grade,chapter,lesson,context 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tình hình thế giới. Một trật tự thế giới mới được hình thành với đặc trưng lớn là thế giới chia thành hai phe - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Các nước trên thế giới dần dần bị phân hoá theo đặc trưng đó. Liên hợp quốc ra đời như một công cụ duy trì trật tự thế giới mới vừa được hình thành. 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, Hồng quân Liên Xô đang tiến nhanh về Béclin. Nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các cường quốc Đổng minh. Đó là: 1 — Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít; 2 — Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh; 3 — Phân chia thành quả chiên thắng giữa các nước thắng trận. Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta (Liên Xô), từ ngày 4 đển ngày 11 — 2 — 1945, với sự tham dự của ba vị nguyên thủ là Chủ tịch Hội đổng Bộ trưởng Liên Xô I. Xtalin, Tổng thống Mĩ Ph. Rudơven và Thủ tướng Anh U. Sớcsin - đại diện ba cường quốc trụ cột trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít. Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng: - Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, từ 2 đến 3 tháng sau khi đánh bại nước Đức phát xít, Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản ở Châu Á. - Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới. - Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu và Châu Á." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, Hồng quân Liên Xô đang tiến nhanh về Béclin. Nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các cường quốc Đổng minh. Đó là: 1 — Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít; 2 — Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh; 3 — Phân chia thành quả chiên thắng giữa các nước thắng trận. Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta (Liên Xô), từ ngày 4 đển ngày 11 — 2 — 1945, với sự tham dự của ba vị nguyên thủ là Chủ tịch Hội đổng Bộ trưởng Liên Xô I. Xtalin, Tổng thống Mĩ Ph. Rudơven và Thủ tướng Anh U. Sớcsin - đại diện ba cường quốc trụ cột trong cuộc chiên tranh chống chủ nghĩa phát xít.  Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng: - Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, từ 2 đến 3 tháng sau khi đánh bại nước Đức phát xít, Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản ở Châu Á. - Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới. - Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu và Châu Á." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Ở Châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông Berlin và các nước Đông Âu; quân đội Mỹ, Anh và Pháp chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây Berlin và các nước Tây Âu. Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Hai nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập. Ở Châu Á, Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để tham chiến chống Nhật Bản: 1- Giữ nguyên trạng Mông Cổ; 2- Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo Sakhalin và các đảo xung quanh, quốc tế hoá thương cảng Đại Liên (Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận làm căn cứ hải quân. Liên Xô cùng Trung Quốc khai thác đường sắt Nam Mãn Châu - Đại Liên, Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Kuril. Quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật Bản; ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Trung Quốc cần trở thành một quốc gia thống nhất và dân chủ, quân đội nước ngoài (Mỹ, Liên Xô) rút khỏi Trung Quốc, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc cần cải tổ với sự tham gia của Đảng Cộng sản và các đảng phái dân chủ, trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Các vùng còn lại của Châu Á (Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước phương Tây. Theo thoả thuận của Hội nghị Potsdam (Đức, từ ngày 17 - 7 đến ngày 2 - 8 - 1945), việc giải giáp quân đội Nhật Bản ở Đông Dương được giao cho quân đội Anh vào phía Nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa Dân quốc vào phía Bắc. Toàn bộ những quyết định của Hội nghị Yalta cùng những thoả thuận sau đó của ba cường quốc đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới, thường được gọi là Trật tự hai cực Yalta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày 25-4 đến ngày 26 - 6 - 1945, một hội nghị quốc tế lớn họp tại Xan Phranxixcô (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước để thông qua bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24 - 10 - 1945, với sự phê chuẩn của Quốc hội các nước thành viên, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực(1). Là văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc, Hiến chương nêu rõ mục đích của tổ chức này là duy trì hoà bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành sự hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. Để thực hiện các mục đích đó, Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau: - Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc. - Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước. - Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào. - Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình. - Chung sống hoà bình và sự nhất trí giữa 5 nước lớn (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Hiến chương quy định bộ máy tổ chức của Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính: Đại hội đồng: gồm đại diện các nước thành viên, có quyền bình đẳng. Mỗi năm Đại hội đồng họp một kỳ để thảo luận các vấn đề hoặc công việc thuộc phạm vi Hiến chương quy định. Hội đồng Bảo an: cơ quan giữ vai trò trọng yếu trong việc duy trì hòa bình, an ninh thế giới. Hiện nay, Hội đồng Bảo an gồm 15 nước - 5 nước thường trực không phải bầu lại và 10 nước không thường trực với nhiệm kỳ 2 năm. Mọi quyết định của Hội đồng Bảo an phải đạt được 9/15 phiếu, trong đó có sự nhất trí của 5 nước ủy viên thường trực là Liên Xô (nay là Liên bang Nga), Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc mới được thông qua và có giá trị. Hội đồng Kinh tế và Xã hội: cơ quan lớn gồm 54 thành viên với nhiệm kỳ 3 năm, có nhiệm vụ nghiên cứu, báo cáo và xúc tiến việc hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo... nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc. Hội đồng Quản thác: cơ quan được Đại hội đồng ủy thác việc quản lý một số lãnh thổ nhằm tạo điều kiện để nhân dân các lãnh thổ đó tiến tới có đủ khả năng tự trị hoặc độc lập. Tòa án Quốc tế: cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc, có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp giữa các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán có 15 quốc tịch khác nhau, nhiệm kỳ 9 năm. Ban Thư ký: cơ quan hành chính - tổ chức của Liên hợp quốc, đứng đầu là Tổng Thư ký với nhiệm kỳ 5 năm. Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có nhiều tổ chức chuyên môn khác giúp việc, như Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (viết tắt theo tiếng Anh là UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)... Trụ sở của Liên hợp quốc đặt tại New York (Mỹ). Trong hơn nửa thế kỷ qua, Liên hợp quốc đã trở thành một diễn đàn quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Liên hợp quốc đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột ở nhiều khu vực, thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế, giúp đỡ các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo... Đến năm 2006, Liên hợp quốc có 192 quốc gia thành viên. Từ tháng 9 - 1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc. Ngày 16 - 10 - 2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an, nhiệm kỳ 2008 - 2009." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Ngay sau chiến tranh, thế giới đã diễn ra dồn dập nhiều sự kiên quan trọng với xu hướng hình thành hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Hai phe ngày càng đối lập nhau gay gắt. Tương lai của nước Đức trở thành vấn đề trung tâm trong nhiều cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ và Anh với những bất đồng sâu sắc. Tại Hội nghị Pốtxđam, ba cường quốc đã khẳng định: nước Đức phải trở thành một quốc gia thống nhất, hòa bình, dân chủ; tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít; thoả thuận việc phân chia các khu vực chiếm đóng và kiểm soát nước Đức sau chiến tranh: quân đội Liên Xô chiếm đóng vùng lãnh thổ phía Đông nước Đức, Anh chiếm vùng Tây Bắc, Mĩ chiếm vùng phía Nam, Pháp chiếm một phần lãnh thổ phía Tây. Nhưng tháng 12 - 1946, Mĩ và Anh đã tiến hành riêng rẽ việc hợp nhất hai khu vực chiếm đóng của mình nhằm chia cắt lâu dài nước Đức. Cuối cùng, tháng 9 - 1949, Mĩ - Anh - Pháp đã hợp nhất các vùng chiếm đóng và lập ra Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức (CHLB Đức. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, các lực lượng dân chủ ở Đông Đức đã thành lập Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Đức (CHDC Đứ vào tháng 10 - 1949. Như thế, trên lãnh thổ Đức đã xuất hiện hai nhà nước với hai chế độ chính trị và con đường phát triển khác nhau." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Trong thời gian 1944 - 1945, khi Hồng quân Liên Xô truy kích quân đội phát xít qua lãnh thổ các nước Đông Âu, nhân dân các nước này dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản đã nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân như Ba Lan, Rumani, Bungari, Hungari, Tiệp Khắc... Trong những năm 1945 - 1947, các nước Đông Âu đã tiến hành nhiều cải cách quan trọng như xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, cải cách ruộng đất, ban hành các quyền tự do dân chủ... Đồng thời, Liên Xô đã cùng các nước Đông Âu kí kết nhiều hiệp ước tay đôi về kinh tế như trao đổi buôn bán, viện trợ lương thực, thực phẩm. Qua sự hợp tác về chính trị, kinh tế, mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước Đông Âu ngày càng được củng cố, từng bước hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa. Như thế, chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước và trở thành một hệ thống thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Ở Tây Âu, hầu hết các nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Các nước này đều rất cần tiền vốn, thiết bị máy móc và hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm nhằm khôi phục nền kinh tế và giải quyết khó khăn trong đời sống nhân dân. Giữa lúc đó, Mĩ đề ra ""Kế hoạch phục hưng Châu Âu (còn gọi là ""Kế hoạch Mácsan"") nhằm viên trợ cho các nước Tây Âu khôi phục kinh tế, đồng thời tăng cường ảnh hưởng và sự khống chế của Mĩ đối với các nước này. Nhờ đó, nền kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi nhanh chóng. Tháng 1 - 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) được thành lập gồm Liên Xô và các nước Đông Âu. Như vậy, về mặt chính trị và kinh tế, ở Châu Âu đã hình thành hai khối nước đối lập nhau là Tây Âu tư bản chủ nghĩa và Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Cùng thời gian đó, tình hình Châu Á biến động phức tạp. Bán đảo Triều Tiên bị chia đôi theo vĩ tuyến 38 với sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở phía Bắc và quân đội Mĩ ở phía Nam. Tối cuối năm 1948, Nhà nước Đại Hàn Dân Quốc được thành lập ở phía Nam và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đời ở phía Bắc. Sau khi hợp tác chống Nhật Bản trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc nội chiến ở Trung Quốc lại bùng nổ giữa Đáng Cộng sản và Quốc dân đảng (1946 - 1949). Tháng 10 - 1949, Đảng Cộng sản giành được thắng lợi và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ở Đông Nam Á, ba quốc gia lần lượt tuyên bố độc lộp là Inđônêxia (8 - 1945), Việt Nam (9 - 1945) và Lào (10 - 1945) nhưng ngay sau đó lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân. Những sự kiện trên dân dân dân đến việc xuất hiện tình trạng phân cực thành hai phe ở Đông Á." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư sản, đã đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước phương Tây và trở thành một nước đế quốc duy nhất ở Châu Á. Đến giữa thế kỉ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tô-ku-ga-oa ở Nhật Bản, đứng đầu là Sôgun (Tướng quân), đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Đây là thời kì trong lòng xã hội phong kiến Nhật Bản chứa đựng nhiều mâu thuẫn ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Về kinh tế, nền nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nông dân rất nặng nề. Mức tô trung bình chiếm tới 50% số thu hoa lợi. Tình trạng mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Trong khi đó, ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng. Về xã hội, Chính phủ Sôgun vẫn duy trì chế độ đẳng cấp. Tầng lớp Đaimyô là những quý tộc phong kiến lớn, quản lí các vùng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh địa của họ. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc giới quý tộc hạng trung và nhỏ, không có ruộng đất, chỉ phục vụ các đaimyô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sông khó khăn, nhiều người rời khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công... dần dần tư sản hoá, trở thành lực lượng đấu tranh chống chế độ phong kiến lỗi thời. Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu có, song các nhà tư sản công thương lại không có quyền lực về chính trị. Nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến khống chế mà còn bị các nhà buôn và những người cho vay lãi bóc lột. Về chính trị, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến. Thiên hoàng có vị trí tối cao, nhưng quyền hành thực tế thuộc về Sôgun dòng họ Tô-ku-ga-oa ở phủ Chúa (Mạc phủ). Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải ""mở cửa"". Năm 1854, Mạc phủ buộc phải kí với Mĩ hiệp ước, theo đó, Nhật Bản mở 2 cửa biển Si-mô-đa và Ha-kô-đa-tê cho người Mĩ ra vào buôn bán. Các nước Anh, Pháp, Nga, Đức thấy vậy cũng đua nhau ép Nhật Bản kí những hiệp ước bất bình đẳng với những điều kiện nặng nề. Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để bị các nước đế quốc xâu xé hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương Tây." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Những hiệp ước bất bình đẳng mà Mạc phủ kí với nước ngoài làm cho các tầng lớp trong xã hội phản ứng mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh chống Sôgun phát triển mạnh vào những năm 60 của thế kỉ XIX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ. Tháng 1 - 1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng một nước phong kiến lạc hậu. Đó là cuộc Duy tân Minh Trị, được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - giáo dục... Về chính trị: Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, thành lập chính phủ mới, trong đó đại biểu của tầng lớp quý tộc tư sản hoá đóng vai trò quan trọng, thực hiện quyền bình đẳng giữa các công dân. Năm 1889, Hiến pháp mới được ban hành, chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Về kinh tế: Chính phủ đã thi hành các chính sách thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, cho phép mua bán ruộng đất, tăng cường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống... Về quân sự: quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây, chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh. Công nghiệp đóng tàu chiến được chú trọng phát triển, tiến hành sản xuất vũ khí, đạn dược và mời chuyên gia quân sự nước ngoài... Về giáo dục: Chính phủ thi hành chính sách giáo dục bắt buộc, chú trọng nội dung khoa học - kĩ thuật trong chương trình giảng dạy, cử những học sinh giỏi đi du học ở phương Tây..." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX, đặc biệt từ sau cuộc Chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895), chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng ở Nhật Bản. Công nghiệp (nhất là công nghiệp nặng), ngành đường sắt, ngoại thương, hàng hải có những chuyển biến quan trọng. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá kéo theo sự tập trung trong công nghiệp, thương nghiệp và ngân hàng. Nhiều công ti độc quyền xuất hiện như Mít-xưi, Mít-su-bi-si... Các công ti này làm chủ nhiều ngân hàng, hầm mỏ, xí nghiệp, đường sắt, tàu biển... và có khả năng chi phối, lũng đoạn cả kinh tế lẫn chính trị ở Nhật Bản. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Nhật Bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đã tạo sức mạnh kinh tế, quân sự và chính trị cho giới cầm quyền thi hành chính sách xâm lược và bành trướng. Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa gắn liền vổi các cuộc chiến tranh xâm lược: Chiến tranh Đài Loan (1874), Chiến tranh Trung - Nhật (1894 -1895) và chiến tranh đế quốc: Chiến tranh Nga - Nhật (1904 -1905). Thắng lợi trong các cuộc chiến tranh này đã đem đến cho Nhật Bản nhiều hiệp ước có lợi về đất đai và tài chính, thúc đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế. Mặc dù tiến lên chủ nghĩa tư bản, song Nhật Bản vẫn duy trì quyền sở hữu ruộng đất phong kiến. Tầng lớp quý tộc, đặc biệt là giới võ sĩ Samurai, vẫn có ưu thế chính trị rất lớn. Họ chủ trương xây dựng Nhật Bản bằng sức mạnh quân sự. Tình hình đó làm cho đế quốc Nhật có đặc điểm là chủ nghĩa đế quốc phong kiến quân phiệt." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân lao động. Công nhân Nhật Bản phải làm việc mỗi ngày từ 12 đến 14 giờ, trong những điều kiện rất tồi tệ mà tiền lương lại thấp hơn rất nhiều so với ở các nước Châu Âu và Mĩ. Sự bóc lột nặng nề của giới chủ đã dẫn tới nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương, cải thiện đời sống, đòi quyền tự do, dân chủ. Sự phát triển của phong trào công nhân là cơ sở cho việc thành lập các tổ chức nghiệp đoàn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Ở chặng đầu của quá trình hình thành loài người, có một loài vượn cổ, sống khoảng 6 triệu năm trước đây, đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả, củ, lá và cả động vật nhỏ. Xương hoá thạch của chúng được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á và cả ở Việt Nam. Trên đà tiến triển, vượn cổ chuyển biến thành Người tối cổ, bắt đầu từ khoảng 4 triệu năm trước đây. Di cốt Người tối cổ được tìm thấy ở Đông Phi, Gia-va (In-đô-nê-xi-a), Bắc Kinh (Trung Quốc) v.v... Ở Thanh Hoá (Việt Nam), tuy chưa tìm thấy di cốt nhưng lại phát hiện được công cụ bằng đá của Người tối cổ. Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân. Đôi tay được tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn. Cơ thể của họ đã có nhiều biến đổi: tuy trán còn thấp và bợt ra sau, u mày còn nổi cao, nhưng hộp sọ đã lớn hơn so với loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói trong não." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình nhưng Người tối cổ đã là người. Đây là hình thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là thời kì đầu tiên của lịch sử loài người. Từ chỗ sử dụng những mảnh đá có sẵn để làm công cụ, Người tối cổ đã biết lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm. Như thế, họ đã bắt đầu biết chế tác công cụ. Công cụ thô kệch này được gọi là đồ đá cũ (sơ kì). Với những chiếc rìu đá kiểu đó, người ta chặt cây làm gậy hoặc dùng trực tiếp làm vũ khí, tự vệ hay tấn công các con thú, để kiếm thức ăn. Từ chỗ giữ lửa, lấy trong tự nhiên năm này qua năm khác để sưởi ấm, đuổi dã thú, nướng chín thức ăn, con người đã biết ghè hai mảnh đá với nhau để lấy lửa. Đây là một phát minh lớn mà nhờ nó, con người có thể sử dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất, cải thiện căn bản đời sống của mình. Qua lao động, chế tạo công cụ và sử dụng công cụ, bàn tay con người khéo léo dần. Cơ thể cũng do đó biến đổi theo để có tư thế lao động thích hợp. Tiếng nói thuần thục hơn do nhu cầu trao đổi với nhau. Con người tự cải biến, hoàn thiện mình từng bước nhờ lao động." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Ở một số loài động vật đã hình thành một cách tự nhiên quan hệ hợp đoàn, có đôi, có đàn và con đầu đàn. Người tối cổ đã có quan hệ hợp quần xã hội: có người đứng đầu, có phân công lao động giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái. Họ sống trong hang động, mái đá hoặc cũng có thể dựng lều bằng cành cây, da thú, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau, gồm 5-7 gia đình. Mỗi gia đình có đôi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay góc hang. Bấy giờ chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những hợp quần xã hội đầu tiên này là bầy người nguyên thuỷ. Bầy người nguyên thuỷ vẫn còn sống trong tình trạng ""ăn lông ở lỗ"" một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh, triền miên hàng triệu năm. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Đến cuối thời đá cũ, khoảng 4 vạn năm trước đây, con người hoàn thành quá trình tự cải biến mình, đã loại bỏ hết dấu tích vượn trên người, trở thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại. Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể như người ngày nay: xương cốt nhỏ hơn Người tối cổ; bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay linh hoạt; hộp sọ và thể tích não phát triển, trán cao, mặt phẳng; cơ thể gọn và linh hoạt, tạo nên tư thế thích hợp với các hoạt động phức tạp của con người. Di cốt Người tinh khôn được tìm thấy ở khắp các châu lục. Đấy là bước nhảy vọt thứ hai, sau bước nhảy vọt từ Vượn cổ thành Người tối cổ. Cũng từ đấy, khi lớp lông mỏng trên người không còn nữa, ở Người hiện đại lại xuất hiện những màu da khác nhau, chia thành da vàng, đen và trắng. Đó là ba chủng tộc lớn. Sự khác nhau đó là kết quả của sự thích ứng lâu dài của con người với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau, chứ không phải sự khác nhau về trình độ hiểu biết. Trong việc chế tạo công cụ, Người tinh khôn đã biết ghè hai rìa của một mảnh đá, làm cho nó gọn và sắc cạnh hơn, dùng làm rìu, dao, nạo. Họ còn lấy xương cá, cành cây đem mài hoặc đẽo nhọn đầu để làm lao." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Từ đó, con người tiến tới biết chế tạo cung tên. Đây là một thành tựu lớn trong quá trình chế tạo công cụ và vũ khí. Với cung tên, con người mới săn bắn có hiệu quả và an toàn. Thức ăn của con người đã tăng lên đáng kể, nhất là thức ăn động vật, từ khi kĩ thuật thời đá cũ được hoàn thiện và đặc biệt là từ khi có cung tên. Người ta cũng có thể rời hang động ra dựng lều, định cư ở những địa điểm thuận tiện hơn. Cư trú nhà cửa phổ biến ở Người tinh khôn từ cuối thời đá cũ. Đến khoảng 1 vạn năm trước đây, loài người tiến vào thời đá mới. Điểm nổi bật của công cụ đá mới là người ta có thể ghè đẽo những mảnh đá thành hình dạng gọn và chính xác, thích hợp với từng công việc, với nhiều kiểu loại theo những yêu cầu khác nhau (dao, rìu, đục...), được mài nhẵn ở ria lưỡi hay toàn thân, được khoan lỗ hay có nấc để tra cán. Có thể nói rằng, công cụ thời đá cũ vẫn là những mảnh đá được ghè đẽo thô sơ, còn công cụ thời đá mới là những mảnh đá đã được con người ghè sắc và mài nhẵn thành hình công cụ. Cũng thời gian này, người ta biết đan lưới đánh cá bằng sợi vỏ cây và làm chì lưới bằng đất nung, biết làm đồ gốm để đựng và đun nấu (nồi, bát, vò...). " 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Các nhà khảo cổ coi thời đá mới là một cuộc cách mạng, khi con người từ săn bắn, lượm hái, đánh cá đã tiến tới biết trồng trọt và chăn nuôi. Việc lượm hái năm này qua năm khác đã đem lại kinh nghiệm trồng và thu hoạch theo thời vụ một số cây lương thực và thực phẩm như khoai, củ, bầu, bí, lúa... Đi săn, bắt được thú nhỏ, người ta giữ lại để nuôi và thuần dưỡng thành gia súc, trước tiên là chó rồi đến cừu, lợn (heo), bò v.v... Con người có óc sáng tạo, và ở thời đá mới này, họ bắt đầu biết khai thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình, chứ không chỉ thu lượm những cái có sẵn trong thiên nhiên. Người ta cũng bắt đầu làm sạch những tấm da thú để che thân cho ấm và cho ""có văn hoá"". Những chiếc cúc (khuy) và kim làm bằng xương tìm thấy trong các di chỉ văn hoá đã nói lên điều đó." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Ngoài ra, người ta đã biết dùng đồ trang sức, như vòng cổ bằng vỏ ốc và chuỗi hạt xương (bằng cách đem khoan lỗ rồi lấy dây xâu lại), vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai... bằng đá màu. Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy chiếc sáo bằng xương dùi lỗ, đàn đá và có lẽ còn có cả trống bịt da. Như thế, từng bước, con người không ngừng sáng tạo, kiếm được thức ăn nhiều hơn, sống tốt hơn và vui hơn. Tuy nhiên, quá trình đó rất dài (4-5 vạn năm), trong đó cuộc sống còn thấp kém và bấp bênh. Đời sống con người chỉ tiến bộ với tốc độ nhanh hơn và ổn định hơn từ thời đá mới, khoảng 1 vạn năm trước đây. Từ khi Người tinh khôn xuất hiện, thị tộc hình thành cũng là bước đầu tiên của tổ chức xã hội loài người." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Ngay sau chiến tranh, thế giới đã diễn ra dồn dập nhiều sự kiên quan trọng với xu hướng hình thành hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Hai phe ngày càng đối lập nhau gay gắt. Tương lai của nước Đức trở thành vấn đề trung tâm trong nhiều cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ và Anh với những bất đồng sâu sắc. Tại Hội nghị Pốtxđam, ba cường quốc đã khẳng định: nước Đức phải trở thành một quốc gia thống nhất, hoà bình, dân chủ; tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít; thoả thuận việc phân chia các khu vực chiếm đóng và kiểm soát nước Đức sau chiến tranh: quân đội Liên Xô chiếm đóng vùng lãnh thổ phía Đông nước Đức, Anh chiếm vùng Tây Bắc, Mĩ chiếm vùng phía Nam, Pháp chiếm một phần lãnh thổ phía Tây. Nhưng tháng 12 - 1946, Mĩ và Anh đã tiến hành riêng rẽ việc hợp nhất hai khu vực chiếm đóng của mình nhằm chia cắt lâu dài nước Đức. Cuối cùng, tháng 9 - 1949, Mĩ - Anh - Pháp đã hợp nhất các vùng chiếm đóng và lập ra Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức (CHLB Đức. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, các lực lượng dân chủ ở Đông Đức đã thành lập Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Đức (CHDC Đức vào tháng 10 - 1949. Như thế, trên lãnh thổ Đức đã xuất hiện hai nhà nước với hai chế độ chính trị và con đường phát triển khác nhau." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư sản, đã đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước phương tây và trở thành một nước đế quốc duy nhất ở Châu Á. Đến giữa thế kỉ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tô-ku-ga-oa ở Nhật Bản, đứng đầu là Sôgun (Tướng quân), đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yêu nghiêm trọng. Đấy là thời kì trong lòng xã hội phong kiến Nhật Bản chứa đựng nhiều mâu thuẫn ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Về kinh tế, nền nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nông dân rất nặng ne. Mức tô trung bình chiếm tới 50% sô' thu hoa lợi. Tình trạng mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Trong khi đó, ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhieu. Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng. Về xã hội, Chính phủ Sôgun vẫn duy trì chế độ đẳng cấp. Tầng lớp Đaimyô là những quý tộc phong kiến lớn, quản lí các vùng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh địa của họ. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc giới quý tộc hạng trung và nhỏ, không có ruộng đất, chỉ phục vụ các đaimyô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội vũ trang đề hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sông khó khăn, nhieu người rời khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công... dần dần tư sản hoá, trở thành lực lượng đấu tranh chông chế độ phong kiến lỗi thời. Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu có, song các nhà tư sản công thương lại không có quyền lực về chính trị. Nông dân là đôi tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến không chế mà còn bị các nhà buôn và những người cho vay lãi bóc lột. Về chính trị, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến. Thiên hoàng có vị trí tối cao, nhưng quyền hành thực tế thuộc về Sôgun dòng họ Tô-ku-ga-oa ở phủ Chúa (Mạc phủ). Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải ""mở cửa"". Năm 1854, Mạc phủ buộc phải kí với Mĩ hiệp ước, theo đó, Nhật Bản mở 2 cửa biển Si-mô-đa và Ha-kô-đa-tê cho người Mĩ ra vào buôn bản. Các nước Anh, Pháp, Nga, Đức thấy vậy cũng đua nhau ép Nhật Bản kí những hiệp ước bất bình đang với những điều kiện nặng nề. Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trê, bảo thủ đề bị các nước đế quốc xâu xé hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương tây." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư sản, đã đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước phương tây và trở thành một nước đế quốc duy nhất ở Châu Á. Đến giữa thế kỉ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tô-ku-ga-oa ở Nhật Bản, đứng đầu là Sôgun (Tướng quân), đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yêu nghiêm trọng. Đấy là thời kì trong lòng xã hội phong kiến Nhật Bản chứa đựng nhiều mâu thuẫn ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Về kinh tế, nền nông nghiệp vẫn dựa trên quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Địa chủ bóc lột nông dân rất nặng ne. Mức tô trung bình chiếm tới 50% sô' thu hoa lợi. Tình trạng mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra. Trong khi đó, ở các thành thị, hải cảng, kinh tế hàng hoá phát triển, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhieu. Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng. Về xã hội, Chính phủ Sôgun vẫn duy trì chế độ đẳng cấp. Tầng lớp Đaimyô là những quý tộc phong kiến lớn, quản lí các vùng lãnh địa trong nước, có quyền lực tuyệt đối trong lãnh địa của họ. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc giới quý tộc hạng trung và nhỏ, không có ruộng đất, chỉ phục vụ các đaimyô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội vũ trang đề hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sông khó khăn, nhieu người rời khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công... dần dần tư sản hoá, trở thành lực lượng đấu tranh chông chế độ phong kiến lỗi thời.  Tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu có, song các nhà tư sản công thương lại không có quyền lực về chính trị. Nông dân là đôi tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp phong kiến, còn thị dân thì không chỉ bị phong kiến không chế mà còn bị các nhà buôn và những người cho vay lãi bóc lột. Về chính trị, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản vẫn là một quốc gia phong kiến. Thiên hoàng có vị trí tối cao, nhưng quyền hành thực tế thuộc về Sôgun dòng họ Tô-ku-ga-oa ở phủ Chúa (Mạc phủ). Giữa lúc mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, chế độ Mạc phủ khủng hoảng nghiêm trọng thì các nước tư bản phương tây, trước tiên là Mĩ, dùng áp lực quân sự đòi Nhật Bản phải ""mở cửa"". Năm 1854, Mạc phủ buộc phải kí với Mĩ hiệp ước, theo đó, Nhật Bản mở 2 cửa biển Si-mô-đa và Ha-kô-đa-tê cho người Mĩ ra vào buôn bản. Các nước Anh, Pháp, Nga, Đức thấy vậy cũng đua nhau ép Nhật Bản kí những hiệp ước bất bình đang với những điều kiện nặng nề. Như vậy, đến giữa thế kỉ XIX, Nhật Bản đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đứng trước sự lựa chọn: hoặc tiếp tục duy trì chế độ phong kiến trì trê, bảo thủ đề bị các nước đế quốc xâu xé hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương tây." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân lao động. Công nhân Nhật Bản phải làm việc mỗi ngày từ 12 đến 14 giờ, trong những điều kiện rất tồi tệ mà tiền lương lai thấp hơn rất nhiều so với ở các nước Châu Âu và Mĩ. Sự bóc lột nặng nề của giới chủ đã dẫn tới nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương, cải thiện đời sống, đòi quyền tự do, dân chủ. Sự phát triển của phong trào công nhân là cơ sở cho việc thành lập các tổ chức nghiệp đoàn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 1: Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy,"Đến cuối thời đá cũ, khoảng 4 vạn năm trước đấy, con người hoàn thành quá trình tự cải biến mình, đã loại bỏ hết dấu tích vượn trên người, trở thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại. Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể như người ngày nay: xương cốt nhỏ hơn Người tối cổ; bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay linh hoạt; hộp sọ và thể tích não phát triển, trán cao, mặt phẳng; cơ thể gọn và linh hoạt, tạo nên tư thế thích hợp với các hoạt động phức tạp của con người. Di cốt Người tinh khôn được tìm thấy ở khắp các Châu lực. Đấy là bước nhảy vọt thứ hai, sau bước nhảy vọt từ Vượn cổ thành Người tối cổ. Cũng từ đấy, khi lớp lông mỏng trên người không còn nữa, ở Người hiện đại lại xuất hiện những màu da khác nhau, chia thành da vàng, đen và trắng. Đó là ba chủng tộc lớn. Sự khác nhau đó là kết quả của sự thích ứng lâu dài của con người với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau, chứ không phải sự khác nhau về trình độ hiểu biết. Trong việc chế tạo công cụ, Người tinh khôn đã biết ghè hai rìa của một mảnh đá, làm cho nó gọn và sắc cạnh hơn, dùng làm rìu, dao, nạo. Họ còn lấy xương cá, cành cấy đem mài hoặc đẽo nhọn đầu đề làm lao." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày 25-4 đến ngày 26 - 6 - 1945, một hội nghị quốc tế lớn họp tại Xan Phranxixcô (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước đề thông qua bản Hiến chương và tuyến bốthành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày 24 - 10 - 1945, với sự phê chuẩn của Quốc hội các nước thành viên, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực(1). Là văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc, Hiến chương nêu rõ mục đích của tổ chức này là duy trì hoà bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành sự hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. đề thực hiện các mục đích đó, Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau: - Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc. - Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước. - Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào. - Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình. - Chung sống hoà bình và sự nhất trí giữa 5 nước lớn (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Hiên chương quy định bộ máy tổ chức của Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính: Đợi hôi đồng: gồm đại diện các nước thành viên, có quyền bình đẳng. Mỗi năm Đại hội đồng họp một kỉ đề tháo luân các vẫn đề hoặc công việc thuộc phạm vi Hiên chương quy định. HỘI đồng Bảo an: cơ quan giữ vai trò trọng yêu trong việc duy trỉ hoà bình, an ninh thế giới. Hiện nay, Hội đồng Báo an gồm 15 nước - 5 nước thường trục không phái bâu lại và 10 nước không thường trục với nhiệm kỉ 2 năm. Mọi quyết định của Hội đồng Báo an phái đạt được 9/15 phiếu trong đó có sự nhất trí của 5 nước Uỷ viên thường trục là Liên Xô (nay là Liên bang Ng, Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc(1) mới được thông qua và có giá trị. HỘI đồng Kinh tế và XỠ hộl: cơ quan lớn gồm 54 thành viên với nhiệm kỉ 3 năm, có nhiệm vụ nghiên cứu, báo cáo và xúc tiến việc hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, nhân đạo... nhằm cái thiện đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc. HỘI đồng Quản thác: cơ quan được Đại hội đồng uỷ thác việc quán lí một số lãnh thổ nhằm tạo điều kiện đề nhân dân các lãnh thổ đó tiến tới có đủ khá năng tự trị hoặc độc lập.  Toà án Quốc tế: cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc, có nhiệm vụ giải quyết các tranh Chấp giữa các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế. Toà án Quốc tế gồm 15 thâm pháncó 15 quốc tịch khác nhau, nhiệm kỉ 9 năm. Ban Thu kí: cơ quan hành chính - tổ chức của Liên hợp quốc, đứng đấu là Tổng thư kí với nhiệm kỉ 5 năm. Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có nhiều tổ chức chuyên môn khác giúp việc, như Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (viết tắt theo tiếng Anh là UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFP, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)... Trụ sở của Liên hợp quốc đặt tại Niu Oóc (Mĩ). Trong hơn nửa thế kỉ qua, Liên hợp quốc đã trở thành một diễn đàn quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới. Liên hợp quốc đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột ở nhiều khu vực, thức đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế, giúp đỡ các dân tộc về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, nhân đạo... Đến năm 2006, Liên hợp quốc có 192 quốc gia thành viên. Từ tháng 9 - 1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc. Ngày 16 - 10 - 2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bâu Việt Nam làm Uỷ viên không thường trục Hội đồng Báo an, nhiệm kỉ 2008 - 2009." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 1: Nhật Bản,"Năm 1901, Đảng Xã hội dân chủ Nhật Bản được thành lập dưới sự lãnh đạo của Ca-tai-a-ma Xen Ca-tai-a-ma Xen xuất quân trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 23 tuổi, ông làm công nhân in ở Tô-ki-ô, tham gia hoạt động tích cực trong phong trào công nhân. Năm 1898, ông lãnh đạo công nhân đường sắt bãi công giành thắng lợi sau hàng tháng đấu tranh. Ông là một lãnh tự nổi tiếng của phong trào công nhân Nhật Bản; sau này là bạn của Nguyễn Ái Quôc trong Quôc tế Cộng sản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, Hồng quân Liên Xô đang tiến nhanh về Béclin. Nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các cường quốc đồng minh. Đó là: 1 — Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít; 2 — Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh; 3 — phán chia thành quả chiến thắng giữa các nước thắng trận. Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta (Liên Xô), từ ngày 4 đến ngày 11 — 2 — 1945, với sự tham dự của ba vị nguyên thủ là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô I. Xtalin, Tổng thống Mĩ Ph. Rudơven và Thủ tướng Anh U. Sớcsin - đại diện ba cường quốc trụ cột trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít.  Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng: - Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. đề nhanh chóng kết thức chiến tranh, từ 2 đến 3 tháng sau khi đánh bại nước Đức phát xít, Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản ở Châu Á. - Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới. - Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phán chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu và Châu Á." 10 + 11 + 12,Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945-1949),Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949),"Ở Tây Âu, hầu hết các nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Các nước này đều rất cần tiền vốn, thiết bị máy móc và hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm nhằm khôi phục nền kinh tế và giải quyết khó khăn trong đời sống nhân dân. Giữa lúc đó, Mĩ đề ra ""Kế hoạch phục hưng Châu Âu (còn gọi là ""Kế hoạch Mácsan"") nhằm viên trợ cho các nước Tây Âu khôi phục kinh tế, đồng thời tăng cường ảnh hưởng và sự khống chế của Mĩ đối với các nước này. Nhờ đó, nền kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi nhanh chóng. Tháng 1 - 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) được thành lập gồm Liên Xô và các nước Đông Âu. Như vậy, về mặt chính trị và kinh tế, ở Châu Âu đã hình thành hai khối nước đối lập nhau là Tây Âu tư bản chủ nghĩa và Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Cùng thời gian đó, tình hình Châu Á biến động phức tạp. Bán đảo Triều Tiên bị chia đôi theo vĩ tuyến 38 với sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở phía Bắc và quân đội Mĩ ở phía Nam. Tới cuối năm 1948, Nhà nước Đại Hàn Dân Quốc được thành lập ở phía Nam và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đời ở phía Bắc. Sau khi hợp tác chống Nhật Bản trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc nội chiến ở Trung Quốc lại bùng nổ giữa Đáng Cộng sản và Quốc dân đảng (1946 - 1949). Tháng 10 - 1949, Đảng Cộng sản giành được thắng lợi và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ở Đông Nam Á, ba quốc gia lần lượt tuyên bố độc lộp là Inđônêxia (8 - 1945), Việt Nam (9 - 1945) và Lào (10 - 1945) nhưng ngay sau đó lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân. Những sự kiện trên dân dân dân đến việc xuất hiện tình trạng phân cực thành hai phe ở Đông Á." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Liên Xô nhanh chóng khôi phục đất nước, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành một siêu cường trên thế giới. Các nước Đông Âu được giải phóng khỏi ách phát xít Đức đã tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), đạt được nhiều thành tựu về các mặt. Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước Đông Âu đều lâm vào tình trạng khủng hoảng về chính trị và kinh tế - xã hội, dẫn đến sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này" 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950) Liên Xô bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của người chiến thắng. Nhưng chiến tranh cũng đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho đất nước Xô viết. Khoáng 27 triệu người chết; 1710 thành phố, hơn 70 000 làng mạc, gần 32 000 nhà máy, xí nghiệp bị tàn phá. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Sau chiên tranh, các nước phương Tây do Mĩ cầm đầu lại theo đuổi chính sách chống cộng, tiến hành Chiến tranh lạnh, bao vây kinh tế Liên Xô. Trước tình hình đó, Liên Xô vừa phải thực hiện nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế, vừa phải chú ý đến nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh. Với tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ, nhân dân Xô viết đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm (1946 - 1950) trước thời hạn 9 tháng. Liên Xô đã phục hồi nền sản xuất công nghiệp, năm 1947 đạt mức trước chiến tranh. Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với mức trước chiến tranh (kế hoạch dự kiến là 48%), hơn 6 200 xí nghiệp được phục hồi hoặc mới xây dựng đi vào hoạt động. Nhiều ngành công nghiệp nặng tăng trưởng nhanh (dâu mỏ tăng 22%, thép: 49%, than: 57%). Một số ngành sản xuất nông nghiệp cũng vượt mức trước chiến tranh, thu nhập quốc dân tăng 66% so với năm 1940 (kế hoạch dự kiến tăng 38%). Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, đánh dấu bước phát triển nhanh chóng của khoa học - kĩ thuật Xô viết, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Liên Xô tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH (từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70) Từ năm 1950 đến năm 1975, Liên Xô đã thực hiện nhiều kế hoạch dài hạn nhằm tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH. Về công nghiệp, Liên Xô đẩy mạnh sản xuất công nghiệp nặng như chế tạo máy, điện lực, hoá dầu, hoá chất, thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá. Đến nửa đầu những năm 70, Liên Xô là cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ), chiếm khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp toàn thế giới. Tù năm 1951 đến năm 1975, tốc độ tăng trưởng bỉnh quân hàng năm của công nghiệp Xô viết là 9,6%. Năm 1970, sán lượng một số ngành công nghiệp quan trọng như điện lục đạt 704 tỉ kw/h (bàng sán lượng điện của bốn nước Anh, Pháp, CHLB Đúc, Italia cộng lại), dâu mỏ đạt 353 triệu tấn, than đạt 624 triệu tốn và thép lân đầu tiên vượt Mĩ, đạt 121 triệu tốn (1971). Về nông nghiệp, tuy gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất nông nghiệp của Liên Xô cũng thu được nhiều thành tích nổi bật. Sán lượng nông phâm trong những năm 60 tăng trung bỉnh khoáng 16%/năm, năm 1970 đạt 186 triệu tốn ngũ cốc và nỡng suốt trung bỉnh là 15,6 tạ/ha.  Trong lĩnh vực khoa học - kĩ thuật, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Năm 1957, Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vê tinh nhân tạo. Năm 1961, Liên Xô phóng tàu vũ trụ Phương Đông đưa nhà du hành vũ trụ Gagarin bay vòng quanh Trái Đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người, sau đó đã tiến hành nhiều chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Liên Xô đã chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao khoa học - kĩ thuật thế giới ở các lĩnh vực vật lí, hoá học, điên tử, điều khiển học, khoa học vũ trụ... Về xã hội, Liên Xô có những thay đổi rõ rêt. Năm 1971, công nhân chiếm hơn 55% số người lao động trong cả nước. Trình độ học vấn của người dân không ngừng được nâng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Tình hình chính trị và chính sách dối ngoại của Liên Xô Từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70, nhìn chung tình hình chính trị của Liên Xô tương đối ổn định. Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết hoạt động tích cực, có hiêu quả, tạo được niềm tin trong nhân dân. Xã hội Xô viết đảm bảo được sự nhất trí về chính trị, tư tưởng; khối đoàn kết thống nhất giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và các dân tộc được duy trì.  Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước Xô viết thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới. Liên Xô đấu tranh cho hoà bình, an ninh, kiên quyết chống chính sách gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Liên Xô giúp đỡ tích cực các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước. Liên Xô đi đầu trong việc ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vị thế của Liên Xô được đề cao trên trường quốc tế." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Sự ra đời các nhà nốớc dân chủ nhân dân Đông Ầu Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Âu đều lệ thuộc vào các nước phương Tây, nhất là Anh và Pháp. Trong chiến tranh, các nước Đông Âu bị phát xít Đức và Italia chiếm đóng. Nhân dân các nước này đã anh dũng chiến đấu chống phát xít, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc nhằm đoàn kết nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 1944 - 1945, khi Hồng quân Liên Xô truy kích quân đội phát xít qua vùng Đông Âu thì nhân dân và lực lượng cách mạng ở các nước này đã phối hợp với Hồng quân tiêu diệt bọn phát xít, giành chính quyền và thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Cộng hoà Nhân dân Ba Lan (22 - 7 - 1944), Cộng hoà Nhân dân Rumani (28 - 8 - 1944), Cộng hoà Nhân dân Hunggari (4 - 4 - 1945), Cộng hoà Tiệp Khắc (9 - 5 - 1945), Liên bang Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Nam Tư (29 - 11 - 1945), Cộng hoà Nhân dân Anbani (11 - 12 - 1945), Cộng hoà Nhân dân Bungari (15 - 9 - 1946). Riêng ở Đức, theo sự thoả thuận giữa ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh tại Hội nghị Pốtxđam (Đứ, nước Đức phải đặt dưới sự chiếm đóng và kiểm soát theo từng khu vực của quân đội các nước Đổng minh. Tháng 9 - 1949, Mĩ, Anh, Pháp hợp nhất ba khu vực chiếm đóng, thành lập nước Cộng hoà Liên bang Đức. ở phần phía Đông, tháng 10 - 1949, Liên Xô giúp các lực lượng dân chủ thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Đức. Như vậy, trên lãnh thổ nước Đức đã xuất hiện hai nhà nước với hai chế độ chính trị khác nhau." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân Sau khi được giải phóng, các nhà nước ở Đông Âu tiến hành các cuộc cải cách dân chủ nhằm hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân.  Chính phủ ở các nước Đông Âu là chính phủ liên hiệp, bao gồm nhiều giai cấp, nhiều đảng phái đã từng tham gia trong Mặt trận thống nhất dân tộc. Giai cấp tư sản và các chính đảng của họ là một lực lượng không nhỏ, giữ vị trí khá quan trọng trong chính quyền các cấp cũng như trong nền kinh tế đất nước. Những năm 1947 - 1948, các chính đảng tư sản đã chống phá việc thực hiện những cải cách dân chủ triệt để, tranh giành ảnh hưởng với Đảng Cộng sản và âm mưu chiếm đoạt toàn bộ chính quyền nhưng thất bại. Trong thời kì này, các nước Đông Âu đã tiên hành cải cách ruộng đất, quốc hữu hoá các xí nghiệp lớn của tư bản nước ngoài và trong nước, thực hiện rộng rãi các quyền tự do dân chủ, ban hành các đạo luật về chế độ làm việc, lương bổng, nghỉ ngơi theo tinh thần dân chủ. Đến khoảng những năm 1948 - 1949, các nước Đông Âu đều lần lượt hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nốớc Đông Ầu Từ giữa những năm 50, các nước Đông Âu tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện các kế hoạch 5 năm. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp. Phần lớn các nước Đông Âu là những nước chậm phát triển về kinh tế và khoa học - kĩ thuật (trừ Tiệp Khắc và CHDC Đứ, lại bị bao vây về kinh tế và sự phá hoại về chính trị của các nước đế quốc cùng các thế lực phản động trong nước. Với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô và sự cố gắng vượt bậc của nhân dân, trong những năm 1950 - 1975, các nước Đông Âu về cơ bản đã thực hiện thành công các kế hoạch 5 năm. Trước chiến tranh, Anbani là một nước nghèo. Năm 1970, Anbani đã hoàn thành điện khí hoá cá nước, sán phâm nông nghiệp tăng gặp 2 lần những năm 60. Ở Bungari, tổng sán lượng công nghiệp năm 1975 tăng 55 lần so với năm 1939; nông thôn đã hoàn thành việc điện khí hoá. Rumani tù một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành một nước công - nông nghiệp, năm 1973 sán xuđt công nghiệp tăng 25 lần so với năm 1938, sản phâm nông nghiệp năm 1971 tăng khoáng 1,9 lần so với trước chiến tranh. Tiệp Khắc đã được xếp vào hàng các nước công nghiệp trên thế giới; năm 1970, sán lượng công nghiệp chiếm 1,75% tổng sán lượng công nghiệp toàn thế giới. Ở CHDC Đúc, sau 30 năm xây dụng, sán xuất công nghiệp đã đạt múc bàng cá nước Đúc cũ năm 1939; các ngành công nghiệp hàng đâu cũng thu được kết quá to lớn. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng, đài sống vật chất và tinh thần của nhân dân các nước Đông Âu được cải thiện và nâng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Các nước xã hội chủ nghĩa đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, đều có chung chế độ kinh tế, chính trị, nhất trí về lợi ích và mục tiêu chung. Do đó, quan hệ hợp tác tương trợ giữa các nước xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học - kĩ thuật Ngày 8 - 1 - 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (thường gọi tắt là SEV) được thành lập gồm các nước: Liên Xô, Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc; năm 1950 kết nạp thệm CHDC Đức . Mục tiêu của Hội đồng tương trợ kinh tế là củng cố, hoàn thiện sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế và kĩ thuật, giảm dần sự chệnh lệch về trình độ phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên. Sau hơn 20 năm hoạt động, SEV đã có những đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của các nước thành viên. Từ năm 1951 đến năm 1973, tỉ trọng của SEV trong sản xuđt công nghiệp thế giối tăng từ 18% lên 33%, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bỉnh quân hàng năm khoảng 10%, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của các nước thành viên SEV năm 1973 tăng 5,7 lần so với năm 1950. Liên Xô giữ vai trò quyết định trong khối SEV... Trong quá trình hoạt động, khối SEV có những hạn chế như bao cấp, ""khép kín"", không hoà nhập với kinh tế thế giới..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Tình hình kinh tế - xã hội Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ, báo hiệu bước khởi đầu của cuộc khủng hoảng chung đối với thế giới trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, tài chính. Cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ nhiều vấn đề bức thiết như tình trạng vơi cạn dần nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ về dân số... trên thế giới. Nó đặt ra yêu cầu phải cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - kĩ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đầy thử thách ấy, Đảng và Nhà nước Liên Xô lại cho rằng quan hệ xã hội chủ nghĩa không chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng chung toàn thế giới, hơn nữa các nguồn tài nguyên của Liên Xô lại khá dồi dào, nên đã chậm đề ra đường lối cải cách. Trong khi đó, mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và những cơ chế của nó về kinh tế, chính trị, xã hội lại chứa đựng những thiếu sót, sai lầm vốn được tích tụ từ lâu. Điều đó cản trở sự phát triển của đất nước. Xã hội Xô viết lâm vào tình trạng thiếu dân chủ và công bằng, kỉ cương và pháp chế xã hội chủ nghĩa bị vi phạm nghiêm trọng, tệ nạn xã hội gia tăng, sản xuất tăng trưởng chậm, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém và ngày càng thua kém các nước phương Tây về khoa học - kĩ thuật. Nền kinh tế Liên Xô ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, nợ nước ngoài và lạm phát không ngừng tăng lên. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Công cuộc cải tổ (1985 - 1991) Tháng 3 - 1985, M. Goócbachốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, đã đưa ra đường lối cải tổ. Mục đích của công cuộc cải tổ được tuyên bố là nhằm đổi mới mọi mặt đời sống của xã hội Xô viết, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm trước đây, đưa đất nước thoát khỏi sự trì trệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng như bản chất của nó. Công cuộc cải tổ được tiến hành trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Về kinh tế, chủ trương đây nhanh việc ứng dụng thành tựu mối về khoa học - kĩ thuật, đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, đạt mức cao nhất của thế giối về năng suốt lao động xã hội, chốt lượng sán phám và hiệu quá, xây dựng ""nền kinh tế thị trường có điều tiết"", báo đám cơ cấu tối ưu về tính cân đối của nền kinh tế quốc dân thống nhốt. Về chính trị - xã hội, mở rộng chế độ tự quán xã hội chủ nghĩa của nhân dân, củng cố kỉ luật và trật tự, mở rộng tính công khai phệ bỉnh và tự phệ bỉnh, báo đám mức độ mối về phúc lợi nhân dân, thực hiện triệt để nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong năm đầu thực hiện đường lối cải tổ, đông đảo nhân dân Xô viết phấn khởi ủng hộ và chờ đợi. Nhưng qua 6 năm thực hiện, tình hình lại chuyển biến theo chiều hưổng xấu. Do tác động tiêu cực của những sai lầm trước kia, do chưa được chuẩn bị đầy đủ, lại mắc phải nhiều sai lầm mới trầm trọng hơn, nên công cuộc cải tổ ngày càng bế tắc và rời xa những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Đến tháng 12 - 1990, công cuộc cải tổ về kinh tế thực sự thất bại. Sự cải tổ về chính trị đã thiết lập quyền lực của tổng thống và chuyển sang chế độ đa đảng. Xã hội lâm vào rối loạn với những xung đột gay gắt giữa các dân tộc và các phe phái trên toàn Liên bang. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Sự tan rã của Liên bang Xô viết Quá trình trì trê, khủng hoảng kéo dài của đất nước Xô viết đã lên tới đỉnh điểm khi nổ ra cuộc đảo chính ngày 19 - 8 - 1991 do một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô tiến hành. Cuộc đảo chính nhanh chóng bị thất bại (21 - 8 - 1991). Sau khi trở lại nắm quyền, M. Goócbachốp tuyên bố từ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, yêu cầu giải tán Uỷ ban Trung ương Đảng (24 - 8 - 1991), đình chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô (29 - 8 - 1991). Chính quyền Xô viết trong toàn Liên bang bị tê liêt. Chỉ trong vài tuần lễ sau cuộc đảo chính, tất cả các nước cộng hoà, trừ Nga và Cadắcxtan, đều tách khỏi Liên bang, tuyên bố độc lập. Ngày 6 - 9 - 1991, Quốc hội bãi bỏ Hiệp ước Liên bang năm 1922, trao quyền cho các cơ quan lâm thời. Ngày 21 - 12 - 1991, tại thủ đô Anma Ata (Cadắcxtan), 11 nước cộng hoà kí Hiệp ước về giải tán Liên bang Xô viết và chính thức thành lập Cộng đổng các quốc gia độc lập (thường gọi tắt là SNG). Ngày 25 - 12 - 1991, sau lời tuyên bố từ chức Tổng thống của M. Goócbachốp, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cremli bị hạ xuống, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Tình hình kinh tế - xã hội Sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Âu suy giảm rõ rệt. Bước sang những năm 80, các nước này đều đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dựa trên sự tiến bộ về khoa học - kĩ thuật và chuyển mạnh sang con đường phát triển theo chiều sâu. Nhưng những cố gắng đó không kìm hãm được tốc độ suy thoái ngày càng trầm trọng. Cuối năm 1989, nền kinh tế Đông Âu chìm sâu trong khủng hoàng, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,5%. Ở các nước Hunggari, Bungari thì giàm tuyệt đối. Nợ nước ngoài gia tăng nhanh chóng. Chính phủ Liên Xô lúc đó cũng đang gặp khó khăn trong công cuộc cải tổ, không giúp đỡ được các nước Đông Âu. Nhân dân các nước Đông Âu giảm sút lòng tin vào Đảng và Nhà nước. Sự bất bình của họ ngày càng tăng lên. Ngay từ cuối thập kỉ 70, ở nhiều nước đã xảy ra những cuộc đấu tranh, đình công của công nhân và các tầng lớp nhân dân, làm cho tình hình đất nước không ổn định.  " 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Ầu Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan vào cuối năm 1988, sau đó nhanh chóng lan sang các nước Hunggari, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Rumani, Bungari, Anbani. Mít tinh, biểu tình, tuần hành, bãi công diễn ra dồn dập, đòi cải cách kinh tế, thực hiện đa nguyên về chính trị, tiến hành tổng tuyển cử tự do mà mũi nhọn tấn công của các nhóm phái nhằm vào các đảng cộng sản cầm quyền. Những hoạt động trên đã làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước, đẩy chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Những người lãnh đạo các nước Đông Âu đều lần lượt tuyên bố từ bỏ quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, chấp nhận chế độ đa nguyên về chính trị và tiến hành tổng tuyển cử. ở các nước Bungari, Nam Tư, Rumani, Anbani, tình hình đất nước tiếp tục khủng hoảng sâu sắc. ở CHDC Đức, sau hơn hai tuần lễ (từ giữa tháng 10 - 1989) nhiều sự kiện diễn ra gay gắt, tình hình biến chuyển nhanh chóng. Ngày 9 - 11 - 1989, nhà cầm quyền CHDC Đức tuyên bố bỏ ngỏ ""bức tường Béclin (được dựng lên từ năm 1961 như một biểu tượng của sự chia cắt nước Đứ. Ngày 3 - 10 - 1990, việc thống nhất nước Đức đã được thực hiện với sự sáp nhập CHDC Đức vào CHLB Đức. Cùng với các sự kiện trên, ngày 28 - 6 - 1991, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể; ngày 1 - 7 - 1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Trong một thời kì dài, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đem lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng càng ngày càng bộc lộ nhiều sai lầm, thiếu sót. Một là, thiếu tôn trọng đầy đủ các quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, chủ quan, duy ý chí, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thay cho cơ chế thị trường. Điều đó làm cho nền kinh tế đất nước thiếu tính năng động, sản xuất trì trê, đời sống nhân dân không được cải thiên. Về xã hội, thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế XHCN. Tình trạng đó kéo dài đã làm tăng lòng bất mãn trong quần chúng. Hai là, không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, đưa tới sự trì trê, khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Ba là, khi tiến hành cải tổ lại phạm sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng càng thệm nặng nề. Bốn là, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước có tác động không nhỏ làm cho tình hình càng thệm rối loạn. Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 1989 - 1991 đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn thất lớn trong lịch sử phong trào cộng sản - công nhân quốc tế. Hê thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn tồn tại. Trật tự thế giới hai cực đã kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Từ sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga là ""quốc gia kế tục Liên Xô"", trong đó được kế thừa địa vị pháp lí của Liên Xô tại Hội đổng Bảo an Liên hợp quốc cũng như tại các cơ quan ngoại giao của Liên Xô ở nước ngoài. Về kinh tế, từ năm 1992, Chính phủ Nga đề ra cương lĩnh tư nhân hoá nền kinh tế, cố gắng đưa đất nước đi vào kinh tế thị trường. Nhưng việc tư nhân hoá ổ ạt càng làm cho nền kinh tế rối loạn hơn.  Sản xuất công nghiệp năm 1992 giảm xuống còn 20%. Mức lương trung bình của công nhân viên chức thấp hơn của người Mĩ 25 lần. Một tầng lớp tư sản mới khá đông đảo hình thành trong xã hội Nga. Từ năm 1990 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP luôn luôn là số âm: năm 1990 là -3,6%, năm 1995 là -4,1%. Từ năm 1996, nền kinh tế Nga dần dần phục hồi. Đến năm 1997, tốc độ tăng trưởng đã đạt 0,5%; năm 2000 lên đến 9%. Về chính trị, sau một thời gian đấu tranh gay gắt giữa các đảng phái, tháng 12 - 1993, bản Hiến pháp của Liên bang Nga được ban hành. Theo Hiến pháp 1993, Tổng thống do dân bâu trực tiếp là người đứng đâu nhà nước, là người điều hành chung mọi hoạt động của tât cá các cơ quan chính quyền. Thủ tướng là người đứng đâu chính phủ, thục thi chức năng của cơ quan hành pháp. Hệ thống lộp pháp gồm 2 viện là Hội đồng Liên bang (Thượng viện) và Đuma Quốc gia (Hạ viện). Hệ thống tư pháp gồm Toà án Hiến pháp và Toà án tối cao. Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga là B. Enxin (1992 - 1999); tù năm 2000 là V. Putin. Dưới thời Tổng thống B. Enxin, về mặt đối nội, tình hình nước Nga đứng trước hai thách thức lớn. Một là tình trạng không ổn định về chính trị do sự tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn tài chính - chính trị và do đòi hỏi dân chủ hoá của nhân dân. Hai là những cuộc xung đột sắc tộc, nổi bật là phong trào li khai của vùng Trécxnia. Những lực lượng li khai đã tiến hành nhiều vụ khủng bố nghiêm trọng, gây ra nhiều tổn thất nặng nề." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Về đối ngoại, trong những năm 1992 - 1993, nước Nga theo đuổi chính sách đối ngoại ""định hướng Đại Tây Dương"", ngả về các cường quốc phương Tây với hi vọng nhận được sự ủng hộ về chính trị và sự viện trợ về kinh tế. Nhưng sau 2 năm, nước Nga chỉ có được những khoản tín dụng và viện trợ tài chính rất ít ỏi. Từ năm 1994, nước Nga chuyển sang chính sách đối ngoại ""định hướng Ầu - Á"", trong khi tranh thủ phương Tây, vẫn khôi phục và phát triển quan hệ với các nước trong khu vực Châu Á (một số nước SNG, Trung Quốc, Ần Độ, các nước ASEAN...). Từ đầu năm 2000, chính phủ của Tổng thống V. Putin cố gắng phát triển kinh tế, củng cố nhà nước pháp quyền, ổn định tình hình xã hội và nâng cao vị thế quốc tế của nước Nga. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt, nhưng nước Nga vẫn phải đương đầu với xu hướng li khai và nạn khủng bố, tiếp tục khắc phục những trở ngại trên con đường phát triển, giữ vững và nâng cao địa vị của một cường quốc Âu - Á trên trường chính trị thế giới." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Từ đầu thế kỉ XVII, cuộc tranh giành quyền lực giữa các chúa phong kiến trong nước làm cho Ấn Độ suy yếu. Lợi dụng cơ hội này, các nước tư bản phương Tây, chủ yếu là Anh và Pháp, tranh nhau xâm lược Ấn Độ. Đến giữa thế kỉ XIX, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm lược và đặt ách cai trị ở Ấn Độ. Về kinh tế, thực dân Anh mở rộng công cuộc khai thác Ấn Độ một cách quy mô, ra sức vơ vét lương thực, các nguồn nguyên liệu và bóc lột nhân công để thu lợi nhuận. Ấn Độ trở thành thuộc địa quan trọng nhất của thực dân Anh, phải cung cấp ngày càng nhiều lương thực, nguyên liệu cho chính quốc. Trong khoảng 25 năm cuối thế kỉ XIX, những nạn đói liên tiếp xảy ra làm gần 26 triệu người chết. Trong khi đó, lương thực của Ấn Độ bị vơ vét đưa về nước Anh ngày càng nhiều; đời sống nhân dân Ấn Độ ngày càng khó khăn. Về chính trị - xã hội, Chính phủ Anh nắm quyền cai trị trực tiếp Ấn Độ. Ngày 1 - 1 - 1877, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là Nữ hoàng Ấn Độ. Để tạo chỗ dựa vững chắc cho nền thống trị của mình, thực dân Anh đã thực hiện chính sách chia để trị, mua chuộc tầng lớp có thế lực trong giai cấp phong kiến bản xứ, tìm cách khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc, tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh ngày càng sâu sắc, làm bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa chống Anh. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Ấn Độ vào nửa sau thế kỉ XIX là cuộc khởi nghĩa của quân Xipay và nhân dân ở Mi-rút. Xipay là tên gọi những đơn vị binh lính người Ấn Độ trong quân đội của thực dân Anh. Mặc dù là một trong những công cụ xâm lược và thống trị của thực dân, binh lính người Ấn vẫn bị sĩ quan người Anh đối xử tàn tệ. Tinh thần dân tộc và tín ngưỡng của họ luôn bị xúc phạm nghiêm trọng. Họ rất bất mãn khi phải dùng đạn pháo có bọc giấy tẩm mỡ bò, mỡ lợn. Muốn bắn loại đạn này, người lính thường phải dùng răng để xé các loại giấy đó, trong khi những người lính Xipay theo đạo Hinđu thì kiêng thịt bò và theo đạo Hồi thì kiêng thịt lợn. Vì thế họ đã chống lệnh của sĩ quan Anh và nổi dây khởi nghĩa. Rạng sáng 10 - 5 -1857, ở Mi-rút (gần Đê-li), khi thực dân Anh sắp áp giải 85 binh lính Xipay trái lệnh thì 3 trung đoàn Xipay nổi dậy khởi nghĩa, vây bắt bọn chỉ huy Anh. Nông dân các vùng phụ cận cũng gia nhập nghĩa quân. Thừa thắng, nghĩa quân tiến về Đê-li. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan ra nhiều địa phương thuộc miền Bắc và miền Trung Ấn Độ. Nghĩa quân đã lập được chính quyền, giải phóng một số thành phố lớn. Cuộc khởi nghĩa duy trì được khoảng 2 năm thì bị thực dân Anh dốc toàn lực đàn áp rất dã man. Nhiều nghĩa quân bị trói vào miệng nòng đại bác rồi bắn cho tan xác. Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa Xipay có ý nghĩa lịch sử to lớn, tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Thất vọng trước thái độ thoả hiệp của một số người lãnh đạo Đảng Quốc đại và chính sách hai mặt của chính quyền Anh, trong nội bộ Đảng hình thành một phái dân chủ cấp tiến do Ti-lắc đứng đầu, thường được gọi là phái ""cực đoan"". Phái này phản đối thái độ thoả hiệp của phái ""ôn hoà"" và đòi hỏi phải có thái độ kiên quyết chống Anh. Ban Gan-đa-kha Ti-lắc là nhà ngôn ngữ, nhà sử học, đã tập hợp những trí thức tiến bộ có tinh thần chống thực dân Anh để tuyên truyền ý thức dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông chủ trương phát động nhân dân lật đổ ách thống trị của thực dân Anh, xây dựng một quốc gia độc lập dân chủ. Nhằm hạn chế phong trào đâu tranh của nhân dân Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường thực hiện chính sách chia để trị. Tháng 7 - 1905, chúng ban hành đạo luật chia đôi xứ Ben-gan: miền Đông của các tín đổ theo đạo Hồi và miền Tây của những người theo đạo Hinđu. Điều đó làm bùng lên phong trào đâu tranh chống thực dân Anh, đặc biệt ở Bom-bay và Can-cút-ta. Ngày 16 - 10 - 1905, đạo luật chia cắt Ben-gan bắt đầu có hiệu lực; nhân dân coi đó là ngày quốc tang. Hơn 10 vạn người kéo đến bờ sông Hằng, dòng sông linh thiêng của người Ấn, làm lễ tuyên thệ và hát vang bài Kính chào Người - Mẹ hiền Tổ quốc để tỏ ý chí đoàn kết, thống nhất. Khắp nơi vang lên khẩu hiệu: ""Ấn Độ của người Ấn Độ""." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Tháng 6 - 1908, thực dân Anh bắt Ti-lắc và kết án ông 6 năm tù. Vụ án Ti-lắc thổi bùng lên một đợt đấu tranh mới. Hàng vạn công nhân ở Bom-bay tiến hành tổng bãi công trong 6 ngày (để phản đối bản án 6 năm tù của Ti-lắc, xây dựng chiến luỹ, thành lập các đơn vị chiến đấu chống lại quân Anh. Nhân dân các thành phố khác cũng hưởng ứng. Cuộc đấu tranh lên đến đỉnh cao, buộc thực dân Anh phải thu hồi đạo luật chia cắt Ben-gan. Cao trào 1905 - 1908 thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân Anh. Cao trào này do một bộ phận giai cấp tư sản lãnh đạo, mang đậm ý thức dân tộc, thực hiện mục tiêu đấu tranh vì một nước Ấn Độ độc lập và dân chủ. Đây là nét khác biệt so với những phong trào đấu tranh trước đó, đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Ấn Độ, hoà chung vào trào lưu dân tộc dân chủ của nhiều nước Châu Á trong những năm đầu thế kỉ XX. Lần đầu tiên, công nhân Ấn Độ tham gia phong trào dân tộc. Tuy vậy, chính sách chia rẽ của thực dân Anh và sự phân hoá trong Đảng Quốc đại đã làm cho phong trào tạm ngừng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Đến giai đoạn Người tinh khôn, số dân đã tăng lên. Từng nhóm người cũng đông đúc hơn, gồm 2-3 thế hệ già trẻ cùng có chung dòng máu, được gọi là thị tộc - những người ""cùng họ"". Trong thị tộc, con cháu có thói quen tôn kính lớp ông bà, cha mẹ. Ngược lại, ông bà, cha mẹ đều chăm lo, bảo đảm nuôi dạy tất cả con cháu của thị tộc. Trên một vùng sinh sống thuận lợi như ven sông, suối... thường không chỉ có thị tộc mà còn có bộ lạc. Bộ lạc là tập hợp một số thị tộc, sống cạnh nhau, có họ hàng với nhau và cùng có một nguồn gốc tổ tiên xa xôi. Giữa các thị tộc trong một bộ lạc thường có quan hệ gắn bó với nhau, giúp đỡ nhau. Đương nhiên, công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc là kiếm thức ăn để nuôi sống thị tộc. Những công việc như thế, nhất là việc săn đuổi, săn bầy các con thú lớn, thú chạy nhanh, luôn đòi hỏi sự phân công hợp lí, sự ""chung lưng đấu cật"", mỗi người mỗi việc, phối hợp ăn ý với nhau. Yêu cầu của công việc và trình độ lao động thời nguyên thuỷ đòi hỏi sự hợp tác lao động của nhiều người, của cả thị tộc. Thức ăn kiếm được chưa nhiều, chưa có đều đặn. Mọi người còn phải cùng làm, cùng cố gắng đến mức cao nhất để kiếm sống nên tự nhiên người ta thấy cần phải công bằng, phải được hưởng thụ bằng nhau. Như thế, trong thị tộc không chỉ có sự hợp tác mà mọi của cải, mọi sinh hoạt được coi là của chung, việc chung, làm chung, ăn chung. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Từ chỗ dùng những công cụ bằng đá, bằng xương, tre, gỗ, người ta bắt đầu biết chế tạo đồ dùng và công cụ bằng đồng. Cư dân Tây Á và Ai Cập biết sử dụng đồng sớm nhất, thoạt tiên là đồng đỏ vào khoảng 5500 năm trước đây. Cách ngày nay khoảng 4000 năm, nhiều cư dân trên Trái Đất đã biết dùng đồng thau. Khoảng 3000 năm trước đây, cư dân ở Tây Á và Nam Âu là những người đầu tiên biết đúc và sử dụng đồ sắt. Công cụ kim khí đã mở ra một thời đại mới mà tác dụng và năng suất lao động của nó vượt xa thời đại đồ đá. Đặc biệt là công cụ bằng sắt thì không có một công cụ đá nào có thể so sánh được. Nhờ có đồ kim khí, nhất là sắt, người ta có thể khai phá những vùng đất đai mà trước kia chưa khai phá nổi, có thể cày sâu cuốc bẫm, có thể xẻ gỗ đóng thuyền đi biển, xẻ đá làm lâu đài và bản thân việc đúc sắt cũng là một ngành sản xuất quan trọng bậc nhất. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong sản xuất. Lần đầu tiên trên chặng đường dài của lịch sử loài người, con người có thể làm ra một lượng sản phẩm thừa. Suốt thời đồ đá, con người từ chỗ sống bấp bênh tiến tới đủ sống. Vào buổi đầu của thời đại kim khí, con người sản xuất không những đủ sống ở mức còn thấp của hàng nghìn năm trước, mà còn tạo ra được một lượng sản phẩm thừa thường xuyên. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Trong xã hội nguyên thuỷ, sự công bằng và bình đẳng là ""nguyên tắc vàng"". Bởi lúc ấy người ta sống trong cộng đồng, dựa vào nhau vì tình trạng đời sống còn quá thấp, nhưng khi bắt đầu có sản phẩm thừa thì lại không thể đem chia đều cho mọi người. Trong xã hội, mỗi thành viên có những chức phận khác nhau. Ban đầu, một số người được cử chỉ huy dân binh, chuyện trách về lễ nghi hoặc điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc (xây đền, làm nhà, làm đường, đắp đê...). Những người này lợi dụng chức phận để chiếm một phần sản phẩm xã hội cho riêng mình khi chi dùng các công việc chung. Chẳng bao lâu, họ có nhiều của cải hơn người khác. Thế là của tư hữu bắt đầu xuất hiện. Quan hệ cộng đồng bắt đầu bị phá vỡ. Gia đình cũng thay đổi theo. Đàn ông làm các việc nặng nhọc như cày bừa, làm thuỷ lợi, làm dân binh, nên đã có vai trò trụ cột và giành lấy quyền quyết định trong gia đình. Con cái lấy theo họ cha. Gia đình phụ hệ xuất hiện trong lòng thị tộc bình đẳng thời nguyên thuỷ. Khả năng lao động của các gia đình khác nhau đã thúc đẩy thêm sự phân biệt giàu - nghèo. Xã hội nguyên thuỷ, hay còn gọi là xã hội thị tộc bộ lạc, bị rạn vỡ. Con người đang đứng trước ngưỡng cửa của thời đại xã hội có giai cấp đầu tiên - xã hội" 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Trong xã hội nguyên thuỷ, sự công bằng và bình đẳng là ""nguyên tắc vàng"". Bởi lúc ấy người ta sống trong cộng đồng, dựa vào nhau vì tình trạng đời sống còn quá thấp, nhưng khi bắt đầu có sản phẩm thừa thì lại không thể đem chia đều cho mọi người. Trong xã hội, mỗi thành viên có những chức phận khác nhau. Ban đầu, một số người được cử chỉ huy dân binh, chuyện trách về lễ nghi hoặc điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc (xây đền, làm nhà, làm đường, đắp đê...). Những người này lợi dụng chức phận để chiếm một phần sản phẩm xã hội cho riêng mình khi chi dùng các công việc chung. Chẳng bao lâu, họ có nhiều của cải hơn người khác. Thế là của tư hữu bắt đầu xuất hiện. Quan hệ cộng đồng bắt đầu bị phá vỡ. Gia đình cũng thay đổi theo. Đàn ông làm các việc nặng nhọc như cày bừa, làm thuỷ lợi, làm dân binh, nên đã có vai trò trụ cột và giành lấy quyền quyết định trong gia đình. Con cái lấy theo họ cha. Gia đình phụ hệ xuất hiện trong lòng thị tộc bình đẳng thời nguyên thuỷ. Khả năng lao động của các gia đình khác nhau đã thúc đẩy thệm sự phân biệt giàu - nghèo. Xã hội nguyên thuỷ, hay còn gọi là xã hội thị tộc bộ lạc, bị rạn vỡ. Con người đang đứng trước ngưỡng cửa của thời đại xã hội có giai cấp đầu tiên - xã hội" 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Thất vọng trước thái độ thoả hiệp của một số người lãnh đạo Đảng Quốc đại và chính sách hai mặt của chính quyền Anh, trong nội bộ Đảng hình thành một phái dân chủ cấp tiến do Ti-lắc đứng đầu, thường được gọi là phái ""cực đoan"". Phái này phản đối thái độ thoả hiệp của phái ""ôn hoà và đòi hỏi phải có thái độ kiên quyết chống Anh. Ban Gan-đa-kha Ti-lắc là nhà ngôn ngữ, nhà sử học, đã tập hợp những trí thức tiến bộ có tinh thần chống thực dân Anh đề tuyến truyền ý thức dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông chủ trương phát động nhân dân lật đổ ách thống trị của thực dân Anh, xây dựng một quốc gia độc lập dân chủ.  Nhằm hạn chế phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường thực hiện chính sách chia đề trị. Tháng 7 -1905, chúng ban hành đạo luật chia đôi xứ Ben-gan: miền Đông của các tín đổ theo đạo Hổi và miền tây của những người theo đạo Hinđu. Điều đó làm bùng lên phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, đặc biệt ở Bom-bay và Can-cứt-ta. Ngày 16 -10 -1905, đạo luật chia cắt Ben-gan bắt đầu có hiệu lực; nhân dân coi đó là ngày quốc tang. Hơn 10 vạn người kéo đến bờ sông Hằng, dòng sông linh thiêng của người Ấn, làm lễ tuyến thế và hát vang bài Kính chào Ngỗời - Mẹ hiền TỔ quốc đề tỏ ý chí đoàn kết, thống nhất. Khắp nơi vang lên khẩu hiệu: ""Ấn Độ của người Ấn Độ""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Đến giai đoạn Người tinh khôn, số dân đã tăng lên. Từng nhóm người cũng đông đúc hơn, gồm 2-3 thế hệ già trẻ cùng có chung dòng máu, được gọi là thị tộc - những người ""cùng họ"". Trong thị tộc, con cháu có thói quen tôn kính lớp ông bà, cha mẹ. Ngược lại, ông bà, cha mẹ đều chăm lo, bảo đảm nuôi dạy tất cả con cháu của thị tộc. Trên một vùng sinh sống thuận lợi như ven sông, suối... thường không chỉ có thị tộc mà còn có bộ lạc. Bộ lạc là tập hợp một số thị tộc, sống cạnh nhau, có họ hàng với nhau và cùng có một nguồn gốc tổ tiên xa xôi. Giữa các thị tộc trong một bộ lạc thường có quan hệ gắn bó với nhau, giúp đỡ nhau. Đương nhiên, công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc là kiếm thức ăn đề nuôi sống thị tộc. Những công việc như thế, nhất là việc săn đuổi, săn bầy các con thứ lớn, thứ chạy nhanh, luôn đòi hỏi sự phán công hợp lí, sự ""chung lưng đấu cật"", mỗi người mỗi việc, phối hợp ăn ý với nhau. yêu cầu của công việc và trình độ lao động thời nguyên thuỷ đòi hỏi sự hợp tác lao động của nhiều người, của cả thị tộc. Thức ăn kiếm được chưa nhiều, chưa có đều đặn. Mọi người còn phải cùng làm, cùng cố gắng đến mức cao nhất đề kiếm sống nên tự nhiên người ta thấy cần phải công bằng, phải được hưởng thụ bằng nhau. Như thế, trong thị tộc không chỉ có sự hợp tác mà mọi của cải, mọi sinh hoạt được coi là của chung, việc chung, làm chung, ăn chung. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Xã hội nguyên thủy,Bài 2: Xã hội nguyên thủy,"Trong xã hội nguyên thuỷ, sự công bằng và bình đẳng là ""nguyên tắc vàng"". Bởi lúc ấy người ta sống trong cộng đồng, dựa vào nhau vì tình trạng đời sống còn quá thấp, nhưng khi bất đầu có sản phẩm thừa thì lại không thể đem chia đều cho mọi người. Trong xã hội, mỗi thành viên có những chức phận khác nhau. Ban đầu, một số người được cử chỉ huy dân binh, chuyên trách về lễ nghi hoặc điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc (xây đền, làm nhà, làm đường, đắp đề...). Những người này lợi dụng chức phận đề chiếm một phần sản phẩm xã hội cho riêng mình khi chi dùng các công việc chung. Giẳng bao lâu, họ có nhiều của cải hơn người khác. Thế là của tư hữu bắt đầu xuất hiện. Quan hệ cộng đồng bắt đầu bị phá vỡ. Gia đình cũng thay đổi theo. Đàn ông làm các việc nặng nhọc như cày bừa, làm thuỷ lợi, làm dân binh, nên đã có vai trò trụ cột và giành lấy quyền quyết định trong gia đình. Con cái lấy theo họ cha. Gia đình phụ hệ xuất hiện trong lòng thị tộc bình đẳng thời nguyên thuỷ. Khả năng lao động của các gia đình khác nhau đã thức đẩy thêm sự phán biệt giàu - nghèo. Xã hội nguyên thuỷ, hay còn gọi là xã hội thị tộc bộ lạc, bị rạn vỡ. Con người đang đứng trước ngưỡng cửa của thời đại xã hội có giai cấp đầu tiên - xã hội" 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thức, Liên Xô nhanh chóng khôi phục đất nước, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành một siêu cường trên thế giới. Các nước Đông Âu được giải phóng khỏi ách phát xít Đức đã tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), đạt được nhiều thành tựu về các mặt. Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước Đông Âu đều lâm vào tình trạng khủng hoảng về chính trị và kinh tế - xã hội, dẫn đến sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này" 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950) Liên Xô bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của người chiến thắng. Nhưng chiến tranh cũng đã gậy ra nhiều tổn thất nặng nề cho đất nước Xô viết. Khoáng 27 triệu người chết; 1 710 thành phố, hơn 70 000 làng mạc, gân 32 000 nhà máy, xí nghiệp bị tàn phá. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.  Sau chiến tranh, các nước phương tây do Mĩ cầm đầu lại theo đuổi chính sách chống cộng, tiên hành Chiến tranh lạnh, bao vây kinh tế Liên Xô. Trước tình hình đó, Liên Xô vừa phải thực hiện nhiêm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế, vừa phải chú ý đến nhiêm vụ củng cố quốc phòng và an ninh. Với tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ, nhân dân Xô viết đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm (1946 - 1950) trước thời hạn 9 tháng. Liên Xô đã phục hồi nền sản xuất công nghiệp, năm 1947 đạt mức trước chiến tranh. Đến năm 1950, tổng sán lượng công nghiệp tăng 73% so với mức trước chiến tranh (kế hoạch dụ kiến là 48%), hơn 6 200 xí nghiệp được phục hồi hoặc mới xây dụng đi vào hoạt động. Nhiều ngành công nghiệp nặng tăng trưởng nhanh (dâu mỏ tăng 22%, thép: 49%, than: 57%). Một số ngành sản xuất nông nghiệp cũng vượt mức trước chiến tranh, thu nhập quốc dân tăng 66% so với năm 1940 (kế hoạch dự kiến tăng 38%). Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, đánh dấu bước phát triển nhanh chóng của khoa học - kĩ thuật Xô viết, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Tình hình chính trị và chính sách dối ngoại của Liên Xô Từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70, nhìn chung tình hình chính trị của Liên Xô tương đối ổn định. Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết hoạt động tích cực, có hiêu quả , tạo được niềm tin trong nhân dân. Xã hội Xô viết đảm bảo được sự nhất trí về chính trị, tư tưởng; khối đoàn kết thống nhất giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và các dân tộc được duy trì.  Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước Xô viết thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và tích cực ủng hộ phong trào cách mạng thế giới. Liên Xô đấu tranh cho hoà bình, an ninh, kiên quyết chống chính sách gậy chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Liên Xô giúp đỡ tích cực các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước. Liên Xô đi đầu trong việc ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vị thế của Liên Xô được đề cao trên trường quốc tế." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nốớc Đông Ầu Từ giữa những năm 50, các nước Đông Âu tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện các kế hoạch 5 năm. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp. Phần lớn các nước Đông Âu là những nước chậm phát triển về kinh tế và khoa học - kĩ thuật (trừ Tiệp Khắc và CHDC Đứ, lại bị bao vây về kinh tế và sự phá hoại về chính trị của các nước đế quốc cùng các thế lực phản động trong nước. Với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô và sự cố gắng vượt bậc của nhân dân, trong những năm 1950 - 1975, các nước Đông Âu về cơ bản đã thực hiện thành công các kế hoạch 5 năm. Trước chiến tranh, Anbani là một nước nghèo. Năm 1970, Anbani đã hoàn thành điện khí hoá cá nước, sán phâm nông nghiệp tăng gặp 2 lần những năm 60. Ở Bungari, tổng sán lượng công nghiệp năm 1975 tăng 55 lần so với năm 1939; nông thôn đã hoàn thành việc điện khí hoá. Rumani từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành một nước công - nông nghiệp, năm 1973 sán xuđt công nghiệp tăng 25 lần so với năm 1938, sản phâm nông nghiệp năm 1971 tăng khoáng 1,9 lần so với trước chiến tranh. Tiệp Khắc đã được xếp vào hàng các nước công nghiệp trên thế giới; năm 1970, sán lượng công nghiệp chiếm 1,75% tổng sán lượng công nghiệp toàn thế giới. Ở CHDC Đúc, sau 30 năm xây dụng, sán xuất công nghiệp đã đạt múc bằng cá nước Đúc cũ năm 1939; các ngành công nghiệp hàng đấu cũng thu được kết quá to lớn. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng, đài sống vật chất và tinh thần của nhân dân các nước Đông Âu được cải thiện và nâng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Quan hệ hợp tác chính trị - quân sự Ngày 14-5-1955, đại biểu các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, CHDC Đức, Hunggari, Liên Xô, Rumani, Tiệp Khắc đã họp tại Vácsava, thoả thuận cùng nhau kí Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ với thời hạn 20 năm nhằm duy trì hoà bình, an ninh ở Châu Âu và thế giới, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa. Hiệp ưốc quy định: Trong trường hợp một hay nhiều nước thành viên của Hiệp ưốc này bị tđ'n công hoặc bị đe doạ an ninh, các nước thành viên khác có nhiệm vụ giúp nước bị tđn công hoặc bị đe doạ bằng mọi phương tiện có thể, kể cá sử dụng lực lượng vũ trang. Tổ chức Hiệp ước Vácsava trở thành một đối trọng với NATO, đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hoà bình, an ninh ở Châu Âu và thế giới. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000)," Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Ầu Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan vào cuối năm 1988, sau đó nhanh chóng lan sang các nước Hunggari, Tiệp Khắc, CHDC Đức, Rumani, Bungari, Anbani. Mít tinh, biểu tình, tuần hành, bãi công diễn ra dồn dập, đòi cải cách kinh tế, thực hiện đa nguyên về chính trị, tiến hành tổng tuyển cử tự do mà mũi nhọn tấn công của các nhóm phái nhằm vào các đảng cộng sản cầm quyền. Những hoạt động trên đã làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước, đẩy chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Những người lãnh đạo các nước Đông Âu đều lần lượt tuyến bốtừ bỏ quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, chấp nhận chế độ đa nguyên về chính trị và tiến hành tổng tuyển cử. ở các nước Bungari, Nam Tư, Rumani, Anbani, tình hình đất nước tiếp tục khủng hoảng sâu sắc. ở CHDC Đức, sau hơn hai tuần lễ (từ giữa tháng 10 - 1989) nhiều sự kiện diễn ra gay gắt, tình hình biến chuyển nhanh chóng. Ngày 9 - 11 - 1989, nhà cầm quyền CHDC Đức tuyến bốbỏ ngỏ ""bức tường Béclin (được dựng lên từ năm 1961 như một biểu tượng của sự chia cắt nước Đứ. Ngày 3 - 10 - 1990, việc thống nhất nước Đức đã được thực hiện với sự sáp nhập CHDC Đức vào CHLB Đức. Cùng với các sự kiện trên, ngày 28 - 6 - 1991, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyến bốgiải thể; ngày 1 - 7 - 1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Từ sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga là ""quốc gia kế tực Liên Xô"", trong đó được kế thừa địa vị pháp lí của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng như tại các cơ quan ngoại giao của Liên Xô ở nước ngoài. Về kinh tế, từ năm 1992, Chính phủ Nga đề ra cương lĩnh tư nhân hoá nền kinh tế, cố gắng đưa đất nước đi vào kinh tế thị trường. Nhưng việc tư nhân hoá ổ ạt càng làm cho nền kinh tế rối loạn hơn.  Sản xuất công nghiệp năm 1992 giảm xuống còn 20%. Mức lương trung bình của công nhân viên chức thấp hơn của người Mĩ 25 lần. Một tầng lớp tư sản mới khá đông đảo hình thành trong xã hội Nga. Từ năm 1990 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP luôn luôn là số âm: năm 1990 là -3,6%, năm 1995 là -4,1%. Từ năm 1996, nền kinh tế Nga dần dần phục hồi. Đến năm 1997, tốc độ tăng trưởng đã đạt 0,5%; năm 2000 lên đến 9%. Về chính trị, sau một thời gian đấu tranh gay gắt giữa các đảng phái, tháng 12 - 1993, bản Hiến pháp của Liên bang Nga được ban hành. Theo Hiến pháp 1993, Tổng thống do dân bâu trực tiếp là người đứng đấu nhà nước, là người điều hành chung mọi hoạt động của tất cá các cơ quan chính quyền. Thủ tướng là người đứng đấu chính phủ, thực thi chức năng của cơ quan hành pháp. Hệ thống lộp pháp gồm 2 viện là Hội đồng Liên bang (Thượng viện) và Đuma Quốc gia (Hạ viện). Hệ thống tư pháp gồm Toà án Hiến pháp và Toà án tối cao. Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga là B. Enxin (1992 - 1999); từ năm 2000 là V. Putin. dưới thời Tổng thống B. Enxin, về mặt đối nội, tình hình nước Nga đứng trước hai thách thức lớn. Một là tình trạng không ổn định về chính trị do sự tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn tài chính - chính trị và do đòi hỏi dân chủ hoá của nhân dân. Hai là những cuộc xung đột sắc tộc, nổi bật là phong trào li khai của vùng Trécxnia. Những lực lượng li khai đã tiến hành nhiều vụ khủng bố nghiêm trọng, gậy ra nhiều tổn thất nặng nề." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Từ giữa thế kỉ XIX, mâu thuẫn giữa đông đảo nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh ngày càng trở nên sâu sắc. Các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc diễn ra quyết liệt dưới nhiều hình thức, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Điển hình là cuộc khởi nghĩa Xipay (1857 -1859), phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản với sự ra đời của Đảng Quốc đại, cuộc bãi công của công nhân Bom-bay năm 1908..." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Từ đầu thế kỉ XVII, cuộc tranh giành quyền lực giữa các chúa phong kiến trong nước làm cho Ấn Độ suy yêu. Lợi dụng cơ hội này, các nước tư bản phương tây, chủ yếu là Anh và Pháp, tranh nhau xâm lược Ấn Độ. Đến giữa thế kỉ XIX, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm lược và đặt ách cai trị ở Ấn Độ. Về kinh tế, thực dân Anh mở rộng công cuộc khai thác Ấn Độ một cách quy mô, ra sức vơ vét lương thực, các nguồn nguyên liệu và bóc lột nhân công đề thu lợi nhuận. Ấn Độ trở thành thuộc địa quan trọng nhất của thực dân Anh, phải cung cấp ngày càng nhiều lương thực, nguyên liệu cho chính quốc.  Trong khoảng 25 năm cuối thế kỉ XIX, những nạn đói liên tiếp xảy ra làm gần 26 triệu người chết. Trong khi đó, lương thực của Ấn Độ bị vơ vét đưa về nước Anh ngày càng nhiều; đời sống nhân dân Ấn Độ ngày càng khó khăn. Về chỉnh trị - xã hội, Chính phủ Anh nắm quyền cai trị trực tiếp Ấn Độ. Ngày 1 -1 -1877, Nữ hoàng Anh tuyến bốđồng thời là Nữ hoàng Ấn Độ. đề tạo chỗ dựa vững chắc cho nền thống trị của mình, thực dân Anh đã thực hiện chính sách chia đề trị, mua chuộc tầng lớp có thế lực trong giai cấp phong kiến bản xứ, tìm cách khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc, tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh ngày càng sâu sắc, làm bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa chống Anh. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Ấn Độ vào nửa sau thế kỉ XIX là cuộc khởi nghĩa của quân Xipay và nhân dân ở Mi-rút. Xipay là tên gọi những đơn vị binh lính người Ấn Độ trong quân đội của thực dân Anh. Mặc dù là một trong những công cụ xâm lược và thống trị của thực dân, binh lính người Ân vẫn bị sĩ quan người Anh đối xử tàn tệ. Tinh thần dân tộc và tín ngưỡng của họ luôn bị xúc phạm nghiêm trọng. Họ rất bất mãn khi phải dùng đạn pháo có bọc giấy tẩm mỡ bò, mỡ lợn. Muốn bắn loại đạn này, người lính thường phải dùng răng đề xé các loại giấy đó, trong khi những người lính Xipay theo đạo Hinđu thì kiêng thịt bò và theo đạo Hổi thì kiêng thịt lợn. Vì thế họ đã chống lệnh của sĩ quan Anh và nổi dấy khởi nghĩa. Rạng sáng 10 - 5 -1857, ở Mi-rút (gần Đê-li), khi thực dân Anh sắp áp giải 85 binh lính Xipay trái lệnh thì 3 trung đoàn Xipay nổi dậy khởi nghĩa, vây bắt bọn chỉ huy Anh. Nông dân các vùng phụ cận cũng gia nhập nghĩa quân. Thừa thắng, nghĩa quân tiến về Đê-li. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan ra nhiều địa phương thuộc miền Bắc và miền Trung Ấn Độ. Nghĩa quân đã lập được chính quyền, giải phóng một số thành phố lớn. Cuộc khởi nghĩa duy trì được khoảng 2 năm thì bị thực dân Anh dốc toàn lực đàn áp rất dã man. Nhiều nghĩa quân bị tr6i vào miệng nòng đại bác rồi bắn cho tan xác. Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa Xipay có ý nghĩa lịch sử to lớn, tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Từ giữa thế kỉ XIX, giai cấp tư sản và tầng lớp trí thức Ấn Độ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Họ mở nhiều xí nghiệp dệt ở các thành phố lớn hoặc làm đại lí cho các hãng buôn của Anh. Tư sản Ấn Độ muốn tự do phát triển kinh tế và đòi hỏi được tham gia chính quyền, nhưng bị thực dân Anh kìm hãm bằng mọi cách. Cuối năm 1885, Đảng Quốc dân đại hội (gọi tắt là Đảng Quốc đại), chính đảng đầu tiên của giai cấp tư sản Ấn Độ, được thành lập, đánh dấu một giai đoạn mới - giai đoạn giai cấp tư sản Ấn Độ bước lên vũ đài chính trị. Trong 20 năm đầu (1885 -1905), Đảng Quốc đại chủ trương dùng phương pháp ôn hoà đề đòi chính phủ thực dân tiến hành cải cách và phản đối phương pháp đấu tranh bằng bạo lực. Giai cấp tư sản Ấn Độ chỉ yêu cầu thực dân Anh nới rộng các điều kiện đề họ được tham gia các hội đồng tự trị, giúp đỡ họ phát triển kĩ nghệ, thực hiện một số cải cách về mặt giáo dục, xã hội. Tuy vậy, thực dân Anh vẫn tìm cách hạn chế hoạt động của Đảng Quốc đại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-200),Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991) Liên Bang Nga (1991-2000),"Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950) Liên Xô bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với tư thế của người chiến thắng. Nhưng chiến tranh cũng đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho đất nước Xô viết. Khoảng 27 triệu người chết; 1710 thành phố, hơn 70 000 làng mạc, gần 32 000 nhà máy, xí nghiệp bị tàn phá. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Sau chiến tranh, các nước phương tây do Mĩ cầm đầu lại theo đuổi chính sách chống cộng, tiến hành Chiến tranh lạnh, bao vây kinh tế Liên Xô. Trước tình hình đó, Liên Xô vừa phải thực hiện nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế, vừa phải chú ý đến nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh. Với tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ, nhân dân Xô viết đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm (1946 - 1950) trước thời hạn 9 tháng. Liên Xô đã phục hồi nền sản xuất công nghiệp, năm 1947 đạt mức trước chiến tranh. Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với mức trước chiến tranh (kế hoạch dự kiến là 48%), hơn 6 200 xí nghiệp được phục hồi hoặc mới xây dựng đi vào hoạt động. Nhiều ngành công nghiệp nặng tăng trưởng nhanh (dầu mỏ tăng 22%, thép: 49%, than: 57%). Một số ngành sản xuất nông nghiệp cũng vượt mức trước chiến tranh, thu nhập quốc dân tăng 66% so với năm 1940 (kế hoạch dự kiến tăng 38%). Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, đánh dấu bước phát triển nhanh chóng của khoa học - kĩ thuật Xô Viết, phá vỡ thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân Ấn Độ với thực dân Anh ngày càng sâu sắc, làm bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa chống Anh. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Ấn Độ vào nửa sau thế kỉ XIX là cuộc khởi nghĩa của quân Xipay và nhân dân ở Mi-rút. Xipay là tên gọi những đơn vị binh lính người Ấn Độ trong quân đội của thực dân Anh. Mặc dù là một trong những công cụ xâm lược và thống trị của thực dân, binh lính người Ấn vẫn bị sĩ quan người Anh đối xử tàn tệ. Tinh thần dân tộc và tín ngưỡng của họ luôn bị xúc phạm nghiêm trọng. Họ rất bất mãn khi phải dùng đạn pháo có bọc giấy tẩm mỡ bò, mỡ lợn. Muốn bắn loại đạn này, người lính thường phải dùng răng để xé các loại giấy đó, trong khi những người lính Xipay theo đạo Hinđu thì kiêng thịt bò và theo đạo Hồi thì kiêng thịt lợn. Vì thế họ đã chống lệnh của sĩ quan Anh và nổi dậy khởi nghĩa. Rạng sáng 10 - 5 -1857, ở Mi-rút (gần Đê-li), khi thực dân Anh sắp áp giải 85 binh lính Xipay trái lệnh thì 3 trung đoàn Xipay nổi dậy khởi nghĩa, vây bắt bọn chỉ huy Anh. Nông dân các vùng phụ cận cũng gia nhập nghĩa quân. Thừa thắng, nghĩa quân tiến về Đê-li. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan ra nhiều địa phương thuộc miền Bắc và miền Trung Ấn Độ. Nghĩa quân đã lập được chính quyền, giải phóng một số thành phố lớn. Cuộc khởi nghĩa duy trì được khoảng 2 năm thì bị thực dân Anh dốc toàn lực đàn áp rất dã man. Nhiều nghĩa quân bị trói vào miệng nòng đại bác rồi bắn cho tan xác. Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa Xipay có ý nghĩa lịch sử to lớn, tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 2: Ấn Độ,"Thất vọng trước thái độ thoả hiệp của một số người lãnh đạo Đảng Quốc đại và chính sách hai mặt của chính quyền Anh, trong nội bộ Đảng hình thành một phái dân chủ cấp tiến do Ti-lắc đứng đầu, thường được gọi là phái ""cực đoan"". Phái này phản đối thái độ thoả hiệp của phái ""ôn hoà"" và đòi hỏi phải có thái độ kiên quyết chống Anh. Ban Gan-đa-kha Ti-lắc là nhà ngôn ngữ, nhà sử học, đã tập hợp những tri thức tiến bộ có tinh thần chống thực dân Anh để tuyên truyền ý thức dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Ông chủ trương phát động nhân dân lật đổ ách thống trị của thực dân Anh, xây dựng một quốc gia độc lập dân chủ. Nhằm hạn chế phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường thực hiện chính sách chia để trị. Tháng 7 -1905, chúng ban hành đạo luật chia đôi xứ Ben-gan: miền Đông của các tín đồ theo đạo Hồi và miền tây của những người theo đạo Hinđu. Điều đó làm bùng lên phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, đặc biệt ở Bom-bay và Can-cứt-ta. Ngày 16 -10 -1905, đạo luật chia cắt Ben-gan bắt đầu có hiệu lực; nhân dân coi đó là ngày quốc tang. Hơn 10 vạn người kéo đến bờ sông Hằng, dòng sông linh thiêng của người Ấn, làm lễ tuyên thể và hát vang bài Kinh chào Người - Mẹ hiền Tổ quốc để tỏ ý chí đoàn kết, thống nhất. Khắp nơi vang lên khẩu hiệu: ""Ấn Độ của người Ấn Độ""." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,Khu vực Đông Bắc Á sau Chiến tranh thế giới thứ hai có những biến đổi to lớn: sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân (CHND) Trung Hoa và hai nhà nước trên bán đảo Triều Tiên. Các quốc gia này đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Trung Quốc là nước rộng thứ ba thế giới (sau Nga và Canad với diên tích gần 9,6 triệu km2 và dân số dông nhất thế giới với 1,26 tỉ người (năm 2000)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân phiệt Nhật, ở Trung Quốc dã diễn ra cuộc nội chiến giữa Quốc dân dảng và Đảng Cộng sản, kéo dài hơn 3 năm (1946 - 1949). Ngày 20 - 7 - 1946, Tưởng Giới Thạch chính thức phát động cuộc nội chiến chống Đáng Cộng sán. Tù tháng 7 - 1946 đến tháng 6 - 1947, Quân giải phóng Trung Quốc'c thực hiện chiến lược phòng ngụ tích cục. Sau giai đoạn này, Quân giải phóng chuyển sang phân công, tiến vào các vùng do Quốc dân đáng kiểm soát. Bằng ba chiến dịch lớn (Liêu - Thâm, Hoài - Hái, Bỉnh - Tân) tù cuối năm 1948 đến đâu năm 1949, Quân giái phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 1 540 000 tên địch, lực lượng chủ lục của địch bị tổn thất nghiêm trọng. Ngày 23 - 4 - 1949, Nam Kinh, thủ phủ của chính quyền Tưởng Giới Thạch, được giái phóng. Cuối năm 1949, cuộc nội chiến kết thúc, toàn bộ lục dịa Trung Quốc dược giải phóng. Tập doàn Tưởng Giới Thạch thất bại, phải rút chạy ra Đài Loan. Ngày 1 - 10 - 1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập, dứng dầu là Chủ tịch Mao Trạch Đông.  " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Thắng lợi này đã chấm dứt hơn 100 năm nô dịch của đế quốc, xoá bỏ tàn dư phong kiến, đưa nước Trung Hoa bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiên này đã tạo điều kiên nối liền chủ nghĩa xã hội từ Châu Âu sang châu A và ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, nhiêm vụ trọng tâm của nhân dân Trung Quốc là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và giáo dục. Từ năm 1950, nhân dân Trung Quốc bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế, tiến hành những cải cách quan trọng: cải cách ruộng đất và hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công - thương nghiệp tư bản tư doanh; tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá, giáo dục... Đến cuối năm 1952, công cuộc khôi phục kinh tế đã kết thúc thắng lợi. Từ năm 1953, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên (1953 - 1957). Nhờ nỗ lực lao động của toàn dân và sự giúp đỡ của Liên Xô , kế hoạch 5 năm đã được hoàn thành thắng lợi. Bộ mặt đất nước Trung Quốc có nhiều thay đổi rõ rệt." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Trong những năm 1953 - 1957, 246 công trình đã được xây dụng và đưa vào sán xuất; đến năm 1957, sán lượng công nghiệp tỡng 140%, sán luợng nông nghiệp tỡng 25% (so với năm 1952). Các ngành công nghiệp nặng như chế tạo cơ khí, luyện kim, điện lục, khai thác than,... phát triển nhanh. Trung Quốc đã tụ sán xuất được 60% số máy móc cân thiết. Vỡn hoá, giáo dục có những bưốc tiến lốn. Đài số'ng nhân dân được cái thiện.  Về đối ngoại, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao tích cực nhằm củng cố hoà bình và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Địa vị quốc tế của Trung Quốc được nâng cao. Ngày 14 - 2 - 1950, Trung Quốc kí với Liên Xô ""Hiệp ước hữu nghị, đổng minh và tương trợ Trung - Xô và nhiều hiệp ước kinh tế, tài chính khác; phái Quân chí nguyện sang giúp nhân dân Triều Tiên chống Mĩ (1950 - 1953); giúp đì nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp; ủng hộ các nước Á, Phi và Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; năm 1955, tham gia Hội nghị các nước Á - Phi ở Băngđung (Inđônêxi. Ngày 18 - 1 - 1950, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Về đối nội, từ năm 1959, Trung Quốc lâm vào tình trạng không ổn định kéo dài tới 20 năm (1959 - 1978) trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Khởi đầu là việc đề ra và thực hiện đường lối ""Ba ngọn cờ hổng (""Đường lối chung"", ""Đại nhảy vọt"", ""Công xã nhân dân"") với mong muốn nhanh chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc thực hiện cuộc ""Đại nháy vọt bàng việc phát động toàn dân làm gang thép, với mục tiêu là nhanh chóng đưa sán lượng thép lên gặp 10 lân chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm lân thứ hai (1958 - 1962). Sau 4 tháng, 11 triệu tân thép đã ra lò, nhưng hâu hết chỉ là phế loại. Các hợp tác xã được ghép lại thành ""Công xã nhân dân tổ chức theo lối quân sự hoá, mọi sinh hoạt kinh tế, xã hội đều được bao câp. Sán xuất nông nghiệp giám sút, nhiều nơi bị mđt mùa. Hậu quả là từ năm 1959, trong cả nước nạn đói diễn ra trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn, sản xuất ngưng trệ, đất nước không ổn định. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Những khó khăn về kinh tế đã dẫn tới biến động về chính trị. Năm 1959, Lưu Thiếu Kì được cử làm Chủ tịch nước, Mao Trạch Đông chỉ giữ cương vị Chủ tịch Đảng Cộng sản. Trong nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc đã bộc lộ sự bất đổng gay gắt về đường lối, nổ ra cuộc đấu tranh giành quyền lực, đỉnh cao là cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sản (1966 - 1976). Bằng việc huy động hàng chục triệu thanh thiếu niên được gọi là ""tiểu tướng Hồng vệ binh đến độp phá các cơ quan Đáng, chính quyền, cơ sở văn hoá, đưa ra đấu tố, truy bức, nhục hỉnh nhiều nhà cách mạng lão thành và nhiều nhà khoa học, văn nghệ sĩ, cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sán đã để lại nhiều hộu quá hết súc nghiêm trọng về mọi mặt đối với nhân dân Trung Quốc. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời (9 - 1976), trên toàn đất nước bắt đầu chiến dịch đấu tranh chống lại ""Bè lũ bốn tên""(1). Trung Quốc dần dần đi vào ổn đinh. Về đối ngoại, Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi và Mĩ Latinh. Cũng trong thời kì này, đã xảy ra những cuộc xung đột ở biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Độ (1962), giữa Trung Quốc với Liên Xô (1969). Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ R. Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Tháng 12 - 1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vạch ra đường lối mới do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế - xã hội. Đường lối này được nâng lên thành Đường lối chung qua Đại hội XII (9 - 1982), đặc biệt là Đại hội XIII (10 - 1987) của Đảng: lấy phát triển kinh tế làm trung tâm; kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản (con đường xã hội chủ nghĩa, chuyện chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông); tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa linh hoạt hơn, nhằm hiện đại hoá và xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, với mục tiêu biến Trung Quốc thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Thực hiện đường lối cải cách, đất nước Trung Quốc đã có những biến đổi căn bản. Sau 20 năm (1979 - 1998), nền kinh tế Trung Quốc có bước tiến nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, tổng sán phâm trong nước (GDP) tăng trung bỉnh hàng năm trên 8%, đạt giá trị 7 974 tỉ nhân dân tệ, đứng hàng thứ 7 thế giới. Năm 2000, GDP của Trung Quốc vượt qua ngưỡng nghỉn tỉ đôla Mĩ (USD), đạt 1 080 tỉ USD (tương đương gân 9 000 tỉ nhân dân tệ). Cơ cđu tổng thu nhập trong nước theo khu vục có sự thay đổi lớn, tù chỗ lđy nông nghiệp làm chủ yếu, thỉ đến năm 2000 thu nhập nông nghiệp chỉ chiếm 16%, trong khi đó công nghiệp và xây dụng tăng lên tới 51%, dịch vụ 33%. Đài sống nhân dân được cái thiện rõ rệt: Tù năm 1978 đến năm 1997, thu nhập bỉnh quân đâu ngưài ở nông thôn đã tăng tù 133 lên 2 090 nhân dân tệ; ở thành thị tù 343 lên 5 160 nhân dân tệ." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Khoa học - kĩ thuật, văn hoá và giáo dục Trung Quốc đạt nhiều thành tựu nổi bật. Năm 1964, Trung Quốc thủ thành công bom nguyên tủ. Chương trỉnh thám hiểm không gian được thực hiện tù năm 1992. Tù tháng 11 - 1999 đến tháng 3 - 2003, Trung Quốc đã phóng với chế độ tụ động 4 con tàu ""Thân Châu và ngày 15 - 10 - 2003, tàu ""Thân Châu 5 cùng nhà du hành Dương Lợi Vĩ đã bay vào không gian vũ trụ. Với sự kiện này, Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới (sau Nga, Mì) có tàu cùng với con ngưài bay vào vũ trụ. Trong lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc có nhiều thay đổi. Năm 1979, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mĩ. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc đã bình thuồng hoá quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Inđônêxia,... mở rộng hợp tác với nhiều nuớc trên thế giới. Sau sự kiên quân đội Trung Quốc mở cuộc tiến công biên giới phía Bắc Việt Nam (2 - 1979), quan hệ hai nuớc xấu đi. Tháng 11 - 1991, hai nuớc đã bình thuồng hoá quan hệ ngoại giao.   Trung Quốc đã thu hổi chủ quyền đối với Hổng Công (7 - 1997) và Ma Cao (12 - 1999). Những vùng đất này trở thành khu hành chính đặc biệt của Trung Quốc, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Lãnh thổ Đài Loan gỗm đảo Đài Loan và một số đảo nhỏ xung quanh, là một bộ phận lãnh thổ Trung Quốc, nhung đến nay vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của CHND Trung Hoa. Năm 1949, chính quyền của Quốc dân đảng bị thất bại, phải chạy ra Đài Loan. Trong những năm 50, Đài Loan tiến hành khôi phục kinh tế, đồng thời thực hiện hai ""kế hoạch 5 năm xây dựng kinh tế"", nhờ đó đã đạt được một số thành tựu buớc đầu. Tuy nhiên, Đài Loan vẫn còn nhiều khó khăn: vật giá chua ổn định, tỉ lệ thất nghiệp cao, tài chính vẫn phải dựa vào Mĩ. Buớc sang những năm 60, chính quyền Đài Loan tiến hành nhiều cải cách kinh tế, chính trị, xã hội, kêu gọi đầu tu, mở những khu chế xuất lớn, đua ra chiến luợc kinh tế ""huớng về xuất khẩu"". Nền kinh tế phát triển năng động. Trong vòng ba thập niên xây dựng và phát triển, Đài Loan được coi là một trong những ""con rổng ở Đông Á với mức tăng truởng kinh tế trung bình 8,5%/năm. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế là giáo dục và khoa học - kĩ thuật rất được coi trọng. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Triều Tiên bị chia thành hai miền, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới tạm thời. Theo thoả thuận của Hội nghị Ianta, quân đội Liên Xô đóng ở phía Bắc Triều Tiên, còn phía Nam là quân đội Mĩ. Trong bối cảnh  của cuộc Chiến tranh lạnh, việc thành lập chính phủ chung không được thực hiện. Sau cuộc tổng tuyển cử (5 - 1948), ngày 15 - 8 - 1948 ở khu vực phía Nam Triều Tiên, Nhà nước Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quố được thành lập. Ngày 9 - 9 năm đó, ở phía Bắc, Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên) ra đời. Cuối năm 1948, quân đội Liên Xô rút khỏi miền Bắc. Giữa năm 1949, quân đội Mĩ rút khỏi miền Nam. Ngày 25 - 6 - 1950, cuộc chiên tranh giữa hai miền bùng nổ và kéo dài hơn 3 năm (1950 - 1953). Sau 3 tháng chiến tranh, ngày 15 - 9 - 1950, ""quân đội Liên hợp quốc do Mĩ chỉ huy đã đổ bộ vào cáng Nhân Xuyên giúp đỡ Hàn Quốc. Ngày 25 - 10 năm đó, Quân chí nguyện Trung Quốc tiến vào miền Bắc hỗ trợ cho CHDCND Triều Tiên. Đến đâu mùa hè năm 1951, lực lượng hai bên dùng lại ở vĩ tuyến 38. Ngày 27 - 7 - 1953, tại Bàn Môn Điêm, Hiệp đinh đình chiên được kí kêt giữa hai miền Nam - Bắc Triều Tiên và vẫn lấy vĩ tuyên 38 làm ranh giới quân sự. Hai miền Triều Tiên bước vào thời kì hoà bình và xây dựng." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Sau chiến tranh, nhân dân miền Bắc đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành trước thời hạn kể hoạch 3 năm khôi phục kinh tể (1954 - 1956), CHDCND Triều Tiên đã thực hiện nhiều kế hoạch dài hạn và thu được nhiều thành tựu lớn: hoàn thành điện khí hoá trong cả nước, nền công nghiệp nặng (sản xuất ô tô, máy kéo, toa xe, đầu máy xe lửa và nhiều thiết bị khá đã đáp ứng sự phát triển kinh tố - xã hội trong nước. Cơ sở hạ tầng phát triển. Thủ đô Bình Nhưỡng có hệ thống tàu điện ngầm, giao thông thuận tiện và nhiều toà nhà chọc trời với ba bốn chục tầng...  Nền kinh tế của CHDCND Triều Tiên mang tính kế hoạch hoá tập trung cao độ. Đất nông nghiệp được tập thể hoá, các ngành công nghiệp do nhà nước quản lí. Công nghiệp nặng được chú trọng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng. Mặc dù việc mở cửa thị trường đã được tuyên bố từ năm 1995, nhưng kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn. Đất nước vẫn phải đối mặt với nạn khan hiếm lương thực. Văn hoá, giáo dục có bước tiến đáng kể. Năm 1949, Triều Tiên hoàn thành xoá nạn mù chữ. Chính phủ thi hành chương trình giáo dục 10 năm bắt buộc và miễn phí" 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Tình hình kinh tế xã hội Hàn Quốc trong những năm sau chiến tranh vô cùng khó khăn, chính trị không ổn định. Năm 1961, GDP bình quân theo đầu người chỉ đạt 82 USD, ngang với các nước nghèo ở châu A và Châu Phi. Nhưng từ thập kỉ 60 trở đi, kinh tế Hàn Quốc từng bước có những thay đổi lớn: từ nước nghèo nàn, lạc hậu, sau ba thập niên phát triển, Hàn Quốc trở thành một trong bốn ""con rồng kinh tế ở châu A(1) với tỉ lệ tăng trưởng GDP hằng năm đạt từ 7% 10% (1970 1990). Sau 6 kế hoạch 5 năm (1962 1991), tổng sán phâm quốc dân (GNP) tăng 140 lần, từ 2,3 tỉ USD (1962) lên 329,8 tỉ USD (1992). Thu nhập bỉnh quân theO đầu người từ 87 USD (1962) lên 7 527 USD (1992) và 9 438 USD (1999) gấp 7 lần Ấn Độ, hơn 13 lần CHDCND Triều Tiên. Cơ cấu kinh tế biến đổi làm thay đổi diện mạo nền kinh tế truyền thống. Trong thời gian 1962 - 1998, nông nghiệp từ chỗ chiếm 36,6% GNP, chỉ còn 5%; công nghiệp tăng từ 14,4% lên 45%; dịch vụ từ 24,1% lên 50%. Hàn Quốc có nền công nghiệp phát triển, nền nông nghiệp tiên tiến, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, xã hội thông tin cao. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Hệ thống đường cao tốc ngày càng phát triển với 1 996 km (1998), mạng lưới tàu điện ngâm ở thủ đô đúng thú 6 trên thế giới. Hàn Quốc có 31,7 triệu máy điện thoại các loại trên tổng số 47,4 triệu dân (1998). Từ năm 1993, Hàn Quốc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế nhằm mục tiêu sớm tham gia vào câu lạc bộ các nước công nghiệp phát triển. Năm 1997, cùng với một số nước Đông Nam Á, Hàn Quốc phải trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rất nặng nề. Tuy vậy, nền kinh tế của Hàn Quốc vẫn được xếp vào thứ 11 trên thế giới và đã tiếp cận với các quốc gia phát triển. Giáo dục ở Hàn Quốc là lĩnh vực được đánh giá cao trong nền văn hoá Hàn Quốc, được coi là chìa khoá của sự thành công. Hàn Quốc thực hiện chế độ học tập bắt buộc trong 6 năm, từ 6 đến 12 tuổi." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Sau chiến tranh Triều Tiên, vào những thập kỉ 50 và 60, Nam - Bắc bán đảo Triều Tiên ở trong tình trạng đối đầu. Từ những năm 70 trở đi, quan hệ giữa hai miền có sự thay đổi, chuyển dần sang đối thoại. Năm 1990, vấn đề đối thoại Nam - Bắc có bước đột phá mới: sau nhiều cuộc gặp gỡ, các nhà lãnh đạo cấp cao của hai bên đã đi đến nhất trí ""xoá bỏ tình trạng đối lập về chính trị và quân sự giữa hai miền Nam - Bắc, tiến hành giao lưu và hợp tác nhiều mặt"". Ngày 13 - 6 - 2000, hai nhà lãnh đạo cao nhất là Tổng thống Kim Tê Chung (Hàn Quố và Chủ tịch Kim Châng In (CHDCND Triều Tiên) đã gặp gỡ ở Bình Nhưỡng và kí hiệp định hoà hợp giữa hai quốc gia, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa hai miền. Quá trình hoà hợp và thống nhất bán đảo Triều Tiên tuy có tiến triển nhưng còn lâu dài, khó khăn và phức tạp." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Sau cuộc Chiến tranh thuốc phiện (1840 - 1842), lịch sử Trung Quốc chuyển sang một thời kì mới. Đó là thời kì Trung Quốc bị các nước đế quốc Âu - Mĩ đua nhau xâm lược và chia xẻ; cũng là thời kì nhân dân Trung Quốc đấu tranh anh dũng, liên tục và rộng khắp chống xâm lược, chống phong kiến Mãn Thanh mà đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911)." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Từ thế kỉ XVIII và nhất là sang thế kỉ XIX, các nước tư bản phương Tây tăng cường xâm chiếm thị trường thế giới. Trung Quốc là một nước lớn, đông dân nhất Châu Á, cũng đứng trước nguy cơ trở thành ""miếng mồi"" cho các nước đế quốc phân chia, xâu xé. Để xâm chiếm Trung Quốc, các nước tư bản phương Tây, trước tiên là Anh, tìm mọi cách đòi chính quyền Mãn Thanh phải ""mở cửa"", đòi tự do buôn bán thuốc phiện - món hàng mang lại lợi nhuận lớn cho giới tư bản. Viện cớ chính quyền Mãn Thanh tịch thu và đốt thuốc phiện của các tàu buôn Anh, thực dân Anh đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc, được gọi là Chiến tranh thuốc phiện, bắt đầu từ tháng 6 -1840 và kết thúc vào tháng 8 -1842. Chính quyền Mãn Thanh phải kí Hiệp ước Nam Kinh, chấp nhận các điều khoản theo yêu cầu của thực dân Anh như: bồi thường chiến phí, nhượng lại Hồng Công và mở cửa 5 cửa biển cho tàu của Anh được ra vào buôn bán. Đây là mốc mở đầu quá trình biến Trung Quốc từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Sau Chiến tranh thuốc phiện, các nước đế quốc từng bước xâu xé Trung Quốc. Đến cuối thế kỉ XIX, Đức đã chiếm vùng Sơn Đông; Anh chiếm vùng châu thổ sông Dương Tử (Trường Giang); Pháp chiếm vùng Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông; Nga, Nhật Bản chiếm đóng vùng Đông Bắc..." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Trước sự xâm lược của các nước đế quốc và thái độ thoả hiệp của triều đình Mãn Thanh, từ giữa thế kỉ XIX nhân dân Trung Quốc liên tục nổi dậy đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa Thái bình Thiên quốc dưới sự lãnh đạo của Hồng Tú Toàn, nổ ra ngày 1 - 1 - 1851 ở Kim Điền (Quảng Tây), sau đó lan rộng ra nhiều địa phương khác. Đây là phong trào nông dân lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa kéo dài suốt 14 năm (từ 1851 đến 1864). Nghĩa quân đã xây dựng được chính quyền Trung ương ở Thiên Kinh (tức Nam Kinh) và thi hành nhiều chính sách tiến bộ. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, chính sách bình quân ruộng đất, quyền bình đẳng nam nữ... được đề ra. Ngày 19 - 7 - 1864, được sự giúp đỡ của các nước đế quốc, chính quyền Mãn Thanh đã tấn công Thiên Kinh, đàn áp phong trào. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Cuối thế kỉ XIX, trong bối cảnh các nước đế quốc tăng cường xâu xé Trung Quốc, một số nhân vật tiến bộ thuộc giới sĩ phu Trung Quốc chủ trương tiến hành cải cách để cứu vãn tình thế. Đó là cuộc vận động Duy tân năm Mậu Tuất (1898) do hai nhà nho yêu nước Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lãnh đạo, với sự đồng tình và ủng hộ của vua Quang Tự. Phong trào phát triển chủ yếu trong các tầng lớp quan lại, sĩ phu có ý thức tiếp thu tư tưởng tiên tiến mà không dựa vào lực lượng nhân dân. Vì vậy, cuộc vận động Duy tân đã nhanh chóng thất bại khi vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái thủ cựu trong giai cấp phong kiến do Thái hậu Từ Hi cầm đầu." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Ngày 21 - 9 - 1898, khi phong trào Duy tân mới diễn ra hơn 100 ngày, Thái hậu Từ Hi làm cuộc chính biến, ra lệnh bắt vua Quang Tự, tịch thu ấn tín, bắt và xử tử những người lãnh đạo phái Duy tân; Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu phải lánh ra nước ngoài. Gần như đồng thời với phong trào Duy tân, một cuộc khởi nghĩa vũ trang của nông dân chống đế quốc đã diễn ra ở miền Bắc Trung Quốc - phong trào Nghĩa Hoà đoàn. Bùng nổ ở Sơn Đông, phong trào nhanh chóng lan rộng ra Trực Lê, Sơn Tây. Nghĩa quân tấn công các sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh. Ngay sau đó, liên quân 8 nước (Anh, Nhật Bản, Đức, Mĩ, Nga, Pháp, Áo - Hung, I-ta-li-a) tiến vào Bắc Kinh, đàn áp phong trào. Nghĩa Hoà đoàn đã chiến đấu chống xâm lăng, nhưng cuối cùng bị đánh bại vì thiếu sự lãnh đạo thống nhất, thiếu vũ khí. Nhà Mãn Thanh lại một lần nữa đầu hàng đế quốc, kí Điều ước Tân Sửu (1901), theo đó Trung Quốc phải trả một khoản tiền lớn để bồi thường chiến tranh và buộc phải để cho các nước đế quốc được quyền đóng quân ở Bắc Kinh. Với Điều ước Tân Sửu, Trung Quốc đã thực sự trở thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đã lớn mạnh lên rất nhiều vào đầu thế kỉ XX. Họ bị tư bản nước ngoài và triều đình phong kiến Mãn Thanh chèn ép, kìm hãm. Dựa vào các cuộc đấu tranh bền bỉ của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản Trung Quốc bắt đầu thành lập các tổ chức chính trị của mình. Tôn Trung Sơn là đại diên ưu tú và là lãnh tụ của phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc. Tôn Trung Sơn sinh năm 1866 ở tỉnh Quảng Đông, trong một gia đình nông dân. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Hô-nô-lu-lu (Ha-oai) vì có người anh buôn bán ở đây. Sau đó, ông tiếp tục học ở Hồng Công, rồi học y khoa ở Quảng Châu. Ông đã đi nhiều nước trên thế giới, có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng dân chủ Âu - Mĩ một cách có hệ thống. Đứng trước nguy cơ đất nước bị xâm lược ngày càng nghiêm trọng, ông nhìn thấy rõ sự thối nát của chính quyền Mãn Thanh nên sớm nảy nở tư tưởng cách mạng lật đổ triều Thanh, xây dựng một xã hội mới." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Đầu năm 1905, phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến của nhân dân Trung Quốc đã lan rộng khắp các tỉnh. Hoa kiều ở nước ngoài cũng nhiệt liệt hưởng ứng phong trào. Trước tình hình đó, Tôn Trung Sơn từ Châu Âu về Nhật Bản, hội bàn với những người đứng đầu các tổ chức cách mạng trong nước để thống nhất lực lượng thành một chính đảng. Tháng 8 - 1905, Trung Quốc Đồng minh hội - chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời. Tham gia tổ chức này có trí thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, thân sĩ bất bình với nhà Thanh, cùng một số ít đại biểu công nông. Cương lĩnh chính trị của Đồng minh hội, dựa trên học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn, nêu rõ: ""Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc"". Mục tiêu của Hội là đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, thực hiện quyền bình đẳng về ruộng đất cho dân cày. Dưới sự lãnh đạo của Đồng minh hội, phong trào cách mạng Trung Quốc phát triển theo con đường dân chủ tư sản. Tôn Trung Sơn và nhiều nhà cách mạng khác đã tích cực chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Ngày 9 - 5 - 1911, chính quyền Mãn Thanh ra sắc lệnh ""Quốc hữu hoá đường sắt"", thực chất là trao quyền kinh doanh đường sắt cho các nước đế quốc, bán rẻ quyền lợi dân tộc. Sự kiện này đã gây nên một làn sóng căm phẫn công khai trong quần chúng nhân dân và trong tầng lớp tư sản, châm ngòi cho một cuộc cách mạng. Ngày 10 -10 -1911, Đồng minh hội phát động khởi nghĩa ở Vũ Xương. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng và lan rộng ra tất cả các tỉnh miền Nam và miền Trung Trung Quốc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Ngày 29 -12 -1911, Quốc dân đại hội (gồm đại biểu các tỉnh nổ ra cách mạng) họp ở Nam Kinh, tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân quốc, bầu Tôn Trung Sơn làm Đại Tổng thống, đứng đầu Chính phủ lâm thời. Tại đại hội này, Hiến pháp lâm thời được thông qua, công nhận quyền bình đẳng và quyền tự do dân chủ của mọi công dân, nhưng không đề cập đến vấn đề ruộng đất của nông dân như đã được ghi trong Cương lĩnh của Đồng minh hội. Trước thắng lợi bước đầu của cách mạng, một số người lãnh đạo Đồng minh hội chủ trương thương lượng với Viên Thế Khải - một đại thần của triều đình Mãn Thanh. Theo thoả thuận, sau khi đã ép buộc vua Thanh thoái vị, Tôn Trung Sơn buộc phải từ chức (2 - 1912), ngày 6-3-1912 Viên Thế Khải tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống Trung Hoa Dân quốc. Trên thực tế, cách mạng đến đây chấm dứt. Các thế lực phong kiến quân phiệt lên nắm chính quyền. Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, đã lật đổ triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyện chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở đuờng cho chủ nghĩa tư bản phát triển và có ảnh huởng nhất định đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nuớc Châu Á. Cách mạng Tân Hợi tuy thành lập ""Dân quốc"" nhưng đã không thủ tiêu thực sự giai cấp phong kiến, không đụng chạm đến các nước đế quốc xâm lược và không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Trên lưu vực các dòng sông lớn ở Châu Á, Châu Phi từ khoảng thiên niên kỉ IV trước Công nguyên (TCN), cư dân phương Đông đã biết tới nghề luyện kim, làm nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Họ đã xây dựng nên những quốc gia đầu tiên của mình, đó là xã hội có giai cấp đầu tiên mà trong đó thiểu số người có của thống trị đa số thành viên công xã và nô lệ. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước ở các quốc gia cổ đại phương Đông không giống nhau, nhưng thể chế chung là chế độ quân chủ chuyện chế, trong đó vua là người nắm mọi quyền hành và được cha truyền, con nối. Phương Đông cũng là cái nôi của văn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết, văn học, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Sự xuất hiện công cụ bằng kim loại đã báo hiệu sự tan vỡ hoàn toàn của chế độ công xã thị tộc và là khởi đầu của thời đại văn minh - thời đại con người sản xuất ra ngày càng nhiều của cải, biết xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ, có chữ viết, nghệ thuật, khoa học và văn chương. Bước chuyển mình vĩ đại đó đã diễn ra đầu tiên ở phương Đông, trên lưu vực của các dòng sông lớn như sông Nin ở Ai Cập; ơ-phơ-rát và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà; sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ; Hoàng Hà ở Trung Quốc v.v... Ở đây có những điều kiện thiên nhiên hết sức thuận lợi cho đời sống của con người. Những đồng bằng ven sông rộng, đất đai phì nhiêu và mềm xốp, dễ canh tác, lượng mưa đều đặn phân bố theo mùa, có khí hậu ấm nóng (trừ Trung Quốc). Vào mùa mưa hằng năm, nước sông dâng cao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp đất phù sa màu mỡ, thích hợp cho việc gieo trồng các loại cây lương thực. Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên khoảng 3500 - 2000 năm TCN, cư dân đã tập trung khá đông theo từng bộ lạc trên các thềm đất cao gần sông. Đầu tiên là cư dân cổ ở Tây Á và Ai Cập, rồi đến lượt cư dân trên các lưu vực sông còn lại. Lúc này, họ đã biết sử dụng đồng thau cùng với những công cụ bằng đá, tre và gỗ. Cư dân trên lưu vực những dòng sông lớn ở Châu Á và Châu Phi sống chủ yếu bằng nghề nông. Họ đã biết trồng mỗi năm 2 vụ lúa. Nhưng để đạt được điều đó, trước tiên người dân ở đây phải lo xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đắp để ngăn lũ, đào kênh máng dẫn nước... Công việc trị thuỷ khiến mọi người liên kết, gắn bó với nhau trong tổ chức công xã. Ngoài việc ""lấy nghề nông làm gốc"", các cư dân nông nghiệp cổ này còn kết hợp nuôi gia súc, làm đồ gốm và dệt vải để đáp ứng nhu cầu hằng ngày của mình. Họ tiến hành trao đổi sản phẩm giữa vùng này với vùng khác. Đó là những ngành kinh tế bổ trợ cho nghề nông." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Sự xuất hiện công cụ bằng kim loại đã báo hiệu sự tan vỡ hoàn toàn của chế độ công xã thị tộc và là khởi đầu của thời đại văn minh - thời đại con người sản xuất ra ngày càng nhiều của cải, biết xây dựng những công trình kiến trúc đồ sộ, có chữ viết, nghệ thuật, khoa học và văn chương. Bước chuyển mình vĩ đại đó đã diễn ra đầu tiên ô phương Đông, trên lưu vực của các dòng sông lớn như sông Nin ô Ai Cập; ơ-phơ-rát và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà; sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ; Hoàng Hà ở Trung Quốc v.v... Ở đây có những điều kiện thiên nhiên hết sức thuận lợi cho đời sống của con người. Những đồng bằng ven sông rộng, đất đai phì nhiêu và mềm xốp, dễ canh tác, lượng mưa đều đặn phân bố theo mùa, có khí hậu ấm nóng (trừ Trung Quốc. Vào mùa mưa hằng năm, nước sông dâng cao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp đất phù sa màu mỡ, thích hợp cho việc gieo trồng các loại cây lương thực. Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên khoảng 3500 - 2000 năm TCN, cư dân đã tập trung khá đông theo từng bộ lạc trên các thềm đất cao gần sông. Đầu tiên là cư dân cổ ở Tây Á và Ai Cập, rồi đến lượt cư dân trên các lưu vực sông còn lại. Lúc này, họ đã biết sử dụng đồng thau cùng với những công cụ bằng đá, tre và gỗ. Cư dân trên lưu vực những dòng sông lớn ở Châu Á và Châu Phi sống chủ yếu bằng nghề nông. Họ đã biết trồng mỗi năm 2 vụ lúa. Nhưng để đạt được điều đó, trước tiên người dân ở đây phải lo xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đắp để ngăn lũ, đào kênh máng dẫn nước... Công việc trị thuỷ khiến mọi người liên kết, gắn bó với nhau trong tổ chức công xã. Ngoài việc ""lấy nghề nông làm gốc"", các cư dân nông nghiệp cổ này còn kết hợp nuôi gia súc, làm đồ gốm và dệt vải để đáp ứng nhu cầu hằng ngày của mình. Họ tiến hành trao đổi sản phẩm giữa vùng này với vùng khác. Đó là những ngành kinh tế bổ trợ cho nghề nông." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Sản xuất phát triển tất yếu dẫn đến sự phân hoá xã hội, xuất hiện kẻ giàu, người nghèo, quý tộc và bình dân; trên cơ sở đó, giai cấp và nhà nước đã ra đời. Các quốc gia cổ đại phương Đông được hình thành từ rất sớm. Trên lưu vực sông Nin, vào khoảng giữa thiên niên kỉ IV TCN, cư dân Ai Cập cổ đại đã khá đông đúc, sống tập trung theo từng công xã. Để huy động được nhiều nhân công làm thuỷ lợi, các công xã đã tự kết hợp lại thành các liên minh công xã, gọi là các ""Nôm"". Khoảng 3200 năm TCN, một quý tộc có thế lực đã chinh phục được tất cả các Nôm và thành lập nhà nước Ai Cập thống nhất. Ở lưu vực Lưỡng Hà, vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, hàng chục nước nhỏ của người Su-me đã được hình thành. Ở Ấn Độ, những quốc gia cổ đại đầu tiên đã ra đời trên lưu vực sông Ấn từ khoảng giữa thiên niên kỉ III TCN. Chế độ công xã nguyên thuỷ ở Trung Quốc tan rã vào khoảng cuối thiên niên kỉ III TCN. Vương triều nhà Hạ được hình thành vào khoảng thế kỉ XXI TCN đã mở đầu cho xã hội có giai cấp và nhà nước ở Trung Quốc. Như thế, các quốc gia cổ đại phương Đông đều đã được hình thành từ khoảng thiên niên kỉ IV - III TCN. Đây là những nhà nước ra đời vào loại sớm nhất thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Nhu cầu của công tác trị thuỷ các dòng sông và xây dựng các công trình thuỷ lợi đã khiến những người nông dân ở những vùng này gắn bó và ràng buộc với nhau trong khuôn khổ của công xã nông thôn. Các thành viên của công xã được gọi là nông dân công xã. Nông dân công xã là bộ phận đông đảo nhất, có vai trò to lớn trong sản xuất. Họ nhận ruộng đất của công xã để canh tác, song phải nộp một phần sản phẩm thu hoạch được và làm không công cho quý tộc. Trong quá trình phân hoá xã hội, đứng đầu giai cấp thống trị là những ông vua chuyện chế và đội ngũ đông đảo quý tộc, quan lại, chủ ruộng đất và tầng lớp tàng lữ. Đó là tầng lớp có nhiều của cải và quyền thế, giữ chức vụ tôn giáo hoặc quản lí bộ máy nhà nước, địa phương... Họ sống giàu sang bằng sự bóc lột, bổng lộc do nhà nước cấp và do chức vụ đem lại. Nô lệ là tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Họ có nguồn gốc là những tù binh bị bắt trong chiến tranh hay những nông dân nghèo không trả được nợ. Họ chuyện làm các việc nặng nhọc và hầu hạ tầng lớp quý tộc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Nhờ sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, các cư dân phương Đông đã sớm bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước ngay từ buổi đầu của thời đại đồ đồng. Từ thiên niên kỉ IV đến thiên niên kỉ 11 TCN, xã hội có giai cấp và nhà nước đều đã được hình thành ở lưu vực sông Nin, sông Ti-gơ-rơ và ơ-phơ-rát, sông An, sông Hằng và Hoàng Hà. Xã hội có giai cấp và nhà nước được hình thành từ liên minh bộ lạc, tức là nhiều bộ lạc có quan hệ thân thuộc với nhau, liên kết với nhau do nhu cầu trị thuỷ và xây dựng các công trình thuỷ lợi. Nhà nước được lập ra để điều hành và quản lí xã hội. Cơ cấu bộ máy nhà nước đó mang tính chất của một nhà nước chuyện chế trung ương tập quyển. Đứng đầu nhà nước là vua. Để cai trị nông dân công xã và nô lệ, vua đã dựa vào quý tộc và tôn giáo, bắt mọi người phải phục tùng. Vua tự coi mình là người đại diện của thần thánh ở dưới trần gian, người chủ tối cao của đất nước, tự quyết định mọi chính sách và công việc. Vua trở thành vua chuyện chế mà người Ai Cập gọi là Pharaôn (cái nhà lớn), người Lưỡng Hà gọi là Enxi (người đứng đầu), Trung Quốc gọi là Thiên tử (con Trời)..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Giúp việc cho nhà vua là một bộ máy hành chính quan liêu gồm toàn quý tộc, đứng đầu là Vidia (Ai Cập) hoặc Thừa tướng (Trung Quốc. Bộ máy này làm các việc thu thuế, xây dựng các công trình công cộng như đền tháp, cung điện, đường sá và chỉ huy quân đội. Như thế, chế độ nhà nước của xã hội có giai cấp đầu tiên ở phương Đông, trong đó vua là người đứng đầu, có quyền lực tối cao, gọi là chế độ chuyện chế cổ đại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Sự xuất hiện xã hội có giai cấp và nhà nước không chỉ dẫn đến áp bức, bóc lột, đấu tranh... mà còn là một biểu hiện của thời đại văn minh, trong đó con người sản xuất được của cải dồi dào hơn trước và sáng tạo trong đời sống văn hoá tinh thần. Sự ra đời của Lịch pháp và Thiên văn học Những tri thức Thiên văn học và Lịch pháp học ra đời vào loại sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông. Nó gắn liên với nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Đê cày cấy đúng thời vụ, những người nông dân luôn phải ""trông trời, trông đất"". Dần dần, họ biết đến sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Đó là những tri thức đầu tiên về thiên văn. Từ tri thức đó, người phương Đông sáng tạo ra lịch. Vì vậy, lịch của họ là nông lịch, một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng. Đây cũng là cơ sở để người ta tính chu kì thời gian và mùa. Thời gian được tính bằng năm, tháng, tuần, ngày. Năm lại có mùa; mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi. Thời đó, con người còn biết đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời và tính được mỗi ngày có 24 giờ. Thiên văn học sơ khai và lịch đã ra đời như thế." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông," Chữ viết: Sự phát triển của đời sống làm cho quan hệ của xã hội loài người trở nên phong phú và đa dạng; người ta cần ghi chép và lưu giữ những gì đã diễn ra. Chữ viết ra đời bắt nguồn từ nhu cầu đó. Chữ viết là một phát minh lớn của loài người. Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Lúc đầu, chữ viết chỉ là hình vẽ những gì mà họ muốn nói, sau đó họ sáng tạo thệm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Chữ viết theo cách đó gọi là chữ tượng hình. Người Trung Hoa xưa vẽ để chỉ ruộng, vẽ để chỉ cây và vẽ để chỉ rừng. Người A Cập xưa vẽ để chỉ nhà, vẽ chỉ mồm, vẽ chỉ Mặt Trời... Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người. Nguyên liệu được dùng để viết của người Ai Cập là giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy v6t nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông," Toán học: Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng, nên Toán học xuất hiện rất sớm ở phương Đông. Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản. Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi bằng 3,16; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v... Còn người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu. Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên. Những hiểu biết về toán học của người xưa đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.   " 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông," Kiến trúc: Trong nền văn minh cổ đại phương Đông, nghệ thuật kiến trúc phát triển rất phong phú. Nhiều di tích kiến trúc cách đây hàng nghìn năm vẫn còn lưu lại như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở An Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà ... Những công trình cổ xưa này là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người" 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên,"Những khó khăn về kinh tế đã dẫn tới biến động về chính trị. Năm 1959, Lưu Thiếu Kì được cử làm Chủ tịch nước, Mao Trạch Đông chỉ giữ cương vị Chủ tịch Đảng Cộng sản. Trong nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc đã bộc lộ sự bất đồng gay gắt về đường lối, nổ ra cuộc đấu tranh giành quyền lực, đỉnh cao là cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sản (1966 - 1976). Bằng việc huy động hàng chục triệu thanh thiếu niên được gọi là ""tiểu tướng Hồng vệ binh đến độp phá các cơ quan Đáng, chính quyền, cơ sở văn hoá, đưa ra đấu tố, truy bức, nhục hỉnh nhiều nhà cách mạng lão thành và nhiều nhà khoa học, văn nghệ sĩ, cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sán đã để lại nhiều hộu quá hết súc nghiêm trọng về mọi mặt đối với nhân dân Trung Quốc. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời (9 - 1976), trên toàn đất nước bắt đầu chiến dịch đấu tranh chống lại ""Bè lũ bốn tên""(1). Trung Quốc dần dần đi vào ổn định. Về đối ngoại, Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi và Mĩ Latinh. Cũng trong thời kì này, đã xảy ra những cuộc xung đột ở biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Độ (1962), giữa Trung Quốc với Liên Xô (1969). Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ R. Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông,"Nhờ sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, các cư dân phương Đông đã sớm bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước ngay từ buổi đầu của thời đại đồ đồng. Từ thiên niên kỉ IV đến thiên niên kỉ 11 TCN, xã hội có giai cấp và nhà nước đều đã được hình thành ở lưu vực sông Nin, sông Ti-gơ-rơ và ơ-phơ-rát, sông An, sông Hằng và Hoàng Hà. Xã hội có giai cấp và nhà nước được hình thành từ liên minh bộ lạc, tức là nhiều bộ lạc có quan hệ quân thuộc với nhau, liên kết với nhau do nhu cầu trị thuỷ và xây dựng các công trình thuỷ lợi. Nhà nước được lập ra đề điều hành và quản lí xã hội. Cơ cấu bộ máy nhà nước đó mang tính chất của một nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền. Đứng đầu nhà nước là vua. đề cai trị nông dân công xã và nô lệ, vua đã dựa vào quý tộc và tôn giáo, bắt mọi người phải phục từng. Vua tự coi mình là người đại diện của thần thánh ở dưới trần gian, người chủ tối cao của đất nước, tự quyết định mọi chính sách và công việc. Vua trở thành vua chuyên chế mà người Ai Cập gọi là Pharaôn (cái nhà lớn), người Lưỡng Hà gọi là Enxi (người đứng đầu), Trung Quốc gọi là Thiên tử (con Trời)..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông," Toán học: Do nhu cầu tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi ngập nước, tính toán trong xây dựng, nên Toán học xuất hiện rất sớm ở phương Đông. Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản. Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi bằng 3,16; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v... Còn người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu. Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên. Những hiểu biết về toán học của người xưa đã đề lại nhiều kinh nghiệm quý, chuẩn bị cho bước phát triển cao hơn ở thời sau.   " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bản đảo Triều Tiên,"Sau khi kết thức thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân phiệt Nhật, ở Trung Quốc dã diễn ra cuộc nội chiến giữa Quốc dân dảng và Đảng Cộng sản, kéo dài hơn 3 năm (1946 - 1949). Ngày 20 - 7 - 1946, Tưởng Giới Thạch chính thức phát động cuộc nội chiến chống Đáng Cộng sán. từ tháng 7 - 1946 đến tháng 6 - 1947, Quân giải phóng Trung Quốc'c thực hiện chiến lược phòng ngụ tích cục. Sau giai đoạn này, Quân giải phóng chuyển sang phán công, tiến vào các vùng do Quốc dân đáng kiểm soát. Bằng ba chiến dịch lớn (Liêu - Thâm, Hoài - Hái, bình - Tân) từ cuối năm 1948 đến đấu năm 1949, Quân giái phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 1 540 000 tên địch, lực lượng chủ lực của địch bị tổn thất nghiêm trọng. Ngày 23 - 4 - 1949, Nam Kinh, thủ phủ của chính quyền Tưởng Giới Thạch, được giái phóng. Cuối năm 1949, cuộc nội chiến kết thức, toàn bộ lực dịa Trung Quốc dựợc giải phóng. Tập doàn Tưởng Giới Thạch thất bại, phải rút chạy ra Đài Loan. Ngày 1 - 10 - 1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức được thành lập, dứng dầu là Chủ tịch Mao Trạch Đông.  " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bản đảo Triều Tiên,"Trong những năm 1953 - 1957, 246 công trình đã được xây dụng và đưa vào sán xuất; đến năm 1957, sán lượng công nghiệp tỡng 140%, sán luợng nông nghiệp tỡng 25% (so với năm 1952). Các ngành công nghiệp nặng như chế tạo cơ khí, luyện kim, điện lực, khai thác than,... phát triển nhanh. Trung Quốc đã tự sán xuất được 60% số máy móc cần thiết. Vỡn hoá, giáo dục có những bưốc tiến lốn. Đài số'ng nhân dân được cái thiện.  Về đối ngoại, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao tích cực nhằm củng cố hoà bình và thức đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Địa vị quốc tế của Trung Quốc được nâng cao. Ngày 14 - 2 - 1950, Trung Quốc kí với Liên Xô ""Hiệp ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ Trung - Xô và nhiều hiệp ước kinh tế, tài chính khác; phái Quân chí nguyện sang giúp nhân dân Triều Tiên chống Mĩ (1950 - 1953); giúp đì nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp; ủng hộ các nước Á, Phi và Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; năm 1955, tham gia Hội nghị các nước Á - Phi ở Băngđung (Inđônêxi. Ngày 18 - 1 - 1950, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bản đảo Triều Tiên,"Khoa học - kĩ thuật, văn hoá và giáo dục Trung Quốc đạt nhiều thành tựu nổi bật. Năm 1964, Trung Quốc thủ thành công bom nguyên tủ. Chương trình thám hiểm không gian được thực hiện từ năm 1992. từ tháng 11 - 1999 đến tháng 3 - 2003, Trung Quốc đã phóng với chế độ tự động 4 con tàu ""quân Châu và ngày 15 - 10 - 2003, tàu ""quân Châu 5 cùng nhà du hành dương Lợi Vĩ đã bay vào không gian vũ trụ. Với sự kiện này, Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới (sau Nga, Mì) có tàu cùng với con ngưài bay vào vũ trụ. Trong lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc có nhiều thay đổi. Năm 1979, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mĩ. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc đã bình thuồng hoá quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ, Inđônêxia,... mở rộng hợp tác với nhiều nước trên thế giới. Sau sự kiên quân đội Trung Quốc mở cuộc tiến công biên giới phía Bắc Việt Nam (2 - 1979), quan hệ hai nước xấu đi. Tháng 11 - 1991, hai nước đã bình thuồng hoá quan hệ ngoại giao.   Trung Quốc đã thu hổi chủ quyền đối với Hồng Công (7 - 1997) và Ma Cao (12 - 1999). Những vùng đất này trở thành khu hành chính đặc biệt của Trung Quốc, góp phần thức đẩy nền kinh tế phát triển." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đã lớn mạnh lên rất nhiều vào đầu thế kỉ XX. Họ bị tư bản nước ngoài và triều đình phong kiến Mãn Thanh chèn ép, kìm hãm. Dựa vào các cuộc đấu tranh bền bỉ của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản Trung Quốc bắt đầu thành lập các tổ chức chính trị của mình. Tôn Trung Sơn là đại diện ưu tú và là lãnh tự của phong trào cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Trung Quốc. Tôn Trung Sơn sinh năm 1866 ở tỉnh Quảng Đông, trong một gia đình nông dân. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Hô-nô-lu-lu (Ha-oai) vì có người anh buôn bản ở đấy. Sau đó, ông tiếp tục học ở Hồng Công, rồi học y khoa ở Quảng Châu. Ông đã đi nhiều nước trên thế giới, có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng dân chủ Âu - Mĩ một cách có hệ thông. Đứng trước nguy cơ đất nước bị xâm lược ngày càng nghiêm trọng, ông nhìn thấy rõ sự thối nát của chính quyền Mãn Thanh nên sớm nảy nở tư tưởng cách mạng lật đổ triều Thanh, xây dựng một xã hội mới." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 3: Trung Quốc,"Đầu năm 1905, phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến của nhân dân Trung Quốc đã lan rộng khắp các tỉnh. Hoa kiều ở nước ngoài cũng nhiệt liệt hưởng ứng phong trào. trước tình hình đó, Tôn Trung Sơn từ Châu Âu về Nhật Bản, hội bàn với những người đứng đầu các tổ chức cách mạng trong nước đề thống nhất lực lượng thành một chính đảng. Tháng 8 -1905, Trung Quốc đồng minh hội - chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc ra đời. Tham gia tổ chức này có trí thức tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, quân sĩ bất bình với nhà Thanh, cùng một số ít đại biểu công nông. Cương lĩnh chính trị của đồng minh hội, dựa trên học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn, nêu rõ: ""Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc"". Mục tiêu của Hội là đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, thực hiện quyền bình đẳng về ruộng đất cho dân cày.  dưới sự lãnh đạo của đồng minh hội, phong trào cách mạng Trung Quốc phát triển theo con đường dân chủ tư sản. Tôn Trung Sơn và nhiều nhà cách mạng khác đã tích cực chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Ngày 9 - 5 -1911, chính quyền Mãn Thanh ra sắc lệnh ""Quốc hữu hoá đường sắt"", thực chất là trao quyền kinh doanh đường sắt cho các nước đế quốc, bản rẻ quyền lợi dân tộc. Sự kiên này đã gậy nên một làn sóng căm phẫn công khai trong quần chúng nhân dân và trong tầng lớp tư sản, châm ngòi cho một cuộc cách mạng. Ngày 10 -10 -1911, đồng minh hội phát động khởi nghĩa ở Vũ Xương. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng và lan rộng ra tất cả các tỉnh miền Nam và miền Trung Trung Quốc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 3: Các quốc gia cổ đại phương đông," Chữ viết: Sự phát triển của đời sống làm cho quan hệ của xã hội loài người trở nên phong phú và đa dạng; người ta cần ghi chép và lưu giữ những gì đã diễn ra. Chữ viết ra đời bắt nguồn từ nhu cầu đó. Chữ viết là một phát minh lớn của loài người. Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Lúc đầu, chữ viết chỉ là hình vẽ những gì mà họ muốn nói, sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Chữ viết theo cách đó gọi là chữ tượng hình. Người Trung Hoa xưa vẽ để chỉ ruộng, vẽ để chỉ cây và vẽ để chỉ rừng. Người A Cập xưa vẽ để chỉ nhà, vẽ chỉ mồm, vẽ chỉ Mặt Trời... Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người. Nguyên liệu được dùng để viết của người Ai Cập là giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thử hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 3: Trung Quốc và bản đảo Triều Tiên,"Những khó khăn về kinh tế đã dẫn tới biến động về chính trị. Năm 1959, Lưu Thiếu Kì được cử làm Chủ tịch nước, Mao Trạch Đông chỉ giữ cương vị Chủ tịch Đảng Cộng sản. Trong nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc đã bộc lộ sự bất đồng gay gắt về đường lối, nổ ra cuộc đấu tranh giành quyền lực, đỉnh cao là cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sản (1966 - 1976)"". Bằng việc huy động hàng chục triệu thanh thiếu niên được gọi là ""tiểu tướng Hồng vệ binh"" đến đập phá các cơ quan Đảng, chính quyền, cơ sở văn hoá, đưa ra đấu tố, truy bức, nhục hình nhiều nhà cách mạng lão thành và nhiều nhà khoa học, văn nghệ sĩ, cuộc ""Đại cách mạng văn hoá vô sán"" đã để lại nhiều hậu quả hết sức nghiêm trọng về mọi mặt đối với nhân dân Trung Quốc. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời (9 - 1976), trên toàn đất nước bắt đầu chiến dịch đấu tranh chống lại ""Bè lũ bốn tên""(1). Trung Quốc dần dần đi vào ổn định. Về đối ngoại, Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi và Mĩ Latinh. Cũng trong thời kì này, đã xảy ra những cuộc xung đột ở biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Độ (1962), giữa Trung Quốc với Liên Xô (1969). Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ R. Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, từ cao trào giải phóng dân tộc, hàng loạt quốc gia Đông Nam Á đã giành được độc lập và bước vào thời kì xây dựng đất nước. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong khu vực bắt đầu có sự thay đổi sâu sắc." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Đông Nam Á là khu vực rộng 4,5 triệu km vuông, dân số 528 triệu người (năm 2000), hiên nay gồm 11 nước. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước trong khu vực (trừ Thái Lan) đều là thuộc địa của các đế quốc Âu - Mĩ. Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Nhật Bản xâm chiêm cả vùng Đông Nam Á và thiết lập trật tự phát xít. Từ cuộc đấu tranh chống thực dân Âu - Mĩ, nhân dân Đông Nam Á chuyển sang đấu tranh chống quân phiệt Nhật Bản, giải phóng đất nước. Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng lực lượng Đồng minh, một số quốc gia tuyên bố độc lập. Ngày 17 - 8 - 1945, Inđônêxia tuyên bố độc lập và thành lập nước Cộng hoà Inđônêxia. Cuộc Cách mạng tháng Tám của nhân dân Việt Nam thành công, dân tới sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (2 - 9 - 1945). Tháng 8 - 1945, nhân dân các bộ tộc Lào nổi dậy và ngày 12 - 10 năm đó, nước Lào tuyên bố độc lập. Nhân dân các nước Miến Điện (nay là Mianm, Mã Lai (nay là Malaixi và Philíppin đều nổi dậy đấu tranh chống quân phiệt Nhật Bản, giải phóng nhiều vùng rộng lớn của đất nước. Nhưng ngay sau đó, các nước thực dân Âu - Mĩ quay trở lại xâm lược Đông Nam Á. Nhân dân Đông Nam Á lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống xâm lược. Trải qua cuộc kháng chiến kiên cường và gian khổ, vào giữa những năm 50, nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đã lần lượt đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước. Vào cuối những năm 40 và những năm 50 của thế kỉ XX, các nước đế quốc Âu - Mĩ đã phải công nhận độc lập của Philippin, Miến Điện, Mã Lai, Xingapo và Inđônêxia. Tháng 10 - 1944, Mĩ trở lại Philippin, rồi tuyên bố trao trá độc lập cho nước này (4 - 7 - 1946), nhưng vân xây dụng ở đây nhiều căn cứ quân sự. Đến năm 1992, Mĩ mới rút khỏi 2 căn cứ quân sự cuối cùng ở Philippin là Clác và Subic." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Phong trào chống thục dân Anh diễn ra mạnh mẽ ở Miến Điện. Tháng 10 - 1947, Anh ki ""Hiệp ước Anh - Miến công nhộn Miến Điện là nước độc lập và tụ chủ. Ngày 4 - 1 - 1948, Liên bang Miến Điện tuyên bố độc lập. Tháng 9 - 1945, thục dân Anh tái chiếm Mã Lai. Trước sức ép phong trào đấu tranh của quân chúng, chinh phủ Anh phái đồng ý để cho Mã Lai độc lập. Ngày 31 - 8 - 1957, Mã Lai tuyên bố độc lập. Ngày 16 - 9 - 1963, Liên bang Malaixia ra đài, gồm miền Đông (Xaba, Xaraoâ và miền Tây (Mã Lai, Xingapo). Xingapo được Anh trao trá quyền tụ trị ngày 3 - 6 - 1959, sau đó tham gia Liên bang Malaixia, nhưng đến ngày 9 - 8 - 1965 lại tách ra thành nước cộng hoà độc lập. Sau khi cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), nhân dân Việt Nam, Lào và tiêp đó là Campuchia phải trải qua một cuộc kháng chiên chống chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ, đển năm 1975 mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Còn Brunây, tới ngày 1 - 1 - 1984 tuyên bố là quốc gia độc lập nằm trong khối Liên hiệp Anh. Đông Timo sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 8 - 1999 đã tách khỏi Inđônêxia, ngày 20 - 5 - 2002 trở thành một quốc gia độc lập. Trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh lạnh, để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và hạn chế thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, tháng 9 - 1954, Mĩ cùng Anh, Pháp và một số nước đã thành lập khối quân sự mang tên Tổ chức hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Ả (viết tắt theo tiếng Anh là SEATO). Nhưng sau thắng lợi của cách mạng ba nước Đông Dương vào giữa năm 1975, khối SEATO giải thể (30 - 6 - 1977)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Ngày 17 - 8 - 1945, sau khi quân phiệt Nhật Bản đầu hàng, Xucácnô đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Inđônêxia. Hưởng ứng Tuyên ngôn Độc lập, nhân dân cả nước, trước hệt là ở các thành phố như Giacácta, Xurabaya..., đã nổi dậy chiêm các công sở, đài phát thanh và giành chính quyền từ tay Nhật Bản. Ngày 18 - 8 - 1945, lãnh tụ các chính đảng và các đoàn thể mở hội nghị của Uỷ ban trù bị độc lập ỉnđônêxia, thông qua bản Hiên pháp, bầu Xucácnô làm Tổng thống nước Cộng hoà Inđônêxia. Tháng 11 - 1945, với sự giúp đỡ của quân Anh, Hà Lan quay trở lại xâm lược Inđônêxia. Cuộc kháng chiên chống thực dân Hà Lan, bảo vệ độc lập của nhân dân Inđônêxia bùng nổ. Tháng 5 - 1949, Hà Lan và Inđônêxia kí Hiệp định đình chiên tại Giacácta. Tháng 11 năm đó, hai bên kí Hiệp ước La Hay, theo đó nước Cộng hoà Liên bang Inđônêxia nằm trong khối ""Liên hiệp Hà Lan - Inđônêxia"", bị phụ thuộc nhiều mặt vào Hà Lan. Do cuộc đấu tranh của nhân dân đòi độc lập thật sự và thống nhất, ngày 15 - 8 - 1950, nước Cộng hoà Inđônêxia thống nhất được thành lập. Cuộc kháng chiên của nhân dân Inđônêxia giành được thắng lợi. Từ năm 1953, chính phủ của Đảng Quốc dân do Xucácnô đứng đầu đã thực hiện nhiều biện pháp củng cố nền độc lập của đất nước." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Đó là: phế bỏ phái đoàn cố vấn quân sự của Hà Lan ở Inđônêxia (1953), huỷ bỏ Hiệp Ước La Hay, thu hồi miền Tây Irian (1963), thực hiện rộng rãi các quyền tụ do, dân chủ... Ngày 30 - 9 - 1965, đơn vị quân đội bảo vệ Phủ Tổng thống tiên hành cuộc đảo chính quân sự. Cuộc đảo chính thất bại. Chính phủ mới được thành lập, đển năm 1967, tướng Xuháctô lên làm Tổng thống. Tình hình chính trị dần dần ổn định, Inđônêxia bước vào giai đoạn phát triển kinh tê, văn hoá và giáo dục. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tê năm 1997 ở Đông Nam Á làm cho Inđônêxia rơi vào tình trạng rối loạn: Xuháctô rời khỏi chức vụ Tổng thống, mâu thuẫn sắc tộc gay gắt, kinh tế suy sụp. Phải đến năm 2001 - 2002, đất nước Inđônêxia mới dần dần được phục hồi nhưng những vụ khủng bố ở Bali, Giacácta..., cùng những thiên tai như nạn động đất, sóng thần khiến cho Inđônêxia vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Giữa tháng 8 - 1945, Nhật Bản đầu hàng Đổng minh không điều kiên. Nắm thời cơ thuận lợi, ngày 23 - 8 - 1945, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền. Ngày 12 - 10, Chính phủ Lào ra mắt quốc dân và tuyên bố độc lập. Tháng 3 - 1946, thực dân Pháp trở lại tái chiếm Lào. Nhân dân Lào một lần nữa phải cầm súng kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của mình. Từ năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của quân tình nguyên Việt Nam, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Lào ngày càng phát triển, lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành. Các chiến khu lân lượt được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào và Đông Bắc Lào. Ngày 20 - 1 - 1949, quân giải phóng nhân dân Lào Látxavông được thành lập do Cayxỏn Phômvihẳn chỉ huy. Ngày 13 - 8 - 1950, Mặt trận Lào tụ do và Chĩnh phủ kháng chiến Lào được thành lập, do Hoàng thân Xuphanuvông đúng đâu. Trong những năm 1953 - 1954, quân dân Lào đã phối hợp cùng với quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào, Thượng Lào..., giành thắng lợi to lớn. Những cuộc tấn công này đã phối hợp chặt chẽ với chiến trường Viêt Nam, đặc biêt là chiến dịch Điên Biên Phủ, góp phần vào chiến thắng chung của nhân dân ba nước Đông Dương. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (7 - 1954) đã thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, công nhận địa vị hợp pháp của các lực lượng kháng chiến Lào với một vùng giải phóng ở Sầm Nưa và Phongxalì. Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương vừa được kí kết, Mĩ đã lập tức hất cẳng Pháp, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới. Từ đây, nhân dân Lào lại phải cầm súng chống kẻ thù mới là đế quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào (thành lập ngày 22 - 3 - 1955), cuộc đấu tranh của nhân dân Lào diễn ra trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao, đã đánh bại các cuộc tấn công quân sự của Mĩ và tay sai. Đến đầu những năm 60, quân dân Lào đã giải phóng 2/3 lãnh thổ với hơn 1/3 dân số cả nước. Tù giữa năm 1964, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào chính thức chuyển sang hỉnh thái ""Chiến tranh đặc biệt và tù năm 1969 được nâng lên thành ""Chiến tranh đặc biệt táng cuòng"". Tuy nhiên, nhân dân Lào đã tùng bước đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mĩ và lực lượng phái hữu. Tháng 2 - 1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hoà bình và thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết giữa Mặt trận Lào yêu nước và phái hữu Viêng Chăn. Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đổng Quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập. Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiên công và nổi dậy của quân dân Việt Nam thắng lợi đã cổ vũ và tạo điều kiện cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Từ tháng 5 đến tháng 12 - 1975, quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2 - 12 - 1975, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào chính thức thành lập. Từ đó, nước Lào bước sang thời kì mới - xây dựng đất nước và phát triển kinh tế - xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Đầu tháng 10 - 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược và thống trị Campuchia. Đảng Cộng sản Đông Dương, từ năm 1951 tách ra thành Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đã lãnh đạo nhân dân Campuchia tiến hành cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp. Lực lượng kháng chiên ngày càng trưởng thành. Tháng 4 - 1950, Uỷ ban Mặt trộn dân tộc thống nhất (Mặt trộn Khơme) và Chính phủ kháng chiến, do Sơn Ngọc Minh đứng đâu, được thành lập. Tháng 6 - 1951, quân đội cách mạng Itxarâc ra đài. Ngày 9 - 11 - 1953, do cuộc vận động ngoại giao của Quốc vương N. Xihanúc, Chính phủ Pháp đã kí hiệp ước ""trao trả độc lập cho Campuchia"". Tuy vậy, quân đội Pháp vẫn chiếm đóng Campuchia. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam. Từ năm 1954 đến đầu năm 1970, Chính phủ Xihanúc thực hiện đường lối hoà bình, trung lập, không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía, không có điều kiện ràng buộc.  Sau cuộc đảo chính lật đổ Xihanúc ngày 18-3- 1970 của thế lực tay sai Mĩ, Campuchia bị kéo vào quỹ đạo của cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mĩ trên bán đảo Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Mĩ và tay sai của nhân dân Campuchia, với sự giúp đỡ của bộ đội tình nguyên Việt Nam, phát triển nhanh chóng" 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Từ tháng 9 - 1973, lực lượng vũ trang Campuchia đã chuyển sang tấn công, bao vây thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố khác. Mùa xuân năm 1975, quân dân Campuchia mở cuộc tấn công vào sào huyệt cuối cùng của địch. Ngày 17 - 4 - 1975, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi. Ngay sau đó, nhân dân Campuchia lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống tập đoàn Khơme đỏ do Pôn Pốt cầm đầu phản bội cách mạng, thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát hàng triệu người dân vô tội. Ngày 3 - 12 - 1978, Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, quân và dân Campuchia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 7 - 1 - 1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng khỏi chế độ Khơme đỏ diệt chủng, Campuchia bước vào thời kì hổi sinh, xây dựng lại đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1979, ở Campuchia đã diễn ra cuộc nội chiến giữa lực lượng của Đảng Nhân dân Cách mạng với các phe phái đối lập, chủ yếu là lực lượng Khơme đỏ. Cuộc nội chiến kéo dài hơn một thập kỉ, gây nhiều tổn thất cho đất nước. Với sự giúp đỡ của cộng đổng quốc tế, các bên Campuchia đã đi đến thoả thuận hoà giải và hoà hợp dân tộc. Ngày 23 - 10 - 1991, Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết tại Pari. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 9 - 1993, Quốc hội mới đã thông qua Hiến pháp, tuyên bố thành lập Vương quốc Campuchia do N. Xihanúc làm Quốc vương. Từ đó, Campuchia bước sang một thời kì mới. Tháng 10 - 2004, Quốc vương Xihanúc tuyên bố thoái vị. Hoàng tủ Xihamôni lên kế ngôi, trở thành Quốc vương của Campuchia." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Các nước Đông Nam Á sau khi giành độc lập đã bước vào con đường phát triển kinh tế dân tộc. Trong quá trình xây dựng đất nước, các quốc gia trong khu vực đã thực hiện những chiến lược phát triển kinh tế khác nhau." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Sau khi giành được độc lập, các nước Inđônêxia, Malaixia, Xingapo, Philíppin, Thái Lan và Brunây đều tiến hành công nghiệp hoá theo mô hình của các nước tư bản chủ nghĩa. Ngoài Brunây, 5 nước còn lại (gọi là nhóm nước sáng lập ASEAN) đều tiến hành công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược kinh tế hướng nội) với mục tiêu nhanh chóng xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng nền kinh tế tự chủ. Chiến lược hướng nội nhìn chung được thực hiện trong khoảng những năm 50 - 60; tuy nhiên, thời điểm bắt đầu và kết thúc quá trình này ở các nước không giống nhau. PhMĩppin thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khâu sớm nhất và dài nhất(1946 - 1970), còn Xingapo thực hiện chiến lược này trong thài gian ngân nhất (1961 - 1964), Malaxia (1957 - 1970), Thái Lan (1961 - 1972), hđônêxáa (1950 - 1965). Nội dung chủ yếu của chiến lược kinh tế hướng nội là đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa thay thếhàng nhập khẩu, lấy thị trường trong nước làm chỗ dựa để phát triển sản xuất. Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, các nước đã đạt được một số thành tựu đáng kể, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, phát triển một số ngành chế biến, chế tạo, giải quyết nạn thất nghiệp,..." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Xingapo xây dụng được cơ sở hạ tâng (đưàng sá, bến cáng,...) tốt nhất khu vục. Sau 11 năm phát triển, kinh tế Thái Lan có bước tiến dài. Kế hoạch phát triển kinh tế 6 năm (1961 - 1966) đã tăng thu nhập quốc dân lên 7,6%, dụ trữ ngoại tệ và vàng tăng 15%. Sau kế hoạch 5 năm (1966 - 1970), miền Tây Malaixia đã chấm dứt nhập khâu gạo, miền Đông giám nhập khâu gạo... Inđônêxia xây dụng các khu công nghiệp có quy mô lớn, sán xuất thay thế được một phân các mặt hàng công nghiệp nhập khâu. Tuy nhiên, chiến lược kinh tế hướng nội cũng bộc lộ một số hạn chế: thiếu nguồn vốn, nguyên liệu và công nghệ; chi phí cao dẫn tới làm ăn thua lỗ, tệ tham nhũng, quan liêu phát triển; đời sống người lao động còn khó khăn, chưa giải quyết được quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội. Sự hạn chế của chiến lược này đã buộc chính phủ 5 nước nói trên, từ thập kỉ 60 - 70 trở đi, chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá lấy xuất khẩu làm chủ đạo (chiên lược kinh tế hưổng ngoại), ""mở cửa nền kinh tế, thu hút vốn và kĩ thuật của nước ngoài, tập trung sản xuất hàng hoá để xuất khẩu, phát triển ngoại thương." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Sau khi thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại, các nước trên đã thu được nhiều thành tựu. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã lớn hơn nông nghiệp, mậu dịch đối ngoại tăng trưởng nhanh. Năm 1980, tổng kim ngạch xuất khẩu của 5 quốc gia sáng lập ASEAN đạt tối 130 tỉ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch ngoại thương của các quốc gia và khu vục đang phát triển. Vấn đề công bằng xã hội và tăng trưởng được cái thiện. Thập kỉ 70 đã chứng kiến tốc độ phát triển cao của nền kinh tế Inđônêxia: từ 2,5% (những năm 60) lên 7% - 7,5%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan (1985 - 1995) là 9%; của Malaixia đạt tù 6,3% đến 8,5% (1960 - 1990). Xingapo là nước chuyển biến mạnh nhất với tốc độ tăng trưởng 12% (1966 - 1973) và trở thành ""con rồng nổi trội nhất trong 4 ""con rồng kinh tế của Châu Á. Mặc dù đạt được thành tựu to lớn, nhưng chiến lược này cũng có những hạn chế như phụ thuộc vào vốn và thị trường bên ngoài quá lớn, đầu tư bất hợp lí... Biểu hiện điển hỉnh của sự hạn chế này là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 tác động lấn vào nền kinh tế của các nước Thái Lan, Inđônêxia, Philíppin, Malaixia và Xingapo. Cuộc khủng hoáng kinh tế dân đến tình trạng chính trị không ổn định ở một số nước. Đến những năm 1999 - 2000, kinh tế của các nước này mối được khôi phục, tốc độ tăng trưởng của cá khu vục là 4% - 5%." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Sau khi giành được độc lập, các nước Đông Dương về cơ bản đã phát triển nền kinh tế tập trung và đã đạt được một số thành tựu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Vào những năm 80 - 90 của thế kỉ XX, các nước này từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Trong thời kì xây dựng đất nước, mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu, nhưng Lào vẫn là nước nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển. Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Lào thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế có những bước phát triển khá nhanh, đời sống các dân tộc được cải thiện. Năm 2000, GDP tăng 5,7%, sán xuất nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp tăng 9,2%. Tuy nhiên, bỉnh quân thu nhộp theo đâu người còn thấp (281 USD năm 1999 và 324 USD năm 2000). Sau khi thành lập Vương quốc (1993), tình hình chính trị dần dần ổn định, Campuchia bước vào giai đoạn phục hồi kinh tế và xã hội, đạt được một số thành tựu đáng kể. Tỉ lệ tăng trưởng GDP năm 1999 là 6,9%, năm 2000 là 5,4%. Mặc dù tỉ lệ sán xuất công nghiệp tăng 7% (1995), nhưng Campuchia vân là nước nông nghiệp, thu nhập quốc dân bỉnh quân theo đâu người còn thấp (265 USD năm 2000)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Nền kinh tế Brunây có nét khác với 5 nước sáng lập ASEAN. Hầu như toàn bộ nền kinh tế Brunây đều dựa vào nguồn thu từ dầu mỏ và khí tự nhiên (chiếm tới 75% thu nhập trong nướ. Lương thực, thực phẩm phải nhập tới 80%. Do có nhiều dầu lửa và khí đốt, dân số lại ít (336 000 người - năm 2000), nên tổng thu nhập bình quân theo đầu người của nước này lên tới 18 000 USD (2000). Từ giữa những năm 80 của thế kỉ XX, Chính phủ tiến hành điều chỉnh các chính sách cơ bản nhằm đa dạng hoá nền kinh tế, tiết kiêm năng lượng, gia tăng các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Sau gần 30 năm thi hành chính sách tự lực hướng nội của chính quyền quân sự, Mianma có cơ sở hạ tầng rát lạc hậu, xuất khẩu gạo - thế mạnh của Mianma - giảm dần, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp... Từ cuối năm 1998, Chính phủ tiến hành cải cách kinh tế với ba chính sách lớn: kêu gọi đầu tư và ""mở cửa"", giải phóng khu vực kinh tế tư nhân, xử lí có hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Cuộc cải cách bước đầu mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1995 là 7%; năm 1998: 5,8%; năm 1999: 11%, năm 2000: 6,2%." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Bước vào nửa sau những năm 60 của thế kỉ XX, tình hình Đông Nam Á và thế giới có nhiều biến chuyển tác động tới các nước trong khu vực. Sau hơn 20 năm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập cũng như xây dựng kinh tế, nhiều nước trong khu vực bước vào thời kì ổn định, dốc sức phát triển kinh tế. Các nước đều có nhu cầu hợp tác với nhau để cùng phát triển. Trong bối cảnh Mĩ ngày càng sa lầy trên chiến trường Đông Dương, họ muốn liên kết lại để một mặt giảm bớt sức ép của các nước lớn, mặt khác hạn chế ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội đang thắng lợi ở Trung Quốc và Việt Nam. Hơn nữa, những tổ chức hợp tác mang tính khu vực trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều, nhất là sự thành công của Khối thị trường chung Châu Âu (EEC) đã cổ vũ rất lớn đối với các nước Đông Nam Á.  Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (viết tắt theo tiêng Anh là ASEAN) được thành lập tại Băng Cốc (Thái Lan) với sự tham gia của 5 nước: Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xingapo và Thái Lan." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hoá thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hoà bình và ổn định khu vực. Trong giai đoạn đầu (1967 - 1975), ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị thế trên trường quốc tê. Từ giữa những năm 70, ASEAN có những bước tiến mới. Sự phát triển này được đánh dấu bằng Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali (Inđônêxi tháng 2 - 1976 với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam A (gọi tắt là Hiệp ước Bali). Hiệp ước Bali xác đinh những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực đối với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tê, văn hoá và xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Vào thời điểm này, quan hệ giữa các nước Đông Dương và ASEAN bước đầu được cải thiện. Hai nhóm nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao và bắt đầu có các chuyện đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao. Tuy nhiên, tù cuối thập kỉ 70 đến giữa thập kỉ 80 của thế kỉ XX, tình hình giữa hai nhóm nước căng thẳng do sự kích động, can thiệp của các nước lốn khi Việt Nam đưa quân vào giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ Khơme đỏ. Đến giữa những năm 80, khi tình hình Campuchia dân dân hoà dịu, ASEAN bắt đâu quá trỉnh đối thoại với Việt Nam. Đây cũng là thài kỉ kinh tế các nước ASEAN bắt đâu tăng trưởng. Năm 1984, sau khi giành được độc lập, Brunây gia nhập và trở thành thành viên thứ 6 của ASEAN." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Từ đầu những năm 90, Chiến tranh lạnh chấm dứt và ""vấn đề Campuchia được giải quyết, tình hình chính trị khu vực được cải thiện căn bản, ASEAN có điều kiện mở rộng tổ chức, kết nạp thành viên mới. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Bali. Tiếp đó, ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Năm 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Năm 1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này. Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, ASEAN đã phát triển thành 10 nước thành viên. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam A thành khu vực hoà bình, ổn định để cùng phát triển.  Năm 1992, ASEAN quyết định sẽ tổ chức Đông Nam Á thành một khu vục mâu dịch tụ do (viết tắt tiêng Anh là AFT trong vòng 10 - 15năm. Năm 1993, theo sáng kiến của ASEAN, Diễn đàn khu vục (viết tắt tiêng Anh là ARF) được thành lập với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vục , nhằm tạo nên môi trường hoà bỉnh và ổn định cho sự phát triển của Đông Nam Á. Năm 1996, Hội nghị lân thứ nhất của tổ chức Diễn đàn hợp tác Á - Âu (viết tắt là ASEM) họp ở Bỡng Cốc có các vi nguyên thủ của 15 nước Châu Âu, 10 nước Châu Á và Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu tham gia nhằm tỡng cường sự hợp tác giữa các nước thuộc hai châu lục . Tháng 11 - 2007, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 đã kí kết bản Hiến chương ASEAN nhằm xây dựng một Cộng đổng ASEAN có vị thế cao hơn và hiệu quả hơn." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Ở Miến Điện (nay là Mi-an-m, từ năm 1824 đến năm 1885, thực dân Anh đã tiến hành 3 cuộc chiến tranh xâm lược. Năm 1885, Anh thôn tính Miến Điện rồi sáp nhập nước này vào thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Mã Lai (nay thuộc Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po) sớm bị các nước tư bản nhòm ngó, can thiệp. Đến đầu thế kỉ XX, Mã Lai hoàn toàn trở thành thuộc địa của Anh. Ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là đối tượng xâm lược của thực dân Pháp. Đến cuối thế kỉ XIX, Pháp đã hoàn thành việc xâm lược và bắt đầu thi hành chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa. Xiêm trong nửa sau thế kỉ XIX trở thành ""vùng đệm của đế quốc Anh và Pháp. Với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của vua Ra-ma V, Xiêm là nước duy nhất ở Đông Nam Á giữ được nền độc lập tương đối về chính trị." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Ở In-đô-nê-xi-a, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa do Đi-pô-nê-gô-rô lãnh đạo trong những năm 1825 - 1830, nhân dân A-chệ đã anh dũng chiên đấu chống lại 3 000 quân Hà Lan đổ bộ lên vùng này vào tháng 10 -1873. Đe chống lại quân xâm lược, nhân dân In-đô-nê-xi-a đã tiến hành cuộc chiến tranh du kích. Quân Hà Lan tuy chiếm được hoàng cung nhưng vẫn không chinh phục được A-chệ. Tiếp đó là các cuộc khởi nghĩa ở Tây Xu-ma-tơ-ra (1873 -1909), Ba Tắc (1878 -1907), Ca-li-man-tan (1884 -1886). Phong trào đấu tranh của nông dân nổ ra mạnh mẽ. Điển hình là cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1890 do Sa-min lãnh đạo. Sa-min không thừa nhận nền thống trị của Hà Lan nên đã vận động nhân dân, chủ yếu là nông dân, chống lại những thứ thuế vô lí của bọn thực dân. Ông chủ trương xây dựng một đất nước mà mọi người đều có việc làm và được hưởng hạnh phúc. Ông đã tuyên truyền, động viên, tổ chức quần chúng nhân dân chống lại ách áp bức, bóc lột, bất công. Phong trào công nhân cũng sớm hình thành vổi sự ra đời của các tổ chức: Hiệp hội công nhân đường sắt (1905), Hiệp hội công nhân xe lửa (1908)... Tháng 12 -1914, Liên minh xã hội dân chủ In-đô-nê-xi-a ra đời, nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác trong công nhân, đặt cơ sở cho sự thành lập Đảng Cộng sản (5 - 1920). Giai cấp tư sản dân tộc, tầng lớp trí thức tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản Châu Âu đóng vai trò nhất định trong phong trào yêu nước ở In-đô-nê-xi-a đầu thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Từ giữa thế kỉ XVI, Phi-líp-pin đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha. Trong hơn 300 năm đô hộ, thực dân Tây Ban Nha đã ra sức khai thác các đồn điền, hầm mỏ... ở Phi-líp-pin phục vụ cho chính quốc. Đứng đầu bộ máy hành chính là viên Toàn quyền người Tây Ban Nha. Việc cai trị các tỉnh cũng nằm trong tay các tổng đốc người Tây Ban Nha. Hầu hết cư dân ở đây theo đạo Thiên Chúa do người Tây Ban Nha truyền đến. Chỉ có một số cư dân ở phía nam (đảo Min-đa-nao) theo đạo Hồi, nhưng lại bị phân biệt đối xử rất tồi tệ. Những điều đó làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Phi-líp-pin với thực dân Tây Ban Nha ngày càng trở nên gay gắt. Năm 1872, nhân dân thành phố Ca-vi-tô nổi dậy khởi nghĩa, hô vang khẩu hiệu ""Đả đảo bọn Tây Ban Nha "", tấn công vào các đồn trú của quân đội Tây Ban Nha, làm chủ Ca-vi-tô trong 3 ngày. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa thất bại, những người lãnh đạo bị bắt và bị xử tử." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào những năm 90 của thế kỉ XIX, ở Phi-líp-pin xuất hiện hai xu hướng chính trong phong trào giải phóng dân tộc. Thứ nhất là xu hướng cải cách của Hô-xê Ri-dan. Năm 1892, Hô -xê Ri-dan thành lập ""Liên minh Phi-líp-pin"", thu nạp nhiều trí thức yêu nước, địa chủ và tư sản tiến bộ cùng một số dân nghèo. Liên minh chủ trương tuyên truyền, khơi dậy ý thức dân tộc, đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Phi-líp-pin. Thứ hai là xu hướng bạo động của Bô-ni-pha-xi-ô. Không tán thành đường lối cải cách ôn hoà, tháng 7 - 1892, Bô-ni-pha-xi-ô tách khỏi Liên minh Phi-líp-pin, thành lập ""Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân - viết tắt là KATIPUNAN.  Ngày 28 - 8 - 1896, Bô-ni-pha-xi-ô phát lênh khởi nghĩa với khẩu hiệu ""Chiên thắng hay là chệt !"", được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Phong trào kháng chiên chống thực dân lan rộng toàn quần đảo. Tại nhiều vùng giải phóng, chính quyền nhân dân do KATIPUNAN lãnh đạo đã được thiêt lập, tiến hành chia ruộng đất cho nông dân, tiến tới thành lập nền cộng hoà. Sau đó, Bô-ni-pha-xi-ô bị sát hại, KATIPUNAN tan rã (1897). Vào lúc này, để' quốc Mĩ đang tìm cách bành trướng sang bờ Tây Thái Bình Dương nên đã không bỏ lỡ cơ hội. Tháng 4 -1898, Mĩ gây chiến với Tây Ban Nha dưới danh nghĩa ủng hộ cuộc đấu tranh chống thực dân của nhân dân Phi-líp-pin. Tháng 6 - 1898, Mĩ dựng A-ghi-nan-đô lên làm Tổng thống nước Cộng hoà Phi-líp-pin. Sau khi Tây Ban Nha thua trận, quân Mĩ đổ bộ chiêm Ma-ni- la và nhiều nơi trên quần đảo. Nghĩa quân Phi-líp-pin chuyển sang đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Cuộc kháng chiên của nhân dân Phi-líp-pin chống Mĩ diễn ra trong tình trạng không cân sức, kéo dài đển năm 1902 thì bị dập tắt. Từ đây, Phi-líp-pin trở thành thuộc địa của Mĩ. Cuộc khởi nghĩa năm 1896 ở Phi-líp-pin được coi là cuộc cách mạng mang tính chất tư sản, chống để' quốc đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Phi-líp-pin trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào nửa sau thế kỉ XIX, trong quá trình tiên hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã từng bước xâm chiêm Cam-pu-chia và Lào. Năm 1863, Pháp gây áp lực buộc vua Cam-pu-chia là Nô-rô-đôm phải chấp nhận quyền bảo hộ của chúng. Sau khi gạt bỏ ảnh hưởng của Xiêm đối với triều đình Phnôm Pênh, Pháp buộc vua Nô-rô-đôm kí Hiệp ước 1884, biến Cam-pu-chia thành thuộc địa của Pháp. Ách thống trị của thực dân Pháp đã gây nên nỗi bấ't bình trong hoàng tộc và các tầng lớp nhân dân. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi trong cả nước. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa lớn của Hoàng thân Si-vô-tha, kéo dài hơn 30 năm (1861 -1892). Si-vô-tha là em cùng cha khác mẹ với Nô-rô-đôm. Bất bình về thái độ nhu nhược của triều đình đối với quân Xiêm và quân Pháp, ông đã tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, tấn công thang vào quân Pháp ở cố đô U-đông và Phnôm Pênh, mở rộng địa bàn hoạt động. Đến tháng 10 -1892, ông qua đòi vì bệnh nặng; sau đó phong trào suy yếu dần và tan rã." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Cuộc khởi nghĩa của A-cha Xoa (1863 -1866) diễn ra ở các tỉnh giáp với biên giới Việt Nam, đã gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất to lớn. Ban đầu, A-cha Xoa tham gia phong trào của Si-vô-tha. Do phong trào này bị đàn áp, ông và nhiều nghĩa quân phải lánh sang Việt Nam - ở vùng Châu Đốc, Tịnh Biên. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng giúp đỡ A-cha Xoa chống Pháp. Từ vùng núi Thất Sơn, A-cha Xoa lấy Châu Đốc, Hà Tiên làm bàn đạp tấn công quân Pháp ở Cam-pu-chia. Năm 1864, có lần nghĩa quân đã chiếm được tỉnh Cam-pốt và áp sát Phnôm Pênh. Hoạt động của nghĩa quân trong các năm 1864 - 1865 càng mạnh mẽ. Biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia trở thành vùng căn cứ cho cuộc khởi nghĩa của A-cha Xoa. Ngày 19 - 3 -1866, do bị thương nặng, A-cha Xoa bị Pháp bắt. Cuộc khởi nghĩa của Pu-côm-bô (1866 -1867) không chỉ thể hiên tinh thần anh dũng, bất khuất của nhân dân Cam-pu-chia mà còn là biểu tượng về liên minh chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam và Cam-pu-chia trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Pu-côm-bô là nhà sư có uy tín trong nhân dân, từng lánh nạn ở Nam Lào trong 17 năm. Năm 1866, ông phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp và lập căn cứ ở Tây Ninh. Nghĩa quân gồm người Khơ-me, người Chăm, người Xtiêng, người Kinh. Trương Quyền (con Trương Định) và Võ Duy Dương (Thiên hộ Dương) đã liên kết với nghĩa quân Pu-côm-bô đánh Pháp. Khi lực lương lớn mạnh, Pu-côm-bô tiến quân về nước, kiểm soát Pa-man, tấn công U-đông (17 -12 -1866). Nhân dân Việt Nam ở ba tỉnh miền Tây Nam Kì thường xuyên cung cấp lương thực, vũ khí cho nghĩa quân. Ngày 3 -12 -1867, Pu-côm-bô hi sinh trong chiến đấu." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Khi tiến hành xâm lược Việt Nam và Cam-pu-chia, thực dân Pháp đã tính đến việc thôn tính Lào. Năm 1865, nhiều đoàn thám hiểm người Pháp đi ngược sông Mê Công lên thượng nguồn để thăm dò khả năng xâm nhập Lào, gây sức ép buộc triều đình Luông Pha-bang phải công nhận nền thống trị của Pháp. Tiến hành đàm phán với Xiêm, Pháp đạt được Hiệp ước 1893, theo đó Chính phủ Xiêm thừa nhận quyền cai trị của Pháp ở Lào. Như vậy, Lào thực sự biến thành thuộc địa của Pháp từ năm 1893. Ngay từ đầu thế kỉ XX, nhân dân Lào đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh bất khuất trên toàn lãnh thổ để chống lại ách nô dịch tàn bạo của thực dân Pháp. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Lào (1901 - 1903) dưới sự chỉ huy của Pha-ca-đuốc. Phong trào đã phát triển nhanh chóng, giải phóng Xa-van-na-khét, mở rộng hoạt động sang cả vùng biên giới Lào - Việt. Cuộc khởi nghĩa trên cao nguyên Bô-lô-ven, do Ong Kẹo, Com-ma-đam chỉ huy, nổ ra năm 1901 và kéo dài đển năm 1937. Các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX mặc dù diễn ra rất sôi nổi, quyê't liệt, thể hiên tinh thần đấu tranh bấ't khuấ't vì độc lập tự do của mỗi dân tộc, song đều thất bại. Nguyên nhân là do các phong trào này đều mang tính tự phát, thiêu đường lối đúng và thiêu tổ chức mạnh. Những cuộc khởi nghĩa đó đã thể hiện tinh thần yêu nước và tình đoàn kêt của nhân dân ba nước Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào giữa thế kỉ XIX, cũng như các nước ở Đông Nam Á, Vương quốc Xiêm đứng trước sự đe doạ xâm nhập của thực dân phương Tây, nhất là Anh và Pháp. Triều đại Ra-ma, được thiết lập năm 1752, theo đuổi chính sách đóng cửa, ngăn cản thương nhân và giáo sĩ phương Tây vào Xiêm. Đê'n thời vua Mông-kút (Ra-ma IV, trị vì từ năm 1851 để'n năm 1868) chủ trương mở cửa buôn bán với bên ngoài, lợi dụng sự kiềm chế lẫn nhau giữa các nước tư bản để bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ra-ma IV là vua Xiêm đầu tiên giỏi tiếng Anh, tiếng Latinh, nghiên cứu và tiếp thu nen vãn minh phương Tây, tiếp xúc với các nhà truyền giáo Âu - Mĩ và đặc biệt chú ý đến đường lôi đôi ngoại của Vương quốc. Năm 1868, Chu-la-long-con lên ngôi (Ra-ma V, trị vì từ năm 1868 để'n năm 1910). Là người uyên bác, hấp thụ văn hoá phương Tây, tiêp nối chính sách cải cách của vua cha, ông ra lệnh xoá bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ vì nợ, giải phóng người lao động để họ được tự do làm ăn sinh sống; đồng thời, xoá bỏ cho nông dân nghĩa vụ lao dịch 3 tháng trên các công trường nhà nước, giảm nhẹ thuê ruộng. Những biện pháp trên đã có tác dụng tích cực đối với sản xuất nông nghiệp: nâng cao năng suất lúa, tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu; việc xuất khẩu gỗ têch cũng được đẩy mạnh. " 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Lượng gạo xuất khẩu năm 1885 là 22,5 vạn tân, năm 1890 là 48 vạn tân, năm 1895 là 46,5 vạn tấn, năm 1900 là 50 vạn tấn. Lượng gỗ xuất khẩu trong 10 năm (1885 - 1895) tăng gấp 4 lần, từ 15,2 nghìn tấn lên 61,3 nghìn tấn. Nhà nước khuyện khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh công thương nghiệp, xây dựng nhà máy xay xát lúa gạo, nhà máy cưa, mở hiệu buôn bán và ngân hàng. Năm 1890, ở Băng Côc có 25 nhà máy xay xát, 4 nhà máy cưa, đường xe điện được xây dựng sớm nhất Đông Nam Á (1887). Năm 1892, Ra-ma V đã tiên hành hàng loạt cải cách theo khuôn mẫu các nước phương Tây về hành chính, tài chính, quân sự, giáo dục..., tạo cho nước Xiêm một bộ mặt mới, phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Với chính sách cải cách hành chính, vua vẫn là người có quyền lực tôi cao, song bên cạnh vua có Hội đổng Nhà nước, đóng vai trò là cơ quan tư vấn, khởi thảo luật pháp, hoạt động gần như một nghị viện. Bộ máy hành pháp của triều đình được thay bằng Hội đổng Chính phủ, gỗm 12 bộ trưởng, do các hoàng thân du học ở phương Tây về đảm nhiệm. Hệ thông toà án, trường học đều được tổ chức lại theo kiểu Châu Âu. quân đội được trang bị và huấn luyện theo phương pháp hiện đại. Tư bản nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh ở Xiêm..." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Ra-ma V đặc biệt quan tâm đến hoạt động ngoại giao. Nhờ chính sách ngoại giao mềm dẻo, nước Xiêm vừa lợi dụng vị trí nước ""đệm giữa hai thế lực đế quốc Anh - Pháp, vừa cắt nhượng một số vùng đất phụ thuộc (vốn là lãnh thổ của Cam-pu-chia, Lào và Mã Lai) để giữ gìn chủ quyền của đất nước. Nhờ vậy, Xiêm không bị biến thành thuộc địa như các nước trong khu vực, mà vẫn giữ được độc lập, mặc dù chịu nhiều lệ thuộc về chính trị, kinh tế vào Anh và Pháp." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Đông Nam Á là một khu vực khá rộng, bao gồm nhiều quốc gia trên lục địa và hải đảo, sớm trở thành mục tiêu xâm luợc của các nuớc thực dân phương Tây. Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nuớc ở Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa, trừ Xiêm là giữ được độc lập nhưng bị lệ thuộc nuớc ngoài về nhiều mặt. Sự xâm luợc và đô hộ của các nuớc đế quốc thực dân đã gây nên những chuyển biến lớn trong xã hội, đưa đến những phong trào đấu tranh mạnh mẽ vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ở các nuớc Đông Nam Á." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Từ giữa thế kỉ XIX, khi các nước Châu Âu và Bắc Mĩ căn bản đã hoàn thành cách mạng tư sản, đua nhau bành trướng thế lực, xâm chiếm thuộc địa thì ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam Á, chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị và đều lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên về chính trị, kinh tế, xã hội. Nhân cơ hội này, các nước thực dân phương Tây mở rộng và từng bước hoàn thành việc xâm lược các nước Đông Nam Á, trừ Xiêm. ở In-đô-nê-xi-a, ngay từ thế kỉ XV, XVI thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan đã có mặt và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Đến giữa thế kỉ XIX, Hà Lan hoàn thành việc xâm chiếm và thiết lập nền thống trị thực dân trên đất nước này. Phi-líp-pin cũng bị thực dân Tây Ban Nha thống trị từ giữa thế kỉ XVI. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898, đế quốc Mĩ liền tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Phi-líp-pin (1899 -1902) và biến quần đảo này thành thuộc địa của mình." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Từ giữa thế kỉ XIX, khi các nước Châu Âu và Bắc Mĩ căn bản đã hoàn thành cách mạng tư sản, đua nhau bành trướng thế lực, xâm chiếm thuộc địa thì ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam Á, chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị và đều lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên về chính trị, kinh tế, xã hội. Nhân cơ hội này, các nước thực dân phương Tây mở rộng và từng bước hoàn thành việc xâm lược các nước Đông Nam Á, trừ Xiêm. ở In-đô-nê-xi-a, ngay từ thế kỉ XV, XVI thực dân Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Hà Lan đã có mặt và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Đến giữa thế kỉ XIX, Hà Lan hoàn thành việc xâm chiếm và thiết lập nền thống trị thực dân trên đất nước này. Phi-líp-pin cũng bị thực dân Tây Ban Nha thống trị từ giữa thế kỉ XVI. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898, đế quốc Mĩ liền tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Phi-líp-pin (1899 -1902) và biến quần đảo này thành thuộc địa của mình." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Nằm trên bờ Bắc Địa Trung Hải, Hi Lạp và Rô-ma bao gồm bán đảo và nhiều đào nhỏ. Địa Trung Hải giống như một cái hồ rất lớn, tạo nên sự giao thông thuận lợi giữa các nước với nhau; do đó, từ rất sớm đã có những hoạt động hàng hải, ngư nghiệp và thương nghiệp biển. Trên cơ sở đó, Hi Lạp và Rô-ma đã phát triển cao về kinh tế và xã hội, làm cơ sở cho một nền văn hoá rất rực rỡ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Cảnh sông, núi, biển ở vùng Địa Trung Hải đẹp đẽ, muôn màu. Khí hậu ấm áp, trong lành. Ban đầu, các bộ lạc đều sống trong các thung lũng. 6 đấy, những dãy núi cao từ lục địa chạy ra biển đã ngăn cách thung lũng này với thung lũng khác, tạo thành những đồng bằng nhỏ hẹp. Phần lớn lãnh thổ là núi và cao nguyên. Đất canh tác đã ít lại không màu mỡ lắm, chủ yếu là đất ven đồi, khô và rắn. Do đó, lưỡi cuốc, lưỡi cày bằng đồng không có tác dụng. Khoảng đầu thiên niên kỉ I TCN, cư dân vùng Địa Trung Hải bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt. Nhờ công cụ bằng sắt, diện tích canh tác tăng hơn, việc trồng trọt đã có kết quả. Thực ra, chỉ ở những vùng đất mềm và tốt mới có thể trồng lúa (lúa mì, lúa mạch). Đất đai ở đây thuận tiện hơn cho việc trồng các loại cáy lưu niên, có giá trị cao như: nho, ô liu, cam, chanh... Con người phải gian khổ khai phá từng mảnh đất, phải lao động khó nhọc mới bảo đảm được một phần lương thực. Vì thế, các nước này vẫn phải mua lúa mì, lúa mạch của người Ai Cập, Tây Á... Nhiều thợ giỏi, khéo tay đã xuất hiện. Họ làm ra những sản phẩm nổi tiếng như đồ gốm, với đủ các loại bình, chum, bát bằng gốm tráng men trang trí hoa văn có màu sắc và hình vẽ đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Đã có nhiều xưởng thủ công chuyện sản xuất một mặt hàng có chất lượng cao. Nhiều xưởng thủ công có quy mô khá lớn: có xưởng từ 10 - 15 người làm, lại có xưởng lớn sử dụng từ 10 đến 100 nhân công, đặc biệt mỏ bạc ở Át-tích có tới 2000 lao động. Sự phát triển của thủ công nghiệp làm cho sản xuất hàng hoá tăng nhanh, quan hệ thương mại được mở rộng. Người Hi Lạp và Rô-ma đem các sản phẩm của mình như rượu nho, dầu ô liu, đồ mĩ nghệ, đồ dùng kim loại, đồ gốm... đi bán ở mọi miền ven Địa Trung Hải. sản phẩm mua về là lúa mì, súc vật, lông thú từ vùng Hắc Hải, Ai Cập..., tơ lụa, hương liệu, xa xi phẩm từ các nước phương Đông. Trong xã hội chiếm nô ở vùng này, nô lệ là thứ hàng hoá quan trọng bậc nhất. Nhiều nơi như Đê-lốt, Pi-rê... trở thành trung tâm buôn bán nô lệ lớn của thế giới cổ đại. Hàng hoá được chuyện chở trên những chiếc thuyền lớn có buồm và nhiều mái chèo của các nhà buôn giàu. Một chiếc tàu chở rượu nho của Rô-ma dài tới 40m, chứa được 7000 đến 8000 vò (tức trọng tải từ 350 đến 400 tấn) bị đắm từ thời ấy đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy vào năm 1967 ở vùng biển phía nam nước Pháp. Hoạt động thương mại phát đạt đã thúc đẩy việc mở rộng lưu thông tiền tệ. Các thị quốc đều có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền Đênariuxơcủa Rô-ma, đồng tiền có hình chim cú của A-ten là những đồng tiền thuộc loại cổ nhất trên thế giới. Như thế, nền kinh tế của các nhà nước ở vùng Địa Trung Hải phát triển mau lẹ. Hi Lạp và Rô-ma sớm trở thành các quốc gia giàu mạnh. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Ven bờ Bắc Địa Trung Hải có nhiều đồi núi chia cắt đất đai thành nhiều vùng nhỏ, không có điểu kiện tập trung đông dân cư ở một nơi. Mặt khác, khi dân cư sống thiên về nghề buôn và nghề thủ công thì sự tập trung đông đúc lại không cần thiết. Mỗi vùng, mỗi mỏm bán đảo là giang sơn của một bộ lạc. Khi xã hội có giai cấp hình thành thì đây cũng là một nước. Mỗi thành viên là công dân của nước mình. Nước thì nhỏ, nghề buôn lại phát triển nên dân cư sống tập trung ở thành thị. Phần chủ yếu của một nước là thành thị với một vùng đất đai trồng trọt ở xung quanh. Thành thị có phố xá, lâu đài, đền thờ, sân vận động, nhà hát và quan trọng hơn cả là có bến cảng. Cho nên, người ta còn gọi nước đó là thị quốc (thành thị là quốc gi. Chẳng hạn, At-tích là một mũi đất nhỏ ở Đông Nam Hi Lạp ngày nay, xưa kia ià một thị quốc, có diện tích hơn 2000 km vuông , dân số khoảng 400000 người, phần lớn sống ở thành thị A-ten (nay là thủ đô của Hi Lạp), có 3 hải cảng, trong đó lớn nhất là cảng Pi-rê. Người ta gọi A-ten là thị quốc, đại diện cho cả At-tích. Hon 30000 người là công dân A-ten, có tư cách và có quyền công dân. Khoảng 15000 kiều dân (dân nơi khác đến ngụ cư) được tự do sinh sống, buôn bán, làm ăn, nhưng không có quyền công dân. Chừng hơn 300 000 nô lệ lao động, phục dịch và không có quyền gì cả, là tài sản riêng của mỗi chủ nô. Uy thế của quý tộc xuất thân là bô lão của thị tộc đã bị đánh bại. Quyền lực xã hội chuyện vào tay các chủ nô, chủ xưởng và nhà buôn. Đây là kết quả của một quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt. Thắng lợi quyết định cuộc đấu tranh này là sự hình thành một thể chế dân chủ. Hơn 30 000 công dân họp thành Đại hội công dân, bầu và cử ra các cơ quan nhà nước, quyết định mọi công việc nhà nước." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Người ta không chấp nhận có vua. Có 50 phường, mỗi phường cử 10 người, làm thành một Hội đồng 500, có vai trò như ""quốc hội"", thay mặt dân quyết định công việc trong nhiệm kì I năm. ơ đây, người ta bầu 10 viên chức điểu hành công việc (như kiểu một chính phủ) và cũng có nhiệm kì I năm. Viên chức có thể tái cử nếu được bầu. Hằng năm, mọi công dân họp một lần ở quảng trường, nơi ai cũng được phát biểu và biểu quyết những việc lớn của quốc gia. Thể chế dân chủ như thế đã phát triển cao nhất ở A-ten. Nơi nào không có kiểu tổ chức trên thì cũng có hình thức đại hội nhân dân. Thị quốc cổ đại là đô thị buôn bán, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ. Mỗi thành thị là một nước riêng. Ở đó, người ta bàn và quyết định nên buôn bán với nước nào và loại hàng gì, dùng ngân quỹ vào việc gì, nên trợ cấp cho dân nghèo bao nhiêu; có biện pháp gì để duy trì thể chế dân chủ và đặc biệt là có chấp nhận tiến hành chiến tranh hay không. Lãnh thổ của thị quốc không rộng, nhưng số dân lại đông. Đất trồng trọt ở đây đã ít, mà người ta lại càng ít trồng lúa, nhưng nơi đây có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển buôn bán. Do đó, các thị quốc luôn luôn giữ quan hệ buôn bán với nhau và với các vùng xa. Nhờ đó, các thị quốc trở nên rất giàu có. Đặc biệt là A-ten, sau cuộc chiến tranh với Ba Tư, trở thành minh chủ của các quốc gia Hi Lạp, lại nắm ưu thế trên biển, quản lí một ngân quỹ rất lớn, có thu nhập hằng năm rất cao. A-ten đã miễn thuế cho mọi công dân và trợ cấp cho các công dân nghèo đủ sống. Sự giàu có của Hi Lạp dựa trên nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ, làm các việc trồng, hái nho, khai mỏ, chèo thuyền và khuân vác... khiến cho sự cách biệt giữa giàu và nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng lớn. ơ Rô-ma, sự cách biệt này còn lớn hơn. Nô lệ bị bóc lột và bị khinh rẻ nên thường phản kháng chủ nô. ở Hi Lạp, hình thức phản kháng chủ yếu là trễ nải trong lao động và bỏ trốn, nhất là khi có chiến tranh. Ở Rô-ma thì họ nổi dậy khởi nghĩa chống đối thực sự." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Người ta không chấp nhận có vua. Có 50 phường, mỗi phường cử 10 người, làm thành một Hội đồng 500, có vai trò như ""quốc hội"", thay mặt dân quyết định công việc trong nhiệm kì I năm. ơ đây, người ta bầu 10 viên chức điểu hành công việc (như kiểu một chính phủ) và cũng có nhiệm kì I năm. Viên chức có thể tái cử nếu được bầu. Hằng năm, mọi công dân họp một lần ở quảng trường, nơi ai cũng được phát biểu và biểu quyết những việc lớn của quốc gia. Thể chế dân chủ như thế đã phát triển cao nhất ở A-ten. Nơi nào không có kiểu tổ chức trên thì cũng có hình thức đại hội nhân dân. Thị quốc cổ đại là đô thị buôn bán, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ. Mỗi thành thị là một nước riêng. Ở đó, người ta bàn và quyết định nên buôn bán với nước nào và loại hàng gì, dùng ngân quỹ vào việc gì, nên trợ cấp cho dân nghèo bao nhiêu; có biện pháp gì để duy trì thể chế dân chủ và đặc biệt là có chấp nhận tiến hành chiến tranh hay không. Lãnh thổ của thị quốc không rộng, nhưng số dân lại đông. Đất trồng trọt ở đây đã ít, mà người ta lại càng ít trồng lúa, nhưng nơi đây có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển buôn bán. Do đó, các thị quốc luôn luôn giữ quan hệ buôn bán với nhau và với các vùng xa. Nhờ đó, các thị quốc trở nên rất giàu có. Đặc biệt là A-ten, sau cuộc chiến tranh với Ba Tư, trở thành minh chủ của các quốc gia Hi Lạp, lại nắm ưu thế trên biển, quản lí một ngân quỹ rất lớn, có thu nhập hằng năm rất cao. A-ten đã miễn thuế cho mọi công dân và trợ cấp cho các công dân nghèo đủ sống. Sự giàu có của Hi Lạp dựa trên nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ, làm các việc trồng, hái nho, khai mỏ, chèo thuyền và khuân vác... khiến cho sự cách biệt giữa giàu và nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng lớn.Ở Rô-ma, sự cách biệt này còn lớn hơn. Nô lệ bị bóc lột và bị khinh rẻ nên thường phản kháng chủ nô. ở Hi Lạp, hình thức phản kháng chủ yếu là trễ nải trong lao động và bỏ trốn, nhất là khi có chiến tranh. Ở Rô-ma thì họ nổi dậy khởi nghĩa chống đối thực sự." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Người ta không chấp nhận có vua. Có 50 phường, mỗi phường cử 10 người, làm thành một Hội đồng 500, có vai trò như ""quốc hội"", thay mặt dân quyết định công việc trong nhiệm kì I năm. ơ đây, người ta bầu 10 viên chức điểu hành công việc (như kiểu một chính phủ) và cũng có nhiệm kì I năm. Viên chức có thể tái cử nếu được bầu. Hằng năm, mọi công dân họp một lần ở quảng trường, nơi ai cũng được phát biểu và biểu quyết những việc lớn của quốc gia. Thể chế dân chủ như thế đã phát triển cao nhất ở A-ten. Nơi nào không có kiểu tổ chức trên thì cũng có hình thức đại hội nhân dân. Thị quốc cổ đại là đô thị buôn bán, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ. Mỗi thành thị là một nước riêng. Ở đó, người ta bàn và quyết định nên buôn bán với nước nào và loại hàng gì, dùng ngân quỹ vào việc gì, nên trợ cấp cho dân nghèo bao nhiêu; có biện pháp gì để duy trì thể chế dân chủ và đặc biệt là có chấp nhận tiến hành chiến tranh hay không. Lãnh thổ của thị quốc không rộng, nhưng số dân lại đông. Đất trồng trọt ở đây đã ít, mà người ta lại càng ít trồng lúa, nhưng nơi đây có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển buôn bán. Do đó, các thị quốc luôn luôn giữ quan hệ buôn bán với nhau và với các vùng xa. Nhờ đó, các thị quốc trở nên rất giàu có. Đặc biệt là A-ten, sau cuộc chiến tranh với Ba Tư, trở thành minh chủ của các quốc gia Hi Lạp, lại nắm ưu thế trên biển, quản lí một ngân quỹ rất lớn, có thu nhập hằng năm rất cao. A-ten đã miễn thuế cho mọi công dân và trợ cấp cho các công dân nghèo đủ sống. Sự giàu có của Hi Lạp dựa trên nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ, làm các việc trồng, hái nho, khai mỏ, chèo thuyền và khuân vác... khiến cho sự cách biệt giữa giàu và nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng lớn. Ở Rô-ma, sự cách biệt này còn lớn hơn. Nô lệ bị bóc lột và bị khinh rẻ nên thường phản kháng chủ nô. ở Hi Lạp, hình thức phản kháng chủ yếu là trễ nải trong lao động và bỏ trốn, nhất là khi có chiến tranh. Ở Rô-ma thì họ nổi dậy khởi nghĩa chống đối thực sự." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước. Lịch và chữ viết Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mật Trời. Nhờ đi biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn, nhưng họ vẫn tưởng Mặt Trời chuyển động quanh Trái Đất. Tuy nhiên, họ đã biết nếu tính mỗi vòng như thế là 360 ngày thì không chỉnh xác. về sau, người Rô-ma đã tính được I năm có 365 ngày và 1/4 nên họ định một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Song, như thế so với thực tế vẫn bị chậm một ít. Dù sao, phép tính lịch của người Rô-ma cổ đại đã rất gần với những hiểu biết ngày nay. Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế. Cuộc sống ""bôn ba trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra một thứ chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng phải có khả nâng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người. Hệ thống chữ cái của người Hi Lạp và người Rô-ma đã ra đời từ đó. Hệ chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, c... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay. Họ cũng có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các để mục lớn, gọi là ""số La Mã"". Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước. Lịch và chữ viết Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mật Trời. Nhờ đi biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn, nhưng họ vẫn tưởng Mặt Trời chuyển động quanh Trái Đất. Tuy nhiên, họ đã biết nếu tính mỗi vòng như thế là 360 ngày thì không chỉnh xác. về sau, người Rô-ma đã tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4 nên họ định một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Song, như thế so với thực tế vẫn bị chậm một ít. Dù sao, phép tính lịch của người Rô-ma cổ đại đã rất gần với những hiểu biết ngày nay. Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế. Cuộc sống ""bôn ba trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra một thứ chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng phải có khả nâng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người. Hệ thống chữ cái của người Hi Lạp và người Rô-ma đã ra đời từ đó. Hệ chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, c... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay. Họ cũng có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các để mục lớn, gọi là ""số La Mã"". Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma," Sự ra đời của khoa học Những hiểu biết khoa học thực ra đã có từ hàng nghìn năm trước, từ thời cổ đại phương Đông. Nhưng phải đến thời cổ đại Hi Lạp và Rô-ma, những hiểu biết đó mới thực sự trở thành khoa học. Với người Hi Lạp, Toán học đã vượt lên trên việc ghi chép và giải các bài riêng biệt. Những nhà toán học mà tên tuổi vẫn còn lại đến nay, đã để lại những định lí, định đề có giá trị khái quát hoá cao. Định lí nổi tiếng trong Hình học của Ta-lét, những cống hiến của trường phái Pi-ta-go về tính chất của các số nguyên và định lí về các cạnh của tam giác vuông cùng với tiên đề về đường thẳng song song của ơ-clít,... sau nhiều thế kỉ vẫn là những kiến thức cơ sở của Toán học." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma," Vãn học Trước người Hi Lạp cổ đại, ở Ai Cập và Lưỡng Hà mới chỉ có văn học dân gian. Đó là những bài thơ, truyện huyền thoại được truyền miệng từ người này qua người khác rồi mới ghi lại. Ỏ Hi Lạp, sau các anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là l-ìi-át và ổ-đì-xê, đã xuất hiện những nhà văn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ để lại vẫn còn nguyên giá trị độc đáo cho đến ngày nay. Các nhà văn đó chủ yếu là những nhà biên kịch và các tác phẩm của họ là những kịch bản; bởi vì thời ấy, kịch (có kèm theo hát) là hình thức nghệ thuật dễ phổ biến nhất và được ưa chuộng nhất. Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế của văn học - nghệ thuật Hi Lạp. Tuy nhiên, dựa trên một nền kinh tế phát triển cao, ở thời hưng thịnh của Rô-ma cũng đã xuất hiện những nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xơ, Viếc-gin v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma," Nghệ thuật Người Hi Lạp cổ đại đã để lại rất nhiều tượng và đền đài đạt tới trình độ tuyệt mĩ. Đó là những tượng nhỏ, tượng bán thân vốn được dựng ở các quảng trường. Lại có những tượng thần lớn dựng ở đền, như tượng nữ thẩn A-tê-na đội mũ chiến binh, hoặc các tác phẩm điêu khắc như Người lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ Mi-lô v.v... Rô-ma có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu... oai nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực, nhưng không tinh tế, tươi tắn, mềm mại, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Đầu tháng 10 - 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược và thống trị Campuchia. Đảng Cộng sản Đông Dương, từ năm 1951 tách ra thành Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đã lãnh đạo nhân dân Campuchia tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng thành. Tháng 4 - 1950, Uỷ ban Mặt trộn dân tộc thống nhất (Mặt trộn Khơme) và Chính phủ kháng chiến, do Sơn Ngọc Minh đứng đâu, được thành lập. Tháng 6 - 1951, quân đội cách mạng Itxarâc ra đài. Ngày 9 - 11 - 1953, do cuộc vận động ngoại giao của Quốc vương N. Xihanúc, Chính phủ Pháp đã kí hiệp ước ""trao trả độc lập cho Campuchia"". Tuy vậy, quân đội Pháp vẫn chiếm đóng Campuchia. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam. Từ năm 1954 đến đầu năm 1970, Chính phủ Xihanúc thực hiện đường lối hoà bình, trung lập, không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự hoặc chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi phía, không có điều kiện ràng buộc.  Sau cuộc đảo chính lật đổ Xihanúc ngày 18-3- 1970 của thế lực tay sai Mĩ, Campuchia bị kéo vào quỹ đạo của cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mĩ trên bán đảo Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Mĩ và tay sai của nhân dân Campuchia, với sự giúp đỡ của bộ đội tình nguyên Việt Nam, phát triển nhanh chóng" 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Từ tháng 9 - 1973, lực lượng vũ trang Campuchia đã chuyển sang tấn công, bao vây thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố khác. Mùa xuân năm 1975, quân dân Campuchia mở cuộc tấn công vào sào huyệt cuối cùng của địch. Ngày 17 - 4 - 1975, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi. Ngay sau đó, nhân dân Campuchia lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống tập đoàn Khơme đỏ do Pôn Pốt cầm đầu phản bội cách mạng, thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát hàng triệu người dân vô tội. Ngày 3 - 12 - 1978, Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, quân và dân Campuchia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 7 - 1 - 1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng khỏi chế độ Khơme đỏ diệt chủng, Campuchia bước vào thời kì hồi sinh, xây dựng lại đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1979, ở Campuchia đã diễn ra cuộc nội chiến giữa lực lượng của Đảng Nhân dân Cách mạng với các phe phái đối lập, chủ yếu là lực lượng Khơme đỏ. Cuộc nội chiến kéo dài hơn một thập kỉ, gây nhiều tổn thất cho đất nước. Với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, các bên Campuchia đã đi đến thoả thuận hoà giải và hoà hợp dân tộc. Ngày 23 - 10 - 1991, Hiệp định hoà bình về Campuchia được kí kết tại Pari. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 9 - 1993, Quốc hội mới đã thông qua Hiến pháp, tuyên bố thành lập Vương quốc Campuchia do N. Xihanúc làm Quốc vương. Từ đó, Campuchia bước sang một thời kì mới. Tháng 10 - 2004, Quốc vương Xihanúc tuyên bố thoái vị. Hoàng tủ Xihamôni lên kế ngôi, trở thành Quốc vương của Campuchia." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Cảnh sông, núi, biển ở vùng Địa Trung Hải đẹp đẽ, muôn màu. Khí hậu ấm áp, trong lành. Ban đầu, các bộ lạc đều sống trong các thung lũng. 6 đấy, những dãy núi cao từ lực địa chạy ra biển đã ngăn cách thung lũng này với thung lũng khác, tạo thành những đồng bằng nhỏ hẹp. Phần lớn lãnh thổ là núi và cao nguyên. Đất canh tác đã ít lại không màu mỡ lắm, chủ yếu là đất ven đồi, khô và rắn. Do đó, lưỡi cuốc, lưỡi cày bằng đồng không có tác dụng. Khoảng đầu thiên niên kỉ I TCN, cư dân vùng Địa Trung Hải bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt. Nhờ công cụ bằng sắt, diện tích canh tác tăng hơn, việc trồng trọt đã có kết quả . Thực ra, chỉ ở những vùng đất mềm và tốt mới có thể trồng lúa (lúa mì, lúa mạch). Đất đai ở đấy thuận tiện hơn cho việc trồng các loại cáy lưu niên, có giá trị cao như: nho, ô liu, cam, chanh... Con người phải gian khổ khai phá từng mảnh đất, phải lao động khó nhọc mới bảo đảm được một phần lương thực. Vì thế, các nước này vẫn phải mua lúa mì, lúa mạch của người Ai Cập, tây Á... Nhiều thợ giỏi, khéo tay đã xuất hiện. Họ làm ra những sản phẩm nổi tiếng như đồ gốm, với đủ các loại bình, chum, bát bằng gốm tráng men trang trí hoa văn có màu sắc và hình vẽ đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Ven bờ Bắc Địa Trung Hải có nhiều đồi núi chia cắt đất đai thành nhiều vùng nhỏ, không có điểu kiện tập trung đông dân cư ở một nơi. Mặt khác, khi dân cư sống thiên về nghề buôn và nghề thủ công thì sự tập trung đông đúc lại không cần thiết. Mỗi vùng, mỗi mỏm bản đảo là giang sơn của một bộ lạc. Khi xã hội có giai cấp hình thành thì đấy cũng là một nước. Mỗi thành viên là công dân của nước mình. Nước thì nhỏ, nghề buôn lại phát triển nên dân cư sống tập trung ở thành thị. Phần chủ yếu của một nước là thành thị với một vùng đất đai trồng trọt ở xung quanh. Thành thị có phố xá, lâu đài, đền thờ, sản vận động, nhà hát và quan trọng hơn cả là có bến cảng. Cho nên, người ta còn gọi nước đó là thị quốc (thành thị là quốc gi. Chẳng hạn, At-tích là một mũi đất nhỏ ở Đông Nam Hi Lạp ngày nay, xưa kia ià một thị quốc, có diện tích hơn 2000 km vuông , dân số khoảng 400000 người, phần lớn sống ở thành thị A-ten (nay là thủ đô của Hi Lạp), có 3 hải cảng, trong đó lớn nhất là cảng Pi-rê. Người ta gọi A-ten là thị quốc, đại diện cho cả At-tích. Hon 30000 người là công dân A-ten, có tư cách và có quyền công dân. Khoảng 15000 kiều dân (dân nơi khác đến ngụ cư) được tự do sinh sống, buôn bản, làm ăn, nhưng không có quyền công dân. Chừng hơn 300 000 nô lệ lao động, phục dịch và không có quyền gì cả, là tài sản riêng của mỗi chủ nô. Uy thế của quý tộc xuất quân là bô lão của thị tộc đã bị đánh bại. Quyền lực xã hội chuyên vào tay các chủ nô, chủ xưởng và nhà buôn. Đấy là kết quả của một quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt. Thắng lợi quyết định cuộc đấu tranh này là sự hình thành một thể chế dân chủ. Hơn 30 000 công dân họp thành Đại hội công dân, bầu và cử ra các cơ quan nhà nước, quyết định mọi công việc nhà nước." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Người ta không chấp nhận có vua. Có 50 phường, mỗi phường cử 10 người, làm thành một Hội đồng 500, có vai trò như ""quốc hội"", thay mặt dân quyết định công việc trong nhiệm kì I năm. ơ đấy, người ta bầu 10 viên chức điểu hành công việc (như kiểu một chính phủ) và cũng có nhiệm kì I năm. Viên chức có thể tái cử nếu được bầu. Hằng năm, mọi công dân họp một lần ở quảng trường, nơi ai cũng được phát biểu và biểu quyết những việc lớn của quốc gia. Thể chế dân chủ như thế đã phát triển cao nhất ở A-ten. Nơi nào không có kiểu tổ chức trên thì cũng có hình thức đại hội nhân dân. Thị quốc cổ đại là đô thị buôn bản, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ. Mỗi thành thị là một nước riêng. Ở đó, người ta bàn và quyết định nên buôn bản với nước nào và loại hàng gì, dùng ngân quỹ vào việc gì, nên trợ cấp cho dân nghèo bao nhiêu; có biện pháp gì đề duy trì thể chế dân chủ và đặc biệt là có chấp nhận tiến hành chiến tranh hay không. Lãnh thổ của thị quốc không rộng, nhưng số dân lại đông. Đất trồng trọt ở đấy đã ít, mà người ta lại càng ít trồng lúa, nhưng nơi đấy có điều kiện tự nhiên thuận lợi đề phát triển buôn bản. Do đó, các thị quốc luôn luôn giữ quan hệ buôn bản với nhau và với các vùng xa. Nhờ đó, các thị quốc trở nên rất giàu có. Đặc biệt là A-ten, sau cuộc chiến tranh với Ba Tư, trở thành minh chủ của các quốc gia Hi Lạp, lại nắm ưu thế trên biển, quản lí một ngân quỹ rất lớn, có thu nhập hằng năm rất cao. A-ten đã miễn thuế cho mọi công dân và trợ cấp cho các công dân nghèo đủ sống. Sự giàu có của Hi Lạp dựa trên nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ, làm các việc trồng, hái nho, khai mỏ, chèo thuyền và khuân vác... khiến cho sự cách biệt giữa giàu và nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng lớn. ơ Rô-ma, sự cách biệt này còn lớn hơn. Nô lệ bị bóc lột và bị khinh rẻ nên thường phản kháng chủ nô. ở Hi Lạp, hình thức phản kháng chủ yếu là trễ nải trong lao động và bỏ trốn, nhất là khi có chiến tranh. Ở Rô-ma thì họ nổi dậy khởi nghĩa chống đối thực sự." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma,"Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bản trên biển. Đó cũng là cơ sở đề họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước. Lịch và chữ viết Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mật Trời. Nhờ đi biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn, nhưng họ vẫn tưởng Mặt Trời chuyển động quanh Trái Đất. Tuy nhiên, họ đã biết nếu tính mỗi vòng như thế là 360 ngày thì không chỉnh xác. về sau, người Rô-ma đã tính được I năm có 365 ngày và 1/4 nên họ định một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Song, như thế so với thực tế vẫn bị chậm một ít. Dù sao, phép tính lịch của người Rô-ma cổ đại đã rất gần với những hiểu biết ngày nay. Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế. Cuộc sống ""bốn ba trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra một thứ chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng phải có khả nâng ghép chữ rất linh hoạt thành từ đề thể hiện ý nghĩ của con người. Hệ thống chữ cái của người Hi Lạp và người Rô-ma đã ra đời từ đó. Hệ chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, c... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay. Họ cũng có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng đề đánh số các đề mục lớn, gọi là ""số La Mã"". Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Xã hội cổ đại,Bài 4: Các quốc gia cổ đại phương tây - hi lạp và rô-ma," Vãn học Trước người Hi Lạp cổ đại, ở Ai Cập và Lưỡng Hà mới chỉ có văn học dân gian. Đó là những bài thơ, truyện huyền thoại được truyền miệng từ người này qua người khác rồi mới ghi lại. Ỏ Hi Lạp, sau các anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là l-ìi-át và ổ-đì-xê, đã xuất hiện những nhà văn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ đề lại vẫn còn nguyên giá trị độc đáo cho đến ngày nay. Các nhà văn đó chủ yếu là những nhà biênkịch và các tác phẩm của họ là những kịch bản; bởi vì thời ấy, kịch (có kèm theo hát) là hình thức nghệ thuật dễ phổ biến nhất và được ưa chuộng nhất. Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế của văn học - nghệ thuật Hi Lạp. Tuy nhiên, dựa trên một nền kinh tế phát triển cao, ở thời hưng thịnh của Rô-ma cũng đã xuất hiện những nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xơ, Viếc-gin v.v..." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Phong trào chống thực dân Anh diễn ra mạnh mẽ ở Miến Điện. Tháng 10 - 1947, Anh ki ""Hiệp ước Anh - Miến công nhộn Miến Điện là nước độc lập và tự chủ. Ngày 4 - 1 - 1948, Liên bang Miến Điện tuyến bốđộc lập. Tháng 9 - 1945, thực dân Anh tái chiếm Mã Lai. Trước sức ép phong trào đấu tranh của quân chúng, chinh phủ Anh phái đồng ý đề cho Mã Lai độc lập. Ngày 31 - 8 - 1957, Mã Lai tuyến bốđộc lập. Ngày 16 - 9 - 1963, Liên bang Malaixia ra đài, gồm miền Đông (Xaba, Xaraoâ và miền tây (Mã Lai, Xingapo). Xingapo được Anh trao trá quyền tự trị ngày 3 - 6 - 1959, sau đó tham gia Liên bang Malaixia, nhưng đến ngày 9 - 8 - 1965 lại tách ra thành nước cộng hoà độc lập. Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), nhân dân Việt Nam, Lào và tiêp đó là Campuchia phải trải qua một cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ, đến năm 1975 mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Còn Brunấy, tới ngày 1 - 1 - 1984 tuyến bốlà quốc gia độc lập nằm trong khối Liên hiệp Anh. Đông Timo sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 8 - 1999 đã tách khỏi Inđônêxia, ngày 20 - 5 - 2002 trở thành một quốc gia độc lập. Trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh lạnh, đề ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và hạn chế thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, tháng 9 - 1954, Mĩ cùng Anh, Pháp và một số nước đã thành lập khối quân sự mang tên Tổ chức hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Ả (viết tắt theo tiếng Anh là SEATO). Nhưng sau thắng lợi của cách mạng ba nước Đông dương vào giữa năm 1975, khối SEATO giải thể (30 - 6 - 1977)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Ngày 17 - 8 - 1945, sau khi quân phiệt Nhật Bản đầu hàng, Xucácnô đã đọc tuyến ngôn Độc lập, tuyến bốthành lập nước Cộng hoà Inđônêxia. Hưởng ứng tuyến ngôn Độc lập, nhân dân cả nước, trước hệt là ở các thành phố như Giacácta, Xurabaya..., đã nổi dậy chiếm các công sở, đài phát thanh và giành chính quyền từ tay Nhật Bản. Ngày 18 - 8 - 1945, lãnh tự các chính đảng và các đoàn thể mở hội nghị của Uỷ ban trù bị độc lập ỉnđônêxia, thông qua bản Hiên pháp, bầu Xucácnô làm Tổng thống nước Cộng hoà Inđônêxia. Tháng 11 - 1945, với sự giúp đỡ của quân Anh, Hà Lan quay trở lại xâm lược Inđônêxia. Cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan, bảo vệ độc lập của nhân dân Inđônêxia bùng nổ. Tháng 5 - 1949, Hà Lan và Inđônêxia kí Hiệp định đình chiến tại Giacácta. Tháng 11 năm đó, hai bên kí Hiệp ước La Hay, theo đó nước Cộng hoà Liên bang Inđônêxia nằm trong khối ""Liên hiệp Hà Lan - Inđônêxia"", bị phụ thuộc nhiều mặt vào Hà Lan. Do cuộc đấu tranh của nhân dân đòi độc lập thật sự và thống nhất, ngày 15 - 8 - 1950, nước Cộng hoà Inđônêxia thống nhất được thành lập. Cuộc kháng chiến của nhân dân Inđônêxia giành được thắng lợi. Từ năm 1953, chính phủ của Đảng Quốc dân do Xucácnô đứng đầu đã thực hiện nhiều biện pháp củng cố nền độc lập của đất nước." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào (thành lập ngày 22 - 3 - 1955), cuộc đấu tranh của nhân dân Lào diễn ra trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao, đã đánh bại các cuộc tấn công quân sự của Mĩ và tay sai. Đến đầu những năm 60, quân dân Lào đã giải phóng 2/3 lãnh thổ với hơn 1/3 dân số cả nước. từ giữa năm 1964, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào chính thức chuyển sang hỉnh thái ""Chiến tranh đặc biệt và từ năm 1969 được nâng lên thành ""Chiến tranh đặc biệt táng cuòng"". Tuy nhiên, nhân dân Lào đã từng bước đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mĩ và lực lượng phái hữu. Tháng 2 - 1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hoà bình và thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết giữa Mặt trận Lào yêu nước và phái hữu Viêng Chăn. Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng Quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập. Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiên công và nổi dậy của quân dân Việt Nam thắng lợi đã cổ vũ và tạo điều kiện cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Từ tháng 5 đến tháng 12 - 1975, quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2 - 12 - 1975, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào chính thức thành lập. Từ đó, nước Lào bước sang thời kì mới - xây dựng đất nước và phát triển kinh tế - xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Xingapo xây dụng được cơ sở hạ tâng (đưàng sá, bến cáng,...) tốt nhất khu vục. Sau 11 năm phát triển, kinh tế Thái Lan có bước tiến dài. Kế hoạch phát triển kinh tế 6 năm (1961 - 1966) đã tăng thu nhập quốc dân lên 7,6%, dụ trữ ngoại tệ và vàng tăng 15%. Sau kế hoạch 5 năm (1966 - 1970), miền tây Malaixia đã chấm dứt nhập khầu gạo, miền Đông giám nhập khầu gạo... Inđônêxia xây dụng các khu công nghiệp có quy mô lớn, sán xuất thay thế được một phán các mặt hàng công nghiệp nhập khầu. Tuy nhiên, chiến lược kinh tế hướng nội cũng bộc lộ một số hạn chế: thiếu nguồn vốn, nguyên liệu và công nghệ; chi phí cao dẫn tới làm ăn thua lỗ, tệ tham Những, quan liêu phát triển; đời sống người lao động còn khó khăn, chưa giải quyết được quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng xã hội. Sự hạn chế của chiến lược này đã buộc chính phủ 5 nước nói trên, từ thập kỉ 60 - 70 trở đi, chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá lấy xuất khẩu làm chủ đạo (chiến lược kinh tế hướng ngoại), ""mở cửa nền kinh tế, thu hút vốn và kĩ thuật của nước ngoài, tập trung sản xuất hàng hoá đề xuất khẩu, phát triển ngoại thương." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Sau khi thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại, các nước trên đã thu được nhiều thành tựu. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã lớn hơn nông nghiệp, mậu dịch đối ngoại tăng trưởng nhanh. Năm 1980, tổng kim ngạch xuất khẩu của 5 quốc gia sáng lập ASEAN đạt tối 130 tỉ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch ngoại thương của các quốc gia và khu vục đang phát triển. Vấn đề công bằng xã hội và tăng trưởng được cái thiện. Thập kỉ 70 đã chứng kiến tốc độ phát triển cao của nền kinh tế Inđônêxia: từ 2,5% (những năm 60) lên 7% - 7,5%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan (1985 - 1995) là 9%; của Malaixia đạt từ 6,3% đến 8,5% (1960 - 1990). Xingapo là nước chuyển biến mạnh nhất với tốc độ tăng trưởng 12% (1966 - 1973) và trở thành ""con rồng nổi trội nhất trong 4 ""con rồng kinh tế của Châu Á. Mặc dù đạt được thành tựu to lớn, nhưng chiến lược này cũng có những hạn chế như phụ thuộc vào vốn và thị trường bên ngoài quá lớn, đầu tư bất hợp lí... biểu hiện điển hỉnh của sự hạn chế này là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 tác động lấn vào nền kinh tế của các nước Thái Lan, Inđônêxia, Philíppin, Malaixia và Xingapo. Cuộc khủng hoáng kinh tế dân đến tình trạng chính trị không ổn định ở một số nước. Đến những năm 1999 - 2000, kinh tế của các nước này mối được khôi phục, tốc độ tăng trưởng của cá khu vục là 4% - 5%." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á,"Nền kinh tế Brunấy có nét khác với 5 nước sáng lập ASEAN. Hầu như toàn bộ nền kinh tế Brunấy đều dựa vào nguồn thu từ dầu mỏ và khí tự nhiên (chiếm tới 75% thu nhập trong nướ. Lương thực, thực phẩm phải nhập tới 80%. Do có nhiều dầu lửa và khí đốt, dân số lại ít (336 000 người - năm 2000), nên tổng thu nhập bình quân theo đầu người của nước này lên tới 18 000 USD (2000). Từ giữa những năm 80 của thế kỉ XX, Chính phủ tiến hành điều chỉnh các chính sách cơ bản nhằm đa dạng hoá nền kinh tế, tiết kiệm năng lượng, gia tăng các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Sau gần 30 năm thi hành chính sách tự lực hướng nội của chính quyền quân sự, Mianma có cơ sở hạ tầng rát lạc hậu, xuất khẩu gạo - thế mạnh của Mianma - giảm dần, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp... Từ cuối năm 1998, Chính phủ tiến hành cải cách kinh tế với ba chính sách lớn: kêu gọi đầu tư và ""mở cửa"", giải phóng khu vực kinh tế tư nhân, xử lí có hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Cuộc cải cách bước đầu mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1995 là 7%; năm 1998: 5,8%; năm 1999: 11%, năm 2000: 6,2%." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Ở Miến Điện (nay là Mi-an-m, từ năm 1824 đến năm 1885, thực dân Anh đã tiến hành 3 cuộc chiến tranh xâm lược. Năm 1885, Anh thôn tính Miến Điện rồi sáp nhập nước này vào thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Mã Lai (nay thuộc Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po) sớm bị các nước tư bản Nhờm ngó, can thiệp. Đến đầu thế kỉ XX, Mã Lai hoàn toàn trở thành thuộc địa của Anh. Ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là đối tượng xâm lược của thực dân Pháp. Đến cuối thế kỉ XIX, Pháp đã hoàn thành việc xâm lược và bắt đầu thi hành chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa. Xiêm trong nửa sau thế kỉ XIX trở thành ""vùng đệm của đế quốc Anh và Pháp. Với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của vua Ra-ma V, Xiêm là nước duy nhất ở Đông Nam Á giữ được nền độc lập tương đối về chính trị." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào những năm 90 của thế kỉ XIX, ở Phi-líp-pin xuất hiện hai xu hướng chính trong phong trào giải phóng dân tộc. Thứ nhất là xu hướng cải cách của Hô-xê Ri-dan. Năm 1892, Hô -xê Ri-dan thành lập ""Liên minh Phi-líp-pin"", thu nạp nhiều trí thức yêu nước, địa chủ và tư sản tiến bộ cùng một số dân nghèo. Liên minh chủ trương tuyến truyền, khơi dậy ý thức dân tộc, đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Phi-líp-pin. Thứ hai là xu hướng bạo động của Bô-ni-pha-xi-ô. Không tán thành đường lối cải cách ôn hoà, tháng 7 - 1892, Bô-ni-pha-xi-ô tách khỏi Liên minh Phi-líp-pin, thành lập ""Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân - viết tắt là KATIPUNAN.  Ngày 28 - 8 - 1896, Bô-ni-pha-xi-ô phát lệnh khởi nghĩa với khẩu hiệu ""chiến thắng hay là chệt !"", được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Phong trào kháng chiến chống thực dân lan rộng toàn quần đảo. Tại nhiều vùng giải phóng, chính quyền nhân dân do KATIPUNAN lãnh đạo đã được thiêt lập, tiến hành chia ruộng đất cho nông dân, tiến tới thành lập nền cộng hoà. Sau đó, Bô-ni-pha-xi-ô bị sát hại, KATIPUNAN tan rã (1897). Vào lúc này, đề' quốc Mĩ đang tìm cách bành trướng sang bờ tây Thái Bình dương nên đã không bỏ lỡ cơ hội. Tháng 4 -1898, Mĩ gậy chiến với tây Ban Nha dưới danh nghĩa ủng hộ cuộc đấu tranh chống thực dân của nhân dân Phi-líp-pin. Tháng 6 - 1898, Mĩ dựng A-ghi-nan-đô lên làm Tổng thống nước Cộng hoà Phi-líp-pin. Sau khi tây Ban Nha thua trận, quân Mĩ đổ bộ chiếm Ma-ni- la và nhiều nơi trên quần đảo. Nghĩa quân Phi-líp-pin chuyển sang đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Cuộc kháng chiến của nhân dân Phi-líp-pin chống Mĩ diễn ra trong tình trạng không cần sức, kéo dài đến năm 1902 thì bị dập tắt. Từ đấy, Phi-líp-pin trở thành thuộc địa của Mĩ. Cuộc khởi nghĩa năm 1896 ở Phi-líp-pin được coi là cuộc cách mạng mang tính chất tư sản, chống đề' quốc đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Phi-líp-pin trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào nửa sau thế kỉ XIX, trong quá trình tiên hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã từng bước xâm chiếm Cam-pu-chia và Lào. Năm 1863, Pháp gậy áp lực buộc vua Cam-pu-chia là Nô-rô-đôm phải chấp nhận quyền bảo hộ của chúng. Sau khi gạt bỏ ảnh hưởng của Xiêm đối với triều đình Phnôm Pênh, Pháp buộc vua Nô-rô-đôm kí Hiệp ước 1884, biến Cam-pu-chia thành thuộc địa của Pháp. Ách thống trị của thực dân Pháp đã gậy nên nỗi bấ't bình trong hoàng tộc và các tầng lớp nhân dân. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi trong cả nước. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa lớn của Hoàng quân Si-vô-tha, kéo dài hơn 30 năm (1861 -1892). Si-vô-tha là em cùng cha khác mẹ với Nô-rô-đôm. Bất bình về thái độ nhu nhược của triều đình đối với quân Xiêm và quân Pháp, ông đã tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, tấn công thang vào quân Pháp ở cố đô U-đông và Phnôm Pênh, mở rộng địa bàn hoạt động. Đến tháng 10 -1892, ông qua đòi vì bệnh nặng; sau đó phong trào suy yêu dần và tan rã." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Cuộc khởi nghĩa của A-cha Xoa (1863 -1866) diễn ra ở các tỉnh giáp với biên giới Việt Nam, đã gậy cho thực dân Pháp nhiều tổn thất to lớn. Ban đầu, A-cha Xoa tham gia phong trào của Si-vô-tha. Do phong trào này bị đàn áp, ông và nhiều nghĩa quân phải lánh sang Việt Nam - ở vùng Châu Đốc, Tịnh bịên. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng giúp đỡ A-cha Xoa chống Pháp. Từ vùng núi Thất Sơn, A-cha Xoa lấy Châu Đốc, Hà Tiên làm bàn đạp tấn công quân Pháp ở Cam-pu-chia. Năm 1864, có lần nghĩa quân đã chiếm được tỉnh Cam-pốt và áp sát Phnôm Pênh. Hoạt động của nghĩa quân trong các năm 1864 - 1865 càng mạnh mẽ. biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia trở thành vùng căn cứ cho cuộc khởi nghĩa của A-cha Xoa. Ngày 19 - 3 -1866, do bị thương nặng, A-cha Xoa bị Pháp bắt. Cuộc khởi nghĩa của Pu-côm-bô (1866 -1867) không chỉ thể hiên tinh thần anh dũng, bất khuất của nhân dân Cam-pu-chia mà còn là biểu tượng về liên minh chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam và Cam-pu-chia trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Pu-côm-bô là nhà sư có uy tín trong nhân dân, từng lánh nạn ở Nam Lào trong 17 năm. Năm 1866, ông phát động cuộc khởi nghĩa chống Pháp và lập căn cứ ở tây Ninh. Nghĩa quân gồm người Khơ-me, người Chăm, người Xtiêng, người Kinh. Trương Quyền (con Trương Định) và Võ Duy dương (Thiên hộ dương) đã liên kết với nghĩa quân Pu-côm-bô đánh Pháp. Khi lực lương lớn mạnh, Pu-côm-bô tiến quân về nước, kiểm soát Pa-man, tấn công U-đông (17 -12 -1866). Nhân dân Việt Nam ở ba tỉnh miền tây Nam Kì thường xuyên cung cấp lương thực, vũ khí cho nghĩa quân. Ngày 3 -12 -1867, Pu-côm-bô hi sinh trong chiến đấu." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào giữa thế kỉ XIX, cũng như các nước ở Đông Nam Á, Vương quốc Xiêm đứng trước sự đe doạ xâm nhập của thực dân phương tây, nhất là Anh và Pháp. Triều đại Ra-ma, được thiết lập năm 1752, theo đuổi chính sách đóng cửa, ngăn cản thương nhân và giáo sĩ phương tây vào Xiêm. Đê'n thời vua Mông-kút (Ra-ma IV, trị vì từ năm 1851 đề'n năm 1868) chủ trương mở cửa buôn bản với bên ngoài, lợi dụng sự kiềm chế lẫn nhau giữa các nước tư bản đề bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ra-ma IV là vua Xiêm đầu tiên giỏi tiếng Anh, tiếng Latinh, nghiên cứu và tiếp thu nen vãn minh phương tây, tiếp xúc với các nhà truyền giáo Âu - Mĩ và đặc biệt chú ý đến đường lôi đôi ngoại của Vương quốc. Năm 1868, Chu-la-long-con lên ngôi (Ra-ma V, trị vì từ năm 1868 đề'n năm 1910). Là người uyên bác, hấp thụ văn hoá phương tây, tiêp nối chính sách cải cách của vua cha, ông ra lệnh xoá bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ vì nợ, giải phóng người lao động đề họ được tự do làm ăn sinh sống; đồng thời, xoá bỏ cho nông dân nghĩa vụ lao dịch 3 tháng trên các công trường nhà nước, giảm nhẹ thuê ruộng. Những biện pháp trên đã có tác dụng tích cực đối với sản xuất nông nghiệp: nâng cao năng suất lúa, tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu; việc xuất khẩu gỗ têch cũng được đẩy mạnh. " 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Lượng gạo xuất khẩu năm 1885 là 22,5 vạn tân, năm 1890 là 48 vạn tân, năm 1895 là 46,5 vạn tấn, năm 1900 là 50 vạn tấn. Lượng gỗ xuất khẩu trong 10 năm (1885 - 1895) tăng gấp 4 lần, từ 15,2 nghìn tấn lên 61,3 nghìn tấn. Nhà nước khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh công thương nghiệp, xây dựng nhà máy xay xát lúa gạo, nhà máy cưa, mở hiệu buôn bản và ngân hàng. Năm 1890, ở Băng Côc có 25 nhà máy xay xát, 4 nhà máy cưa, đường xe điện được xây dựng sớm nhất Đông Nam Á (1887). Năm 1892, Ra-ma V đã tiên hành hàng loạt cải cách theo khuôn mẫu các nước phương tây về hành chính, tài chính, quân sự, giáo dục..., tạo cho nước Xiêm một bộ mặt mới, phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Với chính sách cải cách hành chính, vua vẫn là người có quyền lực tôi cao, song bên cạnh vua có Hội đồng Nhà nước, đóng vai trò là cơ quan tư vấn, khởi thảo luật pháp, hoạt động gần như một nghị viện. Bộ máy hành pháp của triều đình được thay bằng Hội đồng Chính phủ, gồm 12 bộ trưởng, do các hoàng quân du học ở phương tây về đảm nhiệm. Hệ thông toà án, trường học đều được tổ chức lại theo kiểu Châu Âu. quân đội được trang bị và huấn luyện theo phương pháp hiện đại. Tư bản nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh ở Xiêm..." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Từ giữa thế kỉ XIX, khi các nước Châu Âu và Bắc Mĩ căn bản đã hoàn thành cách mạng tư sản, đua nhau bành trướng thế lực, xâm chiếm thuộc địa thì ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam Á, chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị và đều lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên về chính trị, kinh tế, xã hội. Nhân cơ hội này, các nước thực dân phương tây mở rộng và từng bước hoàn thành việc xâm lược các nước Đông Nam Á, trừ Xiêm. ở In-đô-nê-xi-a, ngay từ thế kỉ XV, XVI thực dân tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Hà Lan đã có mặt và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Đến giữa thế kỉ XIX, Hà Lan hoàn thành việc xâm chiếm và thiết lập nền thống trị thực dân trên đất nước này. Phi-líp-pin cũng bị thực dân tây Ban Nha thống trị từ giữa thế kỉ XVI. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với tây Ban Nha năm 1898, đế quốc Mĩ liền tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Phi-líp-pin (1899 -1902) và biến quần đảo này thành thuộc địa của mình." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 4: Các nước Đông Nam Á (Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX),"Vào những năm 90 của thế kỉ XIX, ở Phi-líp-pin xuất hiện hai xu hướng chính trong phong trào giải phóng dân tộc. Thứ nhất là xu hướng cải cách của Hô-xê Ri-dan. Năm 1892, Hô -xê Ri-dan thành lập ""Liên minh Phi-líp-pin"", thu nạp nhiều trí thức yêu nước, địa chủ và tư sản tiến bộ cùng một số dân nghèo. Liên minh chủ trương tuyên truyền, khơi dậy ý thức dân tộc, đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Phi-líp-pin. Thứ hai là xu hướng bạo động của Bô-ni-pha-xi-ô. Không tán thành đường lối cải cách ôn hoà, tháng 7 - 1892, Bô-ni-pha-xi-ô tách khỏi Liên minh Phi-líp-pin, thành lập ""Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân"" - viết tắt là KATIPUNAN.  Ngày 28 - 8 - 1896, Bô-ni-pha-xi-ô phát lênh khởi nghĩa với khẩu hiệu ""Chiên thắng hay là chệt !"", được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Phong trào kháng chiên chống thực dân lan rộng toàn quần đảo. Tại nhiều vùng giải phóng, chính quyền nhân dân do KATIPUNAN lãnh đạo đã được thiêt lập, tiến hành chia ruộng đất cho nông dân, tiến tới thành lập nền cộng hoà. Sau đó, Bô-ni-pha-xi-ô bị sát hại, KATIPUNAN tan rã (1897). Vào lúc này, để' quốc Mĩ đang tìm cách bành trướng sang bờ Tây Thái Bình Dương nên đã không bỏ lỡ cơ hội. Tháng 4 -1898, Mĩ gây chiến với Tây Ban Nha dưới danh nghĩa ủng hộ cuộc đấu tranh chống thực dân của nhân dân Phi-líp-pin. Tháng 6 - 1898, Mĩ dựng A-ghi-nan-đô lên làm Tổng thống nước Cộng hoà Phi-líp-pin. Sau khi Tây Ban Nha thua trận, quân Mĩ đổ bộ chiêm Ma-ni- la và nhiều nơi trên quần đảo. Nghĩa quân Phi-líp-pin chuyển sang đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Cuộc kháng chiên của nhân dân Phi-líp-pin chống Mĩ diễn ra trong tình trạng không cân sức, kéo dài đển năm 1902 thì bị dập tắt. Từ đây, Phi-líp-pin trở thành thuộc địa của Mĩ. Cuộc khởi nghĩa năm 1896 ở Phi-líp-pin được coi là cuộc cách mạng mang tính chất tư sản, chống để' quốc đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân Phi-líp-pin trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ dâng cao và giành được thắng lợi cuối cùng. Tiếp đó, nhân dân Ấn Độ đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội. Ở khu vực Trung Đông, tình hình ngày càng căng thẳng do sự tranh chấp quyền lợi giữa các nước đế quốc. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Palextin, mặc dù đạt được những thành quả bước đầu, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Ấn Độ là nước lớn thứ hai ở Châu Á, với diên tích gần 3,3 triệu km vuông , dân số 1 tỉ 20 triệu người (năm 2000)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Trong những năm 1945 - 1947, cuộc đâu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại bùng lên mạnh mẽ. Năm 1946, ở An Độ đã xáy ra 848 cuộc bãi công. Tiêu biểu là ngày 19 - 2 - 1946, hai vạn thuỷ binh trên 20 chiến hạm ở Bombay nổi dây khởi nghĩa, hạ cà Anh, tổ chức biểu tỉnh chống đế quốc Anh, đòi độc lộp dân tộc. Cuộc nổi dộy này nhanh chóng được sự hưởng úng của các lực lượng dân tộc. Ngày 22 - 2, ở Bombay bắt đâu cuộc bãi công, tuân hành và mít tinh của quân chúng, thu hút 20 vạn công nhân, học sinh, sinh viên tham gia. Cuộc đâu tranh ở Bombay đã kéo theo nhiều vụ nổi dộy của nhân dân Cancútta, Mađrát, Carasi,... và các cuộc xung đột vũ trang của nông dân với địa chủ và cánh sát ở các tỉnh. Phong trào Tebhaga (""một phân ba"") của nông dân đòi chủ đât hạ múc tô xuống 1 /3 thu hoạch diễn ra ở nhiều địa phương, tiêu biểu là ở Bengan. Đầu năm 1947, cao trào bãi công của công nhân tiếp tục bùng nổ ở nhiều thành phố lốn như cuộc bãi công của hơn 40 vạn công nhân ở Cancútta tháng 2 - 1947. Quy mô rộng lổn và khí thế của phong trào đâu tranh đã làm cho chính quyền thực dân Anh không thể tiếp tục thống trị Ấn Độ theo hình thức thực dân kiểu cũ được nữa, phải nhượng bộ, hứa sẽ trao quyền tự trị cho Ấn Độ và người Anh sẽ rời khỏi Ấn Độ trước tháng 7 - 1948. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Maobáttơn - Phó vương cuối cùng của Anh - đến Ấn Độ tháng 4 - 1947, đã thương lượng với Đáng Quốc đại và Liên đoàn Hồi giáo Ấn Độ, đề ra phương án độc lộp cho Ấn Độ, được gọi là ""phương án Maobáttơn"". Theo phương án này, Ấn Độ sẽ bị chia thành hai nước tụ trị dựa trên cơ sở tôn giáo: Ấn Độ của người theo Ấn Độ giáo và Pakixtan của những người theo Hồi giáo. Trên cơ sở thoả thuận này, ngày 15 - 8 - 1947, Ấn Độ đã tách thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakixtan . Không thoả mãn với quy chế tự trị, Đảng Quốc đại đã lãnh đạo nhân dân đâu tranh giành độc lập dân tộc hoàn toàn trong những năm 1948 - 1950. Ngày 30 - 1 - 1948, vị lãnh tụ kiệt xuất M. Ganđi bị bọn phản động cực đoan ám sát. Tuy vậy, Đảng Quốc đại do G. Nêru đứng đầu vẫn tiếp tục con đuờng đâu tranh vì độc lập dân tộc. Truớc sức ép của phong trào quần chúng, thực dân Anh buộc phải công nhận độc lập hoàn toàn của Ấn Độ. Ngày 26 - 1 - 1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập và thành lập nuớc cộng hoà. Nuớc Cộng hoà Ấn Độ được thành lập đánh dâu thắng lợi to lớn của nhân dân Ấn Độ duới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại do M. Ganđi và G. Nêru đứng đầu. Sự kiện này có ảnh huởng quan trọng đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Trong thời kì xây dựng đất nước, Ấn Độ đã thực hiện những kế hoạch dài hạn nhằm phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá. Nhờ thành tựu của cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp, từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX, Ấn Độ đã tự túc được lương thực cho gần 1 tỉ người và bắt đầu xuất khẩu. Sản xuất công nghiệp tăng, đặc biệt là công nghiệp nặng; cơ sở hạ tầng được xây dựng hiện đại. Qua 7 kế hoạch 5 năm, nền công nghiệp An Độ giữ được mức phát triển trung bỉnh là 5%/năm. An Độ chế tạo được máy móc, thiết bị ngành dệt, hoá chất, máy bay, tàu thuỷ, đâu máy xe lửa, ti vi màu,... Nhiều nhà máy điện (nhiệt điện, thuỷ điện, điện nguyên tử...) được xây dụng, đám báo nhu câu về điện cho An Độ,... Vào những năm 80 của thế kỉ XX, An Độ đứng thứ 10 trong những nước sán xuất công nghiệp lốn nhốt thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1995 đạt 7,4%; năm 1998: 6%; năm 1999: 7,1%; năm 2000: 3,9%." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Trong ba thập niên cuối thế kỉ XX, Ấn Độ đầu tư nhiều vào lĩnh vực công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin và viễn thông, đang cố gắng vươn lên hàng các cường quốc về công nghệ phần mềm, công nghệ hạt nhân, công nghệ vũ trụ... Cuộc ""cách mạng chất xám bắt đầu từ những năm 90 đã đưa Ấn Độ trở thành một trong những nước sản xuất phần mềm lổn nhất thế giới. Trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và khoa học - kĩ thuật, Ấn Độ có những bước tiến nhanh chóng. Năm 1974, An Độ thủ thành công bom nguyên tủ; năm 1975 phóng vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo Trái Đất bàng tên lủa của mình. Năm 1996, với việc phóng thành công vệ tinh địa tĩnh, An Độ trở thành một trong 6 nước có khá năng phóng vệ tinh lên vũ trụ. Đến năm 2002, An Độ có 7 vệ tinh nhân tạo đang hoạt động trong vũ trụ. Về đối ngoại, Ấn Độ thi hành chính sách hoà bình, trung lập tích cực, luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc. Ấn Độ là một trong những nước sáng lập Phong trào không liên kết. Vị thế của Ấn Độ ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Ấn Độ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 7 - 1 - 1972." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Khu vực Trung Đông (hay còn gọi là Tây Á) có diện tích 4,7 triệu km vuông và dân số là 189 triệu người (năm 2000), bao gồm phần lớn các nước A Rập. Đây là khu vực có nguồn dầu mỏ chiếm 2/3 trữ lượng toàn thế giới và là nơi tiếp giáp với ba châu lục (Á, Phi, Âu). Cùng với kênh đào Xuyê, nơi này trở thành đầu mối giao thông quan trọng của thế giới. Do đó, Trung Đông luôn là mục tiêu nhòm ngó, tranh giành của các đế quốc phương Tây. Sau Chiến tranh thế giối thứ nhốt, khu vục này bị Anh đô hộ. Sau Chiến tranh thế giối thứ hai, Mĩ tìm cách hốt cẳng Anh để không chế Trung Đông. Mĩ thi hành chính sách lợi dụng mâu thuân giữa người A Rộp và người Do Thái, ủng hộ chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái, can thiệp vào vốn đề Palextin và Trung Đông. Sự xung đột giữa hai dân tộc Do Thái và A Rộp Palextin ngày càng căng thẳng, người Anh không giái quyết nổi, buộc phái đưa vốn đề Palextin ra Liên hợp quốc. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Theo Nghị quyết 181 (29 - 11 - 1947) của Liên hợp quốc, sự đô hộ của Anh bị huỷ bỏ và lãnh thổ Palextin bị chia làm hai quốc gia: một của người A Rập Palextin, một của người Do Thái. Ngày 14 - 5 - 1948, Nhà nước Do Thái thành lập, lây tên là ỉxraen. Không tán thành Nghị quyết 181, ngày 15 - 5 - 1948, bảy nước A Rập đã tấn công Ixraen. Từ đó, xung đột giữa Ixraen và Palextin diễn ra liên miên. Trái qua 4 cuộc chiến tranh , Ixraen đã chiếm toàn bộ lãnh thổ dành cho Palextin, bán đáo Xinai của Ai Cập (bán đáo này được trá cho Ai Cập năm 1979), cao nguyên Gôlan (Xiri) và miền Nam Libăng . Ngày 28 - 5 - 1964, tại Giêruxalem, To chức giải phóng Palextin (PLO) được thành lập, đã đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước đâu tranh cho sự nghiệp giải phóng Palextin. Năm 1975, Liên hợp quốc công nhận quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palextin. Ngày 15 - 11 - 1988, Nhà nước Palextin ra đời. Tháng 3 - 1989, Y. Araphát được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Nhà nước này.  Y Araphát (1929 - 2004) theo đạo Hồi; năm 1948, tham gia cuộc chiến tranh chống Ixraen, sau đó học đại học ở Ai Cập và làm công trình sư ở Côoét. Năm 1969, Araphát được bâu làm Chủ tịch Ban Chđp hành Trung ương Tổ chức giải phóng Palextin (PLO), kiêm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang cách mạng. Ngày 26 - 8 - 1993, Ixraen chấp nhận đàm phán với PLO trên nguyên tắc ""đổi đất lấy hoà bình"". Ngày 13 - 9 - 1993, sau 45 năm chiến tranh, lần đầu tiên một hiệp định hoà bình được kí kết giữa Ixraen và PLO, còn gọi là Hiệp định Gada - Giêricô. Hiệp định hoà bình quy định PLO được quyền quản lí dái Gada và thành phố Giêricô, Ixraen rút quân khỏi hai khu vục nói trên, chính quyền tụ trị của người Palextin được thành lập ở đây..." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Thoả thuận này là một bước đột phá tích cực trong tiến trình dàn xếp hoà bình ở Trung Đông. Ngày 28 - 9 - 1995, dưới sự chứng kiến của Tổng thống Mĩ B. Clintơn, tại Nhà Trắng (Mĩ), Chủ tịch PLO Y. Araphát và Thủ tướng Ixraen I. Rabin đã chính thức kí hiệp định mở rộng quyền tự trị của người Palextin ở bờ Tây sông Gioócđan. Ngày 23 - 10 - 1998, hai bên kí Bản ghi nhớ Oai Rivơ, theo đó Ixraen sẽ chuyển giao 27,2% lãnh thổ bờ Tây sông Gioócđan cho Palextin trong vòng 12 tuần,... Tuy nhiên, tiến trình hoà bình ở Trung Đông tiến triển chậm, có lúc hầu như ngưng trệ. Cuộc xung đột giữa hai bên vẫn diễn ra liên tiếp. Sau cuộc chiến tranh Irâc (tháng 3 - 2003), nhóm ""Bốn bên (Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Nga và Mì) đưa ra kế hoạch hoà bình (thường được gọi là ""Lộ trình hoà bình"") để giái quyết cuộc xung đột giữa Ixraen và Palextin. Nhưng việc thục thi còn nhiều khó khăn vì hai phía Ixraen và Palextin chưa đạt được thoá thuộn trong nhiều vđn đề cơ bán. Sau khi Araphát qua đời, Tổng thống mối của Palextin là M. Apbát (được bầu tháng 1 - 2005) tiếp tục cuộc đấu tranh, tìm kiếm giái pháp thương lượng với Ixraen. " 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Nếu trong thế kỉ XVIII, thế giới chứng kiến sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến thì thế kỉ XIX là thế kỉ đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa của các nước tư bản Âu - Mĩ. Cũng như Châu Á, các nước Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh không thoát khỏi cơn lốc xâm lược đó. Nhân dân các dân tộc ở đây đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, tiêu biểu là phong trào ở An-giê-ri, Ai Cập, Xu-đăng, Ê-ti-ô-pi-a... (Châu Phi); ở Ha-i-ti, Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-na... (khu vực Mĩ Latinh)." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Châu Phi là một lục địa lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên, là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trước khi thực dân Châu Âu xâm chiếm và phân chia Châu Phi, phần lớn nhân dân ở đây đã biết dùng đổ sắt. Nghề dệt và nghề gốm phát triển, nghề chăn nuôi và trổng trọt phổ biến. Nhưng bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX, cuộc sống yên ổn, tài nguyên phong phú và nền văn hoá lâu đời của họ đã bị thực dân Châu Âu xâm pham, phá hoai, cướp bóc. Đặc biệt vào những năm 70, 80 của thế kỉ XIX, sau khi hoàn thành kênh đào Xuy-ê, các nước tư bản phương Tây đua nhau xâu xé Châu Phi. Năm 1882, sau cuộc cạnh tranh quyết liệt với Pháp, Anh độc chiếm Ai Cập, kiểm soát kênh đào Xuy-ê. Tiếp đó, Anh chiếm Nam Phi, Tây Ni-giê-ri-a, Bò Biển Vàng, Gam-bi-a (Tây Phi), Kê-ni-a, U-gan-đa, Xô-ma-li, Đông Xu-đăng, một phần Đông Phi... Pháp đứng thứ hai trong việc xâm chiếm thuộc địa Châu Phi (sau Anh), gồm một phần Tây Phi, miền Xích đạo Châu Phi, Ma-đa-ga-xca, một phần Xô-ma-li, An-giê-ri, Tuy-ni-di, Xa-ha-ra. Đức chiếm Ca-mơ-run, Tô-gô, Tây Nam Phi, Tan-da-ni-a. Bỉ làm chủ phần lớn Công-gô. Bồ Đào Nha giành được Mô-dăm-bích, Ang-gô-la và một phần Ghi-nê. Đến đầu thế kỉ XX, việc phân chia thuộc địa giữa các đế quốc ở Châu Phi căn bản đã hoàn thành. Chế độ cai trị hà khắc của chủ nghĩa thực dân đã làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh giành độc lập của nhân dân Châu Phi." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Ở An-giê-ri, cuộc khởi nghĩa của Áp-đen Ca-đe kéo dài từ năm 1830 đến năm 1847, thu hút đông đảo nhân dân tham gia đấu tranh. Thực dân Pháp phải mất hàng chục năm mới chinh phục được nước này. Ở Ai Cập, năm 1879 một số trí thức và sĩ quan yêu nước đã thành lập tổ chức chính trị bí mật ""Ai Cập trẻ"", đề ra những cải cách mang tính chất tư sản, do Đại tá Át-mét A-ra-bi lãnh đạo. Các nước đế quốc phải can thiệp mạnh mới ngăn chặn được cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ai Cập (1882). Ở Xu-đăng, ngay từ năm 1882 thực dân Anh đã vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của nhà truyền giáo trẻ Mu-ha-mét Át-mét. Năm 1898, thực dân Anh được các nước đế quốc khác giúp đỡ, bao vây Xu-đăng, gây ra một cuộc thảm sát đẫm máu; phong trào đấu tranh ở đây thất bại. Nổi bật trong cuộc đấu tranh của nhân dân Châu Phi chống thực dân phương Tây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Ê-ti-ô-pi-a. Năm 1889, thực dân I-ta-li-a tiến sâu vào nội địa, đánh chiếm một số vùng ở Ê-ti-ô-pi-a, nhưng chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân. Ngày 1 - 3 -1896, quân I- ta-li-a thảm bại ở A-dua. quân đội Ê-ti-ô-pi-a mặc dù bị tổn thất nặng, song đã bảo vệ được nền độc lập của Tổ quốc. Cùng với Ê-ti-ô-pi-a, Li-bê-ri-a là nước giữ được độc lập ở châu lục này trước sự xâm chiếm của các nước thực dân phương Tây hổi cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Nhìn chung, phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân Châu Phi tuy diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng do trình độ tổ chức thấp, lực lượng chệnh lệch, nên bị thực dân phương Tây đàn áp. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Phi vẫn tiếp tục phát triển trong thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Khu vực Mĩ Latinh là một bộ phận lãnh thổ rộng lớn của châu Mĩ, gỗm một phần Bắc Mĩ, toàn bộ Trung Mĩ, Nam Mĩ và những quần đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê. Từ thế kỉ XVI, XVII, đa số các nước Mĩ Latinh lần lượt biến thành thuộc địa của Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha. Chủ nghĩa thực dân thiết lập ở đây chế độ thống trị rất phản động, gây ra nhiều tội ác dã man, tàn khốc. Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Mĩ Latinh diễn ra quyết liệt và nhiều nước giành được độc lập ngay từ đầu thế kỉ XIX. Năm 1791, ở Ha-i-ti bùng nổ cuộc đâu tranh lổn của người da đen dưới sự lãnh đạo của Tút-xanh Lu-véc-tuy-a. Năm 1804, cuộc đâu tranh giành được thắng lợi. Ha-i-ti trở thành nước cộng hoà da đen đầu tiên ở Mĩ Latinh. Tuy nhiên, nền độc lập của Ha-i-ti xác lập chưa được bao lâu thì quân Pháp trở lại đàn áp cuộc khởi nghĩa, bắt giữ Lu-véc-tuy-a, phục hồi nền thống trị thực dân. Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa ở Ha-i-ti đã có tiếng vang lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh. Nối tiếp Ha-i-ti, nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập khác đã nổ ra; nền cộng hoà ra đời ở một loạt nước trong khu vực: Ác-hen-ti-na năm 1816, Mê-hi-cô và Pê-ru năm 1821... Như vậy, qua 2 thập niên đầu thế kỉ XIX đấu tranh quyết liệt, các quốc gia độc lập ở Mĩ Latinh lần lượt hình thành. Chỉ còn một vài vùng đất nhỏ như Guy-a-na, đảo Cu-ba, đảo Pu-éc-tô Ri-cô, quần đảo Ảng-ti... vẫn còn trong tình trạng thuộc địa. Đây là thắng lợi to lớn của nhân dân Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Châu Âu." 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước châu á, châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Mĩ Latinh đã có những bước tiên bộ về kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, nhân dân khu vực Mĩ Latinh còn phải tiếp tục đấu tranh chống lại chính sách bành trướng của Mĩ đối với khu vực này. Năm 1823, vì muốn độc chiêm vùng lãnh thổ giàu có này, Mĩ đã đưa ra học thuyết Mơn-rô: ""Châu Mĩ của người châu Mĩ"". Đên năm 1889, tổ chức ""Liên minh dân tộc các nước cộng hoà châu Mĩ được thành lập, gọi tắt là Liên Mĩ, dưới sự chỉ huy của chính quyền Oa-sinh-tơn. Năm 1898, Mĩ gây chiến với Tây Ban Nha để sau đó chiêm Phi-líp-pin, Cu-ba, Pu-éc-tô Ri-cô... Từ đầu thế kỉ XX, Mĩ áp dụng chính sách ""Cái gậy lớn và ""Ngoại giao đổng đôla để chiêm Pa-na-ma (1903), Đô-mi-ni-ca-na, Ni-ca-ra-goa, kiểm soát Hôn-đu-rát (1911), chiêm Ha-i-ti (1914 -1915) và 2 lần đem quân đánh Mê-hi-cô (1914 và 1916). Dưới danh nghĩa đoàn kết với các nước châu Mĩ, chính quyền Oa-sinh-tơn đã không chệ, biên khu vực Mĩ Latinh thành ""sân sau của để quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Ở Trung Quốc vào những thế kỉ cuối trước Công nguyên, do sự phát triển sản xuất, xã hội phân hoá giai cấp, nên chế độ phong kiến được hình thành sớm. Nhà Tần đã khởi đầu xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến. Hoàng đế có quyền tuyệt đối. Thời phong kiến, kinh tế Trung Quốc phát triển, nhất là nông nghiệp, nhưng nền kinh tế này trải qua thăng trầm theo sự hưng thịnh của các vương triều. Cuối thời Minh, mầm mong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành nhưng không phát triển được. Trên cơ sở những điều kiện kinh tế xã hội mới, kế thừa những truyền thống của nền văn hoá cổ, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các cuộc chiến tranh liên miên hao người tốn của làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Nông dân khắp nơi vùng dậy khởi nghĩa, các thế lực cát cứ cũng tranh giành lẫn nhau, nhà Hán lung lay rồi sụp đổ. Trung Quốc lại bước vào thời kì loạn lạc kéo dài. Sau mấy thế kỉ rối ren, Lý Uyên đập tan được phe đối lập, đàn áp khởi nghĩa nông dân, lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Đường (618 - 907). Chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường đã đạt đến Đỉnh cao của nó. So với các triều đại trước, kinh tế phát triển tương đối toàn diện. Cùng với các biện pháp giảm tô thuế, bớt sưu dịch, nhà Đường lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân gọi là chế độ quân điền. Khi nhận ruộng, nông dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu. Người ta cũng áp dụng những kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống, xác định thời vụ. Nhờ vậy, sản lượng tăng nhiều hơn trước. Thủ công nghiệp và thương nghiệp bước vào giai đoạn thịnh đạt. Xương thủ công (gọi là tác phường) luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các cuộc chiến tranh liên miên hao người tốn của làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Nông dân khắp nơi vùng dậy khởi nghĩa, các thế lực cát cứ cũng tranh giành lẫn nhau, nhà Hán lung lay rồi sụp đổ. Trung Quốc lại bước vào thời kì loạn lạc kéo dài. Sau mấy thế kỉ rối ren, Lý Uyên đẹp tan được phe đối lập, đàn áp khởi nghĩa nông dân, lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Đường (618 - 907). Chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường đã đạt đến Đỉnh cao của nó. So với các triều đại trước, kinh tế phát triển tương đối toàn diện. Cùng với các biện pháp giảm tô thuế, bớt sưu dịch, nhà Đường lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân gọi là chế độ quân điền. Khi nhận ruộng, nông dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu. Người ta cũng áp dụng những kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống, xác định thời vụ. Nhờ vậy, sản lượng tăng nhiều hơn trước. Thủ công nghiệp và thương nghiệp bước vào giai đoạn thịnh đạt. Xương thủ công (gọi là tác phường) luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Vào thời Đường, tờ các tuyến đường giao thông đã được hình thành trong các thế kỉ trước, hai ""con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển cũng được thiết lập, mở rộng. Về chính trị, nhà Đường tiếp tục củng cố chính quyền trung ương, làm cho bộ máy cai trị phong kiến được hoàn chinh. Các hoàng đế nhà Đường cử người thân tín cai quản các địa phương, đặc biệt giao cho các công thần hoặc người thân tộc giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải các miền biên cương. Đồng thời, nhà Đường mở các khoa thi để tuyển chọn (không chi trong giới quý tộc mà cả con em địa chủ) những người đỗ đạt ra làm quan. Như thế, chế độ phong kiến đã tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương. Chính quyền phong kiến thời Đường được tăng cường nhằm nâng cao quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Vào thời Đường, tờ các tuyến đường giao thông đã được hình thành trong các thế kỉ trước, hai ""con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển cũng được thiết lập, mở rộng. Về chính trị, nhà Đường tiếp tục củng cố chính quyền trung ương, làm cho bộ máy cai trị phong kiến được hoàn chinh. Các hoàng đế nhà Đường cử người thân tín cai quản các địa phương, đặc biệt giao cho các công thần hoặc người thân tộc giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải các miền biên cương. Đồng thời, nhà Đường mờ các khoa thi để tuyển chọn (không chi trong giới quý tộc mà cả con em địa chủ) những người đỗ đạt ra làm quan. Như thế, chế độ phong kiến đã tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương. Chính quyền phong kiến thời Đường được tăng cường nhằm nâng cao quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các hoàng đế nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược mở rộng lãnh thổ. Nhà Đường đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam (lãnh thổ Việt Nam hồi đó), ép Tây Tạng phải thần phục. Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất. Đến cuối thời Đường, mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do tô thuê' quá nặng nề, sưu dịch liên miên. Nạn đói thường xuyên diễn ra. Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 874. Nhà Đường bị lật đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì Ngũ đại - Thập quốc nhưng Triệu Khuông Dẫn lại tiêu diệt được các thế lực phong kiến khác, lập ra nhà Tống vào năm 960. Sau đó, miền Bắc Tống lại bị nước Kim đánh chiếm. Đến cuối thế kỉ XIII, cả hai nước Kim và Nam Tống lần lượt bị Mông Cổ tiêu diệt." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các hoàng đế nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược mở rộng lãnh thổ. Nhà Đường đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam (lãnh thổ Việt Nam hồi đó), ép Tây Tạng phải thần phục. Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất. Đến cuối thời Đường, mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do tô thuê' quá nặng nề, sưu dịch liên miên. Nạn đói thường xuyên diễn ra. Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khỏi nghĩa do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 874. Nhà Đường bị lật đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì Ngũ đại - Thập quốc nhưng Triệu Khuông Dẫn lại tiêu diệt được các thế lực phong kiến khác, lập ra nhà Tống vào năm 960. Sau đó, miền Bắc Tống lại bị nước Kim đánh chiếm. Đến cuối thế kỉ XIII, cả hai nước Kim và Nam Tống lần lượt bị Mông Cổ tiêu diệt." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Đầu thế kỉ XIII, trên thảo nguyên Mông cổ hình thành nhà nước phong kiến chuyện chế quân sự do Gien-gít Khan (Thành Cát Tư Hãn) làm vua. Năm 1271, vua Mông cổ là Khu-bi-lai (Hốt Tất Liệt) lên ngôi Hoàng đế, thiết lập triều Nguyên ở Trung Quốc (1271 - 1368). Dưới sự thống trị của nhà Nguyên, nhân dân Trung Quốc liên tiếp đứng lên đấu tranh. Năm 1368, khởi nghĩa nông dân lật đổ được nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra nhà Minh (1368 - 1644). Các vua triều Minh đã thi hành nhiều biện pháp nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến đầu thế kỉ XVI, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện ở Trung Quốc. Một số nghề đã có những xưởng thủ công tương đối lớn. Ở Giang Tây có những trung tâm làm đồ gốm lớn như cảnh Đức có tới 3000 lò sứ. Có những chủ xưởng dệt nắm trong tay hàng vạn lạng bạc tiền vốn, hàng chục khung cửi và hàng chục thợ. những người thợ này làm thuê để lấy tiền công. Bấy giờ, các nhà buôn lớn cũng xuất hiện. Họ có nhiều vốn và nguyên liệu, đem giao cho các hộ thủ công làm để thu thành phẩm. Các thương nhân bao mua, đem hàng đi trao đổi khắp trong và ngoài nước. Hoạt động của họ thâm nhập vào cả lĩnh vực nông nghiệp như mùa xuân họ xuất vốn cho nông dân trồng mía, mùa đông thu lại bằng đường " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Đầu thế kỉ XIII, trên thảo nguyên Mông cổ hình thành nhà nước phong kiến chuyện chế quân sự do Gien-gít Khan (Thành Cát Tư Hãn) làm vua. Năm 1271, vua Mông cổ là Khu-bi-lai (Hốt Tất Liệt) lên ngôi Hoàng đế, thiết lập triều Nguyên ở Trung Quốc (1271 - 1368). Dưốl sự thống trị của nhà Nguyên, nhân dân Trung Quốc liên tiếp đứng lên đấu tranh. Năm 1368, khởi nghĩa nông dân lật đổ được nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra nhà Minh (1368 - 1644). Gác vua triều Minh đã thi hành nhiều biện pháp nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến đầu thế kỉ XVI, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện ở Trung Quốc. Một số nghề đã có những xưởng thủ công tương đối lớn. Ở Giang Tây có những trung tâm làm đồ gốm lớn như cảnh Đức có tới 3000 lò sứ. Có những chủ xưởng dệt nắm trong tay hàng vạn lạng bạc tiền vốn, hàng chục khung cửi và hàng chục thợ. những người thợ này làm thuê để lấy tiền công. Bấy giờ, các nhà buôn lớn cũng xuất hiện. Họ có nhiều vốn và nguyên liệu, đem giao cho các hộ thủ công làm để thu thành phẩm. Các thương nhân bao mua, đem hàng đi trao đổi khắp trong và ngoài nước. Hoạt động của họ thâm nhập vào cả lĩnh vực nông nghiệp như mùa xuân họ xuất vốn cho nông dân trồng mía, mùa đông thu lại bằng đường " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các thành thị ở thời Minh mọc lên nhiều và rất phồn thịnh. Bắc Kinh, Nam Kinh không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm kinh tế lớn. Minh Thái Tổ rất quan tâm đến việc xây dựng chế độ quân chủ chuyện chế tập quyền nhằm chấm dứt tình trạng hỗn chiến và mưu phản. Năm 1380, ông quyết định bỏ các chức Thừa tướng, Thái uý và thay vào đó là các Thượng thư phụ trách các bộ. Nhà Minh đã lộp ra ố bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), hoàn chỉnh bộ máy quan lại. Các quan ở tỉnh chịu sự chi đạo của các bộ ở triều đình. Hoàng đế tạp trung mọi quyền hành trong tay, trực tiếp nắm quân đội. Hoàng đế còn tăng cường phong tước và ban cấp đất đai cho con cháu trong hoàng tộc, công thần thân tín để làm chỗ dựa cho triều đình. Cuối thời Minh, việc bao chiếm và tập trung ruộng đất vào tay giai cấp quý tộc, địa chủ diễn ra nghiêm trọng. Các vương công có nhiều ""hoàng trang"", ruộng đất mênh mông. Địa chủ ở địa phương có tới hàng nghìn mẫu ruộng. Ngược lại, nông dân đói nghèo vì ít ruộng, sưu dịch và tô thuế nặng nề. Nhiều người phải cầm ruộng, bán vợ dợ con, hoặc bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Khởi nghĩa nông dân lại nổ ra. Cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành làm cho triều Minh sụp đổ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Giữa lúc đó, một bộ tộc ở Đông Bắc Trung Quốc là Mãn Thanh đã đánh bại Lý Tự Thành, lập ra nhà Thanh (1644 - 1911). Giống như triều Nguyên trước đây, nhà Thanh thi hành chính sách áp bức dân tộc. Giai cấp thống trị Thanh buộc người Trung Quốc phải theo phong tục của người Mãn từ y phục đến đầu tóc. Mặc dù các hoàng đế Thanh dùng các biện pháp vỗ về, mua chuộc giai cấp địa chủ người Hán, giảm nhẹ tô thuế cho nông dân, khuyến khích khẩn hoang, nhưng không thể làm cho mâu thuẫn dân tộc dịu đi. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra ở khắp nơi đã làm cho chính quyền nhà Thanh suy yếu dần.  Lợi dụng cơ hội trên, tư bản phương Tây đua nhau nhòm ngó, xâm lược Trung Quốc. Chính sách ""bế quan toả cảng của nhà Thanh không những không hạn chế được việc thương nhân Châu Âu đưa nhiều hàng lậu vào Trung Quốc mà còn gây nên cuộc xung đột kịch liệt, dẫn đến sự suy sụp của chế độ phong kiến Trung Quốc." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Dưới thời phong kiến, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong lĩnh vực tư tưởng, Nho giáo giữ vai trò quan trọng. Người đầu tiên khởi xướng Nho học là Khổng Tử. Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Các quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ là giường mối, kỉ cương của đạo đức phong kiến. Nho giáo, mặc dù sau này có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, nhưng vẫn là công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo một mặt đề xướng con người phải tu thân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là tôn quân (trung thành với nhà vua; đối với gia đình, con phải giữ chữ hiếu và phục tùng cha. Nhưng về sau, cùng với sự suy đồi của giai cấp địa chủ phong kiến, Nho giáo càng tỏ ra bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Phật giáo ở Trung Quốc cũng thịnh hành, nhất là vào thời Đường. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Ấn Độ, Phù Nam cũng đến Trung Quốc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, cho xây chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư đi tìm hiểu thêm về đạo Phật tại Ấn Độ.  " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các lĩnh vực Toán học, Thiên văn học, Y dược... của Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quyển Cửu chương toán thuật thời Hán nêu các phương pháp tính diện tích và khối lượng khác nhau... Tổ Xung Chi (thời Nam - Bắc triều) đã tìm ra số Pi đến 7 số lẻ. Thời Tần, Hán, Trung Quốc phát minh ra nông lịch, chia 1 năm thành 24 tiết để nông dân có thể dựa vào đó mà biết thời vụ sản xuất. Trương Hành còn làm được một dụng cụ để đo động đất gọi là địa động nghi... Từ rất sớm, Trung Quốc đã có nhiều thầy thuốc giỏi. Nổi tiếng nhất là Hoa Đà (thời Hán), người đầu tiên của Trung Quốc đã biết dùng phẫu thuật để chữa bệnh. Tác phẩm Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân là một quyển sách thuốc rất có giá trị. Về mặt kỹ thuật, Trung Quốc có 4 phát minh quan trọng: giấy, kĩ thuật in, la bàn và thuốc súng. Đó là những cống hiến rất lớn của nhân dân Trung Quốc với nền văn minh thế giới. Trung Quốc có nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc: Vạn lí trường thành, những cung điện cổ kính, những bức tượng Phật sinh động... còn được lưu giữ đến ngày nay." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Các hoàng đế nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược mở rộng lãnh thổ. Nhà Đường đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục tây Vực, xâm lược bản đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam (lãnh thổ Việt Nam hồi đó), ép tây Tạng phải thần phục. Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất. Đến cuối thời Đường, mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do tô thuê' quá nặng nề, sưu dịch liên miên. Nạn đói thường xuyên diễn ra. Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khỏi nghĩa do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 874. Nhà Đường bị lật đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì Ngũ đại - Thập quốc nhưng Triệu Khuông Dẫn lại tiêu diệt được các thế lực phong kiến khác, lập ra nhà Tống vào năm 960. Sau đó, miền Bắc Tống lại bị nước Kim đánh chiếm. Đến cuối thế kỉ XIII, cả hai nước Kim và Nam Tống lần lượt bị Mông Cổ tiêu diệt." 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"dưới thời phong kiến, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong lĩnh vực tư tưởng, Nho giáo giữ vai trò quan trọng. Người đầu tiên khởi xướng Nho học là KHồng Tử. Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Các quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ là giường mối, kỉ cương của đạo đức phong kiến. Nho giáo, mặc dù sau này có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, nhung vẫn là công cụ tinh thẩn đề bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo một mặt đề xướng con người phải tu quân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là tôn quân (trung thành với nhà vu; đối với gia đình, con phải giữchữhiếu và phục từng cha. Nhưng về sau, cùng với sự suy đồi của giai cấp địa chủ phong kiến, Nho giáo càng tỏ ra bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Phật giáo ở Trung Quốc cũng thịnh hành, nhất là vào thời Đường. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Ấn Độ đề tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Ấn Độ, Phù Nam cũng đến Trung Quốc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, cho xáy chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư đi tìm hiểu thêm về đạo Phật tại Ấn Độ.  " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Maobáttơn - Phó vương cuối cùng của Anh - đến Ấn Độ tháng 4 - 1947, đã thương lượng với Đáng Quốc đại và Liên đoàn Hồi giáo Ấn Độ, đề ra phương án độc lộp cho Ấn Độ, được gọi là ""phương án Maobáttơn"". Theo phương án này, Ấn Độ sẽ bị chia thành hai nước tự trị dựa trên cơ sở tôn giáo: Ấn Độ của người theo Ấn Độ giáo và Pakixtan của những người theo Hồi giáo. Trên cơ sở thoả thuận này, ngày 15 - 8 - 1947, Ấn Độ đã tách thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakixtan . Không thoả mãn với quy chế tự trị, Đảng Quốc đại đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc hoàn toàn trong những năm 1948 - 1950. Ngày 30 - 1 - 1948, vị lãnh tự kiệt xuất M. Ganđi bị bọn phản động cực đoan ám sát. Tuy vậy, Đảng Quốc đại do G. Nêru đứng đầu vẫn tiếp tục con đuờng đấu tranh vì độc lập dân tộc. Truớc sức ép của phong trào quần chúng, thực dân Anh buộc phải công nhận độc lập hoàn toàn của Ấn Độ. Ngày 26 - 1 - 1950, Ấn Độ tuyến bốđộc lập và thành lập nước cộng hoà. Nuớc Cộng hoà Ấn Độ được thành lập đánh dâu thắng lợi to lớn của nhân dân Ấn Độ duới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại do M. Ganđi và G. Nêru đứng đầu. Sự kiện này có ảnh huởng quan trọng đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Khu vực Trung Đông (hay còn gọi là tây Á) có diện tích 4,7 triệu km vuông và dân số là 189 triệu người (năm 2000), bao gồm phần lớn các nước A Rập. Đấy là khu vực có nguồn dầu mỏ chiếm 2/3 trữ lượng toàn thế giới và là nơi tiếp giáp với ba Châu lực (Á, Phi, Âu). Cùng với kênh đào Xuyê, nơi này trở thành đầu mối giao thông quan trọng của thế giới. Do đó, Trung Đông luôn là mục tiêu Nhờm ngó, tranh giành của các đế quốc phương tây. Sau Chiến tranh thế giối thứ nhốt, khu vục này bị Anh đô hộ. Sau Chiến tranh thế giối thứ hai, Mĩ tìm cách hốt cẳng Anh đề không chế Trung Đông. Mĩ thi hành chính sách lợi dụng mâu thuân giữa người A Rộp và người Do Thái, ủng hộ chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái, can thiệp vào vốn đề Palextin và Trung Đông. Sự xung đột giữa hai dân tộc Do Thái và A Rộp Palextin ngày càng căng thẳng, người Anh không giái quyết nổi, buộc phái đưa vốn đề Palextin ra Liên hợp quốc. " 10 + 11 + 12,"Chương 1: Các nước Châu á, Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX)",Bài 5: Châu phi và khu vực mĩ latinh (Thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX),"Khu vực Mĩ Latinh là một bộ phận lãnh thổ rộng lớn của Châu Mĩ, gồm một phần Bắc Mĩ, toàn bộ Trung Mĩ, Nam Mĩ và những quần đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê. Từ thế kỉ XVI, XVII, đa số các nước Mĩ Latinh lần lượt biến thành thuộc địa của tây Ban Nha và Bổ Đào Nha. Chủ nghĩa thực dân thiết lập ở đấy chế độ thống trị rất phản động, gậy ra nhiều tội ác dã man, tàn khốc. Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Mĩ Latinh diễn ra quyết liệt và nhiều nước giành được độc lập ngay từ đầu thế kỉ XIX. Năm 1791, ở Ha-i-ti bùng nổ cuộc đấu tranh lớn của người da đen dưới sự lãnh đạo của Tút-xanh Lu-véc-tuy-a. Năm 1804, cuộc đấu tranh giành được thắng lợi. Ha-i-ti trở thành nước cộng hoà da đen đầu tiên ở Mĩ Latinh. Tuy nhiên, nền độc lập của Ha-i-ti xác lập chưa được bao lâu thì quân Pháp trở lại đàn áp cuộc khởi nghĩa, bắt giữ Lu-véc-tuy-a, phục hồi nền thống trị thực dân. Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa ở Ha-i-ti đã có tiếng vang lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh. Nối tiếp Ha-i-ti, nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập khác đã nổ ra; nền cộng hoà ra đời ở một loạt nước trong khu vực: Ác-hen-ti-na năm 1816, Mê-hi-cô và Pê-ru năm 1821... Như vậy, qua 2 thập niên đầu thế kỉ XIX đấu tranh quyết liệt, các quốc gia độc lập ở Mĩ Latinh lần lượt hình thành. Chỉ còn một vài vùng đất nhỏ như Guy-a-na, đảo Cu-ba, đảo Pu-éc-tô Ri-cô, quần đảo Ảng-ti... vẫn còn trong tình trạng thuộc địa. Đấy là thắng lợi to lớn của nhân dân Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Châu Âu." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 5: Ấn Độ và khu vực Trung Đông,"Thoả thuận này là một bước đột phá tích cực trong tiến trình dàn xếp hoà bình ở Trung Đông. Ngày 28 - 9 - 1995, dưới sự chứng kiến của Tổng thống Mĩ B. Clintơn, tại Nhà Trắng (Mĩ), Chủ tịch PLO Y. Araphát và Thủ tướng Ixraen I. Rabịn đã chính thức kí hiệp định mở rộng quyền tự trị của người Palextin ở bờ tây sông Gioócđan. Ngày 23 - 10 - 1998, hai bên kí Bản ghi nhớ Oai Rivơ, theo đó Ixraen sẽ chuyển giao 27,2% lãnh thổ bờ tây sông Gioócđan cho Palextin trong vòng 12 tuần,... Tuy nhiên, tiến trình hoà bình ở Trung Đông tiến triển chậm, có lúc hầu như ngưng trệ. Cuộc xung đột giữa hai bên vẫn diễn ra liên tiếp. Sau cuộc chiến tranh Irâc (tháng 3 - 2003), nhóm ""bốn bên (Liên hợp quốc, Liên minh Châu Âu, Nga và Mì) đưa ra kế hoạch hoà bình (thường được gọi là ""Lộ trình hoà bình"") đề giái quyết cuộc xung đột giữa Ixraen và Palextin. Nhưng việc thực thi còn nhiều khó khăn vì hai phía Ixraen và Palextin chưa đạt được thoá thuộn trong nhiều vấn đề cơ bản. Sau khi Araphát qua đời, Tổng thống mối của Palextin là M. Apbát (được bầu tháng 1 - 2005) tiếp tục cuộc đấu tranh, tìm kiếm giái pháp thương lượng với Ixraen. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Đầu thế kỉ XIII, trên thảo nguyên Mông cổ hình thành nhà nước phong kiến chuyện chế quân sự do Gien-gít Khan (Thành Cát Tư Hãn) làm vua. Năm 1271, vua Mông cổ là Khu-bi-lai (Hốt Tất Liệt) lên ngôi Hoàng đế, thiết lập triều Nguyên ở Trung Quốc (1271 - 1368). Dưốl sự thống trị của nhà Nguyên, nhân dân Trung Quốc liên tiếp đứng lên đấu tranh. Năm 1368, khởi nghĩa nông dân lật đổ được nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra nhà Minh (1368 - 1644). Các vua triều Minh đã thi hành nhiều biện pháp nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến đầu thế kỉ XVI, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện ở Trung Quốc. Một số nghề đã có những xưởng thủ công tương đối lớn. Ở Giang Tây có những trung tâm làm đồ gốm lớn như cảnh Đức có tới 3000 lò sứ. Có những chủ xưởng dệt nắm trong tay hàng vạn lạng bạc tiền vốn, hàng chục khung cửi và hàng chục thợ. những người thợ này làm thuê để lấy tiền công. Bấy giờ, các nhà buôn lớn cũng xuất hiện. Họ có nhiều vốn và nguyên liệu, đem giao cho các hộ thủ công làm để thu thành phẩm. Các thương nhân bao mua, đem hàng đi trao đổi khắp trong và ngoài nước. Hoạt động của họ thâm nhập vào cả lĩnh vực nông nghiệp như mùa xuân họ xuất vốn cho nông dân trồng mía, mùa đông thu lại bằng đường " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Dưới thời phong kiến, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong lĩnh vực tư tưởng, Nho giáo giữ vai trò quan trọng. Người đầu tiên khởi xướng Nho học là Khổng Tử. Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Các quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ là giường mối, kỉ cương của đạo đức phong kiến. Nho giáo, mặc dù sau này có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, nhưng vẫn là công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo một mặt đề xướng con người phải tu thân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là tôn quân (trung thành với nhà vua; đối với gia đình, con phải giữ chữ hiếu và phục tùng cha). Nhưng về sau, cùng với sự suy đồi của giai cấp địa chủ phong kiến, Nho giáo càng tỏ ra bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Phật giáo ở Trung Quốc cũng thịnh hành, nhất là vào thời Đường. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Ấn Độ, Phù Nam cũng đến Trung Quốc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, cho xây chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư đi tìm hiểu thêm về đạo Phật tại Ấn Độ.  " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Dưới thời phong kiến, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong lĩnh vực tư tưởng, Nho giáo giữ vai trò quan trọng. Người đầu tiên khởi xướng Nho học là Khổng Tử. Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Các quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ là giường mối, kỉ cương của đạo đức phong kiến. Nho giáo, mặc dù sau này có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, nhưng vẫn là công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo một mặt đề xướng con người phải tu thân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là tôn quân (trung thành với nhà vua; đối với gia đình, con phải giữ chữ hiếu và phục tùng cha. Nhưng về sau, cùng với sự suy đồi của giai cấp địa chủ phong kiến, Nho giáo càng tỏ ra bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Phật giáo ở Trung Quốc cũng thịnh hành, nhất là vào thời Đường. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Ấn Độ, Phù Nam cũng đến Trung Quốc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, cho xây chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư Trung Quốc đi tìm hiểu thêm về đạo Phật tại Ấn Độ.  " 10 + 11 + 12,Chương 3: Trung quốc thời phong kiến,Bài 5: Trung quốc thời phong kiến,"Dưới thời phong kiến, nhân dân Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong lĩnh vực tư tưởng, Nho giáo giữ vai trò quan trọng. Người đầu tiên khởi xướng Nho học là Khổng Tử. Thời Hán Vũ Đế, Nho giáo trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Các quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ là đường nối, kỉ cương của đạo đức phong kiến. Nho giáo, mặc dù sau này có ít nhiều thay đổi qua các thời đại, nhung vẫn là công cụ tinh thẩn để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho giáo một mặt để xướng con người phải tu quân, rèn luyện đạo đức phẩm chất; mặt khác giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận đối với quốc gia là tôn quân (trung thành với nhà vua, đối với gia đình, con phải giữ chữ hiếu và phục từng cha). Nhưng về sau, cùng với sự suy đồi của giai cấp địa chủ phong kiến, Nho giáo càng tỏ ra bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Phật giáo ở Trung Quốc cũng thịnh hành, nhất là vào thời Đường. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Ấn Độ để tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Ấn Độ, Phù Nam cũng đến Trung Quốc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, cho xây chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư đi tìm hiểu thêm về đạo Phật tại Ấn Độ.  " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc cũng như những thay đổi về tình hình quốc tế sau chiến tranh đã thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc tại Châu Phi. Thất bại của chủ nghĩa phát xít, sự suy yếu của Anh và Pháp, hai quốc gia thống trị nhiều vùng thuộc địa tại Châu Phi, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Châu Phi. Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, trước hết là của Việt Nam và Trung Quốc, đã cổ vũ các cuộc đấu tranh của nhân dân Châu Phi.  Phong trào đấu tranh đã diễn ra sôi nổi, bùng nổ sớm nhất ở Bắc Phi, sau đó lan ra các vùng khác. Mở đầu là cuộc binh biêh của sĩ quan và binh lính yêu nước Ai Cập (3 - 7 - 1952) lột đổ vương triều Pharúc, chỗ dựa của thục dân Anh, lập nên nước Cộng hoà Ai Cập (1953). Cùng năm 1952, nhân dân Libi giành được độc lập. Sau 8 năm đấu tranh vũ trang chống Pháp (1954 - 1962), nhân dân Angiêri đã giành được thắng lợi. Tù nửa sau thập niên 50, hệ thống thuộc địa của thục dân Châu Âu ở Châu Phi nối tiêp nhau tan rã, các quốc gia độc lập lần lượt xuất hiện nhưTuynidi, Marốc, Xuđăng (1956); Gana (1957); Ghinê (1958),... Đặc biệt, lịch sử ghi nhận năm 1960 là Năm Châu Phi với 17 nước được trao trả độc lập. Năm 1975, thắng lợi của nhân dân Môdămbích và Ảnggôla trong cuộc đấu tranh chống thực dân Bổ Đào Nha, về cơ bản đã chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ ở Châu Phi cùng hệ thống thuộc địa của nó. Từ sau năm 1975, nhân dân các thuộc địa còn lại ở Châu Phi hoàn thành cuộc đấu tranh đánh đổ nền thống trị thực dân cũ, giành độc lập dân tộc và quyền sống của con người." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Sau nhiều thập kỉ đấu tranh, nhân dân Nam Rôđểdia đã tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Dimbabuê (18 - 4 - 1980). Trước sức ép của nhân dân và Liên hợp quốc, chính quyền Nam Phi đã phái trao trá độc lập cho Namibia; ngày 21 - 3 - 1990, Namibia tuyên bố độc lập. Tại Nam Phi, trước áp lực đấu tranh của người da màu, bản Hiến pháp tháng 11 - 1993 đã chính thức xoá bỏ chế độ phân biệt chủng tộc (Apácthai). Sau đó, với thắng lợi của cuộc bầu cử dân chủ đa chủng tộc lần đầu tiên ở Nam Phi (tháng 4 - 1994), Nenxơn Manđểla trở thành Tổng thống người da đen đầu tiên của Cộng hoà Nam Phi. Sự kiện đó đánh dấu việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc dã man, đầy bất công đã từng tồn tại 3 thế kỉ ở nước này. Nenxơn Mandela sinh ngày 18 - 7 - 1919. Ngay tù thài trẻ, ông đã tích cục đấu tranh chống chế độ Apácthai. Trong thài gian bị giam giữ (1964 - 1990), ông vân tham gia dấu tranh và là Phó Chủ tịch Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Sau khi ra tù, ông trở thành Chủ tịch ANC (1991), sau d6 là Tổng thống nước Cộng hoà Nam Phi (1994 - 1999). Tuy nghỉ hưu nhưng Nenxơn Mandela vân tích cục hoạt dộng cho hoà bỉnh và hoà giải các cuộc xung dột ở Châu Phi. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Sau khi giành được độc lập, các nước Châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, tuy đã gặt hái được những thành tựu bước đầu nhưng chưa đủ để thay đổi căn bản bộ mặt của châu lục này. Trong thập kỉ 60 của thế kỉ XX, tổng sán phâm quốc dân của các quốc gia độc lập ở Châu Phi đều có tốc độ tăng trưởng trung bỉnh hàng năm 5,8%, thập kỉ 70 là 5,2%, thập kỉ 80 tù 2% đến 3%, năm 1995 là 3,5%.  Mặc dù vậy, nhiều nước Châu Phi còn trong tình trạng lạc hậu, không ổn định và khó khăn do xung đột, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên; đói nghèo, bênh tật và mù chữ; sự bùng nổ về dân số; nợ nần và sự phụ thuộc vào nước ngoài v.v... Tất cả những khó khăn đó đã và đang là thách thức lớn đối với nhân dân các nước Châu Phi. Tù năm 1952 đến năm 1985, tại Châu Phi nổ ra 241 lân đáo chính quân sự. Tù năm 1987 đến năm 1997, Châu Phi đã xáy ra tối 14 cuộc xung đột và nội chiến. Bi thám nhất là cuộc nội chiến ở Ruanđa năm 1994 giữa hai bộ tộc Hutu và Tuxi làm 800 000 người thiệt mạng, hơn 1,2 triệu người phái tị nạn, trong khi dân số nước này chỉ có 7 triệu người. Trong số 43 quốc gia mà Liên hợp quốc xác định là nghèo nhất thế giối (năm 1997), thỉ ở Châu Phi có 29 nước. Khoáng 150 triệu dân Châu Phi thuộc diện đói ỡn thường xuyên. Vào đâu những năm 90, số nợ của Châu Phi lên tối 300 tỉ USD với số lãi hàng năm phái trá là trên 25 tỉ USD. Các nước Châu Phi cùng cộng đổng quốc tế đang tìm nhiều giải pháp tháo gỡ những khó khăn: giải quyết xung đột, khắc phục đói nghèo, ngăn ngừa bênh dịch. Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU) thành lập tháng 5 - 1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh Châu Phi (AU). Liên minh Châu Phi đang triển khai nhiều chương trình chiến lược vì sự phát triển của châu lục." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Mĩ Latinh gỗm 33 nước (trong đó chỉ có một nước ở Bắc Mĩ là Mêhicô, toàn bộ các nước còn lại nằm ở Trung và Nam lục địa châu Mĩ và vùng biển Caribê), diên tích trên 20,5 triệu km vuông, dân số 517 triệu người (năm 2000)." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Khác với Châu Á và Châu Phi, nhiều nước ở Mĩ Latinh sớm giành được độc lập từ đầu thế kỉ XIX sau khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha, nhưng sau đó lại bị lệ thuộc vào Mĩ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế về kinh tế và quân sự, Mĩ tìm cách biến Mĩ Latinh thành ""sân sau của mình và xây dựng các chế độ độc tài thân Mĩ. Cũng vì thế, các cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ bùng nổ và phát triển. Tiêu biểu là thắng lợi của cách mạng Cuba dưới sự lãnh đạo của Phiđen Cátxtơrô.  Tháng 3 - 1952, với sự giúp đỡ của Mĩ, Batixta đã thiết lập chế độ độc tài quân sự ở Cuba. Chính quyền Batixta xoá bỏ hiến pháp tiến bộ, câm các đảng phái chính trị hoạt động, bắt giam và tàn sát nhiều người yêu nước. Trong bối cảnh đó, nhân dân Cuba đã đứng lên đâu tranh chống chế độ độc tài, mở đầu bằng cuộc tấn công vào trại lính Môncađa của 135 thanh niên yêu nước do Phiđen Cátxtữrô chỉ huy (26 - 7 - 1953). Ngày 1 - 1 - 1959, chế độ Batixta sụp đổ, nước Cộng hoà Cuba ra đời do Phiđen Cátxtơrô đứng đầu. Phiđen Cátxtơrô sinh ngày 13 - 8 - 1927. Sau khi đỗ Tiến sĩ Luật (1950), ông tham gia hoạt động cách mạng chống chế độ độc tài Batixta. Sau cuộc tấn công trại lính Môncađa (26 - 7 - 1953) không thành, ông bị bắt và bị kết án tù. Ra tù, Phiđen sang Mêhicô chuân bị lực lượng. Đến cuối năm 1956, ông cùng 81 chiến sĩ về nước phát động nhân dân đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ độc tài. Cách mạng thành công, Phiđen thống nhốt các tổ chức cách mạng, thành lập Đáng Cộng sán Cuba (10 - 1965) và trở thành Bí thư thứ nhốt, dân dắt cách mạng Cuba tùng bước tiến lên. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Cuba, vào tháng 8 - 1961, Mĩ đề xướng việc tổ chức ""Liên minh vì tiến bộ để lôi kéo các nước Mĩ Latinh. Cũng vì thế, từ những thập kỉ 60 - 70, phong trào đâu tranh chống Mĩ và chế độ độc tài thân Mĩ ở khu vực ngày càng phát triển và thu nhiều thắng lợi." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Năm 1964, phong trào đấu tranh của nhân dân Panama đòi thu hồi chủ quyền kênh đào diễn ra sôi nổi, buộc Mĩ phái tù bỏ quyền chiếm kênh đào và trá lại cho Panama vào năm 1999. Do phong trào đấu tranh mạnh mẽ, các quốc đáo ở vùng biển Caribê lân lượt giành được độc lập: Hamaica, Triniđát và Tôbagô (1962), Guyana, Bacbađốt (1966). Đến năm 1983, trong vùng Caribê đã có 13 quốc gia độc lập. Cùng với các hình thức bãi công của công nhân, nổi dậy của nông dân đòi ruộng đât, đâu tranh nghị trường để thành lập các chính phủ tiến bộ, cao trào đấu tranh vũ trang bùng nổ mạnh mẽ ở Mĩ Latinh nên khu vực này được gọi là ""Lục địa bùng cháy"". Phong trào đâu tranh vũ trang chống chế độ độc tài ở các nước Vênêxuêla, Goatêmala, Côlômbia, Pêru, Nicaragoa, Chilê, En Xanvađo...  đã diễn ra liên tục. Kết quả là chính quyền độc tài ở nhiều nước đã bị lật đổ, các chính phủ dân chủ được thiết lập." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Sau khi khôi phục độc lập, giành được chủ quyền, các nước Mĩ Latinh bước vào thời kì xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tù thập kỉ 50 đến cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế bỉnh quân của các nước Mĩ Latinh là 5,5%. GDP năm 1960 là 69,4 tỉ USD; đến năm 1979, con số này lên 599,3 tỉ USD.  Với Cuba, sau khi cách mạng thành công, Chính phủ cách mạng do Phiđen Cátxtơrô đứng đầu đã tiến hành những cải cách dân chủ thành công (cải cách ruộng đất, quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản nước ngoài,...). Đến năm 1961, Chính phủ Cuba tuyên bố bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với sự nỗ lực của nhân dân và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, Cuba đạt được nhiều thành tựu to lớn: Từ một nền nông nghiệp độc canh (mí và nền công nghiệp đơn nhất (khai thác mỏ), Cuba đã xây dựng được một nền công nghiệp với cơ cấu ngành hợp lí và nền nông nghiệp với sản phẩm đa dạng (mía, lúa, rau quả, cà phệ, thuốc lá, cao su, chăn nuôi,...). Cuba cũng đạt được thành tựu cao trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao,..." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Trong thập niên 80, nhiều nước Mĩ Latinh rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế nặng nề, lạm phát tăng nhanh, khủng hoảng trầm trọng, nợ nước ngoài chổng chất, dẫn đến những biến động về chính trị. Đồ thị tăng trưởng kinh tế liên tục giám: 3,9% (1986), 2,7% (1987), 0,3% (1988), -0,5% (1989) và -1,2% (1990). Lạm phát đạt tối con số kỉ lục: 1 200%/năm; riêng Áchentina là 4 900%/năm. Nợ nước ngoài lên tối 410 tỉ USD (1989). Sau thất bại trong vụ tranh chấp chủ quyền quần đảo Manvinát với Anh (4 - 1982), chế độ độc tài bị xoá bỏ ở Achentina, mở đầu quá trình dân sự hoá chính quyền ở hàng loạt nước Mĩ Latinh khác: Bôlivia (1982), Braxin (1985), Haiti (1986), Chilê (1988), En Xanvađo (1989) và Urugoay (1989). Bước sang thập niên 90, nền kinh tế Mĩ Latinh có chuyển biến tích cực hơn. Tỉ lệ lạm phát được hạ xuống còn dưới 30%/năm, một số nước đạt mức lí tưởng như Mêhicô: 4,4%, Bôlivia: 4,45%, Chilê 4,6%,... Đầu tư nước ngoài vào Mĩ Latinh đạt khối lượng lớn: 68 tỉ USD (1993) và trên 70 tỉ USD (1994), đứng hàng thứ hai thế giới sau Đông A. Một số nước trở thành nước công nghiệp mới (viết tắt theo tiếng Anh là NICs) như Braxin, Achentina, Mêhicô. Tuy nhiên, tình hình kinh tế của nhiều nước Mĩ Latinh còn gặp không ít khó khăn, mâu thuẫn xã hội vẫn là vấn đề nổi bật, tham nhũng trở thành quốc nạn, ngăn cản sự phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bỉnh hàng năm tù năm 1991 đến năm 2000 khoáng 3%. Nợ nước ngoài là gánh nặng đè lên các nước Mĩ Latinh với 607,2 tỉ USD (1995). Mâu thuân xã hội chủ yếu là do phân phối không công bàng. Số người nghèo ở Mĩ Latinh chiếm tỉ lệ 46% dân số trong lúc đó hơn 40 người giàu được xếp vào hàng tỉ phú. Tỉnh hỉnh tham nhũng ở nhiều nước Mĩ Latinh rất nghiêm trọng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Từ năm 1914 đến năm 1918, nhân loại đã phải trải qua một cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, lôi cuốn vào vòng chiến hàng chục nước, chủ yếu là ở Châu Âu, đã gây nên những thiệt hại to lớn về người và của." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực lượng giữa các nước đế quốc. Bên cạnh các đế quốc ""già (Anh, Pháp) với hệ thống thuộc địa rộng lớn là các đế quốc ""trẻ (Mĩ, Đức, Nhật Bản) đang vươn lên mạnh mẽ về kinh tế, nhưng lại có quá ít thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa là không tránh khỏi và ngày càng trở nên gay gắt. Giới cầm quyền Đức đã vạch kế hoạch tiến hành cuộc chiến tranh nhằm giành giật thuộc địa, chia lại thị trường. Nhật và Mĩ cũng ráo riết hoạch định chiến lược bành trướng của mình. Vì vậy, ngay từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, các cuộc chiến tranh giành thuộc địa đã nổ ra ở nhiều nơi. Sau Chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895), Nhật Bản thôn tính Triều Tiên, Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hổ. Sau Chiến tranh Mĩ - Tây Ban Nha (1898), Mĩ chiếm Phi-líp-pin, Cu-ba, Pu-éc-tô Ri-cô... Sau Chiến tranh Anh - Bô-Ơ (1899 - 1902), Anh chiếm vùng đất Nam Phi. Sau Chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905), Nhật Bản gạt Nga để khẳng định quyền thống trị của mình trên bán đảo Triều Tiên, Mãn Châu và nam đảo Xa-kha-lin.  Trong cuộc đua giành giật thuộc địa, đế quốc Đức là kẻ hung hăng nhất, vì có tiềm lực kinh tế và quân sự nhưng lại ít thuộc địa. Thái độ của Đức đã làm quan hệ quốc tế ở Châu Âu ngày càng căng thẳng, đặc biệt là quan hệ giữa các nước đế quốc với nhau." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Từ những năm 80 của thế kỉ XIX, giới cầm quyền Đức đã vạch ra kế hoạch chiến tranh nhằm chiếm hầu hết lãnh thổ Châu Âu, vươn ra các thuộc địa của Anh và Pháp ở Châu Phi và Châu Á. Năm 1882, Đức cùng Áo -Hung và I-ta-li-a thành lập liên minh tay ba, được gọi là phe Liên minh. Sau này, I-ta-li-a rời khỏi Liên minh (1915), chông lại Đức. Đôi phó với âm mưu của Đức, Anh cũng chuẩn bị kế hoạch chiến tranh. Anh, Pháp, Nga tuy có tranh chấp về thuộc địa, nhưng phải nhân nhượng lẫn nhau, kí những bản hiệp ước tay đôi: Pháp - Nga (1890), Anh - Pháp (1904), Anh - Nga (1907), hình thành phe Hiệp ước . Như vậy, đến đầu thế kỉ XX, ở Châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau. Cả hai khối đều ôm mộng xâm lược, cướp đoạt lãnh thổ và thuộc địa của nhau, tăng cường chạy đua vũ trang. Chính mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa, mà trước tiên là giữa đế quốc Anh với đế quốc Đức, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến tranh. Tình hình căng thẳng ở Ban-căng từ năm 1912 đến năm 1913 đã tạo cơ hội cho chiến tranh bùng nổ. Ngày 28 -6 -1914, Thái tử Áo -Hung bị một người Xéc-bi ám sát tại Bô-xni-a. Giới quân phiệt Đức, Áo chớp lấy cơ hội đó để gây chiến tranh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Ngày 28 - 7 -1914, Áo - Hung tuyên chiên với Xéc-bi. Ngày 1 - 8, Đức tuyên chiên với Nga, ngày 3 - 8 tuyên chiên với Pháp. Ngày 4 - 8, Anh tuyên chiên với Đức. Chiến tranh đế quốc đã bùng nổ và nhanh chóng lan rộng thành chiên tranh thệ giới. Mở đầu cuộc chiên, Đức dự định đánh bại Pháp một cách chớp nhoáng, sau đó quay sang đánh Nga. Vì vậy, Đức tập trung phần lớn binh lực ở Mặt trận phía Tây, và ngay trong đểm 3 - 8 -1914 đã tràn vào Bỉ - một nước trung lập - rồi đánh thọc sang Pháp. Đức chặn cả con đường ra biển không cho quân Anh sang tiêp viên. Pa-ri bị uy hiếp, quân Pháp có nguy cơ bị tiêu diệt. Giữa lúc đó, ở Mặt trận phía Đông, quân Nga tấn công vào Đông Phổ, buộc Đức phải điều bớt quân từ Mặt trận phía Tây về chống lại quân Nga. Pa-ri được cứu thoát. Lợi dụng thời cơ, đầu tháng 9 _ 1914, Pháp phản công và giành thắng lợi trên sông Mác-nơ. Quân Anh cũng đổ bộ lên lục địa Châu Âu. Kế hoạch ""đánh nhanh thắng nhanh của Đức đã thất bại. Quân của hai bên rút xuống chiên hào cầm cự nhau dai dẳng trên một chiên tuyên dài 780 km, từ Biển Bắc tới biên giới Thuỵ Sĩ. Năm 1915, Đức dồn binh lực sang Mặt trận phía Đông cùng quân Áo - Hung tấn công Nga quyết liệt, định đè bẹp Nga. Chế độ Nga hoàng đang khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng Đức không đạt được mục đích loại Nga ra khỏi chiên tranh. Cuối năm, hai bên đều ở trong thế cầm cự trên một mặt trận dài 1 200 km, từ sông Đơ-nhi-ép đển vịnh Ri-ga." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Trong năm thứ hai của cuộc chiên tranh (1915), cả hai bên đều đưa ra những phương tiện chiên tranh mới như xe tăng, sử dụng máy bay để trinh sát và ném bom, thậm chí dùng cả hơi độc... Vì thế, hai bên đều bị thiệt hại khá nặng nề, nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Năm 1916, không tiêu diệt được quân Nga, Đức lại chuyển trọng tâm hoạt động về Mặt trận phía Tây, mở chiên dịch tấn công Véc-đoong, hòng tiêu diệt quân chủ lực của Pháp. Chiên sự ở đây diễn ra hết sức quyết liệt, kéo dài từ tháng 2 đến tháng 12- 1916, làm gần 70 vạn người chết và bị thương. Quân Đức vẫn không hạ nổi thành Véc-đoong, buộc phải rút lui.  Chiên cuộc năm 1916 không đem lại ưu thế cho bên nào mà vẫn duy trì thế cầm cự. Từ cuối năm 1916 trở đi, Đức, Áo - Hung từ thế chủ động chuyển sang phòng ngự trên cả hai mặt trận. Trong giai đoạn thứ nhất của chiên tranh, tình trạng khốn cùng của nhân dân lao động ngày một thệm trầm trọng; đói rét, bênh tật và những tai hoạ do chiên tranh gây ra ngày càng nhiều. Trong khi đó, bọn trùm công nghiệp chiên tranh đã giàu lên nhanh chóng nhờ buôn bán vũ khí. Mâu thuẫn xã hội trong các nước tham chiến trở nên vô cùng gay gắt. Chỉ hơn 2 năm chiên tranh, đã có gần 6 triệu người chệt và hơn 10 triệu người bị thương. Phong trào công nhân, phong trào quần chúng phản đối chiên tranh phát triển nhanh chóng. Đên cuối năm 1916, tình thế cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nước Châu Âu." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tháng 2 -1917, nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, với khẩu hiệu ""Đả đảo chiên tranh"", ""Đả đảo Nga hoàng"", ""Biên chiên tranh đế quốc thành nội chiên cách mạng"", đã tiên hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản thành công. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập và tiêp tục theo đuổi chiên tranh. Lúc này, Đức muốn cắt đứt đường tiêp tế trên biển của phe Hiệp ước liền sử dụng phương tiện chiên tranh mới là tàu ngầm. Cuộc ""chiên tranh tàu ngầm gây cho Anh nhiều thiệt hại. Lúc đầu, Mĩ giữ thái độ ""trung lập trong chiến tranh. Thực ra, Mĩ muốn lợi dụng chiến tranh để bán vũ khí cho cả hai phe và khi chiến tranh kết thúc, dù thắng hay bại, các nước tham chiến đều bị suy yếu, còn Mĩ sẽ khang định ưu thế của mình. Nhưng đến năm 1917, phong trào cách mạng ở các nước dâng cao, Mĩ thây cần phải kết thúc chiến tranh và đứng về phe Hiệp ước. Viện cớ tàu ngầm Đức vi phạm quyền tự do thương mại trên biển, tấn công cả tàu buôn cập bên các nước thuộc phe ""Hiệp ước"", ngày 2 -4 -1917 Mĩ tuyên chiên với Đức. Sự tham chiến của Mĩ có lợi hơn cho phe Anh, Pháp, Nga. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Trong năm 1917, những cuộc phản công của phe Hiệp ước đều không thành công. Pháp và Anh cố’ phá vỡ phòng tuyến của Đức và giải toả vòng vây bò biển, nhưng thất bại. Những cuộc tấn công của Nga cũng không thành. Áo -Hung tỏ ra nao núng muốn cầu hoà, nhưng Nga và I-ta-li-a còn nhiều tham vọng, không chấp nhân thương thuyết. Đức lại dồn lực lượng đánh Nga và loại I-ta-li-a ra khỏi vòng chiến. Tháng 11 - 1917, dưới sự lãnh đạo của Lê-nin và Đảng Bônsêvích, nhân dân Nga đứng lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - được gọi là Cách mạng tháng Mười (theo lịch Ng. Nhà nước Xô viết ra đời, thông qua Sắc lệnh hoà bình, kêu gọi chính phủ các nước tham chiến chấm dứt chiến tranh. Lời kêu gọi hoà bình của Chính phủ Xô viết không được các nước trong phe Hiệp ước hưởng ứng vì Anh, Pháp, Mĩ muốn kết thúc chiến tranh trên thế thắng. Trước tình thế đó, để bảo vệ chính quyền non trẻ, Nhà nước Xô viết buộc phải kí riêng với Đức Hoà ước Bret Litốp (3 - 3 -1918). Nước Nga ra khỏi chiến tranh đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Đầu năm 1918, lợi dụng khi quân Mĩ chưa sang đến Châu Âu, quân Đức mở liên tiếp 4 đợt tấn công với quy mô lớn trên mặt trận Pháp. Một lần nữa, Chính phủ Pháp chuẩn bị rời khỏi Pa-ri. Tháng 7 -1918, 65 vạn quân Mĩ đổ bộ vào Châu Âu cùng nhiều vũ khí, đạn dược. Mĩ trực tiếp tham chiến khi cả hai phe bị thiệt hại quá nhiều, hết sức mỏi mệt, nên trở thành nước đứng đầu phe Hiệp ước thay Anh. Nhờ đó, quân Pháp và Anh quay lại phản công mạnh mẽ quân Đức trên các mặt trận. Ngày 18 - 7 - 1918, quân Pháp với 600 xe tăng phá vỡ phòng tuyến sông Mác-nơ của Đức, bắt 3 vạn tù binh. Ngày 8 - 8, liên quân Anh - Pháp với 400 xe tăng đã đâp tan phòng tuyến sông Xen, tiêu diệt 16 sư đoàn quân Đức. Ngày 12 - 9, liên quân Pháp - Mĩ đánh Xanh Mi-hi-en, một phòng tuyến quan trọng của Đức. Từ cuối tháng 9 -1918, quân Đức liên tiếp thất bại, phải bỏ chạy khỏi lãnh thổ Pháp và Bỉ. Các nước đổng minh của Đức cũng bị tấn công liên tiếp, buộc phải đầu hàng: Bun-ga-ri (29 - 9), Thổ Nhĩ Kì (30 -10), Áo -Hung (2 -11). Trước nguy cơ thất bại, chính phủ mới được thành lập ở Đức (3 -10 -1918) đề nghị thương lượng với Mĩ, nhưng không được chấp nhận, vì Mĩ muốn đánh đến cùng để buộc Đức phải đầu hàng không điều kiện. Trong tình hình ấy, ngày 9 -11 -1918, cách mạng bùng nổ ở Đức, Hoàng đế Vin-hem II phải chạy sang Hà Lan. Ngày 11 -11 -1918, Đức phải kí hiệp đinh đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe Đức, Áo - Hung. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918) đã gây ra những thảm hoạ hết sức nặng nề đối với nhân loại: khoảng 1,5 tỉ người bị lôi cuốn vào vòng khói lửa, 10 triệu người chết, trên 20 triệu người bị thương, nền kinh tê' Châu Âu bị kiệt quê. Nhiều thành phố làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá huỷ. Chi phí cho chiến tranh lên tới 85 tỉ đôla. Các nước Châu Âu đều trở thành con nợ của Mĩ. Riêng nước Mĩ được hưởng lợi trong chiến tranh nhờ bán vũ khí, đất nước không bị bom đạn tàn phá, thu nhập quốc dân tăng gấp đôi, vốn đầu tư ra nước ngoài tăng 4 lần. Nhật Bản chiếm lại một số đảo của Đức, nâng cao vị thế ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Trong quá trình chiên tranh, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và việc thành lập Nhà nước Xô viê't đánh dấu bước chuyển lớn trong cục diện chính trị thệ giới." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Lãnh thổ Ấn Độ như hình ""tam giác ngược"", hai bên giáp biển, cạnh phía bắc nối với Châu Á, nhưng lại ngăn cách bởi dãy núi cao nhất thế giới — dãy Hi-ma-lay-a, nên còn được gọi là tiểu lục địa Nam Á. Diện tích Ấn Độ khá rộng lớn, hơn 3 triệu km3, gấp khoảng 10 lần Việt Nam và gần 15 lần nước Anh. Hai bờ biển lại có hai dãy núi Đông Gát và Tây Gát, ngăn cách bởi cao nguyên Đê-can. Do toàn núi cao, rừng rậm, rừng nguyên sinh nên lãnh thổ Ấn Độ bị ngăn cách nhau đáng kể giữa Đông và Tây, Bắc và Nam. Chí có miền Bắc là bằng phẳng, bởi lưu vực của hai con sông lớn. Xưa kia phải kể cả con sông ở Tây Bắc Ấn Độ, gọi là sông Ấn (Indus). Nhờ nó mà có tên gọi Ấn Độ và lãnh thổ Ấn Độ (Hiudustan), nơi khỏi nguồn của nền văn hoá Ấn Độ. Còn ở Đông Bắc bán đảo là lưu vực sông Hằng Giang rộng lớn và màu mỡ, là quê hương, nơi sinh trưởng nền văn hoá truyền thống của văn minh Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Lãnh thổ Ấn Độ như hình ""tam giác ngược"", hai bên giáp biển, cạnh phía bắc nối với Châu Á, nhưng lại ngăn cách bởi dãy núi cao nhất thế giới — dãy Hi-ma-lay-a, nên còn được gọi là tiểu lục địa Nam Á. Diện tích Ấn Độ khá rộng lớn, hơn 3 triệu km3, gấp khoảng 10 lần Việt Nam và gần 15 lần nước Anh. Hai bờ biển lại có hai dãy núi Đông Gát và Tây Gát, ngăn cách bởi cao nguyên Đê-can. Do toàn núi cao, rừng rậm, rừng nguyên sinh nên lãnh thổ An Độ bị ngăn cách nhau đáng kể giữa Đông và Tây, Bắc và Nam. Chí có miền Bắc là bằng phẳng, bởi lưu vực của hai con sông lớn. Xưa kia phải kể cả con sông ở Tây Bắc Ấn Độ, gọi là sông Ấn (Indus). Nhờ nó mà có tên gọi Ấn Độ và lãnh thổ Ấn Độ (Hiudustan), nơi khỏi nguồn của nền văn hoá Ấn Độ. Còn ở Đông Bắc bán đảo là lưu vực sông Hằng Giang rộng lớn và màu mỡ, là quê hương, nơi sinh trưởng nền văn hoá truyền thống của văn minh Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Khoảng 1500 năm trước Công nguyên, vùng sông Hằng ở Đông Bắc có điều kiện thuận lợi, mưa thuận gió hoà nên đã tiến bộ vượt lên, có vai trò nổi trội trên cả miền Bắc Ấn Độ. Từ các bộ lạc trồng lúa và chăn nuôi trên bờ sông Hằng, bắt đầu hình thành một số nhà nước đầu tiên, đứng đầu là các tiểu vương, thường xuyên phát triển kinh tế, xây dựng đất nước lớn mạnh và tranh giành ảnh hưởng với nhau. Đến khoảng 500 năm trước Công nguyên, nước Ma-ga-đa lớn mạnh hơn cả, được nhiều nước khác tôn phục. Người Hi Lạp đã từng đến thăm kinh đô của Ma-ga-đa là Pa-ta-li-pu-tra, kể lại: có phố dài 2 km, trên bến dưới thuyền, dọc hữu ngạn sông Hằng. Vua mở đầu nước này, Bim-bi-sa-ra, được coi là cùng thời và là bạn của Phật tổ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Trải qua hơn 10 đời vua, đến thế kỉ III TCN, xuất hiện ông vua kiệt xuất nhất của nước này và nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Ấn Độ - vua A-sô-ca. A-sô-ca xây dựng đất nước hùng cường, rồi đem quân đi đánh các nước nhỏ, nhằm mục đích phát triển, thâu tóm quyền lực và thống nhất Ấn Độ. Sau khi đánh thắng nhiều đối thủ, ông đã thống nhất được gần hết bán đảo Ấn Độ, chỉ trừ một vùng đất ở cực Nam xa xôi (sau là nước Pan-đy-). Chán cảnh binh đao, tàn sát, ông trở về một lòng theo đạo Phật và tạo điều kiện để Phật giáo truyền bá rộng khắp đất nước Ấn Độ. ở nhiều nơi, ông còn cho dựng nhiều cột đá, khắc chữ, gọi là ""chỉ dụ A-sô-ca"" nói về lòng sùng tín của mình và việc cai quản đất nước. A-sô-ca qua đời cuối thế kỉ III TCN. Ấn Độ bước vào một thời kì chia rẽ, khủng hoảng kéo dài mấy thế kỉ cho đến đầu Công nguyên." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Đến đầu Công nguyên, miền Bắc Ấn Độ đã được thống nhất lại, bước vào một thời kì mới phát triển cao và rất đặc sắc của lịch sử Ấn Độ - thời Vương triều Gúp-ta. Vương triều này do vua Gúp-ta lập, có vai trò tổ chức kháng cự, không cho các tộc ở Trung Á xâm lấn từ phía tây bắc, thống nhất miền Bắc Ấn Độ; tiếp đó, tấn công chiếm cao nguyên Đê-can, làm chủ gần như toàn bộ miền Trung Ấn Độ. Vương triều Gúp-ta có 9 đời vua, qua gần 150 năm (319 - 467), vẫn giữ được sự phát triển và nét đặc sắc cả dưới thời Hậu Gúp-ta (467 - 606) và Vương triều Hác-sa tiếp theo (606 - 647), tức là từ thế kỉ IV đến thế kỉ VII. Nét đặc sắc nổi bật của thời kì này là sự định hình và phát triển của văn hoá truyền thống Ấn Độ. Ở Bắc Ấn Độ, thành phố Ka-pi-la-va-xtu là quê hương của nhà hiên triết Sít-đác-ta, sau trở thành Phật tổ, hiệu là Sa-ky-a Mu-ni (Thích Ca Mâu Ni). Đạo Phật được truyền bá mạnh mẽ dưới thời vua A-sô-ca, tiếp tục dưới các triều đại Gúp-ta và Hác-sa, đến thế kỉ VII. Cùng với sự truyền bá Phật giáo, lòng tôn sùng đối với Phật, người ta đã làm hàng chục ngôi chùa hang (đục đẽo hang đá thành chùa. Đây là những công trình kiến trúc bằng đá rất đẹp và rất lớn. Cùng với chùa là những pho tượng Phật được điêu khắc bằng đá hoặc trên đá." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Cùng với Phật giáo, Ấn Độ giáo (hay Hindu giáo) cũng ra đời và phát triển. Đây là tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa của người Ấn. Ấn Độ giáo thờ rất nhiều thần, chú yếu là bốn thần: bộ ba Brama (thần Sáng tạo thế giới), Siva (thần Huỷ diệt), Visnu (thần Bảo hộ), và Indra (thần Sấm sét). Đó là những lực lượng siêu nhiên mà con người sợ hãi. Người ta xây dựng nhiều ngôi đền bằng đá rất đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của thần thánh và cũng tạc bằng đá, hoặc đúc bằng đồng rất nhiều pho tượng thần thánh để thờ, với những phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Người Ấn Độ sớm có chữ viết, như chữ cổ vùng sông Ấn từ 3000 năm TCN, chữ cổ vùng sông Hằng có thể có từ 1000 năm TCN. Ban đầu là kiểu chữ đơn sơ Brahmi, được dùng để khắc trên cột A-sỏ-ca, rồi được nâng lên sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit) được hoàn thiện từ thời A-sô-ca cả chữ viết và ngữ pháp. Ngôn ngữ Phạn dùng phổ biến dưới thời Gúp-ta trong việc viết văn bia. Ngôn ngữ và văn tự phát triển là điểu kiện để truyền tải, truyền bá văn học, văn hoá Ấn Độ. Thời Gúp-ta đã có những công trình kiến trúc, điêu khắc, những tác phẩm văn học tuyệt vời, làm nền cho văn hoá truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu, xuyên suốt thời gian lịch sử của loài người. Người Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn học truyền thống của mình, truyền bá ra bên ngoài. Đông Nam Á là nơi chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hoá Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Cùng với Phật giáo, Ấn Độ giáo (hay Hindu giáo) cũng ra đời và phát triển. Đây là tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa của người Ấn. Ấn Độ giáo thờ rất nhiều thần, chú yếu là bốn thần: bộ ba Brama (thần Sáng tạo thế giới), Siva (thần Huỷ diệt), Visnu (thần Bảo hộ), và Indra (thần Sấm sét). Đó là những lực lượng siêu nhiên mà con người sợ hãi. Người ta xây dựng nhiều ngôi đền bằng đá rất đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của thần thánh và cũng tạc bằng đá, hoặc đúc bằng đồng rất nhiều pho tượng thần thánh để thờ, với những phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Người Ấn Độ sớm có chữ viết, như chữ cổ vùng sông Ân từ 3000 năm TCN, chữ cổ vùng sông Hằng có thể có từ 1000 năm TCN. Ban đầu là kiểu chữ đơn sơ Brahmi, được dùng để khắc trên cột A-sỏ-ca, rồi được nâng lên sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit) được hoàn thiện từ thời A-sô-ca cả chữ viết và ngữ pháp. Ngôn ngữ Phạn dùng phổ biến dưới thời Gúp-ta trong việc viết văn bia. Ngôn ngữ và văn tự phát triển là điểu kiện để truyền tải, truyền bá văn học, văn hoá Ấn Độ. Thời Gúp-ta đã có những công trình kiến trúc, điêu khắc, những tác phẩm văn học tuyệt vời, làm nền cho văn hoá truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu, xuyên suốt thời gian lịch sử của loài người. Người Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn học truyền thống của mình, truyền bá ra bên ngoài. Đông Nam Á là nơi chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hoá Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Cùng với Phật giáo, Ấn Độ giáo (hay Hindu giáo) cũng ra đời và phát triển. Đây là tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa của người Ấn. Ấn Độ giáo thờ rất nhiều thần, chú yếu là bốn thần: bộ ba Brama (thần Sáng tạo thế giới), Siva (thần Huỷ diệt), Visnu (thần Bảo hộ), và Indra (thần Sấm sét). Đó là những lực lượng siêu nhiên mà con người sợ hãi. Người ta xây dựng nhiều ngôi đền bằng đá rất đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của thần thánh và cũng tạc bằng đá, hoặc đúc bằng đồng rất nhiều pho tượng thần thánh để thờ, với những phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Người Ấn Độ sớm có chữ viết, như chữ cổ vùng sông Ân từ 3000 năm TCN, chữ cổ vùng sông Hằng có thể có từ 1000 năm TCN. Ban đầu là kiểu chữ đơn sơ Brahmi, được dùng để khắc trên cột A-sỏ-ca, rồi được nâng lên sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit) được hoàn thiện từ thời A-sô-ca cả chữ viết và ngữ pháp. Ngôn ngữ Phạn dùng phổ biến dưới thời Gúp-ta trong việc viết văn bia. Ngôn ngữ và văn tự phát triển là điểu kiện để chuyển tải, truyền bá văn học, văn hoá Ấn Độ. Thời Gúp-ta đã có những công trình kiến trúc, điêu khắc, những tác phẩm văn học tuyệt vời, làm nền cho văn hoá truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu, xuyên suốt thời gian lịch sử của loài người. Người Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn học truyền thống của mình, truyền bá ra bên ngoài. Đông Nam Á là nơi chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hoá Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Cùng với Phật giáo, Ấn Độ giáo (hay Hindu giáo) cũng ra đời và phát triển. Đấy là tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa của người An. An Độ giáo thờ rất nhiều thần, chú yêu là bốn thần: bộ ba Brama (thần Sáng tạo thế giới), Siva (thần Huỷ diệt), Visnu (thần Bảo hộ), và Indra (thần Sấm sét). Đó là những lực lượng siêu nhiên mà con người sợ hãi. Người ta xây dựng nhiều ngôi đền bằng đá rất đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của thần thánh và cũng tạc bằng đá, hoặc đúc bằng đồng rất nhiều pho tượng thần thánh đề thờ, với những phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Người Ấn Độ sớm có chữ viết, như chữ cổ vùng sông Ân từ 3000 năm TCN, chữ cổ vùng sông Hằng có thể có từ 1000 năm TCN. Ban đầu là kiểu chữ đơn sơ Brahmi, được dùng đề khắc trên cột A-sỏ-ca, rồi được nâng lên sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit) được hoàn thiện từ thời A-sô-ca cả chữ viết và ngữ pháp. Ngôn ngữ Phạn dùng phổ biến dưới thời Gúp-ta trong việc viết văn bịa. Ngôn ngữ và văn tự phát triển là điểu kiện đề chuyển tài, truyền bá văn học, văn hoá An Độ. Thời Gúp-ta đã có những công trình kiến trúc, điêu khắc, những tác phẩm văn học tuyệt vời, làm nền cho văn hoá truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu, xuyên suốt thời gian lịch sử của loài người. Người Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn học truyền thống của mình, truyền bá ra bên ngoài. Đông Nam Á là nơi chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của văn hoá Ấn Độ." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Chiến tranh thế giới thứ hai kết thức cũng như những thay đổi về tình hình quốc tế sau chiến tranh đã thức đẩy phong trào độc lập dân tộc tại Châu Phi. Thất bại của chủ nghĩa phát xít, sự suy yêu của Anh và Pháp, hai quốc gia thống trị nhiều vùng thuộc địa tại Châu Phi, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Châu Phi. Thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, trước hết là của Việt Nam và Trung Quốc, đã cổ vũ các cuộc đấu tranh của nhân dân Châu Phi.  Phong trào đấu tranh đã diễn ra sôi nổi, bùng nổ sớm nhất ở Bắc Phi, sau đó lan ra các vùng khác. Mở đầu là cuộc binh bịêh của sĩ quan và binh lính yêu nước Ai Cập (3 - 7 - 1952) lột đổ vương triều Pharúc, chỗ dựa của thực dân Anh, lập nên nước Cộng hoà Ai Cập (1953). Cùng năm 1952, nhân dân Libị giành được độc lập. Sau 8 năm đấu tranh vũ trang chống Pháp (1954 - 1962), nhân dân Angiêri đã giành được thắng lợi. từ nửa sau thập niên 50, hệ thống thuộc địa của thực dân Châu Âu ở Châu Phi nối tiêp nhau tan rã, các quốc gia độc lập lần lượt xuất hiện nhưTuynidi, Marốc, Xuđăng (1956); Gana (1957); Ghinê (1958),... Đặc biệt, lịch sử ghi nhận năm 1960 là Năm Châu Phi với 17 nước được trao trả độc lập. Năm 1975, thắng lợi của nhân dân Môdămbích và Ảnggôla trong cuộc đấu tranh chống thực dân Bổ Đào Nha, về cơ bản đã chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ ở Châu Phi cùng hệ thống thuộc địa của nó. Từ sau năm 1975, nhân dân các thuộc địa còn lại ở Châu Phi hoàn thành cuộc đấu tranh đánh đổ nền thống trị thực dân cũ, giành độc lập dân tộc và quyền sống của con người." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Sau khi giành được độc lập, các nước Châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, tuy đã gặt hái được những thành tựu bước đầu nhưng chưa đủ đề thay đổi căn bản bộ mặt của Châu lực này. Trong thập kỉ 60 của thế kỉ XX, tổng sán phâm quốc dân của các quốc gia độc lập ở Châu Phi đều có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 5,8%, thập kỉ 70 là 5,2%, thập kỉ 80 từ 2% đến 3%, năm 1995 là 3,5%.  Mặc dù vậy, nhiều nước Châu Phi còn trong tình trạng lạc hậu, không ổn định và khó khăn do xung đột, đảo chính, nội chiến diễn ra liên miên; đói nghèo, bênh tật và mù chữ; sự bùng nổ về dân số; nợ nần và sự phụ thuộc vào nước ngoài v.v... Tất cả những khó khăn đó đã và đang là thách thức lớn đối với nhân dân các nước Châu Phi. từ năm 1952 đến năm 1985, tại Châu Phi nổ ra 241 lân đáo chính quân sự. từ năm 1987 đến năm 1997, Châu Phi đã xáy ra tối 14 cuộc xung đột và nội chiến. bị thám nhất là cuộc nội chiến ở Ruanđa năm 1994 giữa hai bộ tộc Hutu và Tuxi làm 800 000 người thiệt mạng, hơn 1,2 triệu người phái tị nạn, trong khi dân số nước này chỉ có 7 triệu người. Trong số 43 quốc gia mà Liên hợp quốc xác định là nghèo nhất thế giối (năm 1997), thỉ ở Châu Phi có 29 nước. Khoáng 150 triệu dân Châu Phi thuộc diện đói ỡn thường xuyên. Vào đấu những năm 90, số nợ của Châu Phi lên tối 300 tỉ USD với số lãi hàng năm phái trá là trên 25 tỉ USD. Các nước Châu Phi cùng cộng đồng quốc tế đang tìm nhiều giải pháp tháo gỡ những khó khăn: giải quyết xung đột, khắc phục đói nghèo, ngăn ngừa bênh dịch. Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU) thành lập tháng 5 - 1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh Châu Phi (AU). Liên minh Châu Phi đang triển khai nhiều chương trình chiến lược vì sự phát triển của Châu lực." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Từ những năm 80 của thế kỉ XIX, giới cầm quyền Đức đã vạch ra kế hoạch chiến tranh nhằm chiếm hầu hết lãnh thổ Châu Âu, vươn ra các thuộc địa của Anh và Pháp ở Châu Phi và Châu Á. Năm 1882, Đức cùng Áo -Hung và I-ta-li-a thành lập liên minh tay ba, được gọi là phe Liên minh. Sau này, I-ta-li-a rời khỏi Liên minh (1915), chông lại Đức. Đôi phó với âm mưu của Đức, Anh cũng chuẩn bị kế hoạch chiến tranh. Anh, Pháp, Nga tuy có tranh chấp về thuộc địa, nhưng phải nhân nhượng lẫn nhau, kí những bản hiệp ước tay đôi: Pháp - Nga (1890), Anh - Pháp (1904), Anh - Nga (1907), hình thành phe Hiệp ước . Như vậy, đến đầu thế kỉ XX, ở Châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau. Cả hai khối đều ôm mộng xâm lược, cướp đoạt lãnh thổ và thuộc địa của nhau, tăng cường chạy đua vũ trang. Chính mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa, mà trước tiên là giữa đế quốc Anh với đế quốc Đức, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến tranh. Tình hình căng thẳng ở Ban-căng từ năm 1912 đến năm 1913 đã tạo cơ hội cho chiến tranh bùng nổ. Ngày 28 -6 -1914, Thái tử Áo -Hung bị một người Xéc-bị ám sát tại Bô-xni-a. Giới quân phiệt Đức, Áo chớp lấy cơ hội đó đề gậy chiến tranh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Ngày 28 - 7 -1914, Áo - Hung tuyến chiến với Xéc-bị. Ngày 1 - 8, Đức tuyến chiến với Nga, ngày 3 - 8 tuyến chiến với Pháp. Ngày 4 - 8, Anh tuyến chiến với Đức. Chiến tranh đế quốc đã bùng nổ và nhanh chóng lan rộng thành chiến tranh thế giới. Mở đầu cuộc chiến, Đức dự định đánh bại Pháp một cách chớp nhoáng, sau đó quay sang đánh Nga. Vì vậy, Đức tập trung phần lớn binh lực ở Mặt trận phía tây, và ngay trong đến 3 - 8 -1914 đã tràn vào Bỉ - một nước trung lập - rồi đánh thọc sang Pháp. Đức chặn cả con đường ra biển không cho quân Anh sang tiêp viên. Pa-ri bị uy hiếp, quân Pháp có nguy cơ bị tiêu diệt. Giữa lúc đó, ở Mặt trận phía Đông, quân Nga tấn công vào Đông Phổ, buộc Đức phải điều bớt quân từ Mặt trận phía tây về chống lại quân Nga. Pa-ri được cứu thoát. Lợi dụng thời cơ, đầu tháng 9 _ 1914, Pháp phản công và giành thắng lợi trên sông Mác-nơ. Quân Anh cũng đổ bộ lên lực địa Châu Âu. Kế hoạch ""đánh nhanh thắng nhanh của Đức đã thất bại. Quân của hai bên rút xuống chiến hào cầm cự nhau dai dẳng trên một chiến tuyến dài 780 km, từ biển Bắc tới biên giới Thuỵ Sĩ. Năm 1915, Đức dồn binh lực sang Mặt trận phía Đông cùng quân Áo - Hung tấn công Nga quyết liệt, định đè bẹp Nga. Chế độ Nga hoàng đang khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng Đức không đạt được mục đích loại Nga ra khỏi chiến tranh. Cuối năm, hai bên đều ở trong thế cầm cự trên một mặt trận dài 1 200 km, từ sông Đơ-nhi-ép đến vịnh Ri-ga." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tháng 2 -1917, nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, với khẩu hiệu ""Đả đảo chiến tranh"", ""Đả đảo Nga hoàng"", ""biênchiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng"", đã tiên hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản thành công. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập và tiêp tực theo đuổi chiến tranh. Lúc này, Đức muốn cắt đứt đường tiêp tế trên biển của phe Hiệp ước liền sử dụng phương tiện chiến tranh mới là tàu ngầm. Cuộc ""chiến tranh tàu ngầm gậy cho Anh nhiều thiệt hại. Lúc đầu, Mĩ giữ thái độ ""trung lập trong chiến tranh. Thực ra, Mĩ muốn lợi dụng chiến tranh đề bản vũ khí cho cả hai phe và khi chiến tranh kết thức, dù thắng hay bại, các nước tham chiến đều bị suy yêu, còn Mĩ sẽ khang định ưu thế của mình. Nhưng đến năm 1917, phong trào cách mạng ở các nước dâng cao, Mĩ thấy cần phải kết thức chiến tranh và đứng về phe Hiệp ước. Viện cớ tàu ngầm Đức vi phạm quyền tự do thương mại trên biển, tấn công cả tàu buôn cập bên các nước thuộc phe ""Hiệp ước"", ngày 2 -4 -1917 Mĩ tuyến chiến với Đức. Sự tham chiến của Mĩ có lợi hơn cho phe Anh, Pháp, Nga. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Đầu năm 1918, lợi dụng khi quân Mĩ chưa sang đến Châu Âu, quân Đức mở liên tiếp 4 đợt tấn công với quy mô lớn trên mặt trận Pháp. Một lần nữa, Chính phủ Pháp chuẩn bị rời khỏi Pa-ri. Tháng 7 -1918, 65 vạn quân Mĩ đổ bộ vào Châu Âu cùng nhiều vũ khí, đạn dược. Mĩ trực tiếp tham chiến khi cả hai phe bị thiệt hại quá nhiều, hết sức mỏi mệt, nên trở thành nước đứng đầu phe Hiệp ước thay Anh. Nhờ đó, quân Pháp và Anh quay lại phản công mạnh mẽ quân Đức trên các mặt trận. Ngày 18 - 7 - 1918, quân Pháp với 600 xe tăng phá vỡ phòng tuyến sông Mác-nơ của Đức, bắt 3 vạn từ binh. Ngày 8 - 8, liên quân Anh - Pháp với 400 xe tăng đã đâp tan phòng tuyến sông Xen, tiêu diệt 16 sư đoàn quân Đức. Ngày 12 - 9, liên quân Pháp - Mĩ đánh Xanh Mi-hi-en, một phòng tuyến quan trọng của Đức. Từ cuối tháng 9 -1918, quân Đức liên tiếp thất bại, phải bỏ chạy khỏi lãnh thổ Pháp và Bỉ. Các nước đồng minh của Đức cũng bị tấn công liên tiếp, buộc phải đầu hàng: Bun-ga-ri (29 - 9), Thổ Nhĩ Kì (30 -10), Áo -Hung (2 -11). Trước nguy cơ thất bại, chính phủ mới được thành lập ở Đức (3 -10 -1918) đề nghị thương lượng với Mĩ, nhưng không được chấp nhận, vì Mĩ muốn đánh đến cùng đề buộc Đức phải đầu hàng không điều kiện. Trong tình hình ấy, ngày 9 -11 -1918, cách mạng bùng nổ ở Đức, Hoàng đế Vin-hem II phải chạy sang Hà Lan. Ngày 11 -11 -1918, Đức phải kí hiệp định đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh kết thức với sự thất bại hoàn toàn của phe Đức, Áo - Hung. " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập ở Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh bùng nổ, đã giành được thắng lợi to lớn. Sau đó, hàng loạt các quốc gia bước vào thời kì xây dựng đất nước, bộ mặt hai khu vực từng bước thay đổi nhưng còn đầy khó khăn và nhiều nơi không ổn định." 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Châu Phi là Châu lực lớn thứ ba thế giới (sau Châu Á và Châu Mĩ), gồm 54 nước, có diện tích khoảng 30,3 triệu km2, dân số 800 triệu người (năm 2000). " 10 + 11 + 12,"Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ LaTinh (1945-2000)",Bài 6: Các nước Châu Phi và Mĩ Latinh,"Khác với Châu Á và Châu Phi, nhiều nước ở Mĩ Latinh sớm giành được độc lập từ đầu thế kỉ XIX sau khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bổ Đào Nha, nhưng sau đó lại bị lệ thuộc vào Mĩ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế về kinh tế và quân sự, Mĩ tìm cách biến Mĩ Latinh thành ""sân sau của mình và xây dựng các chế độ độc tài thân Mĩ. Cũng vì thế, các cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ bùng nổ và phát triển. Tiêu biểu là thắng lợi của cách mạng Cuba dưới sự lãnh đạo của Phiđen Cátxtơrô.  Tháng 3 - 1952, với sự giúp đỡ của Mĩ, Batixta đã thiết lập chế độ độc tài quân sự ở Cuba. Chính quyền Batixta xoá bỏ hiến pháp tiến bộ, câm các đảng phái chính trị hoạt động, bắt giam và tàn sát nhiều người yêu nước. Trong bối cảnh đó, nhân dân Cuba đã đứng lên đâu tranh chống chế độ độc tài, mở đầu bằng cuộc tấn công vào trại lính Môncađa của 135 thanh niên yêu nước do Phiđen Cátxtữrô chỉ huy (26 - 7 - 1953). Ngày 1 - 1 - 1959, chế độ Batixta sụp đổ, nước Cộng hoà Cuba ra đời do Phiđen Cátxtơrô đứng đầu. Phiđen Cátxtơrô sinh ngày 13 - 8 - 1927. Sau khi đỗ Tiến sĩ Luật (1950), ông tham gia hoạt động cách mạng chống chế độ độc tài Batixta. Sau cuộc tấn công trại lính Môncađa (26 - 7 - 1953) không thành, ông bị bắt và bị kết án tù. Ra tù, Phiđen sang Mêhicô chuân bị lực lượng. Đến cuối năm 1956, ông cùng 81 chiến sĩ về nước phát động nhân dân đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ độc tài. Cách mạng thành công, Phiđen thống nhốt các tổ chức cách mạng, thành lập Đáng Cộng sán Cuba (10 - 1965) và trở thành Bí thư thứ nhốt, dân dắt cách mạng Cuba tùng bước tiến lên. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Cuba, vào tháng 8 - 1961, Mĩ đề xướng việc tổ chức ""Liên minh vì tiến bộ"" để lôi kéo các nước Mĩ Latinh. Cũng vì thế, từ những thập kỉ 60 - 70, phong trào đâu tranh chống Mĩ và chế độ độc tài thân Mĩ ở khu vực ngày càng phát triển và thu nhiều thắng lợi." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Ngày 28 - 7 -1914, Áo - Hung tuyên chiên với Xéc-bi. Ngày 1 - 8, Đức tuyên chiên với Nga, ngày 3 - 8 tuyên chiên với Pháp. Ngày 4 - 8, Anh tuyên chiên với Đức. Chiến tranh đế quốc đã bùng nổ và nhanh chóng lan rộng thành chiên tranh thệ giới. Mở đầu cuộc chiên, Đức dự định đánh bại Pháp một cách chớp nhoáng, sau đó quay sang đánh Nga. Vì vậy, Đức tập trung phần lớn binh lực ở Mặt trận phía Tây, và ngay trong đểm 3 - 8 -1914 đã tràn vào Bỉ - một nước trung lập - rồi đánh thọc sang Pháp. Đức chặn cả con đường ra biển không cho quân Anh sang tiêp viên. Pa-ri bị uy hiếp, quân Pháp có nguy cơ bị tiêu diệt. Giữa lúc đó, ở Mặt trận phía Đông, quân Nga tấn công vào Đông Phổ, buộc Đức phải điều bớt quân từ Mặt trận phía Tây về chống lại quân Nga. Pa-ri được cứu thoát. Lợi dụng thời cơ, đầu tháng 9 _ 1914, Pháp phản công và giành thắng lợi trên sông Mác-nơ. Quân Anh cũng đổ bộ lên lục địa Châu Âu. Kế hoạch ""đánh nhanh thắng nhanh"" của Đức đã thất bại. Quân của hai bên rút xuống chiên hào cầm cự nhau dai dẳng trên một chiên tuyên dài 780 km, từ Biển Bắc tới biên giới Thuỵ Sĩ. Năm 1915, Đức dồn binh lực sang Mặt trận phía Đông cùng quân Áo - Hung tấn công Nga quyết liệt, định đè bẹp Nga. Chế độ Nga hoàng đang khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng Đức không đạt được mục đích loại Nga ra khỏi chiên tranh. Cuối năm, hai bên đều ở trong thế cầm cự trên một mặt trận dài 1 200 km, từ sông Đơ-nhi-ép đển vịnh Ri-ga." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tháng 2 -1917, nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, với khẩu hiệu ""Đả đảo chiên tranh"", ""Đả đảo Nga hoàng"", ""Biên chiên tranh đế quốc thành nội chiên cách mạng"", đã tiên hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản thành công. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập và tiêp tục theo đuổi chiên tranh. Lúc này, Đức muốn cắt đứt đường tiêp tế trên biển của phe Hiệp ước liền sử dụng phương tiện chiên tranh mới là tàu ngầm. Cuộc ""chiên tranh tàu ngầm"" gây cho Anh nhiều thiệt hại. Lúc đầu, Mĩ giữ thái độ ""trung lập trong chiến tranh. Thực ra, Mĩ muốn lợi dụng chiến tranh để bán vũ khí cho cả hai phe và khi chiến tranh kết thúc, dù thắng hay bại, các nước tham chiến đều bị suy yếu, còn Mĩ sẽ khang định ưu thế của mình. Nhưng đến năm 1917, phong trào cách mạng ở các nước dâng cao, Mĩ thây cần phải kết thúc chiến tranh và đứng về phe Hiệp ước. Viện cớ tàu ngầm Đức vi phạm quyền tự do thương mại trên biển, tấn công cả tàu buôn cập bên các nước thuộc phe ""Hiệp ước"", ngày 2 -4 -1917 Mĩ tuyên chiên với Đức. Sự tham chiến của Mĩ có lợi hơn cho phe Anh, Pháp, Nga. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tháng 2 -1917, nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, với khẩu hiệu ""Đả đảo chiên tranh"", ""Đả đảo Nga hoàng"", ""Biên chiên tranh đế quốc thành nội chiên cách mạng"", đã tiên hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản thành công. Chế độ Nga hoàng bị lật đổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập và tiêp tục theo đuổi chiên tranh. Lúc này, Đức muốn cắt đứt đường tiêp tế trên biển của phe Hiệp ước liền sử dụng phương tiện chiên tranh mới là tàu ngầm. Cuộc ""chiên tranh tàu ngầm gây cho Anh nhiều thiệt hại. Lúc đầu, Mĩ giữ thái độ ""trung lập"" trong chiến tranh. Thực ra, Mĩ muốn lợi dụng chiến tranh để bán vũ khí cho cả hai phe và khi chiến tranh kết thúc, dù thắng hay bại, các nước tham chiến đều bị suy yếu, còn Mĩ sẽ khang định ưu thế của mình. Nhưng đến năm 1917, phong trào cách mạng ở các nước dâng cao, Mĩ thây cần phải kết thúc chiến tranh và đứng về phe Hiệp ước. Viện cớ tàu ngầm Đức vi phạm quyền tự do thương mại trên biển, tấn công cả tàu buôn cập bên các nước thuộc phe ""Hiệp ước"", ngày 2 -4 -1917 Mĩ tuyên chiên với Đức. Sự tham chiến của Mĩ có lợi hơn cho phe Anh, Pháp, Nga. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn h6a truyền thống Ấn Độ,"Lãnh thổ Ấn Độ như hình ""tam giác ngược"", hai bên giáp biển, cạnh phía bắc nối với Châu Á, nhưng lại ngăn cách bởi dãy núi cao nhất thế giới — dãy Hi-ma-lay-a, nên còn được gọi là tiểu lục địa Nam Á. Diện tích Ấn Độ khá rộng lớn, hơn 3 triệu km3, gấp khoảng 10 lần Việt Nam và gần 15 lần nước Anh. Hai bờ biển lại có hai dãy núi Đông Gát và Tây Gát, ngăn cách bởi cao nguyên Đê-can. Do toàn núi cao, rừng rậm, rừng nguyên sinh nên lãnh thổ An Độ bị ngăn cách nhau đáng kể giữa Đông và Tây, Bắc và Nam. Chí có miền Bắc là bằng phẳng, bởi lưu vực của hai con sông lớn. Xưa kia phải kể cả con sông ở Tây Bắc Ấn Độ, gọi là sông Ấn (Sông Indus). Nhờ nó mà có tên gọi Ấn Độ và lãnh thổ Ấn Độ (Hiudustan), nơi khỏi nguồn của nền văn hoá Ấn Độ. Còn ở Đông Bắc bán đảo là lưu vực sông Hằng Giang rộng lớn và màu mỡ, là quê hương, nơi sinh trưởng nền văn hoá truyền thống của văn minh Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Từ những năm 80 của thế kỉ XIX, giới cầm quyền Đức đã vạch ra kế hoạch chiến tranh nhằm chiếm hầu hết lãnh thổ Châu Âu, vươn ra các thuộc địa của Anh và Pháp ở Châu Phi và Châu Á. Năm 1882, Đức cùng Áo -Hung và I-ta-li-a thành lập liên minh tay ba, được gọi là phe Liên minh. Sau này, I-ta-li-a rời khỏi Liên minh (1915), chống lại Đức. Đối phó với âm mưu của Đức, Anh cũng chuẩn bị kế hoạch chiến tranh. Anh, Pháp, Nga tuy có tranh chấp về thuộc địa, nhưng phải nhân nhượng lẫn nhau, kí những bản hiệp ước tay đôi: Pháp - Nga (1890), Anh - Pháp (1904), Anh - Nga (1907), hình thành phe Hiệp ước. Như vậy, đến đầu thế kỉ XX, ở Châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau. Cả hai khối đều ôm mộng xâm lược, cướp đoạt lãnh thổ và thuộc địa của nhau, tăng cường chạy đua vũ trang. Chính mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa, mà trước tiên là giữa đế quốc Anh với đế quốc Đức, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến tranh. Tình hình căng thẳng ở Ban-căng từ năm 1912 đến năm 1913 đã tạo cơ hội cho chiến tranh bùng nổ. Ngày 28 -6 -1914, Thái tử Áo -Hung bị một người Xéc ám sát tại Bô-xni-a. Giới quân phiệt Đức, Áo chớp lấy cơ hội đó để gây chiến tranh." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mĩ bước sang giai đoạn phát triển mới với tiềm lực kinh tế - tài chính và lực lượng quân sự to lớn. Dựa vào đó, các giới cầm quyền Mĩ theo đuổi mưu đồ thống trị toàn thế giới và nô dịch các quốc gia - dân tộc trên hành tinh." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ. Trong khoáng nửa sau những năm 40, tổng sản phâm quốc dân tăng trung bỉnh hàng năm là 6%. Sản lượng công nghiệp Mĩ chiếm tối hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giối (hơn 56% năm 1948). Sản xuất nông nghiệp tăng 27% so với trưốc chiến tranh. Năm 1949, sản lượng nông nghiệp Mĩ bằng 2 lần sản lượng của 5 nước Anh, Pháp, CHLB Đúc, Italia và Nhật Bản cộng lại. Mĩ có hơn 50% tàu bè đi lại trên mặt biển, 3/4 dụ trữ vàng của thế giối (khoáng 24,6 tỉ USD, năm 1949) và nền kinh tế Mĩ chiếm gân 40% tổng sản phâm kinh tế thế giối. Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới. Sở dĩ kinh tế Mĩ có được sự phát triển và sức mạnh to lớn như vậy là do một số yêu tố sau: 1 - Lãnh thổ Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu khá thuận lợi. 2 - Mĩ có nguồn nhân lực dổi dào, trình độ kĩ thuật cao. 3 - Mĩ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai muộn hơn, tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác. Hơn nữa, Mĩ còn lợi dụng chiến tranh để làm giàu, thu lợi nhuận từ buôn bản vũ khí. 4 - Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại của thế giới. Việc áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng này đã cho phép Mĩ nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất. 5 - Trình độ tập trung tư bản và sản xuất ở Mĩ rất cao. Các tổ hợp công nghiệp - quân sự, các công ti, và tập đoàn tư bản lũng đoạn Mĩ (như Giênêran Môtơ, Pho, Rốccơpheolơ...) có sức sản xuất, cạnh tranh lổn và hiệu quả ở cả trong và ngoài nước. 6 - Các chính sách và biện pháp điều tiết của Nhà nước có vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mĩ đã đạt được nhiều thành tựu lổn trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nhà khoa học nổi tiếng của thế giới đã di cư sang Mĩ. Đâu tư cho giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Mĩ rất lớn. Mĩ là một trong những nước đi đầu trong các lĩnh vực chế tạo công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động), vật liệu mới (pôlime, vật liệu tổng hợp), năng lượng mới (năng lượng nguyên tử, nhiệt hạch), sản xuất vũ khí (bom nguyên tử, bom khinh khí, tên lửa đạn đạo), chinh phục vũ trụ (đưa người lên Mặt Trăng năm 1969, thám hiểm sao Hoả) và đi đầu cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp v.v... Những thành tựu đó không chỉ thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển mà còn có ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới. Mĩ là nước cộng hoà liên bang theo chế độ tổng thống. Hai đảng Dân chủ và Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Về đối nội, từ năm 1945 đến đầu những năm 70, nước Mĩ đã trải qua 5 đời tổng thống (từ H. Truman đến R. Níchxơn), mỗi tổng thống đều đưa ra một chương trình cải cách những vấn đề xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Tổng thống H. Truman triển khai ""chương trình cái cách công bàng""; Đ. Aixenhao quan tâm phát triển hệ thống xa lộ toàn liên bang và tiến hành những cái cách quan trọng về giáo dục; G. Kennơđi tiến hành việc tu chính (lân thứ 23) Hiến pháp theo hướng tiến bộ hơn; L. Giônxơn đưa ra chương trình ""xã hội vĩ đại với cuộc chiến chống đói nghèo; R. Níchxơn triển khai chính sách mới về lương, giá cá, phân bổ lại ngân sách; thông qua các đạo luật về báo vệ môi trường, về sự an toàn của sản phâm tiêu dùng v.v... Mặt khác, trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh, cũng như đứng trước phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ, chính sách đối nội của các chính quyền Mĩ là tập trung duy trì, bảo vệ và phát triển chế độ tư bản Mĩ. Luật Táp - Háclây (1947) mang tính chât chống công đoàn rõ rệt; sự hoành hành của ""chủ nghĩa Mác Cácti đâu những năm 50 rât tiêu biểu cho xu hướng chống cộng sản ở Mĩ. Tuy là nước tư bản phát triển, là trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới, khoa học - kĩ thuật phát triển, mức sống của người dân được nâng cao, nhưng nước Mĩ vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Từ năm 1945 đến năm 1973, kinh tế Mĩ đã trải qua ít nhất là 7 lần khủng hoáng hoặc suy thoái. Thâm hụt ngân sách, nợ nân, lạm phát, phá sản, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo v.v... vân là những vốn đề không dễ khắc phục. Nhiều vụ bê bối chính trị lớn ở Mĩ đã xáy ra như vụ ám sátTổng thống Kennơđi (1963), vụ tiết lộ Tài liệu mật Lâu năm góc (1971), vụ Oatơghết buộc Tổng thống Níchxơn Từ chức (1974) v.v... Trong bối cảnh đó, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, các cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và dân sinh vẫn diễn ra mạnh mẽ. Năm 1963, phong trào đốu tranh của người da đen chống phân biệt chủng tộc bùng lên mạnh mẽ, thu hút 25 triệu người tham gia, lan rộng ra 125 thành phố (mạnh nhốt là ở Đitơroi). Từ năm 1969 đến năm 1973, những cuộc đấu tranh của người da đỏ cũng diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt, phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam đã làm cho nước Mĩ bị chia rẽ sâu sắc.  Về đối ngoại, với tiềm lực về kinh tế và quân sự to lớn, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã triển khai chiến lược toàn cầu với tham vọng bá chủ thế giới. Tháng 3 - 1947, trong diễn văn đọc trước Quốc hội Mĩ, Tổng thống H. Truman đã công khai nêu lên ""Sứ mênh lãnh đạo thế giới tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản"". Chiến lược toàn câu của Mĩ được triển khai qua nhiều học thuyết cụ thể như: Học thuyết Truman và chiến lược ""Ngăn chặn""; Học thuyết Aixenhao và chiến lược ""Trả đũa ồ ạt""; Học thuyết Kennơđi và chiến lược ""Phán úng linh hoạt""; Học thuyết Níchxơn và chiến lược ""Ngăn đe thục tế v.v..." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mặc dù các chiến lược cụ thể mang những tên gọi khác nhau, nhưng chiến lược toàn cầu của Mĩ nhằm thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu: một là, ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên thế giới; hai là, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, phong trào chống chiến tranh, vì hoà bình, dân chủ trên thế giới; ba là, không chế, chi phối các nước tư bản đổng minh của Mĩ. Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, chính sách cơ bản của Mĩ là dựa vào sức mạnh, trước hết là sức mạnh quân sự và kinh tế. Mĩ đã khởi xướng cuộc Chiến tranh lạnh trên phạm vi thế giới, dân đến tình trạng đối đâu căng thẳng với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mĩ trục tiếp gây ra hoặc tiếp tay cho nhiều cuộc chiến tranh và bạo loạn, lột đổ ở nhiều nơi trên thế giới, tiêu biểu là việc tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 - 1975) và dính líu vào cuộc chiến tranh ở Trung Đông. Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ R. Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở ra một thời kì mới trong quan hệ giữa hai nước. Năm 1979, quan hệ ngoại giao giữa Mĩ và Trung Quốc được thiết lập. Tháng 5 - 1972, R. Níchxơn tới thăm Liên Xô, thực hiện sách lược hoà hoãn với hai nước lớn để chống lại phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc. Phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ là một trong những nguyên nhân buộc chính quyền Mĩ phải có những nhượng bộ có lợi cho quần chúng. Trước thắng lợi của nhân dân Việt Nam và chịu sức ép của phong trào phản chiến ở Mĩ, chính quyền Níchxơn phải kí Hiêp định Pari (1973) chấm dứt chiến tranh xâm lược Viêt Nam và rút hết quân về nước" 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,"Những biến động lịch sử từ đầu thời cận đại đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX tác động mạnh mẽ đến tình hình văn hoá. Nhiều thành tựu đã đạt được trong các lĩnh vực văn học - nghệ thuật, tu tuồng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,"Vào buổi đầu thời cận đại, văn học, nghệ thuật, tu tuồng có vai trò quan trọng trong việc tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến và hình thành quan điểm, tu tuồng của con người tu sản. Về văn học, đây là thời kì xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ lớn. ở phương Tây, tiêu biểu là ở Pháp, trong thế kỉ XVII đã xuất hiện các nhà văn, nhà thơ lớn. Coóc-nây (1606 - 1684) là đại biểu xuất sắc cho nền bị kịch cổ điển Pháp. La Phông-ten (1621 - 1695) là nhà ngụ ngôn và nhà văn cổ điển Pháp; các tác phẩm của ông có tác dụng giáo dục đối với mọi lứa tuổi, mọi thời đại. Mô-li-e (1622 - 1673) là tác giả nổi tiếng của nền hài kịch cổ điển Pháp; các tác phẩm của ông thể hiện khát vọng công bằng, cuộc sống tốt đẹp của loài người. Về âm nhạc có Bét-tô-ven - nhà soạn nhạc thiên tài người Đức. Sáng tác của ông thấm đượm tinh thần dân chủ, cách mạng, trong đó nổi tiếng là những bản giao hưởng số 3, số 5, số 9. Ngoài ra, còn có Mô-da (1756 - 1791) - nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo - người có những cống hiến to lớn cho nghệ thuật hợp xướng.  Về hội hoạ, Rem-bran (1606 -1669) là hoạ sĩ, nhà đổ hoạ Hà Lan nổi tiếng thế kỉ XVII về tranh chân dung, tranh phong cảnh với nhiều chất liêu - sơn dầu, khắc kim loại... Về tư tưởng, trào lưu Triết học Ánh sáng thế kỉ XVII - XVIII đã sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng lớn các nhà Khai sáng, có vai trò quan trọng trong sự thắng lợi của Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII và sự phát triển tư tưởng của Châu Âu. Đó là Mông-te-xki-ơ (1689 - 1755), Vôn-te (1694 - 1778), Rút-xô (1712 - 1778), nhà tư tưởng cấp tiến Mê-li-ê (1644 - 1729) và nhóm Bách khoa toàn thư do Đi-đơ-rô (1713 -1784) đứng đầu. Các nhà Khai sáng thế kỉ XVII - XVIII được xem như ""những người đi trước dọn đường cho Cách mạng Pháp 1789 thắng lợi""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại," Về văn học Thời kì từ giữa thế kỉ XIX đển đầu thế kỉ XX đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến trên phạm vi thế giới và chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. ở phương Tây, khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị và mở rộng việc xâm chiêm, đô hộ các nước thuộc địa thì đời sống của nhân dân lao động bị áp bức ngày càng khốn khổ. Nhiều nhà văn, nhà thơ, những người hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật đã phản ánh khá đầy đủ, toàn diện hiện thực xã hội trong tác phẩm của mình. Vích-to Huy-gô (1802 - 1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyốt, nhà viốt kịch Pháp. Các tác phẩm của ông, đặc biệt xuất sắc là tiểu thuyốt Những ngỗời khốn khổ, thể hiện lòng yêu thương vô hạn đối với những con người đau khổ, mong tìm những giải pháp đem lại hạnh phúc cho họ. Lép Tôn-xtôi (1828 -1910), nhà văn Nga, nổi tiếng với các tác phẩm: Chiến tranh và Hoà bình, An-na Ka-rê-ni-na, Phục sinh. Với chủ nghĩa hiện thực phệ phán, qua các tác phẩm của mình, Tôn-xtôi đã chống lại trật tự xã hội phong kiến Nga hoàng, ca ngợi phẩm chất của người dân Nga trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lê-nin đã đánh giá các tác phẩm của Tôn-xtôi như ""tấm gương phản chiếu cách mạng Nga"". Mác Tuên (1835 -1910) là nhà văn lớn của Mĩ vào thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, với các tác phẩm nổi tiếng như: Những ngỗời I-nô-xăng đi du lịch, Những cuộc phiêu lỗu của Tôm Xoay-Ơ. Bằng ngòi bút trào phúng, hài hước, mang tinh thần phệ phán sâu sắc, Mác Tuên đã miêu tả chân thực cuộc sống xã hội Mĩ lúc bấy giờ, thể hiện lòng yêu thương với con người, trước hệt là nhân dân lao động nghèo khổ. Ngoài ra, còn có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác, như Pu-skin (Nga, 1799 - 1837), Ban-dắc (Pháp, 1799 - 1850), An-đéc-xen (Đan Mạch, 1805 - 1875); còn có thể kể đển Mô-pát-xăng (Pháp, 1850 - 1893), Sê-khốp (Nga, 1860 - 1904), Giắc Lơn-đơn (Mĩ, 1876 -1916), Béc-tơn Brểch (Đức, 1898 - 1956),... Các tác phẩm của họ đã phản ánh khá rõ nét đời sống nhân dân đương thời, đặc biệt là của những người lao động nghèo khổ. ở các nước phương Đông, văn học cũng có những bước tiên bộ rõ rệt, phản ánh cuộc sống của nhân dân dưới ách thực dân phong kiên, lòng khát khao và ý chí anh hùng, quật khởi trong đấu tranh cho độc lập, tự do. Ra-bin-đra-nát Ta-go là nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Ông để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyốt, nhiều truyện ngắn, luận văn, bút kí, ca khúc và tranh vẽ, tiêu biểu là tập Thơ Dâng (đoạt giải Nôben năm 1913). Các sáng tác của ông thể hiện rõ lòng yêu nước, yêu hoà bình và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Hô -xê Ri-dan, nhà văn, nhà thơ lớn của Phi-líp-pin, với tác phẩm tiêu biểu như Đừng động vào tôi, đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và miêu tả cuộc kháng chiên giành độc lập của nhân dân Phi-líp-pin. Hô-xê Mác-ti, nhà văn Cu-ba, tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh, niềm tin vào thắng lợi của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và tiên bộ xã hội của nhân dân Cu-ba cũng như khu vực Mĩ Latinh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại," Về nghệ thuật Thời cận đại, đặc biệt vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, các lĩnh vực nghệ thuật như kiến trúc, âm nhạc, điêu khắc... cũng rất phát triển. Cung điện Vécxai (Pháp) được hoàn thành vào năm 1708, tiểp tục được hoàn chỉnh và trở thành một công trình nghệ thuật kiên trúc đặc sắc. Nhiều tác phẩm mĩ thuật nổi tiếng trong lịch sử nhân loại được trưng bày trong các bảo tàng lớn ra đời vào thời cận đại. Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, ở Pa-ri (Pháp) đã tụ hợp nhiều nhà văn hoá lớn, trong đó có các hoạ sĩ danh tiếng như Van Gốc (Hà Lan), Phu-gi-ta (Nhật Bản), Pi-cát-xô (Tây Ban Nh, Lê-vi-tan (Ng...  Về âm nhạc, nổi bật là Trai-cốp-xki (1840 -1893) - một trong những điển hình của nền âm nhạc hiên thực thế giới thời bây giờ. Tác phẩm nổi tiếng của ông có vở ôpêra Con đầm" 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,"Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ giữa thế kỉ XIX gây ra nhiều đau khổ cho nhân dân lao động. Trong hoàn cảnh ây, một số nhà tư tưởng tiến bộ đương thời đã nghĩ đến việc xây dựng một xã hội mới, không có chế độ tư hữu, không có bóc lột, nhân dân làm chủ các phương tiện sản xuât của mình. Nổi tiếng nhất là các nhà tư tưởng Xanh Xi-mông (1760 -1825), Phu-ri-ê (1772 -1837) ở Pháp và Ô-oen (1771 -1858) ở Anh. Đó là những nhà xã hội không tưởng, vì tư tưởng của họ không thể thực hiện được trong điều kiện chủ nghĩa tư bản vẫn được duy trì và phát triển.  Hê-ghen và Phoi-ơ-bách là những nhà triết học nổi tiếng của Đức. Hê-ghen là nhà triết học duy tâm khách quan, còn Phoi-ơ-bách tuy đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật, nhưng siêu hình khi xem những thời kì lịch sử xã hội loài người không hề phát triển mà chỉ có sự khác nhau do sự thay đổi về tôn giáo. Học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển phát sinh ở Anh với các đại biểu nổi tiếng là Xmít và Ri-các-đô (1772 - 1823). Tuy có công trong việc mở đầu ""lí luận về giá trị lao động"", nhưng hai ông chỉ nhìn thấy mối quan hệ giữa vật và vật (hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khá chứ chưa nhìn thấy mối quan hệ giữa người với người đằng sau sự trao đổi hàng hoá. Cùng với sự phát sinh và phát triển của giai cấp vô sản, phong trào công nhân, học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời, do Mác và Ăng-ghen sáng lập, được Lê-nin phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh mẽ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,"Học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sự kế thừa có chọn lọc và phát triển những thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà loài người đã đạt được, chủ yếu từ đầu thế kỉ XIX. Trong những thành tựu ấy, nổi bật là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiên hoá của các giống loài, các trào lưu triết học cổ điển Đức, học thuyêt kinh tê chính trị tư sản cổ điển Anh và lí luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học xây dựng học thuyêt của mình trên quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng vô sản thệ giới, từ đó hình thành hệ thống lí luận mới, vừa cách mạng vừa khoa học. Học thuyêt của các ông bao gồm 3 bộ phận chính: triêt học, kinh tê chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cương lĩnh cách mạng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản và mở ra một kỉ nguyên mới cho sự phát triển của khoa học (cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn)." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Ấn Độ thời Gúp-ta bắt đầu phát triển trên lưu vực sông Hằng ở phía bắc, làm cơ sở hình thành nền văn hoá truyền thống Ấn Độ - văn hoá Hinđu. Nền văn hoá đó tiếp tục phát triển ở thời Hậu Gúp-ta và Hác-sa (thế kỉ V - VII), được mở rộng trên toàn lãnh thổ Ấn Độ, và tiếp tục duy trì ở các thời kì sau cùng với những nền vãn hoá khác." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Đến thế kỉ VII, Ấn Độ lại bị rơi vào tình trạng chia rẽ, phân tán. Nguyên nhân của nó một phần là do chính quyền trung ương suy yếu; mặt khác do trải qua 6-7 thế kỉ, trên đất nước rộng lớn và ngăn cách nhau, mỗi vùng lãnh thổ lại có những điều kiện và sắc thái riêng của mình, nên đất nước chia thành hai miền, Bắc và Nam; mỗi miền lại tách thành ba nước riêng, thành sáu nước, trong đó, nước Pa-la ở vùng Đông Bắc và nước Pa-la-va ở miền Nam có vai trò nổi trội hơn. Trong trường hợp này, sự phân biệt không nói lên tình trạng khủng hoảng, suy thoái mà lại phản ánh sự phát triển tự cường của các vùng địa phương. Mỗi nước lại tiếp tục phát triển sâu rộng nền văn hoá của mình, trên cơ sở văn hoá truyền thống An Độ - chữ viết, văn học và nghệ thuật Hinđu, đặc biệt là văn học và nghệ thuật thời Gúp-ta. Nước Pa-la-va ở miền Nam, thuận tiện về bến cảng và đường biển, đã có vai trò tích cực trong việc phổ biến văn hoá Ấn Độ đến các nước Đông Nam Á. Như thế, ngay từ đầu Công nguyên và trong 5 thế kỉ tiếp theo (thế kỉ VII - XII), văn hoá truyền thông của Ấn Độ phát triển rộng trển toàn lãnh thổ và có ảnh hưởng ra bên ngoài." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Ấn Độ đã trải qua một thời kì phát triển, nhất là về văn hoá truyền thống, nhưng sự phân tán không đem lại sức mạnh thống nhất để người Ấn Độ có thể chống cự được cuộc tấn công từ bên ngoài của người Hồi giáo gốc Thổ. Năm 1055, thủ lĩnh của người Thổ dẫn quân đánh chiếm Bát-đa, rồi cải theo Hồi giáo, lập nên một vương quốc Hồi giáo ở đây - vùng Lưỡng Hà. Đạo Hồi (Ixlam) bắt đầu được truyền bá đến I-ran và Trung Á, lạp nên một vương quốc Hồi giáo nữa trên vùng giáp Tây Bắc Ấn Độ. Người Hồi giáo gốc Trung Á bắt đầu tiến hành một cuộc chinh chiến vào đất Ấn Độ, từng bước chinh phục các tiểu quốc Ân rồi lập nên Vương quốc Hồi giáo Ấn Độ, gọi tên là Đê-li (do vua đóng đô ở Đê-li, một thành phố Bắc An). Trong hơn 300 năm tồn tại và phát triển, Vương triều Hồi giáo Đê-li (1206 - 1526) đã truyền bá, áp đặt Hồi giáo vào những cư dân theo Phật giáo và Hinđu giáo, tự dành cho mình những ưu tiên về ruộng đất, địa vị trong bộ máy quan lại. Ví như ngoài thuế ruộng đất (1/5 thu hoạch), những người không theo đạo Hồi phải nộp thêm một khoản, gọi là ""thuế ngoại đạo jaziah"". Mặc dù các ông vua đã cố gắng thực thi nhiều chính sách mềm mỏng để giữ yên đất nước, nhưng sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo không thệ làm tan đi nỗi bất bình của nhân dân. Mặt khác, một yếu tố văn hoá mới - văn hoá Hồi giáo - cũng được du nhập vào Ấn Độ, vốn đã có một nền văn hoá rất phong phú và đa dạng. Có một số công trình kiến trúc do chính quyền Hồi giáo xây dựng, mang đậm dấu ấn kiến trúc Hồi giáo. Trải qua 6 đời vua, chinh chiến nhiều hơn xây dựng, nhưng kinh đô Đê-li cũng đã trở thành ""một trong những thành phố lớn nhất thế giới ở thế kỉ XIV, như một người đương thời nhận xét sau khi đã đi rất nhiều nơi. Điều quan trọng ở đây là sự phát hiện nhau giữa hai nền văn minh đặc sắc là Ấn Độ Hinđu giáo và Ả-rập Hồi giáo. Sự giao lưu văn hoá Đông - Tây cũng được thúc đẩy hơn. Điều không kém quan trọng nữa là thời Vương triều Hồi giáo Đê-li cũng là thời mà các thương nhân Ấn Độ mang đạo Hồi đến một số nơi, một số nước ở Đông Nam Á, nơi mà một vài cộng đồng nhỏ Hồi giáo Ả-rập mang đến từ trước đã được gia tăng sâu đậm hơn với thương nhân Ấn Độ theo đạo Hồi." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Ấn Độ đã trải qua một thời kì phát triển, nhất là về văn hoá truyền thống, nhưng sự phân tán không đem lại sức mạnh thống nhất để người Ấn Độ có thể chống cự được cuộc tấn công từ bên ngoài của người Hồi giáo gốc Thổ. Năm 1055, thủ lĩnh của người Thổ dẫn quán đánh chiếm Bát-đa, rồi cải theo Hồi giáo, lập nên một vương quốc Hồi giáo ở đây - vùng Lưỡng Hà. Đạo Hồi (Ixlam) bắt đầu được truyền bá đến I-ran và Trung Á, lạp nên một vương quốc Hồi giáo nữa trên vùng giáp Tây Bắc Ấn Độ. Người Hồi giáo gốc Trung Á bắt đầu tiến hành một cuộc chinh chiến vào đất Ấn Độ, từng bước chinh phục các tiểu quốc Ân rồi lập nên Vương quốc Hồi giáo Ấn Độ, gọi tên là Đê-li (do vua đóng đô ở Đê-li, một thành phố Bắc An). Trong hơn 300 năm tồn tại và phát triển, Vương triều Hồi giáo Đê-li (1206 - 1526) đã truyền bá, áp đặt Hồi giáo vào những cư dân theo Phật giáo và Hinđu giáo, tự dành cho mình những ưu tiên về ruộng đất, địa vị trong bộ máy quan lại. Ví như ngoài thuế ruộng đất (1/5 thu hoạch), những người không theo đạo Hồi phải nộp thêm một khoản, gọi là ""thuế ngoại đạo jaziah"". Mặc dù các ông vua đã cố gắng thực thi nhiều chính sách mềm mỏng để giữ yên đất nước, nhưng sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo không thệ làm tan đi nỗi bất bình của nhân dân. Mặt khác, một yếu tố văn hoá mới - văn hoá Hồi giáo - cũng được du nhập vào Ấn Độ, vốn đã có một nền văn hoá rất phong phú và đa dạng. Có một số công trình kiến trúc do chính quyền Hồi giáo xây dựng, mang đậm dấu ấn kiến trúc Hồi giáo. Trải qua 6 đời vua, chinh chiến nhiều hơn xây dựng, nhưng kinh đô Đê-li cũng đã trở thành ""một trong những thành phố lớn nhất thế giới ở thế kỉ XIV, như một người đương thời nhận xét sau khi đã đi rất nhiều nơi. Điều quan trọng ở đây là sự phát hiện nhau giữa hai nền văn minh đặc sắc là Ấn Độ Hinđu giáo và Ả-rập Hồi giáo. Sự giao lưu văn hoá Đông - Tây cũng được thúc đẩy hơn. Điều không kém quan trọng nữa là thời Vương triều Hồi giáo Đê-li cũng là thời mà các thương nhân Ấn Độ mang đạo Hồi đến một số nơi, một số nước ở Đông Nam Á, nơi mà một vài cộng đồng nhỏ Hồi giáo Ả-rập mang đến từ trước đã được gia tăng sâu đậm hơn với thương nhân Ấn Độ theo đạo Hồi." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Thế kỉ XV, Vương triều Hồi giáo Đê-li bắt đầu suy yếu, thi cũng là lúc mà một bộ phận dân Trung Á khác do thủ linh - vua là Ti-mua Leng chỉ huy, cũng theo đạo Hồi nhưng lại tự nhận là dòng dõi Mông cổ, bắt đầu tấn công Ấn Độ từ năm 1398. Tuy thế, phải đến cháu nội của ông là Ba-bua mới thực hiện được việc đánh chiếm Đê-li, lập ra một vương triều mới, gọi là Vương triều Mô-gôn (gốc Mông cổ). Vương triều Mô-gôn (1526 - 1707) là thời kì cuối cùng của chế độ phong kiến Ấn Độ. Tuy là thời kì cuối cùng, nhưng không phải chí có khủng hoảng, suy thoái và tan rã. Thật vậy, các vị vua thời kì đầu đã ra sức củng cố vương triều theo hướng ""Ấn Độ hoá và xây dựng đất nước. Đến thời trị vì của vị vua thứ tư là A-cơ-ba, Ấn Độ đạt được bước phát triển mới. Trong nửa thế kỉ trị vì, A-cơ-ba (1556 - 1605) đã thi hành một số chính sách tích cực: - Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, dựa trên sự liên kết tầng lớp quý tộc, không phán biệt nguồn gốc, số quan lại gốc Mông cổ (thực ra là gốc Trung Á Hồi giáo), gốc Ấn Độ Hồi giáo và cả gốc Ấn Độ Ân giáo, có ti lệ gần như bằng nhau; - Xây dựng khối hoà hợp dân tộc trên cơ sở hạn chế sự phân biệt sắc tộc, tôn giáo và cũng có biện pháp hạn chế sự bóc lột quá đáng của chủ đất, quý tộc; - Tiến hành đo đạc lại ruộng đất để định ra mức thuế đúng và hợp lí, thống nhất các hệ thống cân đong và đo lường; - Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo văn hoá, nghệ thuật." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Những chính sách đó làm cho xã hội Ấn Độ ổn định, kinh tê phát triển, văn hoá có nhiều thành tựu mới, đất nước thịnh vượng. A-cơ-ba được coi như là một vị anh hùng dân tộc; ngày nay tên ông được đặt cho nhiều đường phố, công trình, xứng với danh hiệu của ông là Đấng Chí tôn A-cơ-ha. Tuy nhiên, hầu hết các vua của vương triều này đều dùng quyển chuyện chế, độc đoán để cai trị một đất nước rộng lớn nhưng rất đa dạng, phân tán. Một số vị vua đã dùng biện pháp đàn áp quyết liệt, hình phạt khắc nghiệt để bắt dân chúng phục tùng, đóng thuế và lao dịch nặng nề, bắt các quý tộc có ý chống đối phải vâng lời. Con và cháu của A-cơ-ba là Gia-han- ghi-a (1605 - 1627) và Sa Gia-han (1627 - 1658) đã chiếm đoạt rất nhiều của cải. Đê chứng tỏ quyền lực, ý muốn của mình, các ông đã cho khởi công xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là lăng mộ Ta-giơ Ma-ha thời Sa Gia-han, trên hai bờ sông Y-a-1 và lâu đài Thành Đỏ (La Ki-l, dưới j-na ở Bắc Ấn Độ. Những công trình đó đã trở thành di sản văn hoá bất hủ, niềm tự hào vĩnh cửu về sự sáng tạo, niềm xúc động sâu sắc và tình cảm cao quý của con người. Nhưng Gia-han-ghi-a và Sa Gia-han đã làm cho sự đối kháng của nhân dân tăng thêm, do lạm dụng quyền lực, công quỹ cùng sức lao động của dân. Hai ông vua này hầu như đã đốt cháy tất cả thành quả của vua A-cơ-ba. ít lâu sau, tình trạng chia rẽ và khủng hoảng xuất hiện trở lại. Trong lúc đó, thực dân Bồ Đào Nha đến từ thời kì đầu vương triều và ngày càng nhiều, nhất là dưới thời Sa Gia-han. Họ đã lập các điểm buôn bán như Điu, Đa-man... Vua cuối của Vương triều là Ao-reng-dép đã phải đối diện với thực dân Anh và bước đầu để mất Ma-đrát, Bom-bay." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Những chính sách đó làm cho xã hội An Độ ốn định, kinh tê phát triến, văn hoá có nhiều thành tựu mới, đất nước thịnh vượng. A-cơ-ba được coi như là một vị anh hùng dân tộc; ngày nay tên ông được đặt cho nhiều đường phố, công trình, xứng với danh hiệu của ông là Đấng Chí tôn A-cơ-ha. Tuy nhiên, hầu hết các vua của vương triều này đều dùng quyển chuyện chế, độc đoán để cai trị một đất nước rộng lớn nhưng rất đa dạng, phân tán. Một số vị vua đã dùng biện pháp đàn áp quyết liệt, hình phạt khắc nghiệt để bắt dân chúng phục tùng, đóng thuế và lao dịch nặng nề, bắt các quý tộc có ý chống đối phải vâng lời. Con và cháu của A-cơ-ba là Gia-han- ghi-a (1605 - 1627) và Sa Gia-han (1627 - 1658) đã chiếm đoạt rất nhiều của cải. Đê chứng tỏ quyền lực, ý muốn của mình, các ông đã cho khởi công xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là lăng mộ Ta-giơ Ma-ha thời Sa Gia-han, trên hai bờ sông Y-a-1 và lâu đài Thành Đỏ (La Ki-l, dưới j-na ở Băc An Độ. Những công trình đó đã trở thành di sản văn hoá bất hủ, niềm tự hào vĩnh cửu về sự sáng tạo, niềm xúc động sâu sắc và tình cảm cao quý của con người. Nhưng Gia-han-ghi-a và Sa Gia-han đã làm cho sự đối kháng của nhân dân tăng thệm, do lạm dụng quyền lực, công quỹ cùng sức lao động của dân. Hai ông vua này hầu như đã đốt cháy tất cả thành quả của vua A-cơ-ba. ít lâu sau, tình trạng chia rẽ và khủng hoảng xuất hiện trở lại. Trong lúc đó, thực dân Bồ Đào Nha đến từ thời kì đầu vương triều và ngày càng nhiều, nhất là dưới thời Sa Gia-han. Họ đã lập các điểm buôn bán như Điu, Đa-man... Vua cuối của Vương triều là Ao-reng-dép đã phải đối diện với thực dân Anh và bước đầu để mất Ma-đrát, Bom-bay." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mặc dù các chiến lược cụ thể mang những tên gọi khác nhau, nhưng chiến lược toàn cầu của Mĩ nhằm thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu: một là, ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên thế giới; hai là, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, phong trào chống chiến tranh, vì hoà bình, dân chủ trên thế giới; ba là, không chế, chi phối các nước tư bản đồng minh của Mĩ. Để thực hiện các mục tiêu chiến lược trên đây, chính sách cơ bản của Mĩ là dựa vào sức mạnh, trước hết là sức mạnh quân sự và kinh tế. Mĩ đã khởi xướng cuộc Chiến tranh lạnh trên phạm vi thế giới, dân đến tình trạng đối đầu căng thẳng với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mĩ trục tiếp gây ra hoặc tiếp tay cho nhiều cuộc chiến tranh và bạo loạn, lột đổ ở nhiều nơi trên thế giới, tiêu biểu là việc tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 - 1975) và dính líu vào cuộc chiến tranh ở Trung Đông. Tháng 2 - 1972, Tổng thống Mĩ R. Níchxơn sang thăm Trung Quốc, mở ra một thời kì mới trong quan hệ giữa hai nước. Năm 1979, quan hệ ngoại giao giữa Mĩ và Trung Quốc được thiết lập. Tháng 5 - 1972, R. Níchxơn tới thăm Liên Xô, thực hiện sách lược hoà hoãn với hai nước lớn để chống lại phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc. Phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ là một trong những nguyên nhân buộc chính quyền Mĩ phải có những nhượng bộ có lợi cho quần chúng. Trước thắng lợi của nhân dân Việt Nam và chịu sức ép của phong trào phản chiến ở Mĩ, chính quyền Níchxơn phải kí Hiêp định Pari (1973) chấm dứt chiến tranh xâm lược Viêt Nam và rút hết quân về nước" 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Năm 1973, do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, kinh tế Mĩ lâm vào một cuộc khủng hoảng và suy thoái, kéo dài tới năm 1982. Năng suất lao động trung bình hàng năm từ năm 1974 đến năm 1981 giám xuống còn 0,43%. Tỉ lệ lạm phát năm 1973 - 1974 tù 9% lên 12% và đến năm 1976 là 40%; đồng đôla đã phái phá giá hai lân. Từ năm 1983 trở đi, kinh tế Mĩ phục hồi và phát triển trở lại, nhưng cũng chỉ ở tốc độ trung bình so với Tây Âu và Nhật Bản. Tuy vẫn là nước đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế - tài chính, nhưng tỉ trọng của kinh tế Mĩ giảm sút nhiều so với trước. Cuố'i những năm 80, Mĩ chỉ chiếm 23% tổng sản phẩm kinh tế thế giới. Các ngành công nghiệp như luyện thép, dệt bị suy thoái, ngành công nghiệp ô tô chao đáo vỉ cuộc cạnh tranh với các công ti chế tạo ô tô của Nhật Bản. Khoa học - kĩ thuật Mĩ tiếp tục phát triển, nhưng ngày càng bị cạnh tranh ráo riết bởi Tây Âu, Nhật Bản." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Về đối nội, từ năm 1974 đến năm 1991, nước Mĩ đã trải qua bốn đời tổng thống, từ G. Pho đến G. Busơ (ch. Sự thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã tác động lớn đến nước Mĩ. Tháng 9 - 1974, Tổng thống G. Pho ra lệnh ân xá cho cựu Tổng thống Níchxơn (vì vụ Oatơghết), khoan hổng đối với những người đào ngũ và trốn quân dịch trong thời kì chiến tranh Việt Nam. Trong thập niên 80, Mĩ thực hiện Học thuyết kinh tế Rigân, đạt được một số kết quả nhất định, nhưng nước Mĩ vẫn tiếp tục vấp phải nhiều khó khăn. Về đối ngoại, sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, các chính quyền Mĩ vẫn tiếp tục triển khai chiến lược toàn cầu và theo đuổi Chiến tranh lạnh. Đặc biệt với Học thuyết Rigân và chiến lược ""Đối đầu trực tiếp"", Mĩ tăng cường chạy đua vũ trang, can thiệp vào các công việc quốc tế ở hầu hết các địa bàn chiến lược và điểm nóng trên thế giới.  Từ giữa những năm 80, Mĩ và Liên Xô đều điều chỉnh chính sách đối ngoại. Xu hướng đối thoại và hoà hoãn ngày càng chiếm ưu thế trên thế giới. Tháng 12 - 1989, Mĩ và Liên Xô đã chính thức tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh, mở ra thời kì mới trên trường quốc tế. Cùng với điều đó, Mĩ và các nước phương Tây cũng ra sức tác động vào quá trình khủng hoảng, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô (1989 - 1991). Mĩ cũng đã giành được thắng lợi trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh chống Irắc (1990 - 1991)." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Bước vào những năm đầu tiên của thập kỉ 90, kinh tế Mĩ lại lâm vào một đợt suy thoái nặng nề. Tuy nhiên, trong hai nhiệm kì cầm quyền của Tổng thống B. Clintơn (từ tháng 1 - 1993 đến tháng 1 - 2001), kinh tế Mĩ đã có sự phục hồi và phát triển trở lại. Mĩ vẫn là nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới. GDP của Mĩ năm 2000 là 9 765 tỉ USD, bình quân GDP đầu người là 34 600 USD. Nước Mĩ tạo ra 25% giá trị tổng sản phẩm của toàn thế giới và có vai trò chi phối trong hầu hết các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (W), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) v.v... Khoa học - kĩ thuật của Mĩ vẫn tiếp tục phát triển với đội ngũ các chuyện gia đông nhất thế giới. Tính chung, Mĩ chiếm tới 1 /3 số lượng bán quyền phát minh sáng chế của toàn thế giới. Mĩ dân đâu về số lượt người nhận giải Nôben (286/755, tính đến năm 2003). Tính đa văn hoá là nét nổi bật trong nền văn hoá Mĩ. Mặc dù mới trải qua hơn 200 năm phát triển, Mĩ đã đạt được nhiều thành tựu văn hoá rất đáng chú ý." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mĩ có kinh đô điện ánh Hôliút và giải thưởng ôxca rất uy tín. Trong văn học, Mĩ được 11 giải Nôben (chỉ thua Pháp). Mĩ là một trong những cường quốc thể thao hàng đâu thế giới. Về âm nhạc, giải Grammy có tiếng vang và ảnh hưởng quan trọng đến nhạc trẻ toàn thế giới. Về đối nội, chính quyền B. Clintơn ""cố gắng ứng dụng ba giá trị: cơ hội, trách nhiệm và cộng đồng để vượt qua những thử thách"". Theo đó, chính quyền cố gắng tạo cơ hội thệm nhiều việc làm, mở rộng thị trường và tập trung đầu tư cho con người; đồng thời đòi hỏi việc nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, của chính phủ và của toàn xã hội trên cơ sở đoàn kết cộng đồng gia đình, láng giềng, dân tộc. Về đối ngoại, trong bối cảnh Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới mới chưa định hình, ở thập kỉ 90 Mĩ đã triển khai chiến lược ""Cam kết và mở rộng với ba trụ cột chính là: 1 - Bảo đảm an ninh với một lực lượng quân sự mạnh và sẵn sàng chiến đấu cao. 2 - Tăng cường khôi phục và phát triển tính năng động và sức mạnh nền kinh tế Mĩ. 3 - Sử dụng khẩu hiệu ""dân chủ như một công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mĩ vẫn lãnh đạo và chi phối khối quân sự NATO; Mĩ cùng Liên hợp quốc và các cường quốc khác báo trợ cho tiến trình hoà bình ở Trung Đông, nhưng vẫn có sự thiên vị đối với Ixraen; Mĩ đã ủng hộ việc kí kết Hiệp định hoà bình Pari về Campuchia (1991)... Nhưng Mĩ vẫn duy trì các căn cứ quân sự và quân đội ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới. Với sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học - kĩ thuật vượt trội, trong bối cảnh Liên Xô tan rã, Mĩ có tham vọng thiết lập một trật tự thế giới ""đơn cực"", trong đó Mĩ là siêu cường duy nhất đóng vai trò chi phối và lãnh đạo. Tuy nhiên, thế giới không chấp nhận một trật tự do Mĩ đơn phương sắp đặt. Vụ khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 cho thấy nước Mĩ cũng rất dễ bị tổn thương và chủ nghĩa khủng bố sẽ là một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại của Mĩ khi bước vào thế kỉ XXI. Mĩ bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 11 - 7 - 1995." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Ấn Độ đã trải qua một thời kì phát triển, nhất là về văn hoá truyền thống, nhưng sự phán tán không đem lại sức mạnh thống nhất đề người Ấn Độ có thể chống cự được cuộc tấn công từ bên ngoài của người Hồi giáo gốc Thố (Tuố. Năm 1055, thủ lĩnh của người Thổ dẫn quán đánh chiếm Bát-đa, rồi cải theo Hồi giáo, lập nên một vương quốc Hồi giáo ở đấy - vùng Lưỡng Hà. Đạo Hồi (Ixlam) bắt đầu được truyền bá đến I-ran và Trung Á, lạp nên một vương quốc Hồi giáo nữa trên vùng giáp tây Bắc Ấn Độ. Người Hồi giáo gốc Trung Á bắt đầu tiến hành một cuộc chinh chiến vào đất Ấn Độ, từng bước chinh phục các tiểu quốc Ân rồi lập nên Vương quốc Hồi giáo Ấn Độ, gọi tên là Đê-li (do vua đóng đô ở Đê-li, một thành phố Bắc An). Trong hơn 300 năm tồn tại và phát triển, Vương triều Hồi giáo Đê-li (1206 - 1526) đã truyền bá, áp đặt Hồi giáo vào những cu' dân theo Phật giáo và Hinđu giáo, tự dành cho mình những ưu tiên về ruộng đất, địa vị trong bộ máy quan lại. Ví như ngoài thuế ruộng đất (1/5 thu hoạch), những người không theo đạo Hồi phải nộp thêm một khoản, gọi là ""thuế ngoại đạo -jaziah. Mặc dù các ông vua đã cố gắng thực thi nhiều chính sách mềm mỏng đề giữ yên đất nước, nhưng sự phán biệt sắc tộc và tôn giáo không thế làm tan đi nỗi bất bình của nhân dân. Mặt khác, một yếu tố văn hoá mới - văn hoá Hồi giáo - cũng được du nhập vào Ấn Độ, vốn đã có một nền văn hoá rất phong phú và đa dạng. Có một số công trình kiến trúc do chính quyền Hồi giáo xây dựng, mang đậm dấu ấn kiến trúc Hồi giáo. Trải qua 6 đời vua, chinh chiến nhiều hơn xây dựng, nhưng kinh đô Đê-li cũng đã trở thành ""một trong những thành phố lớn nhất thế giới ở thế kỉ XIV, như một người đương thời nhận xét sau khi đã đi rất nhiều nơi. Điều quan trọng ở đấy là sự phát hiện nhau giữa hai nền văn minh đặc sắc là Ấn Độ Hinđu giáo và Ả-rập Hồi giáo. Sự giao lưu văn hoá Đông - tây cũng được thức đẩy hơn. Điều không kém quan trọng nữa là thời Vương triều Hồi giáo Đê-li cũng là thời mà các thương nhân Ấn Độ mang đạo Hồi đến một số nơi, một số nước ở Đông Nam Á, nơi mà một vài cộng đồng nhỏ Hồi giáo Ả-rập mang đến từ trước đã được gia tăng sâu đậm hơn với thương nhân Ấn Độ theo đạo Hồi." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Thế kỉ XV, Vương triều Hồi giáo Đê-li bắt đầu suy yêu, thi cũng là lúc mà một bộ phận dân Trung Á khác do thủ linh - vua là Ti-mua Leng chỉ huy, cũng theo đạo Hồi nhưng lại tự nhận là dòng dõi Mông cổ, bắt đầu tấn công Ấn Độ từ năm 1398. Tuy thế, phải đến cháu nội của ông là Ba-bua mới thực hiện được việc đánh chiếm Đê-li, lập ra một vương triều mới, gọi là Vương triều Mô-gôn (gốc Mông cổ). Vương triều Mô-gôn (1526 - 1707) là thời kì cuối cùng của chế độ phong kiến Ấn Độ. Tuy là thời kì cuối cùng, nhưng không phải chí có khủng hoảng, suy thoái và tan rã. Thật vậy, các vị vua thời kì đầu đã ra sức củng cố vương triều theo hướng ""Âi Độ hoá và xây dựng đất nước. Đến thời trị vì cùa vị vua thứ tư là A-cơ-ba, Ấn Độ đạt được bước phát triển mới. Trong nửa thế kỉ trị vì, A-cơ-ba (1556 - 1605) đã thi hành một số chính sách tích cực: - xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, dựa trên sự liên kết tầng lớp quý tộc, không phán biệt nguồn gốc, số quan lại gốc Mông cổ (thực ra là gốc Trung Á Hồi giáo), gốc Ấn Độ Hồi giáo và cả gốc Ấn Độ Ân giáo, có ti lệ gần như bằng nhau; - xây dựng khối hoà hợp dân tộc trên cơ sở hạn chế sự phán biệt sắc tộc, tôn giáo và cũng có biện pháp hạn chế sự bóc lột quá đáng của chủ đất, quý tộc; - Tiến hành đo đạc lại ruộng đất đề định ra mức thuế đúng và hợp lí, thống nhất các hệ thống cần đong và đo lường; - Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo văn hoá, nghệ thuật." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 7: Sự phát triển lịch sử và nền văn h6a đa dạng của Ấn Độ,"Những chính sách đó làm cho xã hội An Độ ốn định, kinh tê phát triến, văn hoá có nhiều thành tựu mới, đất nước thịnh vượng. A-cơ-ba được coi như là một vị anh hùng dân tộc; ngày nay tên ông được đặt cho nhiều đường phố, công trình, xứng với danh hiệu của ông là Đấng Chí tôn A-cơ-ha. Tuy nhiên, hầu hết các vua của vương triều này đều dùng quyền chuyên chế, độc đoán đề cai trị một đất nước rộng lớn nhưng rất đa dạng, phán tán. Một số vị vua đã dùng biện pháp đàn áp quyết liệt, hình phạt khắc nghiệt đề bắt dân chúng phục từng, đóng thuế và lao dịch nặng nề, bắt các quý tộc có ý chống đối phải vẫng lời. Con và cháu của A-cơ-ba là Gia-han- ghi-a (1605 - 1627) và Sa Gia-han (1627 - 1658) đã chiếm đoạt rất nhiều của cải. Đê chứng tỏ quyền lực, ý muốn của mình, các ông đã cho khởi công xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là lăng mộ Ta-giơ Ma-ha thời Sa Gia-han, trên hai bờ sông Y-a-1 và lâu đài Thành Đỏ (La Ki-l, dưới j-na ở Băc An Độ. Những công trình đó đã trở thành di sản văn hoá bất hủ, niềm tự hào vĩnh cửu về sự sáng tạo, niềm xúc động sâu sắc và tình cảm cao quý của con người. Nhưng Gia-han-ghi-a và Sa Gia-han đã làm cho sự đối kháng của nhân dân tăng thêm, do lạm dụng quyền lực, công quỹ cùng sức lao động của dân. Hai ông vua này hầu như đã đốt cháy tất cả thành quả của vua A-cơ-ba. ít lâu sau, tình trạng chia rẽ và khủng hoảng xuất hiện trở lại. Trong lúc đó, thực dân Bồ Đào Nha đến từ thời kì đầu vương triều và ngày càng nhiều, nhất là dưới thời Sa Gia-han. Họ đã lập các điểm buôn bản như Điu, Đa-man... Vua cuối của Vương triều là Ao-reng-dép đã phải đối diện với thực dân Anh và bước đầu đề mất Ma-đrát, Bom-bay." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ. Trong khoáng nửa sau những năm 40, tổng sản phâm quốc dân tăng trung bình hàng năm là 6%. Sản lượng công nghiệp Mĩ chiếm tối hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giối (hơn 56% năm 1948). Sản xuất nông nghiệp tăng 27% so với trưốc chiến tranh. Năm 1949, sản lượng nông nghiệp Mĩ bằng 2 lần sản lượng của 5 nước Anh, Pháp, CHLB Đúc, Italia và Nhật Bản cộng lại. Mĩ có hơn 50% tàu bè đi lại trên mặt biển, 3/4 dụ trữ vàng của thế giối (khoáng 24,6 tỉ USD, năm 1949) và nền kinh tế Mĩ chiếm gân 40% tổng sản phâm kinh tế thế giối. Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới. Sở dĩ kinh tế Mĩ có được sự phát triển và sức mạnh to lớn như vậy là do một số yếu tố sau: 1 - Lãnh thổ Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu khá thuận lợi. 2 - Mĩ có nguồn nhân lực dổi dào, trình độ kĩ thuật cao. 3 - Mĩ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai muộn hơn, tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác. Hơn nữa, Mĩ còn lợi dụng chiến tranh đề làm giàu, thu lợi nhuận từ buôn bản vũ khí. 4 - Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại của thế giới. Việc áp dụng thành công những thành tựu của cuộc cách mạng này đã cho phép Mĩ nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất. 5 - Trình độ tập trung tư bản và sản xuất ở Mĩ rất cao. Các tổ hợp công nghiệp - quân sự, các công ti, và tập đoàn tư bản lũng đoạn Mĩ (như Giênêran Môtơ, Pho, Rốccơpheolơ...) có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và hiệu quả ở cả trong và ngoài nước. 6 - Các chính sách và biện pháp điều tiết của Nhà nước có vai trò quan trọng thức đẩy kinh tế Mĩ phát triển." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Mĩ đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nhà khoa học nổi tiếng của thế giới đã di cư sang Mĩ. đấu tư cho giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Mĩ rất lớn. Mĩ là một trong những nước đi đầu trong các lĩnh vực chế tạo công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động), vật liệu mới (pôlime, vật liệu tổng hợp), năng lượng mới (năng lượng nguyên tử, nhiệt hạch), sản xuất vũ khí (bom nguyên tử, bom khinh khí, tên lửa đạn đạo), chinh phục vũ trụ (đưa người lên Mặt Trăng năm 1969, thám hiểm sao Hoả) và đi đầu cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp v.v... Những thành tựu đó không chỉ thức đẩy kinh tế Mĩ phát triển mà còn có ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới. Mĩ là nước cộng hoà liên bang theo chế độ tổng thống. Hai đảng Dân chủ và Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Về đối nội, từ năm 1945 đến đầu những năm 70, nước Mĩ đã trải qua 5 đời tổng thống (từ H. Truman đến R. Níchxơn), mỗi tổng thống đều đưa ra một chương trình cải cách những vấn đề xã hội." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Tổng thống H. Truman triển khai ""chương trình cái cách công bằng""; Đ. Aixenhao quan tâm phát triển hệ thống xa lộ toàn liên bang và tiến hành những cái cách quan trọng về giáo dục; G. Kennơđi tiến hành việc tu chính (lân thứ 23) Hiến pháp theo hướng tiến bộ hơn; L. Giônxơn đưa ra chương trình ""xã hội vĩ đại với cuộc chiến chống đói nghèo; R. Níchxơn triển khai chính sách mới về lương, giá cá, phán bổ lại ngân sách; thông qua các đạo luật về báo vệ môi trường, về sự an toàn của sản phâm tiêu dùng v.v... Mặt khác, trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh, cũng như đứng trước phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ, chính sách đối nội của các chính quyền Mĩ là tập trung duy trì, bảo vệ và phát triển chế độ tư bản Mĩ. Luật Táp - Háclấy (1947) mang tính chât chống công đoàn rõ rệt; sự hoành hành của ""chủ nghĩa Mác Cácti đấu những năm 50 rât tiêu biểu cho xu hướng chống cộng sản ở Mĩ. Tuy là nước tư bản phát triển, là trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới, khoa học - kĩ thuật phát triển, mức sống của người dân được nâng cao, nhưng nước Mĩ vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,"Vào buổi đầu thời cận đại, văn học, nghệ thuật, tu tuồng có vai trò quan trọng trong việc tấn công vào thành trì của chế độ phong kiến và hình thành quan điểm, tu tuồng của con người tu sản. Về văn học, đấy là thời kì xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ lớn. ở phương tây, tiêu biểu là ở Pháp, trong thế kỉ XVII đã xuất hiện các nhà văn, nhà thơ lớn. Coóc-nấy (1606 - 1684) là đại biểu xuất sắc cho nền bị kịch cổ điển Pháp. La Phông-ten (1621 - 1695) là nhà ngụ ngôn và nhà văn cổ điển Pháp; các tác phẩm của ông có tác dụng giáo dục đối với mọi lứa tuổi, mọi thời đại. Mô-li-e (1622 - 1673) là tác giả nổi tiếng của nền hài kịch cổ điển Pháp; các tác phẩm của ông thể hiện khát vọng công bằng, cuộc sống tốt đẹp của loài người. Về âm nhạc có Bét-tô-ven - nhà soạn nhạc thiên tài người Đức. Sáng tác của ông thấm đượm tinh thần dân chủ, cách mạng, trong đó nổi tiếng là những bản giao hưởng số 3, số 5, số 9. Ngoài ra, còn có Mô-da (1756 - 1791) - nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo - người có những cống hiến to lớn cho nghệ thuật hợp xướng.  Về hội họa, Rem-bran (1606 -1669) là hoạ sĩ, nhà đổ hoạ Hà Lan nổi tiếng thế kỉ XVII về tranh chân dung, tranh phong cảnh với nhiều chất liêu - sơn dầu, khắc kim loại... Về tư tưởng, trào lưu Triết học Ánh sáng thế kỉ XVII - XVIII đã sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng lớn các nhà Khai sáng, có vai trò quan trọng trong sự thắng lợi của Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII và sự phát triển tư tưởng của Châu Âu. Đó là Mông-te-xki-ơ (1689 - 1755), Vôn-te (1694 - 1778), Rút-xô (1712 - 1778), nhà tư tưởng cấp tiến Mê-li-ê (1644 - 1729) và nhóm Bách khoa toàn thư do Đi-đơ-rô (1713 -1784) đứng đầu. Các nhà Khai sáng thế kỉ XVII - XVIII được xem như ""những người đi trước dọn đường cho Cách mạng Pháp 1789 thắng lợi""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Những thành tựu văn h6a thời cận đại,Bài 7: Những thành tựu văn h6a thời cận đại," Về văn học Thời kì từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến trên phạm vi thế giới và chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. ở phương tây, khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị và mở rộng việc xâm chiếm, đô hộ các nước thuộc địa thì đời sống của nhân dân lao động bị áp bức ngày càng khốn khổ. Nhiều nhà văn, nhà thơ, những người hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật đã phản ánh khá đầy đủ, toàn diện hiện thực xã hội trong tác phẩm của mình. Vích-to Huy-gô (1802 - 1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyốt, nhà viốt kịch Pháp. Các tác phẩm của ông, đặc biệt xuất sắc là tiểu thuyốt Những ngỗời khốn khổ, thể hiện lòng yêu thương vô hạn đối với những con người đau khổ, mong tìm những giải pháp đem lại hạnh phúc cho họ. Lép Tôn-xtôi (1828 -1910), nhà văn Nga, nổi tiếng với các tác phẩm: Chiến tranh và Hoà bình, An-na Ka-rê-ni-na, Phục sinh. Với chủ nghĩa hiện thực phê phán, qua các tác phẩm của mình, Tôn-xtôi đã chống lại trật tự xã hội phong kiến Nga hoàng, ca ngợi phẩm chất của người dân Nga trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lê-nin đã đánh giá các tác phẩm của Tôn-xtôi như ""tấm gương phản chiếu cách mạng Nga"". Mác Tuên (1835 -1910) là nhà văn lớn của Mĩ vào thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, với các tác phẩm nổi tiếng như: Những ngỗời I-nô-xăng đi du lịch, Những cuộc phiêu lỗu của Tôm Xoay-Ơ. Bằng ngòi bút trào phúng, hài hước, mang tinh thần phê phán sâu sắc, Mác Tuên đã miêu tả chân thực cuộc sống xã hội Mĩ lúc bấy giờ, thể hiện lòng yêu thương với con người, trước hệt là nhân dân lao động nghèo khổ. Ngoài ra, còn có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác, như Pu-skin (Nga, 1799 - 1837), Ban-dắc (Pháp, 1799 - 1850), An-đéc-xen (Đan Mạch, 1805 - 1875); còn có thể kể đến Mô-pát-xăng (Pháp, 1850 - 1893), Sê-khốp (Nga, 1860 - 1904), Giắc Lơn-đơn (Mĩ, 1876 -1916), Béc-tơn Brểch (Đức, 1898 - 1956),... Các tác phẩm của họ đã phản ánh khá rõ nét đời sống nhân dân đương thời, đặc biệt là của những người lao động nghèo khổ. ở các nước phương Đông, văn học cũng có những bước tiến bộ rõ rệt, phản ánh cuộc sống của nhân dân dưới ách thực dân phong kiên, lòng khát khao và ý chí anh hùng, quật khởi trong đấu tranh cho độc lập, tự do. Ra-bịn-đra-nát Ta-go là nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Ông đề lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyốt, nhiều truyện ngắn, luận văn, bút kí, ca khúc và tranh vẽ, tiêu biểu là tập Thơ Dâng (đoạt giải Nôben năm 1913). Các sáng tác của ông thể hiện rõ lòng yêu nước, yêu hoà bình và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Hô -xê Ri-dan, nhà văn, nhà thơ lớn của Phi-líp-pin, với tác phẩm tiêu biểu như Đừng động vào tôi, đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và miêu tả cuộc kháng chiến giành độc lập của nhân dân Phi-líp-pin. Hô-xê Mác-ti, nhà văn Cu-ba, tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh, niềm tin vào thắng lợi của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân Cu-ba cũng như khu vực Mĩ Latinh." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 7: Nước Mĩ,"Bước vào những năm đầu tiên của thập kỉ 90, kinh tế Mĩ lại lâm vào một đợt suy thoái nặng nề. Tuy nhiên, trong hai nhiêm kì cầm quyền của Tổng thống B. Clintơn (từ tháng 1 - 1993 đến tháng 1 - 2001), kinh tế Mĩ đã có sự phục hồi và phát triển trở lại. Mĩ vẫn là nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới. GDP của Mĩ năm 2000 là 9 765 tỉ USD, bình quân GDP đấu người là 34 600 USD. Nước Mĩ tạo ra 25% giá trị tổng sán phâm của toàn thế giới và có vai trò chi phối trong hầu hết các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (W, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) v.v... Khoa học - kĩ thuật của Mĩ vẫn tiếp tục phát triển với đội ngũ các chuyên gia đông nhất thế giới. Tính chung, Mĩ chiếm tới 1 /3 số lượng bản quyền phát minh sáng chế của toàn thế giới. Mĩ dân đấu về số lượt người nhộn giái Nôben (286/755, tính đến năm 2003). Tính đa văn hoá là nét nổi bật trong nền văn hoá Mĩ. Mặc dù mới trải qua hơn 200 năm phát triển, Mĩ đã đạt được nhiều thành tựu văn hoá rất đáng chú ý." 10 + 11 + 12,Chương 5: Đông Nam Á thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là một khu vực địa lí - lịch sử - văn hoá riêng biệt và còn được gọi là khu vực Châu Á gió mùa. Gió mùa kèm theo mưa rất thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Trên cơ sở phát triển của đồ sắt và nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, từ những thế kỉ đầu của Công nguyên, các vương quốc cổ đầu tiên đã được hình thành ở Đông Nam Á; tiếp đó đến khoảng thế kỉ IX - X, các quốc gia phong kiến Đông Nam Á được xác lập và phát triển thịnh đạt cho tới nửa đầu thế kỉ XVIII." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Đông Nam Á là một khu vực khá rộng, bị chia cắt bởi những dãy núi, rừng nhiệt đới và biển. Vì thế, ở đây không có những đồng bằng rộng lớn để trồng lúa, những thảo nguyên mênh mông để chăn nuôi đàn gia súc lớn. Nhưng thiên nhiên đã ""ưu đãi cho vùng này một điều kiện hết sức thuận lợi - đó là gió mùa. Gió mùa kèm theo mưa rất thích hợp cho sự phát triển của cây lúa nước. Vì thế, cư dân Đông Nam Á từ rất xa xưa đã biết trồng lúa và nhiều loại cây ăn củ, ăn quả khác. Ngay từ thời đại đồ đá, người ta đã tìm thấy dấu vết cư trú của con người ở hầu khắp các nước Đông Nam Á. Đến những thế kỉ đầu Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã biết sử dụng đồ sắt. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, nhưng ở mỗi nước đã hình thành một số ngành thủ công truyền thống như dệt, làm đồ gốm, nghề đúc đồng và sắt... Do nhu cầu trao đổi sản phẩm, việc buôn bán theo đường ven biển rất phát đạt. Một số thành thị - hải cảng đã ra đời và hoạt động nhộn nhịp như óc Eo (An Giang - Việt Nam), Ta-kô-la (bán đảo Mã Lai) v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Đông Nam Á là một khu vực khá rộng, bị chia cắt bởi những dãy núi, rừng nhiệt đới và biển. Vì thế, ở đây không có những đồng bằng rộng lớn để trồng lúa, những thảo nguyên mênh mông để chăn nuôi đàn gia súc lớn. Nhưng thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng này một điều kiện hết sức thuận lợi - đó là gió mùa. Gió mùa kèm theo mưa rất thích hợp cho sự phát triển của cây lúa nước. Vì thế, cư dân Đông Nam Á từ rất xa xưa đã biết trồng lúa và nhiều loại cây ăn củ, ăn quả khác. Ngay từ thời đại đồ đá, người ta đã tìm thấy dấu vết cư trú của con người ở hầu khắp các nước Đông Nam Á. Đến những thế kỉ đầu Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã biết sử dụng đồ sắt. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, nhưng ở mỗi nước đã hình thành một số ngành thủ công truyền thống như dệt, làm đồ gốm, nghề đúc đồng và sắt... Do nhu cầu trao đổi sản phẩm, việc buôn bán theo đường ven biển rất phát đạt. Một số thành thị - hải cảng đã ra đời và hoạt động nhộn nhịp như óc Eo (An Giang - Việt Nam), Ta-kô-la (bán đảo Mã Lai) v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Đông Nam Á là một khu vực khá rộng, bị chia cắt bởi những dãy núi, rừng nhiệt đới và biển. Vì thế, ở đây không có những đồng bằng rộng lớn để trồng lúa, những thảo nguyên mênh mông để chăn nuôi đàn gia súc lớn. Nhưng thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng này một điều kiện hết sức thuận lợi - đó là gió mùa. Gió mùa kèm theo mưa rất thích hợp cho sự phát triển của cây lúa nước. Vì thế, cư dân Đông Nam Á từ rất xa xưa đã biết trồng lúa và nhiều loại cây ăn củ, ăn quả khác. Ngay từ thời đại đồ đá, người ta đã tìm thấy dấu vết cư trú của con người ở hầu khắp các nước Đông Nam Á. Đến những thế kỉ đầu Công nguyên, cư dân Đông Nam Á đã biết sử dụng đồ sắt. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, nhưng ở mỗi nước đã hình thành một số ngành thủ công truyền thống như dệt, làm đồ gốm, nghề đúc đồng và sắt... Do nhu cầu trao đổi sản phẩm, việc buôn bán theo đường ven biển rất phát đạt. Một số thành thị - hải cảng đã ra đời và hoạt động nhộn nhịp như Óc Eo (An Giang - Việt Nam), Ta-kô-la (bán đảo Mã Lai) v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Sự phát triển của các ngành kinh tế là cơ sở cho sự ra đời của hàng loạt quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á. Sự ra đời của các vương quốc cổ Đông Nam Á còn gắn liền với tác động về mặt kinh tế của các thương nhân Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Các nước Đông Nam Á đã tiếp thu và vận dụng văn hoá Ấn Độ để phát triển sáng tạo văn hoá của dân tộc mình. Trong khoảng 10 thế kỉ đầu sau Công nguyên, hàng loạt quốc gia nhỏ đã được hình thành và phát triển ở khu vực phía nam Đông Nam Á như Vương quốc Cham-pa ở vùng Trung Bộ Việt Nam, Vương quốc Phù Nam ở hạ lưu sông Mê Công, các vương quốc ở hạ lưu sông Mê Nam và hện các đảo của In-đô-nê-xi-a. Thời ấy, các quốc gia này còn nhỏ bé, phân tán trên các địa bàn hẹp, sống riêng rẽ và nhiều khi tranh chấp lẫn nhau. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của các vương quốc cổ, để rồi, trên cơ sở đó hình thành nên các quốc gia phong kiến dân tộc hùng mạnh sau này." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Trong khoảng từ thế kỉ VII đến X, ở khu vực Đông Nam Á đã hình thành một số quốc gia, lấy một bộ tộc đông và phát triển nhất làm nòng cốt, thường được gọi là các quốc gia phong kiến ""dân tộc như Vương quốc Cam-pu-chia của người Khơ-me, các vương quốc của người Môn và người Miến ở vùng hạ lưu sông Mê Nam, của người In-đô-nê-xi-a ở Xu-ma-tơ-ra và Gia-va v.v... Từ khoảng nửa sau thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII là thời kì phát triển của các quốc gia phong kiến ở Đông Nam Á. Ở ln-đô-nê-xi-a, đến cuối thế kỉ XIII dòng vua Gia-va mạnh lên, đã chinh phục được Xu-ma-tơ-ra, thống nhất In-đô-nê-xi-a dưới Vương triều Mô-giô-pa-hít hùng mạnh trong 3 thế kỉ (1213- 1527), bao gồm hơn 10 nước nhỏ và đảo phụ thuộc, có ""sản phẩm quý, đứng hàng thứ hai sau Ả-rập"". Trên bán đảo Đông Dương, ngoài các quốc gia Đại Việt và Cham-pa, Vương quốc Cam-pu-chia từ thế kỉ IX cũng bước vào thời kì Ăng-co huy hoàng. Trên lưu vực sông I-ra-oa-đi, từ giữa thế kỉ XI, quốc gia Pa-gan ở miền Trung đã mạnh lên, chinh phục các tiểu quốc gia khác, thống nhất lãnh thổ, mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển của Vương quốc Mi-an-ma. Cũng trong thế kỉ XIII, do sự tấn công của người Mông cổ, một bộ phận người Thái, vốn sinh sống ở thượng nguồn sông Mê Công đã di cư ồ ạt xuống phía nam, định cư ở lưu vực sông Mê Nam và lập nên Vương quốc Su-khô-thay-tiền thân của nước Thái Lan sau này. Một bộ phận khác định cư ở vùng trung lưu sông Mê Công, lập nên Vương quốc Lan Xang (Lào) vào giữa thế kỉ XIV. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Trong khoảng từ thế kỉ VII đến X, ở khu vực Đông Nam Á đã hình thành một số quốc gia, lấy một bộ tộc đông và phát triển nhất làm nòng cốt, thường được gọi là các quốc gia phong kiến ""dân tộc như Vương quốc Cam-pu-chia của người Khơ-me, các vương quốc của người Môn và người Miến ở vùng hạ lưu sông Mê Nam, của người In-đô-nê-xi-a ở Xu-ma-tơ-ra và Gia-va v.v... Từ khoảng nửa sau thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII là thời kì phát triển của các quốc gia phong kiến ở Đông Nam Á. Ở ln-đô-nê-xi-a, đến cuối thế kỉ XIII dòng vua Gia-va mạnh lên, đã chinh phục được Xu-ma-tơ-ra, thống nhất In-đô-nê-xi-a dưới Vương triều Mô-giô-pa-hít hùng mạnh trong 3 thế kỉ (1213- 1527), bao gồm hơn 10 nước nhỏ và đảo phụ thuộc, có ""sản phẩm quý, đứng hàng thứ hai sau A-rập"". Trên bán đảo Đông Dương, ngoài các quốc gia Đại Việt và Cham-pa, Vương quốc Cam-pu-chia từ thế kỉ IX cũng bưốc vào thài kì Ăng-co huy hoàng. Trên luu vực sông I-ra-oa-đi, từ giữa thếkỉ XI, quốc gia Pa-gan ở miền Trung đã mạnh lên, chinh phục các tiểu quốc gia khác, thống nhất lãnh thổ, mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển của Vương quốc Mi-an-ma. Cũng trong thế kỉ XIII, do sự tấn công của người Mông cổ, một bộ phận người Thái, vốn sinh sống ở thượng nguồn sông Mê Công đã di cư ồ ạt xuống phía nam, định cư ở lưu vực sông Mê Nam và lập nên Vương quốc Su-khô-thay - tiền thân của nước Thái Lan sau này. Một bộ phận khác định cư ở vùng trung lưu sông Mê Công, lập nên Vương quốc Lan Xang (Lào) vào giữa thế kỉ XIV. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 8: Sự hình thành và phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á,"Thế kỉ X—XVIII còn là giai đoạn phát triển thịnh vượng của nền kinh tế khu vực, hình thành những vùng kinh tế quan trọng, có khả năng cung cấp một khối lượng lớn lúa gạo, cá, sản phẩm thủ công (vải, hàng sơn, đồ sứ, thuốc nhuộm, chế phẩm kim khí v.v...) và nhất là những sản vật thiên nhiên (các loại gỗ quý, hương liệu, gia vị, đá quý, ngọc trai, cánh kiến v.v...). Đã có một thời lái buôn của nhiều nước trên thế giới đến đây buôn bán, mang sản vật của Đông Nam Á về nước họ, hay đến những nơi khác xa xôi hơn. Cùng với sự phát triển kinh tế và với quá trình xác lập các quốc gia ""dân tộc"", văn hoá dân tộc cũng dần được hình thành. Sau một thời gian tiếp thu và chọn lọc, các dân tộc Đông Nam Á đã xây dựng được một nền văn hoá riêng của mình và đóng góp vào kho tàng văn hoá chung của loài người những giá trị tinh thần độc đáo. Từ nửa sau thế kỉ XVIII, các quốc gia Đông Nam Á bước vào giai đoạn suy thoái, mặc dù xã hội phong kiến vẫn tiếp tục tồn tại cho tới khi trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương Tây vào giữa thế kỉ XIX. " 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Sau khi khôi phục nền kinh tế bị tàn phá do chiến tranh, các nước Tây Âu đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với những thay đổi to lớn, mà nổi bật là sự liên kết kinh tế - chính trị của các nước trong khu vực" 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại cho các nước Tây Âu nhiều hậu quả nặng nề. Nhiều thành phố, nhà máy, bến cảng, khu công nghiệp, đường giao thông bị tàn phá. Hàng triệu người chết, mất tích hoặc bị tàn phế. Nước Đức bị lực lượng Đồng minh chiếm đóng và chia cắt. Ở Pháp, năm 1945 sản xuất công nghiệp chỉ bằng 38% và nông nghiệp chỉ bằng 50% so với năm 1938; Italia tổn thất khoảng 1/3 của cái quốc gia. Tuy nhiên, với sự cố gắng của từng nước và viên trợ của Mĩ trong khuôn khổ ""Kế hoạch Mácsan"", đến khoảng năm 1950, nền kinh tế của hầu hết các nước tư bản Tây Âu đã cơ bản phục hồi, đạt mức trước chiến tranh. Về chính trị, tuy các nước Tây Âu có những thể chế khác nhau như quân chủ lập hiến (Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan v.v...) hoặc cộng hoà (Pháp, Đức, Italia v.v...) nhưng đều theo chế độ đại nghị (một viên hoặc hai viên), đều là nền thống trị của giai cấp tư sản. Ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối nội và đối ngoại của các nước Tây Âu là củng cố chính quyền, ổn định tình hình chính trị - xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền kinh tế. Về đối ngoại, các nước Tây Âu liên minh chặt chẽ với Mĩ trong cuộc Chiến tranh lạnh đối đầu với Liên Xô và các nước XHCN, đồng thời tìm cách quay trở lại cai trị các thuộc địa cũ của mình." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Ở Pháp, ngay sau chiến tranh, có 5 đảng viên cộng sản giữ các chức vụ quan trọng trong chính phủ, nhưng giai cấp tư sản Pháp đã tìm mọi cách gạt bỏ họ. Chính phủ Công đồng ở Anh thi hành chính sách loại trừ những người cộng sản ra khỏi quân đội, xí nghiệp và các cơ quan nhà nước. Năm 1947, Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo ở Italia gây ra cuộc khủng hoảng chính trị để đây những người cộng sản ra khỏi chính phủ. Những hành động trên nhằm đáp ứng điều kiện của Mĩ để được nhận viện trợ theo kế hoạch Mácsan. Nhiều nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia, Bổ Đào Nha, Bỉ, Hà Lan v.v... đã tham gia Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (khối quân sự NATO - thành lập năm 1949) do Mĩ đứng đầu. Pháp tiến hành xâm lược trở lại Đông Dương; Anh trở lại Miến Điện, Mã Lai; Hà Lan trở lại Inđônêxia v.v... Năm 1949, trên phần lãnh thổ Tây Đức đã thành lập Nhà nước CHLB Đức (trong khi ở phần lãnh thổ phía đông thành lập Nhà nước CHDC Đức. Sự tồn tại hai nhà nước Đức và chia đôi thành phố Béclin (Tây Béclin và Đông Béclin) làm cho nước Đức trở thành một tâm điểm đối đầu ở Châu Âu giữa hai cực Xô - Mĩ. Tóm lại, từ năm 1945 đến năm 1950, với sự viện trợ của Mĩ, các nước tư bản Tây Âu đã cơ bản ổn định và phục hồi về mọi mặt, trở thành lực lượng đối trọng với khối XHCN Đông Âu vừa mới hình thành." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Sau giai đoạn phục hồi (1945 - 1950), từ những năm 50 đến đầu những năm 70, nền kinh tế của các nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu đều có sự phát triển nhanh. Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế Pháp giai đoạn này là 5%. Đến đầu thập niên 70, Pháp trở thành cường quốc công nghiệp thứ năm trên thế giới, đứng đâu Châu Âu về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp; CHLB Đức có nền kinh tế ở vị trí thứ ba (sau Mĩ, Nhật Bản); Anh có nền công nghiệp đứng thứ tư trong thế giới tư bản. Điều đáng chú ý là quá trình liên kết khu vực ở Tây Âu ngày càng diễn ra mạnh mẽ với sự hình thành Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC - 1957), sau trở thành Cộng đồng châu Âu (EC - 1967). Từ đầu thập kỉ 70 trở đi, Tây Âu đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới (cùng với Mĩ và Nhật Bản). Các nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu như Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Thuỵ Điển, Phần Lan v.v... đều có nền khoa học - kĩ thuật phát triển cao, hiện đại.  Sở dĩ các nước Tây Âu phát triển kinh tế nhanh như vậy là do một số yếu tố sau: 1 - Các nước này đã phát triển và áp dụng thành công các thành tựu của cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. 2 - Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lí, điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế. 3 - Các nước tư bản ở Tây Âu đã tận dụng tốt các cơ hội bên ngoài để phát triển như nguồn viện trợ của Mĩ, tranh thủ được giá nguyên liệu rẻ từ các nước thuộc thế giới thứ ba, hợp tác có hiệu quả trong khuôn khổ của Cộng đồng Châu Âu (EC) v.v..." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Về chính trị, giai đoạn 1950 - 1973 đánh dấu sự tiếp tục phát triển của nền dân chủ tư sản ở Tây Âu, đồng thời cũng ghi nhận những biến động đáng chú ý trên chính trường nhiều nước trong khu vực. Ở Pháp, trong những năm tồn tại của nền Cộng hoà thứ tư (1946 - 1958) đã thay đổi tối 25 nội các, từ năm 1958 thiết lập nền Cộng hoà thứ năm do tướng Đờ-gôn làm Tổng thống. Phong trào đấu tranh của 80 vạn sinh viên, học sinh, công nhân, viên chức Pari tháng 5 - 1968 đã góp phần buộc Tổng thống Đờ-gôn phái từ chức (4 - 1969). Ở CHLB Đức, năm 1968, Đảng Cộng Sản ra hoạt động công khai. Ở Italia, năm 1960, phái hữu trong Đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo đã sử dụng lực lượng cánh sát cùng các tổ chức phát xít mới âm mưu tiến hành một cuộc đảo chính phán động. Quần chúng đã lập chướng ngại vật trên đường phố, tổ chức tổng bãi công góp phần làm thốt bại cuộc đảo chính này. Tính chung từ năm 1945 đến năm 1995, ở Italia có tới 54 chính phủ thay nhau câm quyền." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Về đối ngoại, trong khuôn khổ của Chiến tranh lạnh và trật tự thế giới hai cực Ianta, từ năm 1950 đến năm 1973, nhiều nước tư bản Tây Âu một mặt vẫn tiếp tục chính sách liên minh chặt chẽ với Mĩ, mặt khác đã nỗ lực mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại. Chính phủ một số nước Tây Âu ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam; ủng hộ Ixraen trong các cuộc chiến tranh chống các nước Ả Rập. CHLB Đức đã gia nhập khối NATO (tháng 5 - 1955), trở thành tâm điểm quan trọng của Mĩ và phương Tây trong cuộc đối đầu căng thẳng với Liên Xô và phe XHCN. Nhiều vùng lãnh thổ và hái cáng của Italia trở thành nơi đóng các căn cứ quân sự quan trọng của Mĩ. Nhưng Pháp lại có những động thái khác. Trong thộp niên 60, chính quyền của Tổng thống Đờ-gôn đã phải đối việc trang bị vũ khí hạt nhân cho CHLB Đức; phải đối Mĩ xâm lược Việt Nam; chú ý phát triển quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN khác. Đặc biệt, năm 1966 Pháp đã rút ra khỏi Bộ Chỉ huy NATO, và yêu cầu rút trụ sở NATO cùng tât cá các căn cứ quân sự và quân đội Mĩ ra khỏi lãnh thổ nước Pháp. Các nước khác như Thuỵ Điển, Phần Lan,... cũng phải đối cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1950 - 1973, chủ nghĩa thực dân cũ của Anh, Pháp, Hà Lan đã sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, cũng như Mĩ và Nhật Bản, từ năm 1973 nhiều nước tư bản chủ yếu ở Tây Âu lâm vào suy thoái và khủng hoảng hoặc phát triển không Ổn định kéo dài đến đầu thập kỉ 90. Từ năm 1973 đến năm 1992, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm ở Pháp thực tế giảm xuống còn 2,4% đến 2,2%; năm 1991, kinh tế Anh tăng trưởng âm (-1,8%). Số người thất nghiệp ở Italia năm 1983 là 2,5 triệu người (chiếm hơn 10% lực lượng lao động) và ở CHLB Đức năm 1989 là 3 triệu người. Tuy vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới, nhưng kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu gặp không ít khó khăn. Sự phát triển thường diễn ra xen kẽ với suy thoái, khủng hoảng và lạm phát, thất nghiệp. Tây Âu luôn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ phía Mĩ, Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs). Quá trình ""liên hợp hoá Tây Âu trong khuôn khổ của Cộng đồng Châu Âu (EC) vẫn còn nhiều khó khăn và trở ngại." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Chính trường Tây Âu có phần ổn định hơn so với giai đoạn 1945 - 1973. Nhưng bên cạnh sự phát triển, xã hội Tây Âu vẫn bộc lộ những mặt trái của nó. Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn. Ở Anh, tâng lớp giàu chiếm chưa đây 1% dân số nhưng lại nắm trong tay gân 50% số tư bán, 100 công ti lớn kiểm soát tới 50% sản phẩm công nghiệp. Ở CHLB Đức, nhóm các nhà tư bán giàu có chỉ chiếm 1,7% dân số nhưng chiếm hữu tới 70% tư liệu sản xuất.  Các tệ nạn xã hội như hối lộ, tham nhũng, bạo lực, ma tuý vẫn thường xuyên xảy ra, trong đó tội phạm maphia rất điển hình ở Italia. Còn ở CHLB Đức, tinh thần bài ngoại, bài Do Thái và các tổ chức phát xít mới vẫn tồn tại và hoạt động; các vấn đề sắc tộc và tôn giáo lại nảy sinh rất phức tạp ở Anh liên quan đến đạo Thiên Chúa và đạo Tin Lành cũng như phong trào đòi độc lập ở Bắc Ailen. Về mặt đối ngoại, tháng 11 - 1972, hai nước Đức kí Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức, theo đó, CHLB Đức và CHDC Đức cam kết tôn trọng chủ quyền và quyền tự quyết của nhau, không đe doạ và xâm phạm lẫn nhau. Tiếp đó, các nước Tây Âu tham gia Định ước Henxinki (1975) về an ninh và hợp tác Châu Âu. Tháng 11 - 1989, bức tường Béclin bị phá bỏ, sau đó không lâu, nước Đức đã tái thống nhất (3 - 10 - 1990). Trong năm 1991, 12 nước thành viên EC đã kí Hiệp ước Maxtrích đánh dấu bước chuyển từ Cộng đồng châu Âu (EC) sang Liên minh châu Âu (EU)." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Bước vào đầu thập kỉ 90, nền kinh tế nhiều nước Tây Âu đã trải qua một đợt suy thoái ngắn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Anh năm 1991 là -1,8%, năm 1992 là -0,8%; của Italia năm 1993 là -0,9%; của CHLB Đức năm 1993 là -1,6%. Tuy nhiên, từ khoảng năm 1994 trở đi, kinh tế Tây Âu bắt đầu phục hồi và phát triển trở lại. Năm 2000, mức tăng trưởng của kinh tế Pháp là 3,8%; Anh là 3,8%; Đức là 2,9% và Italia là 3,0%. Tây Âu vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới. Đến giữa thập niên 90, chỉ riêng 15 nước thành viên EU có số dân tổng cộng 375 triệu người, GDP hơn 7 000 tỉ USD, chiếm khoảng 1/3 tổng sản phẩm công nghiệp của thế giới với gần 50% giá trị xuất khẩu và hơn 50% các nguồn tư bản. Các nước Tây Âu có nền khoa học - kĩ thuật hiện đại; đạt nhiều thành tựu về văn hoá, giáo dục, văn học, nghệ thuật, thể thao." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: Tây Âu,"Về đối nội, tình hình các nước Tây Âu trong thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX cơ bản là ổn định. Nhưng chính sách đối ngoại của các nước này lại có sự điều chỉnh quan trọng trong bối cảnh Chiến tranh lạnh đã kế thừa, trật tự thế giới hai cực Ianta tan rã. Quá trình liên kết của các thành viên EU trở nên chặt chẽ hơn. Nếu như Anh vẫn duy trì liên minh chặt chẽ với Mĩ, thì Pháp và Đức đã trở thành những đối trọng với Mĩ trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng. Tuy nhiên, tất cả các nước Tây Âu đều chú ý mở rộng quan hệ quốc tế, không chỉ với các nước tư bản phát triển khác mà còn cả với các nước đang phát triển ở châu Á, Châu Phi, khu vực Mĩ Latinh cũng như với các nước Đông Âu và SNG. Dù vậy, chủ nghĩa tư bản hiện đại ở Tây Âu vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa giải quyết được như sự cách biệt ngày càng lớn giữa một số ít người cực giàu với số đông người sống dưới mức nghèo khổ, tình trạng thất nghiệp lan tràn. Các tệ nạn xã hội cùng sự suy thoái của đạo đức và lối sống v.v... vẫn là những căn bệnh tồn tại dai dẳng ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ sau ngày 11 - 9 - 2001, những vụ khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan luôn đe doạ nền an ninh của nhiều nước Tây Âu." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 8: tây Âu,"Về đối ngoại, trong khuôn khổ của Chiến tranh lạnh và trật tự thế giới hai cực Ianta, từ năm 1950 đến năm 1973, nhiều nước tư bản tây Âu một mặt vẫn tiếp tục chính sách liên minh chặt chẽ với Mĩ, mặt khác đã nỗ lực mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại. Chính phủ một số nước tây Âu ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam; ủng hộ Ixraen trong các cuộc chiến tranh chống các nước A Rộp. CHLB Đức đã gia nhộp khối NATO (tháng 5 - 1955), trở thành tâm điểm quan trọng của Mĩ và phương tây trong cuộc đối đấu căng thẳng với Liên Xô và phe XHCN. Nhiều vùng lãnh thổ và hái cáng của Italia trở thành nơi đóng các căn cứ quân sự quan trọng của Mĩ. Nhưng Pháp lại có những động thái khác. Trong thộp niên 60, chính quyền của Tổng thống Đà Gôn đã phánđối việc trang bị vũ khí hạt nhân cho CHLB Đức; phánđối Mĩ xâm lược Việt Nam; chú ý phát triển quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN khác. Đặc biệt, năm 1966 Pháp đã rút ra khỏi Bộ Chỉ huy NATO, và yêu cầu rút trụ sở NATO cùng tất cá các căn cứ quân sự và quân đội Mĩ ra khỏi lãnh thổ nước Pháp. Các nước khác như Thuỵ Điển, Phần Lan,... cũng phánđối cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1950 - 1973, chủ nghĩa thực dân cũ của Anh, Pháp, Hà Lan đã sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Cách mạng tháng Mười năm 1917 bùng nổ và thắng lợi ở Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời, mở ra một thời kì mới trong lịch sử thế giới. Giữa vòng vây của các thế lực phản cách mạng trong nước và các nước đế quốc bên ngoài, nhân dân Xô viết, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới, đã kiên cường chiến đấu, xây dựng và bảo vệ thành công những thành quả của Cách mạng tháng Mười." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Sau Cách mạng 1905 - 1907, Nga vẫn là một nước quân chủ chuyện chế, đứng đầu là Nga hoàng Ni-cô-lai II. Sự tồn tại của chế độ quân chủ và những tàn tích phong kiến không chỉ làm cho đời sống nhân dân Nga ngày càng khó khăn mà còn kìm hãm nặng nề sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước này. Năm 1914, Nga hoàng tham gia cuộc chiến tranh đế quốc, gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước: kinh tế suy sụp, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi... quân đội liên tiếp thua trận. Mọi nỗi khổ đè nặng lên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân, công nhân Nga và hơn 100 dân tộc khác trong đế quốc Nga. Phong trào phản đối chiến tranh, đòi lật đổ chế độ Nga hoàng lan rộng khắp trong nước. Chính phủ Nga hoàng ngày càng tỏ ra bất lực, không còn khả năng tiếp tục thống trị như cũ được nữa. Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Tháng 2 -1917 (theo lịch Ng , cuộc cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ ở Nga. Sự kiên mở đầu là cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công nhân ở Thủ đô  Pê-tơ-rô-grát (nay là Xanh Pê-téc-bu . Phong trào nhanh chóng lan rộng toàn thành phố và chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, bắt giam các bộ trưởng và tưổng tá của Nga hoàng. Chế độ quân chủ chuyện chế sụp đổ. Tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thủ đô đã lan nhanh khắp trong nước. Chỉ trong vòng 8 ngày, trên phạm vi cả nước, quần chúng nhân dân đã vùng dậy lật đổ chế độ cũ, bầu ra các xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Giai cấp tư sản thành lập Chính phủ lâm thời. Nước Nga trở thành nước Cộng hoà. Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai thắng lợi. Tuy nhiên, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng có đã diễn ra ở nước Nga. Đó là tình trạng hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính quyền này đại diên cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại lâu dài. Trước tình hình đó, Lê-nin và Đảng Bônsêvích đã chuẩn bị kế hoạch tiếp tục làm cách mạng, lật đổ Chính phủ tư sản lâm thời." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Tháng 4 - 1917, Lê-nin có bản báo cáo quan trọng trước Trung ương Đảng Bônsêvích (sau này đã đi vào lịch sử với tên gọi Luận cỗơng tháng tỗ), chỉ ra mục tiêu và đường lối chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trải qua 8 tháng đấu tranh, từ đấu tranh hoà bình nhằm tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo để đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, Đảng Bônsêvích đã chuyển sang khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đầu tháng 10 - 1917, không khí cách mạng bao trùm khắp nước Nga. Ngày 7 -10 (20 -10), Lê-nin bí mật rời Phần Lan về Pê-tơ-rô-grát, trực tiếp chỉ đạo cách mạng. Các đội Cận vệ đỏ ra đời. Trung tâm Quân sự cách mạng được thành lập để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu đểm 24 - 10 (6 - 11). Các đội Cận vê đỏ đã nhanh chóng chiếm được những vị trí then chốt ở Thủ đô. Đêm 25 -10 (7 -11), quân khởi nghĩa chiếm Cung điên Mùa Đông. Toàn bộ Chính phủ tư sản lâm thời (trừ Thủ tướng Kê-ren-xki) bị bắt. Ngày 25 -10 (7 -11) trở thành ngày thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Tiếp theo, khởi nghĩa thắng lợi ở Mát-xcơ-va; đầu năm 1918, cách mạng giành được thắng lợi hoàn toàn trên đất nước Nga rộng lớn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Ngay trong đểm 25 -10 -1917 (7 -11 -1917), Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ hai khai mạc ở Điên Xmô-nưi, tuyên bố thành lập Chính quyền Xô viết do Lê-nin đứng đầu. Nhiêm vụ hàng đầu của Chính quyền Xô viết là đập tan bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản và địa chủ, khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước mới của những người lao động. Các sắc lênh đầu tiên của Chính quyền Xô viết đã được thông qua: Sắc lệnh hoà bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô viết nhanh chóng thực hiện các biên pháp nhằm thủ tiêu những tàn tích của chế độ phong kiến, xoá bỏ sự phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của Giáo hội, thực hiện nam nữ bình quyền, các dân tộc bình đẳng và có quyền tự quyết. Các cơ quan trung ương và Xô viết các địa phương được thành lập, thay thế hoàn toàn chính quyền tư sản. Hồng quân công nông được thành lập để bảo vệ chính quyền mới... Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá các nhà máy, xí nghiêp của giai cấp tư sản, thành lập Hội đổng Kinh tế quốc dân tối cao để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Cuối năm 1918, quân đội 14 nước đế quốc câu kết với lực lượng phản cách mạng trong nước mở cuộc tấn công vũ trang nhằm tiêu diêt nước Nga Xô viết non trẻ. Trong suốt 3 năm (1918 -1920), nhân dân Nga đã tập trung toàn bộ sức lực tiến hành cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài trong những điều kiên vô cùng khó khăn để giữ vững Chính quyền Xô viết.  Trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây, từ năm 1919 Chính quyền Xô viết thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến. Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp, trưng thu lương thực thừa của nông dân, thi hành chế độ lao động cưỡng bức đối với toàn dân (từ 16 đến 50 tuổi)... nhằm huy động tối đa mọi nguồn của cải, nhân lực của đất nước phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Hồng quân và nhân dân Xô viết đã từng bước đẩy lùi các cuộc tấn công của lực lượng phản cách mạng trong và ngoài nước. Cuối năm 1920, chiến sự chấm dứt, Nhà nước Xô viết được bảo vệ và giữ vững." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Cách mạng tháng Mười đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận của hàng triệu con người ở Nga. Một kỉ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử nước Nga: giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc được giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã làm thay đổi cục diện thế giới, cổ vũ mạnh mẽ và để lại nhiều bài học quý báu cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Cam-pu-chia và Lào - hai quốc gia láng giềng gần gũi của Việt Nam, đã có một truyền thống lịch sử lâu đời và một nền văn hoá đặc sắc. Đất nước Cam-pu-chia như một lòng chảo khổng lồ, xung quanh là rừng và cao nguyên bao bọc, còn đáy chảo là Biển Hồ và vùng phụ cận với những cánh đồng phì nhiêu, màu mỡ. Ở Cam-pu-chia, tộc người chiếm đa số là Khơ-me. Địa bàn sinh tụ đầu tiên của người Khơ-me ở phía bắc nước Cam-pu-chia ngày nay, trên cao nguyên Cò Rạt và mạn trung lưu sông Mê Công. Người Khơ-me giỏi săn bắn, quen đào ao, đăp hồ trữ nước. Họ đã sớm tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ, biết khắc bia bằng chữ Phạn. Đến thế kỉ VI, vương quốc của người Khơ-me được hình thành mà sử sách Trung Quốc gọi là nước Chân Lạp; còn người Khơ-me tự gọi tên nước mình là Cam-pu-chia. Thời kì Ăng-co (802-1432) là thời kì phát triển của Vương quốc Cam-pu-chia. Ăng-co là tên kinh đô, được xây dựng ở Tây Bắc Biển Hồ (nay thuộc tỉnh Xiêm Riệp). Sau này, người ta lấy Ăng-co đặt tên cho thời kì dài nhất và phát triển nhất của nước Cam-pu-chia phong kiến." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Dưới thời Ăng-co, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Người ta đào nhiều hồ, kênh, máng để trữ và điều phối nước tưới. Hồ Ba-ray Tây có diện tích rộng 14000 ha, chứa được 47,7 triệu mét khối nước. Ngoài nông nghiệp, cư dân còn đánh bắt cá ở Biển Hổ, khai thác lâm sản quý và săn bắt thú trên rừng. Thủ công nghiệp ở Cam-pu-chia đã có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đồ trang sức và chạm khắc trên đá, trên các bức phù điêu của các đền tháp. Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Cam-pu-chia thời Ăng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài. Trong các thế kỉ X - XII, Cam-pu-chia trở thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất Đông Nam Á. Dưới thời Giay-a-vác-man VII (1181 - 1201), quân Cam-pu-chia đã tiến đánh Cham-pa (1190) và biến vương quốc này thành một tỉnh của Ăng-co, sau đó lại tiến hành thu phục vùng trung và hạ lưu Mê Nam, tiến đến tận Say Phong (gần Viêng Chăn). Ở thượng lưu sông Mê Nam, vua Giay-a-vác-man VII đã tiến đánh và thu phục địa bàn của vương quốc Môn Ha-ri-pun-giay-a, tiến tới sát biên giới Mi-an-ma. về phía nam, lãnh thổ Cam-pu-chia được mở rộng tối miền Bắc bán đảo Mã Lai. Nhưng từ cuối thế kỉ XIII, Cam-pu-chia bắt đầu suy yếu. Thêm vào đó, Vương quốc Thái thành lập vào thế kỉ XIV đã nhiều lần gây chiến với Cam-pu-chia, tàn phá kinh thành Ảng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm, năm 1432 người Khơ-me phải bỏ kinh đô Ăng-co, lui về phía nam Biển Hồ, tức là khu vực Phnôm Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Cam-pu-chia luôn phải đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tinh hình diễn biến rất phức tạp, khiến đất nước Cam-pu-chia hầu như suy kiệt khi thực dân Pháp đến xâm lược (1863). Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Cam-pu-chia đã xây dựng nên một nền văn hoá riêng, hết sức độc đáo. Từ những thế kí đầu Công nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người An. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên hệ thống chữ viết riêng của mình. Từ đó về sau, các bài văn bia, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng chữ Phạn, còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Dưới thời Ăng-co, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Người ta đào nhiều hồ, kênh, máng để trữ và điều phối nước tưới. Hồ Ba-ray Tây có diện tích rộng 14000 ha, chứa được 47,7 triệu mét khối nước. Ngoài nông nghiệp, cư dân còn đánh bắt cá ở Biển Hổ, khai thác lâm sản quý và săn bắt thú trên rừng. Thủ công nghiệp ở Cam-pu-chia đã có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đồ trang sức và chạm khắc trên đá, trên các bức phù điêu của các đền tháp. Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Cam-pu-chia thời Ăng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài. Trong các thế kỉ X - XII, Cam-pu-chia trở thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất Đông Nam Á. Dưới thời Giay-a-vác-man VII (1181 - 1201), quân Cam-pu-chia đã tiến đánh Cham-pa (1190) và biến vương quốc này thành một tỉnh của Ăng-co, sau đó lại tiến hành thu phục vùng trung và hạ lưu Mê Nam, tiến đến tận Say Phong (gần Viêng Chăn). Ở thượng lưu sông Mê Nam, vua Giay-a-vác-man VII đã tiến đánh và thu phục địa bàn của vương quốc Môn Ha-ri-pun-giay-a, tiến tới sát biên giới Mi-an-ma. về phía nam, lãnh thổ Cam-pu-chia được mở rộng tối miền Bắc bán đảo Mã Lai. Nhưng từ cuối thế kỉ XIII, Cam-pu-chia bắt đầu suy yếu. Thêm vào đó, Vương quốc Thái thành lập vào thế kỉ XIV đã nhiều lần gây chiến với Cam-pu-chia, tàn phá kinh thành Ăng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm, năm 1432 người Khơ-me phải bỏ kinh đô Ăng-co, lui về phía nam Biển Hồ, tức là khu vực Phnôm Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Cam-pu-chia luôn phải đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tinh hình diễn biến rất phức tạp, khiến đất nước Cam-pu-chia hầu như suy kiệt khi thực dân Pháp đến xâm lược (1863). Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Cam-pu-chia đã xây dựng nên một nền văn hoá riêng, hết sức độc đáo. Từ những thế kí đầu Công nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người An. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên hệ thống chữ viết riêng của mình. Từ đó về sau, các bài văn bia, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng chữ Phạn, còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Dưới thời Ăng-co, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Người ta đào nhiều hồ, kênh, máng để trữ và điều phối nước tưới. Hồ Ba-ray Tây có diện tích rộng 14000 ha, chứa được 47,7 triệu mét khối nước. Ngoài nông nghiệp, cư dân còn đánh bắt cá ở Biển Hổ, khai thác lâm sản quý và săn bắt thú trên rừng. Thủ công nghiệp ở Cam-pu-chia đã có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đồ trang sức và chạm khắc trên đá, trên các bức phù điêu của các đền tháp. Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Cam-pu-chia thời Ăng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài. Trong các thế kỉ X - XII, Cam-pu-chia trở thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất Đông Nam Á. Dưới thời Giay-a-vác-man VII (1181 - 1201), quân Cam-pu-chia đã tiến đánh Cham-pa (1190) và biến vương quốc này thành một tỉnh của Ăng-co, sau đó lại tiến hành thu phục vùng trung và hạ lưu Mê Nam, tiến đến tận Say Phong (gần Viêng Chăn). Ở thượng lưu sông Mê Nam, vua Giay-a-vác-man VII đã tiến đánh và thu phục địa bàn của vương quốc Môn Ha-ri-pun-giay-a, tiến tới sát biên giới Mi-an-ma. về phía nam, lãnh thổ Cam-pu-chia được mở rộng tối miền Bắc bán đảo Mã Lai. Nhưng từ cuối thế kỉ XIII, Cam-pu-chia bắt đầu suy yếu. Thêm vào đó, Vương quốc Thái thành lập vào thế kỉ XIV đã nhiều lần gây chiến với Cam-pu-chia, tàn phá kinh thành Ăng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm, năm 1432 người Khơ-me phải bỏ kinh đô Ăng-co, lui về phía nam Biển Hồ, tức là khu vực Phnôm Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Cam-pu-chia luôn phải đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tình hình diễn biến rất phức tạp, khiến đất nước Cam-pu-chia hầu như suy kiệt khi thực dân Pháp đến xâm lược (1863). Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Cam-pu-chia đã xây dựng nên một nền văn hoá riêng, hết sức độc đáo. Từ những thế kí đầu Công nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người An. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên hệ thống chữ viết riêng của mình. Từ đó về sau, các bài văn bia, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng chữ Phạn, còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Dòng văn học dân gian và văn học viết với những truyện thần thoại, truyện cười, truyện trạng, truyện thơ v.v... đều phản ánh những tình cảm của con người đối với thiên nhiên, đất nước, tình cảm giữa những con người cùng sống chung trong một cộng đồng. Nghệ thuật kiến trúc Cam-pu-chia gắn chặt với những tôn giáo đã truyền bá ở đây. Thời kì đầu, Cam-pu-chia tiếp thu văn hóa Hinđu giáo. Thế ki XII, Phật giáo Đại thừa lại có ảnh hưởng lớn ở Cam-pu-chia. Những công trình kiến trúc Hinđu giáo và Phật giáo đã xuất hiện. Nổi tiếng nhất là quần thể kiến trúc Ăng-co Vát và Ăng-co Thom." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"Dòng văn học dân gian và văn học viết với những truyện thần thoại, truyện cười, truyện trạng, truyện thơ v.v... đều phản ánh những tình cảm của con người đối với thiên nhiên, đất nước, tình cảm giữa những con người cùng sống chung trong một cộng đồng. Nghệ thuật kiến trúc Cam-pu-chia gắn chặt với những tôn giáo đã truyền bá ở đây. Thời kì đầu, Cam-pu-chia tiếp thu văn hóa Hinđu giáo. Thế kỉ XII, Phật giáo Đại thừa lại có ảnh hưởng lớn ở Cam-pu-chia. Những công trình kiến trúc Hinđu giáo và Phật giáo đã xuất hiện. Nổi tiếng nhất là quần thể kiến trúc Ăng-co Vát và Ăng-co Thom." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Là nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng từ sau năm 1945, Nhật Bản đã bước vào một thời kì phát triển mới với những đổi thay căn bản về chính trị - xã hội cùng những thành tựu như một sự thần kì về kinh tế- khoa học công nghệ. Nhật Bản đã vươn lên, trở thành một siêu cường kinh tế, một trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới. " 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại cho Nhật Bản những hậu quả hết sức nặng nề. Khoảng 3 triệu người chết và mất tích; 40% đô thị, 80% tàu bè, 34% máy móc công nghiệp bị phá huỷ; 13 triệu người thất nghiệp. Thám hoạ đói rét đe doạ toàn nước Nhật Bản. Theo quy định của Hội nghị Pốtxđam, Nhật Bản sau chiến tranh tuy bị lực lượng Đồng minh, thực tế là Mĩ chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1952, nhưng Chính phủ Nhật Bản vẫn được phép tồn tại và hoạt động. Về chính trị, Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (SCAP) đã thi hành một số biện pháp để loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản.  quân đội và toàn bộ ngành công nghiệp quân sự Nhật Bản bị giải thể. Toà án quân sự Viễn Đông được lập ra để xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản (kết án 7 tên tử hỉnh, 16 tên tù chung thân). Các đáng phái quân phiệt bị giải tán, khoảng 290 000 người liên quan đến chế độ quân phiệt trước đây bị loại khỏi bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũ (1889) của Nhật Bản bị bãi bỏ, thay vào đó là Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 3 - 5 - 1947. Về thể chế, Nhật Bản là nước quân chủ lập hiên, nhưng thực tế là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: chủ quyền của toàn dân, vai trò tượng trưng của Thiên hoàng và hoà bình, tôn trọng những quyền cơ bản của con người." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Ngôi vị Thiên hoàng vẫn được duy trì nhưng không còn quyền lực đối với nhà nước. Nghị viện gồm hai viện (Thượng viện và Hạ viện) do nhân dân bâu ra là cơ quan quyền lực tối cao giữ quyền lập pháp; chính phủ do Thủ tướng đứng đâu giữ quyền hành pháp. Hiến pháp xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân. Nhật Bản cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không duy trì quân đội thường trực và không đưa các lực lượng vũ trang ra nước ngoài, chỉ có lực lượng phòng vệ dân sự để bảo đảm an ninh trật tự trong nước. Về kinh tế, trong thời kì bị chiếm đóng (1945 - 1952), SCAP đã thực hiện ba cuộc cải cách lớn: một là, thủ tiêu chế độ kinh tể tập trung, trước hết là giải tán các ""Daibátxư (các tập đoàn, công ti độc quyền còn mang nhiều tính chất dòng tộ; hai là, cải cách ruộng đất (quy định địa chủ chỉ được có không quá 3 hécta ruộng, số còn lại Chính phủ đem bản cho nông dân); ba là, dân chủ hoá lao động (thông qua và thực hiện các đạo luật về lao động). Dựa vào nỗ lực của bản thân và viện trợ của Mĩ, đến khoảng những năm 1950 - 1951, Nhật Bản đã khôi phục được nền kinh tế, đạt mức trước chiến tranh. Trong chính sách đối ngoại, Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ. Nhật Bản kí kết Hiệp ước hoà bình Xan Phranxixcô (8 - 9 - 1951) và kết thúc chế độ chiếm đóng của Đồng minh (năm 1952). Cùng ngày, Hiệp ước An ninh Mĩ - Nhật được kí kết, đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước. Theo đó, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới ""chiếc ô bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Theo Hiến pháp mới, Nhật Bản tiến hành cải cách giáo dục trên nhiều mặt, năm 1947 ban hành Luật Giáo dục. Nội dung giáo dục thay đổi căn bản: phủ nhận vai trò thiêng liêng của Thiên hoàng, khuyện khích phát triển văn hoá và truyền bá tư tưởng hoà bình, quy định hệ thống giáo dục 6-3-3-4(6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông, 4 năm đại họ. Chế độ giáo dục bắt buộc là 9 năm." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sau khi nền kinh tế phục hồi và đạt mức trước chiến tranh, từ năm 1952 đến năm 1960, Nhật Bản có bước phát triển nhanh. Từ năm 1960 đến năm 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển ""thần kì"". Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật Bản từ năm 1960 đểh năm 1969 là 10,8%, từ năm 1970 đến năm 1973 tuy có giám đi nhưng vân đạt bình quân 7,8%, cao hơn các nước phát triển khác. Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt Anh, Pháp, CHLB Đức, vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư bán (sau Mĩ). Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu). Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản rất coi trọng phát triển giáo dục và khoa học - kĩ thuật. Đặc biệt, Nhật Bản đã tìm cách rứt ngắn khoảng cách về sự phát triển khoa học - kĩ thuật bằng cách mua bằng phát minh sáng chế và chuyển giao công nghệ. Tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua bằng phát minh của nước ngoài trị giá 6 tỉ USD.  Đến giữa thập kỉ 70, chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản trong tỉ lê GDP đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ). Khoa học - kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất phục vụ nhu cầu dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn. Ngoài các sản phẩm dân dụng nổi tiếng thế giới (nhưtivi, tủ lạnh, ô tô v.v...), Nhật Bản có thể đóng được tàu chở dân có trọng tài 1 triệu tấn; xây dụng các công trình to lớn như đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối 2 đào Hônsu và Hốccaiđô, câu đường bộ dài 9,4 km nối hai đào Hônsu và Sicôcưv.v..." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Từ một nuớc bại trận, chịu hậu quả chiến tranh rất nặng nề, chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật Bản đã vuơn lên thành một siêu cường kinh tế (sau Mĩ) là do một số yếu tố sau: 1 - Nguời dân Nhật Bản với truyền thống văn hoá, giáo dục, đạo đức lao động tốt, tiết kiêm, tay nghề cao và có nhiều khả năng sáng tạo là nhân tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế. Con người được coi là vốn quý nhất, đồng thời là ""công nghệ cao nhất"". 2 - Nhà nuớc quản lí kinh tế một cách hiệu quả, có vai trò rất lớn trong viêc phát triển nền kinh tế ở tầm vĩ mô. 3 - Các công ti Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao. 4 - Nhật Bản luôn áp dụng các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. 5 - Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản ít (Hiến pháp quy định không vuợt quá 1% GDP), nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho kinh tế. 6 - Nhật Bản biết tận dụng các yếu tố bên ngoài như tranh thủ các nguồn viên trợ của Mĩ sau chiến tranh, dựa vào Mĩ về mặt quân sự để giảm chi phí quốc phòng, lợi dụng các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950 - 1953) và Viêt Nam (1954 - 1975) để làm giàu." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn phải đối mặt với những thách thức: 1 - Lãnh thổ Nhật Bản không lớn, dân số đông, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, thường xảy ra thiên tai (động đất, núi lửa...), nền công nghiệp hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn nguyên liệu và nhiên liệu nhập khẩu. Mặc dù nông nghiệp có trình độ phát triển cao, nhưng Nhật Bản vẫn phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm. 2 - Cơ cấu vùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, trong khi các vùng khác được đầu tư phát triển rất ít, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối. 3 - Là một trong những trung tâm kinh tế - tài chính thế giới, Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới (NlCs), Trung Quốc... và tâm lí e ngại ở nước ngoài về một ""đế quốc kinh tế Nhật Bản. 4 - Cũng như kinh tế Mĩ, Nhật Bản không thể giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản nằm ngay trong bản thân nền kinh tế tư bản chủ nghĩa." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Về chính trị, từ năm 1955 trở đi, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền ở Nhật Bản (cho đến năm 1993). Đáng chú ý là dưới thời Thủ tướng Ikêđa Hayatô (1960 - 1964), Nhật Bản chủ trương xây dựng một ""Nhà nước phúc lợi chung và đưa ra kế hoạch tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong vòng 10 năm (1960 - 1970). Chính trong thời gian này, kinh tế Nhật Bản đã có sự phát triển ""thần kì"". Nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản là liên minh chặt chẽ với Mĩ. Hiệp ước An ninh Mĩ - Nhật kí năm 1951 có giá trị trong 10 năm, sau đó được kéo dài vĩnh viễn. Năm 1956, Nhật Bản đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Liên Xô và cũng trong năm này trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản vì hoà bình, dân chủ và dân sinh, chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam, cũng như các cuộc đấu tranh theo mùa (mùa xuân và mùa thu) kể từ năm 1954 trở đi đòi tăng lương, cải thiện đời sống luôn diễn ra mạnh mẽ." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sau giai đoạn phát triển ""thần kì"", do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, từ năm 1973 trở đi, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản thường xen kẽ với những giai đoạn suy thoái. Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn đứng thứ hai trong thế giới tư bản (sau Mĩ). Từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới với dự trữ vàng và ngoại tê gấp 3 lần Mĩ, 1,5 lần CHLB Đức. Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới. Về chính trị, từ năm 1973 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do tiếp tục cầm quyền (từ Thủ tướng Tanaca đến Thủ tướng Miyadao, đưa Nhật Bản vượt qua khó khăn để tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh căng thẳng trong những năm 70 - đầu những năm 80, lực lượng phòng vê của Nhật Bản được tăng cường. Lực lượng phòng vệ dân sự không ngùng tăng lên, được trang bị hiện đại. Nếu năm 1952, Nhật Bản mới có 75 000 quân thỉ đến những năm 70 là 269 000 quân. Chi phí quốc phòng tuy không vượt quá 1% GDP, nhưng vỉ khối lượng GDP của Nhật Bản rất lớn, nên trên Thực tế, ngân sách quốc phòng của Nhật Bản cũng rất lớn. Theo Hiệp ước An ninh Nhật - Mĩ, số quân Mĩ đóng ở Nhật Bản là 46 000 người. Những căn cứ quan trọng nhất của Mĩ được đặt trên đáo ôkinaoa." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Với sức mạnh kinh tế - tài chính ngày càng lớn, từ nửa sau những năm 70, Nhật Bản cố gắng đưa ra chính sách đối ngoại riêng của mình. Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (ngày 21 - 9), bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Năm 1978, Hiệp ước Hoà bình và Hữu nghị Nhật - Trung đã được kí kết. Sự ra đời của ""học thuyết Phucưđa tháng 8 - 1977 được coi như là mốc đánh dấu sự ""trở về Châu Á của Nhật Bản, trong khi vẫn coi trọng quan hệ Nhật - Mĩ, Nhật - Tây Âu. ""Học thuyết Kaiphu do Thủ tướng Kaiphu đưa ra năm 1991 là sự phát triển tiếp tục học thuyết Phucưđa trong điều kiện lịch sử mới. Nội dung chính của học thuyết Phucưđa là củng cố mới quan hệ với các nước Đông Nam Á trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và là bạn hàng bình đẳng của các nước ASEAN." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Trong thập niên 90, mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới. Tỉ trọng của Nhật Bản trong nền sản xuất của thế giới là 1/10. GDPcủa Nhật Bản năm 2000 là 4 746 tỉ USD, thu nhập bình quân trên đâu người là 37 408 USD. Khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản tiếp tục phát triển ở trình độ cao, tập trung vào lĩnh vực sản xuất phục vụ nhu cầu dân dụng. Trong công cuộc chinh phục vũ trụ, tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vê tinh và hợp tác có hiệu quả với Mĩ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế. Về chính trị, sau 38 năm Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền (1955 - 1993), từ năm 1993 đến năm 2000, các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau đã tham gia nắm quyền lãnh đạo, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định. Chỉ trong 3 năm, từ năm 1993 đến năm 1996, Nhật Bản đã có tới 5 lân thay đổi nội các (tù Thủ tướng Hôsôkaoa đến Thủ tướng Hasimôtô). Trận động đốt ở Côbê (1 - 1995) gây thiệt hại lớn về người và của, vụ khủng bố bằng hơi độc trong đường tàu điện ngâm của giáo phái Aum (3 - 1995), nạn thốt nghiệp tăng cao... đã làm cho nhiều người Nhật Bản hết sức lo lắng." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Trong thập niên 90, mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới. Tỉ trọng của Nhật Bản trong nền sản xuất của thế giới là 1/10. GDPcủa Nhật Bản năm 2000 là 4 746 tỉ USD, thu nhập bình quân trên đâu người là 37 408 USD. Khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản tiếp tục phát triển ở trình độ cao, tập trung vào lĩnh vực sản xuất phục vụ nhu cầu dân dụng. Trong công cuộc chinh phục vũ trụ, tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vê tinh và hợp tác có hiệu quả với Mĩ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế. Về chính trị, sau 38 năm Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền (1955 - 1993), từ năm 1993 đến năm 2000, các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau đã tham gia nắm quyền lãnh đạo, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định. Chỉ trong 3 năm, từ năm 1993 đến năm 1996, Nhật Bản đã có tới 5 lần thay đổi nội các (tù Thủ tướng Hôsôkaoa đến Thủ tướng Hasimôtô). Trận động đốt ở Côbê (1 - 1995) gây thiệt hại lớn về người và của, vụ khủng bố bằng hơi độc trong đường tàu điện ngâm của giáo phái Aum (3 - 1995), nạn thốt nghiệp tăng cao... đã làm cho nhiều người Nhật Bản hết sức lo lắng." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Về đối ngoại, Nhật Bản tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ. Tháng 4 - 1996, trong chuyến thăm của Tổng thống Mĩ B. Clintơn đến Nhật Bản, hai bên đã ra tuyên bố tái khẳng định việc kéo dài vĩnh viễn Hiệp ước An ninh Mĩ - Nhật. Mặt khác, với các học thuyết Miyadaoa (1 - 1993) và học thuyết Hasimôtô (1 - 1997), Nhật Bản vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tác khác trên phạm vi toàn cầu. Với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, kể từ đầu thập niên 90 đến nay, các quan hệ hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản với các nước NICs và ASEAN tiếp tục gia tăng với tốc độ ngày càng mạnh mẽ. Tính đến năm 1995, xuất nhập khẩu của Nhật Bản vào khu vục này tăng liên tục trong 13 năm liền. Với các nước ASEAN, đâu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản tăng rất nhanh, năm 1990 tăng 7,8 lân so với năm 1989, và đến năm 1995 tăng 11,2%. Viện trợ ODA của Nhật Bản dành cho Châu Á năm 1998 là 5,28 tỉ USD (chiếm 50% tổng viện trợ ODA trên toàn thế giới), trong đó, tổng số vốn ODA dành cho Việt Nam là 103,2 tỉ yên (tương đương 733,26 triệu USD). Như vậy, vai trò, vị trí và ảnh hưởng của Nhật Bản ngày càng lớn trên trường quốc tế cả về kinh tế và chính trị. Về văn hoá, là một nước tư bản phát triển, nhưng Nhật Bản vẫn lưu giữ được những giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá của mình. Sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại là nét đáng chú ý trong đời sống văn hoá Nhật Bản. Không chỉ văn, thơ, nhạc, hoạ, kiến trúc hiện đại Nhật Bản đã có được chỗ đứng trên thế giới, mà ngay các giá trị văn hoá truyền thống như Hoa đạo, Trà đạo v.v... cũng rất được quan tâm ở nước ngoài." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"dưới thời Ăng-co, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Người ta đào nhiều hồ, kênh, máng đề trữ và điều phối nước tưới. Hồ Ba-ray tây có diện tích rộng 14000 ha, chứa được 47,7 triệu mét khối nước. Ngoài nông nghiệp, cư dân còn đánh bắt cá ở biển Hổ, khai thác lâm sản quý và săn bắt thứ trên rừng. Thủ công nghiệp ở Cam-pu-chia đã có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đồ trang sức và chạm khắc trên đá, trên các bức phù điêu của các đền tháp. Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Cam-pu-chia thời Ảng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài. Trong các thế kỉ X - XII, Cam-pu-chia trỏ thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất Đông Nam Á. dưới thời Giay-a-vác-man VII (1181 - 1201), quân Cam-pu-chia đã tiến đánh Cham-pa (1190) và biến vương quốc này thành một tỉnh của Ăng-co, sau đó lại tiến hành thu phục vùng trung và hạ lưu Mê Nam, tiến đến tận Say Phong (gần Viêng Chăn). Ở thượng luư sông Mê Nam, vua Giay-a-vác-man VII đã tiến đánh và thu phục địa bàn của vương quốc Môn Ha-ri-pun-giay-a, tiến tới sát biên giới Mi-an-ma. về phía nam, lãnh thổ Cam-pu-chia được mỏ rộng tối miền Bắc bản đảo Mã Lai. Nhưng từ cuối thế kỉ XIII, Cam-pu-chia bắt đầu suy yêu. thêm vào đó, Vương quốc Thái thành lập vào thế kỉ XIV đã nhiều lần gáy chiến với Cam-pu-chia, tàn phá kinh thành Ảng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm, năm 1432 người Khơ-me phải bỏ kinh đô Ảng-co, lui về phía nam biển Hồ, tức là khu vực Phnôm Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Cam-pu-chia luôn phải đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tinh hình diễn biến rất phức tạp, khiến đất nước Cam-pu-chia hầu như suy kiệt khi thực dân Pháp đến xâm lược (1863). Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Cam-pu-chia đã xây dựng nên một nền văn hoá riêng, hết sức độc đáo. Từ những thế k í đầu Công nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người An. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên hệ thống chữ viết riêng của mình. Từ đó về sau, các bài văn bịa, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng chữ Phạn, còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến,Bài 9: Vương quốc Cam-pu-chia và vương quốc Lào,"dưới thời Ăng-co, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Người ta đào nhiều hồ, kênh, máng đề trữ và điều phối nước tưới. Hồ Ba-ray tây có diện tích rộng 14000 ha, chứa được 47,7 triệu mét khối nước. Ngoài nông nghiệp, cư dân còn đánh bắt cá ở biển Hổ, khai thác lâm sản quý và săn bắt thứ trên rừng. Thủ công nghiệp ở Cam-pu-chia đã có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đồ trang sức và chạm khắc trên đá, trên các bức phù điêu của các đền tháp. Nhờ sự ổn định vững chắc về kinh tế, xã hội, các vua Cam-pu-chia thời Ảng-co đã không ngừng mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài. Trong các thế kỉ X - XII, Cam-pu-chia trỏ thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất Đông Nam Á. dưới thời Giay-a-vác-man VII (1181 - 1201), quân Cam-pu-chia đã tiến đánh Cham-pa (1190) và biến vương quốc này thành một tỉnh của Ăng-co, sau đó lại tiến hành thu phục vùng trung và hạ lưu Mê Nam, tiến đến tận Say Phong (gần Viêng Chăn). Ở thượng luư sông Mê Nam, vua Giay-a-vác-man VII đã tiến đánh và thu phục địa bàn của vương quốc Môn Ha-ri-pun-giay-a, tiến tới sát biên giới Mi-an-ma. về phía nam, lãnh thổ Cam-pu-chia được mỏ rộng tối miền Bắc bản đảo Mã Lai. Nhưng từ cuối thế kỉ XIII, Cam-pu-chia bắt đầu suy yêu. thêm vào đó, Vương quốc Thái thành lập vào thế kỉ XIV đã nhiều lần gáy chiến với Cam-pu-chia, tàn phá kinh thành Ảng-co. Sau 5 lần bị người Thái xâm chiếm, năm 1432 người Khơ-me phải bỏ kinh đô Ảng-co, lui về phía nam biển Hồ, tức là khu vực Phnôm Pênh ngày nay. Từ đó, chính quyền phong kiến Cam-pu-chia luôn phải đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài và lao vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Tinh hình diễn biến rất phức tạp, khiến đất nước Cam-pu-chia hầu như suy kiệt khi thực dân Pháp đến xâm lược (1863). Trong hơn một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, người Cam-pu-chia đã xây dựng nên một nền văn hoá riêng, hết sức độc đáo. Từ những thế kỉ đầu Công nguyên, người Khơ-me đã học chữ Phạn của người An. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ VII, người Khơ-me đã sáng tạo nên hệ thống chữ viết riêng của mình. Từ đó về sau, các bài văn bịa, ngoài phần mở đầu theo thói quen viết bằng chữ Phạn, còn phần lớn đều được viết bằng chữ Khơ-me cổ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Sau Cách mạng 1905 - 1907, Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế, đứng đầu là Nga hoàng Ni-cô-lai II. Sự tồn tại của chế độ quân chủ và những tàn tích phong kiến không chỉ làm cho đời sống nhân dân Nga ngày càng khó khăn mà còn kìm hãm nặng nề sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước này. Năm 1914, Nga hoàng tham gia cuộc chiến tranh đế quốc, gậy nên những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước: kinh tế suy sụp, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi... quân đội liên tiếp thua trận. Mọi nỗi khổ đè nặng lên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân, công nhân Nga và hơn 100 dân tộc khác trong đế quốc Nga. Phong trào phản đối chiến tranh, đòi lật đổ chế độ Nga hoàng lan rộng khắp trong nước. Chính phủ Nga hoàng ngày càng tỏ ra bất lực, không còn khả năng tiếp tục thống trị như cũ được nữa. Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Tháng 2 -1917 (theo lịch Ng , cuộc cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ ở Nga. Sự kiên mở đầu là cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công nhân ở Thủ đô  Pê-tơ-rô-grát (nay là Xanh Pê-téc-bu . Phong trào nhanh chóng lan rộng toàn thành phố và chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, bắt giam các bộ trưởng và tưổng tá của Nga hoàng. Chế độ quân chủ chuyên chế sụp đổ. Tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thủ đô đã lan nhanh khắp trong nước. Chỉ trong vòng 8 ngày, trên phạm vi cả nước, quần chúng nhân dân đã vùng dậy lật đổ chế độ cũ, bầu ra các xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Giai cấp tư sản thành lập Chính phủ lâm thời. Nước Nga trở thành nước Cộng hoà. Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai thắng lợi. Tuy nhiên, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng có đã diễn ra ở nước Nga. Đó là tình trạng hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại lâu dài. Trước tình hình đó, Lê-nin và Đảng bốnsêvích đã chuẩn bị kế hoạch tiếp tục làm cách mạng, lật đổ Chính phủ tư sản lâm thời." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 9: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),"Tháng 4 - 1917, Lê-nin có bản báo cáo quan trọng trước Trung ương Đảng bốnsêvích (sau này đã đi vào lịch sử với tên gọi Luận cỗơng tháng tỗ), chỉ ra mục tiêu và đường lối chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trải qua 8 tháng đấu tranh, từ đấu tranh hoà bình nhằm tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo đề đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, Đảng bốnsêvích đã chuyển sang khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đầu tháng 10 - 1917, không khí cách mạng bao trùm khắp nước Nga. Ngày 7 -10 (20 -10), Lê-nin bí mật rời Phần Lan về Pê-tơ-rô-grát, trực tiếp chỉ đạo cách mạng. Các đội Cận vệ đỏ ra đời. Trung tâm Quân sự cách mạng được thành lập đề lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu đến 24 - 10 (6 - 11). Các đội Cận vê đỏ đã nhanh chóng chiếm được những vị trí then chốt ở Thủ đô. Đêm 25 -10 (7 -11), quân khởi nghĩa chiếm Cung điên Mùa Đông. Toàn bộ Chính phủ tư sản lâm thời (trừ Thủ tướng Kê-ren-xki) bị bắt. Ngày 25 -10 (7 -11) trở thành ngày thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Tiếp theo, khởi nghĩa thắng lợi ở Mát-xcơ-va; đầu năm 1918, cách mạng giành được thắng lợi hoàn toàn trên đất nước Nga rộng lớn." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sau khi nền kinh tế phục hồi và đạt mức trước chiến tranh, từ năm 1952 đến năm 1960, Nhật Bản có bước phát triển nhanh. Từ năm 1960 đến năm 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển ""thần kì"". Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Nhật bản từ năm 1960 đềh năm 1969 là 10,8%, từ năm 1970 đến năm 1973 tuy có giám đi nhưng vẫn đạt bình quân 7,8%, cao hơn các nước phát triển khác. Năm 1968, kinh tế Nhật bản đã vượt Anh, Pháp, CHLB Đức, vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư bản (sau Mĩ). Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới (cùng với Mĩ và tây Âu). Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản rất coi trọng phát triển giáo dục và khoa học - kĩ thuật. Đặc biệt, Nhật Bản đã tìm cách rứt ngắn khoảng cách về sự phát triển khoa học - kĩ thuật bằng cách mua bằng phát minh sáng chế và chuyển giao công nghệ. Tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua bằng phát minh của nước ngoài trị giá 6 tỉ USD.  Đến giữa thập kỉ 70, chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản trong tỉ lê GDP đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ). Khoa học - kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất phục vụ nhu cầu dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn. Ngoài các sàn phâm dân dụng nổi tiếng thế giới (nhưtivi, tủ lạnh, ô tô v.v...), Nhật Bàn có thể đóng được tàu chở dâu có trọng tài 1 triệu tấn; xây dụng các công trinh to lớn như đường ngâm dưới biển dài 53,8 km nối 2 đào Hônsu và Hốccaiđô, cầu đường bộ dài 9,4 km nối hai đào Hônsu và Sicôcưv.v..." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sau giai đoạn phát triển ""thần kì"", do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới, từ năm 1973 trở đi, sự phát triển kinh tế của Nhật Bản thường xen kẽ với những giai đoạn suy thoái. Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn đứng thứ hai trong thế giới tư bản (sau Mĩ). Từ nửa sau những năm 80, Nhật Bản đã vươn lên thành siêu cường tài chính số một thế giới với dự trữ vàng và ngoại tê gấp 3 lần Mĩ, 1,5 lần CHLB Đức. Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới. Về chính trị, từ năm 1973 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do tiếp tục cầm quyền (từ Thủ tướng Tanaca đến Thủ tướng Miyadao, đưa Nhật Bản vượt qua khó khăn đề tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh căng thẳng trong những năm 70 - đầu những năm 80, lực lượng phòng vê của Nhật Bản được tăng cường. Lực lượng phòng vệ dân sự không ngùng tăng lên, được trang bị hiện đại. Nếu năm 1952, Nhật bản mối có 75 000 quân thỉ đến những năm 70 là 269 000 quân. Chi phí quốc phòng tuy không vượt quá 1% GDP, nhưng vỉ khối lượng GDP của Nhật bản rất lớn, nên trên thực tế, ngân sách quốc phòng của Nhật bản cũng rât lốn. Theo Hiệp ưốc An ninh Nhật - Mĩ, số quân Mĩ đóng ở Nhật bản là 46 000 người. Những căn cứ quan trọng nhất của Mĩ được đặt trên đáo ôkinaoa." 10 + 11 + 12,"Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)",Bài 9: Nhật Bản,"Sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại cho Nhật Bản những hậu quả hết sức nặng nề. Khoảng 3 triệu người chết và mất tích; 40% đô thị, 80% tàu bè, 34% máy móc công nghiệp bị phá huỷ; 13 triệu người thất nghiệp. Thám hoạ đói rét đe doạ toàn nước Nhật Bản. Theo quy định của Hội nghị Pốtxđam, Nhật Bản sau chiến tranh tuy bị lực lượng Đồng minh, thực tế là Mĩ chiếm đóng từ năm 1945 đến năm 1952, nhưng Chính phủ Nhật Bản vẫn được phép tồn tại và hoạt động. Về chính trị, Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (SCAP) đã thi hành một số biện pháp để loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản. Quân đội và toàn bộ ngành công nghiệp quân sự Nhật Bản bị giải thể. Toà án quân sự Viễn Đông được lập ra để xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản (kết án 7 tên tử hỉnh, 16 tên tù chung thân). Các đáng phái quân phiệt bị giải tán, khoảng 290 000 người liên quan đến chế độ quân phiệt trước đây bị loại khỏi bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũ (1889) của Nhật Bản bị bãi bỏ, thay vào đó là Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 3 - 5 - 1947. Về thể chế, Nhật Bản là nước quân chủ lập hiên, nhưng thực tế là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: chủ quyền của toàn dân, vai trò tượng trưng của Thiên hoàng và hoà bình, tôn trọng những quyền cơ bản của con người." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Để khôi phục đất nước sau chiên tranh, nhân dân Xô viết đã thực hiện thành công Chính sách kinh tê mới (1921 - 1925) và triển khai công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trải qua hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, Liên Xô đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt và trở thành một cường quốc công nghiệp xã hội chủ nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Năm 1921, nước Nga Xô viêt bước vào thời kì hoà bình xây dựng đất nước trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Nền kinh tế quốc dân bị tàn phá nghiêm trọng, tình hình chính trị không ổn định, các lực lượng phản cách mạng điên cuồng chống phá, gây bạo loạn ở nhiều nơi. Trong bối cảnh đó, tháng 3 -1921, Đảng Bônsêvích Nga quyêt định thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lê-nin đề xướng, bao gồm các chính sách chủ yêu về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và tiền tệ. Trong nông nghiệp, Nhà nước thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thu thuế lương thực. Thuế lương thực nộp bằng hiện vật. Sau khi nộp đủ thuế đã quy định từ trước mùa gieo hạt, nông dân toàn quyền sử dụng sô lương thực dư thừa và được tự do bán ra thị trường. Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung khôi phục công nghiệp nặng, cho phép tư nhân được thuê hoặc xây dựng những xí nghiệp loại nhỏ (dưới 20 công nhân) có sự kiểm soát của Nhà nước; khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, kinh doanh ở Nga. Nhà nước nắm các ngành kinh tế chủ chôt như công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng, ngoại thương. Nhà nước chân chỉnh việc tổ chức, quản lí sản xuất công nghiệp. Phần lớn các xí nghiệp chuyển sang chế độ tự hạch toán kinh tế, cải tiến chế độ tiền lương nhằm nâng cao năng suât lao động.  Trong lĩnh vực thương nghiệp và tiền tệ, tư nhân được tự do buôn bán, trao đổi, mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị và nông thôn. Năm 1924, Nhà nước phát hành đổng rúp mới thay cho các loại tiền cũ. Bằng việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, chỉ sau một thời gian ngắn, nền kinh tế quốc dân của nước Nga Xô viết đã có những chuyển biến rõ rệt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Chính sách kinh tế mới là sự chuyển đổi kịp thời từ nền kinh tế do Nhà nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng vẫn đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Với chính sách này, nhân dân Xô viết đã vượt qua được những khó khăn to lớn, phấn khởi sản xuất và hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế. Cho đến nay, Chính sách kinh tế mới còn để lại nhiều kinh nghiệm đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước trên thế giới. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi các dân tộc trên lãnh thổ Xô viết phải liên minh chặt chẽ với nhau nhằm tăng cường sức mạnh về mọi mặt. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê-nin, Đại hội lần thứ nhất các xô viết toàn Liên bang, diễn ra cuối tháng 12 -1922, đã tuyên bố thành lập Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô), gồm 4 nước Cộng hoà Xô viết đầu tiên là Nga, U-crai-na, Bê-lô-rút-xi-a và Ngoại Cáp-ca-dơ . Mặc dù có sự chệnh lệch về trình độ phát triển kinh tế, về dân sô và diện tích giữa các nước cộng hoà, nhưng tư tưởng chỉ đạo cơ bản của Lê-nin trong việc thành lập Liên Xô là sự bình đang về mọi mặt và quyền tự quyết của các dân tộc, sự giúp đỡ lẫn nhau vì mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ngày 21 -1 -1924, Lê-nin, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản, người đứng đầu Đảng và Nhà nước Xô viết qua đời. Đó là một tổn thất to lớn đối với nhân dân Liên Xô, giai cấp công nhân quốc tế và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Sau khi Lê-nin mất, Xta-lin lên thay, tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Liên Xô trong những năm 1924 - 1953." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, nhân dân Liên Xô bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiêm vụ trọng tâm là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.  Liên Xô thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá theo đường lối ưu tiên phát trien công nghiệp nặng: công nghiệp chế tạo máy móc và nông cụ, công nghiệp năng lượng (điện, than, dầu mỏ...), công nghiệp khai khoáng, công nghiệp quốc phòng... Trong 2 năm đầu (1926 -1927), Liên Xô đã từng bước giải quyết thành công các vấn đề về vốn đầu tư, đào tạo cán bộ kĩ thuật, công nhân lành nghề... Công cuộc công nghiệp hoá ngày càng mở rộng đòi hỏi phải có những kế hoạch dài hạn với những mục tiêu cụ thể cho từng thời kì. Đó là những kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 - 1932) và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933 - 1937) đều được hoàn thành trước thời hạn. Qua hai kế hoạch 5 năm, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa Liên Xô từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một cường quốc công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Năm 1937, sản lượng công nghiệp chiếm 77,4% tổng sản phẩm quốc dân." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Trong nông nghiệp, 93% số nông hộ với trên 90% diên tích canh tác đã được đưa vào nền nông nghiệp tập thể hoá, có quy mô sản xuất lớn và cơ sở vật chất - kĩ thuật được cơ giới hoá. Về văn hoá - giáo dục, Liên Xô đã thanh toán nạn mù chữ, xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các thành phố. Cùng với những biến đổi về kinh tế, cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi. Các giai cấp bóc lột bị xoá bỏ, chỉ còn lại hai giai cấp lao động là công nhân và nông dân tập thể cùng tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1937, nhân dân Liên Xô tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, nhưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tạm thời bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức. Tuy có một số sai lầm, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước (không thực hiện tốt nguyên tắc tự nguyên trong tập thể hoá nông nghiệp, chưa chú trọng đúng mức đến việc nâng cao đời sống nhân dân...), công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những năm 1925 -1941 vẫn đạt được những thành tựu to lớn, tạo nên những biến đổi về nhiều mặt, có lợi cho nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh để bảo vệ Tổ quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Sau Cách mạng tháng Mười, Chính quyền Xô viết đã từng bước thiết lập quan hệ ngoại giao với một số nước láng giềng ở Châu Á và Châu Âu. Tổn tại giữa vòng vây thù địch của chủ nghĩa tư bản thế giới, Liên Xô đã kiên trì và bền bỉ đấu tranh trong quan hệ quốc tế, từng bước phá vỡ chính sách bao vây, cô lập về kinh tế và ngoại giao của các nước đế quốc. Trong vòng 4 năm (1922 -1925), các cường quốc tư bản: Đức, Anh, I-ta-li-a, Pháp, Nhật Bản lần lượt công nhân và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đầu năm 1925, Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với trên 20 quốc gia. Năm 1933, Mĩ -cường quốc tư bản đứng đầu thế giới - đã công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đó là thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết, khang định uy tín ngày càng cao của Liên Xô trên trường quốc tế." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Từ thế kỉ V, trên lãnh thổ của đế quốc Rô-ma rộng lớn trước kia, dần hình thành các quốc gia của người Giéc-man, quan hệ sản xuất phong kiến cũng dần dần được thiết lập và củng cố. Sự xuất hiện của các thành thị trung đại vào thế kỉ XI - XII đã có một vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của xã hội Châu Âu thời trung đại." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Từ thế kỉ III, đế quốc Rô-ma dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng. Hình thức bóc lột chiếm hữu nô lệ không còn phù hợp. Cuộc đấu tranh của nô lệ dẫn đến tình trạng sản xuất bị sút kém, xã hội rối ren. Trong tình hình đó, đến cuối thế kỉ V, đế quốc Rô-ma bị người Giéc-man từ phương Bắc tràn xuống xâm chiếm. Năm 476, đế quốc Rô-ma bị diệt vong. Chế độ chiếm nô kết thúc ở khu vực Địa Trung Hải, thời đại phong kiến bắt đầu ở Châu Âu. Khi vào lãnh thổ của Rô-ma, người Giéc-man đã thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thành lập nhiều vương quốc mới của họ như vương quốc của người Ăng-glô Xắc-xông, Vương quốc Phơ-răng, Vương quốc Tây Gốt, Đông Gốt... Người Giéc-man còn chiếm ruộng đất của chủ nô Rô-ma cũ rồi chia cho nhau, trong đó các tướng lĩnh quân sự và quý tộc được phần nhiều hơn. Đồng thời, các thủ lĩnh bộ lạc, các quý tộc thị tộc người Giéc-man cũng tự xưng vua, phong các tước vị như công tước, bá tước, nam tước v.v... tạo nên hệ thống đẳng cấp quý tộc vũ sĩ. Người Giéc-man cũng từ bỏ các tôn giáo nguyên thuỷ của mình và tiếp thu Kitô giáo. Họ xây dựng nhà thờ và tìm cách chiếm ruộng đất của nông dân. Đồng thời, nhà vua cũng phong tặng đất đai theo tước vị cho các quý tộc và nhà thờ. Tầng lớp quý tộc tăng lữ được hình thành. Thế là cùng với các quý tộc vũ sĩ và quan lại, quý tộc tăng lữ cũng dần trở thành tầng lớp riêng, vừa có đặc quyển vừa rất giàu có. Họ trở thành các lãnh chúa phong kiến, còn nô lệ và nông dân thì biến thành nông nô, phụ thuộc vào các lãnh chúa. Quan hệ sản xuất phong kiến ở Châu Âu đã được hình thành. Quá trình này diễn ra rõ nét và mạnh mẽ nhất ở Vương quốc Phơ-răng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất đã làm cho nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường ngày một tăng. Nhưng từ thế kỉ XV, con đường giao lưu buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải lại do người Ả-rập độc chiếm. Vấn để cấp thiết đang được đặt ra là phải tìm con đường thương mại giữa phương Đông và Châu Âu. Vào thời điểm đó, khoa học - kĩ thuật có những bước tiến quan trọng. Đây chính là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí. Các nhà hàng hải hiểu biết nhiều về đại dương, có quan niệm đúng đắn về hình dạng Trái Đất. Người ta đã vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ các vùng đất, các hòn đảo có cư dân. Máy đo góc thiên văn, la bàn được sử dụng trong việc định hướng giữa đại dương bao la. Kĩ thuật đóng tàu có những tiến bộ mới, đóng được tàu có bánh lái và hệ thống buồm lớn như loại tàu Ca-ra-ven. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong trong các cuộc thám hiểm, khám phá ra những miền đất mới." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Năm 1487, B. Đi-a-xơ (1450 - 1500) là hiệp sĩ ""Hoàng gia đã dẫn đầu đoàn thám hiểm đi vòng qua cực Nam của Châu Phi"". Điểm đó được ông đặt tên là mũi Bão Tố, sau gọi là mũi Hảo Vọng. Tháng 8- 1492, C. Cô-lôm-bô (1451 ? - 1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ Tây Ban Nha đi về hướng Tây. Sau hơn 2 tháng lênh đểnh trên Đại Tây Dương, ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê ngày nay, nhưng ông tưởng đây là miền ""Đông Ấn Độ"". Cô-lôm-bô được coi là người phát hiện ra cháu Mĩ. Tháng 7-1497, Va-xcô dơ Ga-ma (1469? - 1524) chỉ huy đoàn thuyền Bồ Đào Nha rời cảng Li-xbon, đi tìm xứ sở huyền thoại của hương liệu và vàng ở phương Đông. Tháng 5- 1498, ông đã đến Ca-li-cút thuộc bờ Tây Nam Ấn Độ. Trở về Li-xbon, Va-xcô đơ Ga-ma được phong làm Phó vương Ấn Độ. Ph. Ma-gien-lan (1480 - 1521) là người đã thực hiện chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới bằng đường biển từ năm 1519 đến năm 1522. Đoàn tàu của ông đi vòng qua điểm cực Nam của Nam Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gien-lan) tiến vào đại dương, mà ông đặt tên là Thái Bình Dương. Tại Phi-líp-pin, ông bị thiệt mạng trong lúc giao tranh với thổ dân. Cuối cùng, đoàn thám hiểm chỉ còn 1 thuyền và 18 thuỷ thủ đã về đến bờ biển Tây Ban Nha." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Phát kiến địa lí đã mở ra một trang mới trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Nó đã khẳng định Trái Đất hình cầu, mở ra những con đường mới, những vùng đất mới, những dân tộc mới, những kiến thức mới, tăng cường giao lưu văn hoá giữa các châu lục. Thị trường thế giới được mở rộng, hàng hải quốc tế phát triển. Đồng thời, nó cũng thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu. Tuy nhiên cùng với những yếu tố tích cực, các cuộc phát kiến địa lí đã nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Phát kiến địa lí đã mở ra một trang mới trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Nó đã khẳng định Trái Đất hình cầu, mở ra những con đường mới, những vùng đất mới, những dân tộc mới, những kiến thức mới, tăng cường giao lưu văn hoá giữa các châu lục. Thị trường thế giới được mở rộng, hàng hải quốc tế phát triển. Đồng thời, nó cũng thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu. Tuy nhiên cùng với những yếu tố tích cực, các cuộc phát kiến địa lí đã nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Sau các cuộc phát kiến địa lí, kinh tế ở Châu Âu phát triển nhanh. Tầng lớp quý tộc, thương nhân Tây Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước ở châu Mĩ, Châu Phi và châu Á. Giai cấp tư sản tích luỹ được số vốn ban đầu bằng sự cướp bóc thực dân. Đồng thời, họ còn dùng bạo lực đế cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Ở Anh diễn ra phong trào ""rào đất cưốp ruộng"", biến ruộng đất thành đồng cỏ nuôi cùu. Hàng vạn gia đình nông dân mất đất, đi lang thang, buộc phải làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngay ở thành thị, thợ thủ công cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất, trở thành người đí làm thuê. Đến đầu thế kỉ XVI, ỞTây Âu bắt đầu xuất hiện hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công thay thế các phường hội. Quy mô của các công xưởng thủ công lên tới hơn 100 người. Nhờ áp dụng kĩ thuật mới vào quy trình sản xuất, năng suất lao động tăng, sản phẩm nhiều hơn, giá cả hạ. Chủ xưởng tiến hành bóc lột những người lao động làm thuê, quan hệ giữa họ là quan hệ của chủ với thợ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành trong các công trường thủ công. Nhiều nơi ở nông thôn, sản xuất nhỏ của nông dân dần dần bị xoá bỏ và được thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại. Người lao động biến thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công ăn lương. Chủ ruộng đất trở thành tư sản nông thôn hay quý tộc mới.  Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ti thương mại thay cho các thương hội trưng đại. Từ những thay đổi nói trên, xã hội Tây Âu đã biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những chủ xưởng, chủ ngán hàng, chủ đồn điền hợp thành giai cấp tư sản. Những người làm thuê, bị bóc lột trở thành giai cấp vô sản." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Sau các cuộc phát kiến địa lí, kinh tế ở Châu Âu phát triển nhanh. Tầng lớp quý tộc, thương nhân Tây Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước ở châu Mĩ, Châu Phi và châu Á. Giai cấp tư sản tích luỹ được số vốn ban đầu bằng sự cướp bóc thực dân. Đồng thời, họ còn dùng bạo lực đế cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Ở Anh diễn ra phong trào ""rào đất cưốp ruộng"", biến ruộng đất thành đồng cỏ nuôi cùu. Hàng vạn gia đình nông dân mất đất, đi lang thang, buộc phải làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngay ở thành thị, thợ thủ công cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất, trở thành người đí làm thuê. Đến đầu thế kỉ XVI, Ở Tây Âu bắt đầu xuất hiện hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công thay thế các phường hội. Quy mô của các công xưởng thủ công lên tới hơn 100 người. Nhờ áp dụng kĩ thuật mới vào quy trình sản xuất, năng suất lao động tăng, sản phẩm nhiều hơn, giá cả hạ. Chủ xưởng tiến hành bóc lột những người lao động làm thuê, quan hệ giữa họ là quan hệ của chủ với thợ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành trong các công trường thủ công. Nhiều nơi ở nông thôn, sản xuất nhỏ của nông dân dần dần bị xoá bỏ và được thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại. Người lao động biến thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công ăn lương. Chủ ruộng đất trở thành tư sản nông thôn hay quý tộc mới.  Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ti thương mại thay cho các thương hội trưng đại. Từ những thay đổi nói trên, xã hội Tây Âu đã biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những chủ xưởng, chủ ngán hàng, chủ đồn điền hợp thành giai cấp tư sản. Những người làm thuê, bị bóc lột trở thành giai cấp vô sản." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Sau các cuộc phát kiến địa lí, kinh tế ở Châu Âu phát triển nhanh. Tầng lớp quý tộc, thương nhân Tây Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước ở châu Mĩ, Châu Phi và cháu Á. Giai cấp tư sản tích luỹ được số vốn ban đầu bằng sự cướp bóc thực dân. Đồng thời, họ còn dùng bạo lực đế cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Ở Anh diễn ra phong trào ""rào đất cướp ruộng"", biến ruộng đất thành đồng cỏ nuôi cừu. Hàng vạn gia đình nông dân mất đất, đi lang thang, buộc phải làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngay ở thành thị, thợ thủ công cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất, trở thành người đi làm thuê. Đến đầu thế kỉ XVI, Ở Tây Âu bắt đầu xuất hiện hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công thay thế các phường hội. Quy mô của các công xưởng thủ công lên tới hơn 100 người. Nhờ áp dụng kĩ thuật mới vào quy trình sản xuất, năng suất lao động tăng, sản phẩm nhiều hơn, giá cả hạ. Chủ xưởng tiến hành bóc lột những người lao động làm thuê, quan hệ giữa họ là quan hệ của chủ với thợ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành trong các công trường thủ công. Nhiều nơi ở nông thôn, sản xuất nhỏ của nông dân dần dần bị xoá bỏ và được thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại. Người lao động biến thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công ăn lương. Chủ ruộng đất trở thành tư sản nông thôn hay quý tộc mới.  Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ti thương mại thay cho các thương hội trưng đại. Từ những thay đổi nói trên, xã hội Tây Âu đã biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những chủ xưởng, chủ ngân hàng, chủ đồn điền hợp thành giai cấp tư sản. Những người làm thuê, bị bóc lột trở thành giai cấp vô sản." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Sau các cuộc phát kiến địa lí, kinh tế ở Châu Âu phát triển nhanh. Tầng lớp quý tộc, thương nhân Tây Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước ở châu Mĩ, Châu Phi và cháu Á. Giai cấp tư sản tích luỹ được số vốn ban đầu bằng sự cướp bóc thực dân. Đồng thời, họ còn dùng bạo lực đế cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Ở Anh diễn ra phong trào ""rào đất cướp ruộng"", biến ruộng đất thành đồng cỏ nuôi cừu. Hàng vạn gia đình nông dân mất đất, đi lang thang, buộc phải làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngay ở thành thị, thợ thủ công cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất, trở thành người đi làm thuê. Đến đầu thế kỉ XVI, Ở Tây Âu bắt đầu xuất hiện hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công thay thế các phường hội. Quy mô của các công xưởng thủ công lên tới hơn 100 người. Nhờ áp dụng kĩ thuật mới vào quy trình sản xuất, năng suất lao động tăng, sản phẩm nhiều hơn, giá cả hạ. Chủ xưởng tiến hành bóc lột những người lao động làm thuê, quan hệ giữa họ là quan hệ của chủ với thợ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành trong các công trường thủ công. Nhiều nơi ở nông thôn, sản xuất nhỏ của nông dân dần dần bị xoá bỏ và được thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại. Người lao động biến thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công ăn lương. Chủ ruộng đất trở thành tư sản nông thôn hay quý tộc mới.  Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ti thương mại thay cho các thương hội trưng đại. Từ những thay đổi nói trên, xã hội Tây Âu đã biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những chủ xưởng, chủ ngán hàng, chủ đồn điền hợp thành giai cấp tư sản. Những người làm thuê, bị bóc lột trở thành giai cấp vô sản." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu,"Bước sang giai đoạn hậu kì trưng đại, giai cấp tư sản mới ra đời, tuy có thế lực về kinh tế, song lại chưa có địa vị xã hội tương ứng. Cùng với việc con người bước đầu nhận thức được bản chất của thế giới, giai cấp tư sản đã đứng lên đấu tranh, chống lại giáo lí Kitô mang nặng những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến. Cuộc đấu tranh trước hết thể hiện qua phong trào Văn hoá Phục hưng. Giai cấp tư sản, một mặt muốn khôi phục lại tinh hoa văn hoá xán lạn của các quốc gia cổ đại Hi Lạp và Rô-ma, mặt khác cũng góp phần xây dựng một nền văn hoá mới, đề cao giá trị con người, đòi quyển tự do cá nhân, coi trọng khoa học - kĩ thuật. Trào lưu vãn h6a này được gọi là phong trào Văn hoá Phục hưng. Quê hương của phong trào Văn hoá Phục hưng là I-ta-li-a. Từ đây, phong trào Văn hoá Phục hưng đã lan nhanh sang các nước Tây Âu và trở thành một trào lưu rộng lớn. Thời đại Văn hoá Phục hưng chứng kiến sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - kĩ thuật, sự phát triển phong phú về văn học và sự nở rộ các tài năng. Những con người ""khổng lồ đã xuất hiện, toả ánh hào quang trong lịch sử: Ra-bơ-le vừa là nhà văn, vừa là nhà y học; Đê-các-tơ vừa là nhà toán học xuất sắc, vừa là nhà triết học lớn; Lê-ô-na đơ Vanh-xi vừa là hoạ sĩ thiên tài, vừa là kĩ sư nổi tiếng; sếch-xpia là nhà soạn kịch vĩ đại v.v... Văn hoá thời Phục hưng đã lên án nghiêm khắc Giáo hội Kitô, tấn công vào trật tự xã hội phong kiến, đề cao giá trị nhân bản và tự do cá nhân, xây dựng thế giới quan tiến bộ. Đây là cuộc đấu tranh công khai đầu tiên trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại giai cấp phong kiến lỗi thời. Nó đã cổ vũ và mở đường cho văn hoá Châu Âu phát triển hơn." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Vừa ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia bị lôi cuốn vào tình trạng đối đầu của cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Mĩ và Liên Xô, thậm chí có lúc như bên bờ của một cuộc chiến tranh thế giới mới. Tình hình đó đã trở thành nhân tố chủ yếu tác động và chi phối các quan hệ quốc tế trong hơn bốn thập kỉ của nửa sau thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Từ liên minh cùng nhau chống phát xít, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu, dần dần đi tới tình trạng chiến tranh lạnh. Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc. Liên Xô chủ trương duy trì hoà bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đổ bá chủ thế giới. Mĩ hết sức lo ngại ảnh hưởng to lớn của Liên Xô cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là sự thành công của cách mạng Trung Quốc với sự ra đời nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, trải dài từ Đông Âu tới phía đông châu Á. Nhưng cũng sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, vượt xa các nước tư bản khác, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới - như Tổng thống Truman công khai tuyên bố: Ngày nay Hoa Kì là một quốc gia mạnh, không có một quốc gia nào mạnh hơn... Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế, chúng ta (Mĩ) có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đao thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ là thông điệp của Tổng thống Truman tai Quốc hội Mĩ ngày 12 - 3 - 1947. Trong đó, Tổng thống Mĩ khẳng định: Sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho hai nước Hi Lap và Thổ Nhĩ Kì. Đó là ""Học thuyết Truman với nội dung quan trọng là xác lập hơn nữa mới quan hệ của Mĩ với Châu Âu nhằm: 1- Củng cố các chính quyền thân phương Tây và đẩy lùi phong trào đấu tranh yêu nước ở Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ; 2- Biến hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ thành những căn cứ tiền phương chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu; 3- Gạt bỏ ảnh hưởng của Anh có tù trước ở Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ. Như thế, học thuyết Truman là một sự tập hợp lực lượng của Mĩ nhằm phán ứng trước những thắng lợi và ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu. Hai là, vào đầu tháng 6 - 1947, Mĩ đề ra ""Kế hoạch Mácsan với khoản viện trợ khoảng 17 tỉ USD để giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Mặt khác, qua kế hoach này, Mĩ còn nhằm tập hợp các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc thực hiện ""Kế hoach Mácsan đã tao nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu tư bản chủ nghĩa và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Ba là, ngày 4 - 4 - 1949, Mĩ thành lập khối quân sự - TỔ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Tại thủ đô Oasinhtơn, Mĩ và 11 nước phương Tây (Anh, Pháp, Canada, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua, Đan Mạch, Na Uy, Aixơlen, Bồ Đào Nha đã kí Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương chính thức thành lập NATO; sau này thệm Hi Lạp (2 - 1952), Thổ Nhĩ Kỉ (2 - 1952), CHLB Đức (5 - 1955), Tây Ban Nha (5 - 1982) . Đây là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Ngay sau khi Hiệp ước NATO được phê chuẩn, Mĩ đã kí hàng loạt các hiệp định tay đôi với các nước thành viên về việc sử dụng vũ khí và thiết lập các căn cứ quân sự của Mĩ trên lãnh thổ các nước này. Để khôi phục đất nước sau chiến tranh, tháng 1 - 1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế, thực hiện sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN.  Tháng 5 - 1955, Liên Xô và các nước Đông Âu (Anbani, Ba Lan, Hunggari, Bungari, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Rumani) đã thành lập TỔ chức Hiệp ước Vácsava, một liên minh chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu. Sự ra đời của NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Tình hình trên cho thấy: Chiến tranh lạnh là cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai phe - phe tư bản chủ nghĩa do Mĩ cầm đầu và phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột. Chiến tranh lạnh đã diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hoá - tư tưởng... ngoại trừ sự xung đột trực tiếp bằng quân sự giữa hai siêu cường quốc. Tuy không nổ ra một cuộc chiến tranh thế giới, nhưng trong gần nửa thế kỉ của Chiến tranh lạnh, thế giới luôn nằm trong tình trạng căng thẳng, nhiều cuộc chiến tranh cục bộ đã diễn ra ở một số khu vực như Đông Nam Á, Đông Bắc Á và Trung Đông." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Trái với những thoả thuận tại các hội nghị Ianta và Pốtxđam (1945) về một giải pháp thống nhất nước Đức, ngày 23 - 2 - 1948, tại Luân Đôn, các nước Mĩ, Anh, Pháp đã cùng nhau đề ra một quy chế về tương lai cho việc hợp nhất ba khu vực chiếm đóng của họ. Liên Xô kịch liệt phản đối. Để trả đũa cho việc thoả thuận riêng rẽ này, ngày 31 - 3 - 1948, Liên Xô quyết định phong toả, kiểm soát tất cả các mới liên hệ giữa các khu vực Tây Béclin với Tây Đức. Tình hình Châu Âu trở nên căng thẳng. Các nước Tây Âu phải tổ chức cầu hàng không để duy trì việc tiếp tế cho Tây Béclin. Cuộc phong toả Béclin của Liên Xô kéo dài hơn 1 năm, được chấm dứt vào ngày 12 - 5 - 1949, sau khi cùng ngày các nước phương Tây bãi bỏ việc ngăn chặn buôn bán giữa các khu vực Tây và Đông Béclin.  Vào năm 1961, vấn đề nước Đức lại trở nên căng thẳng. Đó là, trước tình trạng di cư ổ ạt từ Đông Đức sang Tây Đức gây nên nhiều khó khăn, không ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội ở Đông Đức, đểm 12 - 8 - 1961, Chính phủ CHDC Đức đã xây dựng một bức tường với dây kẽm gai ngăn cách hai khu vực Đông và Tây Béclin. Từ đó, việc qua lại giữa hai khu vực ở Béclin bị đình chỉ, quan hệ giữa hai nhà nước Đức càng đối đầu quyết liệt." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp đã quay trở lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Cuộc chiến bùng nổ từ Sài Gòn (9 - 1945), tới tháng 12 - 1946 lan rộng trên toàn cõi Đông Dương. Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, nhân dân ba nước Đông Dương đã kiên cường chiến đấu bảo vệ nền độc lập. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (1 - 10 - 1949), cuộc kháng chiến của Việt Nam có điều kiện liên lạc và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Mĩ viện trợ cho Pháp và can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Chiến tranh Đông Dương ngày càng chịu sự tác động của hai phe. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (7 - 5 - 1954) của quân dân Việt Nam, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã được triệu tập với sự tham gia của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mĩ, Anh và các bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Pháp... Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (21 - 7 - 1954) đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Cuộc chiến ở Đông Dương đã chấm dứt, nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự. Hiệp định Giơnevơ đánh dấu thắng lợi của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, nhưng mặt khác cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe. Đại biểu Mĩ ra tuyên bố không chịu sự ràng buộc của Hiệp định nhằm chuẩn bị cho sự xâm lược sau này." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, theo thoả thuận giữa các Đồng minh, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc bán đảo Triều Tiên, quân đội Mĩ chiếm đóng miền Nam, lây vĩ tuyên 38 làm giới tuyên phân chia tạm thời. Năm 1948, hai chính quyền được thành lập riêng rẽ là Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quố ở phía Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc, được Mĩ và Liên Xô bảo trợ cho mỗi bên. Ngày 25 - 6 - 1950, quân đội CHDCND Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, mở cuộc tấn công quy mô tương đối lốn xuống phía nam. Sau gần ba tháng tốn công, tối 13 - 9 - 1950, quân đội CHDCND Triều Tiên đã chiếm 95% đốt đai và 97% dân số Hàn Quốc. Trước tình hình đó, Mĩ đã huy động toàn bộ lực lượng ở Viễn Đông đổ bộ vào cáng Nhân Xuyên (15 - 9 - 1950) dưối danh nghĩa ""quân đội Liên hợp quốc"", sau đó vượt qua vĩ tuyến 38, đánh chiếm miền Bắc, tiến tối sông Áp Lục giáp Trung Quốc. Tháng 10 - 1950, Quân chí nguyện Trung Quốc tiến vào Triều Tiên ""kháng Mĩ, viện Triều"". quân đội Triều - Trung đã đẩy lùi quân Mĩ khỏi Bắc vĩ tuyến 38. Sau đó, chiến sự tiếp diễn ở khu vục vĩ tuyến 38. Sau hơn ba năm chiên tranh, với những tổn thât nặng nề của cả hai bên, ngày 27 - 7 - 1953, Hiệp định đình chiến được kí kết giữa Trung Quốc - Triều Tiên với Mĩ - Hàn Quốc. Theo đó, vĩ tuyên 38 vẫn là ranh giới quân sự giữa hai miền Bắc, Nam Triều Tiên. Cuộc chiên tranh Triều Tiên là sự đụng đầu trực tiêp đầu tiên giữa hai phe, không phân thắng bại." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau khi cách mạng Cuba thắng lợi, Mĩ không ngừng chống phá công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Cuba. Tháng 10 - 1962, tình hình trở nên căng thẳng nghiêm trọng do ""cuộc khủng hoảng Caribê"". Trước sự đe doạ xâm lược của Mĩ, mùa hè 1962, hai Chính phủ Liên Xô và Cuba thỏa thuận: Liên Xô xây dụng căn cứ tên lửa đạn đạo tâm trung trên lãnh thổ Cuba để giúp Cuba báo vệ nền độc lập, an ninh của mỉnh. Lấy cố an ninh nước Mĩ bị đe doạ, tối 22 - 10 - 1962 Tổng thống Mĩ Kennơđi lên án những hoạt động quân sự của Liên Xô tại Cuba, thông báo quyết định của Chính phủ Mĩ là phong toá bằng hái quân quanh Cuba, gửi tối hậu thư đòi Liên Xô dỡ bỏ và rút tên lửa về nước. Cả thế giới lo lắng về nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới. Cuối cùng, ngày 26 - 10, hai bên đã thỏa thuận: Liên Xô rút tên lửa và cam kết không đưa tên lửa trở lại Cuba; Mĩ cam kết không xâm lược Cuba. Cuộc khủng hoảng kết thúc, nhưng quan hệ Mĩ - Cuba vân tiếp tục căng thẳng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, Mĩ đã nhanh chóng thay thế Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Nhưng mưu đổ của Mĩ đã vấp phải ý chí quật cường và cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe. Nhưng cuối cùng, mọi chiến lược chiến tranh của Mĩ đều bị phá sản. Tháng 1 - 1973, Hiệp định Pari được kí kết. Theo đó, Mĩ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân khỏi Việt Nam, cam kết không dính líu hoặc can thiệp về quân sự đối với nước ta. Đế quốc Mĩ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia. Nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, đến năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn. Tóm lại, trong thời kì Chiến tranh lạnh, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác nhau, đều liên quan tới sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Mặc dù Chiến tranh lạnh vẫn tiếp diễn, nhưng từ đầu những năm 70 xu hướng hoà hoãn Đông - Tây đã xuất hiên với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô - Mĩ. Trên cơ sở những thoả thuận Xô - Mĩ, ngày 9 - 11 - 1972, hai nước Đức - Cộng hoà Dân chủ và Cộng hoà Liên bang - đã kí kết tại Bản Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Theo đó, hai bên phải tôn trọng không điều kiện chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như của các nước Châu Âu trên đường biên giới hiện tại. Hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bỉnh thường trên cơ sở bình đẳng,giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng biện pháp hoà bình và sẽ tụ kiềm chế việc đe doạ bằng vũ lực hay sử dụng vũ lực. Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô, Mĩ đã thoả thuận về viêc hạn chế vũ khí chiến lược và ngày 26 - 5 kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM), sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là SALT - 1). Hiệp ước ABM quy định: Liên Xô và Mĩ mỗi nước chỉ được xây dụng hai hệ thống ABM với mỗi hệ thống có 100 tên lửa chống tên lửa. Sau đó, trong nam 1974 hai nước lại thỏa thuận mỗi nước chỉ có một hệ thống ABM. Với hai hiệp ước này, tù giữa những năm 70 đã hình thành thế cân bằng chiến lược giữa Liên Xô và Mĩ về lực lượng quân sự nói chung và về vũ khí hạt nhân chiến lược nói riêng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Cuối năm 2001, Mĩ đơn phương rút khỏi Hiệp ước ABM; điều này có thể dân đến một cuộc chạy đua vũ trang mới về vũ khí hạt nhân. Đầu tháng 8 - 1975, 33 nước Châu Âu cùng Mĩ và Canađa đã kí kết Định ước Henxinki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết hoà bình các tranh chấp... nhằm bảo đảm an ninh châu Âu và sự hợp tác giữa các nước về kinh tế, khoa học và kĩ thuật, bảo vệ môi trường v.v... Định ước Henxinki năm 1975 đánh đấu sự chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai khối nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu, đồng thời tạo nên một cơ chế giải quyết các vđn đề liên quan đến hoà bình, an ninh ở châu lục này. Cùng với các sự kiên trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô - Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ năm 1985 khi Goócbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô. Hầu như hằng năm đều diễn ra các cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ hai nước - Goócbachốp và Rigân, sau là Goócbachốp và Busơ (ch. Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học - kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thoả thuận về thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Tháng 12 - 1989, trong cuộc gặp không chỉnh thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Goócbachốp và Tổng thống Mĩ Busơ đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. Sở dĩ hai siêu cường Xô - Mĩ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh vỉ: Một là, cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập kỉ đã làm cho cả hai nước quá tốn kém và bị suy giám thế mạnh trên nhiều mặt so với các cường quốc khác. Hai là, sự vươn lên mạnh mẽ của Đức, Nhật Bản và Tây Âu... đã đặt ra nhiều khó khăn và thách thức to lớn. Các nước này đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với Mĩ. Còn Liên Xô lúc này nền kinh tế ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Do vậy, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ đều cân phái thoát khỏi thế đối đầu để ổn định và củng cố vị thế của mỉnh. Chiến tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện giải quyết hoà bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Ở Ápganixtan, Liên Xô và Mĩ đã thỏa thuận giải quyết cuộc xung đột với việc quân đội Liên Xô rút ra khỏi Ápganixtan. Tháng 10 - 1991, Hiệp định về một giải pháp chính trị toàn bộ ở Campuchia đã được kí kết tại Pari. Nhờ đó, cuộc xung đột kéo dài hơn một thập kỉ với những tội ác diệt chủng của chế độ Khơme đỏ đã chấm dứt. Những triển vọng tốt đẹp đã mở ra để xây dụng một nước Campuchia mới. Mối quan hệ giữa các nước trong khu vục được cái thiện nhằm xây dụng một Đông Nam Á hoà bình và ổn định, Ở Tây Năm Phi, quân đội Năm Phi và quân tỉnh nguyện Cuba đều rút khỏi Nămibia. Ngày 21 - 3 - 1990, Cộng hoà Nămibia tuyên bố độc lập. Tuy vậy, tình trạng Chiến tranh lạnh chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên bang Xô viết tan rã, trật tự hai cực không còn nữa." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, tới những năm 1989 - 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết. Ngày 28 - 6 - 1991, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể. Sau đó, ngày 1 - 7 - 1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động. Với ""cực"" Liên Xô tan rã, hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại, Trật tự thế giới hai cực Ianta đã sụp đổ. Thế ""hai cực của hai siêu cường không còn nữa, Mĩ là ""cực duy nhất còn lại. Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở Châu Âu và châu Á đã bị mất, ảnh hưởng của Mĩ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Từ sau năm 1991 đầy biến động, tình hình thế giới đã diễn ra những thay đổi to lớn và phức tạp. Một là, trật tự thế giới hai cực đã sụp đổ nhưng trật tự thế giới mới lại đang trong quá trình hình thành. Dư luận thế giới cho rằng phải nhiều năm nữa mới có thể hình thành một trật tự thế giới mới theo xu hướng đa cực, nhiều trung tâm với sự vươn lên, đua tranh mạnh mẽ của các cường quốc như Mĩ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc. Hai là, sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế. Ngày nay, kinh tế đã trở thành trọng điểm của quan hệ quốc tế, nền tảng cơ bản để xây dụng sức mạnh thực sự của mỗi quốc gia. Ba là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo cho Mĩ một lợi thế tạm thời. Giới cầm quyền Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới một cực để Mĩ làm bá chủ thế giới. Mặc dù ngày nay Mĩ có một lực lượng kinh tế - tài chính, khoa học - kĩ thuật và quân sự vượt trội so với tất cả các quốc gia, nhưng giữa tham vọng to lớn làm bá chủ thế giới và khả năng hiện thực của Mĩ là một khoảng cách không nhỏ. Nhiều sự kiện diễn ra trên thế giới gần đây đã chứng tỏ điều đó. Bốn là, sau Chiến tranh lạnh, hoà bình thế giới được củng cố, nhưng ở nhiều khu vực tình hình lại không ổn định với những cuộc nội chiến, xung đột quân sự đẫm máu kéo dài." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Những cuộc xung đột đã xảy ra ở bán đảo Bancăng, một số nước Châu Phi và Trung Á. Nguyên nhân chính là do những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ đã bùng lên dữ dội, khi mâu thuẫn hai cục Đông - Tây không còn nữa. Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người. Nhưng cuộc tấn công khủng bố bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11 - 9 - 2001 đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn trong tình hình thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn, toà nhà Trung tâm Thương mại thế giới (WTC) bị đổ sụp, hàng nghìn dân thường thiệt mạng, tổn thất vật chất lên tới hàng chục tỉ USD. Sự kiện 11 - 9 đã đặt các quốc gia - dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố đầy tệ hại với những nguy cơ khó lường. Nó đã gây ra những tác động to lớn, phức tạp đối với tình hình chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế.  Với xu thế phát triển của thế giới từ cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI, ngày nay các quốc gia - dân tộc vừa đứng trước những thời cơ phát triển thuận lợi, vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt." 10 + 11 + 12,Chương 5: tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở tây Âu,"Từ thế kỉ III, đế quốc Rô-ma dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng. Hình thức bóc lột chiếm hữu nô lệ không còn phù hợp. Cuộc đấu tranh của nô lệ dẫn đến tình trạng sản xuất bị sút kém, xã hội rối ren. Trong tình hình đó, đến cuối thế kỉ V, đế quốc Rô-ma bị người Giéc-man từ phương Bắc tràn xuống xâm chiếm. Năm 476, đế quốc Rô-ma bị diệt vong. Chế độ chiếm nô kết thức ở khu vực Địa Trung Hải, thời đại phong kiến bắt đầu ở Châu Âu. Khi vào lãnh thổ của Rô-ma, người Giéc-man đã thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thành lập nhiều vương quốc mới của họ như vương quốc của người Ăng-glô Xắc-xông, Vương quốc Phơ-răng, Vương quốc tây Gốt, Đông Gốt... Người Giéc-man còn chiếm ruộng đất của chủ nô Rô-ma cũ rồi chia cho nhau, trong đó các tướng lĩnh quân sự và quý tộc được phần nhiều hơn. Đồng thời, các thủ lĩnh bộ lạc, các quý tộc thị tộc người Giéc-man cũng tự xưng vua, phong các tước vị như công tước, bá tước, nam tước v.v... tạo nên hệ thống đẳng cấp quý tộc vũ sĩ. Người Giéc-man cũng từ bỏ các tôn giáo nguyên thuỷ của mình và tiếp thu Kitô giáo. Họ xây dựng nhà thờ và tìm cách chiếm ruộng đất của nông dân. Đồng thời, nhà vua cũng phong tặng đất đai theo tước vị cho các quý tộc và nhà thờ. Tầng lớp quý tộc tăng lữ được hình thành. Thế là cùng với các quý tộc vũ sĩ và quan lại, quý tộc tăng lữ cũng dần trở thành tầng lớp riêng, vừa có đặc quyền vừa rất giàu có. Họ trở thành các lãnh chúa phong kiến, còn nô lệ và nông dân thì biến thành nông nô, phụ thuộc vào các lãnh chúa. Quan hệ sản xuất phong kiến ở Châu Âu đã được hình thành. Quá trình này diễn ra rõ nét và mạnh mẽ nhất ở Vương quốc Phơ-răng." 10 + 11 + 12,Chương 5: tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở tây Âu,"Sau các cuộc phát kiến địa lí, kinh tế ở Châu Âu phát triển nhanh. Tầng lớp quý tộc, thương nhân tây Âu ra sức cướp bóc của cải, tài nguyên của các nước ở Châu Mĩ, Châu Phi và cháu Á. Giai cấp tư sản tích luỹ được số vốn ban đầu bằng sự cướp bóc thực dân. Đồng thời, họ còn dùng bạo lực đế cướp đoạt ruộng đất của nông dân. Ở Anh diễn ra phong trào ""rào đất cưốp ruộng"", biến ruộng đất thành đồng cỏ nuôi cùu. Hàng vạn gia đình nông dân mất đất, đi lang thang, buộc phải làm thuê trong các xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngay ở thành thị, thợ thủ công cũng bị tước đoạt tư liệu sản xuất, trở thành người đí làm thuê. Đến đầu thế kỉ XVI, Ởtây Âu bắt đầu xuất hiện hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công thay thế các phường hội. Quy mô của các công xưởng thủ công lên tới hơn 100 người. Nhờ áp dụng kĩ thuật mới vào quy trình sản xuất, năng suất lao động tăng, sản phẩm nhiều hơn, giá cả hạ. Chủ xưởng tiến hành bóc lột những người lao động làm thuê, quan hệ giữa họ là quan hệ của chủ với thợ. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được hình thành trong các công trường thủ công. Nhiều nơi ở nông thôn, sản xuất nhỏ của nông dân dần dần bị xoá bỏ và được thay thế bằng hình thức đồn điền hay trang trại. Người lao động biến thành công nhân nông nghiệp theo chế độ làm công ăn lương. Chủ ruộng đất trở thành tư sản nông thôn hay quý tộc mới.  Trong ngành thương nghiệp cũng xuất hiện các công ti thương mại thay cho các thương hội trưng đại. Từ những thay đổi nói trên, xã hội tây Âu đã biến đổi, các giai cấp mới được hình thành. Những chủ xưởng, chủ ngán hàng, chủ đồn điền hợp thành giai cấp tư sản. Những người làm thuê, bị bóc lột trở thành giai cấp vô sàn." 10 + 11 + 12,Chương 5: tây Âu thời trung đại,Bài 10: Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở tây Âu,"Bước sang giai đoạn hậu kì trưng đại, giai cấp tư sản mới ra đời, tuy có thế lực về kinh tế, song lại chưa có địa vị xã hội tương ứng. Cùng với việc con người bước đầu nhận thức được bản chất của thế giới, giai cấp tư sản đã đứng lên đấu tranh, chống lại giáo lí Kitô mang nặng những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến. Cuộc đấu tranh trước hết thể hiện qua phong trào Văn hoá Phục hưng. Giai cấp tư sản, một mặt muốn khôi phục lại tinh hoa văn hoá xán lạn của các quốc gia cổ đại Hi Lạp và Rô-ma, mặt khác cũng góp phần xây dựng một nền văn hoá mới, đề cao giá trị con người, đòi quyền tự do cá nhân, coi trọng khoa học - kĩ thuật. Trào lưu vãn hóa này được gọi là phong trào Văn hoá Phục hưng. Quê hương của phong trào Văn hoá Phục hưng là I-ta-li-a. Từ đấy, phong trào Văn hoá Phục hưng đã lan nhanh sang các nước tây Âu và trở thành một trào lưu rộng lớn. Thời đại Văn hoá Phục hưng chứng kiến sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - kĩ thuật, sự phát triển phong phú về văn học và sự nở rộ các tài năng. Những con người ""kHồng lồ đã xuất hiện, toả ánh hào quang trong lịch sử: Ra-bơ-le vừa là nhà văn, vừa là nhà y học; Đê-các-tơ vừa là nhà toán học xuất sắc, vừa là nhà triết học lốn; Lê-ô-na đơ Vanh-xivừa là hoạ sĩ thiên tài, vừa là kĩ sư nổi tiếng; sếch-xpia là nhà soạn kịch vĩ đại v.v... Văn hoá thời Phục hưng đã lên án nghiêm khắc Giáo hội Kitô, tấn công vào trật tự xã hội phong kiến, đề cao giá trị nhân bản và tự do cá nhân, xây dựng thế giới quan tiến bộ. Đấy là cuộc đấu tranh công khai đầu tiên trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại giai cấp phong kiến lỗi thời. Nó đã cổ vũ và mở đường cho văn hoá Châu Âu phát triển hơn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Chính sách kinh tế mới là sự chuyển đổi kịp thời từ nền kinh tế do Nhà nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng vẫn đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Với chính sách này, nhân dân Xô viết đã vượt qua được những khó khăn to lớn, phấn khởi sản xuất và hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế. Cho đến nay, Chính sách kinh tế mới còn đề lại nhiều kinh nghiệm đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước trên thế giới. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cách mạng tháng mười Nga năm 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941),Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941),"Trong nông nghiệp, 93% số nông hộ với trên 90% diện tích canh tác đã được đưa vào nền nông nghiệp tập thể hoá, có quy mô sản xuất lớn và cơ sở vật chất - kĩ thuật được cơ giới hoá. Về văn hoá - giáo dục, Liên Xô đã thanh toán nạn mù chữ, xây dựng hệ thống giáo dục thống nhất, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các thành phố. Cùng với những biến đổi về kinh tế, cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi. Các giai cấp bóc lột bị xoá bỏ, chỉ còn lại hai giai cấp lao động là công nhân và nông dân tập thể cùng tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1937, nhân dân Liên Xô tiếp tục thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba, nhưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tạm thời bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức. Tuy có một số sai lầm, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước (không thực hiện tốt nguyên tắc tự nguyên trong tập thể hoá nông nghiệp, chưa chú trọng đúng mức đến việc nâng cao đời sống nhân dân...), công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những năm 1925 -1941 vẫn đạt được những thành tựu to lớn, tạo nên những biến đổi về nhiều mặt, có lợi cho nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh đề bảo vệ Tổ quốc." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Trái với những thoả thuận tại các hội nghị Ianta và Pốtxđam (1945) về một giải pháp thống nhất nước Đức, ngày 23 - 2 - 1948, tại Luân Đôn, các nước Mĩ, Anh, Pháp đã cùng nhau đề ra một quy chế về tương lai cho việc hợp nhất ba khu vực chiếm đóng của họ. Liên Xô kịch liệt phản đối. đề trả đũa cho việc thoả thuận riêng rẽ này, ngày 31 - 3 - 1948, Liên Xô quyết định phong toả, kiểm soát tất cả các mối liên hệ giữa các khu vực tây Béclin với tây Đức. Tình hình Châu Âu trở nên căng thẳng. Các nước tây Âu phải tổ chức cầu hàng không đề duy trì việc tiếp tế cho tây Béclin. Cuộc phong toả Béclin của Liên Xô kéo dài hơn 1 năm, được chấm dứt vào ngày 12 - 5 - 1949, sau khi cùng ngày các nước phương tây bãi bỏ việc ngăn chặn buôn bản giữa các khu vực tây và Đông Béclin.  Vào năm 1961, vấn đề nước Đức lại trở nên căng thẳng. Đó là, trước tình trạng di cư ổ ạt từ Đông Đức sang tây Đức gậy nên nhiều khó khăn, không ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội ở Đông Đức, đến 12 - 8 - 1961, Chính phủ CHDC Đức đã xây dựng một bức tường với dấy kẽm gai ngăn cách hai khu vực Đông và tây Béclin. Từ đó, việc qua lại giữa hai khu vực ở Béclin bị đình chỉ, quan hệ giữa hai nhà nước Đức càng đối đầu quyết liệt." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp đã quay trở lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Cuộc chiến bùng nổ từ Sài Gòn (9 - 1945), tới tháng 12 - 1946 lan rộng trên toàn cõi Đông dương. Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, nhân dân ba nước Đông dương đã kiên cường chiến đấu bảo vệ nền độc lập. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (1 - 10 - 1949), cuộc kháng chiến của Việt Nam có điều kiện liên lạc và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1950, Mĩ viện trợ cho Pháp và can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Đông dương. Chiến tranh Đông dương ngày càng chịu sự tác động của hai phe. Sau chiến thắng Điện biên Phủ lịch sử (7 - 5 - 1954) của quân dân Việt Nam, Hội nghị Giơnevơ về Đông dương đã được triệu tập với sự tham gia của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mĩ, Anh và các bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Pháp... Hiệp định Giơnevơ về Đông dương (21 - 7 - 1954) đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Cuộc chiến ở Đông dương đã chấm dứt, nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự. Hiệp định Giơnevơ đánh dấu thắng lợi của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, nhưng mặt khác cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe. Đại biểu Mĩ ra tuyến bốkhông chịu sự ràng buộc của Hiệp định nhằm chuẩn bị cho sự xâm lược sau này." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau khi cách mạng Cuba thắng lợi, Mĩ không ngừng chống phá công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Cuba. Tháng 10 - 1962, tình hình trở nên căng thẳng nghiêm trọng do ""cuộc khủng hoảng Caribê"". Trưốc sự đe doạ xâm lược của Mĩ, mùa hè 1962, hai Chính phủ Liên Xô và Cuba thoá thuận: Liên Xô xây dụng căn cứ tên lửa đạn đạo tâm trung trên lãnh thổ Cuba đề giúp Cuba báo vệ nền độc lập, an ninh của mỉnh. Lấy cố an ninh nước Mĩ bị đe doạ, tối 22 - 10 - 1962 Tổng thống Mĩ Kennơđi lên án những hoạt động quân sự của Liên Xô tại Cuba, thông báo quyết định của Chính phủ Mĩ là phong toá bằng hái quân quanh Cuba, gửi tối hậu thư đòi Liên Xô dỡ bỏ và rút tên lửa về nước. Cá thế giối lo lắng về nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giối mối. Cuối cùng, ngày 26 - 10, hai bên đã thoá thuận: Liên Xô rút tên lửa và cam kết không đưa tên lửa trở lại Cuba; Mĩ cam kết không xâm lược Cuba. Cuộc khủng hoáng kết thức, nhưng quan hệ Mĩ - Cuba vẫn tiếp tục căng thẳng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ là thông điệp của Tổng thống Truman tai Quốc hội Mĩ ngày 12 - 3 - 1947. Trong đó, Tổng thống Mĩ khẳng định: Sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho hai nước Hi Lap và Thổ Nhĩ Kì. Đó là ""Học thuyết Truman với nội dung quan trọng là xác lập hơn nữa mới quan hệ của Mĩ với Châu Âu nhằm: 1- Củng cố các chính quyền thân phương Tây và đẩy lùi phong trào đấu tranh yêu nước ở Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ; 2- Biến hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ thành những căn cứ tiền phương chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu; 3- Gạt bỏ ảnh hưởng của Anh có tù trước ở Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỉ. Như thế, học thuyết Truman là một sự tập hợp lực lượng của Mĩ nhằm phản ứng trước những thắng lợi và ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu. Hai là, vào đầu tháng 6 - 1947, Mĩ đề ra ""Kế hoạch Mácsan với khoản viện trợ khoảng 17 tỉ USD để giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Mặt khác, qua kế hoach này, Mĩ còn nhằm tập hợp các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc thực hiện ""Kế hoạch Mácsan đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu tư bản chủ nghĩa và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Ba là, ngày 4 - 4 - 1949, Mĩ thành lập khối quân sự - TỔ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Những cuộc xung đột đã xảy ra ở bán đảo Bancăng, một số nước Châu Phi và Trung Á. Nguyên nhân chính là do những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ đã bùng lên dữ dội, khi mâu thuẫn hai cục Đông - Tây không còn nữa. Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người. Nhưng cuộc tấn công khủng bố bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11 - 9 - 2001 đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn trong tình hình thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn, toà nhà Trung tâm Thương mại thế giới (WTC) bị đổ sụp, hàng nghìn dân thường thiệt mạng, tổn thất vật chất lên tới hàng chục tỉ USD. Sự kiện 11 - 9 đã đặt các quốc gia - dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố đầy tệ hại với những nguy cơ khó lường. Nó đã gây ra những tác động to lớn, phức tạp đối với tình hình chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế. Với xu thế phát triển của thế giới từ cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI, ngày nay các quốc gia - dân tộc vừa đứng trước những thời cơ phát triển thuận lợi, vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Ở Ápganixtan, Liên Xô và Mĩ đã thoả thuận giải quyết cuộc xung đột với việc quân đội Liên Xô rút ra khỏi Ápganixtan. Tháng 10 - 1991, Hiệp định về một giải pháp chính trị toàn bộ ở Campuchia đã được kí kết tại Pari. Nhờ đó, cuộc xung đột kéo dài hơn một thập kỉ với những tội ác diệt chủng của chế độ Khơme đỏ đã chấm dứt. Những triển vọng tốt đẹp đã mở ra để xây dựng một nước Campuchia mới. Mối quan hệ giữa các nước trong khu vục được cải thiện nhằm xây dựng một Đông Nam Á hoà bình và ổn định. Ở Tây Nam Phi, quân đội Nam Phi và quân tình nguyện Cuba đều rút khỏi Nămibịa. Ngày 21 - 3 - 1990, Cộng hoà Nămibịa tuyên bố độc lập. Tuy vậy, tình trạng Chiến tranh lạnh chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên bang Xô viết tan rã, trật tự hai cực không còn nữa." 10 + 11 + 12,Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945-2000),Bài 10: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh,"Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, tới những năm 1989 - 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết. Ngày 28 - 6 - 1991, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể. Sau đó, ngày 1 - 7 - 1991, Tổ chức Hiệp ước Vácsava chấm dứt hoạt động. Với việc Liên Xô tan rã, hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại, trật tự thế giới hai cực Ianta đã sụp đổ. Thế hai cực của hai siêu cường không còn nữa, Mĩ là cực duy nhất còn lại. Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở Châu Âu và Châu Á đã bị mất, ảnh hưởng của Mĩ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Tháng 10 -1929, khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mĩ, sau đó lan ra toàn bộ thế giới tư bản, chấm dứt thời kì ổn định và tăng trưởng của chủ nghĩa tư bản. Cuộc khủng hoảng kéo dài gần 4 năm, trầm trọng nhất là năm 1932, chẳng những tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, xã hội. Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông dân mất ruộng đất, sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn. Nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra ở khắp các nước. Khủng hoảng kinh tế đã đe doạ nghiêm trọng sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản buộc phải xem xét lại con đường phát triển của mình. Trong khi các nước Mĩ, Anh, Pháp tiến hành những cải cách kinh tế - xã hội để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và đổi mới quá trình quản lí, tổ chức sản xuất thì các nước Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản lại tìm kiếm lối thoát bằng những hình thức thống trị mới. Đó là việc thiết lập các chế độ độc tài phát xít - nền chuyện chính khủng bố công khai của những thế lực phản động nhất, hiếu chiến nhất. Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản là những nước không có hoặc có ít thuộc địa, ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường, đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị để cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: một bên là Mĩ, Anh, Pháp với một bên là Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản và cuộc chạy đua vũ trang ráo riết đã báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong sự phát triển chung của các cuồng quốc, các nuớc tu bản Mĩ, Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã trải qua một quá trình phát triển với nhiều biến động to lớn, dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ hai." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nuớc tư bản đã tổ chức Hội nghị hoà bình ở Vécxai (1919 - 1920) và Oa-sinh-tơn (1921 - 1922) để kí kết hoà uớc và các hiệp uớc phân chia quyền lợi. Một trật tự thế giới mới được thiết lập thông qua các văn kiện được kí ở Vécxai và Oa-sinh-tơn, thuồng được gọi là hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Với hệ thống Vécxai - Oasinhtơn, một trật tự thế giới mới đã được thiết lập, phản ánh tương quan lực lượng mới giữa các nước tư bản. Các nước thắng trận, trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản, giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp đặt, nô dịch đối với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Đổng thời, ngay giữa các nước tư bản thắng trận cũng nảy sinh những bất đổng do mâu thuẫn về quyền lợi. Chính vì thế, quan hệ hoà bình giữa các nước tư bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh.  Nhằm duy trì trật tự thế giới mới, Hội Quốc liên - một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên - được thành lập với sự tham gia của 44 nước thành viên." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, một cao trào cách mạng đã bùng nổ ở hầu khắp các nước tư bản Châu Âu trong những năm 1918 -1923. Đỉnh cao của phong trào là sự thành lập các nước Cộng hoà Xô viết ở Hung-ga-ri (3 -1919), ở Ba-vi-e (Đức, 4 -1919), thể hiên khát vọng của quần chúng lao động về một xã hội công bằng, dân chủ. Phong trào đấu tranh không chỉ dừng lại ở những yêu sách kinh tế mà còn nhằm ủng hộ nước Nga Xô viết. Tuy không giành được thắng lợi nhưng phong trào đã để lại những bài học kinh nghiêm quý báu cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong cao trào cách mạng (1918 -1923), các đảng cộng sản đã được thành lập ở nhiều nước, như ở Đức, Áo, Hung-ga-ri, Ba Lan, Phần Lan, Ác-hen-ti-na...  Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế để tập hợp lực lượng và chỉ đạo theo một đường lối đúng đắn. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự tồn tại của Nhà nước Xô viết là điều kiên thuận lợi để thực hiện yêu cầu đó. Với những nỗ lực của Lê-nin và một số nhà hoạt động cách mạng quốc tế, Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản (còn gọi là Quốc tế thứ b được tiến hành tại Mát-xcơ-va tháng 3 - 1919. Trong thời gian tồn tại, từ năm 1919 đến năm 1943, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành 7 đại hội, đề ra đường lối cách mạng phù hợp với từng thời kì phát triển của cách mạng thế giới. Đại hội II (1920) giữ một vị trí nổi bật trong lịch sử hoạt động của Quốc tế Cộng sản với Luận cương về vai trò của Đảng Cộng sản, Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lê-nin khởi thảo. Tại Đại hội VII (1935), Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các đảng cộng sản tích cực đấu tranh thành lập các mặt trận nhân dân nhằm thống nhất các lực lượng vì mục tiêu chống phát xít, chống chiến tranh. Năm 1943, trước những thay đổi của tình hình thế giới, Quốc tế Cộng sản tuyên bố tự giải tán. Quốc tế Cộng sản đã có những đóng góp to lớn trong phong trào cách mạng thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Tháng 10 -1929, khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mĩ, sau đó lan ra toàn bộ thế giới tư bản, chấm dứt thời kì ổn định và tăng trưởng của chủ nghĩa tư bản. Cuộc khủng hoảng kéo dài gần 4 năm, trầm trọng nhất là năm 1932, chẳng những tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, xã hội. Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông dân mất ruộng đất, sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn. Nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra ở khắp các nước. Khủng hoảng kinh tế đã đe doạ nghiêm trọng sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản buộc phải xem xét lại con đường phát triển của  mình. Trong khi các nước Mĩ, Anh, Pháp tiến hành những cải cách kinh tế - xã hội để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và đổi mới quá trình quản lí, tổ chức sản xuất thì các nước Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản lại tìm kiếm lối thoát bằng những hình thức thống trị mới. Đó là việc thiết lập các chế độ độc tài phát xít - nền chuyện chính khủng bố công khai của những thế lực phản động nhất, hiếu chiến nhất. Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản là những nước không có hoặc có ít thuộc địa, ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường, đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị để cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: một bên là Mĩ, Anh, Pháp với một bên là Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản và cuộc chạy đua vũ trang ráo riết đã báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Ngay từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản, phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh lan rộng ở nhiều nước. Những người cộng sản đã thiết lập được sự thống nhất hành động với các đảng xã hội dân chủ, các lực lượng yêu nước, thành lập Mặt trận Nhân dân chống chủ nghĩa phát xít ở Pháp, I-ta-li-a, Tiệp Khắc, Hi Lạp, Tây Ban Nha và nhiều nước khác. Thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp trong những năm 1936 -1939 là sự kiện nổi bật trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5 -1936, Mặt trận Nhân dân Pháp giành được thắng lợi và thành lập chính phủ do Lê-ông Bơ-lum đứng đầu. Phong trào Mặt trận Nhân dân đã bảo vệ được nền dân chủ, đưa nước Pháp vượt qua hiểm hoạ của chủ nghĩa phát xít. ở Tây Ban Nha, Mặt trận Nhân dân cũng giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 2 - 1936 và Chính phủ Mặt trận Nhân dân được thành lập. Tuy nhiên, trước ảnh hưởng ngày càng lớn của những người cộng sản trong Chính phủ và các biên pháp cải cách tiến bộ, các nước đế quốc đã tăng cường giúp đỡ thế lực phát xít do Phran-cô cầm đầu gây nội chiến nhằm thủ tiêu nền cộng hoà. Cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân Tây Ban Nha (1936 -1939) nhận được sự ủng hộ to lớn của phong trào cách mạng thế giới. 35 000 chiến sĩ từ 53 quốc gia trên thế giới đã tình nguyên chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng quá chệnh lệch, do sự can thiệp của phát xít Đức, I-ta-li-a và sự nhượng bộ của các nước tư bản, cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân Tây Ban Nha cuối cùng bị thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại,"Sự phát triển nhanh chóng của sản xuất đã làm cho nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường ngày một tăng. Việc tìm con đường đi sang phương Đông đã thúc đẩy các cuộc phát kiến lớn về địa lí. Nó mang lại nguồn của cải lớn về Châu Âu cũng như những hiểu biết mới về Trái Đất. Trên cơ sở đó, công cuộc tích luỹ tư bản ban đầu được tiến hành. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành. Hai giai cấp mới - tư sản và vô sản đã ra đời. Giai cấp tư sản đang lên, có địa vị kinh tế, nhưng lại bị chế độ phong kiến và Giáo hội cản trở. Họ đã đứng lên đấu tranh, xây dựng một nền văn hoá mới trong phong trào Văn hoá Phục hưng, tiến hành cải cách tôn giáo. Phong trào đấu tranh của nông dân đã diễn ra sôi nổi ở nước Đức, báo hiệu cho sự suy vong của chế độ phong kiến." 10 + 11 + 12,Chương 5: Tây Âu thời trung đại,Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại,"Sự phát triển nhanh chóng của sản xuất đã làm cho nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường ngày một tăng. Việc tìm con đường đi sang phương Đông đã thúc đẩy các cuộc phát kiến lớn về địa lí. Nó mang lại nguồn của cải lớn về Châu Âu cũng như những hiểu biết mới về Trái Đất. Trên cơ sở đó, công cuộc tích luỹ tư bán ban đầu được tiến hành. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành. Hai giai cấp mới - tư sản và vô sản đã ra đời. Giai cấp tư sản đang lên, có địa vị kinh tế, nhưng lại bị chế độ phong kiến và Giáo hội cản trở. Họ đã đứng lên đấu tranh, xây dựng một nền văn hoá mới trong phong trào Văn hoá Phục hưng, tiến hành cải cách tôn giáo. Phong trào đấu tranh của nông dân đã diễn ra sôi nổi ở nước Đức, báo hiệu cho sự suy vong của chế độ phong kiến." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Từ những năm 40 của thế kỉ XX, loài người đã trải qua cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật lần thứ hai, được khởi đầu từ nước Mĩ. Với quy mô rộng lớn, nội dung sâu sắc và toàn diện, nhịp điệu vô cùng nhanh chóng, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đã đưa lại những thành tựu kì diệu và những đổi thay lớn lao trong đời sống nhân loại. Nền văn minh thế giới đã có những bước nhảy vọt chưa từng thấy" 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Cũng như cách mạng công nghiệp ở thế kỉ XVIII - XIX, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay diễn ra là do những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Những đòi hỏi bức thiết đó đặt ra cho cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật phải giải quyết, trước hết là chế tạo và tìm kiếm những công cụ sản xuất mới có kĩ thuật và năng suất cao, tạo ra những vật liệu mới. Tù lâu năng lượng đã trở thành một vấn đề chiến lược của loài người. Bởi đó là nguồn gốc của mọi chuyển động, nuôi sống các cuộc cách mạng công nghiệp trước kia cũng như cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay. Trong tình hình các vật liệu tụ nhiên ngày càng vơi cạn, cách mạng khoa học - kĩ thuật đã có những cống hiến vô giá trong việc tạo ra những vật liệu mới, nhất là những vật liệu tổng hợp có ý nghĩa cục kỉ quan trọng trong mọi mặt đời sống của con người. " 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khác với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII. Trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật. Đến lượt mình, kĩ thuật lại đi trước mở đường cho sản xuất. Như vậy, khoa học đã tham gia trực tiếp vào sản xuất, trở thành nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ những năm 40 đến đâu những năm 70 của thế kỉ XX; giai đoạn thứ hai từ cuộc khủng hoàng năng lượng năm 1973 đến nay. Trong giai đoạn sau, cuộc cách mạng diễn ra chủ yếu về công nghệ với sự ra đài của thế hệ máy tính điện tủ mới (thế hệ thứ b, về vật liệu mới, về những dạng năng lượng mới và công nghệ sinh học, phát triển tin học. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học - kĩ thuật nên giai đoạn thứ hai được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Trải qua hơn nửa thế kỉ, nhất là từ những năm 70, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đã thu được những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu. Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, loài người đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong lịch sử các ngành Toán học, Vật lí học, Hoá học, Sinh học... Dựa vào những phát minh lớn của các ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất phục vụ cuộc sống của mình. Sự kiện gây chấn động lớn trong dư luận thế giới là vào tháng 3 - 1997, các nhà khoa học đã tạo ra được một con cừu bằng phương pháp sinh sản vô tính từ một tế bào lây từ tuyên vú của một con cừu đang có thai, đặt tên là Đôli. Tháng 6 - 2000, các nhà khoa học của các nước Anh, Pháp, Mĩ, Đức, Nhật và Trung Quốc sau 10 năm hợp tác nghiên cứu đã công bố ""Bản đồ gen người"". Đến tháng 4 - 2003, ""Bản đổ gen người mới được giải mã hoàn chỉnh." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Những thành tựu mới này đã mở ra một kỉ nguyên mới của y học và sinh học, với triển vọng to lốn đẩy lùi bệnh tột và tuổi già. Tuy nhiên, những thành tựu này lại gây nên những lo ngại về mặt pháp lí và đạo lí như công nghệ sao chép con người hoặc thương mại hoá công nghệ gen. Trong lĩnh vực công nghệ đã xuât hiên những phát minh quan trọng, những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực: công cụ sản xuất mới (máy tính điên tử, máy tự động và hệ thống máy tự động, người máy (rôbốt)...); nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng gi6 và nhất là năng lượng nguyên tử...); vật liêu mới (như pôlime - chất dẻo với nhiều loại hình khác nhau, các loại vật liêu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...); công nghệ sinh học với những đột phá phi thường trong công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim và dẫn tới cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp với những giống lúa mới có năng suât cao, thân cây chịu bênh tốt...; những tiến bộ thần kì trong thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lổ, tàu hoả tốc độ cao...); chinh phục vũ trụ (vê tinh nhân tạo, du hành vũ trụ...)." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Trong những thập niên gần đây, với những tiến bộ của kĩ thuật điên tử, tin học và viễn thông, Công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ như một sự bùng nổ trên phạm vi toàn cầu. Hiên nay, máy tính, đặc biệt là máy vi tính, đang được sử dụng ở khắp mọi nơi và có khả năng liên kết với nhau bởi các mạng truyền dữ liệu. Đã hình thành mạng thông tin máy tính toàn cầu (Internet). Trong tương lai sẽ là các siêu lộ thông tin phủ khắp mọi địa bàn trong nước và trên thế giới. Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng sâu rộng trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội. Yếu tố thông tin ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và xã hội. Nền văn minh nhân loại đã sang một chương mới - ""văn minh thông tin"". Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ có những tác động to lớn về nhiều mặt như tăng năng suất lao động, không ngừng nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người. Từ đó dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn nhân lực, những đòi hỏi mới về giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, sự hình thành một thị trường thế giới với xu thế toàn cầu hoá. Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cũng gây nên hậu quả tiêu cực (chủ yếu do chính con người tạo nên) như tình trạng ô nhiễm môi trường trên hành tinh cũng như trong vũ trụ, hiện tượng Trái Đất nóng dần lên, những tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới... và nhất là việc chế tạo những loại vũ khí hiện đại có sức công phá và huỷ diệt khủng khiếp có thể tiêu diệt nhiều lần sự sống trên hành tinh." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hoá. Xét về bản chất, toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mới liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế ngày nay là sự phụ thuộc lân nhau trên phạm vi toàn cầu, sự hình thành thị trường thế giới và phân công lao động quốc tế, sự di chuyển tụ do về tư bản, hàng hoá và nhân công trên phạm vi toàn cầu. " 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Những biểu hiên chủ yếu của xu thế toàn cầu hoá ngày nay là: - Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế. Tù sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế đã tăng 12 lân. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lân nhau, tính quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới tăng. - Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia. Theo số liệu của Liên hợp quốc, khoáng 500 công ti xuyên quốc gia lớn kiểm soát tới 25% tổng sản phẩm thế giới và giá trị trao đổi của những công ti này tương đương 3/4 giá trị thương mại toàn cầu. - Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn, nhất là các công ti khoa học - kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỉ XX. - Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Đó là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (W, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp ước Thương mại tụ do Bắc Mĩ (NAFT, Hiệp ước Thương mại tụ do ASEAN (AFT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bỉnh Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) v.v... Các tổ chức này có vai trò ngày càng quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế chung của thế giới và khu vực." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được. Nó có mặt tích cực và tiêu cực, nhất là đối với các nước đang phát triển. Về mặt tích cục, đó là sự thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh của việc phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao (nửa đâu thế kỉ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần, nửa cuối thế kỉ tăng 5,2 lần), góp phân chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi tiến hành cái cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quá của nền kinh tế... Về mặt tiêu cực, toàn cầu hoá đã làm trâm trọng thệm sự bât công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Toàn cầu hoá làm cho mọi mặt hoạt động và đài sống của con người kém an toàn hơn (tù kém an toàn về kinh tế, tài chính đến kém an toàn về chính trị), hoặc tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và xâm phạm độc lập tự chủ của các quốc gia...  Như vậy, toàn cầu hoá là thời cơ lịch sử. Đó vừa là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các nước, đồng thời cũng tạo ra thách thức là nếu bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: ""Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta""." 10 + 11 + 12,Chương 5: tây Âu thời trung đại,Bài 11: tây Âu thời hậu kì trung đại,"Sự phát triển nhanh chóng của sản xuất đã làm cho nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường ngày một tăng. Việc tìm con đường đi sang phương Đông đã thức đẩy các cuộc phát kiến lớn về địa lí. Nó mang lại nguồn của cải lớn về Châu Âu cũng như những hiểu biết mới về Trái Đất. Trên cơ sở đó, công cuộc tích luỹ tư bản ban đầu được tiến hành. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành. Hai giai cấp mới - tư sản và vô sản đã ra đời. Giai cấp tư sản đang lên, có địa vị kinh tế, nhưng lại bị chế độ phong kiến và Giáo hội cản trở. Họ đã đứng lên đấu tranh, xây dựng một nền văn hoá mới trong phong trào Văn hoá Phục hưng, tiến hành cải cách tôn giáo. Phong trào đấu tranh của nông dân đã diễn ra sôi nổi ở nước Đức, báo hiệu cho sự suy vong của chế độ phong kiến." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Ngay từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản, phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh lan rộng ở nhiều nước. Những người cộng sản đã thiết lập được sự thống nhất hành động với các đảng xã hội dân chủ, các lực lượng yêu nước, thành lập Mặt trận Nhân dân chống chủ nghĩa phát xít ở Pháp, I-ta-li-a, Tiệp Khắc, Hi Lạp, tây Ban Nha và nhiều nước khác. Thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp trong những năm 1936 -1939 là sự kiện nổi bật trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5 -1936, Mặt trận Nhân dân Pháp giành được thắng lợi và thành lập chính phủ do Lê-ông Bơ-lum đứng đầu. Phong trào Mặt trận Nhân dân đã bảo vệ được nền dân chủ, đưa nước Pháp vượt qua hiểm hoạ của chủ nghĩa phát xít. ở tây Ban Nha, Mặt trận Nhân dân cũng giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 2 - 1936 và Chính phủ Mặt trận Nhân dân được thành lập. Tuy nhiên, trước ảnh hưởng ngày càng lớn của những người cộng sản trong Chính phủ và các biện pháp cải cách tiến bộ, các nước đế quốc đã tăng cường giúp đỡ thế lực phát xít do Phran-cô cầm đầu gậy nội chiến nhằm thủ tiêu nền cộng hoà. Cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân tây Ban Nha (1936 -1939) nhận được sự ủng hộ to lớn của phong trào cách mạng thế giới. 35 000 chiến sĩ từ 53 quốc gia trên thế giới đã tình nguyên chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà tây Ban Nha. Tuy nhiên, do so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng quá chệnh lệch, do sự can thiệp của phát xít Đức, I-ta-li-a và sự nhượng bộ của các nước tư bản, cuộc chiến tranh chống phát xít của nhân dân tây Ban Nha cuối cùng bị thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khác với cuộc cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII. Trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật. Đến lượt mình, kĩ thuật lại đi trước mở đường cho sản xuất. Như vậy, khoa học đã tham gia trực tiếp vào sản xuất, trở thành nguồn gốc chính của những tiến bộ kĩ thuật và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ những năm 40 đến đấu những năm 70 của thế kỉ XX; giai đoạn thứ hai từ cuộc khủng hoàng năng lượng năm 1973 đến nay. Trong giai đoạn sau, cuộc cách mạng diễn ra chủ yếu về công nghệ với sự ra đài của thế hệ máy tính điện tủ mối (thế hệ thứ b, về vật liệu mối, về những dạng năng lượng mối và công nghệ sinh học, phát triển tin học. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học - kĩ thuật nên giai đoạn thứ hai được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Những thành tựu mới này đã mở ra một kỉ nguyên mới của y học và sinh học, với triển vọng to lốn đẩy lùi bệnh tột và tuổi già. Tuy nhiên, những thành tựu này lại gậy nên những lo ngại về mặt pháp lí và đạo lí như công nghệ sao chép con người hoặc thương mại hoá công nghệ gen. Trong lĩnh vực công nghệ đã xuât hiên những phát minh quan trọng, những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực: công cụ sản xuất mới (máy tính điên tử, máy tự động và hệ thống máy tự động, người máy (rôbốt)...); nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng gi6 và nhất là năng lượng nguyên tử...); vật liêu mới (như pôlime - chất dẻo với nhiều loại hình khác nhau, các loại vật liêu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...); công nghệ sinh học với những đột phá phi thường trong công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim và dẫn tới cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp với những giống lúa mới có năng suât cao, quân cấy chịu bênh tốt...; những tiến bộ thần kì trong thông tin liên lạc và giao thông vận tài (cáp sợi thuỷ tinh quang dẫn, máy bay siêu âm kHồng lổ, tàu hoả tốc độ cao...); chinh phục vũ trụ (vê tinh nhân tạo, du hành vũ trụ...)." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Những biểu hiên chủ yếu của xu thế toàn cầu hoá ngày nay là: - Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế. từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế đã tăng 12 lân. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lân nhau, tính quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới tăng. - Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia. Theo số liệu của Liên hợp quốc, khoáng 500 công ti xuyên quốc gia lớn kiểm soát tới 25% tổng sán phâm thế giới và giá trị trao đổi của những công ti này tương đương 3/4 giá trị thương mại toàn cầu. - Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn, nhất là các công ti khoa học - kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỉ XX. - Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Đó là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (W, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp ước Thương mại tự do Bắc Mĩ (NAFT, Hiệp ước Thương mại tự do ASEAN (AFT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái bình dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) v.v... Các tổ chức này có vai trò ngày càng quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế chung của thế giổi và khu vực." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Trải qua hơn nửa thế kỉ, nhất là từ những năm 70, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đã thu được những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu. Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, loài người đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong lịch sử các ngành Toán học, Vật lí học, Hoá học, Sinh học... Dựa vào những phát minh lớn của các ngành khoa học cơ bản, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất phục vụ cuộc sống của mình. Sự kiện gây chấn động lớn trong dư luận thế giới là vào tháng 3 - 1997, các nhà khoa học đã tạo ra được một con cừu bằng phương pháp sinh sản vô tính từ một tế bào lây từ tuyến vú của một con cừu đang có thai, đặt tên là Đôli. Tháng 6 - 2000, các nhà khoa học của các nước Anh, Pháp, Mĩ, Đức, Nhật và Trung Quốc sau 10 năm hợp tác nghiên cứu đã công bố ""Bản đồ gen người"". Đến tháng 4 - 2003, ""Bản đổ gen người"" mới được giải mã hoàn chỉnh." 10 + 11 + 12,Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a,Bài 11: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu h6a nửa sau thế kỉ XX,"Những thành tựu mới này đã mở ra một kỉ nguyên mới của y học và sinh học, với triển vọng to lớn đẩy lùi bệnh tật và tuổi già. Tuy nhiên, những thành tựu này lại gây nên những lo ngại về mặt pháp lí và đạo lí như công nghệ sao chép con người hoặc thương mại hoá công nghệ gen. Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực: công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động, người máy (rôbốt)...); nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng gió và nhất là năng lượng nguyên tử...); vật liệu mới (như pôlime - chất dẻo với nhiều loại hình khác nhau, các loại vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...); công nghệ sinh học với những đột phá phi thường trong công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim và dẫn tới cuộc ""cách mạng xanh trong nông nghiệp với những giống lúa mới có năng suất cao, thân cây chịu bệnh tốt...; những tiến bộ thần kì trong thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lổ, tàu hoả tốc độ cao...); chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ...)." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Trong khoảng 10 năm đầu sau chiên tranh (1918 -1929), nước Đức đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng về kinh tê' và chính trị, bước vào thời kì ổn định ngắn ngủi (1924 -1929). Trong 10 năm sau đó (1929 - 1939), cuộc khủng hoảng kinh tê' thế giới đã dẫn tới việc những người theo chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền, mở ra một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức bại trận hoàn toàn bị suy sụp về kinh tê, chính trị và quân sự. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt dẫn tới sự bùng nổ cuộc Cách mạng dân chủ tư sản tháng 11 -1918. Chỉ trong vòng một tuần lễ, cách mạng lan rộng trên phạm vi toàn quốc, quần chúng đã lật đổ nền quân chủ. Mùa hè năm 1919, Quốc hội lập hiên họp tại thành phố Vai-ma, thông qua Hiên pháp và thiêt lập chệ độ cộng hoà tư sản - thường được gọi là nền Cộng hoà Vaima. Tháng 6 - 1919, Chính phủ Đức phải kí kêt Hoà ước Vécxai với các nước thắng trận và phải chịu những điều kiện hệt sức nặng nề. Việc thực hiện những điều khoản của Hoà ước làm cho đất nước vốn đã kiệt quệ sau 4 năm chiên tranh càng trở nên rối loạn hơn. Theo Hoà ước Vécxai, nước Đức mất đi 1/8 diện tích đất đai, 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, 1/3 sản lượng thép và một khoản bổi thường chiến phí khổng lổ... Toàn bộ gánh nặng của Hoà ước đè lên vai quần chúng lao động. Nước Đức lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tồi tệ chưa từng thấy. Đổng mác sụt giá nghiêm trọng (năm 1914: 1 đôla Mĩ tương đương 4,2 mác; tháng 9 -1923: 1 đôla Mĩ tương đương 98 860 000 má. Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao trong những năm 1919 -1923. Đảng Cộng sản Đức (thành lập tháng 12 -1918) đã trực tiếp lãnh đạo phong trào. Đỉnh cao của phong trào là cuộc nổi dậy của công nhân vùng Ba-vi-e tháng 4 - 1919, dẫn đến sự thành lập nước Cộng hoà Xô viết Ba-vi-e. Cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Hăm-buốc tháng 10 - 1923 là âm hưởng cuối cùng của cơn bão táp cách mạng vô sản ở Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Cuối năm 1923, nước Đức đã vượt qua được thời kì khủng hoảng kinh tế và chính trị sau chiến tranh. Chính quyền tư sản đã đẩy lùi phong trào cách mạng của quần chúng, từng bước khắc phục tình trạng hỗn loạn về tài chính, tạo đà cho nền kinh tế khôi phục và phát triển. Từ năm 1925, sản xuất công nghiệp Đức phát triển mạnh, và đến năm 1929 đã vượt qua Anh, Pháp, đứng đầu Châu Âu. Quá trình tập trung sản xuất diễn ra mạnh mẽ, các tập đoàn tư bản độc quyền lớn xuất hiện, thâu tóm những ngành kinh tế chính của nước Đức. Về chính trị, chế độ Cộng hoà Vaima được củng cố, quyền lực của giới tư bản độc quyền được tăng cường. Chính phủ tư sản thi hành chính sách đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân. Các đảng tư sản công khai tuyên truyền tư tưởng phục thù cho nước Đức. Về đối ngoại, địa vị quốc tế của nước Đức dần dần được phục hồi với việc nước này tham gia Hội Quốc liên, kí kết một số hiệp ước với các nước tư bản Châu Âu và Liên Xô." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 1929 đã giáng đòn nặng nề vào nền kinh tế Đức. Năm 1932, sản xuất công nghiệp giảm 47% so với những năm trước khủng hoảng. Hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa. Số người thất nghiệp lên tới hơn 5 triệu người. Mâu thuẫn xã hội và cuộc đấu tranh của quần chúng lao động đã dẫn tới cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng. Giai cấp tư sản cầm quyền không đủ sức mạnh để duy trì chế độ cộng hoà tư sản, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng đó. Trong bối cảnh ấy, các thế lực phản động, hiếu chiến, đặc biệt là Đảng Công nhân quốc gia xã hội (gọi tắt là Đảng Quốc xã), ngày càng mở rộng ảnh hưởng trong quần chúng. Đứng đầu Đảng Quốc xã là Hít-le, ra sức tuyên truyền, kích động chủ nghĩa phục thù, chống cộng sản và phân biệt chủng tộc, chủ trương phát xít hoá bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ độc tài khủng bố công khai. Trong khi giới đại tư bản ngày càng ủng hộ lực lượng phát xít, Đảng Cộng sản Đức đã kêu gọi quần chúng đấu tranh để thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, Đảng Xã hội dân chủ - đảng có ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân lao động - đã từ chối hợp tác với những người cộng sản. Điều đó đã tạo điều kiện cho các thế lực phát xít lên cầm quyền ở Đức. Ngày 30 - 1 - 1933, Tổng thống Hin-đen-bua chỉ định Hít-le làm Thủ tướng và thành lập chính phủ mới, mở ra một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Về chính trị: Từ năm 1933, Chính phủ Hít-le ráo riết thiết lập nền chuyện chính độc tài, công khai khủng bố các đảng phái dân chủ tiến bộ, trước hết là Đảng Cộng sản Đức. Tháng 3 - 1933, chính quyền phát xít vu cáo những người cộng sản đốt cháy nhà Quốc hội, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật và bắt giam 10 vạn đảng viên cộng sản. Năm 1934, Tổng thống Hin-đen-bua qua đời, Hít-le tuyên bố huỷ bỏ Hiến pháp Vaima, tự xưng là Quốc trưởng suốt đời. Nền Cộng hoà Vaima hoàn toàn sụp đổ. Về kinh tế, chính quyền phát xít tiến hành tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung, mênh lênh, phục vụ nhu cầu quân sự. Tháng 7 -1933, Hít-le thành lập Tổng hội đổng kinh tế để điều hành hoạt động của các ngành kinh tế. Các ngành công nghiệp dần dần được phục hồi và hoạt động hết sức khẩn trương, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Các ngành giao thông vận tải, xây dựng đường sá được tăng cường để giải quyết nạn thất nghiệp và phục vụ nhu cầu quân sự. Nền kinh tế Đức đã thoát khỏi khủng hoảng. Năm 1938, tổng sản lượng công nghiệp của Đức tăng 28% so với giai đoạn trước khủng hoảng và vượt qua một số nước tư bản Châu Âu." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Về đối ngoại, chính quyền Hít-le tăng cường các hoạt động chuẩn bị chiến tranh. Tháng 10 - 1933, nước Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên để được tự do hành động. Năm 1935, Hít-le ban hành lênh tổng động viên, tuyên bố thành lập đội quân thường trực và bắt đầu triển khai các hoạt động quân sự ở Châu Âu. Đến năm 1938, với đội quân 1 500 000 người cùng 30 000 xe tăng và khoảng 4 000 máy bay, nước Đức đã trở thành một trại lính khổng lổ, chuẩn bị tiến hành các kế hoạch gây chiến tranh xâm lược." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức bại trận hoàn toàn bị suy sụp về kinh tê, chính trị và quân sự. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt dẫn tới sự bùng nổ cuộc Cách mạng dân chủ tư sản tháng 11 -1918. Chỉ trong vòng một tuần lễ, cách mạng lan rộng trên phạm vi toàn quốc, quần chúng đã lật đổ nền quân chủ. Mùa hè năm 1919, Quốc hội lập hiên họp tại thành phố Vai-ma, thông qua Hiên pháp và thiêt lập chệ độ cộng hoà tư sản - thường được gọi là nền Cộng hoà Vaima. Tháng 6 - 1919, Chính phủ Đức phải kí kêt Hoà ước Vécxai với các nước thắng trận và phải chịu những điều kiện hệt sức nặng nề. Việc thực hiện những điều khoản của Hoà ước làm cho đất nước vốn đã kiệt quệ sau 4 năm chiến tranh càng trở nên rối loạn hơn. Theo Hoà ước Vécxai, nước Đức mất đi 1/8 diện tích đất đai, 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, 1/3 sản lượng thép và một khoản bổi thường chiến phí kHồng lổ... Toàn bộ gánh nặng của Hoà ước đè lên vai quần chúng lao động. Nước Đức lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tồi tệ chưa từng thấy. đồng mác sụt giá nghiêm trọng (năm 1914: 1 đôla Mĩ tương đương 4,2 mác; tháng 9 -1923: 1 đôla Mĩ tương đương 98 860 000 má. Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao trong những năm 1919 -1923. Đảng Cộng sản Đức (thành lập tháng 12 -1918) đã trực tiếp lãnh đạo phong trào. Đỉnh cao của phong trào là cuộc nổi dậy của công nhân vùng Ba-vi-e tháng 4 - 1919, dẫn đến sự thành lập nước Cộng hoà Xô viết Ba-vi-e. Cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Hăm-buốc tháng 10 - 1923 là âm hưởng cuối cùng của cơn bão táp cách mạng vô sản ở Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 1929 đã giáng đòn nặng nề vào nền kinh tế Đức. Năm 1932, sản xuất công nghiệp giảm 47% so với những năm trước khủng hoảng. Hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa. Số người thất nghiệp lên tới hơn 5 triệu người. Mâu thuẫn xã hội và cuộc đấu tranh của quần chúng lao động đã dẫn tới cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng. Giai cấp tư sản cầm quyền không đủ sức mạnh đề duy trì chế độ cộng hoà tư sản, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng đó. Trong bối cảnh ấy, các thế lực phản động, hiếu chiến, đặc biệt là Đảng Công nhân quốc gia xã hội (gọi tắt là Đảng Quốc xã), ngày càng mở rộng ảnh hưởng trong quần chúng. Đứng đầu Đảng Quốc xã là Hít-le, ra sức tuyến truyền, kích động chủ nghĩa phục thù, chống cộng sản và phán biệt chủng tộc, chủ trương phát xít hoá bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ độc tài khủng bố công khai. Trong khi giới đại tư bản ngày càng ủng hộ lực lượng phát xít, Đảng Cộng sản Đức đã kêu gọi quần chúng đấu tranh đề thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, Đảng Xã hội dân chủ - đảng có ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân lao động - đã từ chối hợp tác với những người cộng sản. Điều đó đã tạo điều kiện cho các thế lực phát xít lên cầm quyền ở Đức. Ngày 30 - 1 - 1933, Tổng thống Hin-đen-bua chỉ định Hít-le làm Thủ tướng và thành lập chính phủ mới, mở ra một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 12: Nước Đức giữa hai cuộ chiến tranh thế giới (1918-1939),"Về chính trị: Từ năm 1933, Chính phủ Hít-le ráo riết thiết lập nền chuyên chính độc tài, công khai khủng bố các đảng phái dân chủ tiến bộ, trước hết là Đảng Cộng sản Đức. Tháng 3 - 1933, chính quyền phát xít vu cáo những người cộng sản đốt cháy nhà Quốc hội, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật và bắt giam 10 vạn đảng viên cộng sản. Năm 1934, Tổng thống Hin-đen-bua qua đời, Hít-le tuyến bốhuỷ bỏ Hiến pháp Vaima, tự xưng là Quốc trưởng suốt đời. Nền Cộng hoà Vaima hoàn toàn sụp đổ. Về kinh tế, chính quyền phát xít tiến hành tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung, mênh lệnh, phục vụ nhu cầu quân sự. Tháng 7 -1933, Hít-le thành lập Tổng hội đồng kinh tế đề điều hành hoạt động của các ngành kinh tế. Các ngành công nghiệp dần dần được phục hồi và hoạt động hết sức khẩn trương, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Các ngành giao thông vận tài, xây dựng đường sá được tăng cường đề giải quyết nạn thất nghiệp và phục vụ nhu cầu quân sự. Nền kinh tế Đức đã thoát khỏi khủng hoảng. Năm 1938, tổng sản lượng công nghiệp của Đức tăng 28% so với giai đoạn trước khủng hoảng và vượt qua một số nước tư bản Châu Âu." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Trong những năm 1918 -1939, nước Mĩ đã trải qua những bước thăng trầm đầy kịch tính: từ sự phồn vinh của nền kinh tế trong thập niên 20 đểh cuộc khủng hoảng và suy thoái nặng nề chưa từng thây trong lịch sử nước Mĩ những năm 1929 - 1933. Chính sách mới của Tổng thống Ru-dơ-ven đã đưa nước Mĩ thoát ra khỏi khủng hoảng và duy trì được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản" 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đem lại ""những cơ hội vàng cho nước Mĩ. Với nền kinh tê đạt mức tăng trưởng cao trong suốt những năm trong và sau chiến tranh, Mĩ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất. Cùng với lợi thế đó, việc cải tiên kĩ thuật, thực hiện phương pháp sản xuât dây chuyền và mở rộng quy mô sản xuât đã đưa nền kinh tê Mĩ bước vào thời kì phồn vinh trong thập niên 20 của thế kỉ XX. Sự phồn vinh của kinh tế Mĩ được thể hiện ở mức tăng trưởng cao của các ngành kinh tế. Chỉ trong vòng 6 năm (1923 -1929), sản lượng công nghiệp tăng 69%. Năm 1929, Mĩ chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới, vượt qua sản lượng công nghiệp của 5 cường quôc công nghiệp là Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản cộng lại. Mĩ đứng đầu thế giới về các ngành công nghiệp sản xuất ô tô, thép, dầu mỏ... Đặc biệt, sự bùng no của ngành sản xuất ô tô đã tác động mạnh đến các ngành công nghiệp khác. Năm 1919, nước Mĩ sản xuất được 7 triệu ô tô, đến năm 1924 đạt 24 triệu chiếc. Về tài chính, từ chỗ phải vay nợ Châu Âu 6 tỉ đôla trước chiến tranh, Mĩ đã trở thành chủ nợ của thế giới (riêng Anh và Pháp nợ Mĩ 10 tỉ đôl. Năm 1929, Mĩ nắm 60% sô vàng dự trữ của thế giới. Mặc dù đạt mức tăng trưởng cao, nhưng ngay cả trong thời kì phồn vinh này, nhiều ngành công nghiệp của Mĩ chỉ sử dụng 60 - 80% công suât. Sự phát triển kinh tê chạy theo lợi nhuận, theo chủ nghĩa tự do thái quá đã đưa đển sự phát triển không đổng bộ giữa các ngành công nghiệp, giữa công nghiệp với nông nghiệp, và không có kế hoạch dài hạn cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Giai đoạn tăng trưởng cao của kinh tế Mĩ trong thập niên 20 gắn liền với sự cầm quyền của các tổng thống thuộc Đảng Cộng hoà. Chính phủ của Đảng Cộng hoà một mặt đề cao sự phổn vinh của nền kinh tế, mặt khác thi hành chính sách ngăn chặn công nhân đấu tranh, đàn áp những người có tư tưởng tiến bộ trong phong trào công nhân. Sự giàu có của nước Mĩ không cải thiện đời sống cho tất cả mọi người trong nước. Những người lao động thường xuyên phải đối mặt với nạn thất nghiệp, bất công xã hội và nạn phân biệt chủng tộc đối với người da đen. Đặc biệt, cuộc sống của dân trại (nông dân Mĩ) rất khó khăn do giá nông sản hạ rất thấp và ế thừa. Đời sống người lao động ngày càng giảm sút, điều đó đã thúc đẩy phong trào đấu tranh của họ. Phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra sôi nổi trong các ngành công nghiệp than, luyện thép, vận tải đường sắt... Tháng 5 -1921, Đảng Cộng sản Mĩ được thành lập trên cơ sở hợp nhất Đảng Cộng sản công nhân Mĩ và Đảng Cộng sản Mĩ ra đời trước đó (1919), đánh dấu bước phát triển của phong trào công nhân Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Trong khi giai cấp tư sản Mĩ đang hết lời ca ngợi sự phổn vinh của nền kinh tế thì cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng thấy bất ngờ bùng nổ vào tháng 10 -1929, chấm dứt thời kì hoàng kim của kinh tế Mĩ. Cuộc khủng hoảng bắt đầu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Ngày 29 -10 - 1929 là ngày hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán Niu Oóc. Giá một loại cổ phiếu được coi là đảm bảo nhất sựt xuống 80%. Hàng triệu người đã mất sạch số tiền mà họ đã tiết kiêm cả đời. Vòng xoáy của khủng hoảng tiếp diễn không gì ngăn cản nổi, phá huỷ nghiêm trọng các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp của nước Mĩ. Năm 1932, khủng hoảng kinh tế diễn ra trầm trọng nhất: sản lượng công nghiệp chỉ còn 53,8% (so với năm 1929), 11,5 vạn công ti thương nghiệp, 58 công ti đường sắt bị phá sản, 10 vạn ngân hàng (chiếm 40% tổng số ngân hàng) phải đóng cửa, 75% dân trại bị phá sản... Số người thất nghiệp lên tới hàng chục triệu. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lan rộng toàn nước Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Để đưa nước Mĩ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, Tổng thống Ru-dơ-ven đã thực hiện một hệ thống các chính sách, biên pháp của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - tài chính và chính trị - xã hội, được gọi chung là Chính sách mới. Bằng sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào đời sống kinh tế, Chính phủ Ru-dơ-ven đã thực hiện các biện pháp giải quyết nạn thất nghiệp, phục hồi sự phát triển kinh tế thông qua các đạo luật về ngân hàng, phục hưng công nghiệp, điều chỉnh nông nghiệp. Trong các đạo luật đó, Đạo luật Phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Đạo luật này quy định việc to chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đong chặt chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Chính sách mới đã giải quyết được một số vân đề cơ bản của nước Mĩ trong cơn khủng hoảng nguy kịch. Nhà nước đã tăng cường vai trò của mình trong việc cứu trợ người thất nghiệp, tạo thệm nhiều việc làm mới, khôi phục sản xuất, xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và góp phần làm cho nước Mĩ duy trì được chế độ dân chủ tư sản. Chính vì thế, Ru-dơ-ven là người duy nhất trong lịch sử nước Mĩ trứng cử Tổng  Về đối ngoại, Chính phủ Ru-dơ-ven đề ra Chính sách láng giềng thân thiện nhằm cải thiên quan hệ với các nước Mĩ Latinh, vốn được Mĩ coi là ""sân sau của mình và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Từ năm 1934, Chính phủ Ru-dơ-ven đã tuyên bố Chính sách láng giềng thân thiện đối với các nước Mĩ Latinh, chấm dứt các cuộc can thiệp vũ trang, tiến hành thương lượng và hứa hẹn trao trả độc lập, nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh chống Mĩ và củng cố vị trí của Mĩ ở khu vực này. Sau 16 năm theo đuổi lập trường chống Liên Xô, tháng 11 - 1933, Chính phủ Ru-dơ-ven đã chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Việc làm này xuất phát từ những lợi ích của Mĩ. Trên thực tế, chính quyền Ru-dơ-ven vẫn không từ bỏ lập trường chống cộng sản. Đối với các vấn đề quốc tế, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh bao trùm toàn thế giới, Quốc hội Mĩ đã thông qua hàng loạt đạo luật để giữ vai trò trung lập trước các cuộc xung đột quân sự bên ngoài nước Mĩ. Chính sách đó đã góp phần khuyến khích chủ nghĩa phát xít tự do hành động, gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Cách ngày nay 30 - 40 vạn năm, do có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi cho sự sinh trưởng của cáy cỏ và động vật nên trên đất nước ta sớm có con người sinh sống. Trải qua hàng chục vạn năm, Người tôi cổ đã tiến hoá thành Người tinh khôn, xã hội nguyên thuỷ ở Việt Nam chuyển dần qua các giai đoạn hình thành, phát triển và tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Trên đất nước ta, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích Người tối cổ có niên đại cách ngày nay 30 - 40 vạn năm và nhiều công cụ đá ghè đẽo thô sơ của Người tối cổ ở Lạng Sơn, Thanh Hoá, Đồng Nai, Bình Phước v.v... Người tối cổ sống thành từng bầy. Họ săn bắt thú rừng và hái lượm hoa quả để sống." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Ở nhiều địa phương của nước ta đã tìm thấy những răng hoá thạch và nhiều công cụ đá ghè đẽo của Người tinh khôn tại các di tích văn hoá Ngườm (Võ Nhai - Thái Nguyên), Sơn Vi (Lâm Thao - Phú Thọ). Qui nhân của văn hoá Sơn Vi cư trú trong các hang động, mái đá ngoài trời, ven bờ sông, suối, trên một địa bàn khá rộng từ Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang đến Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị. Họ sống thành các thị tộc, sử dụng công cụ đá ghè đẽo, lấy săn bắt, hái lượm làm nguồn sống chính. Ở Hoà Bình, Bắc Sơn và nhiều địa phương khác trên đất nước ta đã tìm thấy nhiều dấu tích của văn hoá sơ kì đá mới, cách ngày nay khoảng 6000 - 12000 năm. Cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn đã sống định cư lâu dài trong các hang động, mài đá gần nguồn nước, hợp thành các thị tộc, bộ lạc, lấy săn bắt, hái lượm làm nguồn sống chính. Ngoài ra, họ còn biết trồng các loại rau, củ, cây ăn quả... Một nền nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu từ thời văn hoá Hoà Bình. Người Hoà Bình đã biết ghè đẽo nhiều hơn lên cả một bên mặt rìu đá, bước đầu biết mài lưối rìu và làm một số công cụ bằng xương, tre, gỗ. Người Bắc Sơn biết mài rộng lên trên lưỡi rìu đá và bắt đầu biết làm đồ gốm. Cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn cũng được nâng cao hơn. Cách ngày nay khoảng 5000 - 6000 năm, con người đã biết sử dụng kĩ thuật cưa, khoan đá, phát triển kĩ thuật làm đồ gốm bằng bàn xoay. Công cụ lao động được cải tiến, làm tăng năng suất lao động. Phần lớn các thị tộc đều bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đá. Cùng với sự gia tăng dân số, việc trao đổi sản phẩm được đẩy mạnh giữa các bộ lạc. Đời sống vật chất được ổn định và cải thiện hơn, đời sống tinh thần được nâng cao. Các nhà khảo cổ học thường coi đó là ""cuộc cách mạng đá mới ở nước ta. Địa bàn cư trú của các thị tộc, bộ lạc bấy giờ đã mở rộng ra nhiều địa phương trong cả nước." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, các bộ lạc sống rải rác trên đất nước ta, trên cơ sở trình độ phát triển cao của kĩ thuật chế tác đá, làm gốm, đã bắt đầu biết khai thác, sử dụng nguyên liệu đồng và thuật luyện kim để chế tạo công cụ, các vật dụng trong cuộc sống. Nghề nông trồng lúa nước trở nên phổ biến. Cư dân văn hoá Phùng Nguyên là những người mở đầu thời đại đồng thau ở Việt Nam. Các bộ lạc Phùng Nguyên làm nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc mẫu hệ. Công cụ lao động chủ yếu vẫn bằng đá. Họ làm gốm bằng bàn xoay, sử dụng các nguyên liệu tre, gỗ, xương để làm đồ dùng, biết xe chi, dệt vải và chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà... Trong các di chỉ thời Phùng Nguyên, các nhà kháo cổ học đã tìm thấy nhiều cục đồng, xỉ đồng, dáy đồng, dùi đồng. Cùng thời với các bộ lạc Phùng Nguyên, các bộ lạc sống ở vùng cháu thổ sông Mã (Thanh Hoá), ở vùng lưu vực sông cả (Nghệ An) cũng đã tiến đến thời đại sơ kì đồng thau với nền nông nghiệp dùng cuốc đá phát triển. Nghề nông giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế. Các nghề thủ công làm đá, gốm đạt trình độ tương đương với cư dân Phùng Nguyên. Trong các di tích, bên cạnh các hiện vật bằng đá, gốm còn có hiện vật bằng đồng. Cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, các bộ lạc sống định cư ở vùng Nam Trung Bộ ngày nay, chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh cũng đã tiến đến buổi đầu thời đại kim khí, biết đến thuật luyện kim. Các di tích văn hoá Sa Huỳnh đã được phát hiện ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà..." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, các bộ lạc sống rải rác trên đất nước ta, trên cơ sở trình độ phát triển cao của kĩ thuật chế tác đá, làm gốm, đã bắt đầu biết khai thác, sử dụng nguyên liệu đồng và thuật luyện kim để chế tạo công cụ, các vật dụng trong cuộc sống. Nghề nông trồng lúa nước trở nên phổ biến. Cư dân văn hoá Phùng Nguyên là những người mở đầu thời đại đồng thau ở Việt Nam. Các bộ lạc Phùng Nguyên làm nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc mẫu hệ. Công cụ lao động chủ yếu vẫn bằng đá. Họ làm gốm bằng bàn xoay, sử dụng các nguyên liệu tre, gỗ, xương để làm đồ dùng, biết xe chỉ, dệt vải và chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà... Trong các di chỉ thời Phùng Nguyên, các nhà kháo cổ học đã tìm thấy nhiều cục đồng, xỉ đồng, dáy đồng, dùi đồng. Cùng thời với các bộ lạc Phùng Nguyên, các bộ lạc sống ở vùng châu thổ sông Mã (Thanh Hoá), ở vùng lưu vực sông cả (Nghệ An) cũng đã tiến đến thời đại sơ kì đồng thau với nền nông nghiệp dùng cuốc đá phát triển. Nghề nông giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế. Các nghề thủ công làm đá, gốm đạt trình độ tương đương với cư dân Phùng Nguyên. Trong các di tích, bên cạnh các hiện vật bằng đá, gốm còn có hiện vật bằng đồng. Cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, các bộ lạc sống định cư ở vùng Nam Trung Bộ ngày nay, chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh cũng đã tiến đến buổi đầu thời đại kim khí, biết đến thuật luyện kim. Các di tích văn hoá Sa Huỳnh đã được phát hiện ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà..." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Sa Huỳnh là nông nghiệp trồng lúa và các cây trồng khác. Họ bắt đầu biết chế tác và sử dụng đồ sắt. Ngoài ra, họ còn làm gốm đẹp, dệt vải, làm đồ trang sức bằng đá quý, mã não, vỏ ốc, thuỷ tinh. Cư dân văn hoá Sa Huỳnh thường thiêu xác chết, đổ tro vào các vò bằng đất nung cùng với các đồ trang sức. 6 lưu vực sông Đồng Nai cũng đã phát hiện được một số di tích văn hoá thời đại đồ đồng. Các di tích văn hoá sông Đồng Nai được phân bố ở Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Long An... Cư dân văn hoá sông Đồng Nai làm nghề nông trồng lúa nước và các cây lương thực khác. Ngoài ra, họ còn làm nghề khai thác sản vật rừng, săn bắn, làm nghề thủ công. Bên cạnh các công cụ bằng đá là chủ yếu còn có một số hiện vật bằng đồng, vàng, thuỷ tinh. Tóm lại, cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, trên các vùng miền của đất nước ta, các bộ lạc đã bước vào thời đại kim khí, hình thành những nền văn hoá lớn phán bố ở các khu vực khác nhau, làm tiền đề cho sự chuyển biến của xã hội nguyên thuỷ sang thời đại mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương đã tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội ở Việt Nam. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp càng thệm sâu sắc, thúc đẩy phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ có bước phát triển mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có những chuyển biến mới. Các nước đế quốc thắng trận đã họp để phân chia lại thế giới, thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới. Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga (11 - 1917), với sự ra đời của nước Nga Xô viết, đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông, phong trào công nhân và lao động ở phương Tây phát triển mạnh mẽ. Các đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần lượt ra đời: Đảng Cộng sản Đức (1 - 1919), Đảng Cộng sản Anh (8 - 1920), Đảng Cộng sản Mĩ (1921), Đảng Cộng sản Inđônêxia (5 - 1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (7 - 1921). Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ b được thành lập ở Mátxcơva (3 - 1919), đảm nhận sứ mênh tập hợp, lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới. Ở Pháp, Đảng Xã hội đã phân hoá sâu sắc. Tại Đại hội Tua tháng 12 - 1920, bộ phận tích cực nhất trong Đảng Xã hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế  Cộng sản và tách ra để thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có những chuyển biến mới. Các nước đế quốc thắng trận đã họp đề phán chia lại thế giới, thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới. Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga (11 - 1917), với sự ra đời của nước Nga Xô viết, đã thức đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông, phong trào công nhân và lao động ở phương tây phát triển mạnh mẽ. Các đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần lượt ra đời: Đảng Cộng sản Đức (1 - 1919), Đảng Cộng sản Anh (8 - 1920), Đảng Cộng sản Mĩ (1921), Đảng Cộng sản Inđônêxia (5 - 1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (7 - 1921). Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ b được thành lập ở Mátxcơva (3 - 1919), đảm nhận sứ mênh tập hợp, lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới. Ở Pháp, Đảng Xã hội đã phán hoá sâu sắc. Tại Đại hội Tua tháng 12 - 1920, bộ phận tích cực nhất trong Đảng Xã hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tách ra đề thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho nền kinh tế của Pháp bị tổn thất nặng nề, với hơn 1,4 triệu người chết và thiệt hại về vật chất lên tới 200 tỉ phrăng. đề hàn gắn và khôi phục nền kinh tế, nhà cầm quyền Pháp vừa tìm cách thức đẩy sản xuất trong nước, vừa tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết là các nước ở Đông dương và Châu Phi. Chương trình khai thác lần thứ hai thực hiện ở Đông dương do Anbe Xarô - Toàn quyền Đông dương - vạch ra. Chương trình này được triển khai từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919) đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933). Thực dân Pháp đã đầu tư với tốc độ nhanh, quy mô lớn vào các ngành kinh tế Việt Nam. Chỉ trong vòng 6 năm (1924 - 1929), số vốn đầu tư vào Đông dương, chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ phrăng, nhiều nhất là vào nông nghiệp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Năm 1924, vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phrăng, đến năm 1927 đỡ lên đến 400 triệu phrỡng. Diện tích các đồn điền trồng lúa, cao su, cà phê... được mở rộng. Diện tích trồng cao su từ 1 500 héc ta năm 1918 lên đến 78 620 héc ta năm 1930. Nhiều công ti trồng cao su ra đời: Công ti Đất đỏ, Công ti Misơlanh, Công ti Trồng cấy nhiệt đới v.v... Sau nông nghiệp, tư bản Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết là mỏ than. Nhiều công ti khai thác mỏ than mới được thành lập như Công ti than Hạ Long - đồng Đăng, Công ti than và kim khí Đông dương, Công ti than tuyến Quang, Công ti than Đông Triều... Ngoài than, các cơ sở khai thác mỏ thiếc, kẽm, sắt đều được bổ sung thêm vốn, tăng thêm nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Một số cơ sở chế biến quặng kẽm, thiếc, các nhà máy tơ sợi Hải Phòng, Nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Định, nhà máy diêm Hà Nội, Bến Thuỷ, nhà máy đường Tuy Hoà, nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn... đã được nâng cấp và mở rộng quy mô. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Thương nghiệp, trước hết là ngoại thương, có sự tăng tiến hơn trước. Trước chiến tranh, hàng hoá Pháp nhập vào Đông dương mới chiếm 37%, đến những năm 1929 - 1930 đã lên đến 63% tổng số hàng nhập. Quan hệ giao lưu buôn bản nội địa cũng được đẩy mạnh. Giao thông vận tài phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước. Đường sắt xuyên Đông dương được nối thêm đoạn đồng Đăng - Na Sầm (1922), Vinh - Đông Hà (1927). Đến năm 1932, Pháp đã xây dựng 2 389 km đường sắt trên lãnh thổ Việt Nam. Hệ thống giao thông đường thuỷ tiếp tục được khai thác. Ngoài các cảng đã có từ trước như cảng Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nang, Quy Nhơn, thực dân Pháp xúc tiến xây dựng các cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ. Các đô thị được mở rộng và dân cư đông hơn. Ngân hàng Đông dương nắm trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi. Cùng với chính sách khai thác nông, công, thương nghiệp..., thực dân Pháp còn thi hành các biện pháp tăng thuế nên ngân sách Đông dương thu được năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Sau chiến tranh, chính sách thống trị của Pháp ở Đông dương vẫn không thay đổi mà còn được tăng cường. Đó là chính sách chuyên chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay thực dân Pháp và bọn tay sai trung thành của chúng. Bộ máy cảnh sát, mật thám, nhà từ vẫn tiếp tục được củng cố và hoạt động ráo riết. Một số tổ chức chính trị, an ninh, kinh tế được thành lập. Thực dân Pháp thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính đề đối phó với những biến động đang diễn ra ở Đông dương, như tăng thêm số người Việt trong các phòng thương mại và canh nông ở các thành phố lớn, lập Viện Dân biểu Trung Kì (2 - 1926), Viện Dân biểu Bắc Kì (4 - 1926)... Chúng thông qua bộ phận cầm đầu tại hương thôn đề xâm nhập, kiểm soát xuống các làng xã. Văn hoá, giáo dục cũng có những thay đổi. Tháng 12 - 1917, Toàn quyền Đông dương lộp Hội đồng Tư vẫn học chính Đông dương với chúc năng đề ra những quy chế cho ngành giáo dục. Hệ thống giáo dục được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Mô hình giáo dục có tính hiện đại đang hình thành ở Đông dương. Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp sử dụng báo chí, văn hoá... đề phục vụ công cuộc khai thác và thống trị của chúng; ưu tiên, khuyến khích xuất bản các sách báo theo chủ trương ""Pháp - Việt đề huề"". Các trào lưu tư tưởng, khoa học - kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật phương tây có điều kiện tràn vào Việt Nam. Các ngành văn học, nghệ thuật (hội họa, điêu khắc, kiến trúc v.v...) đã có những biến chuyển mới về nội dung, phương pháp sáng tác. Các yếu tố văn hoá truyền thống, văn hoá mới tiến bộ và nô dịch cùng tồn tại, đan xen, đấu tranh với nhau." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Qua cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản Pháp tiếp tục được mở rộng và bao trùm lên nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Trong quá trình đầu tư vốn và mở rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng có đầu tư kĩ thuật và nhân lực, song rất hạn chế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam có chuyển biến ít nhiều, song chỉ có tính chất cục bộ ở một số vùng, còn phổ biến vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Kinh tế Đông dương ngày càng bị cột chặt vào kinh tế Pháp và Đông dương vẫn là thị trường độc chiếm của tư bản Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn và chính sách thống trị của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam có những chuyển biến mới. Giai cấp địa chủ bị phán hoá thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ (một số đồng thời là tư sản). Hình thành và phát triển trong một dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, nên một bộ phận không ít tiểu và trung địa chủ có ý thức dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai. Giai cấp nông dân bị thống trị, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam - lực lượng dân cư đông đảo nhất - với đế quốc Pháp và tay sai hết sức gay gắt. Đó là cơ sở của sự bùng nổ các cuộc đấu tranh của nông dân trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và tự do. Giai cấp tiểu tư sản (bao gồm những người buôn bản nhỏ, chủ xưởng nhỏ, thợ thủ công, học sinh, sinh viên, công chức, trí thức...) sau chiến tranh đã có sự phát triển nhanh về số lượng. Họ có ý thức dân tộc dân chủ, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt, bộ phận trí thức, học sinh, sinh viên rất nhạy cảm với thời cuộc và tha thiết canh tân đất nước nên rất hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Giai cấp tư sản ra đời sau Chiến tranh thế giổi thứ nhất và phán hoá thành hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản là những chủ tư bản lớn, mở xí nghiệp đề gia công và nhận thầu cho đế quốc, lập các hiệu buôn bản lớn... Tư sản dân tộc đã đi vào con đường phát triển kinh tế dân tộc. Địa vị kinh tế của tư bản Việt Nam rất nhỏ bé, tổng số vốn kinh doanh chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta lúc bấy giờ. Tư sản dân tộc Việt Nam là lực lượng có khuynh hướng dân tộc và dân chủ. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất," Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, số lượng công nhân khoảng 10 vạn người; đến năm 1929, trong các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông dương, chủ yếu là ở Việt Nam, đã có trên 22 vạn người. Công nhân Việt Nam bị thực dân và giới tư sản bóc lột. Giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với giai cấp nông dân, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản trên thế giới nên đã nhanh chóng vươn lên trở thành một động lực mạnh mẽ của phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại. Tóm lại, từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỉ XX, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những biến đổi quan trọng về kinh tế và giai cấp xã hội. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc và tay sai diễn ra ngày càng gay gắt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Giai đoạn tăng trưởng cao của kinh tế Mĩ trong thập niên 20 gắn liền với sự cầm quyền của các tổng thống thuộc Đảng Cộng hoà. Chính phủ của Đảng Cộng hoà một mặt đề cao sự phổn vinh của nền kinh tế, mặt khác thi hành chính sách ngăn chặn công nhân đấu tranh, đàn áp những người có tư tưởng tiến bộ trong phong trào công nhân. Sự giàu có của nước Mĩ không cải thiện đời sống cho tất cả mọi người trong nước. Những người lao động thường xuyên phải đối mặt với nạn thất nghiệp, bất công xã hội và nạn phán biệt chủng tộc đối với người da đen. Đặc biệt, cuộc sống của dân trại (nông dân Mĩ) rất khó khăn do giá nông sản hạ rất thấp và ế thừa. Đời sống người lao động ngày càng giảm sút, điều đó đã thức đẩy phong trào đấu tranh của họ. Phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra sôi nổi trong các ngành công nghiệp than, luyện thép, vận tài đường sắt... Tháng 5 -1921, Đảng Cộng sản Mĩ được thành lập trên cơ sở hợp nhất Đảng Cộng sản công nhân Mĩ và Đảng Cộng sản Mĩ ra đời trước đó (1919), đánh dấu bước phát triển của phong trào công nhân Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 13: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"đề đưa nước Mĩ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, Tổng thống Ru-dơ-ven đã thực hiện một hệ thống các chính sách, biện pháp của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - tài chính và chính trị - xã hội, được gọi chung là Chính sách mới. Bằng sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào đời sống kinh tế, Chính phủ Ru-dơ-ven đã thực hiện các biện pháp giải quyết nạn thất nghiệp, phục hồi sự phát triển kinh tế thông qua các đạo luật về ngân hàng, phục hưng công nghiệp, điều chỉnh nông nghiệp. Trong các đạo luật đó, Đạo luật Phục hưng công nghiệp là quan trọng nhất. Đạo luật này quy định việc to chức lại sản xuất công nghiệp theo những hợp đong chặt chẽ về sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Chính sách mới đã giải quyết được một số vẫn đề cơ bản của nước Mĩ trong cơn khủng hoảng nguy kịch. Nhà nước đã tăng cường vai trò của mình trong việc cứu trợ người thất nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới, khôi phục sản xuất, xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và góp phần làm cho nước Mĩ duy trì được chế độ dân chủ tư sản. Chính vì thế, Ru-dơ-ven là người duy nhất trong lịch sử nước Mĩ trứng cử Tổng  Về đối ngoại, Chính phủ Ru-dơ-ven đề ra Chính sách láng giềng quân thiện nhằm cải thiên quan hệ với các nước Mĩ Latinh, vốn được Mĩ coi là ""sản sau của mình và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Từ năm 1934, Chính phủ Ru-dơ-ven đã tuyến bốChính sách láng giềng quân thiện đối với các nước Mĩ Latinh, chấm dứt các cuộc can thiệp vũ trang, tiến hành thương lượng và hứa hẹn trao trả độc lập, nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh chống Mĩ và củng cố vị trí của Mĩ ở khu vực này. Sau 16 năm theo đuổi lập trường chống Liên Xô, tháng 11 - 1933, Chính phủ Ru-dơ-ven đã chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Việc làm này xuất phát từ những lợi ích của Mĩ. Trên thực tế, chính quyền Ru-dơ-ven vẫn không từ bỏ lập trường chống cộng sản. Đối với các vấn đề quốc tế, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh bao trùm toàn thế giới, Quốc hội Mĩ đã thông qua hàng loạt đạo luật đề giữ vai trò trung lập trước các cuộc xung đột quân sự bên ngoài nước Mĩ. Chính sách đó đã góp phần khuyến khích chủ nghĩa phát xít tự do hành động, gậy ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 13: Việt Nam thời nguyên thủy,"Ở nhiều địa phương của nước ta đã tìm thấy những răng hoá thạch và nhiều công cụ đá ghè đẽo của Người tinh khôn tại các di tích văn hoá Ngườm (Võ Nhai - Thái Nguyên), Sơn Vi (Lâm Thao - Phú Thọ). Qui nhân của văn hoá Sơn Vi cư trú trong các hang động, mái đá ngoài trời, ven bờ sông, suối, trên một địa bàn khá rộng từ Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang đến Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị. Họ sống thành các thị tộc, sử dụng công cụ đá ghè đẽo, lấy săn bắt, hái lượm làm nguồn sống chính. Ở Hoà Bình, Bắc Sơn và nhiều địa phương khác trên đất nước ta đã tìm thấy nhiều dấu tích của văn hoá sơ kì đá mới, cách ngày nay khoảng 6000 - 12000 năm. Cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn đã sống định cư lâu dài trong các hang động, mài đá gần nguồn nước, hợp thành các thị tộc, bộ lạc, lấy săn bắt, hái lượm làm nguồn sống chính. Ngoài ra, họ còn biết trồng các loại rau, củ, cây ăn quả... Một nền nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu từ thời văn hoá Hoà Bình. Người Hoà Bình đã biết ghè đẽo nhiều hơn lên cả một bên mặt rìu đá, bước đầu biết mài lưối rìu và làm một số công cụ bằng xương, tre, gỗ. Người Bắc Sơn biết mài rộng lên trên lưỡi rìu đá và bắt đầu biết làm đồ gốm. Cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn cũng được nâng cao hơn. Cách ngày nay khoảng 5000 - 6000 năm, con người đã biết sử dụng kĩ thuật cưa, khoan đá, phát triển kĩ thuật làm đồ gốm bằng bàn xoay. Công cụ lao động được cải tiến, làm tăng năng suất lao động. Phần lớn các thị tộc đều bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đá. Cùng với sự gia tăng dân số, việc trao đổi sản phẩm được đẩy mạnh giữa các bộ lạc. Đời sống vật chất được ổn định và cải thiện hơn, đời sống tinh thần được nâng cao. Các nhà khảo cổ học thường coi đó là ""cuộc cách mạng đá mới"" ở nước ta. Địa bàn cư trú của các thị tộc, bộ lạc bấy giờ đã mở rộng ra nhiều địa phương trong cả nước." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có những chuyển biến mới. Các nước đế quốc thắng trận đã họp để phân chia lại thế giới, thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới. Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga (11 - 1917), với sự ra đời của nước Nga Xô viết, đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông, phong trào công nhân và lao động ở phương tây phát triển mạnh mẽ. Các đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần lượt ra đời: Đảng Cộng sản Đức (1 - 1919), Đảng Cộng sản Anh (8 - 1920), Đảng Cộng sản Mĩ (1921), Đảng Cộng sản Inđônêxia (5 - 1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (7 - 1921). Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba được thành lập ở Mátxcơva (3 - 1919), đảm nhận sứ mệnh tập hợp, lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới. Ở Pháp, Đảng Xã hội đã phân hoá sâu sắc. Tại Đại hội Tua tháng 12 - 1920, bộ phận tích cực nhất trong Đảng Xã hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tách ra để thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Thương nghiệp, trước hết là ngoại thương, có sự tăng tiến hơn trước. Trước chiến tranh, hàng hoá Pháp nhập vào Đông Dương mới chiếm 37%, đến những năm 1929 - 1930 đã lên đến 63% tổng số hàng nhập. Quan hệ giao lưu buôn bán nội địa cũng được đẩy mạnh. Giao thông vận tài phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước. Đường sắt xuyên Đông Dương được nối thêm đoạn Đồng Đăng - Na Sầm (1922), Vinh - Đông Hà (1927). Đến năm 1932, Pháp đã xây dựng 2389 km đường sắt trên lãnh thổ Việt Nam. Hệ thống giao thông đường thuỷ tiếp tục được khai thác. Ngoài các cảng đã có từ trước như cảng Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, thực dân Pháp xúc tiến xây dựng các cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ. Các đô thị được mở rộng và dân cư đông hơn. Ngân hàng Đông Dương nắm trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi. Cùng với chính sách khai thác nông, công, thương nghiệp..., thực dân Pháp còn thi hành các biện pháp tăng thuế nên ngân sách Đông Dương thu được năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 13: Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất,"Sau chiến tranh, chính sách thống trị của Pháp ở Đông Dương vẫn không thay đổi mà còn được tăng cường. Đó là chính sách chuyên chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay thực dân Pháp và bọn tay sai trung thành của chúng. Bộ máy cảnh sát, mật thám, nhà tù vẫn tiếp tục được củng cố và hoạt động ráo riết. Một số tổ chức chính trị, an ninh, kinh tế được thành lập. Thực dân Pháp thi hành một vài cải cách chính trị - hành chính để đối phó với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương, như tăng thêm số người Việt trong các phòng thương mại và canh nông ở các thành phố lớn, lập Viện Dân biểu Trung Kì (2 - 1926), Viện Dân biểu Bắc Kì (4 - 1926)... Chúng thông qua bộ phận cầm đầu tại hương thôn để xâm nhập, kiểm soát xuống các làng xã. Văn hoá, giáo dục cũng có những thay đổi. Tháng 12 - 1917, Toàn quyền Đông Dương lập Hội đồng Tư vẫn học chính Đông Dương với chức năng đề ra những quy chế cho ngành giáo dục. Hệ thống giáo dục được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Mô hình giáo dục có tính hiện đại đang hình thành ở Đông Dương. Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp chí chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp sử dụng báo chí, văn hoá... để phục vụ công cuộc khai thác và thống trị của chúng; ưu tiên, khuyến khích xuất bản các sách báo theo chủ trương ""Pháp - Việt đề huề"". Các trào lưu tư tưởng, khoa học - kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật phương tây có điều kiện tràn vào Việt Nam. Các ngành văn học, nghệ thuật (hội họa, điêu khắc, kiến trúc v.v...) đã có những biến chuyển mới về nội dung, phương pháp sáng tác. Các yếu tố văn hoá truyền thống, văn hoá mới tiến bộ và nô dịch cùng tồn tại, đan xen, đấu tranh với nhau." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Nhật Bản là nước duy nhất ở Châu Á được xếp vào hàng ngũ các cường quốc tư bản. Trải qua những năm ổn định ngắn ngủi sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 - 1933). Để tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng, giới cầm quyền Nhật Bản tiến hành quân phiệt hoá bộ máy nhà nước, biến Nhật Bản thành một lò lửa chiến tranh ở Châu Á và trên thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Nhật Bản là nước thứ hai sau Mĩ thu được nhiều lợi trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Lợi dụng sự suy giảm khả năng kinh tế của các nước tư bản Châu Âu trong chiến tranh, Nhật Bản đã tăng cường sản xuất hàng hoá và xuất khẩu. Nhờ những đơn đặt hàng quân sự, sản xuất công nghiệp của Nhật Bản tăng trưởng rất nhanh. Chỉ trong vòng 6 năm (1914 -1919), nền kinh tế Nhật Bản phát triển vượt bậc: sản lượng công nghiệp tăng 5 lần, tổng giá trị xuất khẩu tăng gấp 4 lần, dự trữ vàng và ngoại tệ tăng gấp 6 lần; nhưng sau đó lại lâm vào khủng hoảng. Về nông nghiệp, những tàn dư phong kiến còn tồn tại nặng nề ở nông thôn đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế nông nghiệp. Giá lương thực, thực phẩm, nhất là giá gạo, vô cùng đắt đỏ. Đời sống người lao động không được cải thiện. Phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân bùng lên mạnh mẽ trong những năm sau chiến tranh. Mùa thu năm 1918, quần chúng nhân dân nổi dậy đánh phá các kho thóc, mở đầu cuộc ""Bạo động lúa gạo lan rộng khắp cả nước, lôi cuốn 10 triệu người tham gia. Đổng thời, những cuộc bãi công của công nhân cũng lan rộng ở các trung tâm công nghiệp lớn như Cô-bê, Na-gôi-a, Ô-xa-ca... Chỉ riêng năm 1919 đã có 2 388 cuộc bãi công của công nhân. Trên cơ sở sự phát triển của phong trào công nhân, tháng 7 -1922 Đảng Cộng sản Nhật Bản được thành lập. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Khác với các nước tư bản Tây Âu và Mĩ, sự ổn định của Nhật Bản chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Năm 1926, sản lượng công nghiệp mới phục hồi trở lại và vượt mức trước chiến tranh. Nhưng chưa đầy một năm sau, mùa xuân năm 1927, cuộc khủng hoảng tài chính lại bùng nổ ở Thủ đô Tô-ki-ô làm 30 ngân hàng phá sản. Nền công nghiệp chủ yếu dựa vào xuất khẩu của Nhật Bản ngày càng gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với Mĩ và các nước Tây Âu. Từ một nước có sức sản xuất và mức xuất khẩu tăng rất nhanh trong chiến tranh, bước vào thập niên 20, Nhật Bản phải nhập khẩu quá mức do khan hiếm nguyên liệu và nhiên liệu. Sản xuất trong nước bị suy giảm, phần lớn các xí nghiệp công nghiệp chỉ sử dụng từ 20% đến 25% công suất. Số người thất nghiệp tăng nhanh, nông dân bị bần cùng hoá, sức mua của người dân suy giảm làm cho thị trường trong nước ngày càng thu hẹp. Về chính trị, trong những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX, Chính phủ Nhật Bản đã thi hành một số cải cách chính trị (như ban hành luật bầu cử phổ thông cho nam giới, cắt giảm ngân sách quốc phòng...) và giảm bớt căng thẳng trong quan hệ với các cường quốc khác. Đến cuối thập niên 20, Chính phủ của tướng Ta-na-ca - một phần tử quân phiệt đã thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại hiếu chiến. Chính phủ Ta-na-ca chủ trương dùng vũ lực để bành trướng ra bên ngoài nhằm giải quyết khó khăn trong nước. Cùng với việc quân sự hoá đất nước, năm 1927 Ta-na-ca vạch kế hoạch chiến tranh toàn cầu dưới hình thức một bản Tấu thỉnh đệ trình lên Thiên hoàng. Chính phủ Ta-na-ca đã 2 lần đưa quân xâm lược Sơn Đông (Trung Quốc, nhưng đều bị thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Năm 1929, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mĩ dẫn đến cuộc đại suy thoái của chủ nghĩa tư bản nói chung, đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản giảm sút trầm trọng. Sản xuất công nghiệp đình đốn. Khủng hoảng xảy ra nghiêm trọng nhất là trong nông nghiệp, do sự lệ thuộc vào thị trường bên ngoài của ngành này. So với năm 1929, sản lượng công nghiệp năm 1931 giảm 32,5%, nông phẩm giảm 1,7 tỉ yên, ngoại thương giảm 80%. Đồng yên sụt giá nghiêm trọng. Khủng hoảng đạt đến đỉnh điểm vào năm 1931, gây nên những hậu quả xã hội tai hại: nông dân bị phá sản, mất mùa và đói kém, số công nhân thất nghiệp lên tới 3 triệu người. Mâu thuẫn xã hội và cuộc đấu tranh của những người lao động diễn ra quyết liệt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Nhằm khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng và giải quyết khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hoá, giới cầm quyền Nhật Bản chủ trương quân phiệt hoá bộ máy nhà nước, gây chiến tranh xâm lược, bành trướng ra bên ngoài. Khác với Đức, quá trình phát xít hoá diễn ra thông qua sự chuyển đổi từ chế độ dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chuyện chế độc tài phát xít, ở Nhật Bản, do đã có sẵn chế độ chuyện chế Thiên hoàng, quá trình này diễn ra thông qua việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa. Do có những bất đổng trong nội bộ giới cầm quyền Nhật Bản về cách thức tiến hành chiến tranh xâm lược, quá trình quân phiệt hoá kéo dài trong suốt thập niên 30. Từ năm 1937, cuộc đấu tranh trong nội bộ đã chấm dứt, giới cầm quyền Nhật Bản tập trung vào việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước.  Cùng với việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước, tăng cường chạy đua vũ trang, giới cầm quyền Nhật Bản đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc rộng lớn, nơi tập trung 82% tổng số’ vốn đầu tư nước ngoài của Nhật Bản, luôn luôn là đối tượng mà nước Nhật muốn độc chiếm từ lâu. Tháng 9 -1931, Nhật Bản đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc và biến toàn bộ vùng đất giàu có này thành thuộc địa. Năm 1933, Nhật Bản dựng lên chính phủ bù nhìn, đưa Phổ Nghi - vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc - lên đứng đầu cái gọi là ""Mãn Châu quốc"". Miền Đông Bắc Trung Quốc trở thành bàn đạp của những cuộc phiêu lưu quân sự mới của quân đội Nhật Bản" 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Trong những năm 30 của thế kỉ XX, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt của nhân dân Nhật Bản, mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản, diễn ra sôi nổi, dưới nhiều hình thức. Từ những cuộc biểu tình phản đối chính sách xâm lược của giới cầm quyền đã dẫn đến phong trào thành lập Mặt trận Nhân dân, tập hợp đông đảo các tầng lớp xã hội. Cuộc đấu tranh của nhân dân Nhật Bản đã góp phần làm chậm quá trình quân phiệt hoá bộ máy nhà nước ở nước này. Phong trào lan rộng, lôi cuốn đông đảo binh lính và sĩ quan Nhật tham gia. Chỉ trong năm 1939, đã diễn ra trên 40 cuộc đấu tranh chống chiến tranh của binh sĩ trong quân đội Nhật Bản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Vào cuối thời nguyên thuỷ, các thị tộc, bộ lạc sống trên đất nước ta đã biết sử dụng kim loại để chế tạo các vật dụng. Nghề nông trồng lúa nước trở nên phổ biến. Trên cơ sở đó đã hình thành các quốc gia cổ đại: Văn Lang - Âu Lạc, Cham-pa, Phù Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Trên cơ sở của văn hoá Sa Huỳnh ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay, đã hình thành quốc gia cổ Cham-pa. Thời Bắc thuộc, vùng đất ở phía nam dãy Hoành Sơn bị nhà Hán xâm chiếm đặt thành quận Nhạt Nam và chia làm 5 huyện để cai trị. Tượng Lâm là huyện xa nhất (vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Vào cuối thế kỉ II, nhân lúc tình hình Trung Quốc rối loạn, Khu Liên đã hô hào nhân dân huyện Tượng Lâm nổi dậy giành quyển tự chủ. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Khu Liên tự lập làm vua, đặt tên nước là Lâm Âp. Các vua Lâm Âp về sau mở rộng lãnh thổ về phía bắc đến sông Gianh (Quảng Bình), phía nam đến sông Dinh (Bình Thuận) và đổi tên nước là Cham-pa. Cũng như cư dân Việt cổ, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Cham-pa là nông nghiệp trồng lúa, sử dụng công cụ bằng sắt và sức kéo của trâu, bò. Họ đã biết sử dụng guồng nước trong sản xuất. Ngoài nghề nông, các nghề thủ công, nghề khai thác lâm thổ sản cũng khá phát triển, đặc biệt là kĩ thuật xây tháp đạt tới trình độ rất cao. cư dân Cham-pa có các nghề thủ công phát triển như nghề dệt, chế tạo đồ dùng, làm đồ trang sức, vũ khí bằng kim loại, nghề đóng gạch và xây dụng. Nhiều công trình xây dụng nổi tiếng như khu thánh địa Mĩ Son, các tháp Chăm, tượng, các bức chạm nổi. Cham-pa theo thể chế quân chủ. Vua nắm mọi quyền hành về chính trị, kinh tế, tôn giáo. Giúp việc cho vua có Tể tướng và các đại thần, cả nước chia làm 4 khu vực hành chính lớn gọi là châu, dưới châu có huyện, làng. Kinh đô ban đầu đóng ở Sin-ha-pu-ra (Trà Kiệu - Quảng Nam), sau đó dời đến In-đra-pu-ra (Đồng Dưong - Quảng Nam) rồi chuyển tới Vi-giay-a (Chà Bàn - Bình Định)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Từ thế kỉ IV, dân tộc Chăm đã có chữ viết bắt nguồn từ chữ Phạn của Ấn Độ. Tôn giáo của người Chăm là Hindu giáo và Phật giáo. Người Chăm có tập tục ở nhà sàn, ăn trầu cau và hoả táng người chết. Xã hội người Chăm bao gồm các tầng lớp quý tộc, dân tự do, nông dân lệ thuộc và nô lệ. Nông dân chiếm số đông, làm nông nghiệp, đánh cá và thu kiếm lâm sản. Cham-pa phát triển trong các thế kỉ X - XV rồi sau đó suy thoái và hội nhập, trở thành một bộ phận của lãnh thổ, cư dân và vãn hoá Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Trên địa bàn châu thổ sông cửu Long (Nam Bộ) đã hình thành nền văn hoá cổ từ cuối thời đại đá mới chuyển sang thời đại đồ đồng và sắt cách ngày nay khoảng 1500 - 2000 năm. Các nhà khảo cổ học gọi là văn hoá óc Eo. Văn hoá óc Eo có nguồn gốc từ văn hoá sông Đồng Nai. Địa bàn chủ yếu của văn hoá óc Eo là vùng châu thổ sông cửu Long (óc Eo nay thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) gồm nhiều tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp... và một số địa phương thuộc Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở văn hoá óc Eo, quốc gia cổ Phù Nam hình thành vào khoảng thế kỉ I và trở thành một quốc gia rất phát triển ở vùng Đông Nam Á Quốc gia Phù Nam bao gồm nhiều tiểu quốc, bộ phận chủ yếu ở vùng Tây Nam Bộ có tiếng nói thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thể chế chính trị quân chủ, do vua đứng đầu nắm mọi quyền hành. Cư dân Phù Nam sản xuất nông nghiệp, kết hợp với làm nghề thủ công, đánh cá và buôn bán. Ngoại thương đường biển rất phát triển. Tập quán phổ biến của cư dân Phù Nam là ở nhà sàn. Phật giáo và Hindu giáo được sùng tín. Nghệ thuật ca, múa nhạc phát triển. Xã hội đã có sự phân hoá giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ. Cuối thế kỉ VI, Phù Nam suy yếu, bị Chân Lạp thôn tính." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Trên địa bàn châu thổ sông cửu Long (Nam Bộ) đã hình thành nền văn hoá cổ từ cuối thời đại đá mới chuyển sang thời đại đồ đồng và sắt cách ngày nay khoảng 1500 - 2000 năm. Các nhà khảo cổ học gọi là văn hoá Óc Eo. Văn hoá Óc Eo có nguồn gốc từ văn hoá sông Đổng Nai. Địa bàn chủ yếu của văn hoá Óc Eo là vùng châu thổ sông cửu Long (Óc Eo nay thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) gồm nhiều tinh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp... và một số địa phương thuộc Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở văn hoá Óc Eo, quốc gia cổ Phù Nam hình thành vào khoảng thế kỉ I và trở thành một quốc gia rất phát triển ở vùng Đông Nam Á Quốc gia Phù Nam bao gồm nhiều tiểu quốc, bộ phận chủ yếu ở vùng Tây Nam Bộ có tiếng nói thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thể chế chính trị quân chủ, do vua đứng đầu nắm mọi quyền hành. Cư dân Phù Nam sản xuất nông nghiệp, kết hợp với làm nghề thủ công, đánh cá và buôn bán. Ngoại thương đường biển rất phát triển. Tập quán phổ biến của cư dân Phù Nam là ở nhà sàn. Phật giáo và Hindu giáo được sùng tín. Nghệ thuật ca, múa nhạc phát triển. Xã hội đã có sự phân hoá giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ. Cuối thế kỉ VI, Phù Nam suy yếu, bị Chân Lạp thôn tính." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới ảnh hưởng của tình hình quốc tế và cuộc khai thác thuộc địa, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam diễn ra sôi nổi với sự tham gia của các giai cấp và tầng lớp xã hội, có nội dung, hình thức tổ chức đấu tranh mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau những năm bốn ba hoạt động ở Nhật Bản và Trung Quốc không thành công, Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam (1913), đến cuối năm 1917 mới được trả tự do. Từ sự thất bại và thời cuộc sau chiến tranh thế giới, Phan Bội Châu, tuy vẫn nặng lòng yêu nước song đã không thể tiếp tục tìm được phương lược cứu nước đúng đắn. Viên Toàn quyền Pháp Anbe Xarô tìm cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đã bị Phan Bội Châu khước từ. Giữa lúc đó, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của nước Nga Xô viết đã bắt đầu đến với ông như một luồng ánh sáng mới. Cảm tình với nước Nga Xô viết, cuối năm 1920, Phan Bội Châu dịch ra chữ Hán cuốn Điều tra chân tướng Nga La Tư của một tác giả Nhật Bản, viết Truyện Phạm Hồng Thái, ngợi ca tinh thần yêu nước, hi sinh anh dũng của người thanh niên họ Phạm. Tháng 6 - 1925, trong khi chưa thể thay đổi được tổ chức, thay đổi phương lược đấu tranh thích hợp với biến chuyển mới của đất nước và thời đại thì Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc đưa về nước, kết án từ rồi đưa về an trí ở Huế. Từ đó trở đi, trong hoàn cảnh một người từ bị giam lỏng, Phan Bội Châu không thể tiến theo nhịp bước đấu tranh mới của dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Nước Pháp là nơi có nhiều người Việt Nam sinh sống và hoạt động cho phong trào dân tộc của Việt Nam. Sau khi ra khỏi nhà từ Côn Đảo, Phan Châu Trinh sang Pháp (1911) tiếp tục hoạt động. Ông có quan hệ với Nguyễn Ái Quốc trong những năm tháng hoạt động ở Pháp. Vào đầu năm 1922, Phan Châu Trinh đến Mácxây. Nhân dịp vua Khải Định sang dự Hội chợ thuộc địa đề khuếch trương ""công lao khai hoá của Pháp, Phan Châu Trinh viết Thất điều thư vạch ra 7 tội đáng chém của Khải định. Phan Châu Trinh còn tổ chức diễn thuyết lên án chế độ quân chủ và quan trường ở Việt Nam; tiếp tục hô hào ""Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh""... Tháng 6 - 1925, Phan Châu Trinh về nước. Mặc dù sức khoẻ đã yêu, ông vẫn tiếp tục hoạt động, đả phá chế độ quân chủ, đề cao dân quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên rất mến mộ và hưởng ứng hoạt động của Phan Châu Trinh. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều Việt kiều tại Pháp đã tham gia hoạt động như chuyển tài liệu, sách báo tiến bộ về nước. Một số thuỷ thủ Việt Nam đã hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa. Nhiều trí thức và lao động Việt Nam ở Pháp đã tập hợp trong các tổ chức yêu nước. Năm 1925, Hội những người lao động trí óc Đông dương ra đời. Một số thanh niên, sinh viên yêu nước xuất quân trong các gia đình địa chủ, tư sản lập ra Đảng Việt Nam độc lập, xuất bản báo Tái sinh. Đảng có một số chi bộ ở Pari và các tỉnh lân cận, còn ở trong nước thì không có vì thiếu chỗ dựa." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam vốn nhỏ yêu về kinh tế và thường xuyên bị tư sản nước ngoài cạnh tranh, chèn ép. Năm 1919, tư sản Việt Nam đã tổ chức cuộc tẩy chay tư sản Hoa kiều (1919) ở một số tỉnh và thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... ở Hà Nội có cuộc vận động người Việt Nam chỉ mua hàng của người Việt Nam.  Năm 1923, địa chủ và tư sản Việt Nam đấu tranh chống tư bản Pháp độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì. Giai cấp tư sản đã dùng báo chí đề bênh vực quyền lợi cho mình trong cuộc đấu tranh chống độc quyền. Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long...) đã lập ra Đảng Lập hiến (1923). Cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến là tờ Diễn đàn Đông dương và tờ Tiếng dội An Nam. Khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi (như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam Kì), họ lại thoả hiệp với chúng. Ngoài Đảng Lập hiến ở trong Nam, còn có nhóm Nam phong của Phạm Quỳnh và nhóm Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh ở ngoài Bắc. Phạm Quỳnh cổ vũ cho thuyết ""quân chủ lập hiến"", còn Nguyễn Văn Vĩnh đề cao tư tưởng ""trực trị"". Tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, học sinh và giáo viên các trường, viên chức, nhà văn, nhà báo, v.v...) sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Vào đầu những năm 20, đã có nhiều thanh niên yêu nước sang Quảng Châu (Trung Quốc tìm đường cứu nước, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hổ từng Mậu, Nguyễn Công Viễn v.v... Năm 1923, họ lập ra tổ chức Tâm tâm xã. đề phát huy ảnh hưởng, gây tiếng vang thức tỉnh đồng bào trong nước, Tâm tâm xã củ Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát Toàn quyền Đông dương Méclanh (Merlin) ở Sa Diện (Quảng Châu) ngày 19 - 6 - 1924. Sự việc không thành, Phạm Hồng Thái đỡ anh dũng hi sinh trên dòng Châu Giang. Tiếng bom Phạm Hồng Thái đỡ nhóm tiếp ngọn lủa chiến đấu, khích lệ tinh thổn đấu tranh của nhân dân ta, nhốt là thanh niên. Sự kiện lịch sử đó tuy nhỏ nhưng ""nhu chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân Một số tổ chức chính trị như Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên được thành lập (đại biểu là Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Nguyễn An Ninh v.v...), với nhiều hoạt động phong phú và sôi động (mít tinh, biểu tình, bãi khoá, v.v...). Nhiều tờ báo tiến bộ lần lượt ra đời. Báo tiếng Pháp có Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; báo tiếng Việt có Hữu thanh, Tiếng dân, Đông Pháp thời báo, Thực nghiệp dân báo... Họ lập ra một số nhà xuất bản tiến bộ như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải từng thư (Huế)...   Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai hổi đó có một số sự kiên nổi bật như cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925), các cuộc truy điêu, đề tang Phan Châu Trinh (1926). Riêng ở Sài Gòn, đám tang Phan Châu Trinh đã thu hút khoảng 14 vạn người tham dự." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh của công nhân tuy còn lẻ tẻ và tự phát nhưng đã nói lên ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng, làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu. Các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Pháp trên các tàu Pháp ghé vào các cảng Hải Phòng (1919) và Sài Gòn (1920), cũng như các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Trung Quốc tại các cảng lớn Hương Cảng, Ao Môn, Thượng Hải (1921), đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh. Năm 1922, công nhân và viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc Kì đòi chủ tư bản người Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cùng năm đó, còn có cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải dương v.v... Tháng 8 - 1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn không chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20% và phải cho những công nhân mất việc làm được trở lại làm việc. Sau 8 ngày bãi công, nhà chức trách Pháp đã phải chấp nhận tăng lương 10% cho công nhân. Cuộc bãi công Ba Son thắng lợi, đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau những năm bốn ba hầu khắp các Châu lực trên thế giới, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp (1917), gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đấy là tổ chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái và đấu tranh vì quyền lợi cho các nước thuộc địa.  Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ai Quốc gửi đềh Hội nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án từ chính trị; 2. Cải cách nền pháp lí ở Đông dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mạt pháp luật như người Châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đạc biệt dùng làm công cụ đề khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhốt trong nhân dân An Nam; 3. tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. tự do lập hội và tự do hội họp; 5. tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tốt cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trục của người bản xứ, do người bản xứ bâu ra, tại Nghị viện Pháp đề giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Bản yêu sách không được Hội nghị Vécxai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyến bốcủa các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do, dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc, mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ Uynxơn chỉ là trò lừa bịp các dân tộc nhỏ yêu. Vì vậy, ""muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản quân mình ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau những năm bốn ba hầu khắp các Châu lực trên thế giới, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp (1917), gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đấy là tổ chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái và đấu tranh vì quyền lợi cho các nước thuộc địa.  Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ai Quốc gửi đềh Hội nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án từ chính trị; 2. Cải cách nền pháp lí ở Đông dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mạt pháp luật như người Châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đạc biệt dùng làm công cụ đề khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhốt trong nhân dân An Nam; 3. tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. tự do lập hội và tự do hội họp; 5. tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tốt cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trục của người bản xứ, do người bản xứ bâu ra, tại Nghị viện Pháp đề giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Bản yêu sách không được Hội nghị Vécxai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyến bốcủa các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do, dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc, mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ Uynxơn chỉ là trò lừa bịp các dân tộc nhỏ yêu. Vì vậy, ""muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản quân mình ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau những năm bốn ba hầu khắp các Châu lực trên thế giới, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp (1917), gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đấy là tổ chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái và đấu tranh vì quyền lợi cho các nước thuộc địa.  Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ai Quốc gửi đềh Hội nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án từ chính trị; 2. Cải cách nền pháp lí ở Đông dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mạt pháp luật như người Châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đạc biệt dùng làm công cụ đề khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhốt trong nhân dân An Nam; 3. tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. tự do lập hội và tự do hội họp; 5. tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tốt cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trục của người bản xứ, do người bản xứ bâu ra, tại Nghị viện Pháp đề giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Bản yêu sách không được Hội nghị Vécxai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyến bốcủa các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do, dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc, mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ Uynxơn chỉ là trò lừa bịp các dân tộc nhỏ yêu. Vì vậy, ""muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản quân mình ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Giữa tháng 7 - 1920, Nguyễn Ai Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ai Quốc khẳng định, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Ngày 25 - 12 - 1920, Nguyễn Ai Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiêu tán thành gia nhập Quốc tê Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ai Quốc trở thành đảng viên cộng sản, đồng thời là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đấy, Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và tiếp tục học tập, nghiên cứu lí luận cách mạng dân tộc ở thuộc địa theo con đường cách mạng vô sản đề truyền bá về Việt Nam. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của Angiêri, Marốc, Tuynidi... lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari nhằm tập hợp những người dân thuộc địa sống trên đất Pháp, nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế của thuộc địa đề soi sáng cho cuộc đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân các nước thuộc địa. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiệm chủ bút. Người còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân (của Tổng Liên đoàn lao động Pháp)... và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.," Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân (10 - 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa. Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc đề trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tê, xã hội và giai cấp ở Việt Nam, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đã tạo điều kiện đề ""Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi . Những tác phẩm và bài viết của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của thế kỉ XX đã hình thành hệ thống quan điểm lí luận về cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển xã hội theo xu hướng tiến hoá của thời đại, được trực tiếp truyền bá vào Việt Nam, đã thức đẩy phong trào dân tộc phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Trên địa bàn Châu thổ sông cửu Long (Nam Bộ) đã hình thành nền văn hoá cổ từ cuối thời đại đá mới chuyển sang thời đại đồ đồng và sắt cách ngày nay khoảng 1500 - 2000 năm. Các nhà khảo cổ học gọi là văn hoá óc Eo. Văn hoá óc Eo có nguồn gốc từ văn hoá sông đồng Nai. Địa bàn chủ yếu của văn hoá óc Eo là vùng Châu thổ sông cửu Long (óc Eo nay thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) gồm nhiều tinh: An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp... và một số địa phương thuộc Bình dương, tây Ninh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở văn hoá óc Eo, quốc gia cổ Phù Nam hình thành vào khoảng thế kỉ I và trở thành một quốc gia rất phát triển ở vùng Đông Nam Á Quốc gia Phù Nam bao gồm nhiều tiểu quốc, bộ phận chủ yếu ở vùng tây Nam Bộ có tiếng nói thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thể chế chính trị quân chủ, do vua đứng đầu nắm mọi quyền hành.  Cư dân Phù Nam sản xuất nông nghiệp, kết hợp với làm nghề thủ công, đánh cá và buôn bản. Ngoại thương đường biển rất phát triển. Tập quán phổ biến của cư dân Phù Nam là ở nhà sàn. Phật giáo và Hindu giáo được sùng tín. Nghệ thuật ca, múa nhạc phát triển. Xã hội đã có sự phán hoá giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ. Cuối thế kỉ Vi, Phù Nam suy yêu, bị Chân Lạp thôn tính." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Nhật Bản là nước thứ hai sau Mĩ thu được nhiều lợi trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Lợi dụng sự suy giảm khả năng kinh tế của các nước tư bản Châu Âu trong chiến tranh, Nhật Bản đã tăng cường sản xuất hàng hoá và xuất khẩu. Nhờ những đơn đặt hàng quân sự, sản xuất công nghiệp của Nhật Bản tăng trưởng rất nhanh. Chỉ trong vòng 6 năm (1914 -1919), nền kinh tế Nhật Bản phát triển vượt bậc: sản lượng công nghiệp tăng 5 lần, tổng giá trị xuất khẩu tăng gấp 4 lần, dự trữ vàng và ngoại tệ tăng gấp 6 lần; nhưng sau đó lại lâm vào khủng hoảng. Về nông nghiệp, những tàn dự phong kiến còn tồn tại nặng nề ở nông thôn đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế nông nghiệp. Giá lương thực, thực phẩm, nhất là giá gạo, vô cùng đắt đỏ. Đời sống người lao động không được cải thiện. Phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân bùng lên mạnh mẽ trong những năm sau chiến tranh. Mùa thu năm 1918, quần chúng nhân dân nổi dậy đánh phá các kho thóc, mở đầu cuộc ""Bạo động lúa gạo lan rộng khắp cả nước, lôi cuốn 10 triệu người tham gia. đồng thời, những cuộc bãi công của công nhân cũng lan rộng ở các trung tâm công nghiệp lớn như Cô-bê, Na-gôi-a, Ô-xa-ca... Chỉ riêng năm 1919 đã có 2 388 cuộc bãi công của công nhân. Trên cơ sở sự phát triển của phong trào công nhân, tháng 7 -1922 Đảng Cộng sản Nhật Bản được thành lập. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Năm 1929, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mĩ dẫn đến cuộc đại suy thoái của chủ nghĩa tư bản nói chung, đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản giảm sút trầm trọng. Sản xuất công nghiệp đình đốn. Khủng hoảng xảy ra nghiêm trọng nhất là trong nông nghiệp, do sự lệ thuộc vào thị trường bên ngoài của ngành này. So với năm 1929, sản lượng công nghiệp năm 1931 giảm 32,5%, nông phẩm giảm 1,7 tỉ yên, ngoại thương giảm 80%. Đồng yên sụt giá nghiêm trọng. Khủng hoảng đạt đến đỉnh điểm vào năm 1931, gậy nên những hậu quả xã hội tai hại: nông dân bị phá sản, mất mùa và đói kém, số công nhân thất nghiệp lên tới 3 triệu người. Mâu thuẫn xã hội và cuộc đấu tranh của những người lao động diễn ra quyết liệt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước tư bản chủa nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 14: Nhật bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Nhằm khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng và giải quyết khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hoá, giới cầm quyền Nhật Bản chủ trương quân phiệt hoá bộ máy nhà nước, gậy chiến tranh xâm lược, bành trướng ra bên ngoài. Khác với Đức, quá trình phát xít hoá diễn ra thông qua sự chuyển đổi từ chế độ dân chủ tư sản đại nghị sang chế độ chuyên chế độc tài phát xít, ở Nhật Bản, do đã có sẵn chế độ chuyên chế Thiên hoàng, quá trình này diễn ra thông qua việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước và tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa. Do có những bất đồng trong nội bộ giới cầm quyền Nhật Bản về cách thức tiến hành chiến tranh xâm lược, quá trình quân phiệt hoá kéo dài trong suốt thập niên 30. Từ năm 1937, cuộc đấu tranh trong nội bộ đã chấm dứt, giới cầm quyền Nhật Bản tập trung vào việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước.  Cùng với việc quân phiệt hoá bộ máy nhà nước, tăng cường chạy đua vũ trang, giới cầm quyền Nhật Bản đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc rộng lớn, nơi tập trung 82% tổng số’ vốn đầu tư nước ngoài của Nhật Bản, luôn luôn là đối tượng mà nước Nhật muốn độc chiếm từ lâu. Tháng 9 -1931, Nhật Bản đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc và biến toàn bộ vùng đất giàu có này thành thuộc địa. Năm 1933, Nhật Bản dựng lên chính phủ bù nhìn, đưa Phổ Nghi - vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc - lên đứng đầu cái gọi là ""Mãn Châu quốc"". Miền Đông Bắc Trung Quốc trở thành bàn đạp của những cuộc phiêu lưu quân sự mới của quân đội Nhật Bản" 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam,"Trên cơ sở của văn hoá Sa Huỳnh ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay, đã hình thành quốc gia cổ Cham-pa. Thời Bắc thuộc, vùng đất ở phía nam dãy Hoành Sơn bị nhà Hán xâm chiếm đặt thành quận Nhạt Nam và chia làm 5 huyện để cai trị. Tượng Lâm là huyện xa nhất (vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Vào cuối thế kỉ II, nhân lúc tình hình Trung Quốc rối loạn, Khu Liên đã hô hào nhân dân huyện Tượng Lâm nổi dậy giành quyển tự chủ. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Khu Liên tự lập làm vua, đặt tên nước là Lâm Âp. Các vua Lâm Âp về sau mở rộng lãnh thổ về phía bắc đến sông Gianh (Quảng Bình), phía nam đến sông Dinh (Bình Thuận) và đổi tên nước là Cham-pa. Cũng như cư dân Việt cổ, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Cham-pa là nông nghiệp trồng lúa, sử dụng công cụ bằng sắt và sức kéo của trâu, bò. Họ đã biết sử dụng guồng nước trong sản xuất. Ngoài nghề nông, các nghề thủ công, nghề khai thác lâm thổ sản cũng khá phát triển, đặc biệt là kĩ thuật xây tháp đạt tới trình độ rất cao. cư dân Cham-pa có các nghề thủ công phát triển như nghề dệt, chế tạo đồ dùng, làm đồ trang sức, vũ khí bằng kim loại, nghề đóng gạch và xây dụng. Nhiều công trình xây dụng nổi tiếng như khu thánh địa Mĩ Sơn, các tháp Chăm, tượng, các bức chạm nổi. Cham-pa theo thể chế quân chủ. Vua nắm mọi quyền hành về chính trị, kinh tế, tôn giáo. Giúp việc cho vua có Tể tướng và các đại thần, cả nước chia làm 4 khu vực hành chính lớn gọi là châu, dưới châu có huyện, làng. Kinh đô ban đầu đóng ở Sin-ha-pu-ra (Trà Kiệu - Quảng Nam), sau đó dời đến In-đra-pu-ra (Đồng Dưong - Quảng Nam) rồi chuyển tới Vi-giay-a (Chà Bàn - Bình Định)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam vốn nhỏ yếu về kinh tế và thường xuyên bị tư sản nước ngoài cạnh tranh, chèn ép. Năm 1919, tư sản Việt Nam đã tổ chức cuộc tẩy chay tư sản Hoa kiều (1919) ở một số tỉnh và thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... Ở Hà Nội có cuộc vận động người Việt Nam chỉ mua hàng của người Việt Nam. Năm 1923, địa chủ và tư sản Việt Nam đấu tranh chống tư bản Pháp độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì. Giai cấp tư sản đã dùng báo chí để bênh vực quyền lợi cho mình trong cuộc đấu tranh chống độc quyền. Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long...) đã lập ra Đảng Lập hiến (1923). Cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến là tờ Diễn đàn Đông Dương và tờ Tiếng dội An Nam. Khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi (như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam Kì), họ lại thoả hiệp với chúng. Ngoài Đảng Lập hiến ở trong Nam, còn có nhóm Nam phong của Phạm Quỳnh và nhóm Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh ở ngoài Bắc. Phạm Quỳnh cổ vũ cho thuyết ""quân chủ lập hiến"", còn Nguyễn Văn Vĩnh đề cao tư tưởng ""trực trị"". Tầng lớp tiểu tư sản tri thức (gồm sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, học sinh và giáo viên các trường, viên chức, nhà văn, nhà báo, v.v...) sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Sau những năm bốn ba hầu khắp các Châu lục trên thế giới, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp (1917), gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đấy là tổ chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái và đấu tranh vì quyền lợi cho các nước thuộc địa. Ngày 18 - 6 - 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2. Cải cách nền pháp lí ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người Châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhốt trong nhân dân An Nam; 3. tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. tự do lập hội và tự do hội họp; 5. tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. Bản yêu sách không được Hội nghị Vécxai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do, dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc, mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ Uynxơn chỉ là trò lừa bịp các dân tộc nhỏ yếu. Vì vậy, ""muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản quân mình""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 14: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925.,"Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân (10 - 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa. Ngày 11 - 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc để trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và giai cấp ở Việt Nam, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đã tạo điều kiện để ""Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"" . Những tác phẩm và bài viết của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của thế kỉ XX đã hình thành hệ thống quan điểm lí luận về cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển xã hội theo xu hướng tiến hoá của thời đại, được trực tiếp truyền bá vào Việt Nam, đã thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ đã vượt qua nhiều thử thách và đạt được những bước tiến mới trong vòng 20 năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. ở Trung Quốc, phong trào Ngũ tứ đã mở đầu thời kì cách mạng dân chủ mới. Ở Ấn Độ, Đảng Quốc đại, đứng đầu là Ma-hát-ma Gan-đi, đã lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc theo đường lối bất bạo động, bất hợp tác." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Phong trào Ngũ tứ bùng nổ ngày 4 - 5 - 1919, nhằm phản đối âm mưu xâu xé Trung Quốc của các nước đế quốc. Mở đầu phong trào là cuộc biểu tình của 3 000 học sinh, sinh viên yêu nước Bắc Kinh tại Quảng trường Thiên An Môn, đòi trừng trị những phần tử bán nước trong chính phủ. Phong trào nhanh chóng lan rộng khắp 22 tỉnh và 150 thành phố trong cả nước, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia, đặc biệt là giai cấp công nhân. Phong trào Ngũ tứ đã mở đầu cao trào cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến ở Trung Quốc. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Trung Quốc xuất hiện trên vũ đài chính trị như một lực lượng cách mạng độc lập. Phong trào Ngũ tứ đánh dấu bước chuyển của cách mạng Trung Quốc từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ sang cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Từ sau phong trào Ngũ tứ, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Trung Quốc phát triển nhanh chóng, sâu rộng. Với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, năm 1920, một số nhóm cộng sản đã ra đời. Trên cơ sở các nhóm này, tháng 7 -1921 Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập, đánh dấu buớc ngoặt quan trọng của cách mạng Trung Quốc. Từ đây, giai cấp vô sản Trung Quốc đã có chính đảng của mình để từng buớc nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Trong những năm 1926 -1927, Đảng Cộng sản hợp tác với Quốc dân đảng để tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng nhằm đánh đổ các tập đoàn quân phiệt Bắc Duơng đang chia nhau thống trị những vùng khác nhau ở miền Bắc Trung Quốc (thuờng gọi là Chiến tranh Bắc phạt). Nhưng sau một thời gian ngắn, Quốc dân đảng lại chống lại phong trào cách mạng. Ngày 12 - 4 - 1927, Tưởng Giới Thạch tiến hành cuộc chính biến ở Thượng Hải, tàn sát, khủng bô đẫm máu những người cộng sản và công khai chông phá cách mạng ở nhiều địa phương khác. Một tuần lễ sau, Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ tại Nam Kinh, đại diện cho quyền lợi của đại địa chủ, đại tư sản ở Trung Quốc. Đến tháng 7 - 1927, chính quyền hoàn toàn rơi vào tay Tưởng Giới Thạch. Cuộc Chiến tranh Bắc phạt đến đây chấm dứt. Sau Chiến tranh Bắc phạt, quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến đấu chống Chính phủ Quốc dân đảng, được gọi là Nội chiến Quốc - Cộng, diễn ra trong những năm 1927 -1937. quân đội Tưởng Giới Thạch đã tổ chức 4 lần vây quét lớn nhằm tiêu diệt căn cứ địa cách mạng của Đảng Cộng sản, nhưng đều bị thất bại. Trong cuộc vây quét lần thứ năm (1933 -1934), lực lượng cách mạng bị thiệt hại nặng. Để bảo toàn lực lượng, tháng 10 - 1934 Hồng quân công nông phải tiến hành cuộc phá vây, rút khỏi căn cứ địa cách mạng, tiến lên phía bắc, trong lịch sử gọi là cuộc Vạn lí trỗờng chinh. Trên đường trường chinh, tại Hội nghị Tuân Nghĩa (tỉnh Quý Châu) tháng 1 - 1935, Mao Trạch Đông trở thành người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.  Tháng 7 - 1937, giới quân phiệt Nhật phát động cuộc chiến tranh xâm lược, nhằm thôn tính Trung Quốc. Trước áp lực đấu tranh của quần chúng, Quốc dân đảng buộc phải đình chiến, hợp tác với Đảng Cộng sản, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật. Cách mạng Trung Quốc chuyển sang thời kì kháng chiến chống phát xít Nhật." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đẩy nhân dân Ấn Độ vào cảnh sống cùng cực, vì toàn bộ gánh nặng chi phí chiến tranh của thực dân Anh đè nặng lên vai các thuộc địa. Sau chiến tranh, việc chính quyền thực dân tăng cường bóc lột thuộc địa, ban hành những đạo luật phản động nhằm củng cố bộ máy thống trị, làm cho những mâu thuẫn xã hội ngày càng căng thẳng. Một làn sóng đấu tranh chống thực dân Anh dâng cao khắp Ấn Độ trong những năm 1918 -1922.  Phong trào đâu tranh diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nông dân, công nhân và thị dân tham gia. Giữ vai trò lãnh đạo phong trào là Đảng Quốc đại, đứng đầu là M. Gan-đi, một lãnh tụ có uy tín lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhân dân Ấn Độ. Ông kêu gọi đâu tranh chống chủ nghĩa thực dân bằng các biên pháp hoà bình, không sử dụng bạo lực (như biểu tình hoà bình, bãi công ở các nhà máy, công sở, bãi khoá ở các trường học, tẩy chay hàng hoá Anh, không nộp thuế...). Phong trào bất bạo động, bất hợp tác, do Gan-đi và Đảng Quốc đại lãnh đạo, được các tầng lớp nhân dân Ấn Độ hưởng ứng. Sự phát triển của phong trào công nhân dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ tháng 12 -1925. Sự kiên này góp phần thúc đẩy làn sóng đấu tranh chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 -1933) đã làm bùng lên làn sóng đấu tranh mới của nhân dân Ấn Độ. Phong trào kéo dài trong suốt những năm 30 thông qua các chiến dịch bất hợp tác với thực dân Anh, do Gan-đi và Đảng Quốc đại khởi xướng. Đầu năm 1930, chiến dịch bất hợp tác bùng nổ với việc Gan-đi thực hiện một cuộc hành trình lịch sử dài 300 km để phản đôi chính sách độc quyền muôi của thực dân Anh. Tháng 12 -1931, ông lại phát động chiến dịch bất hợp tác mới. Thực dân Anh tăng cường khủng bố, đàn áp, đồng thời thực hiện các biện pháp mua chuộc nhằm chia rẽ hàng ngũ cách mạng. Bất chấp các thủ đoạn hai mặt của chính quyền thực dân, phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ diễn ra sôi động và lan rộng trong cả nước, liên kết được tất cả các lực lượng chính trị thành một Mặt trận thống nhất trên thực tế.  Tháng 9 - 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính quyền Anh tuyên chiến ở Châu Âu và tuyên bố Ấn Độ là một bên tham chiến. Phong trào cách mạng ở Ấn Độ chuyển sang một thời kì mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 15: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X),"Năm 179 TCN, Âu Lạc bị nhà Triệu xâm chiếm. Từ đó đến đầu thế kỉ X, các triều đại phong kiến phương Bắc từ Triệu đến Đường thay nhau đô hộ nước ta. Chúng đã thực hiện nhiều chính sách cai trị làm cho xã hội nước ta có những chuyển biến nhất định, nhưng đồng thời cũng có nhiều mặt bị kìm hãm. Không cam tâm bị đô hộ, nhân dân ta không ngừng vùng lên đấu tranh nhằm giành lại độc lập, tự chủ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 15: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X),"Năm 179 TCN, Âu Lạc bị nhà Triệu xâm chiếm. Từ đó đến đầu thế kỉ X, các triều đại phong kiến phương Bấc từ Triệu đến Đường thay nhau đô hộ nước ta. Chúng đã thực hiện nhiều chính sách cai trị làm cho xã hội nước ta có những chuyển biến nhất định, nhưng đồng thời cũng có nhiều mặt bị kìm hãm. Không cam tâm bị đô hộ, nhân dân ta không ngừng vùng lên đấu tranh nhằm giành lại độc lập, tự chủ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 15: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X),"Tổ chức bộ máy cai trị: Sau khi chiếm được Âu Lạc, nhà Triệu chia thành 2 quận, sáp nhập vào quốc gia Nam Việt. Thời nhà Hán, Âu Lạc bị chia làm 3 quận, sáp nhập vào bộ Giao Chỉ cùng với một số quận của Trung Quốc. Đến thời nhà Tuỳ và nhà Đường, nước ta lại bị chia làm nhiều châu. Từ sau khi lật đổ được chính quyền của Hai Bà Trưng, chính quyền đô hộ tăng cường việc kiểm soát, cử quan lại cai trị tới cấp huyện. Chính sách bóc lột vê kinh tế và đồng hoá về văn hoá. Chính quyền đô hộ thi hành chính sách bóc lột, cống nạp nặng nề. Chúng còn cướp ruộng đất, cưỡng bức nhân dân ta cày cấy, thực hiện chính sách đồn điền, nắm độc quyền về muối và sắt. Quan lại trong chính quyền đô hộ dựa vào quyền hành, ra sức bóc lột dân chúng để làm giàu. Chu Thặng, Thứ sử Giao Châu, đã tâu với vua Hán: Giao Châu ở nơi xa cách, quan lại (người Hán) tập tục tham ô, làm đủ điều gian trá, trưởng sử tha hồ bạo ngược, bóc lột muôn dân. Các triều đại phong kiến phương Bắc truyền bá Nho giáo vào nước ta, bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục theo người Hán. Nhiều nho sĩ, quan lại người Hán được đưa vào đất Âu Lạc cũ để thực hiện chính sách nói trên và mở một số lớp dạy chữ Nho. Tuy nhiên, dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo chỉ có ảnh hưởng đến một số vùng trung tâm châu, quận. Chính quyền đô hộ áp dụng luật pháp hà khắc, thẳng tay đàn áp các cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành ""cách mạng bằng sắt và máu"", chú trọng lấy binh lính người Việt trong quân đội Pháp làm lực lượng chủ lực. Tổ chức cơ sở của Đảng trong quần chúng rất ít. Địa bàn hoạt động của Đảng chỉ bó hẹp trong một số địa phương ở Bắc Kì, còn ở Trung Kì và Nam Kì không đáng kể. Đảng thành lập chưa được bao lâu, hệ thống tổ chức mới xây dựng ở một số địa phương, thì đã bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, Đảng lâm vào tình thế bị động đối phó, nguy cơ tan rã đang đến gần. Tháng 2 - 1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở Hà Nội. Sau đó, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khủng bố dã man. Hàng loạt đảng viên và quần chúng cảm tình với Đảng bị bắt.  Tháng 7 - 1929, Toàn quyền Đông Dương Pátxkiê quyết định lập Toà án đại hình xử những người cách mạng. Ngày 10 - 10 - 1929, phiên toà đặc biệt của chính quyền tay sai ở thành phố Vinh (Nghệ An) xử án 45 chiến sĩ cách mạng, trong đó kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ai Quốc và Trần Phú. Việt Nam Quốc dân đảng bị khủng bố nặng nề. Các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu... bị địch truy lùng ráo riết. Nội bộ lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng bị chia rẽ. Bị động trước tình thế đó, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn lại của Đảng đã quyết định dốc hết lực lượng để thực hiện cuộc bạo động cuối cùng với ý tưởng: ""Không thành công cũng thành nhân !""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc ""tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"". Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v... Lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản, sẽ giữ vai trò lãnh đạo cách mạng... Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột. Lòi kêu gọi có đoạn: ""Đảng Cộng sản Việt Nam đỡ được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột của chúng ta"".(,)" 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Từ năm 1925 đến đầu năm 1930, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh, các tổ chức cách mạng đã lần lượt ra đời." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ. Đa số học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ ""học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật"". Phần lớn số học viên đó sau khi học xong ""bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân . Một số người được gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Mátxcơva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã đề tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2 - 1925). Tháng 6 - 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt tranh đấu đề đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai đề tự cứu lấy mình. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Tổng bộ, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Hổ từng Mậu, Lê Hồng Sơn. Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu (Trung Quốc. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Số báo đầu tiên ra ngày 21 - 6 - 1925." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản. Báo Thanh niên và sách Đường cách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân tộc cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đề tuyến truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. năm 1928, Hội có gần 300 hội viên, đến năm 1929 có khoảng 1 700 hội viên. Hội đỡ xây dụng tổ chúc cơ sở của mình hầu khắp cả nước. Các kỉ bộ Trung Kỉ, Bắc Kì, Nam Kì của Hội lần lượt ra đời.  Hội còn xây dụng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Năm 1926, cơ sở đầu tiên của Hội được xây dụng ở tỉnh Phi Chịt, sau đó phát triển đến các tỉnh U Đon, Na Khon v.v... Từ cuối năm 1928, sau khi có chủ trương ""Vô sản hóa"", nhiều cán bộ của Hội đã đi sâu vào các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền cùng lao động và sống với công nhân đề tuyến truyền và vận động cách mạng. Phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian hoạt động ở Quảng Châu, ngày 9 - 7 - 1925, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêxia... lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đóng. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị áp bức đề cùng làm cách mạng đánh đổ đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản. Báo Thanh niên và sách Đường cách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân tộc cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đề tuyến truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. năm 1928, Hội có gần 300 hội viên, đến năm 1929 có khoảng 1 700 hội viên. Hội đỡ xây dụng tổ chúc cơ sở của mình hầu khắp cả nước. Các kỉ bộ Trung Kỉ, Bắc Kì, Nam Kì của Hội lần lượt ra đời.  Hội còn xây dụng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Năm 1926, cơ sở đầu tiên của Hội được xây dụng ở tỉnh Phi Chịt, sau đó phát triển đến các tỉnh U Đon, Na Khon v.v... Từ cuối năm 1928, sau khi có chủ trương ""Vô sản hóa"", nhiều cán bộ của Hội đã đi sâu vào các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền cùng lao động và sống với công nhân đề tuyến truyền và vận động cách mạng. Phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian hoạt động ở Quảng Châu, ngày 9 - 7 - 1925, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêxia... lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị áp bức đề cùng làm cách mạng đánh đổ đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Ngày 14 - 7 - 1925, một số từ chính trị cũ ở Trung Kì như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... cùng một nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... lập ra Hội Phục Việt (1925), sau đó đổi thành Hội Hưng Nam. Tháng 7 - 1926, Hội đổi tên là Việt Nam Cách mạng đảng và đến tháng 7 - 1927 lại đổi tên là Việt Nam Cách mạng đồng chí hội. Hội đã nhiều lần bàn đề hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên song không thành. Đến ngày 14 - 7 - 1928, Hội họp Đại hội tại Huế, quyết định đổi tên thành Tân Việt Cách mạng đảng (Đảng Tân Việt). Đảng Tân Việt chủ trương lãnh đạo quần chúng ở trong nước và liên lạc với các dân tộc bị áp bức trên thế giới đề đánh đổ chủ nghĩa đế quốc nhằm thiết lập một xã hội bình đẳng và bác ái. Đảng tập hợp những trí thức và thanh niên tiểu tư sản yêu nước. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. Đảng Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh nên tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và đường lối của Hội đã lôi cuốn nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến của Đảng Tân Việt. Tác phẩm Đường cách mệnh được coi như sách chỉ dẫn đối với các hội viên Tân Việt. Một số đảng viên tiên tiến đã chuyển sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Số đảng viên tiên tiến còn lại thì tích cực chuẩn bị đề tiến tới thành lập một chính đảng theo tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, của học thuyết Mác - Lênin." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập ngày 25 - 12 - 1927. Hạt nhân đầu tiên của Đảng là Nam đồng thư xã, một nhà xuất bản tiến bộ do Phạm Tuấn tài lập ra đầu năm 1927. Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính... sáng lập là một chính đảng cách mạng, đề ra mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Khi mới thành lập, Đảng chưa có chính cương rõ ràng mà chỉ nêu chung chung là: ""Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng"". Bản điều lệ của Đảng năm 1928 lại nêu lên chủ nghĩa của Đảng là ""chủ nghĩa xã hội dân chủ"". Mục đích của Đảng là đoàn kết lực lượng đề: - Đẩy mạnh cách mạng dân tộc; - xây dựng nền dân chủ trực tiếp; - Giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Bản Chương trình hành động của Đảng công bố năm 1929 đã nêu nguyên tắc tư tưởng là: ""Tự do - Bình đẳng – Bắc ái"". Chương trình của Đảng chia thành 4 thời kì. Thời kì cuối cùng là bất hợp tác với Chính phủ Pháp và triều đình nhà Nguyễn, cổ động bãi công, đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành ""cách mạng bằng sắt và máu"", chú trọng lấy binh lính người Việt trong quân đội Pháp làm lực lượng chủ lực. Tổ chức cơ sở của Đảng trong quần chúng rất ít. Địa bàn hoạt động của Đảng chỉ bó hẹp trong một số địa phương ở Bắc Kì, còn ở Trung Kì và Nam Kì không đáng kể. Đảng thành lập chưa được bao lâu, hệ thống tổ chức mới xây dựng ở một số địa phương, thì đã bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, Đảng lâm vào tình thế bị động đối phó, nguy cơ tan rã đang đến gần. Tháng 2 - 1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở Hà Nội. Sau đó, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khủng bố dã man. Hàng loạt đảng viên và quần chúng cảm tình với Đảng bị bắt.  Tháng 7 - 1929, Toàn quyền Đông dương Pátxkiê quyết định lập Toà án đại hình xử những người cách mạng. Ngày 10 - 10 - 1929, phiên toà đặc biệt của chính quyền tay sai ở thành phố Vinh (Nghệ An) xử án 45 chiến sĩ cách mạng, trong đó kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ai Quốc và Trần Phú. Việt Nam Quốc dân đảng bị khủng bố nặng nề. Các lãnh tự của Việt Nam Quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu... bị địch truy lùng ráo riết. Nội bộ lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng bị chia rẽ. Bị động trước tình thế đó, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn lại của Đảng đã quyết định dốc hết lực lượng đề thực hiện cuộc bạo động cuối cùng với ý tưởng: ""Không thành công cũng thành nhân !""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra đến 9 - 2 - 1930 ở Yên Bái. Cùng đến, khởi nghĩa nổ ra ở Phú Thọ, Sơn tây, sau đó là Hải dương, Thái Bình... Ở Hà Nội có cuộc đánh bom của quân khởi nghĩa đề phối hợp. Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa đỡ chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, song không làm chủ được tỉnh lị nên hôm sau bị quân Pháp phán công và dập tắt. Còn các nơi khác, nghĩa quân chỉ tạm thời làm chủ vài huyện lị nhỏ nhưng bị địch nhanh chóng chiếm lại. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng bị thất bại nhanh chóng, song đã cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Hành động yêu nước, tấm gương hi sinh của các chiến sĩ cách mạng ở Yên Bái là sự nối tiếp truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam. Vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân đảng với tư cách là một chính đảng cách mạng trong phong trào dân tộc vừa mới xuất hiện đã chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Trong hai năm 1926 - 1927 đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân. Cuối năm 1928, sau khi có chủ trương ""vô sản hoá"", nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân đề tuyến truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân phát triển mạnh, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Trong hai năm 1928 - 1929 đã có tới 40 cuộc đấu tranh của công nhân. Đấu tranh của công nhân đã nổ ra tại các trung tâm kinh tế, chính trị. Đó là bãi công của công nhân mỏ than Mạo Khệ, đồn điền Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến Thuỷ, nhà máy xi măng Hỏi Phòng, nhà máy in Poóctay (Sài Gòn), hãng dâu Nhà Bè, nhà máy tơ Nam Định, nhà máy chai Hỏi Phòng, nhà máy sủa chữa xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy AVIA (Hà Nội), hãng buôn Sácne Sài Gòn, sở ươm cấy Hà Nội, nhà máy điện Nam Định, hãng xe hơi Đà Nâng, nhà máy dệt Nam Định, đồn điền cao su Phú Riềng, hãng dâu Hỏi Phòng, nhà in Chợ Lớn v.v... Các cuộc bãi công đó không chỉ giới hạn trong phạm vi một nhà máy, một địa phương, một ngành mà đã bắt đầu có sự liên kết thành phong trào chung. Cùng với các cuộc bãi công của công nhân, các cuộc đấu tranh của nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh cũng đã diễn ra ở một số nơi, trong đó đáng chú ý là các cuộc đấu tranh của nông dân chống sưu cao, thuế nặng, chống các thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất của cường hào ác bá." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác phát triển, kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng lan rộng. Cuối tháng 3 - 1929, với sự nhạy cảm về chính trị, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì họp tại nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm có 7 đảng viên . Chi bộ mở rộng cuộc vận động đề thành lập một đảng cộng sản nhằm thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.  Từ ngày 1 đến ngày 9 - 5 - 1929, Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng (Trung Quốc. Tại Đại hội, đoàn đại biểu Bắc Kì đặt vấn đề thành lập ngay đảng cộng sản đề thay thế Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, song không được chấp nhận nên đã bỏ Đại hội về nước. Đại hội vẫn tiếp tục họp và thông qua tuyến ngôn, Chính cương, Điều lệ của Hội v.v... Chính cương của Hội xác định cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và chế độ phong kiến Việt Nam, phát triển theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phải đấu tranh đề giành lấy chính quyền, thành lập nền chuyên chính công nông theo hỉnh thức Xô viết; giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đại hội khẳng định việc lập một đảng cộng sản đề lãnh đạo cách mạng Việt Nam là một nhu cầu cần thiết, song vì trình độ giác ngộ chính trị và đấu tranh của quân chúng còn non yêu, trình độ lí luận về chủ nghĩa cộng sản và kinh nghiệm đấu tranh của những người cách mạng còn thấp nên chưa thể thành lập ngay đảng cộng sản được. Vì vậy, trước mắt phải chỉnh đốn Hội, tạo điều kiện tổ chúc vững rồi sẽ tổ chúc đảng cộng sản sau..." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Ngày 17 - 6 - 1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì họp Đại hội tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông dương Cộng sản đảng, thông qua tuyến ngôn, Điều lệ của Đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Đông dương Cộng sản đảng đã tiếp tục mở rộng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiều địa phương ở Bắc, Trung và cả ở Nam Kì. Khoảng tháng 8 - 1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kì cũng đã quyết định lập An Nam Cộng sản đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và một số chi bộ hoạt động ở Nam Kì. Tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của Đảng. Vào khoảng tháng 11 - 1929, An Nam Cộng sản đảng họp Đại hội đề thông qua đường lối chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"An Nam Cộng sản đảng đã tích cực vận động đề hợp nhất với Đông dương Cộng sản đảng, liên lạc với Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trên thế giới. Đảng đã đẩy mạnh cuộc vận động phát triển tổ chức Đảng, Công hội, Nông hội, Đoàn Thanh niên. Một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt cũng tích cực vận động lập các chi bộ cộng sản và xúc tiến việc chuẩn bị lập đảng cộng sản. Tháng 9 - 1929, những đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt tuyến bốthành lập Đông dương Cộng sản liên đoàn. Nhiều đảng viên Đảng Tân Việt lần lượt gia nhập Đông dương Cộng sản liên đoàn, hình thành nhiều chi bộ Đảng ở Trung Kì, Nam Kì và cả ở Bắc Kì. Theo kế hoạch, Đông dương Cộng sản liên đoàn chính thức họp đại hội vào ngày 1 - 1 - 1930, song do nhiều đại biểu trên đường đi dự đại hội bị địch bắt, nên không tiến hành được. Tuy vậy, với tuyến đạt tháng 9 - 1929, Đông dương Cộng sản liên đoàn đã chính thức ra đời, hoạt động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng phát triển cơ sở trong nhiều địa phương và trực tiếp lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng. Nhưng các tổ chức đó đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí công kích lẫn nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn. Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phán biệt thành hai nhóm, mỗi nhóm tổ chức thành một đảng cộng sản. Người liền rời khỏi Xiêm sang Trung Quốc đề thống nhất các tổ chức cộng sản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Với chức trách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vẫn đề liên quan tới phong trào cách mạng ở Đông dương, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập đại biểu của Đông dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đến Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc đề bàn việc thống nhất đảng. Hội nghị hợp nhất Đảng bắt đầu họp ngày 6 - 1 - 1930 tại Cửu Long do Nguyễn Ái Quốc chủ trì . Dự Hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông dương Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản đảng. Nguyễn Ái Quốc phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng sản riêng rẽ và nêu chương trình hội nghị. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí với ý kiến của Nguyễn Ái Quốc là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng... do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có giá trị lí luận và thực tiễn lâu dài đối với cách mạng Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc ""tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đề đi tới xã hội cộng sản"". Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v... Lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản, sẽ giữ vai trò lãnh đạo cách mạng... Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột. Lòi kêu gọi có đoạn: ""Đảng Cộng sản Việt Nam đỡ được thành lập. Đó là Đàng của giai cấp vô sản. Đàng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột của chúng ta"".(,)" 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng. Ngày 8 - 2 - 1930, các đại biểu dự Hội nghị về nước. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đàng được thành lập, gồm: Trịnh Đình Cửu, Trân Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lâu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đúng đấu. Tiếp đến, các xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì cũng được thành lập. Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (9 - 1960) quyết định lấy ngày 3 - 2 hằng năm là ngày kỉ niêm thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp của nhân dân Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Từ đấy, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung nguyện suốt đời hi sinh cho lí tưởng của Đảng, cho độc lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt tiếp theo trong lịch sử dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Trong những năm 1926 -1927, Đảng Cộng sản hợp tác với Quốc dân đảng đề tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng nhằm đánh đổ các tập đoàn quân phiệt Bắc Dương đang chia nhau thống trị những vùng khác nhau ở miền Bắc Trung Quốc (thuờng gọi là Chiến tranh Bắc phạt). Nhưng sau một thời gian ngắn, Quốc dân đảng lại chống lại phong trào cách mạng. Ngày 12 - 4 - 1927, Tưởng Giới Thạch tiến hành cuộc chính biến ở Thượng Hải, tàn sát, khủng bô đẫm máu những người cộng sản và công khai chông phá cách mạng ở nhiều địa phương khác. Một tuần lễ sau, Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ tại Nam Kinh, đại diện cho quyền lợi của đại địa chủ, đại tư sản ở Trung Quốc. Đến tháng 7 - 1927, chính quyền hoàn toàn rơi vào tay Tưởng Giới Thạch. Cuộc Chiến tranh Bắc phạt đến đấy chấm dứt. Sau Chiến tranh Bắc phạt, quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến đấu chống Chính phủ Quốc dân đảng, được gọi là Nội chiến Quốc - Cộng, diễn ra trong những năm 1927 -1937. quân đội Tưởng Giới Thạch đã tổ chức 4 lần vây quét lớn nhằm tiêu diệt căn cứ địa cách mạng của Đảng Cộng sản, nhưng đều bị thất bại. Trong cuộc vây quét lần thứ năm (1933 -1934), lực lượng cách mạng bị thiệt hại nặng. đề bảo toàn lực lượng, tháng 10 - 1934 Hồng quân công nông phải tiến hành cuộc phá vây, rút khỏi căn cứ địa cách mạng, tiến lên phía bắc, trong lịch sử gọi là cuộc Vạn lí trỗờng chinh. Trên đường trường chinh, tại Hội nghị Tuân Nghĩa (tỉnh Quý Châu) tháng 1 - 1935, Mao Trạch Đông trở thành người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc.  Tháng 7 - 1937, giới quân phiệt Nhật phát động cuộc chiến tranh xâm lược, nhằm thôn tính Trung Quốc. Trước áp lực đấu tranh của quần chúng, Quốc dân đảng buộc phải đình chiến, hợp tác với Đảng Cộng sản, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật. Cách mạng Trung Quốc chuyển sang thời kì kháng chiến chống phát xít Nhật." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 15: Phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ (1918-1939),"Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đẩy nhân dân Ấn Độ vào cảnh sống cùng cực, vì toàn bộ gánh nặng chi phí chiến tranh của thực dân Anh đè nặng lên vai các thuộc địa. Sau chiến tranh, việc chính quyền thực dân tăng cường bóc lột thuộc địa, ban hành những đạo luật phản động nhằm củng cố bộ máy thống trị, làm cho những mâu thuẫn xã hội ngày càng căng thẳng. Một làn sóng đấu tranh chống thực dân Anh dâng cao khắp Ấn Độ trong những năm 1918 -1922.  Phong trào đấu tranh diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nông dân, công nhân và thị dân tham gia. Giữ vai trò lãnh đạo phong trào là Đảng Quốc đại, đứng đầu là M. Gan-đi, một lãnh tự có uy tín lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhân dân Ấn Độ. Ông kêu gọi đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân bằng các biện pháp hoà bình, không sử dụng bạo lực (như biểu tình hoà bình, bãi công ở các nhà máy, công sở, bãi khoá ở các trường học, tẩy chay hàng hoá Anh, không nộp thuế...). Phong trào bất bạo động, bất hợp tác, do Gan-đi và Đảng Quốc đại lãnh đạo, được các tầng lớp nhân dân Ấn Độ hưởng ứng. Sự phát triển của phong trào công nhân dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ tháng 12 -1925. Sự kiên này góp phần thức đẩy làn sóng đấu tranh chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ. Đa số học viên là thanh niên, học sinh, tri thức Việt Nam yêu nước. Họ ""học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật"". Phần lớn số học viên đó sau khi học xong bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân. Một số người được gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Mátxcơva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tâm xã đề tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2 - 1925). Tháng 6 - 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Tổng bộ, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu (Trung Quốc). Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Số báo đầu tiên ra ngày 21 - 6 - 1925." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản. Báo Thanh niên và sách Đường cách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân tộc cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để tuyên truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Năm 1928, Hội có gần 300 hội viên, đến năm 1929 có khoảng 1700 hội viên. Hội đã xây dựng tổ chức cơ sở của mình khắp cả nước. Các kì bộ Trung Kì, Bắc Kì, Nam Kì của Hội lần lượt ra đời. Hội còn xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Năm 1926, cơ sở đầu tiên của Hội được xây dựng ở tỉnh Phi Chịt, sau đó phát triển đến các tỉnh U Đon, Na Khon v.v... Từ cuối năm 1928, sau khi có chủ trương ""Vô sản hóa"", nhiều cán bộ của Hội đã đi sâu vào các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền cùng lao động và sống với công nhân để tuyên truyền và vận động cách mạng. Phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian hoạt động ở Quảng Châu, ngày 9 - 7 - 1925, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêxia... lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Đông Á. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị áp bức để cùng làm cách mạng đánh đổ đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra đến 9 - 2 - 1930 ở Yên Bái. Cùng đến, khởi nghĩa nổ ra ở Phú Thọ, Sơn Tây, sau đó là Hải Dương, Thái Bình... Ở Hà Nội có cuộc đánh bom của quân khởi nghĩa để phối hợp. Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, song không làm chủ được tỉnh lị nên hôm sau bị quân Pháp phản công và dập tắt. Còn các nơi khác, nghĩa quân chỉ tạm thời làm chủ vài huyện lị nhỏ nhưng bị địch nhanh chóng chiếm lại. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng bị thất bại nhanh chóng, song đã cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Hành động yêu nước, tấm gương hi sinh của các chiến sĩ cách mạng ở Yên Bái là sự nối tiếp truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam. Vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân đảng với tư cách là một chính đảng cách mạng trong phong trào dân tộc vừa mới xuất hiện đã chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"An Nam Cộng sản đảng đã tích cực vận động để hợp nhất với Đông dương Cộng sản đảng, liên lạc với Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trên thế giới. Đảng đã đẩy mạnh cuộc vận động phát triển tổ chức Đảng, Công hội, Nông hội, Đoàn Thanh niên. Một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt cũng tích cực vận động lập các chi bộ cộng sản và xúc tiến việc chuẩn bị lập đảng cộng sản. Tháng 9 - 1929, những đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt tuyên bố thành lập Đông dương Cộng sản liên đoàn. Nhiều đảng viên Đảng Tân Việt lần lượt gia nhập Đông dương Cộng sản liên đoàn, hình thành nhiều chi bộ Đảng ở Trung Kì, Nam Kì và cả ở Bắc Kì. Theo kế hoạch, Đông dương Cộng sản liên đoàn chính thức họp đại hội vào ngày 1 - 1 - 1930, song do nhiều đại biểu trên đường đi dự đại hội bị địch bắt, nên không tiến hành được. Tuy vậy, với tuyên đạt tháng 9 - 1929, Đông dương Cộng sản liên đoàn đã chính thức ra đời, hoạt động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930.,Bài 15: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930.,"Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng. Ngày 8 - 2 - 1930, các đại biểu dự Hội nghị về nước. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập, gồm: Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phạm Hữu Lâu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến, các xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì cũng được thành lập. Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (9 - 1960) quyết định lấy ngày 3 - 2 hằng năm là ngày kỉ niêm thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp của nhân dân Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Từ đấy, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung nguyện suốt đời hi sinh cho lí tưởng của Đảng, cho độc lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt tiếp theo trong lịch sử dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Trong những thập niên đầu thế kỉ XX, ở các nước Đông Nam Á đã diễn ra những chuyển biên quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp các nước trong khu vực. Hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc, cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản dân tộc đã xuất hiên phong trào đấu tranh của một lực lượng mới - giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản trẻ tuổi bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, mở ra triển vọng mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á" 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân phương Tây đã tác động mạnh mẽ đển tình hình các nước Đông Nam Á. Những chuyển biên quan trọng về kinh tê, chính trị, xã hội đã diễn ra ở hầu khắp các nước trong khu vực.  Về kinh tế, Đông Nam Á tuy được đưa vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản, nhưng chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hoá và nơi cung cấp nguyên liêu cho các nước chính quốc. Về chính trị, mặc dù thể chế ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là do chính quyền thực dân không chế. Toàn bộ quyền hành đều tập trung trong tay một đại diên của chính quyền thuộc địa hay chịu ảnh hưởng của các nước tư bản, thực dân. Về xã hội, sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc. Giai cấp tư sản dân tộc lớn mạnh dần cùng với sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp. Giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành về số lượng và ý thức cách mạng. Cùng với những chuyển biến trong nước, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cao trào cách mạng thế giới đã tác động mạnh mẽ đến phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào độc lập dân tộc phát triển ở hầu khắp các nước Đông Nam Á. So với những năm đầu thế kỉ XX, phong trào dân tộc tư sản có những bước tiến rõ rệt cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản dân tộc đe ra mục tiêu đấu tranh đòi quyền tự do kinh doanh, tự chủ về chính trị, đòi quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nhà trường. Một sô' chính đảng tư sản được thành lập và có ảnh hưởng xã hội rộng rãi như Đảng Dân tộc ở In-đô-nê-xi-a, phong trào Thakin ở Miến Điện, Đại hội toàn Mã Lai... Đổng thời, từ thập niên 20 giai cấp vô sản trẻ tuổi ở Đông Nam Á cũng bắt đầu trưởng thành. Một số đảng cộng sản được thành lập, đầu tiên là Đảng Cộng sản In-đô-nê-xi-a (5 - 1920) tiếp theo, trong năm 1930, các đảng cộng sản ra đời ở Việt Nam, Mã Lai, Xiêm và Phi-líp-pin. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phong trào độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi, quyết liệt, nổi bật là cuộc khởi nghĩa vũ trang ở In-đô-nê-xi-a (1926 -1927) và phong trào cách mạng 1930 - 1931 ở Việt Nam, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Riêng ở Việt Nam, từ tháng 2 -1930 quyền lãnh đạo cách mạng thuộc về' chính đảng của giai cấp vô sản." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cùng với phong trào độc lập dân tộc, sự phát triển của phong trào công nhân và việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào In-đô-nê-xi-a đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản In-đô-nê-xi-a (5 - 1920). Đảng Cộng sản nhanh chóng trưởng thành, tập hợp lực lượng quần chúng và lãnh đạo phong trào cách mạng trong thập niên 20 của thế kỉ XX. Phong trào cách mạng lan rộng trong cả nước. Đảng Cộng sản đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Gia-va và Xu-ma-tơ-ra trong những năm 1926 - 1927. Cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng đã làm rung chuyển nền thống trị của thực dân Hà Lan ở In-đô-nê-xi-a. Từ năm 1927, sau thất bại của Đảng Cộng sản, quyền lãnh đạo phong trào cách mạng chuyển vào tay Đảng Dân tộc của giai cấp tư sản, đứng đầu là Ác-mét Xu-các-nô. Với chủ trương đoàn kêt các lực lượng dân tộc, chống để quốc, đấu tranh bằng con đường hoà bình và bằng phong trào bất hợp tác với chính quyền thực dân, Đảng Dân tộc đã nhanh chóng trở thành lực lượng dẫn dắt phong trào giải phóng dân tộc ở In-đô-nê-xi-a. A. Xu-các-nô là lãnh tụ phong trào độc lập dân tộc In-đô-nê-xi-a, người sáng lập Đảng Dân tộc In-đô-nê-xi-a. Với tư cách là Chủ tịch Đảng Dân tộc, Xu-các-nô kiên quyết đấu tranh đòi thực dân Hà Lan trao trả độc lập cho In-đô-nê-xi-a. Ông trở thành Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a (1945 -1965)." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Đầu thập niên 30, phong trào đấu tranh chống thực dân Hà Lan tiếp tục lan rộng khắp các đảo thuộc In-đô-nê-xi-a, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của các thuỷ binh ở cảng Su-ra-bay-a vào năm 1933. Sau khi khủng bố tàn khốc những người khởi nghĩa, chính quyền thực dân tăng cường đàn áp, bắt giữ các lãnh tụ của Đảng Dân tộc (từ năm 1929 là Đảng In-đô-nê-xi- và đặt Đảng ra ngoài vòng pháp luật. Cuối thập niên 30, trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, những người cộng sản đã kết hợp với Đảng In-đô-nê-xi-a, thành lập mặt trận thống nhất chống phát xít với tên gọi Liên minh chính trị In-đô-nê-xi-a. Tháng 12 - 1939, Liên minh chính trị In-đô-nê-xi-a, đứng đầu là Xu-các-nô, đã triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân, bao gồm 90 đảng phái và các tổ chức chính trị, biểu thị sự thống nhất dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Đại hội đã thông qua Nghị quyết về ngôn ngữ (Bahasa Inđônêxi, Quốc kì (cò màu đỏ và trắng), Quốc ca (bài Inđônêxia Ray. Tháng 9 - 1941, Hội đồng nhân dân In-đô-nê-xi-a được thành lập và bày tỏ nguyện vọng muốn hợp tác với chính quyền thực dân chống phát xít Nhật. Nhưng thực dân Hà Lan đã từ chối những yêu cầu chính đáng của phong trào dân tộc In-đô-nê-xi-a." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường chính sách khai thác thuộc địa, nhất là ở các nước Đông Dương, vốn được coi là quan trọng và giàu có nhất trong hệ thống thuộc địa của Pháp. Chính sách khai thác tàn bạo và chế' độ thuế' khoá, lao dịch nặng nề đã làm bùng nổ phong trào đấu tranh chống Pháp ở các nước Đông Dương. Ở Lào, cuộc khởi nghĩa của Ong Kẹo và Com-ma-đam nổ ra từ năm 1901, tiếp diễn trong hơn 30 năm đầu thế kỉ XX. Tháng 9 -1936, sau khi Com-ma-đam hi sinh, 3 người con của ông vẫn tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa cho đến khi bị bắt vào tháng 7 -1937. Cuộc khởi nghĩa của người Mèo do Châu Pa-chay lãnh đạo kéo dài trong những năm 1918 -1922 ở Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam. Ở Cam-pu-chia, phong trào chông thuế' chông bắt phu bùng lên mạnh mẽ trong những năm 1925 - 1926 ở các tỉnh Prây-veng, Công-pông Chàm, Công-pông Chơ-năng... Tiêu biểu là cuộc nổi dây của nông dân thuộc huyện Rô-lê-phan ở Công-pông Chơ-năng, từ đấu tranh chông thuế' chông bắt phu, phong trào chuyển sang đấu tranh vũ trang chông thực dân Pháp. Chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu, hơn 400 người bị tra tấn đến chết. Đầu năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10 -1930 là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã mở ra thời kì mới của phong trào cách mạng ở Đông Dương. Những cơ sở bí mật đầu tiên của Đảng đã được thành lập ở Lào và Cam-pu-chia. Tuy nhiên, thực dân Pháp sau khi đàn áp được phong trào cách mạng 1930 - 1931 ở Việt Nam đã tập trung lực lượng, đàn áp dã man những người cộng sản, phá vỡ các cơ sở cách mạng ở hai nước này. Trong những năm 1936 -1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh. Trong điều kiện đó, một số cơ sở cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương đã được xây dựng và củng cố ở các thành phố lớn như Viêng Chăn, Phnôm Pênh... Cuộc vận động dân chủ đã kích thích sự phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ ở Lào và Cam-pu-chia cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Ở Mã Lai, từ đầu thế kỉ XX phong trào đấu tranh chống thực dân Anh đã lan rộng trên khắp bán đảo Mã Lai. Ách áp bức bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân, gánh nặng nợ nần chổng chất đã làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của nông dân người Mã Lai bản địa và người Mã Lai gốc Hoa, gốc Ấn. Giai cấp tư sản dân tộc thông qua tổ chức Đại hội toàn Mã Lai đã lên tiếng đấu tranh đòi dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, đòi thực hiện tự do dân chủ trong kinh doanh. Nhiều cuộc bãi công lổn của công nhân bùng nổ đòi tăng lương, cải thiên điều kiên làm việc. Tháng 4 - 1930, Đảng Cộng sản Mã Lai được thành lập. Sự kiện này đã tác động đến sự phát triển của phong trào công nhân. Trong những năm 1934 - 1936, các cuộc tổng bãi công của công nhân liên tiếp diễn ra, buộc chính quyền thực dân phải đi đến thoả thuận tăng lương cho công nhân. Ở Miến Điện, vào đầu thập niên 20, các nhà sư trẻ do ốt-ta-ma đứng đầu đã khởi xưổng phong trào bất hợp tác, không đóng thuế và tẩy chay hàng hoá Anh. Phong trào lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Trong thập niên 30, học sinh, sinh viên Miến Điện đã phát động phong trào Thakin (phong trào của những người làm chủ đất nước đòi cải cách quy chế đại học, thành lập trường đại học riêng cho Miến Điện, đòi tách Miến Điện ra khỏi Ấn Độ và được quyền tự trị. Trưổc áp lực đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, năm 1937 Miến Điện được tách khỏi Ấn Độ, chấm dứt hơn nửa thế kỉ là một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Mặc dù là nước duy nhất ở Đông Nam Á không bị rơi vào tình trạng thuộc địa, nhưng trên thực tế nước Xiêm cũng không giữ được trọn vẹn nền độc lập của mình và phải phụ thuộc về nhiều mặt vào thực dân Anh và Pháp. Sự bất mãn của các tầng lớp trong xã hội đối vổi chế độ quân chủ Ra-ma VII ngày một tăng lên. Mùa hè năm 1932, một cuộc cách mạng đã nổ ra ở Thủ đô Băng Cốc dưổi sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, đứng đầu là Pri-đi Pha-nô-mi-ông. Pri-đi Pha-nô-mi-ông là thủ lĩnh Đảng Nhân dân, linh hổn của cuộc Cách mạng năm 1932. Ông chủ trương thực hiện các cải cách tư sản về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ông không đi tới một nền dân chủ triệt đe, mà chủ trương duy trì ngôi vua cùng với sự thiết lập nghị viện, xây dựng chế độ quân chủ lập hiến. Cách mạng năm 1932 đã thay thế chế độ quân chủ chuyện chế bằng chế độ quân chủ lập hiến, tạo điều kiên cho việc tiến hành các cải cách theo hưổng tư sản, mở ra một thời kì phát triển mới của Xiêm." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo),"Năm 40, cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ đầu tiên của nhân dân Âu Lạc bùng nổ. Từ đó cho đến đầu thế kỉ X, nhiều cuộc khỏi nghĩa đã liên tiếp nổ ra ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 đến khỏi nghĩa Khúc Thừa Dụ năm 905, đã diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nhật Nam (năm 100, 137, 144), nhân dân Cửu Chân (năm 157), nhân dân ba quận Giao Chỉ, cửu Chân, Nhật Nam nổi dậy liên tục (178 - 181), tiếp sau đó là khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248), khởi nghĩa Lý Bí (năm 542), khởi nghĩa Đinh Kiến, Lý Tự Tiên (năm 687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713 - 722), khởi nghĩa Phùng Hưng (khoảng 776 - 791), khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820). Nhiều cuộc khởi nghĩa được các tầng lớp nhân dân ba quận tham gia, hưởng ứng, giành được thắng lợi, lập được chính quyền tự chủ trong một thời gian." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo),"Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Tây). Được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân khỏi nghĩa đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh Phú, rồi từ Mê Linh tiến đánh, chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Thái thú Tô Định phải trốn chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi, Trung Trắc được nhân dân suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Lên làm vua, Trưng Vương bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ và xá thuế trong 2 năm liền cho nhân dân ba quận. Nhiều nữ tướng tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa được phong chức tước như Trần Thị Đoan, Lê Chân, Thiều Hoa, Ngọc Lâm, Vũ Thục Nương... Tổ chức chính quyền của Trưng Vương còn rất sơ khai nhưng là một chính quyền độc lập, tự chủ của nhân dân ta được ra đời sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi và đã cổ vũ tinh thần đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc sau đó. Mùa hè năm 42, Mã Viện được vua Hán cử làm tổng chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thuỷ, bộ kéo vào xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo rất anh dũng, nhưng do lực lượng yếu nên đã bị thất bại. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ở Lãng Bạc. Nhưng do tương quan lực lượng quá chệnh lệch, Trưng Vương phải rút quân về Cổ Loa. Cổ Loa bị thất thủ, quân Trưng Vương lui về Hạ Lôi và từ Hạ Lôi lui về giữ Cấm Khệ (vùng chân núi Ba Vì đến vùng chùa Hương - Hà Tây). Quân Mã Viện dồn sức đánh bại quân Hai Bà ở Cấm Khệ. Hai Bà Trưng hi sinh. Đại quân của Hai Bà Trưng bị tan vỡ, số còn lại rút về chiến đấu ở Cửu Chân cho đến khi bị tiêu diệt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo)," Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân Mùa xuân năm 542, nhân lúc nhân dân đang oán giận chế độ bóc lột hà khắc của nhà Lương, Lý Bí liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền Bắc nước ta, nổi dậy khởi nghĩa. Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh). Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Nhà nước Vạn Xuân Độc lập, tự chủ ra đời. Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên cùng với Thứ sử Giao Châu đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế phải rút quán về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ và giao binh quyển cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục rút quân về đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) tổ chức kháng chiến. Đến năm 550, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Triệu Quang Phục lên làm vua (Triệu Việt Vương). Năm 571, Lý Phật Tử (một người họ hàng với Lý Nam Đế) bất ngờ đem quán đánh úp Triệu Việt Vương, cướp ngôi, sử ghi là Hậu Lý Nam Đế. Năm 603, nhà Tuỳ đem quán xâm lược, Lý Phạt Tử bị bắt. Nhà nước Vạn Xuân kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo),"Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy sụp, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, đánh chiếm Tống Binh (Hà Nội), giành quyền tự chủ. Năm 907, Khúc Hạo lên thay, thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt để xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi về căn bản, tạo điều kiện để đi đến hoàn toàn thắng lợi vào năm 938. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Năm 931, Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của quán Nam Hán, thay họ Khúc nắm giữ chính quyền tự chủ. Đầu năm 937, ông bị Kiểu Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10 - 938, Ngô Quyền đem quán đánh Kiểu Công Tiễn. Công Tiễn cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Lợi dụng cơ hội này, quân Nam Hán kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngô Quyền nhanh chóng tiến quân vào thành Đại La (Hà Nội), bắt giết Kiểu Công Tiễn và dùng kế đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng, cho quân mai phục ở hai bên bờ sông. Khi thuỷ triều lên, ông cho một toán quán ra khiêu chiến, giả vờ thua, nhử quân Hán vào bên trong bãi cọc. Vừa lúc nước triều rút, cọc nhô lên, quán ta đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng cọc lại bị đánh từ nhiều phía, tan vỡ. Chủ tướng giặc bị tiêu diệt. Nhận xét về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỉ XVIII viết: ""Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn ghi vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Tại Nghệ An, Xô viêt ra đời từ tháng 9 - 1930 ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. ở Hà Tĩnh, Xô viêt hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê vào cuối năm 1930, đầu năm 1931. Các xô viết thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, điều hành mọi mặt đời sống xã hội. Về chính trị, quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ và toà án nhân dân được thành lập. Về kinh tế, thi hành các biên pháp chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân cày nghèo; bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối; xoá nợ cho người nghèo; chú trọng đắp để phòng lụt, tu sửa cầu cống, đường giao thông; lập các tổ chức để nông dân giúp đỡ nhau trong sản xuất. Về văn hoá - xã hội, chính quyền cách mạng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho các tầng lớp nhân dân, xoá bỏ các tệ nạn như mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc,... Trật tự trị an được giữ vững. Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nhân dân được xây dựng. Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931. Tuy chỉ tồn tại được 4 - 5 tháng, nhưng nó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong cả nước. Trước tình hình đó, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, khủng bố phong trào. Chúng điều động binh lính đóng nhiều đồn bốt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cùng với việc cho lính đi càn quét, bắn giết nhân dân, đốt phá, triệt hạ làng mạc, chúng còn dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc. Vì vậy, nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ; nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước bị bắt bớ, tù đày hoặc bị giết hại. Từ giữa năm 1931, phong trào cách mạng trong cả nước dần dần lắng xuống." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Trong những năm 1929 - 1933, Việt Nam phải gánh chịu những thiệt hại của cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước Pháp. Điều đó trở thành một trong những nguyên nhân làm bùng nổ phong trào cách mạng 1930 - 1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10 - 1930 là Đảng Cộng sản Đông dương); tiếp đó, trong những năm 1932 - 1935 là cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Từ năm 1930, kinh tế Việt Nam bước vào thời kì suy thoái, bắt đầu từ nông nghiệp. Lúa gạo bị sụt giá. Ruộng đất bỏ hoang năm 1930 là 200 000 héc ta, năm 1993 là 500000 héc ta. Sản xuất công nghiệp bị suy giảm. Năm 1929, tổng giá trị sản lượng khai khoáng của Đông dương là 18 triệu đồng, năm 1933 chỉ còn 10 triệu đồng. Trong thương nghiệp, xuất nhập khẩu đình đốn. Hàng hoá khan hiếm, giá cả đắt đỏ. Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam rất nặng nề so với các thuộc địa khác của Pháp cũng như so với các nước trong khu vực." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Nhiều công nhân bị sa thải. Ở Bắc Kì, nơi tập trung nhiều công nhân, có tới 25000 người bị sa thải. Số người có việc làm thì lương bị cắt giảm từ 30% đến 50%. Cuộc sống của thợ thuyền ngày càng khó khăn. Nữ kí giả người Pháp Ăngđrê Viôlít viết về tình trạng công nhân Đông dương năm 1931 như sau: ""Lương công nhân không bao giờ vượt quá từ 2 đến 2,5 phrăng mỗi ngày (túc từ 2 hào đến 2 hào 5 xu). Trong các xưởng dệt, ngày làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông lương từ 1,75 phrăng đến 2 phrăng, đàn bà từ 1,25 đến 1,50 phrăng, trẻ em từ 8 đến 10 tuổi được lĩnh 0,75 phrăng. Tôi được biết ở các đồn điền, và nói riêng ở các đồn điền trồng cao su tại các vùng khí hầu rất xấu, công nhân phải làm việc từ 15 đến 16 giờ mỗi ngày và được trả từ 1,2 đến 2,2 phrăng mỗi ngày . Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải bản giá hạ. Ruộng đất bị địa chủ người Pháp và người Việt chiếm đoạt. Họ bị bần cùng hoá. Các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không tránh khỏi tác động xấu của khủng hoảng kinh tế. Thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa hiệu, viên chức bị sa thải... Một số đông tư sản dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, với hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Vì vậy, trong những năm cuối thập niên 20 của thế kỉ XX, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo thất bại. Chính quyền thực dân đã tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man những người yêu nước Việt Nam. Điều đó càng làm căng thẳng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất ổn trong xã hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra gay gắt và phong trào cách mạng dâng cao, ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công - nông rộng khắp trên cả nước. Tháng 2 - 1930, nổ ra một số cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tổng lớp lao động khác. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, Dổu Tiếng. Ở Hà Nội, cò đỏ búa liềm được treo ở một số đường phố chính. Mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiên đời sống. Công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm. Nông dân đòi giảm sưu, giảm thuế. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những khẩu hiệu chính trị như ""Đả đảo chủ nghĩa đế quốc ! Đả đảo phong kiến"", ""Thả từ chính trị""v.v... Sang tháng 3 và 4, diễn ra các cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy sợi Nam Định, công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ. Tháng 5, trên phạm vi cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày Quốc tế Lao động 1 - 5. Các cuộc đấu tranh này đánh dấu bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên, công nhân Việt Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới. từ tháng 6 đến tháng 8 - 1930, cỏ nước có 121 cuộc đấu tranh (Bắc Kỉ: 17, Trung Kỉ: 82, Nam Kỉ: 22), trong đó công nhân có 22 cuộc, nông dân: 95, các tổng lớp lao động khác: 4. Sang tháng 9, phong trào đấu tranh dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Những cuộc biểu tình của nông dân (có vũ trang tự vệ) với hàng nghìn người tham gia kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu, giảm thuế ở các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Đô Lương (Nghệ An), Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kì Anh (Hà Tĩnh). Các cuộc đấu tranh này được công nhân Vinh - Bến Thuỷ hưởng ứng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Tiêu biểu là cuộc biểu tỉnh của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) ngày 12 - 9 - 1930. Khoảng 8000 nông dân kéo đến phủ lị với những khẩu hiệu cách mạng ""Đả đảo chủ nghĩa đế quốc !"", ""Đả đảo phong kiến !"", ""Bỏ sưu thuế, chia ruộng đất v.v... Đoàn biểu tỉnh xếp thành hàng dài hơn 1 kilômét kéo về thành phố Vinh. Đi đấu là những người cấm cò đỏ, đi hai bên là những đội viên tự vệ được trang bị dao, gậy. Trên đường đi, đoàn biểu tỉnh dùng lại vài nơi đề diễn thuyết và chỉnh đốn đội ngũ. Dòng người càng đi càng được bổ sung thêm. Khi đến gân Vinh, con số lên tới 30 000 người và xếp thành hàng dài tới 4 kilômét. thực dân Pháp đỡ đàn áp dỡ man. Chúng cho máy bay ném bom xuống đoàn biểu tỉnh làm chết 217 người, bị thương 125 người. Sự đàn áp không ngăn được cuộc đấu tranh. Quân chúng kéo đến huyện lị phá nhà lao, đốt huyện đường, vây đồn lính khố xanh. Hê thống chính quyền thực dân, phong kiên bị tê liệt, tan rã ở nhiều huyện, xã. Nhiều tên tri huyện, lí trưởng bỏ trốn hoặc đầu hàng. Trong tình hình đó, nhiều cấp uỷ Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo nhân dân đứng ra làm chủ vận mệnh của mình, tự quản lí đời sống chính trị, kinh tê, văn hoá, xã hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền cách mạng theo hình thức Xô viết. ở Bắc Kì, có các cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Duy Tiên, Bình lực (Hà Nam), công nhân nhà máy dệt Nam Định, công nhân các nhà máy ở Hải Phòng. ở Trung Kì, trong tháng 10 - 1930 có các cuộc đấu tranh của nông dân các huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). ở Nam Kì, trong tháng 10 - 1930 có các cuộc đấu tranh ở Bà Chiểu (Sài Gòn), Chợ lớn, Cao Lãnh (Sa Đé... Tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh (Bắc Kỉ: 29, Trung Kỉ: 316, Nam Kỉ: 17), trong đó có hơn 20 cuộc của công nhân, hơn 300 cuộc của nông dân, hơn 10 cuộc của các tâng lớp khác." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 9 - 1930 ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khệ vào cuối năm 1930, đầu năm 1931. Các xô viết thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, điều hành mọi mặt đời sống xã hội. Về chính trị, quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ và toà án nhân dân được thành lập. Về kinh tế, thi hành các biện pháp chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân cày nghèo; bãi bỏ thuế quân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối; xoá nợ cho người nghèo; chú trọng đắp đề phòng lụt, tu sửa cầu cống, đường giao thông; lập các tổ chức đề nông dân giúp đỡ nhau trong sản xuất. Về văn hoá - xã hội, chính quyền cách mạng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho các tầng lớp nhân dân, xoá bỏ các tê nạn như mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc,... Trật tự trị an được giữ vững. Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nhân dân được xây dựng. Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931. Tuy chỉ tồn tại được 4 - 5 tháng, nhưng nó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong cả nước. Trước tình hình đó, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, khủng bố phong trào. Chúng điều động binh lính đóng nhiều đồn bốt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cùng với việc cho lính đi càn quét, bắn giết nhân dân, đốt phá, triệt hạ làng mạc, chúng còn dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc. Vì vậy, nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ; nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước bị bắt bớ, từ đầy hoặc bị giết hại. Từ giữa năm 1931, phong trào cách mạng trong cả nước dần dần lắng xuống." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang diễn ra quyết liệt, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc vào tháng 10 - 1930. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông dương; cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng Bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng. Luận cương xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông dương. Cách mạng Đông dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát triển, bá qua thời kì tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh đổ phong kiến và đánh đổ đế quốc có quan hệ khăng khít với nhau. Động lực cách mạng là giai cấp vô sản và nông dân. Lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Luận cương chính trị nêu rõ hình thức và phương pháp đấu tranh, về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Tuy nhiên, Luận cương chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông dương, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của giai cấp tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai. Sau Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tập trung lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước chống lại cuộc khủng bố và các thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, đồng thời có những chỉ thị cụ thể cho Nghệ - Tĩnh và kêu gọi nhân dân cả nước đấu tranh ủng hộ và bảo vệ Xô viết Nghệ - Tĩnh. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Phong trào cách mạng 1930 - 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong trào khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước ở Đông dương. Từ trong phong trào, khối liên minh công - nông hình thành, công nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông dương là phán bộ độc lập, trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 đã đề lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiêm quý báu về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh v.v... Phong trào có ý nghĩa như cuộc tập đdượtầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Phong trào cách mạng 1930 - 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong trào khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước ở Đông dương. Từ trong phong trào, khối liên minh công - nông hình thành, công nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông dương là phán bộ độc lập, trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 đã đề lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiêm quý báu về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh v.v... Phong trào có ý nghĩa như cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc. Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, thay mặt cho hơn 500 đảng viên thuộc các đảng bộ trong nước và ở nước ngoài. Sau khi đánh giá tình hình, Đại hội xác định 3 nhiêm vụ chủ yếu của Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lê Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vê và cứu tế đỏ. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người và bầu Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư của Đảng. Nguyễn Ai Quốc được cử làm đại diện của Đảng tại Quốc tê Cộng sản. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đánh dấu mốc quan trọng: Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, đã khôi phục được các tổ chức quần chúng của Đảng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo)," Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ, Hà tây). Được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân khỏi nghĩa đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh Phú, rồi từ Mê Linh tiến đánh, chiếm Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Thái thứ Tô Định phải trốn chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa kết thức thắng lợi, Trung Trắc được nhân dân suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Lên làm vua, Trưng Vương bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ và xá thuế trong 2 năm liền cho nhân dân ba quận. Nhiều nữ tướng tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa được phong chức tước như Trần Thị Đoan, Lê Chân, Thiều Hoa, Ngọc Lâm, Vũ thực Nương... Tổ chức chính quyền của Trưng Vương còn rất sơ khai nhưng là một chính quyền độc lập, tự chủ của nhân dân ta được ra đời sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi và đã cổ vũ tinh thần đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc sau đó. Mùa hè năm 42, Mã Viện được vua Hán cử làm tổng chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thuỷ, bộ kéo vào xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo rất anh dũng, nhưng do lực lượng yêu nên đã bị thất bại. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ở Lãng Bạc. Nhưng do tương quan lực lượng quá chệnh lệch, Trưng Vương phải rút quân về Cổ Loa. Cổ Loa bị thất thủ, quân Trưng Vương lui về Hạ Lôi và từ Hạ Lôi lui về giữ Cấm Khệ (vùng chân núi Ba Vì đến vùng chùa Hương - Hà tây). Quân Mã Viện dồn sức đánh bại quân Hai Bà ở cấm Khệ. Hai Bà Trưng hi sinh. Đạl quân của Hai Bà bị tan vỡ, số còn lại rút về chiến đấu ở Cửu Chân cho đến khi bị tiêu diệt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo)," Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân Mùa xuân năm 542, nhân lúc nhân dân đang oán giận chế độ bóc lột hà khắc của nhà Lương, Lý Bí liên kết với hào kiệt các Châu thuộc miền Bắc nước ta, nổi dậy khởi nghĩa. Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm được Châu thành Long biên(Bắc Ninh). Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Nhà nước Vạn XuẤn Độc lập, tự chủ ra đời. Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên cùng với Thứ sử Giao Châu đem quán sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế phải rút quán về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục rút quân về đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) tổ chức kháng chiến. Đến năm 550, cuộc kháng chiến kết thức thắng lợi. Triệu Quang Phục lên làm vua (Triệu Việt Vương). Năm 571, Lý Phật Tử (một người họ hàng với Lý Nam Đế) bất ngờ đem quán đánh úp Triệu Việt Vương, cướp ngôi, sử ghi là Hậu Lý Nam Đế. Năm 603, nhà Tuỳ đem quán xâm lược, Lý Phạt Tử bị bắt. Nhà nước Vạn Xuân kết thức." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ thời kì nguyên thủy đến thế kỉ X,Bài 16: Thời kì Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Tiếp theo)," Cuộc khỏi nghĩa của Khúc Thùa Dụ Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy sụp, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, đánh chiếm Tống binh (Hà Nội), giành quyền tự chủ. Năm 907, Khúc Hạo lên thay, thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt đề xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi về căn bàn, tạo điêu kiện đề đi đến hoàn toàn thắng lợi vào năm 938. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 Năm 931, dương Đình Nghệ lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của quán Nam Hán, thay họ Khúc nắm giữ chính quyền tự chủ. Đầu năm 937, ông bị Kiểu Công Tiễn giết hại đề đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10 - 938, Ngô Quyền đem quán đánh Kiểu Công Tiễn. Công Tiễn cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Lợi dụng cơ hội này, quân Nam Hán kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngô Quyền nhanh chóng tiến quán vào thành Đại La (Hà Nội), bắt giết Kiểu Công Tiễn và dùng kế đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng, cho quân mai phục ở hai bên bờ sông. Khi thuỷ triều lên, ông cho một toán quán ra khiêu chiến, giả vờ thua, nhử quân Hán vào bên trong bãi cọc. Vừa lúc nước triều rút, cọc nhô lên, quán ta đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng cọc lại bị đánh từ nhiều phía, tan vỡ. Chủ tướng giặc bị tiêu diệt. Nhận xét về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỉ XVIII viết: ""Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời định, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhd vào uy thanh lẫm liệt đề lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đấu""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân phương tây đã tác động mạnh mẽ đến tình hình các nước Đông Nam Á. Những chuyển biênquan trọng về kinh tê, chính trị, xã hội đã diễn ra ở hầu khắp các nước trong khu vực.  Về kinh tế, Đông Nam Á tuy được đưa vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản, nhưng chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hoá và nơi cung cấp nguyên liêu cho các nước chính quốc. Về chính trị, mặc dù thể chế ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là do chính quyền thực dân không chế. Toàn bộ quyền hành đều tập trung trong tay một đại diện của chính quyền thuộc địa hay chịu ảnh hưởng của các nước tư bản, thực dân. Về xã hội, sự phán hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc. Giai cấp tư sản dân tộc lớn mạnh dần cùng với sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp. Giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành về số lượng và ý thức cách mạng. Cùng với những chuyển biến trong nước, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cao trào cách mạng thế giới đã tác động mạnh mẽ đến phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường chính sách khai thác thuộc địa, nhất là ở các nước Đông dương, vốn được coi là quan trọng và giàu có nhất trong hệ thống thuộc địa của Pháp. Chính sách khai thác tàn bạo và chế độ thuế' khoá, lao dịch nặng nề đã làm bùng nổ phong trào đấu tranh chống Pháp ở các nước Đông dương. Ở Lào, cuộc khởi nghĩa của Ong Kẹo và Com-ma-đam nổ ra từ năm 1901, tiếp diễn trong hơn 30 năm đầu thế kỉ XX. Tháng 9 -1936, sau khi Com-ma-đam hi sinh, 3 người con của ông vẫn tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa cho đến khi bị bắt vào tháng 7 -1937. Cuộc khởi nghĩa của người Mèo do Châu Pa-chay lãnh đạo kéo dài trong những năm 1918 -1922 ở Bắc Lào và tây Bắc Việt Nam. Ở Cam-pu-chia, phong trào chông thuế' chông bắt phu bùng lên mạnh mẽ trong những năm 1925 - 1926 ở các tỉnh Prấy-veng, Công-pông Chàm, Công-pông Chơ-năng... Tiêu biểu là cuộc nổi dấy của nông dân thuộc huyện Rô-lê-phan ở Công-pông Chơ-năng, từ đấu tranh chông thuế' chông bắt phu, phong trào chuyển sang đấu tranh vũ trang chông thực dân Pháp. Chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu, hơn 400 người bị tra tấn đến chết. Đầu năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10 -1930 là Đảng Cộng sản Đông dương) đã mở ra thời kì mới của phong trào cách mạng ở Đông dương. Những cơ sở bí mật đầu tiên của Đảng đã được thành lập ở Lào và Cam-pu-chia. Tuy nhiên, thực dân Pháp sau khi đàn áp được phong trào cách mạng 1930 - 1931 ở Việt Nam đã tập trung lực lượng, đàn áp dã man những người cộng sản, phá vỡ các cơ sở cách mạng ở hai nước này. Trong những năm 1936 -1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông dương đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh. Trong điều kiện đó, một số cơ sở cách mạng của Đảng Cộng sản Đông dương đã được xây dựng và củng cố ở các thành phố lớn như Viêng Chăn, Phnôm Pênh... Cuộc vận động dân chủ đã kích thích sự phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ ở Lào và Cam-pu-chia cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Ở Mã Lai, từ đầu thế kỉ XX phong trào đấu tranh chống thực dân Anh đã lan rộng trên khắp bản đảo Mã Lai. Ách áp bức bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân, gánh nặng nợ nần cHồng chất đã làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của nông dân người Mã Lai bản địa và người Mã Lai gốc Hoa, gốc Ấn. Giai cấp tư sản dân tộc thông qua tổ chức Đại hội toàn Mã Lai đã lên tiếng đấu tranh đòi dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, đòi thực hiện tự do dân chủ trong kinh doanh. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân bùng nổ đòi tăng lương, cải thiên điều kiên làm việc. Tháng 4 - 1930, Đảng Cộng sản Mã Lai được thành lập. Sự kiện này đã tác động đến sự phát triển của phong trào công nhân. Trong những năm 1934 - 1936, các cuộc tổng bãi công của công nhân liên tiếp diễn ra, buộc chính quyền thực dân phải đi đến thoả thuận tăng lương cho công nhân. Ở Miến Điện, vào đầu thập niên 20, các nhà sư trẻ do ốt-ta-ma đứng đầu đã khởi xưổng phong trào bất hợp tác, không đóng thuế và tẩy chay hàng hoá Anh. Phong trào lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Trong thập niên 30, học sinh, sinh viên Miến Điện đã phát động phong trào Thakin (phong trào của những người làm chủ đất nước đòi cải cách quy chế đại học, thành lập trường đại học riêng cho Miến Điện, đòi tách Miến Điện ra khỏi Ấn Độ và được quyền tự trị. trước áp lực đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, năm 1937 Miến Điện được tách khỏi Ấn Độ, chấm dứt hơn nửa thế kỉ là một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Các nước Châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),"Mặc dù là nước duy nhất ở Đông Nam Á không bị rơi vào tình trạng thuộc địa, nhưng trên thực tế nước Xiêm cũng không giữ được trọn vẹn nền độc lập của mình và phải phụ thuộc về nhiều mặt vào thực dân Anh và Pháp. Sự bất mãn của các tầng lớp trong xã hội đối với chế độ quân chủ Ra-ma VII ngày một tăng lên. Mùa hè năm 1932, một cuộc cách mạng đã nổ ra ở Thủ đô Băng Cốc dựổi sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, đứng đầu là Pri-đi Pha-nô-mi-ông. Pri-đi Pha-nô-mi-ông là thủ lĩnh Đảng Nhân dân, linh hổn của cuộc Cách mạng năm 1932. Ông chủ trương thực hiện các cải cách tư sản về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ông không đi tới một nền dân chủ triệt đe, mà chủ trương duy trì ngôi vua cùng với sự thiết lập nghị viện, xây dựng chế độ quân chủ lập hiến. Cách mạng năm 1932 đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ quân chủ lập hiến, tạo điều kiên cho việc tiến hành các cải cách theo hướng tư sản, mở ra một thời kì phát triển mới của Xiêm." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Nhiều công nhân bị sa thải. Ở Bắc Kì, nơi tập trung nhiều công nhân, có tới 25000 người bị sa thải. Số người có việc làm thì lương bị cắt giảm từ 30% đến 50%. Cuộc sống của thợ thuyền ngày càng khó khăn. Nữ kí giả người Pháp Ăngđrê Viôlít viết về tình trạng công nhân Đông dương năm 1931 như sau: ""Lương công nhân không bao giờ vượt quá từ 2 đến 2,5 phrăng mỗi ngày (túc từ 2 hào đến 2 hào 5 xu). Trong các xưởng dệt, ngày làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông lương từ 1,75 phrăng đến 2 phrăng, đàn bà từ 1,25 đến 1,50 phrăng, trẻ em từ 8 đến 10 tuổi được lĩnh 0,75 phrăng. Tôi được biết ở các đồn điền, và nói riêng ở các đồn điền trồng cao su tại các vùng khí hậu rất xấu, công nhân phải làm việc từ 15 đến 16 giờ mỗi ngày và được trả từ 1,2 đến 2,2 phrăng mỗi ngày. Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải bán giá hạ. Ruộng đất bị địa chủ người Pháp và người Việt chiếm đoạt. Họ bị bần cùng hoá. Các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không tránh khỏi tác động xấu của khủng hoảng kinh tế. Thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa hiệu, viên chức bị sa thải... Một số đông tư sản dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, với hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Vì vậy, trong những năm cuối thập niên 20 của thế kỉ XX, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo thất bại. Chính quyền thực dân đã tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man những người yêu nước Việt Nam. Điều đó càng làm căng thẳng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất ổn trong xã hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 16: Phong trào cách mạng 1930-1935.,"Từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc. Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, thay mặt cho hơn 500 đảng viên thuộc các đảng bộ trong nước và ở nước ngoài. Sau khi đánh giá tình hình, Đại hội xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người và bầu Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư của Đảng. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng tại Quốc tế Cộng sản. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đánh dấu mốc quan trọng: Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, đã khôi phục được các tổ chức quần chúng của Đảng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) là cuộc chiến tranh gây nên những tổn thất lớn về người và của trong lịch sử nhân loại. Kéo dài trong 6 năm, chiến tranh đã bao trùm gần như toàn bộ các châu lục và diễn ra trên nhiều mặt trận. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của phe phát xít, dẫn đến những biến đổi căn bản trong tình hình thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Trong những năm 30 của thế kỉ XX, các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành liên minh phát xít, còn được gọi là Trục Béc-lin - Rô-ma - Tô-ki-ô hay phe Trục. Khối này tăng cường các hoạt động quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Sau khi chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc (1931), từ năm 1937 Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Phát xít I-ta-li-a tiến hành xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935), cùng với Đức tham chiến ở Tây Ban Nha nhằm hỗ trợ lực lượng phát xít Phran-cô đánh bại Chính phủ Cộng hoà (1936 - 1939). Sau khi xé bỏ Hoà ước Vécxai, nước Đức phát xít hướng tới mục tiêu thành lập một nước ""Đại Đức bao gồm tất cả các lãnh thổ7 có dân Đức sinh sống ở Châu Âu.  Trong bối cảnh đó, Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất nên đã chủ trương liên kết với các nước tư bản Anh, Pháp để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh. Liên Xô kiên quyết đứng về phía các nước Ê-ti-ô-pi-a, Cộng hoà Tây Ban Nha và Trung Quốc chống xâm lược. Chính phủ các nước Anh, Pháp, Mĩ đều có chung một mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít, nhưng vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, giới cầm quyền các nước Anh, Pháp đã không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để cùng chống phát xít. Trái lại, họ thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít, hòng đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Với Đạo luật trung lập (8 -1935), giới cầm quyền Mĩ thực hiện chính sách không can thiệp vào các sự kiện xảy ra bên ngoài châu Mĩ. Chính quyền các nước phát xít đã lợi dụng tình hình đó để thực hiện mục tiêu gây chiến tranh xâm lược." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức (3 - 1938), Hít-le gây ra vụ Xuy-đét để thôn tính Tiệp Khắc. Bằng cách xúi giục các cư dân gôc Đức sinh sông ở vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc nổi dây đòi li khai, Hít-le trắng trơn yêu cầu Chính phủ Tiệp Khắc trao quyền tự trị cho Xuy-đét. Trước tình thế cấp bách đó, Liên Xô tuyên bô sẵn sàng giúp Tiệp Khắc chông xâm lược, nếu các nước phương Tây cùng chung hành động. Nhưng các nước Anh, Pháp vẫn tiếp tục chính sách thoả hiệp, yêu cầu Chính phủ Tiệp Khắc nhượng bộ Đức. Ngày 29 - 9 - 1938, Hội nghị Muy-ních được triệu tập với sự tham gia của người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và I-ta-li-a. Một hiệp định đã được kí kết, theo đó Anh, Pháp trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức để đổi lấy sự cam kết của Hít-le về việc chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở Châu Âu. Đại biểu Tiệp Khắc được mời đến Muy-ních chỉ để tiếp nhận và thi hành hiệp định. Sau khi chiếm Xuy-đét, Hít-le thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc (3 -1939). Không dừng lại ở đó, Hít-le bắt đầu gây hấn và ráo riết chuẩn bị tiến hành chiến tranh với Ba Lan.  Trước khi khai chiến, Đức đã đề nghị đàm phán với Liên Xô để phòng khi chiến tranh bùng nổ phải chống lại ba cường quốc trên cả hai mặt trận (Anh - Pháp ở phía tây và Liên Xô ở phía đông). Liên Xô chủ trương đàm phán với Đức, vì đây là giải pháp tốt nhất để tránh một cuộc chiến tranh và bảo vệ quyền lợi quốc gia trong tình thế bị cô lập lúc bấy giờ. Bản Hiệp ước Xô -Đức không xâm lược nhau đã được kí kết ngày 23 - 8 -1939." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Rạng sáng 1 - 9 -1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, quân Đức áp dụng chiến lược ""Chiến tranh chớp nhoáng và chiếm được Ba Lan sau gần 1 tháng. Trong khi đó, liên quân Anh - Pháp dàn trận ở biên giới phía tây nước Đức, nhưng không tấn công Đức và không có hành động quân sự nào chi viện cho Ba Lan. Tháng 4 -1940, quân Đức chuyển hướng tấn công từ phía đông sang phía tây, chiếm hầu hết các nước tư bản Châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và đánh thẳng vào nước Pháp. Ngày 10 - 6 -1940, Chính phủ Pháp rời Pa-ri chạy về Tua. Quân Đức tràn vào nước Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu và phải kí Hiệp định đình chiến ngày 22 - 6 -1940. Theo đó, Đức chiếm đóng 3/4 lãnh thổ Pháp (bao gồm cả Thủ đô Pa-ri). Tại vùng phía nam nước Pháp không bị chiếm đóng, Chính phủ Pháp, do Pê-tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức. Tháng 7 -1940, quân Đức thực hiện kế hoạch tiến đánh nước Anh. Tuy nhiên, do ưu thệ về không quân và hải quân của Anh, đồng thời do sự viên trợ của Mĩ dành cho Anh bắt đầu từ tháng 9 -1940, kế hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Thế kỉ X mở đầu thời đại phong kiến độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhà nước quân chủ được thành lập và từng bước phát triển đến đỉnh cao ở thế kỉ XV trên một lãnh thổ thống nhất. Sau khi đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vưong, bắt tay xây dựng chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội). Năm 944, Ngô Quyền mất. Nhà Ngô suy vong, ""loạn 12 sứ quân diễn ra, đất nước bị chia cắt. Từ Hoa Lư (Ninh Bình), Đinh Bộ Linh đem quân đẹp yên nội loạn, thống nhất lại đất nước. Sử cũ ghi: Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), ""đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh đô về động Hoa Lư... đắp thành, đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bẩy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế"".(Đại Việt sử kí toàn thư) Nhà Đinh và tiếp sau đó là nhà Tiền Lê đã xây dựng nên một nhà nước quân chủ sơ khai gồm 3 ban: Văn ban, Võ ban và Tăng ban, chia nước thành 10 đạo, tổ chức quán đội theo hướng chính quy." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Thế kỉ X mở đầu thời đại phong kiến độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhà nước quân chủ được thành lập và từng bước phát triển đến đỉnh cao ở thế kỉ XV trên một lãnh thổ thống nhất. Sau khi đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vương, bắt tay xây dựng chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội). Năm 944, Ngô Quyền mất. Nhà Ngô suy vong, loạn 12 sứ quân diễn ra, đất nước bị chia cắt. Từ Hoa Lư (Ninh Bình), Đinh Bộ Lĩnh đem quân đẹp yên nội loạn, thống nhất lại đất nước. Sử cũ ghi: Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), ""đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh đô về động Hoa Lư... đắp thành, đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế"".(Đại Việt sử kí toàn thư) Nhà Đinh và tiếp sau đó là nhà Tiền Lê đã xây dựng nên một nhà nước quân chủ sơ khai gồm 3 ban: Văn ban, Võ ban và Tăng ban, chia nước thành 10 đạo, tổ chức quân đội theo hướng chính quy." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Thời Trần, nhà nước có bộ Hình luật. Thời Lê, một bộ luật đầy đủ được ban hành với tên gọi Quốc triều hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức, gồm hơn 700 điều, quy định khá đầy đủ các tội danh và hình phạt liên quan đến hầu hết các hoạt động xã hội, bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước. Một số điều trong bộ luật: Khi xa giá vua đi qua mà xông vào hàng người đó theo thì xử tội đồ, nếu xông vào đội cận vệ thì xử chém. Lầm lỡ thì giảm một bậc. Bán ruộng đất ở biên cương cho người ngoại quốc thì xử chém. Đào trộm để đập làm thiệt hại nhà cửa, lúa má thì xử đồ, lưu, bắt đền tổn hại. quân đội sớm được tổ chức quy củ, gồm hai bộ phận: quân bảo vệ nhà vua và kinh thành (cấm quân) và quân chính quy, bảo vệ đất nước (ngoại binh hay lộ binh), được tuyển theo chế độ ""ngụ binh ư nông"". quân đội được trang bị vũ khí đầy đủ; thời Hồ, thời Lê đã có một vài loại súng. Thời Trần, khi có chiến tranh, nhà nước cho phép các vương hầu được mộ quán tham gia đánh giặc. Nhân dân các làng cũng được phép tổ chức dân binh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Thời Trần, nhà nước có bộ Hình luật. Thời Lê, một bộ luật đầy đủ được ban hành với tên gọi Quốc triều hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức, gồm hơn 700 điều, quy định khá đầy đủ các tội danh và hình phạt liên quan đến hầu hết các hoạt động xã hội, bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước. Một số điều trong bộ luật: Khi xa giá vua đi qua mà xông vào hàng người đi theo thì xử tội đồ, nếu xông vào đội cận vệ thì xử chém. Lầm lỡ thì giảm một bậc. Bán ruộng đất ở biên cương cho người ngoại quốc thì xử chém. Đào trộm để đập làm thiệt hại nhà cửa, lúa má thì xử đồ, lưu, bắt đền tổn hại. quân đội sớm được tổ chức quy củ, gồm hai bộ phận: quân bảo vệ nhà vua và kinh thành (cấm quân) và quân chính quy, bảo vệ đất nước (ngoại binh hay lộ binh), được tuyển theo chế độ ""ngụ binh ư nông"". quân đội được trang bị vũ khí đầy đủ; thời Hồ, thời Lê đã có một vài loại súng. Thời Trần, khi có chiến tranh, nhà nước cho phép các vương hầu được mộ quán tham gia đánh giặc. Nhân dân các làng cũng được phép tổ chức dân binh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Thời Trần, nhà nước có bộ Hình luật. Thời Lê, một bộ luật đầy đủ được ban hành với tên gọi Quốc triều hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức, gồm hơn 700 điều, quy định khá đầy đủ các tội danh và hình phạt liên quan đến hầu hết các hoạt động xã hội, bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước. Một số điều trong bộ luật: Khi xa giá vua đi qua mà xông vào hàng người đi theo thì xử tội đồ, nếu xông vào đội cận vệ thì xử chém. Lầm lỡ thì giảm một bậc. Bán ruộng đất ở biên cương cho người ngoại quốc thì xử chém. Đào trộm để đập làm thiệt hại nhà cửa, lúa má thì xử đồ, lưu, bắt đền tổn hại. quân đội sớm được tổ chức quy củ, gồm hai bộ phận: quân bảo vệ nhà vua và kinh thành (cấm quân) và quân chính quy, bảo vệ đất nước (ngoại binh hay lộ binh), được tuyển theo chế độ ""ngụ binh ư nông"". quân đội được trang bị vũ khí đầy đủ; thời Hồ, thời Lê đã có một vài loại súng. Thời Trần, khi có chiến tranh, nhà nước cho phép các vương hầu được mộ quân tham gia đánh giặc. Nhân dân các làng cũng được phép tổ chức dân binh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Vấn để bảo vệ an ninh đất nước được các triều đại đương thời rất coi trọng. Nhân dân tuy phải làm đầy đủ nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế, chăm lo bảo vệ đê điều nhưng được nhà nước coi trọng và quan tâm đến đời sống. Các triều đại phong kiến đều có chính sách đoàn kết với các dân tộc ít người, nhất là với các tù trưởng ở vùng biên giới. Những lúc có ngoại xâm, nhà nước đều huy động hoặc khuyến khích họ tham gia kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tuy nhiên, nhà nước phong kiến cũng rất nghiêm khắc đối với những tù trưởng dân tộc ít người có hành động phản loạn hoặc muốn tách ra khỏi cộng đồng. Trong quan hệ đối ngoại, chủ yếu đối với các triều đại phương Bắc, các triều đại phong kiến Đại Việt thực hiện đầy đủ lệ triều cống nhưng luôn giữ vững tư thế của một quốc gia độc lập, tự chủ. Khi bị xâm lược, nhà nước và nhân dân sẵn sàng chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, nhưng khi chiến tranh kết thúc, quan hệ hoà hiếu lại được thiết lập trên tinh thần mỗi bên ""đều chủ một phương"". Đối với các nước láng giềng ở phía tây và phía nam như Lan Xang, Cham-pa, Chân Lạp, nhà nước Đại Việt luôn giữ quan hệ thân thiện, mặc dù đôi lúc xảy ra chiến tranh. Trong các thế kỉ X - XV, quốc gia Cham-pa không còn ổn định như trước. Các vương triều thay thế nhau, tiếp tục duy trì quyền thống trị nhưng có lúc chịu sự khống chế của Chân Lạp hoặc có lúc đem quân đánh lên Đại Việt. Cuối thế kỉ XV, nhà nước Cham-pa suy sụp." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Rạng sáng 1 - 9 -1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, quân Đức áp dụng chiến lược ""Chiến tranh chớp nhoáng"" và chiếm được Ba Lan sau gần 1 tháng. Trong khi đó, liên quân Anh - Pháp dàn trận ở biên giới phía tây nước Đức, nhưng không tấn công Đức và không có hành động quân sự nào chi viện cho Ba Lan. Tháng 4 -1940, quân Đức chuyển hướng tấn công từ phía đông sang phía tây, chiếm hầu hết các nước tư bản Châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và đánh thẳng vào nước Pháp. Ngày 10 - 6 -1940, Chính phủ Pháp rời Pa-ri chạy về Tua. Quân Đức tràn vào nước Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu và phải kí Hiệp định đình chiến ngày 22 - 6 -1940. Theo đó, Đức chiếm đóng 3/4 lãnh thổ Pháp (bao gồm cả Thủ đô Pa-ri). Tại vùng phía nam nước Pháp không bị chiếm đóng, Chính phủ Pháp, do Pê-tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức. Tháng 7 -1940, quân Đức thực hiện kế hoạch tiến đánh nước Anh. Tuy nhiên, do ưu thệ về không quân và hải quân của Anh, đồng thời do sự viên trợ của Mĩ dành cho Anh bắt đầu từ tháng 9 -1940, kế hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Rạng sáng 1 - 9 -1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, quân Đức áp dụng chiến lược ""Chiến tranh chớp nhoáng"" và chiếm được Ba Lan sau gần 1 tháng. Trong khi đó, liên quân Anh - Pháp dàn trận ở biên giới phía tây nước Đức, nhưng không tấn công Đức và không có hành động quân sự nào chi viện cho Ba Lan. Tháng 4 -1940, quân Đức chuyển hướng tấn công từ phía đông sang phía tây, chiếm hầu hết các nước tư bản Châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và đánh thẳng vào nước Pháp. Ngày 10 - 6 -1940, Chính phủ Pháp rời Pa-ri chạy về Tua. Quân Đức tràn vào nước Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu và phải kí Hiệp định đình chiến ngày 22 - 6 -1940. Theo đó, Đức chiếm đóng 3/4 lãnh thổ Pháp (bao gồm cả Thủ đô Pa-ri). Tại vùng phía nam nước Pháp không bị chiếm đóng, Chính phủ Pháp, do Pê-tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức. Tháng 7 -1940, quân Đức thực hiện kế hoạch tiến đánh nước Anh. Tuy nhiên, do ưu thệ về không quân và hải quân của Anh, đồng thời do sự viên trợ của Mĩ dành cho Anh bắt đầu từ tháng 9 -1940, kế hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Rạng sáng 1 - 9 -1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, quân Đức áp dụng chiến lược ""Chiến tranh chớp nhoáng"""" và chiếm được Ba Lan sau gần 1 tháng. Trong khi đó, liên quân Anh - Pháp dàn trận ở biên giới phía tây nước Đức, nhưng không tấn công Đức và không có hành động quân sự nào chi viện cho Ba Lan. Tháng 4 -1940, quân Đức chuyển hướng tấn công từ phía đông sang phía tây, chiếm hầu hết các nước tư bản Châu Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và đánh thẳng vào nước Pháp. Ngày 10 - 6 -1940, Chính phủ Pháp rời Pa-ri chạy về Tua. Quân Đức tràn vào nước Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu và phải kí Hiệp định đình chiến ngày 22 - 6 -1940. Theo đó, Đức chiếm đóng 3/4 lãnh thổ Pháp (bao gồm cả Thủ đô Pa-ri). Tại vùng phía nam nước Pháp không bị chiếm đóng, Chính phủ Pháp, do Pê-tanh làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức. Tháng 7 -1940, quân Đức thực hiện kế hoạch tiến đánh nước Anh. Tuy nhiên, do ưu thệ về không quân và hải quân của Anh, đồng thời do sự viên trợ của Mĩ dành cho Anh bắt đầu từ tháng 9 -1940, kế hoạch đổ bộ lên nước Anh của Đức không thực hiện được." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Tháng 9 - 1940, nhằm củng cố khối liên minh phát xít, Hiệp ước Tam cường Đức - I-ta-li-a - Nhật Bản được kí kết tại Béc-lin. Hiệp ước quy đinh, nếu một trong ba nước bị đối phương tấn công thì hai nước kia phải lập tức trợ giúp nước đó về mọi mặt; công khai về việc phân chia thế giới: Đức, I-ta-li-a ở Châu Âu, Nhật Bản ở Viễn Đông. Từ tháng 10 -1940, Hít-le chuyển sang thôn tính các nước Đông và Nam Châu Âu. Các nước Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri trở thành chư hầu của Đức và bị quân Đức chiếm đóng. Bằng vũ lực, quân Đức thôn tính Nam Tư và Hi Lạp. Đến mùa hè năm 1941, phe phát xít đã thống trị phần lớn Châu Âu. Phát xít Đức đã chuẩn bị xong mọi điều kiện cần thiết để tấn công Liên Xô. Rạng sáng 22 - 6 -1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ba đạo quân Đức gồm 5,5 triệu người đồng loạt tấn công trên suốt dọc tuyến biên giới phía tây Liên Xô. Trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh, nhờ ưu thế về vũ khí và kinh nghiệm tác chiến, quân Đức tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Đạo quân phía bắc bao vây Lê-nin-grát (tức Xanh Pê-téc-bu) đạo quân trung tâm tiến tới ngoại vi Thủ đô Mát-xcơ-va, đạo quân phía nam chiếm Ki-ép và phần lớn U-crai-na. quân đội và nhân dân Liên Xô kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tháng 12 -1941, Hồng quân Liên Xô do tướng Giu-cốp chỉ huy đã phản công quyết liệt, đẩy lùi quân Đức ra khỏi cửa ngõ Thủ đô. Chiến thắng Mát-xcơ-va đã làm phá sản chiến lược ""chiến tranh chớp nhoáng""" 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Ngay từ tháng 12 -1940, Hít-le đã thông qua kế hoạch tấn công Liên Xô với chiến lược ""chiến tranh chớp nhoáng"""", đánh nhanh thắng nhanh, tận dụng ưu thế về trang thiết bị kĩ thuật và yếu tố bất ngờ. Sau thất bại ở Mát-xcơ-va, quân Đức chuyển mũi nhọn tấn công xuống phía nam nhằm chiếm vùng lương thực và dầu mỏ quan trọng nhất của Liên Xô. Mục tiêu chủ yếu của quân Đức là nhằm đánh chiếm Xta-lin-grát (nay là Von-ga-grát), thành phố được mênh danh là ""nút sống của Liên Xô"" .cuộc chiến đấu kéo dài hơn 2 tháng, nhưng quân Đức không thể chiếm được thành phố này. ở Mặt trận Bắc Phi, ngay từ tháng 9 -1940 quân đội I-ta-li-a đã tấn công Ai Cập. cuộc chiến ở đây diễn ra trong thế giằng co, không phân thắng bại giữa liên quân Đức - I-ta-li-a với liên quân Anh - Mĩ. Tháng 10 -1942, liên quân Anh - Mĩ giành thắng lợi trong trận En A-la-men (Ai Cập), giành lại ưu thế ở Bắc Phi và chuyển sang phản công trên toàn mặt trận. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Trong khi chiến tranh thế giới diễn ra ở Châu Âu thì ở Châu Á, Nhật Bản đã ráo riêt chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến. Tháng 9 -1940, khi quân Nhật kéo vào Đông Dương, Mĩ đã kiên quyết phản đối hành động này của Nhật. Quan hệ Nhật - Mĩ ngày càng căng thẳng, khiến Nhật Bản quyết định tiến hành chiến tranh với Mĩ. Ngày 7 -12 -1941, quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu cảng - căn cứ hải quân chủ yếu của Mĩ ở Thái Bình Dương. Hạm đội Mĩ bị thiệt, hại nặng nề. Mĩ tuyên chiến với Nhật Bản và sau đó là với Đức và I-ta-li-a. Chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới. Sau trận tập kích thắng lợi vào Trân Châu cảng, Nhật Bản mở một loạt cuộc tấn công vào các nước ở Đông Nam Á và bành trướng ở khu vực Thái Bình Dương. Chỉ trong vòng 6 tháng (từ tháng 12 -1941 đến tháng 5 -1942), quân Nhật đã chiếm được một vùng rộng lớn, bao gồm Thái Lan, Mã Lai, Xin-ga-po, Phi-líp-pin, Miến Điện, In-đô-nê-xi-a và nhiều đảo ở Thái Bình Dương. Đến năm 1942, quân phiệt Nhật đã thống trị khoảng 8 triệu km2 đất đai với 500 triệu dân ở Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Hành động xâm lược của phe phát xít đã thúc đẩy các quốc gia trên thế giới cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống phát xít. Đồng thời, việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. Các chính phủ Anh, Mĩ đã phải dần dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, khôi phục chủ quyền của các dân tộc bị phát xít nô dịch. Khối Đồng minh chống phát xít được hình thành. Ngày 1 -1 -1942, tại Oa-sinh-tơn, 26 quốc gia (đứng đầu là ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh) đã ra một bản tuyên bố chung gọi là Tuyên ngôn Liên hợp quốc. Các nước tham gia Tuyên ngôn cam kết cùng nhau tiến hành cuộc chiến đấu chống phát xít với toàn bộ lực lượng của mình." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"ở Mặt trận Xô - Đức, trận phản công tại Xta-lin-grát (từ tháng ll -1942 đến tháng 2 -1943) của quân đội Liên Xô đã tạo nên bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới. Trong trận đánh vĩ đại này, Hồng quân Liên Xô đã tấn công, bao vây, chia cắt để tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gỗm 33 vạn người do Thống chế Phôn Pao-lút chỉ huy. Bắt đầu từ đây, Liên Xô và pheĐồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên các mặt trận. Tiếp đó, Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy cuộc phản công của quân Đức tại vòng cung Cuốc-xcơ (từ ngày 5 - 7 đến ngày 23 - 8 - 1943), đánh tan 30 sư đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn quân của chúng. Hồng quân liên tục tấn công, cho đến tháng 6 -1944 đã giải phóng phần lớn lãnh thổ Liên Xô. ở Mặt trận Bắc Phi, quân Anh (từ phía đông) và quân Mĩ (từ phía tây) phối hợp phản công (từ tháng 3 đến tháng 5 -1943), quét sạch liên quân Đức - I-ta-li-a khỏi lục địa Châu Phi. ở I-ta-li-a, quânĐồng minh đổ bộ đánh chiếm đảo Xi-xi-li-a (7 - 1943). Tại Rô-ma, Mút-xô-li-ni bị tống giam, chính phủ mới được thành lập, đầu hàngĐồng minh. Phát xít I-ta-li-a sụp đổ. Nhưng quân Đức đã đối phó kịch liệt, giải thoát cho Mút-xô-li-ni và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc I-ta-li-a. Hơn 30 sư đoàn quân Đức được điều sang I-ta-li-a, chống cự kéo dài hơn 2 năm, mãi tới tháng 5 -1945 mới chịu khuất phục. ở Thái Bình Dương, việc quân đội Mĩ đánh bại quân Nhật trong trận Gu-a-đan-ca-nan (từ tháng 8 -1942 đến tháng 1 -1943) đã tạo ra bước ngoặt trên toàn mặt trận này. Mĩ chuyển sang phản công và lần lượt đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Đầu năm 1944, cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô diễn ra với 10 chiến dịch lớn nối tiếp nhau trên toàn mặt trận nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ nước mình. Tiếp đó, Liên Xô tiến quân vào giải phóng các nước ở Đông Âu. Cuộc tổng tấn công đại thắng đã đưa Hồng quân tiến sát biên giới nước Đức. Mùa hè năm 1944, Mĩ - Anh và quânĐồng minh mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu bằng cuộc đổ bộ tại Noóc-măng-đi (miền Bắc Pháp). Phong trào khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Pháp nổi lên khắp nơi, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, làm chủ Pa-ri. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Pháp được thành lập. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít. Tiếp sau, quânĐồng minh tiến vào giải phóng các nước Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và chuẩn bị tấn công nước Đức. Từ tháng 1 -1945, Hồng quân Liên Xô cũng bắt đầu cuộc tấn công nước Đức ở Mặt trận phía Đông. Trước khi kết thúc chiến tranh với Đức, Hội nghị giữa nguyên thủ của ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh được tổ chức tại I-an-ta (Liên Xô) tháng 2 -1945. Hội nghị đã phân chia khu vực chiếm đóng nước Đức và Châu Âu, đề ra đường lối tổ chức lại thế giới sau chiến tranh... Liên Xô cam kết sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật sau khi nước Đức đầu hàng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Cuộc tấn công quân Đức ở Mặt trận phía Tây của quânĐồng minh bắt đầu từ tháng 2 - 1945. Hồng quân Liên Xô bắt đầu mở cuộc tấn công Béc-lin từ giữa tháng 4 -1945 và đập tan sự kháng cự của hơn 1 triệu quân Đức. quân đội Anh, Mĩ đã gặp Hồng quân Liên Xô ở Toóc-gâu (bên bờ sông En-bơ). Ngày 30 - 4, lá cờ đỏ búa liềm của Liên Xô được cắm trên nóc toà nhà Quốc tham gia chiến tranh chống Nhật Đức. Hít-le tự sát dưới hầm chỉ huy. Ngày 9 - 5 - 1945, nước Đức kí văn bản đầu hàng không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở Châu Âu. ở Mặt trận Thái Bình Dương, từ năm 1944, liên quân Mĩ - Anh đã triển khai các cuộc tấn công đánh chiếm Miến Điện và quần đảo Phi-líp-pin. Quân Mĩ tăng cường uy hiếp, đánh phá các thành phố lớn của Nhật Bản bằng không quân. Cuối tháng 7 _ 1945, nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh họp tại Pốt-xđam để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh ở Châu Âu và việc tiêu diệt hoàn toàn phát xít Nhật. Ngày 6 - 8 - 1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hi-rô-si-ma làm 8 vạn người chết. Ngày 8 - 8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và tấn công đạo quân Quan Đông gồm 70 vạn quân Nhật ở Mãn Châu. Ngày 9 - 8, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử thứ hai huỷ diệt thành phố Na-ga-xa-ki, giết hại 2 vạn người. Ngày 15 - 8, Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Cuộc tấn công quân Đức ở Mặt trận phía Tây của quânĐồng minh bắt đầu từ tháng 2 - 1945. Hồng quân Liên Xô bắt đầu mở cuộc tấn công Béc-lin từ giữa tháng 4 -1945 và đập tan sự kháng cự của hơn 1 triệu quân Đức. quân đội Anh, Mĩ đã gặp Hồng quân Liên Xô ở Toóc-gâu (bên bờ sông En-bơ). Ngày 30 - 4, lá cờ đỏ búa liềm của Liên Xô được cắm trên nóc toà nhà Quốc hội Đức. Hít-le tự sát dưới hầm chỉ huy. Ngày 9 - 5 - 1945, nước Đức kí văn bản đầu hàng không điều kiện, chiến tranh chấm dứt ở Châu Âu. ở Mặt trận Thái Bình Dương, từ năm 1944, liên quân Mĩ - Anh đã triển khai các cuộc tấn công đánh chiếm Miến Điện và quần đảo Phi-líp-pin. Quân Mĩ tăng cường uy hiếp, đánh phá các thành phố lớn của Nhật Bản bằng không quân. Cuối tháng 7 _ 1945, nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh họp tại Pốt-xđam để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh ở Châu Âu và việc tiêu diệt hoàn toàn phát xít Nhật.  Ngày 6 - 8 - 1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hi-rô-si-ma làm 8 vạn người chết. Ngày 8 - 8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và tấn công đạo quân Quan Đông gồm 70 vạn quân Nhật ở Mãn Châu. Ngày 9 - 8, Mĩ ném tiếp quả bom nguyên tử thứ hai huỷ diệt thành phố Na-ga-xa-ki, giết hại 2 vạn người. Ngày 15 - 8, Nhật Bản chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự sụp đổ hoàn toàn của các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản. Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Trong cuộc chiến đấu ấy, ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Hậu quả của chiến tranh là vô cùng nặng nề đối với nhân loại. Hơn 70 quốc gia với 1 700 triệu người đã bị lôi cuốn vào vòng chiến, khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế. Nhiều thành phố, làng mạc và nhiều cơ sở kinh tế bị tàn phá. Chiến tranh kết thúc đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong tình hình thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Vào nửa cuối những năm 30 của thế kỉ XX, trước những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, Đảng Cộng sản Đông dương thay đổi chủ trương, chuyển sang hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp với mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Trong những năm 1936 - 1939, tình hình thế giới có nhiều sự kiên tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, bọn phát xít cầm quyền ở một số nước như Đức, Italia, Nhật Bản ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới. Tháng 7 - 1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva (Liên Xô). Đại hội đã quyết nghị nhiều vấn đề trọng đại, như xác định kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là chống chủ nghĩa phát xít nhằm mục tiêu đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông dương, do Lê Hồng Phong dẫn đầu, tham dự Đại hội. Tháng 6 - 1936, Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa. ở Đông dương, Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình, thay Toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật bầu cử vào Viện dân biểu, ân xá một số từ chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí v.v... Lúc này ở Việt Nam, nhiều đảng phái chính trị ra hoạt động, trong đó có đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động v.v... Các đảng tận dụng cơ hội, đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy nhiên, chỉ có Đảng Cộng sản Đông dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có chủ trương rõ ràng. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Tháng 7 - 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương, do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc. Hội nghị dựa trên Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể Việt Nam đề định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội nghị xác định: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông dương. Đảng Cộng sản Đông dương kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng và nhân dân Đông dương hành động, đấu tranh cho dân chủ. Phong trào quần chúng lan rộng trong cả nước. Sau hội nghị này, Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Đông dương. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 bổ sung và phát triển nội dung cơ bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 - 1936. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3 - 1938, Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông dương đổi thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông dương." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.," Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản ""dân nguyện đề gửi tới phái đoàn, tiên tới triệu tập Đông dương Đại hội vào tháng 8 - 1936. Đảng cũng kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng cùng tham gia. Khởi đầu ở Nam Kì, đến cuối tháng 9 - 1936 đỡ có hơn 600 uỷ ban hành động được thành lập. Phong trào mạnh nhất ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa... Uỷ ban hành động phán phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp quần chúng, thảo luận những yêu cầu về dân chủ, dân sinh... Ở Bắc Kì, trong tháng 9, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Hà Nam... Ở Trung Kì, ngày 12 - 9 - 1936, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động được thành lập ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng... Trước sự lan rộng của phong trào, bọn phản động thuộc địa đàn áp và chia rẽ quần chúng. Ngày 15 - 9 - 1936, chúng ra lệnh giải tán Uỷ ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đông dương Đại hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản ""dân nguyện đề gửi tới phái đoàn, tiên tới triệu tập Đông dương Đại hội vào tháng 8 - 1936. Đảng cũng kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng cùng tham gia. Khởi đầu ở Nam Kì, đến cuối tháng 9 - 1936 đỡ có hơn 600 uỷ ban hành động được thành lập. Phong trào mạnh nhất ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa... Uỷ ban hành động phán phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp quần chúng, thảo luận những yêu cầu về dân chủ, dân sinh... Ở Bắc Kì, trong tháng 9, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Hà Nam... Ở Trung Kì, ngày 12 - 9 - 1936, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động được thành lập ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng... Trước sự lan rộng của phong trào, bọn phản động thuộc địa đàn áp và chia rẽ quần chúng. Ngày 15 - 9 - 1936, chúng ra lệnh giải tán Uỷ ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đông dương Đại hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Mặc dù phái đoàn của Quốc hội Pháp không sang, phong trào Đông dương Đại hội bị cấm hoạt động, song đông đảo quần chúng đã được thức tỉnh, đđoàn kết đấu tranh đòi quyền sống; Đảng Cộng sản Đông dương thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp. Chính quyền thực dân đã phải giải quyết một phần yêu sách của nhân dân như nới rộng quyền xuất bản báo chí, tự do đi lại, thả một số từ chính trị... Song song với cuộc vận động Đông dương Đại hội và sau khi phong trào bị cấm, các tầng lớp nhân dân trong cả nước tiên hành nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền lợi. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh, trong đó có 236 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công ngày 23 - 11 của công nhân Hòn Gai, Cẩm Phả, Mông dương... đòi tăng lương 25% . Năm 1937 có 400 cuộc bãi công của công nhân. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân xe lửa Nam Đông dương ngày 9 - 7 - 1937 và mỏ than Vàng Danh ngày 28 - 9 - 1937. 15 cuộc đấu tranh của nông dân đòi giảm tô, giảm tức... Tiểu thương ở Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố và thị xã khác bãi thị, đòi giảm thuế chợ, thuế hàng. Trong tháng 1 và tháng 2 - 1937 còn có những cuộc mít tinh và biểu tình lớn của nhân dân cả nước nhằm biểu dương lực lượng khi G. Gôđa - phái viên của Chính phủ Pháp - sang điều tra tình hình Đông dương và Brêviê sang nhậm chức Toàn quyền Đông dương. Trong tháng 3 và tháng 7, Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương họp đề bàn về công tác quần chúng. Đảng quyết định lập Công hội thay Công hội đỏ, Đoàn Thanh niên phản đế thay Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Cứu tế bình dân thay Hội Cứu tế đỏ v.v... Ở nông thôn, lập Hội cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ v.v... Những hình thức tổ chức linh hoạt, hoạt động công khai, nửa công khai, đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Năm 1938 có 131 cuộc bãi công của công nhân. Tuy số lượng cuộc đấu tranh giảm so với năm trước, nhưng chất lượng cao hơn biểu hiên ở trình độ giác ngộ của quần chúng, khẩu hiệu đấu tranh, sự phối hợp đấu tranh giữa các địa phương. Cuối năm 1938 ở Nam Kì xảy ra nạn đói. Nông dân nhiều nơi biểu tình. Điển hình là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau (10 - 1938). Phong trào đấu tranh của tiểu thương, học sinh dâng cao. Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1 - 5 - 1938. Lần đầu tiên, trong ngày Quốc tế Lao động, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Năm 1939, phong trào tập trung ở những trung tâm công nghiệp Lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn... Nguyễn Ái Quốc nhộn xét: ""So với trước thỉ các cuộc bãi công năm 1939 có tổ chức và có kỉ luật hơn. Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách cụ thể hơn: đòi tăng lương, ngày làm 8 giò, bảo hiểm xã hội, công nhộn các đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bân. hầu hết các cuộc bãi công đều được sự ủng hộ tinh thổn và vật chất của công nhân các ngành khác, của nông dân và tiểu thương, đôi khi ngay cả từ chính trị cũng đóng góp vào các cuộc lạc quyên ủng hộ.""" 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Năm 1938 có 131 cuộc bãi công của công nhân. Tuy số lượng cuộc đấu tranh giảm so với năm trước, nhưng chất lượng cao hơn biểu hiên ở trình độ giác ngộ của quần chúng, khẩu hiệu đấu tranh, sự phối hợp đấu tranh giữa các địa phương. Cuối năm 1938 ở Nam Kì xảy ra nạn đói. Nông dân nhiều nơi biểu tình. Điển hình là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau (10 - 1938). Phong trào đấu tranh của tiểu thương, học sinh dâng cao. Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1 - 5 - 1938. Lần đầu tiên, trong ngày Quốc tế Lao động, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Năm 1939, phong trào tập trung ở những trung tâm công nghiệp Lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn... Nguyễn Ái Quốc nhộn xét: ""So với trước thỉ các cuộc bãi công năm 1939 có tổ chức và có kỉ luật hơn. Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách cụ thể hơn: đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bảo hiểm xã hội, công nhộn các đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bân. hầu hết các cuộc bãi công đều được sự ủng hộ tinh thổn và vật chất của công nhân các ngành khác, của nông dân và tiểu thương, đôi khi ngay cả từ chính trị cũng đóng góp vào các cuộc lạc quyên ủng hộ.""" 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.," Đấu tranh nghị trường Đấu tranh ở nghị trường là một lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng Cộng sản Đông dương. Trong các cuộc tuyển cử vào các cơ quan lập pháp, Mặt trận Dân chủ, trong đó Đảng Cộng sản là thành viên tích cực, đã đưa người ra ứng cử với chương trình hành động, như mở rộng quyền tự do, dân chủ, bỏ thuế môn bài, thuế chợ, thuế đò, bỏ thuốc phiên, bỏ độc quyền rượu, mở mang y tế, cứu tế thất nghiệp v.v... Trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì tháng 8 - 1937, Đảng vận động những người tiến bộ trong hàng ngũ trí thức ra ứng cử. Đảng sử dụng báo chí đề tuyến truyền và vận động cử tri bỏ phiếu cho những ứng cử viên này. Kết quả là hầu hết các ứng cử viên do Đảng vận động ra ứng cử đã trúng cử. Trong kì họp của Viện Dân biểu tháng 9 - 1938, các nghị viên đã bác bỏ dự án thuế quân và thuế điền thổ của chính phủ thuộc địa. Năm 1938, trong cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kì, 15 ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ đã trúng cử. Mặt trận Dân chủ còn giành thắng lợi trong Hội đồng Kinh tế lí tài Đông dương - cơ quan ""dân cử cao nhất ở Đông dương. Năm 1939, diễn ra cuộc tuyển cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kì. Trong cuộc tuyển cử này, Mặt trận Dân chủ bị thất bại do những thủ đoạn thâm độc của bọn phản động thuộc địa, do nội bộ Mặt trận không thống nhất ý kiến. Đảng Cộng sản Đông dương chủ trương tham gia đấu tranh công khai trên nghị trường nhằm mục đích mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.," Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí Đảng Cộng sản Đông dương triệt đề sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh cách mạng; tuyến truyền đường lối, quan điểm của Đảng, tập hợp, hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng. Đấy cũng là lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng. Những người cộng sản tìm mọi cách xuất bản báo. Từ năm 1937, báo chí công khai của Đảng phát triển nhanh chóng. Bắc Kì là nơi báo Đàng phát triển mạnh nhất. Các tờ báo tiếng Việt là Hổn trẻ, Tân xã hôi, Thời báo, Thời thế, Tin túc, Đời nay, Phong hoá... Các tờ báo tiếng Pháp là Le Travail (Lao động), Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng t... Ở Trung Kì, các tờ báo tiêu biểu là Nhành lúa, Dân, Sông Hương tực bản, Kinh tế tân ván. Ở Nam Kì, các báo xuđt bàn bằng tiếng Việt là Phổ thông, Dân chúng, Lao động, M6i,,,, báo tiếng Pháp có các tờ La Lutte (Tranh đđu), Lavant garde (Tiền phong), Le Peuple (Nhân dân)... Các báo của Đảng tuyến truyền, giới thiệu về chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Đông dương, Liên Xô, Quốc tế Cộng sản, Mặt trận Nhân dân Pháp v.v... Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong những phong trào lớn và hoạt động của cuộc vận động dân chủ, dân sinh thời kì 1936 - 1939 như Đông dương Đại hội, ""đón Gôđa và Brêviê, những cuộc bầu cử và đấu tranh nghị trường v.v... Trong thời gian này, nhiều sách chính trị - lí luận được xuất bản công khai hoặc được đưa từ Pháp về. Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan; Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố; Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng; thơ cách mạng của Tố Hữu; kịch có tác phẩm Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Đời cô Lựu của Trần Hữu Trang. Cuối năm 1937, Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ nhằm giúp quần chúng lao động đọc được sách báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị. Cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực báo chí những năm 1936 - 1939 đã thu được kết quả to lớn, trước hết về văn hoá - tư tưởng. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng của Đảng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức dựổi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông dương. Phong trào dân chủ 1936 - 1939, bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị, đã tham gia mặt trận dân tộc thống nhất, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và ngày càng trưởng thành. Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông dương tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp. đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc... Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 - 1939 như một cuộc tập dượt, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này" 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV),"Vấn đề bảo vệ an ninh đất nước được các triều đại đương thời rất coi trọng. Nhân dân tuy phải làm đầy đủ nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế, chăm lo bảo vệ đề điều nhưng được nhà nước coi trọng và quan tâm đến đời sống. Các triều đại phong kiến đều có chính sách đoàn kết với các dân tộc ít người, nhất là với các từ trưởng ở vùng biên giới. Những lúc có ngoại xâm, nhà nước đều huy động hoặc khuyến khích họ tham gia kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Tuy nhiên, nhà nước phong kiến cũng rất nghiêm khắc đối với những từ trưởng dân tộc ít người có hành động phản loạn hoặc muốn tách ra khỏi cộng đồng. Trong quan hệ đối ngoại, chủ yếu đối với các triều đại phương Bắc, các triều đại phong kiến Đại Việt thực hiện đầy đủ lệ triều cống nhưng luôn giữ vững tư thế của một quốc gia độc lập, tự chủ. Khi bị xâm lược, nhà nước và nhân dân sẵn sàng chiến đấu đến cùng đề bảo vệ Tổ quốc, nhưng khi chiến tranh kết thức, quan hệ hoà hiếu lại được thiết lập trên tinh thần mỗi bên ""đều chủ một phương"". Đối với các nước láng giềng ở phía tây và phía nam như Lan Xang, Cham-pa, Chán Lạp, nhà nước Đại Việt luôn giữ quan hệ quân thiện, mặc dù đôi lúc xảy ra chiến tranh. Trong các thế kỉ X - XV, quốc gia Cham-pa không còn ổn định như trước. Các vương triều thay thế nhau, tiếp tục duy trì quyền thống trị nhưng có lúc chịu sự không chế của Chân Lạp hoặc có lúc đem quân đánh lên Đại Việt. Cuối thế kỉ XV, nhà nước Cham-pa suy sụp." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Trong những năm 30 của thế kỉ XX, các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành liên minh phát xít, còn được gọi là Trục Béc-lin - Rô-ma - Tô-ki-ô hay phe Trục. Khối này tăng cường các hoạt động quân sự và gậy chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Sau khi chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc (1931), từ năm 1937 Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Phát xít I-ta-li-a tiến hành xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935), cùng với Đức tham chiến ở tây Ban Nha nhằm hỗ trợ lực lượng phát xít Phran-cô đánh bại Chính phủ Cộng hoà (1936 - 1939). Sau khi xé bỏ Hoà ước Vécxai, nước Đức phát xít hướng tới mục tiêu thành lập một nước ""Đại Đức bao gồm tất cả các lãnh thổ7 có dân Đức sinh sống ở Châu Âu.  Trong bối cảnh đó, Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất nên đã chủ trương liên kết với các nước tư bản Anh, Pháp đề chống phát xít và nguy cơ chiến tranh. Liên Xô kiên quyết đứng về phía các nước Ê-ti-ô-pi-a, Cộng hoà tây Ban Nha và Trung Quốc chống xâm lược. Chính phủ các nước Anh, Pháp, Mĩ đều có chung một mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít, nhưng vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, giới cầm quyền các nước Anh, Pháp đã không liên kết chặt chẽ với Liên Xô đề cùng chống phát xít. Trái lại, họ thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít, hòng đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Với Đạo luật trung lập (8 -1935), giới cầm quyền Mĩ thực hiện chính sách không can thiệp vào các sự kiện xảy ra bên ngoài Châu Mĩ. Chính quyền các nước phát xít đã lợi dụng tình hình đó đề thực hiện mục tiêu gậy chiến tranh xâm lược." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Trong khi chiến tranh thế giới diễn ra ở Châu Âu thì ở Châu Á, Nhật Bản đã ráo riêt chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến. Tháng 9 -1940, khi quân Nhật kéo vào Đông dương, Mĩ đã kiên quyết phản đối hành động này của Nhật. Quan hệ Nhật - Mĩ ngày càng căng thẳng, khiên Nhật Bản quyết định tiên hành chiến tranh với Mĩ. Ngày 7 -12 -1941, quân Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu cảng - căn cứ hải quân chủ yếu của Mĩ ở Thái Bình dương. Hạm đội Mĩ bị thiệt, hại nặng nề. Mĩ tuyến chiến với Nhật Bản và sau đó là với Đức và I-ta-li-a. Chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới. Sau trận tập kích thắng lợi vào Trân Châu cảng, Nhật Bản mở một loạt cuộc tấn công vào các nước ở Đông Nam Á và bành trướng ở khu vực Thái Bình dương. Chỉ trong vòng 6 tháng (từ tháng 12 -1941 đến tháng 5 -1942), quân Nhật đã chiếm được một vùng rộng lớn, bao gồm Thái Lan, Mã Lai, Xin-ga-po, Phi-líp-pin, Miến Điện, In-đô-nê-xi-a và nhiều đảo ở Thái Bình dương. Đến năm 1942, quân phiệt Nhật đã thống trị khoảng 8 triệu km2 đất đai với 500 triệu dân ở Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình dương. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Hành động xâm lược của phe phát xít đã thức đẩy các quốc gia trên thế giới cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống phát xít. đồng thời, việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản cục diện chính trị và quân sự của cuộc chiến. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. Các chính phủ Anh, Mĩ đã phải dần dần thay đổi thái độ, bắt tay với Liên Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, khôi phục chủ quyền của các dân tộc bị phát xít nô dịch. Khối Đồng minh chống phát xít được hình thành. Ngày 1 -1 -1942, tại Oa-sinh-tơn, 26 quốc gia (đứng đầu là ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh) đã ra một bản tuyến bốchung gọi là tuyến ngôn Liên hợp quốc. Các nước tham gia tuyến ngôn cam kết cùng nhau tiến hành cuộc chiến đấu chống phát xít với toàn bộ lực lượng của mình." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"ở Mặt trận Xô - Đức, trận phản công tại Xta-lin-grát (từ tháng ll -1942 đến tháng 2 -1943) của quân đội Liên Xô đã tạo nên bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới. Trong trận đánh vĩ đại này, Hồng quân Liên Xô đã tấn công, bao vây, chia cắt đề tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đội quân tinh nhuệ của Đức gồm 33 vạn người do Thống chế Phôn Pao-lút chỉ huy. Bắt đầu từ đấy, Liên Xô và phe đồng minh chuyển sang tấn công đồng loạt trên các mặt trận. Tiếp đó, Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy cuộc phản công của quân Đức tại vòng cung Cuốc-xcơ (từ ngày 5 - 7 đến ngày 23 - 8 - 1943), đánh tan 30 sư đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn quân của chúng. Hồng quân liên tực tấn công, cho đến tháng 6 -1944 đã giải phóng phần lớn lãnh thổ Liên Xô. ở Mặt trận Bắc Phi, quân Anh (từ phía đông) và quân Mĩ (từ phía tây) phối hợp phản công (từ tháng 3 đến tháng 5 -1943), quét sạch liên quân Đức - I-ta-li-a khỏi lực địa Châu Phi. ở I-ta-li-a, quân đồng minh đổ bộ đánh chiếm đảo Xi-xi-li-a (7 - 1943). Tại Rô-ma, Mút-xô-li-ni bị tống giam, chính phủ mới được thành lập, đầu hàng đồng minh. Phát xít I-ta-li-a sụp đổ. Nhưng quân Đức đã đối phó kịch liệt, giải thoát cho Mút-xô-li-ni và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc I-ta-li-a. Hơn 30 sư đoàn quân Đức được điều sang I-ta-li-a, chống cự kéo dài hơn 2 năm, mãi tới tháng 5 -1945 mới chịu khuất phục. ở Thái Bình dương, việc quân đội Mĩ đánh bại quân Nhật trong trận Gu-a-đan-ca-nan (từ tháng 8 -1942 đến tháng 1 -1943) đã tạo ra bước ngoặt trên toàn mặt trận này. Mĩ chuyển sang phản công và lần lượt đánh chiếm các đảo ở Thái Bình dương." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Đầu năm 1944, cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô diễn ra với 10 chiến dịch lớn nối tiếp nhau trên toàn mặt trận nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ nước mình. Tiếp đó, Liên Xô tiến quân vào giải phóng các nước ở Đông Âu. Cuộc tổng tấn công đại thắng đã đưa Hồng quân tiến sát biên giới nước Đức. Mùa hè năm 1944, Mĩ - Anh và quân đồng minh mở Mặt trận thứ hai ở tây Âu bằng cuộc đổ bộ tại Noóc-măng-đi (miền Bắc Pháp). Phong trào khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Pháp nổi lên khắp nơi, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, làm chủ Pa-ri. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Pháp được thành lập. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít. Tiếp sau, quân đồng minh tiến vào giải phóng các nước Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua và chuẩn bị tấn công nước Đức. Từ tháng 1 -1945, Hồng quân Liên Xô cũng bắt đầu cuộc tấn công nước Đức ở Mặt trận phía Đông. Trước khi kết thức chiến tranh với Đức, Hội nghị giữa nguyên thủ của ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh được tổ chức tại I-an-ta (Liên Xô) tháng 2 -1945. Hội nghị đã phán chia khu vực chiếm đóng nước Đức và Châu Âu, đề ra đường lối tổ7 chức lại thế giới sau chiến tranh... Liên Xô cam kết sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật sau khi nước Đức đầu hàng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945),"Trong những năm 30 của thế kỉ XX, các nước phát xít Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản đã liên kết với nhau thành liên minh phát xít, còn được gọi là Trục Béc-lin - Rô-ma - Tô-ki-ô hay phe Trục. Khối này tăng cường các hoạt động quân sự và gây chiến tranh xâm lược ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Sau khi chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc (1931), từ năm 1937 Nhật Bản mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Phát xít I-ta-li-a tiến hành xâm lược Ê-ti-ô-pi-a (1935), cùng với Đức tham chiến ở Tây Ban Nha nhằm hỗ trợ lực lượng phát xít Phran-cô đánh bại Chính phủ Cộng hoà (1936 - 1939). Sau khi xé bỏ Hoà ước Vécxai, nước Đức phát xít hướng tới mục tiêu thành lập một nước ""Đại Đức"" bao gồm tất cả các lãnh thổ7 có dân Đức sinh sống ở Châu Âu. Trong bối cảnh đó, Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất nên đã chủ trương liên kết với các nước tư bản Anh, Pháp để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh. Liên Xô kiên quyết đứng về phía các nước Ê-ti-ô-pi-a, Cộng hoà Tây Ban Nha và Trung Quốc chống xâm lược. Chính phủ các nước Anh, Pháp, Mĩ đều có chung một mục đích là giữ nguyên trật tự thế giới có lợi cho mình. Họ lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít, nhưng vẫn thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, giới cầm quyền các nước Anh, Pháp đã không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để cùng chống phát xít. Trái lại, họ thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít, hòng đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Với Đạo luật trung lập (8 -1935), giới cầm quyền Mĩ thực hiện chính sách không can thiệp vào các sự kiện xảy ra bên ngoài châu Mĩ. Chính quyền các nước phát xít đã lợi dụng tình hình đó để thực hiện mục tiêu gây chiến tranh xâm lược." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ. Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản dân nguyện để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông dương Đại hội vào tháng 8 - 1936. Đảng cũng kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng cùng tham gia. Khởi đầu ở Nam Kì, đến cuối tháng 9 - 1936 đã có hơn 600 uỷ ban hành động được thành lập. Phong trào mạnh nhất ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa... Uỷ ban hành động phân phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp quần chúng, thảo luận những yêu cầu về dân chủ, dân sinh... Ở Bắc Kì, trong tháng 9, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Hà Nam... Ở Trung Kì, ngày 12 - 9 - 1936, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kì Đông dương Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động được thành lập ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng... Trước sự lan rộng của phong trào, bọn phản động thuộc địa đàn áp và chia rẽ quần chúng. Ngày 15 - 9 - 1936, chúng ra lệnh giải tán Uỷ ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đông dương Đại hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Năm 1938 có 131 cuộc bãi công của công nhân. Tuy số lượng cuộc đấu tranh giảm so với năm trước, nhưng chất lượng cao hơn biểu hiện ở trình độ giác ngộ của quần chúng, khẩu hiệu đấu tranh, sự phối hợp đấu tranh giữa các địa phương. Cuối năm 1938 ở Nam Kì xảy ra nạn đói. Nông dân nhiều nơi biểu tình. Điển hình là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau (10 - 1938). Phong trào đấu tranh của tiểu thương, học sinh dâng cao. Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1 - 5 - 1938. Lần đầu tiên, trong ngày Quốc tế Lao động, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Năm 1939, phong trào tập trung ở những trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn... Nguyễn Ái Quốc nhận xét: ""So với trước thì các cuộc bãi công năm 1939 có tổ chức và có kỉ luật hơn. Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách cụ thể hơn: đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bảo hiểm xã hội, công nhân các đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bản, hầu hết các cuộc bãi công đều được sự ủng hộ tinh thần và vật chất của công nhân các ngành khác, của nông dân và tiểu thương, đôi khi ngay cả từ chính trị cũng đóng góp vào các cuộc lạc quyên ủng hộ.""" 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 17: Phong trào dân chủ 1936-1939.,"Đấu tranh nghị trường Đấu tranh ở nghị trường là một lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng Cộng sản Đông dương. Trong các cuộc tuyển cử vào các cơ quan lập pháp, Mặt trận Dân chủ, trong đó Đảng Cộng sản là thành viên tích cực, đã đưa người ra ứng cử với chương trình hành động, như mở rộng quyền tự do, dân chủ, bỏ thuế môn bài, thuế chợ, thuế đò, bỏ thuốc phiện, bỏ đặc quyền rượu, mở mang y tế, cứu tế thất nghiệp v.v... Trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì tháng 8 - 1937, Đảng vận động những người tiến bộ trong hàng ngũ tri thức ra ứng cử. Đảng sử dụng báo chí đề tuyên truyền và vận động cử tri bỏ phiếu cho những ứng cử viên này. Kết quả là hầu hết các ứng cử viên do Đảng vận động ra ứng cử đã trúng cử. Trong kì họp của Viện Dân biểu tháng 9 - 1938, các nghị viên đã bác bỏ dự án thuế quân và thuế điền thổ của chính phủ thuộc địa. Năm 1938, trong cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kì, 15 ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ đã trúng cử. Mặt trận Dân chủ còn giành thắng lợi trong Hội đồng Kinh tế lí tài Đông dương - cơ quan dân cử cao nhất ở Đông dương. Năm 1939, diễn ra cuộc tuyển cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kì. Trong cuộc tuyển cử này, mặt trận Dân chủ bị thất bại do những thủ đoạn thâm độc của bọn phản động thuộc địa, do nội bộ mặt trận không thống nhất ý kiến. Đảng Cộng sản Đông dương chủ trương tham gia đấu tranh công khai trên nghị trường nhằm mục đích mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Với niềm tự hào chân chính và ý thức vươn lên. từ thế kỉ X cho đến thế kỉ XV, nhân dân Việt Nam đã cần cù lao động, xây dựng và phát triển một nền kinh tế tự chủ, toàn diện. Ruộng đất ngày càng mở rộng, thủ công nghiệp ngày càng phát triển tạo điều kiện cho sự phát triển của thương nghiệp trong nước cũng như giao lưu với thương nhân nước ngoài. Tuy nhiên, do sự chi phối của những quan hệ sản xuất phong kiến, xã hội ngày càng phân hoá." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Đầu thế kỉ X, sau khi giành được độc lập, tự chủ, nhân dân cả nước, từ miền xuôi đến miền ngược phấn khởi, ra sức khai phá đất hoang, mở rộng ruộng đồng, phát triển nông nghiệp nhằm nhanh chóng nâng cao đời sống, đưa đất nước ngày càng cường thịnh. Công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác ngày càng gia tăng. Vùng châu thổ các sông lớn và vùng ven biển được khai phá. Nhiều xóm làng mới được thành lập. Các vua Tiền Lê, Lý hằng năm làm lễ cày ruộng để khuyến khích nhân dân sản xuất. Nhà Trần khuyến khích các quý tộc, vương hầu mộ dân nghèo đi khai hoang, thành lập điền trang. Đại Việt đương thời thường xuyên bị nạn lụt đe doạ, gây nhiều khó khăn. Nhà Lý chú trọng cho dân xây dựng những con đê. Năm 1248, nhà Trần tổ chức đắp để từ đầu nguồn đến cửa biển dọc các con sông lớn, gọi là để ""quai vạc"". Theo nhận xét của sứ thần Trung Quốc: ""Từ đó thuỷ tai không còn nữa mà đời sống của dân cũng được sung sướng, đất không bỏ sót một nguồn lợi nào""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Làng xóm được bảo vệ, mùa màng ổn định. Thời Lê Sơ, nhà nước sai người đắp một số đoạn để biển, tạo điều kiện cho nhân dân khai hoang mở rộng ruộng đồng. Các vua Lê cũng cấp ruộng đất cho quý tộc, quan lại, đặt phép quân điền phán chia ruộng công ở các làng xã. Các nhà nước Lý, Trần, Lê Sơ đều quan tâm đến việc bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Theo lời của Thái hậu Linh Nhân, vua Lý Nhân Tông đã xuống chiếu: ""Kẻ nào mổ trộm trâu thì xử 80 trượng, đồ làm khao giáp... Nhà láng giềng không tố cáo thì xử 80 trượng"". Ngoài việc chăn nuôi và bảo vệ trâu, bò làm sức kéo, người dân còn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan... Ngoài việc trồng lúa, nhân dân còn trồng nhiều cây lương thực khác như sắn, khoai, đậu, kê và các loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối, nhãn, vải... cùng một số cây công nghiệp như bông, dâu... Nhiều vườn rau được hình thành xung quanh các khu đông dân. Mùa màng tốt tươi, nhân dân đủ ăn, đủ mặc, đã khiến các nhà thơ ngợi ca: Đứng mãi nào hay ngày đã tận, Khắp đồng lúa tốt tựa máy xanh. Hoặc nhân dân thời Lê có câu: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Làng xóm được bảo vệ, mùa màng ổn định. Thời Lê Sơ, nhà nước sai người đắp một số đoạn đê biển, tạo điều kiện cho nhân dân khai hoang mở rộng ruộng đồng. Các vua Lê cũng cấp ruộng đất cho quý tộc, quan lại, đặt phép quân điền phán chia ruộng công ở các làng xã. Các nhà nước Lý, Trần, Lê Sơ đều quan tâm đến việc bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Theo lời của Thái hậu Linh Nhân, vua Lý Nhân Tông đã xuống chiếu: ""Kẻ nào mổ trộm trâu thì xử 80 trượng, đồ làm khao giáp... Nhà láng giềng không tố cáo thì xử 80 trượng"". Ngoài việc chăn nuôi và bảo vệ trâu, bò làm sức kéo, người dân còn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan... Ngoài việc trồng lúa, nhân dân còn trồng nhiều cây lương thực khác như sắn, khoai, đậu, kê và các loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối, nhãn, vải... cùng một số cây công nghiệp như bông, dâu... Nhiều vườn rau được hình thành xung quanh các khu đông dân. Mùa màng tốt tươi, nhân dân đủ ăn, đủ mặc, đã khiến các nhà thơ ngợi ca: Đứng mãi nào hay ngày đã tận, khắp đồng lúa tốt tựa máy xanh. Hoặc nhân dân thời Lê có câu: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Đất nước độc lập, thống nhất. Thủ công nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng do nhu cầu trong nước ngày càng tăng lên. Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền như đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm sứ, ươm tơ dệt lụa ngày càng phát triển. Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Chuông đồng, tượng Phật xuất hiện ở khắp các chùa chiền. Đồ gốm tráng men ngọc, men xanh độc đáo, in hình người, hình thú, hoa lá... được đem trao đổi ở nhiều nơi. Người thợ gốm còn sản xuất các loại gạch có trang trí hoa, rồng để phục vụ việc xây dựng cung điện, chùa chiền. Các nghề chạm khắc đá, làm đồ trang sức bằng vàng bạc, làm giấy các loại, nhuộm vải đều phát triển. Theo Thiên nam hành kì (của một tác giả Trung Quốc, thài Nguyên), nhà Trần đã dâng cống nhiều sản phẩm thủ công quý giá như lụa mịn ngũ sắc, mâm đá hoa dát vàng, bạc, đĩa hình hoa sen bằng vàng, khăn lụa thêu kim tuyến... Việc khai thác các tài nguyên trong lòng đất (mỏ vàng, bạc, đồng...) ngày càng phát triển. Một số làng chuyện làm nghề thủ công được hình thành như Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Giang), Chu Đậu (Hải Dương), Huê Cầu (Hưng Yên) v.v... Tuy nhiên, nhân dân ở đây vẫn làm nông nghiệp." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Đất nước độc lập, thống nhất. Thủ công nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng do nhu cầu trong nước ngày càng tăng lên. Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền như đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm sứ, ươm tơ dệt lụa ngày càng phát triển. Chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Chuông đồng, tượng Phật xuất hiện ở khắp các chùa chiền. Đồ gốm tráng men ngọc, men xanh độc đáo, in hình người, hình thú, hoa lá... được đem trao đổi ở nhiều nơi. Người thợ gốm còn sản xuất các loại gạch có trang trí hoa, rồng để phục vụ việc xây dựng cung điện, chùa chiền. Các nghề chạm khắc đá, làm đồ trang sức bằng vàng bạc, làm giấy các loại, nhuộm vải đều phát triển. Theo Thiên nam hành kì (của một tác giả Trung Quốc, thài Nguyên), nhà Trần đã dâng cống nhiều sản phẩm thủ công quý giá như lụa mịn ngũ sắc, mâm đá hoa dát vàng, bạc, đĩa hình hoa sen bằng vàng, khăn lụa thêu kim tuyến... Việc khai thác các tài nguyên trong lòng đất (mỏ vàng, bạc, đồng...) ngày càng phát triển. Một số làng chuyên làm nghề thủ công được hình thành như Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Giang), Chu Đậu (Hải Dương), Huê Cầu (Hưng Yên) v.v... Tuy nhiên, nhân dân ở đây vẫn làm nông nghiệp." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Các triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ đều thành lập các xưởng thủ công (quan xưởng) chuyên lo việc đúc tiền, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền chiến, may mũ áo cho vua quan, quý tộc hoặc góp phần xây dựng các cung điện, dinh thự. Đầu thế kỉ XV, các thợ quan xưởng dưới sự chi đạo của Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo được súng thần cơ (súng lớn) và đóng được thuyền chiến có lầu. Thời Lê Sơ, quan xưởng được mở rộng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp trong hoàn cảnh đất nước độc lập, thống nhất và ngày càng mở rộng đã đẩy nhanh sự phát triển của thương nghiệp. Các chợ làng, chợ huyện, chợ chùa mọc lên ở nhiều nơi. Giao lưu buôn bán các sản phẩm nông nghiệp, thủ công ngày càng nhộn nhịp. Một sứ giả nhà Nguyên đến nước ta vào cuối thế kỉ XIII đã viết: ""Trong xóm làng thường có chợ, cứ hai ngày họp một phiên, hàng hoá trăm thứ, bày la liệt"". (An Nam tức sự) Thăng Long từ thời Lý, Trần đã là một đô thị lớn với nhiều phố phường, chợ. Thời Lê Sơ, Thăng Long có 36 phố phường vừa buôn bán vừa làm thủ công, phát triển phồn thịnh. Từ sớm, các thuyền buôn Trung Quốc hay các nước phương Nam đã qua lại buôn bán ở các vùng biển phía bắc và miền Trung. Năm 1149, nhà Lý cho xây dựng trong Vân Đồn (Quảng Ninh) làm bến cảng để thuyền buôn nước ngoài vào trao đổi hàng hoá. Lạch Trường (Thanh Hoá), Càn Hải (Nghệ An), Hội Thong (Hà Tĩnh), Thị Nại (Bình Định) đều là những vùng cảng quan trọng. Viết về Lạch Trường, An Nam tức sự nhận xét: ""Thuyền bè các nước ngoài đến họp ở đây, mở chợ ngay trên thuyền, thật là thịnh vượng"". 6 vùng biên giới Việt - Trung, từ thời Lý đã hình thành một số địa điểm trao đổi hàng hoá. Lái buôn hai nước đem đủ thứ lụa là, giấy bút, hương liệu, vải vóc, ngà voi, ngọc vàng... đến trao đổi. Tuy nhiên, vào thời Lê, nhà nước không chủ trương mở rộng giao lưu với thương nhân nước ngoài. Thuyền bè nước ngoài chỉ được cập bến một số cảng và bị khám xét nghiêm ngặt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Sự phát triển kinh tế trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến vừa góp phần nâng cao đời sống nhân dân, củng cố nền độc lập dân tộc, vừa đẩy nhanh sự phân hoá xã hội. Giai cấp địa chủ thống trị ngày càng mở rộng ruộng đất tư hữu, nhất là các quý tộc Trần với hệ thống điền trang của mình. Ban đầu, điều này góp phần mở rộng diện tích canh tác, giải quyết ít nhiều tình trạng dân phiêu tán. Từ thế kỉ XIV, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mất mùa, đói kém xảy ra ngày càng nhiều, nên ""nhân dân nhiều người phải bán ruộng đất và bán con trai, con gái làm nô tì"". Trong lúc đó, vua quan, quý tộc chấp chiếm ruộng đất, ăn chơi xa xỉ, không quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh của nông dân đã bùng lên, nhất là vào cuối thế kỉ XIV. Nhà Trần suy vong. Tể tướng Hồ Quý Ly thực hiện một cuộc cải cách lớn để cứu vãn tình thế - nhà Hồ được thành lập." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.,"Cuộc đấu tranh chống phát xít của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) đã tạo cơ hội khách quan cho các thuộc địa vùng lên tự giải phóng khỏi ách thực dân. Đảng Cộng sản Đông dương đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh, tích cực chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.,"Ngày 1 - 9 - 1939, phát xít Đức tiên công Ba Lan. Ngày 3 - 9 - 1939, Pháp và Anh tuyến chiến với Đức. Chính phủ Pháp thực hiện chính sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở các thuộc địa, trong đó có Đông dương. Tháng 6 - 1940, Pháp đầu hàng Đức. ở Đông dương, Đô đốc G. Đơcu được cử làm Toàn quyền thay G. Catơru. Chính quyền mới thực hiện một loạt chính sách vơ vét sức người, sức của của Đông dương dốc vào cuộc chiến tranh. Cuối tháng 9 - 1940, quân Nhật Bản vượt biên giới Việt - Trung vào miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp, dùng nó đề bóc lột kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Việt Nam bị đặt dưới ách thống trị của Nhật - Pháp. ở trong nước lúc này không chỉ có những đảng phái chính trị quân Pháp mà cả những đảng phái quân Nhật Bản, như Đại Việt, Phục quốc... Nhật Bản và tay sai ra sức tuyến truyền lừa bịp về văn minh và sức mạnh của Nhật Bản, về thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho Nhật Bản hất cẳng Pháp. Tháng 6 - 1941, Đức tấn công Liên Xô. Cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.,"Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, từ ngày 6 đến ngày 8 - 11 - 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Sau khi phán tích tính chất cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nhận định về tình hình thế giới và Đông dương, Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông dương, làm cho Đông dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công, nông, binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà. Về phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp. đề tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc Phản đế Đông dương (gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đông dương không còn phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 - 1939 đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng - đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.," Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27 -9 - 1940) Mặc dù thực dân Pháp đã nhượng bộ mọi yêu sách, Nhật Bản vẫn thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đông dương. Ngày 22 - 9 - 1940, quân Nhật Bản vượt qua biên giới Việt - Trung, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ lên Đổ Sơn. ở Lạng Sơn, quân Pháp bị tổn thất nặng nề. Số lớn quân Pháp đầu hàng, số còn lại rút chạy về Thái Nguyên qua Châu Bắc Sơn. Đêm 27 - 9 - 1940, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy chặn đánh quân Pháp, chiếm đồn Mỏ Nhài. Nguỵ quyền ở Bắc Sơn tan rã. Nhân dân làm chủ Châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Tuy Pháp và Nhật Bản mâu thuẫn với nhau, nhưng đều hoảng sợ trước lực lượng cách mạng, đã nhanh chóng cầu kết lại. Mấy hôm sau, Nhật Bản thả từ binh Pháp và cho quân Pháp trở lại đóng các đổn bốt ở Lạng Sơn. Thực dân Pháp tiên hành khủng bố phong trào cách mạng Bắc Sơn. Chúng đốt phá làng bản, dồn làng, tập trung dân, bắn giết những người tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa lịch sử quan trọng - mở đầu phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc sau khi có chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng. Khởi nghĩa Bắc Sơn giúp Đảng ta rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ khởi nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.," Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 -11 - 1940) Tháng 11 - 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Thái Lan. Chính quyền thực dân bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bịa đỡ đạn. Nhân dân Nam Kì và binh lính đấu tranh phản đối việc đưa binh lính ra mặt trận. Trong bối cảnh đó, Xứ uỷ Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa và cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Trước những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập từ ngày 6 đến ngày 9 - 11 - 1940 tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Hội nghị đề ra chủ trương trong tình hình mới: xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông dương là đế quốc Pháp - Nhật; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn đề xây dựng thành lực lượng vũ trang cách mạng; tiến tới thành lập căn cứ du kích; quyết định đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kì vì thời cơ chưa chín muồi. Quyết định hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng chưa tới nơi, nhưng lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kì đã đến các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời gian quy định là đến 22 rạng sáng 23 - 11 - 1940. Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền tây Nam Bộ: Biên Hòa, Gia Đình, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Từ trong khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng. Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp kịp thời đối phó. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, bắt bớ nhiều người, trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng ở Nam Kì. Lực lượng khởi nghĩa còn lại phải rút về vùng Đồng Tháp và U Minh đề củng cố lực lượng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân miền Nam, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.," Cuộc binh biến Đô Lương (13 -1 - 1941) Trong khi thực dân Pháp khủng bố dữ dội những người tham gia khởi nghĩa Nam Kì, tại Trung Kì những binh lính người Việt trong quân đội Pháp đã làm binh biến, chống lại việc Pháp đưa họ sang Lào đánh quân Thái Lan. Ngày 13 - 1 - 1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ô tô tiến về Vinh đề phối hợp với binh lính ở đấy chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được. Quân Pháp kịp thời đối phó. Chiều hôm sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt. Ngày 11 - 2 - 1941, Đội Cung cũng bị sa vào tay giặc. Ngày 24 - 4 - 1941, thực dân Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí của ông. Nhiều người khác bị kết án khổ sai, đưa đi đầy.  Trong thời gian hơn 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở 3 miền của đất nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia, đã nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đã thất bại vì điều kiên chưa chín muồi, nhưng ""đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông dương""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.,"Ngày 28 - 1 - 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian chuẩn bị, Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19 - 5 - 1941. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc, tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh thay cho Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia, thay tên các hội Phản đế thành hội Cứu quốc. Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11 - 1939, nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là dân tộc giải phóng và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Ngày 19 - 5 - 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Năm tháng sau, tuyến ngôn, Chương trình, Điều lệ Việt Minh được công bố chính thức. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.," Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền Từ đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng nước ta. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân Đức, sự thất bại của phe phát xít đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 25 đến ngày 28 - 2 - 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh - Phúc Yên) . Hội nghị đã vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Sau hội nghị này, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành gấp rút. Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị Bắc Kì, các đoàn thể Việt Minh, Hội Cứu quốc được xây dụng và củng cố. Ở các thành phố, thị xã như Hà Nội, Hỏi Phòng, Uông Bí, Nam Định, Việt Trì..., các hội Cứu quốc được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học... Ở nhiều tỉnh ven biển Trung Kì, phong trào Việt Minh cũng phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị. Ở Nam Kì, tổ chúc Việt Minh có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, tây Ninh và một số tỉnh khác. Đặc biệt, ở các căn cứ địa Trung ương, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra khẩn trương. Ở căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyến truyền vũ trang, gậy dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời (25 - 2 - 1944). Ở căn cứ Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban ""Xung phong Nam tiến đề liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi. Ngày 7 - 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp ""Sửa soạn khởi nghĩa và ngày 10 - 8 - 1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân ""Sắm vũ khí đuổi thù chung"". Ngày 22 - 12 - 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyến truyền Giải phóng quân được thành lập (Nguyên Bình, Cao Bằng). Sau khi ra đời, Đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao - Bắc - Lạng được củng cố và mở rộng. Công cuộc chuẩn bị vẫn tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Đầu thế kỉ X, sau khi giành được độc lập, tự chủ, nhân dân cả nước, từ miền xuôi đến miền ngược phấn khởi, ra sức khai phá đất hoang, mở rộng ruộng đồng, phát triển nông nghiệp nhằm nhanh chóng nâng cao đời sống, đưa đất nước ngày càng cường thịnh. Công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác ngày càng gia tăng. Vùng Châu thổ các sông lớn và vùng ven biển được khai phá. Nhiều xóm làng mới được thành lập. Các vua Tiền Lê, Lý hằng năm làm lễ cày ruộng đề khuyến khích nhân dân sản xuất. Nhà Trần khuyến khích các quý tộc, vương hầu mộ dân nghèo đi khai hoang, thành lập điền trang. Đại Việt đương thời thường xuyên bị nạn lụt đe doạ, gậy nhiều khó khăn. Nhà Lý chú trọng cho dân xây dựng những con đê. Năm 1248, nhà Trần tổ chức đắp đề từ đầu nguồn đến cửa biển dọc các con sông lớn, gọi là đề ""quai vạc"". Theo nhận xét của sứ thần Trung Quốc: ""Từ đó thuỷ tai không còn nữa mà đời sống của dân cũng được sung sướng, đất không bỏ sót một nguồn lợi nào""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X-XV,"Làng xóm được bảo vệ, mùa màng ổn định. Thời Lê Sơ, nhà nước sai người đắp một số đoạn đê biển, tạo điều kiện cho nhân dân khai hoang mở rộng ruộng đồng. Các vua Lê cũng cấp ruộng đất cho quý tộc, quan lại, đặt phép quân điền phán chia ruộng công ở các làng xã. Các nhà nước Lý, Trần, Lê Sơ đều quan tâm đến việc bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Theo lời của Thái hậu Linh Nhân, vua Lý Nhân Tông đã xuống chiếu: ""Kẻ nào mổ trộm trâu thì xử 80 trượng, đồ làm khao giáp... Nhà láng giềng không tố cáo thì xử 80 trượng"". Ngoài việc chăn nuôi và bảo vệ trâu, bò làm sức kéo, người dân còn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan... Ngoài việc trồng lúa, nhân dân còn trồng nhiều cây lương thực khác như sắn, khoai, đậu, kê và các loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối, nhãn, vải... cùng một số cây công nghiệp như bông, dâu... Nhiều vườn rau được hình thành xung quanh các khu đông dân. Mùa màng tốt tươi, nhân dân đủ ăn, đủ mặc, đã khiến các nhà thơ ngợi ca: Đứng mãi nào hay ngày đã tận, Khắp đồng lúa tốt tựa máy xanh. Hoặc nhân dân thời Lê có câu: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.," Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 -11 - 1940) Tháng 11 - 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Thái Lan. Chính quyền thực dân bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kì và binh lính đấu tranh phản đối việc đưa binh lính ra mặt trận. Trong bối cảnh đó, Xứ uỷ Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa và cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương. Trước những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập từ ngày 6 đến ngày 9 - 11 - 1940 tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Hội nghị đề ra chủ trương trong tình hình mới: xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp - Nhật; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn để xây dựng thành lực lượng vũ trang cách mạng; tiến tới thành lập căn cứ du kích; quyết định đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kì vì thời cơ chưa chín muồi. Quyết định hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng chưa tới nơi, nhưng lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kì đã đến các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời gian quy định là đêm22 rạng sáng 23 - 11 - 1940. Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ: Biên Hoà, Gia Đình, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Từ trong khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng. Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp kịp thời đối phó. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, bắt bớ nhiều người, trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng ở Nam Kì. Lực lượng khởi nghĩa còn lại phải rút về vùng Đồng Tháp và U Minh để củng cố lực lượng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân miền Nam, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 18: Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.,"Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng nước ta. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân Đức, sự thất bại của phe phát xít đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 25 đến ngày 28 - 2 - 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh - Phúc Yên). Hội nghị đã vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Sau hội nghị này, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành gấp rút. Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị Bắc Kì, các đoàn thể Việt Minh, Hội Cứu quốc được xây dụng và củng cố. Ở các thành phố, thị xã như Hà Nội, Hỏi Phòng, Uông Bí, Nam Định, Việt Trì..., các hội Cứu quốc được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học... Ở nhiều tỉnh ven biển Trung Kì, phong trào Việt Minh cũng phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị. Ở Nam Kì, tổ chức Việt Minh có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một số tỉnh khác. Đặc biệt, ở các căn cứ địa Trung ương, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra khẩn trương. Ở căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời (25 - 2 - 1944). Ở căn cứ Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban Xung phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi. Ngày 7 - 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp ""Sửa soạn khởi nghĩa"" và ngày 10 - 8 - 1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân ""Sắm vũ khí đuổi thù chung"". Ngày 22 - 12 - 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập (Nguyên Bình, Cao Bằng). Sau khi ra đời, Đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao - Bắc - Lạng được củng cố và mở rộng. Công cuộc chuẩn bị vẫn tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ thành lập. Cuộc cải cách của nhà Hồ chưa đạt được kết quả mong muốn thì quân Minh ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng lên ở khắp nơi trong cả nước, nhưng đều bị đàn áp. Trước những hành động tàn bạo của kẻ thù: ""Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"", cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo đã nổ ra ở Lam Sơn (Thanh Hoá) vào mùa xuân năm 1418. Mặc dù nhiều lần bị quân Minh tiến đánh dữ dội, nghĩa quân vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, mở rộng dần vùng hoạt động để rồi sau đó, làm chủ cả vùng đất từ Thanh Hoá vào phía Nam. Được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân, nghĩa quân đã tấn công ra Bắc, chiến đấu quyết liệt với quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 15 vạn quân cứu viện của giặc ồ ạt tiến vào nước ta đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở trận Chi Lăng - Xương Giang lừng lẫy. Giặc rơi vào thế cùng quẫn, nghĩa quân đã ""thể đức hiếu sinh"" cấp ngựa, thuyền cho chúng rút về nước. Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo Xã tắc từ đây vững bền, Giang sơn từ đây đổi mới Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm; Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Trong những thế kỉ xây dựng đất nước, nhân dân ta vẫn phải liên tục tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Với lòng yêu nước nồng nàn, với tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng, nhân dân Đại Việt đã làm nên biết bao chiến thắng huy hoàng, giữ vững nền độc lập dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Đầu thế kỉ X, nhân dân Việt Nam đã giành lại được quyền tự chủ, lật đổ hoàn toàn chế độ đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Nhưng chẳng bao lâu sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhân dân ta đã phải đương đầu với hai lần xâm lược của nhà Tống. Năm 980, được tin triều đình nhà Đinh gặp nhiều khó khăn, vua Tống vội cử quân sang xâm lược nước ta. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lập tức được nhiều tướng lĩnh và bà Thái hậu họ Dương tôn lên làm vua, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Năm 981, quân Tống tiến vào nước ta. Với ý chí quyết chiến, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, quân và dân Đại Cồ Việt đã chiến đấu anh dũng, đánh tan quân xâm lược Tống ngay trên vùng Đông Bắc. Nhiều tướng giặc bị bắt. Nhà Tống buộc phải rút quân, bỏ mộng xâm lược nước ta. Quan hệ Việt - Tống trở lại bình thường." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Vào những năm 70 của thế kỉ XI, trong lúc Đại Việt đang phát triển thì nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng, phía bắc bị người Liêu, Hạ xám lấn, trong nước nông dân nổi dậy ở nhiều nơi. Trước tình thế đó, Tể tướng Vương An Thạch đã khuyên vua Tống sai quân xâm lược nước ta: ""Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể"". Tin quân Tống chuẩn bị xâm lược báo về. Thái hậu Ỷ Lan cùng vua Lý triệu tập các đại thần hội bàn. Thái uý Lý Thường Kiệt đã chủ trương: ""Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quán đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc"". Được sự tán đồng của triều đình và sự ủng hộ nhiệt liệt của quân sĩ, năm 1075, Thái uý Lý Thường Kiệt - người chỉ đạo cuộc kháng chiến, đã kết hợp lực lượng quân đội của triều đình với lực lượng dân binh của các tù trưởng dân tộc ít người ở phía bắc, mở cuộc tập kích lên đất Tống, đánh tan các đạo quân nhà Tống ở đây, rồi rút về nước. Đầu năm 1077, khoảng 30 vạn quân Tống đánh sang Đại Việt. Dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Lý Thường Kiệt, quân dân ta đánh tan quân xâm lược Tống trong trận quyết chiến trên bờ sông Như Nguyệt (Bắc Ninh). Cuộc kháng chiến hoàn toàn thắng lợi. Bài thơ Nam quốc sơn hà mãi mãi vang vọng non sông: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư. Tạm dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Dưới thời Trần, nhân dân Đại Việt phải đương đầu với một thử thách hiểm nghèo: trong vòng 30 năm phải tiến hành 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên hung bạo (1258, 1285, 1287 - 1288). Dưới sự lãnh đạo của các vị vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Thái sư Trần Thủ Độ cùng hàng loạt vị tướng tài giỏi như Trần Quang Khải, Trần Khánh Du, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão v.v..., đặc biệt là nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo), quân và dân Đại Việt đã đoàn kết, cầm vũ khí đứng lên chống giặc giữ nước. Lời hịch của Tiết chế Trần Hưng Đạo có đoạn: ""Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm. Kinh thành Thăng Long ba lần bị quân xâm lược tàn phá, bộ chỉ huy kháng chiến có lúc bị kẹp giữa hai gọng kìm của quân xâm lược, từ Nam đánh lên và từ Bắc đánh xuống. Nhưng, với ý chí kiên cường, với truyền thống yêu nước sâu sắc, nhân dân Đại Việt đã thực hiện lệnh của triều đình ""nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng"". Quán giặc đi đến đâu, nếu không bị đánh giết thì cũng chỉ thấy cảnh ""vườn không nhà trống"". Cuối cùng, chúng phải chịu thất bại trong các trận Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp ở hai lần xâm lược 1258, 1285 và đau đớn nhất, nặng nề nhất là trận đại bại trên sông Bạch Đằng năm 1288 trong lần xâm lược thứ ba. Bạch Đằng nhất trận hoả công Tặc binh đại phá, huyết hồng mãn giang. (Bạch Đằng một trận hoả công Giặc kia tan tác, máu hồng đỏ sông.) Chiến thắng Bạch Đằng mãi mãi ghi sâu vào lịch sử đấu tranh anh hùng của dân tộc Việt Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên của nhân dân ta. Cùng thời gian này, năm 1282, quân Mông - Nguyên dong thuyền đánh vào Cham-pa. Quân dân Cham-pa rút lui khỏi kinh thành và sau đó, dưới sự chỉ huy của Thái tử Ha-ri-gít, tập trung lực lượng đánh lui quân xâm lược. Một bộ phận của chúng phải rút lên phía bắc, theo sự điều động của nhà Nguyên đánh vào phía nam của Đại Việt. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ thành lập. Cuộc cải cách của nhà Hồ chưa đạt được kết quả mong muốn thì quân Minh ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng lên ở khắp nơi trong cả nước, nhưng đều bị đàn áp. Trước những hành động tàn bạo của kẻ thù: ""Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con dỏ xuống dưới hầm tai vợ"", cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo đã nổ ra ở Lam Son (Thanh Hoá) vào mùa xuân năm 1418. Mặc dù nhiều lần bị quân Minh tiến đánh dữ dội, nghĩa quân vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, mở rộng dần vùng hoạt động để rồi sau đó, làm chủ cả vùng đất từ Thanh Hoá vào phía Nam. Được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân, nghĩa quân đã tấn công ra Bắc, chiến đấu quyết liệt với quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 15 vạn quân cứu viện của giặc ồ ạt tiến vào nước ta đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở trận Chi Lăng - Xương Giang lừng lẫy. Giặc rơi vào thế cùng quẫn, nghĩa quân đã ""thể đức hiếu sinh cấp ngựa, thuyền cho chúng rút về nước. Đem đợi nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo Xã tắc từ đây vững bền, Giang sơn từ đây đổi mới Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm; Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X-XV,"Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ thành lập. Cuộc cải cách của nhà Hồ chưa đạt được kết quả mong muốn thì quân Minh ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng lên ở khắp nơi trong cả nước, nhưng đều bị đàn áp. Trước những hành động tàn bạo của kẻ thù: ""Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con dỏ xuống dưới hầm tai vợ"", cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo đã nổ ra ở Lam Sơn (Thanh Hoá) vào mùa xuân năm 1418. Mặc dù nhiều lần bị quân Minh tiến đánh dữ dội, nghĩa quân vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, mở rộng dần vùng hoạt động để rồi sau đó, làm chủ cả vùng đất từ Thanh Hoá vào phía Nam. Được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân, nghĩa quân đã tấn công ra Bắc, chiến đấu quyết liệt với quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 15 vạn quân cứu viện của giặc ồ ạt tiến vào nước ta đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở trận Chi Lăng - Xương Giang lừng lẫy. Giặc rơi vào thế cùng quẫn, nghĩa quân đã ""thể đức hiếu sinh cấp ngựa, thuyền cho chúng rút về nước. Đem đợi nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo Xã tắc từ đây vững bền, Giang sơn từ đây đổi mới Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm; Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn...""" 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã có từ lâu và được xúc tiến mạnh mẽ từ giữa thế kỉ XIX. Tháng 9 - 1858, quân Pháp nổ súng, chính thức mở màn cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngay từ đầu, quân dân ta đã anh dũng chiến đâu bảo vệ Tổ quốc. Sau khi chiếm được thành Gia Định, Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông (1862), rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì (1867). Đi đến đâu chúng cũng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách ""bế quan toả cảng"" của nhà Nguyễn khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc ""cấm đạo"", đuổi giáo sĩ phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833 - 1835)..." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Người phương Tây, đầu tiên là các lái buôn Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, đã biết đến Việt Nam từ thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn Lôn của Việt Nam, nhưng không thành. Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc truyền đạo Thiên Chúa để chuẩn bị tiến hành cuộc xâm lược. Thế kỉ XVII, các giáo sĩ Pháp đã tới Việt Nam truyền đạo; một số giáo sĩ kết hợp truyền giáo với việc dò xét tình hình, vẽ bản đổ, chuẩn bị cho cuộc xâm nhập của tư bản Pháp. Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực nước ngoài để khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc (Pi-nhô đờ Bê-hen) đã nắm cơ hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam. Nhò sự môi giới của Bá Đa Lộc, Hiệp ước Vécxai (1787) được kí kết. Pháp hứa sẽ đem quân sang giúp Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn; còn Nguyễn Ánh nhượng cho Pháp cảng Hội An, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán ở Việt Nam. Nhưng vì nhiều lí do, bản Hiệp ước này đã không thực hiện được. Đến giữa thế kỉ XIX, nước Pháp phát triển nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo riết tìm cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á. Năm 1857, Na-pô-lê-ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta; tiếp đó cho sứ thần tới Huế đòi được ""tự do buôn bán và truyền đạo"". Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh - Mĩ xâm lược Trung Quốc và lệnh cho Phó Đô đốc Ri-gôn đơ Giơ-nui-y chỉ huy hạm đội Pháp đánh Việt Nam ngay sau khi chiếm được Quảng Châu (Trung Quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31 - 8 - 1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng. Sáng 1 - 9 - 1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó lại tích cực thực hiện ""vườn không nhà trống""gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng (từ cuối tháng 8 - 1858 đến đầu tháng 2 - 1859) trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược. Khí thế kháng chiến sực sôi trong nhân dân cả nước. Tại Đà Nẵng, nhân dân tổ chức thành đội ngũ, chủ động tìm địch mà đánh. Thực dân Pháp đã phải thừa nhân ""dân quân gồm tất cả những ai không đau ốm và không tàn tật"". Từ Nam Định, Đốc học Phạm Vãn Nghị tự chiêu mộ 300 người, chủ yếu là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu ""đánh nhanh thắng nhanh"" của Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31 - 8 - 1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng. Sáng 1 - 9 - 1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó lại tích cực thực hiện ""vườn không nhà trống"" gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng (từ cuối tháng 8 - 1858 đến đầu tháng 2 - 1859) trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược. Khí thế kháng chiến sực sôi trong nhân dân cả nước. Tại Đà Nẵng, nhân dân tổ chức thành đội ngũ, chủ động tìm địch mà đánh. Thực dân Pháp đã phải thừa nhân ""dân quân gồm tất cả những ai không đau ốm và không tàn tật"". Từ Nam Định, Đốc học Phạm Vãn Nghị tự chiêu mộ 300 người, chủ yếu là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu ""đánh nhanh thắng nhanh"" của Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định. Gia Định và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thuỷ ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định có thể sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam Kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của triều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ lưu vực sông Mê Công của Pháp. Ngày 9 - 2 -1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liêt của quân dân ta nên mãi tới ngày 16 - 2 -1859 quân Pháp mới đến được Gia Định. Ngày 17 - 2, chúng nổ súng đánh thành. quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại, các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đêm bám sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống các tàu chiến. Kế hoạch ""đánh nhanh thắng nhanh"" bị thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch ""chinh phục từng gói nhỏ"". Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam Kì có sự thay đổi. Nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I-ta-li-a, phải cho rút toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định (23 - 3 - 1860). Vì phải chia xẻ lực lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1 000 tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hoà mới được xây dựng, trong tư thế ""thủ hiểm""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Từ tháng 3 - 1860, Nguyễn Tri Phương được lệnh từ Đà Nẵng vào Gia Định. Ông đã huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng Đại đồn Chí Hoà, vừa đồ sộ vừa vững chắc, nhưng vì không chủ động tấn công nên gần 1 000 quân Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta với một lực lượng từ 10 000 đến 12 000 người. Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa dũng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng nhất trên phòng tuyến của địch (7 -1860). Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi (Đà Nẵng và Gia Định), rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lúc này trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hoá, tư tưởng chủ hoà lan ra làm lòng người li tán." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến ở Trung Quốc với Điều ước Bắc Kinh (25 - 10 - 1860), quân Pháp liền kéo về Gia Định, tiếp tục mở rộng việc đánh chiếm nước ta. Ngày 23 - 2 - 1861, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Đại đồn Chí Hoà. Quân ta kháng cự quyết liệt, cuối cùng trước hoả lực mạnh của địch, Đại đồn Chí Hoà đã rơi vào tay giặc. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường (12 -4 -1861), Biên Hoà (18 -12 -1861), Vĩnh Long (23 -3 -1862). Khi giặc Pháp từ Gia Định đánh lan ra, cuộc kháng chiến của nhân dân ta càng phát triển mạnh hơn. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy... chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công. Ngày 10 -12 -1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân dân ta. Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày một dâng cao, khiên quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5 -6 -1862). Hiệp ước có 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như: triều đình nhượng han cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn; bồi thường 20 triệu quan (ước tính bằng 280 vạn lạng bạ; triều đình phải mở ba cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt , Quảng Yên cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha vào tự do buôn bán; thành Vĩnh Long sẽ được trả lại cho triều đình Huế khi nào triều đình chấm dứt được các hoạt động chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong Hiệp ước 1862, triều đình Huế ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hoà. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ba tỉnh miền Đông vẫn tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất, bám dân, cổ vũ nghĩa binh đánh Pháp và chống phong kiến đầu hàng. Phong trào ""tị địa"" diễn ra rất sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng mới chiếm được. Các đội nghĩa quân vẫn không chịu hạ vũ khí mà hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Trương Định tiếp tục giành được thắng lợi, gây cho Pháp nhiều khó khăn. Trương Định là con của Lãnh binh Trương Cầm, quê ở Quảng Ngãi. Ông theo cha vào Nam từ hồi nhỏ. Năm 1850, ông cùng Nguyễn Tri Phương mộ phu đồn điền, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản cơ. Năm 1859, khi Pháp đánh Gia Định, Trương Định đã đưa đội quân đồn điền của ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Tháng 3 - 1860, khi Nguyễn Tri Phương được điều vào Gia Định, ông lại chủ động đem quân phối hợp đánh địch. Tháng 2 -1861, chiến tuyến Chí Hoà bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hoà (Gò Công), quyết tâm chiến đấu lâu dài." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau Hiệp ước 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất cao lá cờ ""Bình Tây Đại nguyên soái"", hoạt động của nghĩa quân đã củng cố niềm tin của dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ. Nghĩa quân tranh thủ thời gian ra sức xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí, liên kết lực lượng, đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi. Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hoà, ngày 28 - 2 -1863 giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đâu suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở Tân Phước. Ngày 20 - 8 -1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở của Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào căn cứ Tân Phước. Nghĩa quân chống trả quyết liệt. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tổ chức bộ máy cai trị và chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng. Năm 1863, thực dân Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ lên đất Cam-pu-chia. Sau đó, chúng vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước 1862, yêu cầu triều đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Trước yêu cầu này, triều đình vô cùng lúng túng. Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20 - 6 -1867, quân Pháp kéo đến trước thành Vĩnh Long, ép Phan Thanh Giản (lúc đó đang giữ chức Kinh lược sứ của triều đình) phải nộp thành không điều kiện. Chúng còn khuyện ông viết thư cho quan quân hai tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí nộp thành. Trong vòng 5 ngày (từ 20 đến 24 -6 -1867), thực dân Pháp đã chiếm gọn ba tỉnh miền Tây Nam Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không tốn một viên đạn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển ra vùng Bình Thuận (Nam Trung Kì) nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân, tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Con trai Trương Định là Trương Quyền đưa một bộ phân nghĩa binh lên Tây Ninh lập căn cứ mới. Ông còn liên lạc với Pu-côm-bô (người Cam-pu-chia) để tổ chức chống Pháp. Năm 1867, tại vùng dọc theo sông Cửu Long có căn cứ Ba Tri (Bến Tre) do hai anh em Phan Tôn, Phan Liêm (con của Phan Thanh Giản) lãnh đạo. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Khi bị giặc bắt đem đi hành hình, ông đã khẳng khái nói: ""Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây"". Nguyễn Hữu Huân bị đi đày ngoài hải đảo, khi được tha về lại tiếp tục chống Pháp ở Tân An, Mĩ Tho đến năm 1875. Những toán quân của Thân Văn Nhíp ở Mĩ Tho; anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự ở Tân An; Phan Tòng ở Ba Tri; Lê Công Thành, Phan Văn Đạt, Phạm Văn Đồng, Âu Dương Lân ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ hoạt động mạnh mẽ.  Trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với thời kì thực dân Pháp mới xâm chiếm Nam Kì, phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ngày một chệnh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối cùng phong trào đều bị đàn áp và thất bại. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói chung, của nhân dân ba tỉnh miền Tây nói riêng, là những biểu hiên cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển ra vùng Bình Thuận (Nam Trung Kì) nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân, tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Con trai Trương Định là Trương Quyền đưa một bộ phân nghĩa binh lên Tây Ninh lập căn cứ mới. Ông còn liên lạc với Pu-côm-bô (người Cam-pu-chia) để tổ chức chống Pháp. Năm 1867, tại vùng dọc theo sông Cửu Long có căn cứ Ba Tri (Bến Tre) do hai anh em Phan Tôn, Phan Liêm (con của Phan Thanh Giản) lãnh đạo. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Khi bị giặc bắt đem đi hành hình, ông đã khẳng khái nói: ""Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây"". Nguyễn Hữu Huân bị đi đày ngoài hải đảo, khi được tha về lại tiếp tục chống Pháp ở Tân An, Mĩ Tho đến năm 1875. Những toán quân của Thân Văn Nhíp ở Mĩ Tho; anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự ở Tân An; Phan Tòng ở Ba Tri; Lê Công Thành, Phan Văn Đạt, Phạm Văn Đồng, Âu Dương Lân ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ hoạt động mạnh mẽ. Trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với thời kì thực dân Pháp mới xâm chiếm Nam Kì, phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ngày một chệnh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối cùng phong trào đều bị đàn áp và thất bại. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói chung, của nhân dân ba tỉnh miền Tây nói riêng, là những biểu hiên cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Giữa tháng 8 - 1945, Nhật hoàng tuyến bố đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật Bản. Ở Đông dương cùng Chính phủ quân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang tan rã. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã tới. dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước Châu Âu được giải phóng. ở mặt trận Châu Á - Thái Bình dương, quân đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. ở Đông dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yêu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyến bố""giúp các dân tộc Đông dương xây dựng nền độc lập"". Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ""Quốc trưởng"". Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị ""Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"". Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín mũi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông dương. Khẩu hiệu ""Đánh đuổi Pháp - Nhật được thay bằng khẩu hiệu ""Đánh đuổi phát xít Nhật"". Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.  Hội nghị quyết định phát động một ""cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước Châu Âu được giải phóng. ở mặt trận Châu Á - Thái Bình dương, quân đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. ở Đông dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yêu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyến bố""giúp các dân tộc Đông dương xây dựng nền độc lập"". Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ""Quốc trưởng"". Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị ""Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"". Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín mũi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông dương. Khẩu hiệu ""Đánh đuổi Pháp - Nhật được thay bằng khẩu hiệu ""Đánh đuổi phát xít Nhật"". Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Hội nghị quyết định phát động một ""cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước Châu Âu được giải phóng. ở mặt trận Châu Á - Thái Bình dương, quân đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. ở Đông dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yêu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyến bố giúp các dân tộc Đông dương xây dựng nền độc lập"". Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ""Quốc trưởng"". Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị ""Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"". Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín mũi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông dương. Khẩu hiệu ""Đánh đuổi Pháp - Nhật được thay bằng khẩu hiệu ""Đánh đuổi phát xít Nhật"". Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.  Hội nghị quyết định phát động một ""cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"ở khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyến truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, Châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng được thành lập, các hội Cứu quốc được củng cố và phát triển. ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp - Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu ""Phá kho thốc giải quyết nạn đối"". Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có. Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói dưới nhiều hình thức. Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Quảng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh... đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên tại nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh, 10 - 3), Bần Yên Nhân (Hưng Yên, 11 - 3)... ở Quảng Ngãi, từ chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11 - 3), tổ chức đội du kích Ba Tơ. Đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà từ Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thức đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa về sau. ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất tại Mĩ Tho và Hậu Giang." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"ở khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyến truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, Châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng được thành lập, các hội Cứu quốc được củng cố và phát triển. ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp - Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu ""Phá kho thốc giải quyết nạn đói"". Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có. Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói dưới nhiều hình thức. Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Quảng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh... đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên tại nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh, 10 - 3), Bần Yên Nhân (Hưng Yên, 11 - 3)... ở Quảng Ngãi, từ chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11 - 3), tổ chức đội du kích Ba Tơ. Đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà từ Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thức đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa về sau. ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất tại Mĩ Tho và Hậu Giang." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"đề đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ ngày 15 đến ngày 20 - 4 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị; tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng chiến khu chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Uỷ ban Quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu ở Bắc Kì và giúp đỡ cả nước về mặt quân sự. Ngày 16 - 4 - 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp. Thực hiện quyết nghị của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì, ngày 15 - 5 - 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam tuyến truyền Giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Nhiều chiến khu của Trung ương và khu căn cứ của địa phương được xây dựng. Tháng 5 - 1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (tuyến Quang). Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Ngày 4 - 6 - 1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, khu giải phóng chính thức được thành lập, gọi là Khu giải phóng Việt Bắc, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, tuyến Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm Thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Công cuộc chuẩn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn dân tộc đội ngũ đã sẵn sàng, đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.," Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bô Đầu tháng 8 - 1945, quân đồng minh tiên công mạnh mẽ vào các vị trí của quân đội Nhật Bản ở Châu Á - Thái Bình dương. đề uy hiếp Nhật Bản, ngày 6 và 9 - 8 - 1945, Mĩ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản, huỷ diệt hai thành phố này, giết hại hàng vạn dân thường. Ngày 8 - 8 - 1945, Liên Xô tuyến chiến với Nhật Bản. Ngày 9 - 8, quân đội Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân Quan Đông của Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc. Trước tình thế đó, ngày 9 - 8 - 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo tuyến bố Pốtxđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và đồng minh, ngày 14 - 8 - 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản họp với sự tham gia của Nhật hoàng đã thông qua quyết định đầu hàng. Giữa trưa 15 - 8 - 1945, Nhật hoàng tuyến bố đầu hàng không điều kiện các lực lượng đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Quân Nhật ở Đông dương rệu rã. Chính phủ quân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến. Ngay từ ngày 13 - 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố ""Quân lệnh số 1"", chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Từ ngày 14 đến ngày 15 - 8 - 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn dương - tuyến Quang). Hội nghị thông qua kể hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền. Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17 - 8 - 1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bô Đầu tháng 8 - 1945, quân đồng minh tiên công mạnh mẽ vào các vị trí của quân đội Nhật Bản ở Châu Á - Thái Bình dương. đề uy hiếp Nhật Bản, ngày 6 và 9 - 8 - 1945, Mĩ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản, huỷ diệt hai thành phố này, giết hại hàng vạn dân thường. Ngày 8 - 8 - 1945, Liên Xô tuyến chiến với Nhật Bản. Ngày 9 - 8, quân đội Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân Quan Đông của Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc. Trước tình thế đó, ngày 9 - 8 - 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo tuyến bố Pốtxđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và đồng minh, ngày 14 - 8 - 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản họp với sự tham gia của Nhật hoàng đã thông qua quyết định đầu hàng. Giữa trưa 15 - 8 - 1945, Nhật hoàng tuyến bố đầu hàng không điều kiện các lực lượng đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Quân Nhật ở Đông dương rệu rã. Chính phủ quân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến. Ngay từ ngày 13 - 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố ""Quân lệnh số 1"", chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Từ ngày 14 đến ngày 15 - 8 - 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn dương - tuyến Quang). Hội nghị thông qua kể hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền. Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17 - 8 - 1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Ngày 25 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (28 - 8 - 1945). Trong những ngày lịch sử này, Hồ Chí Minh soạn thảo bản tuyến ngôn Độc lập, chuẩn bị mọi công việc đề Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyến ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyến bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. Bản tuyến ngôn nêu rõ: ""Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay đề xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà"". Cuối bản tuyến ngôn, Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững nền độc lập, tự do vừa giành được: ""Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải đề giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"". Ngày 2 - 9 - 1945 mãi mãi đi vào lịch sử Việt Nam, là một trong những ngày hội lớn nhất, vẻ vang nhất của dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"- Nguyên nhân khách quan: Chiến thắng của đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít, đặc biệt là chiến thắng phát xít Đức và quân phiệt Nhật của Hồng quân Liên Xô đã cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời cơ đề nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa. - Nguyên nhân chủ quan: Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nổng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản  Đông dương và Mặt trận Việt Minh phất cao cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, với tinh thần ""đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"". Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông dương lãnh đạo, đứng đầu là Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn dựa trên cơ sở lí luận Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. đề giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã có quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930 - 1935, 1936 - 1939, đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm qua những thành công và thất bại, đặc biệt là trong quá trình xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Trong những ngày khởi nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập tự do. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung ương đến địa phương linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục thế kỉ ở nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông dương đã lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những thắng lợi tiếp theo. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã chọc thủng khâu yêu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yêu chúng, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, ""có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nắm bắt diễn biểu tình hình thế giới và cách mạng trong nước đề thay đổi chủ trương cho phù hợp; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đảng tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận Việt Minh, trên cơ sở liên minh công nông, tạo nên sức mạnh toàn dân, phán hoá và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh bại chúng. Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiên tới Tổng khởi nghĩa. Đảng luôn kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng đề ngày càng vững mạnh về tổ chức, tư tưởng và chính trị, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo cách mạng thành công." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yêu nghiêm trọng. Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách ""bế quan toả cảng của nhà Nguyễn khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc ""cấm đạo"", đuổi giáo sĩ phương tây, đã gậy ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gậy bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông Văn vẫn ở tuyến Quang, Cao Bằng (1833 - 1835)..." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Thấy không thể chiếm được Đà Nang, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định. Gia Định và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thuỷ ở đấy rất thuận lợi. Từ Gia Định có thể sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam Kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của triều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ lưu vực sông Mê Công của Pháp. Ngày 9 - 2 -1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liêt của quân dân ta nên mãi tới ngày 16 - 2 -1859 quân Pháp mới đến được gia đình. Ngày 17 - 2, chúng nổ súng đánh thành. quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại, các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đến bám sát địch đề quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống các tàu chiến. Kế hoạch ""đánh nhanh thắng nhanh bị thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch ""chinh phục từng g6i nhỏ"". Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam Kì có sự thay đổi. Nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I-ta-li-a, phải cho rút toàn bộ số quân ở Đà Nang vào Gia Định (23 - 3 - 1860). Vì phải chia xẻ lực lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1 000 tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hoà mới được xây dựng, trong tư thế ""thủ hiểm""." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau Hiệp ước 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất cao lá cờ ""Bình tây Đại nguyên soái"", hoạt động của nghĩa quân đã củng cố niềm tin của dân chúng, khiến bọn cướp nước và bản nước phải run sợ. Nghĩa quân tranh thủ thời gian ra sức xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí, liên kết lực lượng, đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi. biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hoà, ngày 28 - 2 -1863 giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đến, sau đó rút lui đề bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở Tân Phướcc. Ngày 20 - 8 -1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở của Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào căn cứ Tân Phướcc. Nghĩa quân chống trả quyết liệt. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát đề bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tổ chức bộ máy cai trị và chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng. Năm 1863, thực dân Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ lên đất Cam-pu-chia. Sau đó, chúng vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước 1862, yêu cầu triều đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền tây Nam Kì. Trước yêu cầu này, triều đình vô cùng lúng túng. Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20 - 6 -1867, quân Pháp kéo đến trước thành Vĩnh Long, ép Phan Thanh Giản (lúc đó đang giữ chức Kinh lược sứ của triều đình) phải nộp thành không điều kiên. Chúng còn khuyến ông viết thư cho quan quân hai tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí nộp thành. Trong vòng 5 ngày (từ 20 đến 24 -6 -1867), thực dân Pháp đã chiếm gọn ba tỉnh miền tây Nam Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không tốn một viên đạn." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Sau khi ba tỉnh miền tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn quân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển ra vùng Bình Thuận (Nam Trung Kì) nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân, tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Con trai Trương Định là Trương Quyền đưa một bộ phán nghĩa binh lên tây Ninh lập căn cứ mới. Ông còn liên lạc với Pu-côm-bô (người Cam-pu-chi đề tổ chức chông Pháp. Năm 1867, tại vùng dọc theo sông Cửu Long có căn cứ Ba Tri (Bến Tre) do hai anh em Phan Tôn, Phan Liêm (con của Phan Thanh Giản) lãnh đạo. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Khi bị giặc bắt đem đi hành hình, ông đã khảng khái nói: ""Bao giờ người tây nhổ7 hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh tây"". Nguyễn Hữu Huân bị đi đầy ngoài hải đảo, khi được tha về lại tiếp tục chông Pháp ở Tân An, Mĩ Tho đến năm 1875. Những toán quân của quân Văn Nhíp ở Mĩ Tho; anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự ở Tân An; Phan Tòng ở Ba Tri; Lê Công Thành, Phan Văn Đạt, Phạm Văn đồng, Âu dương Lân ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ hoạt động mạnh mẽ.  Trong điều kiên khó khăn hơn nhiều so với thời kì thực dân Pháp mới xâm chiếm Nam Kì, phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền tây vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ngày một chệnh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối cùng phong trào đều bị đàn áp và thất bại. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói chung, của nhân dân ba tỉnh miền tây nói riêng, là những biểu hiên cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 19: Nhân dân Việt nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873),"Người phương Tây, đầu tiên là các lái buôn Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, đã biết đến Việt Nam từ thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn Lôn của Việt Nam, nhưng không thành. Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc truyền đạo Thiên Chúa để chuẩn bị tiến hành cuộc xâm lược. Thế kỉ XVII, các giáo sĩ Pháp đã tới Việt Nam truyền đạo; một số giáo sĩ kết hợp truyền giáo với việc dò xét tình hình, vẽ bản đổ, chuẩn bị cho cuộc xâm nhập của tư bản Pháp. Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực nước ngoài để khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc (Pi-nhô đờ Bê-hen) đã nắm cơ hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam. Nhờ sự môi giới của Bá Đa Lộc, Hiệp ước Vécxai (1787) được kí kết. Pháp hứa sẽ đem quân sang giúp Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn; còn Nguyễn Ánh nhượng cho Pháp cảng Hội An, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán ở Việt Nam. Nhưng vì nhiều lí do, bản Hiệp ước này đã không thực hiện được. Đến giữa thế kỉ XIX, nước Pháp phát triển nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo riết tìm cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á. Năm 1857, Na-pô-lê-ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta; tiếp đó cho sứ thần tới Huế đòi được ""tự do buôn bán và truyền đạo"". Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh - Mĩ xâm lược Trung Quốc và lệnh cho Phó Đô đốc Ri-gôn đơ Giơ-nui-y chỉ huy hạm đội Pháp đánh Việt Nam ngay sau khi chiếm được Quảng Châu (Trung Quốc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước Châu Âu được giải phóng. Ở mặt trận Châu Á - Thái Bình dương, quân đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. Ở Đông dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyến bố ""giúp các dân tộc Đông dương xây dựng nền độc lập"". Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ""Quốc trưởng"". Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị ""Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"". Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín mùi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông dương. Khẩu hiệu ""Đánh đuổi Pháp - Nhật được thay bằng khẩu hiệu Đánh đuổi phát xít Nhật"". Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Hội nghị quyết định phát động một ""cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Ngày 25 - 8 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (28 - 8 - 1945). Trong những ngày lịch sử này, Hồ Chí Minh soạn thảo bản tuyên ngôn Độc lập, chuẩn bị mọi công việc để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. Bản tuyên ngôn nêu rõ: ""Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà"". Cuối bản tuyến ngôn, Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững nền độc lập, tự do vừa giành được: ""Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"". Ngày 2 - 9 - 1945 mãi mãi đi vào lịch sử Việt Nam, là một trong những ngày hội lớn nhất, vẻ vang nhất của dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Ở khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, Châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng được thành lập, các hội Cứu quốc được củng cố và phát triển. Ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp - Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu ""Phá kho thóc giải quyết nạn đói"". Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có. Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đối dưới nhiều hình thức. Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Quảng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh... đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên tại nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh, 10 - 3), Bần Yên Nhân (Hưng Yên, 11 - 3)... ở Quảng Ngãi, từ chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11 - 3), tổ chức đội du kích Ba Tơ. Đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thức đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa về sau. Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất tại Mĩ Tho và Hậu Giang." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.,Bài 19: Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.,"Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước Châu Âu được giải phóng. Ở mặt trận Châu Á - Thái Bình dương, quân đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. Ở Đông dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyến bố ""giúp các dân tộc Đông dương xây dựng nền độc lập"". Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ""Quốc trưởng"". Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh). Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị ""Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"". Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín mùi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông dương. Khẩu hiệu ""Đánh đuổi Pháp - Nhật"" được thay bằng khẩu hiệu ""Đánh đuổi phát xít Nhật"". Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Hội nghị quyết định phát động một ""cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa""." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Trong các thế kỉ X - XV, cùng với sự nghiệp chính trị, quân sự và phát triển kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã từng bước xây dựng cho mình một nền văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc. Những thành tựu văn hoá đạt được, vừa là sản phẩm của sự nghiệp chung nói trên, vừa đặt nền móng vững chắc lâu dài cho dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Bước sang thời độc lập, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo vốn được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc, có điều kiện phát triển. Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai cấp phong kiến thống trị, được đặt thành những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ và là tư tưởng chi phối nội dung giáo dục, thi cử. Tuy nhiên, ở các thế kỉ X - XIV, trong nhân dân, ảnh hưởng của Nho giáo còn ít, đạo Phật còn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và rất phổ biến. Các nhà sư được triều đình tôn trọng, có lúc đã tham gia bàn việc nước. Vua, quan nhiều người theo đạo Phật, góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, viết giáo lí nhà Phật. Sử cũ viết: ""Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức... cấp độ điệp cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng"". Chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi, nhiều người theo đạo Phật, đến nỗi một vị quan thời Trần đã nhận xét: Thiên hạ năm phần thì sư tăng chiếm một"", hoặc ""chỗ nào có người ở đều có chùa thờ Phật"". Đạo giáo tuy không phổ cập nhưng hoà lẫn với các tín ngưỡng dân gian. Một số đạo quán được xây dựng. Từ cuối thế kỉ XIV, Phật giáo và Đạo giáo suy dần. Thời Lê Sơ, Nho giáo được chính thức nâng lên địa vị độc tôn và vị trí đó được duy trì cho đến cuối thế kỉ XIX. Số người theo đạo Phật, Đạo giáo giảm bớt. Nhà nước phong kiến ban hành nhiều điều lệnh nhằm hạn chế sự phát triển của Phật giáo, thiết lập tôn ti trật tự xã hội của Nho giáo trong nhân dân. Sự phát triển của giáo dục Nho học cũng góp phần củng cố vị trí của Nho giáo." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài cho đất nước. Nội dung học tập được quy định chặt chẽ. Thời Lê Sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi Hội, chọn Tiến sĩ. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức 12 khoa thi Hội. Số người đi học ngày càng đông, dân trí do đó được nâng cao. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia, ghi tên Tiến sĩ. Hàng loạt trí thức tài giỏi dược đào tạo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Nho học không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài cho đất nước. Nội dung học tập được quy định chặt chẽ. Thời Lê Sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng: cứ 3 năm có một kỳ thi Hội, chọn Tiến sĩ. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức 12 khoa thi Hội. Số người đi học ngày càng đông, dân trí do đó được nâng cao. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia, ghi tên Tiến sĩ. Hàng loạt trí thức tài giỏi được đào tạo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Nho học không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Sự phát triển giáo dục góp phần phát triển văn học. Ban đầu, văn học chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng Phật giáo. Từ thời Trần, văn học dân tộc ngày càng phát triển. Hàng loạt bài thơ, bài hịch, bài phú nổi tiếng như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng giang phú, v.v... cùng hàng loạt tập thơ chữ Hán đã ra đời, vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc. Văn thơ phát triển đến mức, cuối thế kỷ XIV, Trần Nguyên Đán đã thốt lên: ""Tướng võ, quan hầu đều biết chữ, thợ thuyền, thư lại cũng hay thơ."" Ở thế kỷ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm (được sáng tạo từ thế kỷ XI - XII) đều phát triển với sự xuất hiện của hàng loạt tập thơ của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lý Tử Tấn, v.v... có nội dung ca ngợi đất nước." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Nghệ thuật cũng có những bước phát triển mới. Trong các thế kỷ X - XIV, những công trình nghệ thuật Phật giáo được xây dựng ở khắp mọi nơi như chùa Một Cột (Diên Hựu), chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh. Chuông, tượng cũng được đúc, tạc rất nhiều. Cuối thế kỷ XIV, thành nhà Hồ (Vĩnh Lộc - Thanh Hoá) được xây dựng và trở thành một điển hình của nghệ thuật xây thành ở nước ta. Ở phía nam, nhiều đền tháp Chăm được xây dựng thêm, mang phong cách nghệ thuật đặc sắc. Xuất hiện nhiều tác phẩm điêu khắc mang những họa tiết hoa văn độc đáo như rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bông cúc nhiều cánh, bệ chân cột hình hoa sen nở... cùng nhiều bức phù điêu có hình các cô tiên, các vũ nữ vừa múa vừa đánh đàn. Nghệ thuật sân khấu như chèo, tuồng ra đời từ sớm và ngày càng phát triển. Múa rối nước là một nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh (ở Hà Nam, khắc năm 1121) viết: ""Hàng nghìn chiếc thuyền bơi giữa dòng nhanh như chớp... Làn nước rung rinh, rùa vàng nổi lên đội ba quả núi... lộ vân trên vỏ và xòe bốn chân, nhe răng trợn mắt... Các thần tiên xuất hiện, nét mặt nhuần nhị thanh tâm há phải đâu vẻ đẹp của người trần thế, tay nhỏ nhắn mềm mại múa điệu hồi phong..."" Âm nhạc phát triển với nhiều nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm, đàn tranh, chiêng cồng, v.v... Các nghệ nhân sáng tác nhiều bản nhạc để tấu hát trong các buổi lễ hội. Ca múa được tổ chức trong các lễ hội, ngày mùa ở khắp các làng bản miền xuôi cũng như miền ngược. Cùng với các điệu ca, điệu múa, còn có các cuộc đua tài như đấu vật, đua thuyền, đá cầu... " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,Bài 20: Xây dựng và phát triển văn h6a dân tộc trong các thế kỉ X-XV,"Cùng với sự phát triển của giáo dục và ý thức dân tộc, nhiều ngành khoa học - kỹ thuật cũng đạt được những thành tựu có giá trị. Thời Trần, bộ Đại Việt sử ký (của Lê Văn Hưu) - bộ sử chính thống của nhà nước - được biên soạn. Ở các thế kỷ sau, nhiều bộ sử khác như Lam Sơn thực lục, Đại Việt sử ký toàn thư... được soạn thảo. Về địa lý có Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ; về quân sự có Binh thư yếu lược; về các thiết chế chính trị có bộ Thiên Nam dư hạ; về toán học có Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu. Nhu cầu quốc phòng đã tạo điều kiện cho các quan xưởng, dưới sự chỉ đạo của Hồ Nguyên Trừng, chế tạo súng thần cơ và đóng các thuyền chiến có lầu. Thành nhà Hồ (ở Thanh Hoá) cũng là một thành tựu kỹ thuật quan trọng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Từ sau năm 1867, thực dân Pháp từng bước mở rộng việc đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. Năm 1873, chúng đem quân đánh chiếm thành Hà Nội và một số tỉnh thành ở Bắc Kì lần thứ nhất, triều đình nhà Nguyễn tiếp tục lún sâu vào con đường thoả hiệp, kí Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874. Năm 1882, Pháp lại đưa quân đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai, sau đó quyết định đánh thẳng vào Huế. Hai bản hiệp ước 1883 và 1884 đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình phong kiến Việt Nam và xác lập nền bảo hộ của Pháp trên toàn bộ đất nước ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Từ năm 1867, sau khi cả sáu tỉnh Nam Kì rơi vào tay Pháp, tư tưởng đầu hàng đã chi phối các quan lại cao cấp trong triều đình Huế. Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chính sách ""bế quan toả cảng"", tuy đã bắt đầu cử người sang phương Tây học kĩ thuật hoặc vào Nam học tiếng Pháp. Đối với sáu tỉnh Nam Kì, dường như triều đình Huế đã mặc nhiên thừa nhận đó là vùng đất của Pháp, không nghĩ gì đến việc giành lại. Nền kinh tế của đất nước ngày càng bị kiệt quệ vì triều đình vơ vét tiền bạc để trả chiến phí cho Pháp. Đời sống ngày một khó khăn, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, nhân dân bất bình đứng lên chống triều đình ngày một nhiều. Dọc theo biên giới hai nước Việt - Lào, đồng bào Mường ngoài Bắc và đồng bào Thượng ở Nam Trung Kì nổi dậy. Lợi dụng tình thế đó, bọn thổ phỉ, hải phỉ (từ Trung Quốc tràn sang) cũng nổi lên cướp phá ở nhiều nơi. Để đối phó, nhà Nguyễn đã đàn áp đẫm máu các cuộc khởi nghĩa nông dân, đồng thời cầu cứu nhà Thanh phái quân sang đánh đẹp các toán phỉ. Trong khi đó, ở Nam Kì thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho việc thôn tính cả nước ta. Đứng trước vận nước nguy nan, một số quan chức, sĩ phu có học vấn cao, có dịp đi nước ngoài, tầm mắt rộng mở như: Nguyễn Hiệp, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đinh Văn Điền, ... và nhất là Nguyễn Trường Tộ, đã mạnh dạn dâng lên triều đình những bản điều trần, bày tỏ ý kiến cải cách duy tân. Nhưng phần lớn các đề nghị cải cách đã không được thực hiện." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Từ năm 1867, sau khi cả sáu tỉnh Nam Kì rơi vào tay Pháp, tư tưởng đầu hàng đã chi phối các quan lại cao cấp trong triều đình Huế. Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chính sách ""bế quan toả cản"", tuy đã bắt đầu cử người sang phương Tây học kĩ thuật hoặc vào Nam học tiếng Pháp. Đối với sáu tỉnh Nam Kì, dường như triều đình Huế đã mặc nhiên thừa nhận đó là vùng đất của Pháp, không nghĩ gì đến việc giành lại. Nền kinh tế của đất nước ngày càng bị kiệt quệ vì triều đình vơ vét tiền bạc để trả chiến phí cho Pháp. Đời sống ngày một khó khăn, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, nhân dân bất bình đứng lên chống triều đình ngày một nhiều. Dọc theo biên giới hai nước Việt - Lào, đồng bào Mường ngoài Bắc và đồng bào Thượng ở Nam Trung Kì nổi dậy. Lợi dụng tình thế đó, bọn thổ phỉ, hải phỉ (từ Trung Quốc tràn sang) cũng nổi lên cướp phá ở nhiều nơi. Để đối phó, nhà Nguyễn đã đàn áp đẫm máu các cuộc khởi nghĩa nông dân, đồng thời cầu cứu nhà Thanh phái quân sang đánh đẹp các toán phỉ. Trong khi đó, ở Nam Kì thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho việc thôn tính cả nước ta. Đứng trước vận nước nguy nan, một số quan chức, sĩ phu có học vấn cao, có dịp đi nước ngoài, tầm mắt rộng mở như: Nguyễn Hiệp, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đinh Văn Điền, ... và nhất là Nguyễn Trường Tộ, đã mạnh dạn dâng lên triều đình những bản điều trần, bày tỏ ý kiến cải cách duy tân. Nhưng phần lớn các đề nghị cải cách đã không được thực hiện." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Sau khi chiếm được các tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biên nơi đây thành bàn đạp chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước. Chúng phái gián điệp ra Bắc, điều tra tình hình bố phòng của ta, bắt liên lạc với Giăng Đuy-puy, một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc - Việt Nam. Ngoài ra, Pháp còn lôi kéo một số tín đổ Công giáo lầm lạc, kích động họ nổi lên chống triều đình, hình thành đạo quân nội ứng cho cuộc xâm lược sắp đến. Tháng 11 - 1872, ỷ thế nhà Thanh, Đuy-puy tự tiện cho tàu theo sông Hổng lên Vân Nam buôn bán, dù chưa được phép của triều đình Huế. Hắn còn ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hổng, có nhượng địa ở Hà Nội, được cấp than đá để đưa sang Vân Nam. Lính Pháp và thổ phỉ dưới trướng Đuy-puy còn cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan, lính và dân ta đem xuống tàu; khước từ lòi mòi tới thương thuyết của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương... Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ giải quyết ""vụ Đuy-puy"" đang gây rối ở Hà Nội, thực dân Pháp ở Sài Gòn phái Đại uý Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc. Ngày 5 -11 - 1873, đội tàu chiến của Gác-ni-ê đến Hà Nội. Sau khi hội quân với Đuy-puy, quân Pháp liền giở trò khiêu khích. Ngày 16 -11 -1873, sau khi có thêm viện binh, Gác-ni-ê liền tuyên bố mở cửa sông Hổng, áp dụng biểu tHuế quan mới. Sáng 19 -11, hắn gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu giải tán quân đội, nộp khí giới... Không đợi trả lời, mờ sáng 20 - 11 -1873, quân Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội. Những ngày sau đó, chúng đưa quân đi chiếm các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc Kì: Hưng Yên (23 -11), Phủ Lí (26 -11), Hải Dương (3 -12), Ninh Bình (5 -12) và Nam Định (12 -12)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Hành động xâm lược của quân Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẫn. Ngay khi Gác-ni-ê ra đến Hà Nội, quân dân ta đã bấthợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.  Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh tới người cuối cùng tại cửa 0 Thanh Hà (sau được đổi tên thành 0 Quan Chưởng). Trong thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt, ông đã khước từ sự chữa chạy của Pháp, nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu. Thành Hà Nội bị giặc chiếm, quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu, văn thân yêu nước đã lập Nghĩa hội, bí mật tổ chức chống Pháp. Tại các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định..., quân Pháp cũng vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Hành động xâm lược của quân Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẫn. Ngay khi Gác-ni-ê ra đến Hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.  Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh tới người cuối cùng tại cửa 0 Thanh Hà (sau được đổi tên thành 0 Quan Chưởng). Trong thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt, ông đã khước từ sự chữa chạy của Pháp, nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu. Thành Hà Nội bị giặc chiếm, quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu, văn thân yêu nước đã lập Nghĩa hội, bí mật tổ chức chống Pháp. Tại các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định..., quân Pháp cũng vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Trận đánh gây được tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân ta tại Cầu Giấy ngày 21 -12 -1873. Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh Nam Định, việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phối hợp với đội quân Cò đen của Lưu Vĩnh Phú từ Sơn Tây kéo về Hà Nội, hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê phải tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21 -12 -1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của quân ta tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị tiêu diệt. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi; ngược lại, làm cho thực dân Pháp hoang mang, lo sợ và tìm cách thương lượng.  Triều đình Huế lại kí kết Hiệp ước năm 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất), theo đó quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở để thực hiện các bước xâm lược về sau. Hiệp ước 1874 gồm 22 điều khoản. Với Hiệp ước này, triều đình nhà Nguyễn chính thức thừa nhân sáu tỉnh Nam Kì là đất thuộc Pháp, công nhân quyền đi lại, buôn bán, kiếm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam của chúng... Hiệp ước 1874 gây bất bình lớn trong nhân dân và sĩ phu yêu nước. Phong trào đấu tranh phản đối Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy ở Nghệ An, Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển lãnh đạo." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Từ những năm 70 của thế kỉ XIX, nước Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Yêu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân công và lợi nhuận được đặt ra ngày càng cấp thiết. Thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam. Để dọn đường, quân Pháp lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước 1874 để phái người đi điều tra tình hình mọi mặt ở Bắc Kì. Năm 1882, chúng lại vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra Bắc. Ngày 3 - 4 -1882, quân Pháp do Đại tá hải quân Ri-vi-e chỉ huy bất ngờ đổ bộ lên Hà Nội. Ngày 25 - 4, sau khi được tăng thêm viện binh, chúng gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, yêu cầu quân đội triều đình hạ vũ khí, giao thành trong vòng 3 giờ đồng hổ.  Chưa hết thời hạn, địch đã nổ súng chiếm thành. Quân Pháp cướp nhiều vàng bạc châu báu, phá huỷ các công thành, các khẩu đại bác, vứt thuốc đạn xuống hào nước, lây hành cung làm đại bản doanh, cho củng cố khu nhượng địa ở bờ sông Hổng, chiếm Sở Thương chính, dựng lên chính quyền tay sai để tạm thời cai quản thành Hà Nội... Nhân lúc triều đình Huế còn đang hoang mang, lơ là, mất cảnh giác, Ri-vi-e đã cho quân chiếm vùng mỏ than Hòn Gai, Quảng Yên và tỉnh thành Nam Định (3 -1883). " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Ngay từ đầu, quân Pháp đã vấp phải tinh thần quyết chiến của quân dân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa cản giặc. Trưa 25 - 4, khi quân Pháp mở cuộc tấn công vào thành, Hoàng Diệu đã lên mặt thành chỉ huy quân sĩ kiên quyết chống cự, nhưng vẫn không giữ được thành. Để bảo toàn khí tiết, sau khi thảo tờ di biểu gửi triều đình, Hoàng Diệu đã tự vẫn trong vườn Võ Miếu (dưới chân Cột cờ Hà Nội ngày nay) để khỏi rơi vào tay giặc.  Thành Hà Nội rơi vào tay giặc, nhưng nhiều sĩ phu, văn thân vẫn tiếp tục tổ chức kháng chiến. Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản đem quân chốt giữ Sơn Tây, Bắc Ninh, hình thành hai gọng kìm áp sát Hà Nội. Nhân dân không bán lương thực cho Pháp. Nhiều đội nghĩa dũng được thành lập ở các tỉnh, tự động rào làng, đắp cản. Khi Pháp đánh Nam Định, nhân dân đốt hết các dãy phố dọc sông Vị Hoàng phía ngoài thành, tạo nên bức tường lửa ngăn quân giặc. Nguyễn Hữu Bản, con của Nguyễn Mậu Kiến, nối tiếp chí cha, mộ quân đánh Pháp và đã hi sinh trong chiến đấu. Vòng vây của quân dân ta xung quanh Hà Nội ngày càng siết chặt đã buộc Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19 -5 -1883, một toán quân Pháp do Ri-vi-e đích thân chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo đường đi Sơn Tây, nhưng đến Cầu Giấy bị đội quân thiên chiến của Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đổ ra đánh. Hàng chục tên giặc bị tiêu diệt, trong đó có cả Tổng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kì là Ri-vi-e. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân ta. Tuy nhiên, triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng thu hồi Hà Nội bằng con đường thương thuyết." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Sau thất bại trong trận Cầu Giấy lần thứ hai (19 - 5 -1883), khác với lần trước, thực dân Pháp càng củng cố dã tâm xâm chiếm toàn bộ Việt Nam. Nhân cái chết của Ri-vi-e, tư bản Pháp lớn tiêng kêu gọi ""trả thù"". Một kế hoạch về tài chính và quân sự nhanh chóng được thông qua. Nhân lúc triều đình bận rộn vì vua Tự Đức mới qua đời (17 -5 -1883), thực dân Pháp đã quyết định đánh thẳng vào Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn phải đầu hàng. Sáng 18 - 8 - 1883, hạm đội của Pháp do Đô đốc Cuốc-bê chỉ huy tiến vào Thuận An, cửa họng của Kinh thành Huế. Cuốc-bê đưa tối hậu thư đòi triều đình giao toàn bộ các pháo đài. Từ 4 giờ chiều hôm đó, quân Pháp bắt đầu nổ súng và công phá trong suốt 2 ngày liền. Ngày 20 - 5 -1883, chúng đổ bộ lên bờ. Quân dân ta anh dũng chống trả. Các quan trấn thủ Lê Sĩ, Lê Chuẩn, Lâm Hoành, Nguyễn Trung và nhiều binh sĩ đã hi sinh trong chiến đấu. Đên chiều tối, toàn bộ cửa Thuận An lọt vào tay giặc. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Được tin Pháp mở cuộc tấn công, triều đình Huế vô cùng bối rối, xin đình chiến. Ngày 25 - 8 -1883, triều đình Huế kí với Pháp một bản hiệp ước do Pháp thảo sẵn (thường gọi là Hiệp ước Hácmăng). Hiệp ước Hácmăng có những nội dung chủ yếu sau đây: Việt Nam đặt dưới sự ""bảo hộ của Pháp"". Nam Kì là xứ thuộc địa từ năm 1874 nay được mở rộng ra đến hết tỉnh Bình Thuận. Bắc Kì (gồm cả Thanh - Nghệ - Tĩnh) là đất bảo hộ. Trung Kì (phần đất còn lại) giao cho triều đình quản lí. Đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở Trung Kì. Mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc đều do Pháp nắm giữ).  Về quân sự: triều đình phải nhân các huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy của Pháp, phải triệu hồi binh lính từ Bắc Kì về kinh đô (Huế). Pháp được đóng đổn binh ở những nơi xét thấy cần thiết ở Bắc Kì, được toàn quyền xử trí đội quân Cò đen. Về kinh tế: Pháp nắm và kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước. Mặc dù triều đình đã kí Hiệp ước Hácmăng, ra lệch giải tán phong trào kháng chiến của nhân dân, nhưng các hoạt động chống Pháp ở các tỉnh Bắc Kì vẫn không chấm dứt. Nhiều trung tâm kháng chiến tiếp tục hình thành. Những toán nghĩa binh dưới sự chỉ huy của các quan lại chủ chiến như Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phan Vụ Mẫn, Hoàng Đình Kinh... đã phối hợp với lực lượng quân Thanh (kéo sang từ mùa thu năm 1882) liên tiếp tiến công quân Pháp, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Để chấm dứt chiến sự, từ tháng 12 -1883 quân Pháp tiến hành các cuộc hành binh nhằm tiêu diệt các ổ đề kháng còn sót lại. Chúng đưa quân lên chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang và tiến hành thương lượng để loại trừ sự can thiệp của triều đình Mãn Thanh bằng bản Quy ước Thiên Tân (11 - 5 -1884). Tiếp đó, Chính phủ Pháp cử Pa-tơ-nốt sang Việt Nam và kí với triều đình Huế bản Hiệp ước mới vào ngày 6 - 6 -1884. Bản Hiệp ước 6 - 6 -1884 (Hiệp ước Patơnốt) gồm 19 điều khoản, căn bản dựa trên Hiệp ước Hácmăng (25 - 8 - 1883), nhưng được sửa chữa một số điều nhằm xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm những phần tử phong kiến đầu hàng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Trong hoàn cảnh phải đối phó với dã tâm xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở Nam Bộ, sự uy hiếp của quân Trung Hoa Dân quốc ở ngoài Bắc hòng lật đổ chính quyền cách mạng, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc; từ đó chủ trương tạm thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc. Với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Trung Hoa Dân quốc không dám ra mạt công khai, mà dùng bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách phá hoại cách mạng nước ta tù bên trong. Dựa vào quân Trung Hoa Dân quốc, bọn tay sai đòi ta cải tổ Chính phủ, dành cho chúng một số ghế trong Quốc hội không qua bâu củ, đòi những người cộng sản ra khỏi Chính phủ... Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại phiên họp đầu tiên (2 - 3 - 1946), Quốc hội khoá I đồng ý nhường cho các đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp chính thức, Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước; đồng thời nhân nhượng cho quân Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiên giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường. Để giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đổ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố ""tự giải tán (11 - 11 - 1945), nhưng thật ra là tạm thời rứt vào hoạt động ""bí mật"", tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng. Tháng 7 - 1946, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản, giới trí thức yêu nước thành lập Đảng Xã hội Việt Nam. Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chứng đã kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chứng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng. Những biện pháp trên đã hạn chế các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chứng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta. Để thực hiện ý đổ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc và kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 2 - 1946). Theo đó, Trung Hoa Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Vân Nam không phải đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản. Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm sứng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chứng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hoà hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó cùng một lức với nhiều kẻ thù. Ngày 3 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp ""hoà để tiến"". Chiều 6 - 3 - 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kí với G. Xanhtơni - đại diện Chính phủ Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Trong hơn một năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, cách mạng nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, có giải quyết được thì thành quả cách mạng mới được giữ vững và phát huy. xây dựng chính quyền cách mạng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, bảo vệ chính quyền... là những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 8 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 6 - 1 - 1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu Bắc - Trung - Nam vào Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu ra những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Sau cuộc bâu củ Quốc hội, tại các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ, nhân dân tiến hành bâu củ hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, xã) theo nguyên tắc phổ thông đấu phiếu. Uỷ ban hành chính các cấp được thành lập.  Ngày 2 - 3 - 1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội xác nhận thành tích của Chính phủ lâm thời trong những ngày đầu xây dựng chế độ mới, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9 - 11 - 1946. Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân (thành lập tháng 5 - 1945), được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 - 1945). Ngày 22 - 5 - 1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành quân đội Quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt ở hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 8 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 6 - 1 - 1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu Bắc - Trung - Nam vào Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu ra những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Sau cuộc bâu củ Quốc hội, tại các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ, nhân dân tiến hành bâu củ hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, xã) theo nguyên tắc phổ thông đấu phiếu. Ủy ban hành chính các cấp được thành lập.  Ngày 2 - 3 - 1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội xác nhận thành tích của Chính phủ lâm thời trong những ngày đầu xây dựng chế độ mới, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9 - 11 - 1946. Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân (thành lập tháng 5 - 1945), được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 - 1945). Ngày 22 - 5 - 1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành quân đội Quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt ở hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Một trong những nhiệm vụ cấp bách sau Cách mạng tháng Tám là giải quyết nạn đói và khó khăn về tài chính. đề giải quyết nạn đói, Chính phủ lâm thời đề ra nhiều biện pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương trong nước, nghiêm trị những người đầu cơ tích trữ gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước ""Nhường cơm sẻ áo"". Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân dân ta lập ""Hũ gạo cứu đói"", tổ chức ""Ngày đồng tâm"", không dùng gạo, ngô, khoai, sắn... đề nấu rượu. đề giải quyết căn bản nạn đói, tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi ""Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa !"".  Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một phong trào thi đua tăng gia sản xuất dấy lên khắp cả nước, dưới các khẩu hiệu ""Tấc đất tấc vàng"", ""Không một tấc đất bỏ hoang""... Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ thuế quân và các thứ thuế vô lí khác của chế độ cũ, giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, dân chủ. Nhờ những biện pháp tích cực trên đấy, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước. đề khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng ""Quỹ độc lập, phong trào ""Tuần lễ vàng do Chính phủ phát động, nhân dân ta hăng hái đóng góp tiền của, vàng bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc. Chỉ trong thời gian ngân, nhân dân đỡ tự nguyện đóng góp 370 kilôgam vàng, 20 triệu đồng vào ""Quỹ độc lập"", 40 triệu đồng vào ""Quỹ đảm phụ quốc phòng"". Ngày 23 - 11 - 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông dương của Pháp trước đấy." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Xoá nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân cũng là một trong những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Ngày 8 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ - cơ quan chuyên trách việc chống ""giặc dốt - kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xoá nạn mù chữ. Trong vòng một năm, từ ngày 8 - 9 - 1945 đến ngày 8 - 9 - 1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76000 lớp học, xoá mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được xác định theo tinh thần dân tộc - dân chủ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Trong hoàn cảnh phải đối phó với dã tâm xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở Nam Bộ, sự uy hiếp của quân Trung Hoa Dân quốc ở ngoài Bắc hòng lật đổ chính quyền cách mạng, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc; từ đó chủ trương tạm thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc. Với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Trung Hoa Dân quốc không dám ra mạt công khai, mà dùng bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách phá hoại cách mạng nước ta từ bên trong. Dựa vào quân Trung Hoa Dân quốc, bọn tay sai đòi ta cải tổ Chính phủ, dành cho chúng một số ghế trong Quốc hội không qua bâu củ, đòi những người cộng sản ra khỏi Chính phủ... Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại phiên họp đầu tiên (2 - 3 - 1946), Quốc hội khoá I đồng ý nhường cho các đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp chính thức, Nguyễn Hải Thần (lãnh tự Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước; đồng thời nhân nhượng cho quân Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiên giao thông vận tài, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường. đề giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đổ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng Cộng sản Đông dương tuyến bố""tự giải tán (11 - 11 - 1945), nhưng thật ra là tạm thời rứt vào hoạt động ""bí mật"", tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng. Tháng 7 - 1946, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản, giới trí thức yêu nước thành lập Đảng Xã hội Việt Nam. Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chứng đã kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chứng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng. Những biện pháp trên đã hạn chế các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chứng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta. đề thực hiện ý đổ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc và kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 2 - 1946). Theo đó, Trung Hoa Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào vẫn Nam không phải đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản. Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chứng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hoà hoãn, nhân nhượng Pháp đề tránh tình trạng phải đối phó cùng một lức với nhiều kẻ thù. Ngày 3 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp ""hoà đề tiến"". Chiều 6 - 3 - 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kí với G. Xanhtơni - đại diện Chính phủ Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Nội dung cơ bản của Hiệp định: - Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, và là thành viên của Liên bang Đông dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp. - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoả thuận cho 15 000 quân Pháp ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm. - Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở phía Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn các vấn đề về ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông dương, quyền lợi kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam. Kí Hiệp định Sơ bộ, hoà hoãn với Pháp, ta đã tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, có thêm thời gian hoà bình đề củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gậy xung đột vũ trang ở Nam Bộ, lộp Chính phủ Nam Kỉ tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Do ta đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai chính phủ Việt Nam và Pháp đã được tổ chức tại Phôngtennơblô (Pháp) từ ngày 6 - 7 - 1946. Cuộc đàm phán thất bại vì phía Pháp ngoan cố không chịu công nhận độc lập và thống nhất của nước ta. Trong lúc đó, tại Đông dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước Pháp với tư cách thượng khách, đã kí với Mutê - đại diện của Chính phủ Pháp - bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hoá ở Việt Nam. Bản Tạm ước đã tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian hoà hoãn đề xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc khó tránh khỏi chống thực dân Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Trận đánh gậy được tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân ta tại Cầu Giấy ngày 21 -12 -1873. Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh Nam Định, việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phối hợp với đội quân Cò đen của Lưu Vĩnh Phú từ Sơn tây kéo về Hà Nội, hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê phải tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21 -12 -1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của quân ta tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị tiêu diệt. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi; ngược lại, làm cho thực dân Pháp hoang mang, lo sợ và tìm cách thương lượng.  Triều đình Huế lại kí kết Hiệp ước năm 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất), theo đó quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở đề thực hiện các bước xâm lược về sau. Hiệp ước 1874 gồm 22 điều khoản. Với Hiệp ước này, triều đình nhà Nguyễn chính thức thừa nhân sáu tỉnh Nam Kì là đất thuộc Pháp, công nhân quyền đi lại, buôn bản, kiếm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam của chúng... Hiệp ước 1874 gậy bất bình lớn trong nhân dân và sĩ phu yêu nước. Phong trào đấu tranh phản đối Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy ở Nghệ An, Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển lãnh đạo." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Từ những năm 70 của thế kỉ XIX, nước Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. yêu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân công và lợi nhuận được đặt ra ngày càng cấp thiết. Thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam. đề dọn đường, quân Pháp lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước 1874 đề phái người đi điều tra tình hình mọi mặt ở Bắc Kì. Năm 1882, chúng lại vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 đề lấy cớ kéo quân ra Bắc. Ngày 3 - 4 -1882, quân Pháp do Đại tá hải quân Ri-vi-e chỉ huy bất ngờ đổ bộ lên Hà Nội. Ngày 25 - 4, sau khi được tăng thêm viện binh, chúng gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, yêu cầu quân đội triều đình hạ vũ khí, giao thành trong vòng 3 giờ đồng hổ.  Chưa hết thời hạn, địch đã nổ súng chiếm thành. Quân Pháp cướp nhiều vàng bạc Châu báu, phá huỷ các công thành, các khẩu đại bác, vứt thuốc đạn xuống hào nước, lấy hành cung làm đại bản doanh, cho củng cố khu nhượng địa ở bò sông Hồng, chiếm Sở Thương chính, dựng lên chính quyền tay sai đề tạm thời cai quản thành Hà Nội... Nhân lúc triều đình Huế còn đang hoang mang, lơ là, mất cảnh giác, Ri-vi-e đã cho quân chiếm vùng mỏ than Hòn Gai, Quảng Yên và tỉnh thành Nam Định (3 -1883). " 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Ngay từ đầu, quân Pháp đã vấp phải tinh thần quyết chiến của quân dân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa cản giặc. Trưa 25 - 4, khi quân Pháp mở cuộc tấn công vào thành, Hoàng Diêu đã lên mặt thành chỉ huy quân sĩ kiên quyết chống cự, nhưng vẫn không giữ được thành. đề bảo toàn khí tiết, sau khi thảo tờ di biểu gửi triều đình, Hoàng Diêu đã tự vẫn trong vườn Võ Miếu (dưới chân Cột cờ Hà Nội ngày nay) đề khỏi rơi vào tay giặc. Thành Hà Nội rơi vào tay giặc, nhưng nhiều sĩ phu, văn quân vẫn tiếp tục tổ chức kháng chiến. Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản đem quân chốt giữ Sơn tây, Bắc Ninh, hình thành hai gọng kìm áp sát Hà Nội. Nhân dân không bản lương thực cho Pháp. Nhiều đội nghĩa dũng được thành lập ở các tỉnh, tự động rào làng, đắp cản. Khi Pháp đánh Nam Định, nhân dân đốt hết các dãy phố’ dọc sông Vị Hoàng phía ngoài thành, tạo nên bức tường lửa ngăn quân giặc. Nguyễn Hữu Bản, con của Nguyễn Mậu Kiến, nối tiếp chí cha, mộ quân đánh Pháp và đã hi sinh trong chiến đấu. Vòng vây của quân dân ta xung quanh Hà Nội ngày càng siết chặt đã buộc Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19 -5 -1883, một toán quân Pháp do Ri-vi-e đích quân chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo đường đi Sơn tây, nhưng đến Cầu Giấy bị đội quân thiên chiến của Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đổ ra đánh. Hàng chục tên giặc bị tiêu diệt, trong đó có cả Tổng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kì là Ri-vi-e. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân ta. Tuy nhiên, triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng thu hổi Hà Nội bằng con đường thương thuyết." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,"Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hàng","Sau thất bại trong trận Cầu Giấy lần thứ hai (19 - 5 -1883), khác với lần trước, thực dân Pháp càng củng cố dã tâm xâm chiếm toàn bộ Việt Nam. Nhân cái chệt của Ri-vi-e, tư bản Pháp lớn tiêng kêu gọi ""trả thù"". Một kế hoạch về tài chính và quân sự nhanh chóng được thông qua. Nhân lúc triều đình bận rộn vì vua Tự Đức mới qua đời (17 -5 -1883), thực dân Pháp đã quyết định đánh thẳng vào Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn phải đầu hàng. Sáng 18 - 8 - 1883, hạm đội của Pháp do Đô đốc Cuốc-bê chỉ huy tiên vào Thuận An, ""cửa họng của Kinh thành Huê. Cuốc-bê đưa tối hậu thư đòi triều đình giao toàn bộ các pháo đài. Từ 4 giờ chiều hôm đó, quân Pháp bắt đầu nổ súng và công phá trong suốt 2 ngày liền. Ngày 20 - 5 -1883, chúng đổ bộ lên bờ. Quân dân ta anh dũng chống trả. Các quan trấn thủ Lê Sĩ, Lê Chuẩn, Lâm Hoành, Nguyễn Trung và nhiều binh sĩ đã hi sinh trong chiến đấu. Đên chiều tối, toàn bộ cửa Thuận An lọt vào tay giặc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 8 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 6 - 1 - 1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu Bắc - Trung - Nam vào Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu ra những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tại các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ, nhân dân tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, xã) theo nguyên tắc phổ thông đấu phiếu. Ủy ban hành chính các cấp được thành lập. Ngày 2 - 3 - 1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội xác nhận thành tích của Chính phủ lâm thời trong những ngày đầu xây dựng chế độ mới, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9 - 11 - 1946. Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân (thành lập tháng 5 - 1945), được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 - 1945). Ngày 22 - 5 - 1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành quân đội Quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt ở hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 20: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.,"Một trong những nhiệm vụ cấp bách sau Cách mạng tháng Tám là giải quyết nạn đói và khó khăn về tài chính. Để giải quyết nạn đói, Chính phủ lâm thời đề ra nhiều biện pháp cấp thời như tổ chức quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương trong nước, nghiêm trị những người đầu cơ tích trữ gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước ""Nhường cơm sẻ áo"". Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân dân ta lập ""Hũ gạo cứu đói"", tổ chức ""Ngày đồng tâm"", không dùng gạo, ngô, khoai, sắn... để nấu rượu. Để giải quyết căn bản nạn đói, tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi ""Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa !"". Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một phong trào thi đua tăng gia sản xuất dấy lên khắp cả nước, dưới các khẩu hiệu ""Tấc đất tấc vàng"", ""Không một tấc đất bỏ hoang"",... Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ thuế quân và các thứ thuế vô lí khác của chế độ cũ, giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, dân chủ. Nhờ những biện pháp tích cực trên đấy, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước. Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng ""Quỹ độc lập, phong trào Tuần lễ vàng"" do Chính phủ phát động, nhân dân ta hăng hái đóng góp tiền của, vàng bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc. Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân đã tự nguyện đóng góp 370 kilôgam vàng, 20 triệu đồng vào ""Quỹ độc lập"", 40 triệu đồng vào ""Quỹ đảm phụ quốc phòng"". Ngày 23 - 11 - 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông dương của Pháp trước đấy." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Cuộc khủng hoảng chính trị ở đầu thế kỷ XVI đã làm sụp đổ triều Lê Sơ. Nhà Mạc ra đời chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều và tiếp đó là chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Hai chính quyền ở Đàng Ngoài và Đàng Trong được hình thành, tồn tại cho đến cuối thế kỷ XVIII." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Đầu thế kỷ XVI, triều Lê Sơ suy sụp. Sau khi vua Lê Hiến Tông chết, các vua Uy Mục, Tương Dực không còn quan tâm đến việc triều chính, chỉ lo ăn chơi, sa đọa. Quan lại, địa chủ nhân đó hoành hành, hạch sách nhân dân, chiếm đoạt ruộng đất. Nhân dân khổ cực đã nổi dậy đấu tranh ở nhiều nơi. Một số thế lực phong kiến cũng họp quân, đánh nhau, tranh chấp quyền hành. Nổi trội hơn cả là thế lực của Quốc công Thái phó Mạc Đăng Dung. Sau khi dẹp yên các thế lực phong kiến khác, nhận thấy sự bất lực và suy sụp của dòng họ Lê, năm 1527 Mạc Đăng Dung bắt vua Lê nhường ngôi và thành lập triều đại mới - triều Mạc. Trong những năm đầu thống trị, nhà Mạc xây dựng lại chính quyền theo mô hình cũ của nhà Lê, tổ chức thi cử đều đặn để tuyển lựa quan lại. Đồng thời, nhà Mạc cố gắng giải quyết vấn đề ruộng đất, tạo điều kiện ổn định lại đất nước. Nhà Mạc tập trung xây dựng một đội quân thường trực mạnh để đối phó với mọi tình hình có thể xảy ra. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, triều đình nhà Mạc suy thoái dần. Giữa lúc đó, nhà Mạc lại phải chịu sức ép từ hai phía. Ở phía nam, một số cựu thần nhà Lê tập hợp lực lượng nổi dậy chống nhà Mạc. Ở phía bắc, biết được Đại Việt đang trong tình trạng không ổn định, vua Minh cho quân tiến xuống, phao tin xâm chiếm nước ta. Nhà Mạc lúng túng, đã buộc phải dâng sổ sách cho quân Minh, chịu thần phục để yên mặt Bắc. Vương triều Mạc không còn được sự tin tưởng của nhân dân." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Không chấp nhận chính quyền của họ Mạc, một số quan lại cũ của nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim, đã họp quân, nêu danh nghĩa ""phù Lê diệt Mạc"", nổi dậy ở vùng Thanh Hóa. Một nhà nước mới được thành lập ở đây, sử cũ gọi là Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc. Chiến tranh Nam - Bắc triều bùng nổ, kéo dài cho đến cuối thế kỷ XVI. Triều Mạc bị lật đổ. Đất nước bước đầu được thống nhất lại. Nhưng không lâu sau, hình thành một thế lực cát cứ ở mạn Nam - thế lực phong kiến họ Nguyễn. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm được cử lên thay, nắm toàn bộ binh quyền. Người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng xin được vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Đất Thuận Hóa trở thành nơi dấy nghiệp của họ Nguyễn. Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ, kéo dài đến cuối năm 1672. Không phân được thắng bại, hai bên giảng hòa, lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, chia đất nước làm hai: Đàng Ngoài và Đàng Trong, với hai chính quyền riêng biệt. Tình trạng chia cắt kéo dài cho đến cuối thế kỷ XVIII, gây nên hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Từ cuối thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến Nam triều chuyển về Thăng Long, được xây dựng lại hoàn chỉnh với danh nghĩa thống trị toàn bộ đất nước, do vua Lê đứng đầu. Tuy nhiên, quyền hành của vua Lê không còn như trước, thậm chí bị thu hẹp đến mức chỉ còn là danh nghĩa. Mọi quyền hành đều nằm trong tay người tổng chỉ huy quân đội họ Trịnh, về sau được phong vương (nhân dân quen gọi là chúa). Trung ương hình thành hai bộ phận: triều đình và phủ chúa. Triều đình đứng đầu là vua Lê, được tổ chức như cũ nhưng quyền hành bị thu hẹp. Phủ chúa gồm một số quan văn, quan võ cao cấp cùng chúa bàn bạc, quyết định các chủ trương, chính sách lớn của nhà nước và trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện. Về sau, chúa Trịnh đặt thêm các phiên, chỉ đạo hoạt động của các bộ. Đàng Ngoài được chia thành 12 trấn, có Trấn thủ đứng đầu, làm việc với sự giúp đỡ của hai ty. Dưới trấn là phủ, huyện, châu, xã như cũ. Nhà nước Lê - Trịnh tiếp tục chính sách tuyển chọn quan lại như thời Lê Sơ. Bộ Quốc triều hình luật thời Hồng Đức vẫn tiếp tục được sử dụng với ít nhiều bổ sung. Quân đội được tổ chức chặt chẽ, bao gồm một đội quân thường trực, được tuyển chủ yếu từ 3 phủ của Thanh Hóa và một số huyện của Nghệ An, gọi là quân Tam phủ. Đạo quân này được cấp nhiều ruộng đất và có khá nhiều ưu đãi nên còn gọi là ưu binh. Ngoài ra, còn có ngoại binh được tuyển từ 4 trấn xung quanh kinh thành. Quan lại thời Lê - Trịnh không được cấp ruộng đất như trước, về sau, do khó khăn về tài chính, nhà nước còn đặt chế độ cho dân nộp tiền để được làm quan. Trong quan hệ với nhà Thanh ở Trung Quốc, chính quyền Lê - Trịnh ban đầu đã để cho họ xâm lấn nhiều vùng đất ở biên giới. Về sau, khi tình hình ổn định, ý thức dân tộc được nâng lên, chúa Trịnh đã có lúc cử sứ thần lên biên giới thương lượng và được nhà Thanh trả lại một số vùng. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Từ thế kỉ XVII và nhất là từ sau khi chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn, lãnh thổ Đàng Trong từng bước được mở rộng vào phía nam, bao gồm cả vùng đất từ Nam Quảng Bình đến Nam Bộ ngày nay. Các chúa Nguyễn nối tiếp nhau xây dựng chính quyền riêng của mình. Đất Đàng Trong chia thành 12 dinh, nơi đóng phủ chúa được gọi là Chính dinh. Mỗi dinh đều có 2 hay 3 ti trông coi mọi việc, nhưng chủ yếu lo việc thuế khóa và hộ khẩu. Từ nửa sau thế kỉ XVII, Phú Xuân (Huế) trở thành trung tâm của Đàng Trong. Chúa Nguyễn cũng thành lập các cơ quan trực thuộc chuyên về việc thu thuế. Dưới dinh là phủ, huyện, tổng, xã (hay phường, thôn). Quân đội Đàng Trong là quân thường trực, tuyển theo nghĩa vụ, được trang bị vũ khí đầy đủ, trong đó có súng đại bác chế tạo theo kiểu phương Tây. Vào giữa thế kỉ XVII, chúa Nguyễn bắt đầu tổ chức các kỳ thi; quan lại được tuyển chọn bằng nhiều cách: dòng dõi, đề cử, khoa cử. Năm 1744, sau một thời kỳ phát triển ổn định của xã hội Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Khoát quyết định xưng vương, thành lập triều đình trung ương, đổi 3 ti thành 6 bộ và đặt thêm quan chức. Các dinh vẫn giữ như cũ. Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỉ XVIII, triều đình Đàng Trong vẫn chưa hoàn chỉnh. Từ giữa thế kỉ XVIII, chính quyền ở Đàng Trong cũng như ở Đàng Ngoài đều lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Sau cuộc phản công quân Pháp tại Kinh thành Huế thất bại, một phong trào khởi nghĩa vũ trang mới dưới danh nghĩa Cần vương (giúp vua cứu nước) đã diễn ra sôi nổi, kéo dài đến năm 1896. Bên cạnh đó, còn có những cuộc đấu tranh tự vệ của nông dân và nhân dân các dân tộc thiểu số vùng núi, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Thế." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Với các hiệp ước Hácmăng và Patơnốt, thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam. Chúng bắt đầu xúc tiến việc thiết lập chế độ bảo hộ và bộ máy chính quyền thực dân trên phần lãnh thổ Bắc Kì và Trung Kì. Nhưng chúng đã vấp phải sự kháng cự của một số quan lại, văn thân, sĩ phu yêu nước và nhân dân các địa phương, cả trong Nam, ngoài Bắc. Phong trào phản đối hai hiệp ước 1883 và 1884 diễn ra rất sôi nổi. Nhiều toán nghĩa quân hoạt động mạnh ở các vùng xung quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương..., khiến cho quân Pháp ăn không ngon, ngủ không yên. Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phái chủ chiến trong triều đình Huế, đại diện là Tôn Thất Thuyết (Thượng thư Bộ Binh), mạnh tay hành động. Họ phế bỏ những ông vua có biểu hiện thân Pháp, đưa Ưng Lịch còn nhỏ tuổi lên ngôi (hiệu là Hàm Nghi), trừ khử những người không cùng chính kiến, bổ sung thêm lực lượng quân sự, bí mật liên kết với sĩ phu, vãn thân các nơi, xây dựng hệ thống sơn phòng và tuyến đường thượng đạo, ra sức tích trữ lương thảo và vũ khí để chuẩn bị chiến đấu... Trước tình hình đó, thực dân Pháp phải tăng thêm lực lượng quân sự, siết chặt bộ máy kìm kẹp và tìm mọi cách để loại phái chủ chiến ra khỏi triều đình. Biết được âm mưu của Pháp, đêm mồng 4 rạng sáng 5 -7 - 1885, Tôn Thất Thuyết và lực lượng chủ chiến đã ra tay trước." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Trong khi viên Toàn quyền về chính trị và quân sự Pháp tại Việt Nam là Đờ Cuốc-xi đang tổ chức yến tiệc tại toà Khâm sứ Pháp ở Huế, Tôn Thất Thuyết đã hạ lệnh cho các đạo quân của mình tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và toà Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, song do chuẩn bị vội vã, thiếu chu đáo nên sức chiến đấu của quân ta nhanh chóng giảm sút. Rạng sáng 5 - 7, quân Pháp phản công. Chúng cướp bóc và tàn sát nhân dân ta vô cùng man rợ. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra khỏi Hoàng thành, rồi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13 - 7 -1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến. Chiếu Cần vương đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, tạo thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, liên tục kéo dài hơn 10 năm mới chấm dứt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX," Từ năm 1885 đến năm 1888 Thời gian này, phong trào được đặt dưới sự chỉ huy của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra trên phạm vi rộng lớn, nhất là ở Bắc Kì và Trung Kì. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, cùng nổi dậy có Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận, Đào Doãn Địch, Nguyễn Duy Cung...; Trần Vãn Dự, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Thanh Phiến nổi dậy ở Quảng Nam; Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân nổi dậy ở Quảng Ngãi; Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị; Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình; Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hà Tĩnh; Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An. Tại Thanh Hoá có các đội nghĩa quân của Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cao Điển... Vùng đồng bằng Bắc Kì có khởi nghĩa của Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên). Tại vùng Lạng Sơn, Bắc Giang có khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh); vùng Tây Bắc có các phong trào của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Vãn Giáp, Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đèo Vãn Thanh, Cầm Vãn Toa... Lúc này, đi theo Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có nhiều văn thân, sĩ phu và tướng lĩnh khác như: Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Thiệp (2 con của Tôn Thất Thuyết), Phạm Tường, Trần Văn Định... Bộ chỉ huy của phong trào đóng tại vùng rừng núi phía tây hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cuối năm 1888, do có sự chỉ điểm của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi rơi vào tay giặc. Nhà vua đã cự tuyệt mọi sự dụ dỗ của Pháp, chịu án lưu đày sang An-giê-ri (Bắc Phi)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX," Từ năm 1888 đến năm 1896 ở giai đoạn này, không còn sự chỉ đạo của triều đình, nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển, quy tụ dần thành các trung tâm lớn và ngày càng lan rộng. Trước những cuộc hành quân càn quét dữ dội của thực dân Pháp, phong trào ở vùng đồng bằng ngày càng bị thu hẹp và chuyển lên hoạt động ở vùng trung du và miền núi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân và Cao Điển chỉ huy ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Thanh Hoá; khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh. Khi tiếng súng kháng chiến đã lặng im trên núi Vụ Quang (Hương Khê - Hà Tĩnh) vào cuối năm 1895 - đầu năm 1896, phong trào Cần vương coi như chấm dứt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Bãi Sậy là vùng lau sậy rậm rạp thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ của tỉnh Hưng Yên. Trong những năm 1883 - 1885, tại đây có phong trào kháng Pháp do Đinh Gia Quế lãnh đạo. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân chỉ hạn chế trong vùng Bãi Sậy. Từ năm 1885, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật.  Dựa vào vùng đầm, hổ, lau lách ở khu Bãi Sậy, nghĩa quân đào hào, đắp luỹ, đặt nhiều hầm chông, cạm bẫy. Từ đây, nghĩa quân toả ra hoạt động ở vùng đồng bằng, không chế các tuyên giao thông đường bộ Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Nam Định, Hà Nội - Bắc Ninh và đường thuỷ trên sông Thái Bình, sông Hổng, sông Đuống... Ngoài căn cứ Bãi Sậy, nghĩa quân còn xây dựng căn cứ Hai Sông ở Kinh Môn (Hải Dương) do Đốc Tít (Nguyễn Đức Hiệu) phụ trách. Nghĩa quân Bãi Sậy không tổ chức thành những đội quân lớn mà phiên chế thành những phần đội nhỏ khoảng từ 20 đến 25 người, tự trang bị vũ khí và trà trộn vào dân để hoạt động." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Từ năm 1885 đến cuối năm 1887, nghĩa quân đẩy lui nhiều cuộc càn quét của Pháp ở cả vùng Văn Giang, Khoái Châu và vùng căn cứ Hai Sông. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trên đia bàn các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Quảng Yên. Có trận, quân ta tiêu diệt tới 40 tên địch, bắt sống chỉ huy. Từ năm 1888, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Thực dân Pháp tăng cường binh lực, cho xây dựng hệ thống đổn bốt dày đặc và thực hiện chính sách ""dùng người Việt trị người Việt""để cô lập nghĩa quân ở căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng lực lượng ngày càng giảm sút và rơi dần vào thế bị bao vây, cô lập. Cuối cùng, Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc (7 -1889) và mất tại đó vào năm 1926. Cuối tháng 7 - 1889, căn cứ Hai Sông cũng bị Pháp bao vây. Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhưng bị đánh bật khỏi đại bản doanh Trại Sơn. Trong thế cùng, ông phải ra hàng giặc (12 - 8 -1889), sau bị chúng đày sang An-giê-ri. Những tướng lĩnh còn lại cố duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian. Đến năm 1892, họ về với nghĩa quân Đề Thám ở Yên Thế." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Từ năm 1885 đến cuối năm 1887, nghĩa quân đẩy lui nhiều cuộc càn quét của Pháp ở cả vùng Văn Giang, Khoái Châu và vùng căn cứ Hai Sông. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trên đia bàn các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, Quảng Yên. Có trận, quân ta tiêu diệt tới 40 tên địch, bắt sống chỉ huy. Từ năm 1888, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Thực dân Pháp tăng cường binh lực, cho xây dựng hệ thống đổn bốt dày đặc và thực hiện chính sách ""dùng người Việt trị người Việt"" để cô lập nghĩa quân ở căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng lực lượng ngày càng giảm sút và rơi dần vào thế bị bao vây, cô lập. Cuối cùng, Nguyễn Thiện Thuật phải lánh sang Trung Quốc (7 -1889) và mất tại đó vào năm 1926. Cuối tháng 7 - 1889, căn cứ Hai Sông cũng bị Pháp bao vây. Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhưng bị đánh bật khỏi đại bản doanh Trại Sơn. Trong thế cùng, ông phải ra hàng giặc (12 - 8 -1889), sau bị chúng đày sang An-giê-ri. Những tướng lĩnh còn lại cố duy trì cuộc khởi nghĩa thêm một thời gian. Đến năm 1892, họ về với nghĩa quân Đề Thám ở Yên Thế." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Cứ điểm Ba Đình được xây dựng ở ba làng Mậu Thinh, Thượng Thọ, Mĩ Khệ (thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá), do Phạm Bành và Đinh Công Tráng chỉ huy. Tại đây, nghĩa quân đã xây dựng một căn cứ chống Pháp vững chắc. Bao bọc xung quanh căn cứ là luỹ tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi đến lớp thành đất cao đến 3 mét, chân thành rộng từ 8 mét đến 10 mét, trên thành có các lỗ châu mai. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận động và tiếp tế khi chiến đấu. 0 những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các ngôi đình của ba làng được biến thành các chốt đóng quân, nối với nhau bằng hệ thống giao thông hào, có thể hỗ trợ cho nhau. Được sự ủng hộ của nhân dân đia phương, cứ điểm Ba Đình được xây dựng và hoàn thành chỉ trong 1 tháng. Ngoài Ba Đình là căn cứ chính, còn có một số căn cứ hỗ trợ ở ngoại vi như Phi Lai, Quảng Hoá, Mã Cao... do Cao Điển, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao đứng đầu; trong đó căn cứ Mã Cao có tầm quan trọng đặc biệt, là nơi nghĩa quân rút về đóng giữ khi căn cứ Ba Đình bị phá vỡ. Nghĩa quân Ba Đình có khoảng 300 người, bao gồm cả người Kinh, người Thái, người Mường. Họ tự trang bị các loại vũ khí thông thường như: súng hoả mai, gươm, giáo, cung, nỏ. Đông đảo nhân dân đia phương tham gia vào các đội vận chuyển lương thực, nuôi quân, tải thương... Hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập kích các toán lính trên đường hành quân. Để đối phó lại, tháng 12 - 1886, thực dân Pháp tập trung 500 quân, mở cuộc tấn công vào căn cứ Ba Đình, nhưng thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Ngày 6 -1 -1887, Pháp lại huy động khoảng 2 500 quân, dưới sự chỉ huy của Đại tá Brít-xô, có pháo binh yểm trợ, bao vây căn cứ, rồi lấn dần từng bước.  cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong rất nhiều. Quân Pháp dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân bị tiêu hao rất nhiều. Đêm 20 - 1 - 1887, họ phải mở đường máu rút lên Mã Cao. Sáng 21 -1, chiếm được căn cứ, thực dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xoá tên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mĩ Khệ trên bản đồ hành chính. Nghĩa quân rút về Mã Cao, cầm cự được một thời gian, rồi bị đẩy lên miền Tây Thanh Hoá và sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã hi sinh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt; người phải chạy sang Trung Quốc như Trần Xuân Soạn; người phải tự sát như Phạm Bành, Hà Văn Mao. Đinh Công Tráng thoát khỏi tay giặc và tiếp tục gây dựng lại phong trào. Nhưng đến mùa hè năm 1887, ông cũng bị giặc Pháp bắt và giết hại. Đến đây, khởi nghĩa Ba Đình hoàn toàn tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Ngày 6 -1 -1887, Pháp lại huy động khoảng 2 500 quân, dưới sự chỉ huy của Đại tá Brít-xô, có pháo binh yểm trợ, bao vây căn cứ, rồi lấn dần từng bước.  cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong rất nhiều. Quân Pháp dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân bị tiêu hao rất nhiều. Đêm 20 - 1 - 1887, họ phải mở đường máu rút lên Mã Cao. Sáng 21 -1, chiếm được căn cứ, thực dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xoá tên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mĩ Khệ trên bản đồ hành chính. Nghĩa quân rút về Mã Cao, cầm cự được một thời gian, rồi bị đẩy lên miền Tây Thanh Hoá và sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã hi sinh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt; người phải chạy sang Trung Quốc như Trần Xuân Soạn; người phải tự sát như Phạm Bành, Hà Văn Mao. Đinh Công Tráng thoát khỏi tay giặc và tiếp tục gây dựng lại phong trào. Nhưng đến mùa hè năm 1887, ông cũng bị giặc Pháp bắt và giết hại. Đến đây, khởi nghĩa Ba Đình hoàn toàn tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Hương Khê là một huyện miền núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh, nơi đây có đại bản doanh của một cuộc khởi nghĩa lớn, quy mô lan rộng cả 4 tỉnh Bắc Trung Kì, kéo dài từ năm 1885 đến năm 1896. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng. Phan Đình Phùng sinh năm 1847, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), Đức Thọ, Hà Tĩnh. Năm 1877, ông thi đỗ Đình nguyên Tiến sĩ, từng làm quan Ngự sử trong triều đình. Với bản tính cương trực, ông phản đối việc Tôn Thất Thuyết phố bỏ Dục Đức, lập Hiệp Hoà làm vua, vì vậy đã bị cách chức đuổi về quê. Tuy vậy, khi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng Hà Tĩnh, ông vẫn đến yết kiến và được giao trọng trách tổ chức phong trào chống Pháp ngay tại quê nhà.  Từ năm 1885 đến năm 1888 là giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân. Được Phan Đình Phùng giao nhiêm vụ, Cao Thắng đã tích cực chiêu tập binh sĩ, trang bị, huấn luyện và xây dựng căn cứ thuộc vùng rừng núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ông đã cùng các thợ rèn làng Trung Lương và Vân Chàng (Đức Thọ) nghiên cứu chế tạo thành công súng trường theo mẫu của Pháp. Từ năm 1888 đến năm 1896, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Sau một thời gian ra Bắc, tìm cách liên lạc với các sĩ phu, văn thân, Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh, cùng Cao Thắng trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân Hương Khê được phiên chế thành 15 quân thứ, đặt dưới sự chỉ huy của những tướng lĩnh tài ba. Đại bản doanh cuộc khởi nghĩa đặt tại núi Vụ Quang." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Từ đầu năm 1889, nghĩa quân đẩy mạnh hoạt động và liên tục mở các cuộc tập kích, đẩy lui nhiều cuộc hành quân càn quét của địch. Nhiều trận đánh nổi tiếng đã diễn ra, như trận tấn công đồn Trường Lưu (5 - 1890), trận tập kích thị xã Hà Tĩnh (8 - 1892) giải phóng 700 tù chính trị... Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương) trên đường tiến quân về tỉnh lị Nghệ An, Cao Thắng đã bị trúng đạn và hi sinh năm 29 tuổi. Đây là một tổn thất lớn của nghĩa quân. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, nghĩa quân vẫn kiên trì chiến đấu. Ngày 17 -10 -1894, họ giành được thắng lợi lớn trong trận phục kích địch ở núi Vụ Quang, hàng chục tên giặc đã bị tiêu diệt. Sau trận đánh này, đội quân tay sai của Pháp do Nguyễn Thân chỉ huy tiếp tục tổ chức cuộc vây hãm núi Vụ Quang. Nghĩa quân bị triệt đường tiếp tế, quân số giảm sút nhiều. Trong một trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh ngày 28 -12 -1895. Năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa lần lượt rơi vào tay Pháp. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê sau hơn 10 năm tồn tại đến đây kết thúc. Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có những hạn chệ về đường lối, phương pháp tổ chức và lãnh đạo." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Ngoài các cuộc khởi nghĩa nổ ra dưới ngọn cờ Cần vương, vào những năm cuối thế kỉ XIX còn xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và nhân dân các dân tộc ở miền núi chống chính sách cướp bóc và bình định quân sự của thực dân Pháp. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Yên Thế là vùng bán sơn địa ở phía tây bắc tỉnh Bắc Giang. Vào giữa thế kỉ XIX, do tình trạng suy sụp của nền nông nghiệp nước ta, tại đây đã hình thành những xóm làng của nông dân nghèo từ các nơi tụ họp về. Họ nương tựa vào nhau để sinh sống và chông lại các thế lực từ bên ngoài đe doạ. Khi thực dân Pháp chiếm Bắc Kì, chúng đưa quân lên bình định cả vùng Yên Thế Để bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân ở đây đã đứng lên tự vệ. Hoạt động của nghĩa quân Yên Thế có thể chia làm 4 giai đoạn:" 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Giai đoạn từ năm 1884 đến năm 1892 Tại vùng Yên Thế có hàng chục toán quân chống Pháp hoạt động riêng lẻ, đặt dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh khác nhau. Thủ lĩnh có uy tín nhất lúc đó là Đề Nắm đã lãnh đạo nghĩa quân đẩy lui nhiều trận càn quét của quân Pháp vào khu vực Cao Thượng, Hố Chuối. Đến năm 1891, nghĩa quân làm chủ một vùng rộng lớn và mở rộng hoạt động sang Phủ Lạng Thương (vùng thành phố Bắc Giang ngày nay). Trướcnhững đợt tấn công, càn quét mớicủa giặc, nghĩa quân phải rút dần lên vùng Bắc Yên Thế xây dựng, củng cố hệ thống công sự phòng thủ. Tháng 3 -1892, Pháp huy động khoảng 2 200 quân, gồm nhiều binh chủng ồ ạt tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị tổn thất nặng, nhiều người bị địch bắt và giết hại, một số phải ra hàng. Đề Nắm bị sát hại vào tháng 4 -1892." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Giai đoạn từ năm 1893 đến năm 1897 Lúc này, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) trở thành thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Vãn Thám, quê ở Tiên Lữ (Hưng Yên), theo gia đình lên làm ãn ở Sơn Tây, sau sang Yên Thế (Bắc Giang) sinh sống. Sau khi Đề Nắm hi sinh, ông tập hợp những toán nghĩa binh còn sót lại, mở rộng địa bàn hoạt động.   Trong bối cảnh phong trào kháng chiến cả nước bị đàn áp dữ dội, nhiều cuộc khởi nghĩa đã thất bại, Đề Thám phải tìm cách giảng hoà với Pháp để có thời gian củng cố lực lượng. Tháng 10 -1894, theo thoả thuận giữa hai bên, quân Pháp phải rút khỏi Yên Thế, Đề Thám được cai quản bốn tổng: Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng. Nhưng cuộc hoà hoãn kéo dài chưa được bao lâu thì Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công (11 - 1895). Nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân để hoạt động. Nhằm bảo toàn lực lượng, lại biếtđược ý đổ của Pháp đang muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa, Đề Thám xin giảng hoà lần thứ hai (12 - 1897). Để được hoà hoãn lần này, Đề Thám phải tuân thủ những điều kiện ngặt nghèo do Pháp đặt ra, như nộp khí giới, thường xuyên trình diên chính quyền thực dân. Bề ngoài, Đề Thám tỏ ra phục tùng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chống Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Giai đoạn từ năm 1893 đến năm 1897 Lúc này, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) trở thành thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Vãn Thám, quê ở Tiên Lữ (Hưng Yên), theo gia đình lên làm ãn ở Sơn Tây, sau sang Yên Thế (Bắc Giang) sinh sống. Sau khi Đề Nắm hi sinh, ông tập hợp những toán nghĩa binh còn sót lại, mở rộng địa bàn hoạt động.   Trong bối cảnh phong trào kháng chiến cả nước bị đàn áp dữ dội, nhiều cuộc khởi nghĩa đã thất bại, Đề Thám phải tìm cách giảng hoà với Pháp để có thời gian củng cố lực lượng. Tháng 10 -1894, theo thoả thuận giữa hai bên, quân Pháp phải rút khỏi Yên Thế, Đề Thám được cai quản bốn tổng: Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng. Nhưng cuộc hoà hoãn kéo dài chưa được bao lâu thì Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công (11 - 1895). Nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân để hoạt động. Nhằm bảo toàn lực lượng, lại biết được ý đổ của Pháp đang muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa, Đề Thám xin giảng hoà lần thứ hai (12 - 1897). Để được hoà hoãn lần này, Đề Thám phải tuân thủ những điều kiện ngặt nghèo do Pháp đặt ra, như nộp khí giới, thường xuyên trình diên chính quyền thực dân. Bề ngoài, Đề Thám tỏ ra phục tùng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chống Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Giai đoạn từ năm 1898 đến năm 1908 Tranh thủ thời gian hoà hoãn kéo dài, Đề Thám cho nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tích cực luyện tập quân sự tại đồn điền Phổn Xương. Đội quân của ông tuy không đông (khoảng 200 người) nhưng rất tinh nhuệ, thiện chiến. Căn cứ Yên Thế trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu nước từ khắp nơi kéo về (từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Hưng Yên, Hải Dương...). Giai đoạn từ năm 1909 đến năm 1913 Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1908, thực dân Pháp quyết định mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt bằng được phong trào nông dân Yên Thế. Nghĩa quân trải qua những tháng ngày gian khổ, phải di chuyển liên tục từ nơi này sang nơi khác. Nhiều thủ lĩnh đã hi sinh, một số phải ra hàng. Đến tháng 2 - 1913, khi Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Do hành động phá hoại Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm ước (14 - 9 - 1946) nhằm đẩy nhanh tới chiến tranh của thực dân Pháp, ta đã chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Với đường lối kháng chiến đúng đắn, từ năm 1946 đến năm 1950, ta đã xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài và bước đầu giành thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 và biên giới thu - đông năm 1950." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 - 1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa. ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.  ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11 - 1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiên công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12 - 1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nang, Hải Dương, đua thêm viên binh đến Hải Phòng. ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16 - 12, quân Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ tài chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gậy ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long biên, khu Cửa Đông... Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và 19-12- 1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thu đòi ta phá bỏ mọi công sự và trở ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vê chiến đấu, đề quân Pháp làm nhiêm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nêu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20 - 12 - 1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động !" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời. Ngày 12 - 12 - 1946, Ban Thưởng vụ Trung uơng Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 18 và 19-12- 1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thưởng vụ Trung uơng Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tối 19 - 12 - 1946, thay mặt Trung uơng Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lòi kêu gọi có đoạn: ... Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhung chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vỉ chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa ! Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chú nhốt định không chịu mất nước, nhốt định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đúng lên ! Bốt kỉ đàn ông, đàn bà, bốt kỉ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đúng lên đánh thực dân Pháp đề cứu Tổ quốc...  Ngày 21 - 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước đồng minh. Trong thư, Người khẳng định niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Bức thư nêu rõ: ""Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giò, chúng ta cũng nhốt định chiến đấu đến cùng, đến bao giò nước Việt Nam hoàn toàn độc lộp và thống nhốt. Chúng ta 20 triệu chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của chúng ta rất được bảo đảm"". Từ tháng 3 - 1947, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông dương Trường Chinh viết một loạt bài báo giải thích cụ thể về đường lối kháng chiến, đến tháng 9 - 1947 in thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là: toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Trưa ngày 19 - 12 - 1946, Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã chỉ thị cho các mặt trận trong cả nước ""Chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, giặc Pháp sẽ nổ súng. Tất cả hãy sẵn sàng !"". Khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, công nhân nhà máy điên Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, cả thành phố tắt điên, cuộc chiến đấu bắt đầu. Vê quốc quân, công an xung phong, tự vê chiến đấu đồng loạt tiến công các vị trí quân Pháp. Nhân dân đã khiêng bàn ghế, giường tủ, kiên hàng, hạ cấy cối... làm thành những chướng ngại vật hoặc chiến luỹ chiến đấu. Cụ già, em nhỏ và những người không tham gia phục vụ chiến đấu, nhanh chóng tản cư ra các vùng ngoại thành. Từ ngày 19 - 12 đến ngày 29 - 12 - 1946, những cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở nội thành. Hai bên giành nhau từng khu nhà, góc phố, như ở Bắc Bộ phủ, Bưu điên Bờ Hổ, đầu cầu Long biên, sản bay Bạch Mai, ga Hàng Cỏ, ở các phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng bống, Hàng Da, Hàng Trống... Quân dân ta đã đánh gần 40 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.  Từ ngày 30 - 12 - 1946, địch phản công, ta phải thu hẹp phạm vi chiến đấu, chuyển lực lượng về Liên khu I (thuộc quận Ba Đình và phía Bắc quận Hoàn kiệm ngày nay). Trong quá trình chiến đấu, Trung đoàn Thủ đô chính thức được thành lập. Những cuộc chiến đấu ác liệt tiếp tục diễn ra ở khu chợ đồng Xuân, ở rạp hát Olympia (nay là rạp Hồng Hà). Ngày 17 - 2 - 1947, Trung đoàn Thủ đô thực hiện cuộc rút quân vượt khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ hậu phương an toàn. Trong 60 ngày đến chiến đấu, quân và dân Hà Nội đỡ chiến đấu gân 200 trộn, diệt và làm bị thương hàng nghìn tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay..., hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố một thời gian dài đề hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho tàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ Trung ương Đàng, Chính phủ về căn cứ lãnh đạo kháng chiến." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Trưa ngày 19 - 12 - 1946, Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã chỉ thị cho các mặt trận trong cả nước ""Chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, giặc Pháp sẽ nổ súng. Tất cả hãy sẵn sàng !"". Khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, công nhân nhà máy điên Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, cả thành phố tắt điên, cuộc chiến đấu bắt đầu. Vê quốc quân, công an xung phong, tự vê chiến đấu đồng loạt tiến công các vị trí quân Pháp. Nhân dân đã khiêng bàn ghế, giường tủ, kiên hàng, hạ cấy cối... làm thành những chướng ngại vật hoặc chiến luỹ chiến đấu. Cụ già, em nhỏ và những người không tham gia phục vụ chiến đấu, nhanh chóng tản cư ra các vùng ngoại thành. Từ ngày 19 - 12 đến ngày 29 - 12 - 1946, những cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở nội thành. Hai bên giành nhau từng khu nhà, góc phố, như ở Bắc Bộ phủ, Bưu điên Bờ Hổ, đầu cầu Long biên, sản bay Bạch Mai, ga Hàng Cỏ, ở các phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng bống, Hàng Da, Hàng Trống... Quân dân ta đã đánh gần 40 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Từ ngày 30 - 12 - 1946, địch phản công, ta phải thu hẹp phạm vi chiến đấu, chuyển lực lượng về Liên khu I (thuộc quận Ba Đình và phía Bắc quận Hoàn kiệm ngày nay). Trong quá trình chiến đấu, Trung đoàn Thủ đô chính thức được thành lập. Những cuộc chiến đấu ác liệt tiếp tục diễn ra ở khu chợ đồng Xuân, ở rạp hát Olympia (nay là rạp Hồng Hà). Ngày 17 - 2 - 1947, Trung đoàn Thủ đô thực hiện cuộc rút quân vượt khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ hậu phương an toàn. Trong 60 ngày đến chiến đấu, quân và dân Hà Nội đỡ chiến đấu gân 200 trộn, diệt và làm bị thương hàng nghìn tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay..., hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố một thời gian dài đề hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho tàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ Trung ương Đàng, Chính phủ về căn cứ lãnh đạo kháng chiến." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Cùng với thủ đô Hà Nội, quân dân ta tại các đô thị khác ở phía Bắc vĩ tuyến 16 đứng lên chiến đấu, mở đầu kháng chiến toàn quốc chống Pháp. ở thành phố Nam Định, quân dân ta bao vây địch từ ngày 19 - 12 - 1946 đến ngày 12 - 3 - 1947. ở thành phố Vinh, ngay từ đầu cuộc chiến đấu, quân dân ta đã buộc địch đầu hàng. ở thành phố Huê, trong 50 ngày đến, quân dân ta bao vây, tiên công địch. ở thành phố Đà Nang, quân dân ta tiên công, bao vây, cô lập sản bay và đánh lui nhiều đợt tiên công phá vây của địch. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào cuộc kháng chiến lâu dài. Phối hợp với cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16, quân dân ta ở các tỉnh phía Nam (Nam Bộ và Nam Trung Bộ) đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn thể chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Trong vòng 3 tháng đấu của cuộc kháng chiến, ta đỡ vẫn chuyển hàng vạn tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu về chiến khu đề tiếp tục sản xuất phục vụ nhu cầu cuộc kháng chiến. Riêng ở Bắc Bộ, gân 2/3 máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc. Nhân dân các đô thị nhanh chóng tản cư ra các vùng hậu phương và tiến hành phá hoại nhà cửa, đường sá, cầu cống đề không cho địch sử dụng, thực hiện khẩu hiệu ""Vườn không nhà trống"", ""Tản cư cũng là kháng chiến"", ""Phá hoại đề kháng chiến v.v... " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Đảng, Chính phủ lãnh đạo và tổ chức nhân dân cả nước xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt.  Về chính trị, Chính phủ quyết định chia cả nước thành 14 khu hành chính. Các Uỷ ban hành chính chuyển thành Uỷ ban kháng chiến hành chính đề thực hiện nhiêm vụ kháng chiến và kiến quốc. Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực. Sản lượng lúa năm 1947 đạt 2189000 tấn (năm 1946 đạt dưới 2 triệu tấn). Nha Tiếp tế được thành lập, có nhiệm vụ thu mua, dự trữ và phán phối, đảm bảo nhu cầu ăn, mặc cho nhân dân và quân đội. Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển chọn tham gia các lực lượng chiến đấu. Lực lượng vũ trang các cấp không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị. Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp được xây dựng. Việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Đảng, Chính phủ lãnh đạo và tổ chức nhân dân cả nước xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt. Về chính trị, Chính phủ quyết định chia cả nước thành 14 khu hành chính. Các Uỷ ban hành chính chuyển thành Uỷ ban kháng chiến hành chính đề thực hiện nhiêm vụ kháng chiến và kiến quốc. Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực. Sản lượng lúa năm 1947 đạt 2189000 tấn (năm 1946 đạt dưới 2 triệu tấn). Nha Tiếp tế được thành lập, có nhiệm vụ thu mua, dự trữ và phán phối, đảm bảo nhu cầu ăn, mặc cho nhân dân và quân đội. Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển chọn tham gia các lực lượng chiến đấu. Lực lượng vũ trang các cấp không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị. Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp được xây dựng. Việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Tháng 3 - 1947, Chính phủ Ramađiê cử Bôlae sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông dương, thay Đácgiăngliơ. Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên lạc quốc tế của ta. Chúng âm mưu giành thắng lợi quân sự, tiến tới thành lập chính phủ bù nhìn, nhanh chóng kết thức chiến tranh. Thực dân Pháp huy động 12 000 quân và hầu hết máy bay ở Đông dương do tướng Valuy chỉ huy, tiến công Việt Bắc từ ngày 7 - 10 - 1947. Rạng sáng 7 - 10 - 1947, binh đoàn quân dù do Sôvanhâc chỉ huy đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc cạn, thị trấn Chợ Mới... Cùng ngày, binh đoàn bộ binh do Bôphơrê chỉ huy từ Lạng Sơn theo Đường số 4 đánh lên Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc cạn, theo Đường số 3, bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc. Ngày 9 - 10, một binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thuỷ đánh bộ do Cômmuynan chỉ huy từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên tuyến Quang, đến chiếm Hoá, đánh vào Đài Thị, bao vây Việt Bắc ở phía tây. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Sau thất bại của quân Pháp ở Việt Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đòi giảm bớt ngân sách quân sự, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Đông dương ngày càng lên cao. Pháp nợ Mĩ gần 6 tỉ USD, trong khi vẫn phải tiêu phí cho cuộc chiến tranh Đông dương mỗi ngày 100 triệu phrăng. Trước tình hình đó, Pháp buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, từ ""đánh nhanh, thắng nhanh chuyển sang ""đánh lâu dài"", thực hiện chính sách ""dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"". Chính phủ Pháp cử tướng Bledô sang thay tướng Valuy làm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông dương. Chúng ra sức củng cố nguỵ quyền, phát triển nguỵ quân, mở rộng các vùng tề, tăng cường những cuộc hành quân càn quét, ra sức bắt người, cướp của đề cung cấp cho chiến tranh. đề chống lại Chính phủ kháng chiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, năm 1949 thực dân Pháp đưa bảo Đại về nước thành lập chính phủ bù nhìn tay sai. Tháng 7 - 1949, bảo Đại đúng ra lộp chính phủ, tự xưng là Quốc trưởng kiệm Thủ tướng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Thực hiện phương châm chiến lược ""đánh lâu dài phá âm mưu mới của địch, Đảng và Chính phủ ta chủ trương tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trên mặt trận chính trị: Tháng 6 - 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào thi đua yêu nước toàn quốc. Phong trào lôi cuốn mọi lực lượng xã hội tham gia thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Chính quyền dân chủ nhân dân từng bước được kiện toàn, phát huy vai trò tổ chức, động viên toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Tháng 6 - 1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thống nhất hai tổ chức. Khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết giai cấp ngày càng củng cố và mở rộng, phá âm mưu chia rẽ ""dùng người Việt đánh người Việt của địch. Trên mặt trận quân sự: Đảng và Chính phủ chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích, tiến hành du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, rồi từ du kích chiến tiến dần lên vận động chiến.  Trên mặt trận kinh tế: Chính phủ ra các sắc lệnh giảm tô 25%, giảm tức, hoãn nợ, xoá nợ, chia lại ruộng đất công, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, ruộng đất lấy từ tay đế quốc và bọn phản động. Tính đến cuối năm 1950, chính quyền cách mạng đã tạm cấp được 253 863 héc ta ruộng đất cho gần 500 000 nông dân. Nông dân phấn khởi, hăng hái sản xuất. Công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển theo quy mô nhỏ và phán tán, chú trọng công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng, đáp ứng nhu cầu thiết yêu của đời sống và chiến đấu. Trong những năm 1948 - 1949, ta đã sản xuất được súng cối 60 mm và 120 mm, súng SKZ... Trên mặt trận văn hoá, giáo dục: Năm 1948, tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc, Tổng Bí thư Trường Chinh đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, nêu rõ nền văn hoá mới cách mạng Việt Nam được xây dựng theo phương châm: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Phong trào ""Bình dân học vụ và giáo dục phổ thông các cấp được duy trì và phát triển. Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông nhằm xoá bỏ những tàn tích của nền giáo dục thực dân phong kiến, hướng giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc và đặt nền móng cho nền giáo dục dân tộc, dân chủ Việt Nam (thay hệ thống giáo dục cũ bằng hệ thống giáo dục mới 9 năm). Hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp cũng bắt đầu được xây dựng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của ta có thêm nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức mới. Ngày 1 - 10 - 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Ngày 14 - 1 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyến bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước. Ngày 18 - 1 - 1950, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, ngày 30 - 1 - 1950 Chính phủ Liên Xô và trong vòng một tháng sau, các nước trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.  Đấy là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới. Về phía địch, ngày 13 - 5 - 1949, có sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. với kế hoạch Rơve, Mĩ từng bước can thiệp sâu và ""dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông dương. Ngày 7 - 2 - 1950, Mĩ công nhận Chính phủ Bảo Đại. Ngày 8 - 5 - 1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp nhằm từng bước nắm quyền điều khiển chiến tranh ở Đông dương. Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 - 1949, Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ, tăng cường hệ thống phòng ngự trên Đường số 4, thiết lập ""Hành lang Đông - tây (Hải Phòng - Hà Nội - Hoà Bình - Sơn L. Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến công Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thức chiến tranh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho khu vực tự do của ta bị thu hẹp, căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây... đề khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6 - 1950, Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thức đẩy cuộc kháng chiến tiến lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận đề cùng Bộ Chỉ huy chỉ đạo và động viên bộ đội chiến đấu. Sáng 16 - 9 - 1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng trận đánh vào vị trí Đông Khệ. Mất Đông Khệ, quân địch ở Thất Khệ lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo Đường số 4. đề yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khệ tiến lên chiếm lại Đông Khệ và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời cho quân đánh lên Thái Nguyên đề thu hút bớt chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên Đường số 4 khiến cho hai cánh quân này không gặp được nhau. Hai binh đoàn Lơ Pagiơ và Sáctông bị tiêu diệt. Đến lượt Thất Khệ bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm (8 - 10); ngày 13 - 10, rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh. Quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng ngày 22 - 10 - 1950.   Phối hợp với mặt trận biên giới quân ta hoạt động mạnh ở tỏ ngạn sông Hồng, tây Bắc, Đường số 6, số 12, buộc địch phỏi rút khỏi thị xã Hoà bình (4 - 11 - 1950). Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh ở bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ. Chiến dịch biên giới kết thức, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8 000 tên địch, