kính nể hơn hết”. (Công Tôn Sửu – hạ – bài 2). Như vậy thì khắp thế giới, không đâu có bọn áo vải nào được tôn trọng như kẻ sĩ ở Trung Hoa, là điều dễ hiểu. Đó là một vinh dự cho dân tộc Trung Hoa và là công của Khổng tử. PHẢI HỌC Muốn xứng đáng là người trị dân thì phải tu thân, mà muốn tu thân thì phải học. Hồi Tử Lộ làm gia thần họ Quí, tiến cử Tử Cao (có lẽ cũng là môn sinh của Khổng tử, bạn của Tử Lộ), làm quan tể cai trị đất Phí, Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta” (Vì Tử Cao học chưa được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: Làm chức tể thì có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ, (đó là học) hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học? Khổng tử mắng: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu” (mồm mép, cưỡng lý để tự biện hộ). Cai trị một ấp còn phải học, huống hồ là cai trị một nước. Không thể nói cứ vừa làm vừa học cũng đủ; phải học trước đã rồi mới vừa làm vừa học thêm được. Chúng ta lại nên nhớ chữ học của Khổng tử có nghĩa là học đạo học cách cư xử, cách làm người trước hết, rồi mới tới văn, tới những kiến thức cần thiết: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiến ái chúng nhi thân nhân; hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn”. (Con em ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhượng bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp |
mọi người mà gần gũi người nhân đức; làm được như vậy rồi mà còn dư sức thì sẽ học văn (tức thi, thư, lễ, nhạc, dịch…) (I.6). Có học mới biết phán đoán, khỏi sai lầm, khỏi bị “che lấp”. Bài XVII.8, ông bảo Trọng Do (Tử Lộ): “… Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị che lấp là tổn hại; ham đức ngay thẳng mà không ham học thì bị che lấp là gắt gao, mất lòng người; ham dũng mà không ham học thì bị sự che lấp là cuồng bạo”. Vua cũng chỉ là một người như dân thường, nên phải có đủ những đức làm người như dân thường; ngoài ra lại có những đức của một người trị dân để giáo hóa dân, cảm hóa dân (quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển), cho nên sự tu thân của vua phải nghiêm cẩn hơn sự tu thân của dân thường. Bài XX.2, Tử Trương hỏi phải thế nào thì gánh vác được việc nước. Khổng tử đáp: “Phải trọng năm điều tốt, trừ bốn điều xấu”. Năm điều tốt là: “Ban ân huệ cho dân mà không hao tốn; khiến dân làm việc khó nhọc mà dân không oán; có lòng muốn mà không tham; thư thái mà không kiêu căng; uy nghiêm mà không dữ tợn”… Bốn điều xấu là: “Không giáo hóa dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược, không cắt đặt, răn bảo trước mà muốn có thành tích, như vậy là hung bạo; khi ra lệnh thì không bảo là cấp bách rồi đột nhiên bắt dân phải làm xong trong một |
kì hạn gấp, như vậy là hại dân; khi cho dân cái gì mà so đo, bủn xỉn với dân, như vậy là có thói nhỏ nhen của một viên chức thấp”. Đó là những điều thường thức về phép trị dân, không học không thể biết được; nếu muốn vừa làm vừa học, tự rút kinh nghiệm, thì đã mất nhiều thì giờ, chịu nhiều thất bại rồi mới khôn được, và dân chúng phải gánh hết hậu quả. Không thể coi dân như vật để thí nghiệm được. NHỮNG ĐỨC CẦN CÓ Nhưng quan trọng hơn nữa là những đức: chính, kính, tín, lễ, nhân. Về đức chính, (chính đính, ngay thẳng) tôi đã xét ở trên rồi, khi dẫn bài XII.17: chính giả, chính dã. Đức kính (cung kính) rất cần thiết cho khí tượng ông vua. Trong các môn sinh, Khổng tử khen Nhiễm Ung có thể làm vua được, nghĩa là có khí tượng vua vì Nhiễm Ung nghiêm trang mà ung dung. Một lần, Nhiễm Ung hỏi ông: Tử Tang Bá tử là người ra sao. Ông đáp: “Cũng khá, giản dị”. Nhiễm Ung góp ý: “Tự mình thì cung kính mà giản dị trong việc trị dân (cư kính, hành giản), chẳng là tốt ư? Nếu tự mình thì giản dị, mà giản dị cả trong việc trị dân, chẳng phải là giản dị thái quá sao?” Khổng tử khen: “Anh nói phải đó”. Bốn chữ “cư kính hành giản” trong bài đó tóm tắt tư cách ông vua và chính sách trị dân của Khổng tử. Nếu chi thiếu đức kính thôi, mà vẫn biết yêu dân, lo cho dân thì cũng không sao, chỉ thiếu cái uy nghi của ông vua thôi. Trái lại, thiếu đức tín (giữ lời với dân để cho dân tin mình) thì không chính quyền nào đứng vững được. |
Bài XII.7. Tử Cống hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền. Tử Cống hỏi thêm: Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước? Bỏ binh bị. Tử Cống lại hỏi: Trong hai điều còn lại, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một điều nữa, thì điều nào trước? Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ (dân vô tín bất lập). Bài II.22, Khổng tử lại nói: “Người mà không có đức thì không hiểu sao thành người được. Cũng như xe không có đòn “nghe” (đòn ngang để buộc trâu), xe nhỏ không có đòn “ngột” (đòn cong để buộc ngựa), làm sao mà đi được?” Ông giảng về tín nhiều cũng gần bằng giảng về lễ. Theo bài VII.24, ông dạy học trò bốn môn (điều) thì trong đó có hai là hành và tín. Muốn tín thì phải thành thực, cho nên ông ghét hạng “xảo ngôn lệnh sắc”, cho họ là không có lòng nhân (I.3), làm loạn đức (XV.26). Muốn cho người khác tin mình thì phải thận trọng lời nói, lời nói phải hợp với hành động: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà làm không được” (IV.22). Cho nên người quân tử “chậm chạm về lời nói mà mau mắn về việc làm” (IV.24), “thẹn rằng nói nhiều mà làm ít” (XIV.27); tốt nhất là “làm trước điều mình muốn nói rồi hãy nói sau” (II.13) Hai đức tín và hành, ông thường cho đi kèm nhau, như trong bài dưới đây: Tử Trương hỏi làm cách nào để đi đâu cũng lọt. Khổng tử |
đáp: “Lời nói trung thực đáng tin, hành vi phải thân thiết, kính cẩn, như vậy dù đi đến nước Man, nước Mạch (các nước lạc hậu ở phương Nam, phương Bắc), cũng trót lọt. Lời nói không trung thực đáng tin, hành vi không thân thiết, kính cẩn thì ở trong làng trong châu của mình cũng làm sao trót lọt được? Khi đứng (anh) thấy cái ta mới nói đó như ở trước mặt, khi ngồi như thấy nó dựa trên ách xe, phải như vậy rồi mới được trót lọt” (XV.5). Trong số các môn sinh, tôi chỉ thấy ông khen Tử Cống có đức tín rất cao, hứa điều gì thì làm ngay, cho nên cảm hóa được mọi người, không ai nói dối Tử Cống cả, hễ khai với Tử Cống điều gì thì tất đúng, nhờ vậy trong một việc kiện tụng, Tử Cống chỉ cần nghe lời trình bày của một bên là đủ biết ai phải ai trái, không cần hỏi thêm bên kia nữa. Được người ta tin, và tin người như vậy quả thực là ít có. Tuy nhiên, Khổng tử cũng khuyên cứ theo chính nghĩa mà làm chứ không nhất thiết giữ mọi điều tín nhỏ nhặt, mà hoá ra cố chấp, có hại cho nghĩa. Có thể vì nghĩ vậy nên ông đã thề với người đất Bồ sẽ không qua Vệ, mà rồi ông cũng vẫn qua Vệ, như Tư Mã Thiên chép trong Sử ký Tư Mã Thiên. Trang trọng và trung tín là hai đức quan trọng của người quân tử (I.8) tức hạng người trị dân mà có tư cách. Sau cùng hai đức mà Khổng tử nhắc đến nhiều nhất là đức nhân và đức lễ. Nhà cầm quyền (vua, quan) phải trọng lễ hơn ai hết. Trong cuốn Tuân tử (chung với Giản Chi – chưa xuất bản) chúng tôi đã viết: |
“Thoạt kì thủy”, “lễ” chỉ có nghĩa là cúng tế. Từ thượng cổ, người Trung Hoa – cũng như các giống người khác – đã cúng tế thần linh, đã làm các việc gọi là “lễ”. Nhưng chữ “lễ” trở thành thông dụng ở Trung Hoa thì hình như mới từ đời Tây Chu. Căn cứ vào kinh tịch cổ, nghi thức về lễ là do Chu công chế tác; mấy chữ lễ xuất hiện lần đầu trong thiên Lạc cáo (Kinh Thư) viết vào thời Chu công nhiếp chánh đều có nghĩa là cúng tế. Có điều, việc cúng tế ở thời này không còn tính chất thuần túy tôn giáo nữa. Chu công chế định lễ, mục đích là để duy trì trật tự giai cấp trong xã hội “tông pháp” của Tây Chu. Lễ từ đây mang nhiều ý nghĩa chính trị” (chương 7). Chẳng hạn khi Chu công chế định rằng chỉ thiên tử mới được dùng vũ “bát dật”, chư hầu chỉ được dùng vũ “lục dật”, đại phu chỉ được dùng vũ “tứ dật” – Coi mục chính danh ở trên ; hoặc khi ông chế định rằng chỉ vua Lỗ mới được làm tế “lũ” ở núi Thái Sơn (trên đất Lỗ), đại phu không được làm tế đó; thì sự qui định đó là qui định một trật tự xã hội, nó là một pháp điển. Việc qui định các tước công, hầu, bá, tử, nam, qui định số dặm đất họ được phong, số binh xa họ được có, cũng để phân biệt sự tôn ti trong thiên hạ, thuộc về pháp điển và cũng gọi là lễ, và kẻ nào không theo qui định đó là việt vị, là tiếm lễ, không biết lễ. Trong việc chôn cất cũng vậy, có những qui định nghiêm ngặt: thiên tử thì tang lễ phải ra sao, vua chư hầu ra sao, đại phu thì quan, quách dùng bao nhiêu, thường dân thì dày bao nhiêu… đó cũng là lễ nữa. |
Vậy tới đời Chu công, lễ đã có hai nghĩa: Nghĩa cũ là tế lễ, có tính cách tôn giáo. Nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu công chế định, có tính cách chính trị, để duy trì trật tự xã hội. Rồi lần lần ý nghĩa của lễ mở rộng ra, chỉ cả phong tục, tập quán; Và sau cùng, qua đời Đông Chu nhất là từ Khổng tử, nó có một nội dung mới, nội dung luân lí, chỉ sự kỷ luật về tinh thần: người có lễ là người biết tự chủ, khắc kỉ. Khổng tử chủ trương tòng Chu, giữ pháp điển, lễ nhạc… của Chu công thì tất nhiên tất trọng lễ và buộc vua chúa phải trọng lễ; lễ để duy trì trật tự xã hội, có trật tự đó thì vua mới được tôn, nước mới được trị, nếu vua không trọng lễ thì còn bắt ai trọng nó được nữa? Thời Khổng trọng lễ cũng cần thiết như thời sau (từ Tần, Hán đến ngày nay) trọng pháp luật, hiến pháp có phần hơn nữa. Cho nên trong thiên X (Hương đảng) chúng ta thấy Khổng tử giữ lễ một cách rất nghiêm chỉnh. Khi vua lâm triều thì ông cung kính có vẻ như không yên tâm, mà không mất vẻ uy nghi (X.2) – Khi vô cửa lớn của triều đình, ông khom khom như cửa thấp quá, khi đi ngang qua ngai vua (dù là ngai trống) ông cũng biến sắc, chân bước run run, nói như chẳng ra lời; – Khi ông trách người đương thời là kiêu mạn, vô lễ, vì vào yết kiến vua thì lên đến trên thềm rồi mới bái, chứ không như hồi xưa, bái từ dưới thềm; thái độ của ông những khi đó làm cho chúng ta ngày nay |
thấy hơi chướng, như không tự nhiên, quá khúm núm, vì chúng ta sống sau ông tới hai ngàn rưỡi năm, lại không hiểu mục đích của ông là duy trì chế độ tôn ti của Chu công; ông cho như vậy mới là hợp lễ, chứ không phải ông sợ các vua chúa tới mức đó: ông đã làm đại phu, trong đời tiếp xúc với nhiều vua chư hầu, đối đáp với họ rất tự nhiên (xin coi lại những lần ông trả lời Vệ Linh công, Lỗ Ai công…); hơn nữa trong thâm tâm ông cũng khinh đa số vua chư hầu thời ông, thì ông đâu có sợ gì họ. Ông trọng là trọng cái ngôi của họ, như ngày nay chúng ta trọng bộ áo của ông tòa hoặc người cảnh sát vậy thôi, nghĩa là ông chỉ trọng cái lễ, cái điển pháp, chế độ phong kiến của Chu công; mà bất kì chính quyền nào dù quân chủ, dân chủ, xã hội…, dùng những hình thức “lễ” như vậy, bắt dân phải theo, chỉ khác mỗi thời, hình thức một thay đổi thôi? Mà sự tôn ti trong xã hội tới nay có dân tộc nào bỏ được đâu; có những quốc gia tự cho là bình đẳng nhất mà qui định những tiêu chuẩn cho từng lớp người trong xã hội còn chặt chẽ hơn thời Khổng tử nữa. Có nhớ điều đó, chúng ta mới hiểu tại sao ông vốn chủ trương tiết kiệm cho dân, mà chê lời đề nghị rất thực tế, có thể nói là hợp thời nữa của Tử Cống trong bài III.17. Đầu đời Chu có lệ vào thu hay đông mỗi năm, thiên tử ban lịch năm sau cho chư hầu, vua chư hầu cất vào tổ miếu rồi năm |
sau mới mở ra coi, và cứ ngày sóc (mùng một) mỗi tháng, giết một con cừu để cúng tổ tiên. Lễ đó là lễ Cáo sóc. Lễ xong rồi, vua mới về họp triều. Vua Lỗ đã bỏ lễ đó từ lâu, ngày sóc không những không cúng tổ tiên mà có khi cũng không họp triều nữa, mà người ta vẫn giết một con cừu để dâng ở tổ miếu. Tử Cống thấy như vậy vô ích, đề nghị bỏ hình thức đó đi. Khổng tử trách Tử Cống là tiếc con cừu. Ông không muốn bỏ đi vì tiếc cuộc lễ (III.17). Dù nó chỉ là hình thức thì ông cũng muốn duy trì để nhà cầm quyền đừng quên hẳn, mà đôi khi nhớ đến bổn phận của mình: trọng thiên tử nhà Chu, trọng tổ tiên và trọng cái bổn phận họp triều. Thâm ý của ông như vậy. Và như trên tôi đã nói, ông ghét những kẻ tiếm lễ vì họ phá hoại trật tự xã hội, bất chấp luật pháp, có thể gây loạn… Ông mắng Quí Thị dùng vũ “bát dật”, chê cả ba họ Mạnh, Thúc, Quí cho hát thơ Ung trong nhà họ khi dẹp đồ tế lễ, vì như vậy là tiếm lễ của thiên tử nhà Chu. Ông khen Quản Trọng là một tướng quốc giỏi, có công với dân tộc nhưng lại chê là vô lễ vì không biết giữ phận một đại phu mà cũng dùng “tắc môn” (bình phong che cửa), dùng “phản điếm” (cái kỉ để đặt chén) như vua Tề. Khổng tử trọng lễ, ngoài mục đích lập lại trật tự xã hội, mục đích trị dân: “Người trên trọng lễ thì dân dễ sai khiến” (Thượng hiếu lễ tắc dân dị sử – XIV.42), còn có mục đích giáo hóa dân nữa, để cho đức của dân thuần hậu (dân đức qui hậu), như |
Tăng tử nói trong bài I.9. Nhưng điểm này thuộc về luân lý, nên tôi dành lại cho một chương sau. Bây giờ xin xét đến đức Nhân cũng về phương diện chính trị thôi, sau sẽ xét thêm về luân lý. Nếu Khổng tử chỉ tòng Chu, tái lập chế độ phong kiến của Chu bằng thuyết chính danh khá mới mẻ, khá can đảm của ông, thì đúng như lời Tiêu Công Quyền nói trong cuốn Trung Quốc triết học tư tưởng sử, tập I. trang 58, (Trung Hoa văn hóa xuất bản – 1961), ông cũng chỉ là một lính “hậu vệ của phong kiến”, một “đảng viên trung trực của phe thủ cựu”, chứ làm sao có được tiếng khen là “hiền hơn Nghiêu Thuấn”. Ông sở dĩ được đời sau mang ơn là nhờ ông tuy thừa nhận chính quyền của vua đương thời nhưng rất bất mãn về hiện trạng, nên phát minh ra quan niệm “nhân” để mong cải tạo lại xã hội. Lương Khải Siêu bảo “Nho gia nói về đạo đức hay về chính trị, đều lấy “nhân” làm gốc”. Lời đó đúng. Đọan trên tôi nói Khổng tử rất trọng lễ, nhưng ông còn trọng nhân hơn nữa (trong Luận ngữ, không có đức nào được ông nhắc tới nhiều như đức nhân) vì ông cho lễ chỉ là ngọn, nhân mới là gốc, lễ là chính sách, nhân mới là tinh thần. Bài III.3, ông bảo: “Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì?” (Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?). Câu đó là một trong những câu quan trọng nhất trong Luận ngữ. Không có lòng nhân thì lễ chỉ là hình thức. Nhà cầm quyền không có đức nhân thì càng trọng lễ, càng thủ cựu, càng dễ hóa |
ra độc tài. Pháp điển mà không lập theo nhân tình thì dễ hóa ra tàn khốc. Lễ là để giữ sự tôn ti, phân biệt trên dưới, giai cấp; nhạc là để điều hóa, hòa hợp, phân biệt mà không hòa hợp thì là cách biệt. Nhân gồm chữ nhị là hai và chữ nhân là người, là tình người này đối với người khác. Không có tình người thì làm sao mà hòa hợp nhau được, người này người khác, giai cấp này giai cấp khác chỉ coi nhau như kẻ thù, người trên ức hiếp người dưới, người dưới chống đối người trên. Người Trung Hoa có từ ngữ “nội thánh ngoại vương” nghĩa là trong (thể) có cái đức của ông thánh, đem dùng (dụng) ra ngoài, tức giúp đời thì lập được sự nghiệp một bậc vương, một ông vua tốt, như vậy là thể dụng có đủ. Tôi cũng theo từ ngữ đó mà cho nhân là thể, lễ là dụng, và gọi là nội nhân ngoại lễ: trong phải có lòng nhân thì ngôn hành ở ngoài mới hợp lễ được. Theo Tiêu Công quyền, thì các sách cổ chép chính trị đời Chu trước Khổng tử, rất ít nói đến nhân nghĩa. Như phần Nhã, phần Tụng[240] trong Kinh Thi khen đức của các tiên vương, tuyệt nhiên không có chữ nhân. Sách Thượng Thư bản Kim văn, cũng không có chữ nhân; bản Cổ văn[241] chỉ thấy dăm ba chỗ dùng chữ đó. Còn các đời Hạ, Thương trở về trước, sách cổ thiếu, chỉ lưu lại truyền thuyết rằng các vua thời đó trọng chính sách khoan, giản (vừa khoan dung vừa giản dị), chứ không nói đến nhân. Vậy thì có thể Khổng tử đã đặt ra từ “nhân”, ý nghĩa rộng hơn từ “khoan”. Chúng ta chưa có chứng cứ gì để tin hẳn điều |
đó, nhưng dù sao thì cũng từ Khổng tử trở đi, chữ nhân mới từ trường học của ông mà được phổ biến, và “nhân” với “lễ” thành một hệ thống gồm đủ thể lẫn dụng. Theo Luận ngữ thì nhân có ý nghĩa rất phức tạp (tôi sẽ thử phân tích trong một chương sau), nhưng đứng về phương diện chính trị mà xét thì Khổng tử cho nhân là: Yêu người, (ái nhân) như trong bài XII.22 ông đáp Phàn Trì. Cái gì mình không muốn thì đùng làm cho người khác (kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Bài XII.2, ông đáp Trọng Cung. Và cái gì mình muốn thì làm cho người: “mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công”. Tóm lại là “biết từ bụng ta suy ra bụng người, đó là phương pháp thực hành của người nhân” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập thân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ – Lời đáp Tử Cống trong bài VI.28). Xét ba bài đó, ta thấy nhân, theo Khổng tử, chủ yếu là giúp người, giúp người hàm cái ý yêu người rồi (có yêu thì mới giúp), nếu chỉ yêu suông mà không giúp thì không gọi là nhân được. Đức nhân cần cho mọi người, nhưng người thường mà nhân thì chỉ giúp được một số ít người thôi, hạng vua chúa mà nhân thì giúp được cho cả nước, cả thiên hạ. Cho nên nhân phải là đức căn bản của vua, có vậy mới làm trọn sứ mạng trời giao phó cho họ. Khi Tử Trương đứng về phương diện trị dân, hỏi về đạo nhân, |
Khổng tử đáp: Làm được năm đức này trong thiên hạ thì gọi là nhân: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. “Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng người, thành tín thì được người ta tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người” (XVII.6) Chúng ta thấy trong năm đức đó, ông chú trọng đến đức yêu và giúp dân; khoan hậu là yêu dân, cần mẫn là giúp dân, từ huệ là thương dân, ban ơn cho dân. Các chính trị gia thời cổ được ông khen là nhân đều giúp ích nhiều cho dân. Không nói các vị thánh Nghiêu, Thuấn, Hạ Vũ, ngay đến Quản Trọng tổ của pháp gia, không có chủ trương đức trị như ông, mà cũng được ông hai lần khen là nhân, chỉ vì Quản có công với dân tộc Trung Hoa. Lần đầu, Tử Lộ chê Quản Trọng là bất nhân vì không chết theo chủ là công tử Củ, mà sau lại còn thờ người giết chủ mình, tức Tề Hoàn công nữa. Khổng tử bảo: “Hoàn công chín lần họp chư hầu mà không phải dùng võ lực uy hiếp họ, đó là nhờ tài sức của Quản Trọng. Nhân đức của ông ấy ở đó”. (XIV.16). Lần sau, Tử Cống cũng chê Quản Trọng như Tử Lộ đã chê. Khổng tử bảo: “Quản Trọng giúp Hoàn công, khiến Hoàn công làm bá các chư hầu, thiên hạ qui về một mối, nhân dân đến nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì ngày nay đã phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như người Di, Địch) rồi; ông ấy há như bọn thất phu thất phụ giữ đức tín tầm thường, tự treo cổ nơi ngòi rãnh mà chẳng ai biết tới ư?” (XIV.17). |
Khổng tử trong hai bài đó quả là một chính trị gia sáng suốt, khoáng đạt. Tuy ông tôn quân; khuyên người ta trung quân, nhưng vẫn coi sự giúp ích cho dân, cho nước, quan trọng hơn sự tử tiết một cách vô ích. Ông không nói ra, nhưng tôi đoán rằng ông cũng đã nghĩ như Mạnh tử sau này: dân vi quí, quân vi khinh. Một nhận xét nữa: ông khen Quản Trọng là nhân mặc dầu ông vẫn chê là không biết lễ (coi đoạn trên viết về lễ); vậy thì cơ hồ ông cho rằng có nhân thì dù không có lẽ cũng không đáng trách bằng có lễ mà không có nhân; đúng là ông trọng nhân hơn lễ, coi nhân là gốc, lễ là ngọn. Tóm lại, nếu chỉ dùng lễ thì chính sách sẽ là lễ trị, không khác pháp trị bao nhiêu; phải có “nhân” nữa thì mới thành đức trị, mà thuyết chính danh mới có cơ sở vững: thiếu đức nhân thì vua không xứng đáng là vua, không được dân coi là vua. Như vậy đức trị tức là nhân trị: trị dân bằng đức nhân, mà cũng gọi là nhân trị: trọng tư cách, tài đức của người trị dân hơn pháp điển, chế độ. Người trị dân tốt thì dù chế độ xấu, sẽ sửa đổi cho nó hóa tốt; còn chế độ tuy tốt mà người trị dân xấu thì kết quả cũng vẫn xấu. Như chúng ta nói ngày ngày nay: yếu tố người (facteur humain) quan trọng hơn cả[242] mặc dầu không thể bỏ được pháp chế, vì không một chế độ nào không xây dựng trên một pháp chế, dù pháp chế đó sơ sài tới đâu, dù nó không thành văn – chỉ là những tục lệ, bỏ nó thì cũng là thiếu những đức chính, tín lễ rồi không gọi là đức trị được. |
Có người cho rằng Khổng tử chủ trương đức trị là gây cơ sở cho chuyên chính, cho độc tài cá nhân. Tôi nghĩ ngược lại mới đúng: chính là để ngăn ngừa bọn độc tài tàn bạo như Kiệt, Trụ mà Khổng đề cao đức trị, đưa ra thuyết chính danh. Chúng ta chỉ có thể trách ông không cho ta biết gặp những ông vua không xứng với cái danh của họ thì ta làm cách nào để thay thế họ. Qui kết tự nhiên của thuyết chính danh, ở thời ông là làm cách mạng để lật đổ kẻ cầm quyền tàn bạo, mà ông lại không ưa cách mạng, cho nó là phản loạn (coi chương V ở trên); ông khen Bá Di, Thúc Tề là người nhân, vì đã chống việc diệt Trụ của Võ vương (V.22). Ông cũng thấy rằng chế độ truyền hiền như thời Nghiêu, Thuấn tốt hơn là chế độ truyền tử như thời Chu, hợp với thuyết chính danh hơn, cho nên ông thích nhạc Thiều hơn nhạc Võ, nhưng ông không dám đả động đến chế độ “tôn pháp” của Chu công, thành thử thuyết chính danh của ông có vẻ lưng chừng, không triệt để, chỉ là một lí thuết suông. Phải một thế kỷ sau, Mạnh tử mới sửa được một phần khuyết điểm đó, cho hạng “thiên lại”, tức hạng có đức, được “ thế thiên hành đạo”, diệt những ông vua bạo ngược như Kiệt, Trụ, nghĩa là cho họ quyền làm cách mạng bằng võ lực. Rồi lại phải đợi thêm 2.000 năm nữa, Tôn Văn đưa ra ngũ quyền hiến pháp thì vấn đề mới tạm giải quyết được, nhưng cũng chỉ là dựa trên lí thuyết thôi. Vì cho tới nay, nhân loại vẫn chưa có cách nào hữu hiệu để |
diệt nạn độc tài. Khi mà dân trí, dân đức còn kém, khi chưa có một truyền thống dân chủ khá lâu, khá vững thì pháp trị không ngăn nổi bọn độc tài, nhất là ở trong thời đại này, khoa học, kĩ thuật hành những khí giới kinh khủng trong tay kẻ cầm quyền. Biết bao bi kịch của nhân loại từ Tần Thủy Hoàng tới Hitler, Mussolini… đủ chứng cho ta điều ấy. Tới đây ta thấy Khổng tử chủ trương muốn cho xã hội khỏi loạn thì: Mọi người phải trọng pháp điển, có tôn ti, không ai được việt vị (lễ). Người trên phải chính đính, làm trọn nhiệm vụ, yêu dân (nhân), có đức tín thì mới chính danh, đáng cho dân trọng. CHƯƠNG 6. CHÍNH SÁCH TRỊ DÂN Trong chương trên tôi đã trình bày những điểm cốt yếu trong tư tưởng chính trị của Khổng tử, chương này tôi sẽ xét cách áp dụng những tư tưởng đó trong việc trị dân, tức chính sách trị dân của ông. Chính sách này gồm ba mục: 1/ dưỡng dân, 2/ giáo dân, và 3/ chính hình, để trị người và trị việc. DƯỠNG DÂN Bất kì chính thể nào, nhà cầm quyền nào cũng cho việc dưỡng dân là nhiệm vụ quan trọng nhất: nếu khéo nuôi dân thì nước trị mà nhà cầm quyền được dân quí, ngược lại thì nước loạn, dân sẽ bỏ đi nước khác, (thời Khổng tử, việc đó rất dễ dàng không sao ngăn cấm được, không khó khăn như ngày nay) hoặc sẽ nổi loạn, chính quyền sớm muộn gì cũng bị lật đổ. Khổng tử cho việc “bác thi tế chúng” (thi ân rộng rãi để cứu giúp dân chúng) là sự nghiệp của thánh vương; và nhà cầm quyền nào biết thi ân cho dân cũng đều được ông khen, như |
trong bài V.15, ông bảo: “Tử Sản có bốn điều hợp với đạo người quân tử: giữ mình thì khiêm cung, thờ vua thì kính cẩn, nuôi dân thì có ân huệ (kì dưỡng dân dã huệ), sai dân thì hợp nghĩa (hợp tính hợp lí)”. Bài XIV.9 ông nhắc lại: Tử Sản là người nhân từ, yêu dân ( huệ nhân). Ngược lại ông không nhận Nhiễm Cầu là học trò của mình nữa, vì Nhiễm Cầu thu thuế quá nặng, làm cho dân nghèo (XI.16). Nuôi dân thì phải: 1. Làm sao cho dân no đủ, giàu. Bài XII.7, ông bảo Tử Cống rằng phép trị dân phải làm cho dân “túc thực” đã rồi mới tới “túc binh”. Bài XIII.9, khi tới nước Vệ, ông khen là đông dân. Nhiễm Hữu đã hỏi dân đã đông rồi thì phải làm gì nữa. Ông đáp là phải làm cho dân giàu. Lại hỏi phải làm gì thêm nữa. Ông đáp là phải dạy dân. Vậy ông coi trọng việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc, hơn cả việc dạy dân nữa. Ông chỉ là một triết gia về chính trị đưa nguyên tắc, vạch đường lối thôi, chứ không phải là một nhà kinh tế, một chính trị gia thuần túy, cho nên không bảo phải dùng những biện pháp kinh tế nào như Mạnh tử bàn về phép tỉnh điền chẳng hạn với Đằng Văn công. (Coi cuốn Mạnh tử của Nguyễn Hiến Lê, Cảo Thơm – 1975 – chương VI). Và khi Phàn Trì muốn học làm ruộng ông đáp ông không bằng một lão nông (XIII.4). Ông sống sau Quản Trọng, biết công Quản Trọng làm cho Tề giàu mạnh nhờ một chính sách kinh tế khéo léo, khai thác tài nguyên của Tề, phát triển công, thương; nhưng ta không thấy ông khen Quản Trọng về điểm đó. |
2. Đánh thuế nhẹ dân, như trong bài XI.16 tôi đã dẫn ở trên. Hữu Nhước đã theo đúng chủ trương của ông trong bài XII.9. Lỗ Ai công hỏi Hữu Nhược: Năm nay mất mùa, thuế không đủ tiêu, làm sao bây giờ? Hữu Nhược đáp: Sao không thu thuế theo phép triệt (tức mười phần thu một)? Ai công bảo: Mười phần thu hai mà còn không đủ tiêu, huống hồ là thu theo phép triệt? Hữu Nhược đáp: Trăm họ no đủ thì làm sao vua thiếu được? Trăm họ thiếu thốn thì vua làm sao đủ được? Nghĩa là nhà vua phải “tiết dụng nhi ái nhân” (không lãng phí mà yêu dân – bài I.5), cái gì không có lợi cho dân thì đừng tiêu. 3. Khiến dân làm việc phải hợp thời (sử dân dĩ thời – I.5), trong khi dân rảnh việc nông. Bắt dân làm xâu là một cách thu thuế, có khi rất nặng, mà lại bất công vì thứ thuế đó chỉ đánh vào đầu dân đen, thời đó nước nào cũng áp dụng vì không có cách nào khác, hoặc vì dân dễ chấp nhận hơn là bắt họ góp tiền, góp lúa; mãi đến đời Tống, thế kỉ XI, Vương An Thạch mới đặt ra thứ tiền miễn dịch, người nào không làm xâu thì tùy giàu hay nghèo phải nộp một số tiền nhiều hay ít để nhà nước lấy tiền đó mướn người làm thay, như vậy thêm công ăn việc làm cho một số dân thất nghiệp, nhưng biện pháp của Vương bị phe thủ cựu phản đối, rồi cũng bãi bỏ. Cái tai hại nhất của chính sách bắt dân làm xâu là mỗi khi triều đình có việc gấp thì dù đương mùa cấy, mùa gặt, cũng bắt |
dân bỏ đó mà làm xâu cho triều đình. Cho nên Khổng tử cho “sử dân dĩ thời” là một bổn phận của người trị dân; mà sau này Mạnh tử cũng vậy, khi ông bảo: “Nếu không làm trái thời tiết của kẻ làm ruộng thì lúa thóc ăn chẳng hết” – (Bất vi nông thời, cốc bất khả thăng thực dã – Lương Huệ vương, thượng – bài 3); “Bất vi nông thời” của Mạnh tử tức là “sử dân dĩ thời” của Khổng. Chính sách của Khổng là ít can thiệp vào đời sống của dân (cư giản VI.1) và sai khiến dân thì phải làm sao cho dân không oán (lao nhi bất oán XX.2). 4. Sau cùng, quan trọng nhất là phân phối quân bình thì dân mới không bị bóc lột mà được no đủ. Khi Nhiễm Hữu bảo họ Quí, mà ông ta là gia thần, phải đánh nước phụ dung của Lỗ là Chuyên Du, ở gần ấp Phí của Quí Thị, để trừ hậu loạn về sau cho con cháu Quí Thị, Khổng tử mắng Nhiễm Hữu là viện lẽ để biện hộ cho chủ, rồi bảo: “Khâu dã văn hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh”. Nhiều học giả cho rằng hai chữ quả (là ít) và bần (là nghèo) trong câu trên phải đổi chỗ cho nhau:… bất hoạn bần nhi hoạn bất quân, bất hoạn quả nhi hoạn bất an; có vậy thì mới hợp với câu dưới: quân vô bần. Ý kiến đó đúng, và sửa như vậy rồi thì nghĩa như sau: “Khâu ngày nghe nói người có nước (tức vua), có nhà (tức các đại phu, chủ các ấp phong) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không quân bình, không lo ít dân mà lo xã tắc không yên. |
Phân phối quân bình thì dân không nghèo; hòa thuận (vì không có sự bóc lột, tranh giành, không có người giàu quá, kẻ nghèo quá) thì dân sẽ không ít (vì dân vui vẻ sống, nước trị thì dân ở các nước khác qui tụ lại), như vậy xã tắc sẽ yên ổn, chính quyền không nghiêng đổ”. Chúng ta nên hiểu chữ “quân” (quân bình) của Khổng trong đoạn đó. Trần Bình ở đời Hán thưở còn hàn vi mỗi khi làng tế, ông ta phải cắt thịt chia phần, một công việc thời đó cho là hèn, ở nước ta, ngoài Bắc, trước năm 1945, còn giao cho các người “mõ”. Ông ta chia phần thịt rất khéo, rất quân bình, nghĩa là chức sắc lớn thì được miếng ngon, miếng lớn, dân thường không có vai vế thì được miếng nhỏ, không ai phàn nàn cả, các phụ lão đều khen ngợi. Trần Bình nói: “Than ôi, Bình này mà được trị thiên hạ, thì cũng khéo như chia thịt đó”. Sau, ông ta được trị thiên hạ thật, làm đến tể tướng. Sau này ra sao không biết, chứ hiện nay khắp thế giới, đâu đâu cũng chỉ mong đạt được sự phân phối quân bình như vậy thôi: Người có trách nhiệm lớn, người có tài năng cao, người siêng năng thì được hưởng nhiều; kẻ có trách nhiệm nhỏ, tài năng thấp hoặc làm biếng thì được hưởng ít; nhiều ít ra sao còn tùy theo tiêu chuẩn trong mỗi xã hội, tùy thời, tùy tổng lượng sản xuất nữa, có nơi ông giám đốc lương gấp năm gấp mười một thợ lành nghề, một thư kí, có nơi chỉ bằng hai bằng ba…; nhưng ai cũng có phần cả, không ai phải đối rét, như vậy là quân bình, đúng hơn là công bình. |
Hiểu như vậy thì tư tưởng của Khổng tử không có gì là cách mạng, chỉ là nhân đạo, thực tế, rất nhiều lương thức (bon sens) và ba chữ “quân vô bần” (tức bất hoạn bần nhi hoạn bất quân) quả là bất hủ, làm châm ngôn cho tất cả các nhà trị dân trong hai ngàn rưỡi năm nay. Quang Phong và Lâm Duật Thời trong một cuốn bàn về Khổng tử (nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1963) cho rằng trong bài đó Khổng tử chỉ chống sự Quí Thị đánh Chuyên Du, tức chống sự thôn tính nói chung thôi, chứ không có tư tưởng xã hội: sự quân bình đó là sự quân bình phân phong theo chế độ Chu, không tranh đoạt nhau thôi. Đành rằng Khổng chống sự thôn tính; muốn duy trì sự phân phong của Chu; nhưng ông cũng có tư tưởng “xã hội”, nghĩa là trọng sự công bình trong xã hội, rất ghét sự “tụ liễm”, làm giàu thêm cho kẻ giàu, như chúng ta đã thấy trong bài XI.16. Một chứng cứ nữa. Bài VI.3, Khổng tử làm đại phu ở Lỗ. Nhiễm Hữu và Tử Hoa đều là học trò ông và đều làm quan ở Lỗ. Khi Tử Hoa đi sứ nước Tề, Nhiễm Hữu xin cấp lúa cho mẹ Tử Hoa. Ông bảo: “Cấp cho một “phũ” (khoảng sáu đấu). Nhiễm Hữu xin thêm. Ông bảo: “Cho một “dữu” (16 đấu). Nhiễm Hữu không nghe, cấp cho một bỉnh” (160 đấu). Khổng tử bảo: “Anh Xích (Tử Hoa) đi sang Tề, cưỡi ngựa mập, mặc áo cừu nhẹ (ý nói: giàu sang). Ta nghe nói: “Người quân tử chu cấp cho kẻ nghèo chớ không làm giàu thêm cho người giàu (quân tử chu cấp bất kế phu – VI.3). |
Nhưng Nguyên Tư, một môn sinh khác, vốn nghèo và thanh liêm, làm gia thần cho ông, ông cứ chiếu theo lệ của nhà nước mà phát lương cho chín trăm (đấu?), Nguyên Tư cho rằng nhiều quá, từ chối. Ông bảo: “Đừng! Nếu thấy dư thì sao không đem cấp cho những người nghèo trong làng xóm, làng giềng?” (cũng bài trên). Cách xử sự của ông thật nhân ái, công bằng, hợp tình, hợp lí: không làm giàu thêm cho kẻ đã giàu rồi, có dư thì giúp người nghèo, nhưng trả lương thì cứ theo phép nước, tùy theo đẳng cấp. Sau, Tăng tử diễn lại đúng ý đó của Khổng tử trong câu: “Tài liễm tắc dân tán, tài tán tắc dân tụ” (sách Đại học). GIÁO DÂN Trong số các triết gia thời Tiên Tần, không nhà nào trọng sự giáo hóa dân bằng Khổng tử, và chính ông cũng đã bỏ gần hết đời vào việc đó. Mặc tử cũng chủ trương phải dạy dân đấy, nhưng trong các thiên Thượng đồng, đại khái ông chỉ bảo mọi người dân đều phải học những điều thiên tử cho là thiện (nhất là đạo kiêm ái: yêu mọi người như chính mình làm lợi lẫn cho nhau) để cái gì thiên tử khen thì dân cũng khen, cái gì thiên tử chê thì dân cũng chê, mà có sự đồng nhất từ trên xuống dưới, nhờ vậy nước mới trị. Mặc tử lại không nhận công dụng giáo hóa của lễ nhạc, thật là thiếu sót. Pháp gia thấp hơn một bậc nữa, chỉ dạy dân biết pháp luật thôi để đừng có những hành động trái phép nước, mà chỉ các viên lại mới được dạy dân, các tư học đều bị cấm ngặt, do đó mới có nạn “phần thư khanh nho” đời Tần Thủy Hoàng. |
Còn Lão tử thì “tuyệt thánh khí trí”, cho sự giáo dục chỉ làm cho dân sinh ra tinh khôn, ham muốn nhiều, hại rất lớn; cứ mặc cho dân ăn no, rồi vỗ bụng đi chơi, sống một cách tự nhiên, thì nước lại trị, dân lại sướng hơn cả. Duy có Khổng tử là cho nhiệm vụ dạy dân quan trọng ngang với nhiệm vụ nuôi dân. Vì hai lẽ: Dạy dân là một cách yêu dân: mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công (kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân – VI.28) – như vậy là thành nhân chi mĩ, một niềm vui lớn của người có đức nhân. Dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị (thướng hiếu lễ tắc dân dị sử dã – XIV.42), công việc chính hình sẽ nhẹ đi nhiều; nếu kết quả của sự giáo hóa cực tốt thì nhà cầm quyền chẳng phải làm gì mà nước cũng trị (vô vi nhi trị). Như tôi đã nói ông tin rằng đại đa số dân chúng có thể cải hóa được, vì “tính tượng cận, tập tương viễn” (XVII.2); nhưng ông cũng chỉ lạc quan vừa phải thôi, vì ông cũng nhận rằng có một số “hạ ngu” không thay đổi, vì họ không chịu học, không chịu sửa tính (XVII.3). Tư chất cũng có nhiều hạng, hạng từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí cao xa cho được, từ bực trung trở xuống, không thể giảng đạo lí cao xa cho được (VI.19). Thời nào cũng vậy, hạng trung nhân trở xuống đông hơn cả, mà thời ông hạng đó không được học cho nên ông nhận thấy rằng nhiều khi chỉ có thể khiến họ làm theo mình mà không thể |
giảng cho họ hiểu được tại sao (VIII.9); ông mở trường dạy cho mọi hạng người, là có ý mở mang dân trí để dân lần lần hiểu được cái lẽ tại sao đó, và khi nào hiểu được, họ càng dễ theo đường chính. Bảo rằng câu “dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” là chủ trương “ngu dân” thì không gì oan cho ông hơn, chẳng hiểu gì về đời sống cùng tư tưởng của ông cả. Chủ trương ngu dân, chính là bọn pháp gia như Lí Tư, Hàn Phi kia. Nhà cầm quyền có hai cách để giáo hóa dân. Cách tốt nhất là làm gương cho dân. Điển này tôi đã trình bày ở chương trên (mục Đức trị), chỉ xin nhắc lại ít câu đáng làm châm ngôn của ông: Chính giả, chính dã. (XII.17) Bất năng chính kì thân, như chính nhân hà (XIII.13). Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển. (XII.19). Kì thân chính, bất lệnh nhi hành (XIII.6). Sửa mình để sửa người, để trị dân, theo Khổng tử là việc có kết quả mau nhất, bền nhất, nên làm trước hết. Cho nên Tăng tử bảo “người trị dân mà thận trọng trong tang lễ cha mẹ, truy niệm và tế tự tổ tiên thì đức của dân sẽ thuần hậu. (I.9). Một cách nữa là dạy dỗ. Trước hết phải dạy cho con em ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường bậc lớn tuổi, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức, làm được như vậy rồi mà còn dư sức thì sẽ học văn. (I.6). Hiếu, đễ, trung (hết lòng với mọi người, chứ không phải chỉ |
riêng với vua) tín, nhân, nghĩa, đó là những điều ông nhắc đi nhắc lại hoài trong khi dạy học, những điều mà theo ông, ai cũng phải học, và hành; rồi còn dư thì giờ, dư sức thì mới học những cái khác tức lục nghệ. Hạng người thông minh, có dư sức, ông đào tạo thêm cho thành kẻ sĩ, (tức như kĩ thuật gia ngày nay) để giúp nước; hạng tư cách cao hơn nữa, ông sẽ đào tạo cho thành những quân tử, tức những nhà trị dân đủ tài, đủ đức. Trong cuốn Nhà giáo họ Khổng tôi đã xét cách dạy học của ông; trong chương sau, tôi sẽ giới thiệu những đức chính cần cho kẻ sĩ và bậc quân tử; dưới đây tôi chỉ xin nói thêm về một phương pháp vừa để giáo hóa, vừa để trị dân mà Khổng tử cho là rất công hiệu, tức phương pháp dùng lễ, nhạc. Khi bàn về đức trị, trang 111, tôi đã kể bốn nghĩa của lễ: tế lễ, pháp điển phong kiến, phong tục với tập quán và kỉ luật tinh thần. Có lẽ dạy các môn sinh tư cách cao, ông mới giảng cho những tế lễ quan trọng của triều đình và pháp điển của chế độ phong kiến; còn dạy cho hạng dưới ông chỉ cốt cho họ biết phong tục, tập quán, tức phép cư xử và luyện cho họ có kỉ luật tinh thần. Ở đây tôi chỉ xét lễ về phương diện kỉ luật tinh thần, cần cho sự tu thân. Lễ có hai công dụng: tích cực và tiêu cực. Tích cực là phát dương, hàm dưỡng tính tình cho đôn hậu. Ai cũng nhận thấy tâm trạng ra sao thì cử chỉ, ngôn ngữ, hành động như vậy. Chẳng hạn tâm trạng buồn thì cử chỉ uể oải, ngôn ngữ chán nản, hành động tiêu cực, dễ chấp nhận sự thất |
bại mà buông xuôi. Nhưng ngược lại cử chỉ, ngôn ngữ, hành động cũng thay đổi được tâm trạng: đương buồn bực, thất vọng mà cứ gắng làm bộ vui vẻ, mỉm cười, hăng hái, nhanh nhẹn, thì chỉ một lát ta sẽ hết buồn mà bắt đầu tin tưởng, nuôi hi vọng được. Các nghi thức trong các việc cúng giỗ tổ tiên, cưới hỏi, mà chay, để tang… mà ngày nay chúng ta cho là phiền phức, chính là có mục đích phát dương những tình cảm đôn hậu của ta. Cho nên Khổng tử rất thành kính trong việc tế lễ. Bài III.12, ông bảo: “Tế tổ tiên như tổ tiên ở trước mặt” (Tế như tại), và khi nào vì lẽ gì ông không đích thân đứng tế được mà mượn người thay thì tuy có tế đấy, ông vẫn ân hận như chưa tế. Ông mắng thậm tệ Tể Ngã, gọi là đứa bất nhân, vì không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm, mà muốn rút thời gian để tang xuống một năm (XVII.21). Ngày nay chúng ta bỏ nhiều nghi thức thời xưa, nhưng chúng ta cũng đặt ra thêm nhiều nghi thức mới (chẳng hạn lễ chào cờ), chung qui vẫn là không bỏ lễ được, chỉ thay đổi đối tượng, mục đích hoặc hình thức thôi. Nếu tình cảm phát ra mạnh quá, thì ta lại phải dùng lễ để tiết chế lại cho nó hợp với “trung”. Bài VIII.2 Khổng tử bảo: “Cung kính mà không biết lễ thì khó nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì loạn động, ngay thẳng mà không biết lễ thì gắt gao, mất lòng người”. Hai chữ “biết lễ” trong bài đó có nghĩa là biết tiết chế sao cho thích hợp, vừa phải. Đây là mặt tiêu cực của lễ. |
Dù tích cực hay tiêu cực, lễ cũng có mục đích tập cho ta “khắc kỉ” để tu thân. Dân tộc nào trọng lễ thì cũng trọng sự khắc kỉ, và hễ khắc kỉ thì tinh thần hi sinh cao mà nước dễ hùng cường, như dân tộc Nhật trước thế chiến vừa rồi. Vì lễ rất cần thiết cho sự tu thân, nên Khổng tử bảo “vô học lễ vô dĩ lập” – (không học lễ thì không biết lập thân) – hoặc không biết cách cư xử – XV.13. Bài VIII.8, ông lại bảo học lễ để lập chí (lập ư lễ). Theo ông, người quân tử học rộng về văn (thi, thư) rồi thì phải ước thúc bằng lễ, như vậy mới không trái với đạo lí (VI.25). Nhạc cũng có công dụng hàm dưỡng tính tình, mà còn có thêm công dụng để “hòa”. “Hòa” ở đây có hai nghĩa: Hòa hợp các giai cấp, người sang kẻ hèn, người lớn kẻ nhỏ. Nếu chỉ dùng lễ thôi thì sẽ quá cách biệt, mà dân không đoàn kết, không vui. Điều hòa tình cảm, vui mà không quá đến lưu đãng, buồn mà không thương tổn, nghĩa là vui buồn đều vừa phải (lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương – III.20). Muốn vậy nhạc phải “thiện và mĩ” như nhạc Thiều, hoặc ít nhất cũng như nhạc Võ, chứ không thể là thứ nhạc phóng đãng của nước Trịnh được. Lễ và nhạc cải hóa được dân cho nên Tử Du, một môn sinh của Khổng tử, khi làm quan tể đất Võ Thành, dùng lễ nhạc để dạy dân, ông nhận là phải. (XVII.4). Tuy nhiên, lễ nhạc cốt ở tinh thần chứ không ở hình thức mà thời đó ông nhận thấy người cầm quyền không hiểu điều ấy, nên phàn nàn: |
“Nói về lễ, về lễ, đâu phải chỉ có ngọc và lụa. Nói về nhạc, về nhạc, đâu phải chỉ có chuông và trống”. (XVII.11). Rồi nhắc nhở họ rằng: “Lễ mà quá xa xỉ thì kiệm ước còn hơn; tang mà quá chú trọng nghi tiết thì thương xót còn hơn”. ( Lễ dữ kì xa dã ninh kiệm, tang dữ kì dị dã ninh thích – III.4). Nếu người ta nghe ông thì Mặc tử khỏi phải viết những thiên Tiết táng và Phi nhạc, mà đạo Khổng cũng khỏi bị Mặc mắng oan là làm cho nước suy nhược. Mặc tử cũng như đại đa số những người chỉ trích đạo Khổng từ xưa tới nay thực ra chỉ là chỉ trích những kẻ áp dụng sai đạo Khổng, chứ không phải chỉ trích học thuyết của Khổng. Tinh thần của lễ, nhạc ở cả trong đức nhân. Phải có lòng nhân, phải yêu người, trọng người, rồi sau mới thêm lễ và nhạc, cũng như phải có sẵn nền trắng rồi sau mới vẽ một hình thức đẹp lên được (hội sự hậu tố – bài III.8). Thiếu lòng nhân, thì lễ, nhạc chỉ là giả dối, lễ mà làm gì, nhạc mà làm gì? (III.3), càng khéo nói, càng niềm nở (xảo ngôn lệnh sắc) càng khả ố; mà nhạc càng “mĩ”, càng hay, lôi cuốn bao nhiêu, nếu không “thiện” (tốt lành) thì chỉ gây thêm sự chia rẽ, căm thù, hoặc dâm loạn. Nhưng chúng ta nên nhớ “lễ”, ngược lại cũng giúp cho đức nhân, vì như trên chúng tôi đã nói, cử chỉ, ngôn ngữ tác động ngược lại tới tâm lí. Chưa có đức nhân mà muốn có đức nhân thì ta cứ khắc kỉ (chế thắng tư dục), rán có những cử chỉ ngôn ngữ, hành vi thân ái với người khác thì rôi ta cũng sẽ có được |
đức nhân. Đó là ý nghĩa câu “khắc kỉ phục lễ vi nhân” trong bài XII.1. CHÍNH HÌNH Danh từ chính hình rút ở trong bài II.3. Chính là chính lệch, hình là hình pháp. Chính hình chỉ tất cả điển chương pháp lệnh do các vua đầu tiên đời Chu đặt ra để trị dân. Khổng tử chủ trương đức trị, cho nên không thích dùng chính hình. Bài II.3, ông bảo: “Dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội, nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà theo đường chính”. Bài XII.13, ông lại nói: “Xử kiện thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao (dạy dân biết nghĩa vụ, nhường nhịn) cho dân khỏi kiện nhau thì mới hơn chứ?” (tất dã, sử vô tụng hồ?) Nhưng ông đã bảo có hạng người hạ ngu, không giáo hóa không được, cho nên bất đắc dĩ phải dùng chính hình, không thể bỏ pháp lệnh, thưởng phạt được. Thưởng phạt khéo dùng thì có thể giúp cho sự giáo hóa và giữ cho nước được trị. Vậy pháp trị bổ túc cho nhân trị. Cần lễ giáo nhưng cũng cần cả chính hình. Đời Chu, hình phạt rất nghiêm khác. Theo Etiemble (sách đã dẫn – tr.22), có tới 200 tội bị xử tử, 300 tội bị thiến, 500 tội bị chặt chân, cả ngàn tội bị cắt mũi. Khổng tử muốn sửa cái thói đa sát đó, cho nên khi Quí Khang tử muốn giết kẻ vô đạo để cho người khác thành hữu đạo, ông bảo trị dân cần gì phải dùng biện pháp giết người, người trên muốn thiện thì dân sẽ |
hóa thiện. (XII.19). Tuy nhiên, vì muốn giữ chế độ phong kiến, tôn quyền, muốn mọi quyền phải thuộc về vua, (XVI.2), nên Khổng tử rất ghét kẻ thí quân, phản loạn, tiếm lễ như trên tôi đã nói: ông cương quyết đòi phá ba thành của ba họ Mạnh, Quí, Thúc, và xin Lỗ Ai công xuất binh hỏi tội Trần Hằng, một đại phu của Tề đã giết vua là Giản công, khiến chúng ta ngờ rằng hành động của ông mâu thuẫn với lí thuyết: ông hiếu sát, ghét vũ lực. (VII.20). Vậy mà khi Phất Nhiễu, một kẻ phản loạn khác ở Sở, Bật Hật mời ông, ông cũng muốn đi. Con người ông thật khó hiểu, có lẽ vì ông chủ trương “vô khả, vô bất khả?” Ông khác xa Mạnh tử. VÕ BỊ Như tôi đã có dịp nói, ông không thích chiến tranh, cho nên trọng nhạc Thiều hơn nhạc Võ, cho đức của vua Thuấn cao hơn của Võ vương, vì Võ vương phải dùng đến võ lực diệt một bạo chúa rồi mới được làm vua thiên hạ. Và khi Vệ Linh công hỏi ông về chiến trận, ông tự cho là bị xúc phạm, đáp: “Việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng được nghe, còn về việc quân lữ thì tôi chưa học”, rồi hôm sau ông bỏ nước Vệ qua nước Trần. Tuy nhiên ông cũng nhận rằng võ bị không thể thiếu được, cho nên trong bài XII.7, ông bảo Tử Cống rằng phép trị dân thì phải lo lương thực cho đủ, binh bị cho đủ (túc thực, túc binh). Có điều đáng để ý là ông cho rằng phải dạy dỗ dân rồi mới bắt dân đánh giặc, nếu không tức là bỏ dân (XIII.30); và theo ông, một nhà cầm quyền tốt phải dạy dân bảy năm rồi mới có |
thể dùng dân vào việc chiến đấu được (XIII.29). Dạy dân tới bảy năm rồi mới đưa ra trận, tôi chưa thấy một chính trị gia nào chủ trương như vậy, và khắp cổ kim cũng không có nhà cầm quyền nào theo chính sách đó. Chắc Khổng tử nghĩ rằng chẳng những phải dạy dân về chiến thuật, canh nông (thời đó nước nào cũng ngụ binh ư nông: thời bình, dân vừa học về quân sự, vừa cày ruộng để tự túc) mà còn phải giáo hóa về đạo đức: biết yêu người thân, biết hi sinh cho người trên… rồi họ mới hăng hái chiến đấu chăng? Nhưng nếu vậy thì bất kì thanh niên nào cũng phải dạy trong bảy năm, giáo dục bị cưỡng bách trong bảy năm? Ở thời ông, khó tưởng tượng được điều đó. NGOẠI GIAO Thời Tây Chu, dân tộc Trung Hoa sống cách biệt hẳn với thế giới, và khu vực của họ chỉ gồm lưu vực sông Hoàng Hà và sông Hoài chưa tới bờ sông Dương Tử, phía Đông là biển, còn ba phía kia có những dân tộc còn bán khai mà họ gọi chung là Di, Địch; còn chính họ thì tự xưng là Hạ hay Hoa Hạ, có nghĩa là dân tộc lớn, văn minh. Chúng ta thấy sự phân biệt đó trong bài III.5: “Di Địch dù có vua cũng không bằng Hoa Hạ không có vua (vì Hoa Hạ có lễ nghi)”. Hoa Hạ theo chế độ phong kiến, chế độ này có thể coi là một tổ chức quốc tế khá tinh vi. Trong thế giới đó, Chu làm chủ, làm thiên tử, còn các nước khác đều là chư hầu tự trị có đất đai riêng, chính quyền riêng, võ bị riêng. Theo nguyên tắc, chư hầu phải tuân điển chế, chính lệnh của Chu. Tề và Sở chẳng hạn nếu có chuyện xích mích với nhau về một vấn đề gì như vấn đề |
biên giới, vấn đề chứa chấp kẻ phản loạn… thì không được tự tiện giải quyết lấy với nhau bằng võ lực, mà phải để cho thiên tử nhà Chu xử: hoặc hòa giải hai bên, hoặc trừng phạt kẻ có lỗi bằng quân đội của Chu hợp lực với quân đội của một vài chư hầu khác. (Quân đội hỗn hợp đó có khác gì quân đội mũ xanh của Liên hiệp quốc ngày nay?). Chu còn có bổn phận giúp các nước bị ức hiếp, cứu các nước bị mất mùa mà đó, có thể dẹp loạn cho các chư hầu, nối lại một giòng vua, nghĩa là tìm trong tông thất một người xứng đáng đặt lên ngôi (nếu vua trước không có người nối dõi) để giữ xã tắc và trông nom việc tế tự tổ tiên. Cứ vài năm, theo đúng kì hạn, thiên tử phải đi tuần thú xem chính sách trị dân của các chư hầu có tốt không, dân có ta thán không… Chư hầu cũng đúng kì hạn phải lại chầu thiên tử, dâng đồ cống, báo cáo tình hình nước mình, nhận chỉ thị của thiên tử. Mỗi lần vua trước chết, vua sau lên thay, đều phải được thiên tử chấp nhận. Sự giao thiệp giữa các chư hầu với nhau đều theo những minh ước cả (như trong cuộc hội họp giữa Lỗ và Tề ở Giáp Cốc mà Khổng tử đã dự). Một tổ chức như vậy có phần nhân đạo nếu không hữu hiệu hơn Liên hiệp quốc ngày nay. Nó khác Liên hiệp quốc là các nước chư hầu mới đều do Chu phong cho, cấp đất, định số quân đội (tức chiến xa) cho cả[243]. Muốn cho tổ chức đó vững thì cần: nước Chu phải mạnh, được các chư hầu đều kính nể, và các chư hầu phải giữ chữ tín |
với nhau. Sở dĩ Khổng tử đề cao đức tín chính vì xã hội phong kiến cần có đức đó mới vững được Tôi đã dẫn bài XII.7, II.22 và I.8 để độc giả thấy Khổng tử trọng đức đó ra sao về phương diện chính trị. Đối với dân tộc Di, Địch, Khổng tử không có tinh thần phân biệt chủng tộc, mà chỉ phân biệt về văn hóa như khi ông bảo không nhờ công của Quản Trọng thì người Hoa Hạ đã phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như người Di, Địch rồi). (XIV.17). Không phân biệt về chủng tộc có lẽ vì người Di, Địch cũng “da vàng, tóc đen” như người Hoa Hạ, và tuy ở khác nơi, nhưng tâm lí cũng như người Hoa Hạ, cũng trọng đức trung tín, kính cẩn như trong bài XV.5 đã dân ở trên, và trong bài XIII.19 dưới đây: Phàn Trì hỏi về đức nhân. Ông đáp: “Khi nhàn cư phải khiêm cung, khi làm việc phải nghiêm trang, cẩn thận, giao thiệp với ai phải trung thực. Dù tới nước Di, Địch cũng không thể bỏ ba điều ấy”. (XIII.19). Trong bài XV.5 ông cũng khuyên Tử Trương như vậy, dù đi tới nước Man, nước Mạch. Một lẽ nữa là ông tin có thể cải hóa được các dân tộc lạc hậu, cho nên khi ông chán ngán, muốn qua ở với “cửu di”, có người bảo: “các nơi đó bỉ lậu, làm sao ở được?” ông đáp: “Người quân tử lại ở, (giáo hóa họ) thì còn gì bỉ lậu nữa” (IX.13). Vả lại chính nhà Chu trước kia cũng chỉ là một rợ ở phương Tây, văn hóa kém nhà Ân, mà Chu Văn vương chỉ là một tây bá, cầm đầu các rợ phương Tây; còn Ngô, Việt đầu đời Chu chỉ |
là những rợ ở đông nam, mà một khi đã theo văn hóa Hoa Hạ, cũng được Chu coi là những chư hầu ngang với Vệ, Trần, Thái… Có thể nói tâm lí không phân biệt chủng tộc đó là tâm lí chung của người Trung Hoa thời xưa; họ coi các Di, Địch như đàn em (tứ hải giai huynh đệ) mà mong cải hóa được, cũng như chúng ta ngày nay đối đãi với các đồng bào thiểu số. Trong bài XVI.1, Khổng tử bảo Nhiễm Cầu “Nếu người ta không phục mình thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi thì làm sao cho họ được yên ổn”. Chúng ta đã biết (thiên Hương đảng) ông tiếp khách nước ngoài lễ độ ra sao (X.2), và khi đi sứ nước ngoài, ông vừa cung kính vừa ôn hòa ra sao (X.5); chúng ta cũng nên biết thêm ông khen nước Trịnh rất thận trọng về từ lệnh ngoại giao: cho một viên quan khởi thảo, một viên thứ nhì luận thêm, góp ý kiến, rồi viên coi việc đi sứ sửa chữa, sau cùng đích thân tướng quốc Tử Sản nhuận sắc lại (XIV.8). Chính ông cũng đào tạo được vài nhà ngoại giao như Công Tây Xích, Tử Cống… Nhưng nếu lời Tư Mã Thiên chép mà đúng thì ông cũng nghiêm khắc cương quyết lắm khi giữ thể thống của quốc gia: trong cuộc hội nghị giữa Tề và Lỗ ở Giáp Cốc, ông buộc vua Tề phải ra lệnh chặt chân tay bọn con hát của Tề vì họ đã hát những khúc thô tục, có ý để làm nhục Lỗ. Tóm lại, chính sách ngoại giao của Khổng tử có thể tóm tắt trong mấy điều này: thủ tín, nhã nhặn như trọng quốc thể, làm |
cho người nghe phục mình về văn đức mà qui phục (XIII.16) và giáo hóa các dân tộc lạc hậu. DÙNG NGƯỜI Theo truyền thuyết, Nghiêu và Thuấn truyền hiền không truyền tử (truyền ngôi cho người hiền, không truyền ngôi cho con). Thời đó dân tộc Trung Hoa còn ở giai đoạn bộ lạc. Qua đời Hạ, xã hội nông nghiệp bắt đầu thành hình, tư sản được trọng, ngôi vua không truyền hiền nữa mà truyền tử, và ông Khải, con vua Vũ là ông vua đầu tiên được ngôi theo cách truyền tử. Qua đời Thương, ngôi vua truyền cho em, hết đời em mới truyền lại cho con (tức chú truyền cho cháu). Đời Chu mới bỏ hẳn lệ đó, ngôi vua truyền cho con, mà con giòng lớn thôi, con chết trước thì truyền cho cháu cũng giòng lớn (đích tôn). Chế độ đó gọi là “tôn pháp”; tôi đã giảng ở Chương I. Chẳng những vậy, bao nhiêu chức lớn ở triều đình cũng do họ hàng nhà vua nắm cả: họ là bọn “cha anh” của vua. Non sông, xã tắc thành tư sản riêng của một nhà. Như vậy gọi là “thân thân” (thân ái với người thân, người trong nhà, trong họ). Cho nên, Chu công (em Võ vương) dặn con là Bá Cầm, khi phong Bá Cầm là Lỗ công, tức làm vua chư hầu ở Lỗ: “Đừng bỏ người thân, không để cho đại thần (cũng là người thân nữa, hoặc hầu hết là người thân) oán vì không được trọng dụng” (XVIII.10) Tuy nhiên thời nào cũng vậy, nếu trong tôn thất không có đủ người giỏi thì cũng phải dùng một số người ngoài có tài đức trong giới bình dân, mà Trung Hoa gọi là người hiền. Tuy thân thân nhưng cũng phải trọng hiền. Chính Chu Văn vương đã dùng Khương Tử Nha (Lữ Vọng) một dân thường ở bờ sông Vị, |
và sau Khương Tử Nha giúp Võ vương diệt trụ, lập được công lớn, và được phong làm vua chư hầu ở Tề. Đời sau có Tần Mục công (thế kỉ thứ II tr. CN), cũng nhờ dùng Bách Lí Hề, một người có thời phải làm nghề chăn ngựa, phong làm đại phu mà tổ chức lại nền chính trị của Tần, thành một nước cường thịnh, là “bá” chư hầu một thời Ông vua đáng khen nhất về việc dùng hiền tài, là Tề Hoàn công. Các đại thần của ông như Quản Trọng, Bão Thúc, Ninh Thích… đều ở trong giới bình dân; ông đặc biệt tin và quí Quản Trọng, coi Quản như cha chú, và Quản cũng khéo xử, không làm cho hai họ cao quí nhất trong triều (bọn cha anh của nhà vua) là họ Quốc và họ Cao ghen tị. Có thể nói, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, nước nào mạnh lên, phần lớn cũng nhờ công của bọn “hiền thần” xuất thân trong giới bình dân, hoặc tân địa chủ đó. Hạng quí tộc cũng có người giỏi như Tử Sản nước Trịnh nhưng hiếm. Vậy tinh thần tôn hiền đó đã có trước Khổng tử từ lâu. Nhưng ông có công đào tạo hạng bình dân có tài đức, đề cử họ (môn sinh ông có người làm tới đại phu) và đưa sự truyền hiền lên thành một chính sách. Khi Trọng Cung (học trò ông) làm một quan “tể” cho họ Quí hỏi ông về phép trị dân, ông đáp: Phải đích thân thống suốt các viên hữu ti (dưới quyền mình), tha lỗi nhỏ cho họ, đề bạt những người hiền tài (cử hiền tài). Trọng Cung lại hỏi làm sao biết được người hiền tài mà đề |
bạt. Ông đáp: Cứ hãy đề bạt những người anh biết, còn những người anh không biết thì người khác có lẽ nào lại bỏ mà không giới thiệu. (XIII.2). Bài XII.22, Phàn Trì hỏi về đức trí, ông đáp: Trí (sáng suốt) là biết người. Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến cho người cong queo hóa ra chính trực. Bài XI.1, có người hiểu là Khổng tử thích dùng những người “tiên tiến” về lễ nhạc, tức hạng học lễ nhạc rồi mới ra làm quan (hạng bình dân), hơn là những người “hậu tiến”, tức hạng người làm quan rồi mới học lễ nhạc (hạng quí tộc). Đó chỉ là một thuyết, tuy có lí nhưng chưa hẳn đã đúng. Điều chắc chắn là người nào có tài đức thì cha mẹ hèn hạ, dù làm việc ác nữa, ông cũng vẫn mến và dùng, như Trọng Cung (VI.4) và trong bài XIV.18, ông khen Công thúc Văn tử đã tiến cử một đại thần của mình (trong giới bình dân) tên là Soạn làm đại phu tại triều đình, ngang hàng với mình. Vậy là ông không có chút thành kiến về giai cấp, lí lịch của ai cả, mà còn bênh vực giai cấp bình dân, cho họ bình đẳng với giai cấp quí tộc về phương diện tài đức để xóa bỏ lần lần sự bất bình đẳng về huyết thống. Đời sau người ta cấm con nhà ca xướng không được đi thi là trái với tinh thần của ông. Sau, Mặc tử còn tiến xa hơn ông trong thiên Thượng hiền – trung, kịch liệt đả kích thói không dùng người hiền mà dùng kẻ thân thích, cố cựu, kẻ giàu sang (quí tộc), mặt mũi tốt đẹp, để |
trị nước. “Cho họ trị nước tức là sai bọn ngu dốt trị nước, như vậy nước sẽ loạn là điều có thể biết chắc được rồi”. Rồi bọn Pháp gia mới thực là tấn công vào thành trì bọn quí tộc. Ngô Khởi khi làm tướng quốc nước Sở, muốn tước quyền thế của bọn họ, khuyên vua ra lệnh cứ ba đời thì thu tước lộc lại, không cho cháu chắt bọn quí tộc hưởng nữa. Cương quyết hơn chỉ phong chức cho người có chiến công. Quí tộc mà không chiến ông thì cũng bị hạ xuống thường dân. Có thể nói cả thời Chiến Quốc là lịch sử sự tranh giành địa vị giữa quí tộc và giai cấp tân địa chủ và sau nhiều hi sinh (Thương Ưởng bị xé thây) giai cấp sau đã thắng. Thời Xuân thu giai cấp quí tộc còn mạnh quá mà Khổng tử cũng là một thành phần trong giai cấp đó, nên còn giữ thái độ ôn hòa, không dứt khoát khuyên nên “thân thân” hơn hay “tôn hiền” hơn. Đọc bài VIII.2: “Người quân tử (tức nhà cầm quyên) giữ trọn đạo với người thân thì dân phát khởi lòng nhân ái” ta chỉ thấy ông khuyên người cầm quyền phải tu thân để làm gương cho dân, mà đạo tu thân phải lấy hiếu đễ làm gốc vì hiếu đễ là bước đầu của nhân; chứ chưa thể kết luận rằng ông chủ trương vua chúa phải thân thân, nghĩa là giao trọng trách cho người thân hơn là cho người hiền. Có thể ông theo Chu công trong bài XVIII.10 tôi đã dẫn ở trên, nhưng bài này không nói rõ là lời của Khổng tử. Vậy ta hãy tạm tồn nghi. Qua đời Tử Tư sinh sau ông khoảng 60 năm và trước Mặc tử |
Subsets and Splits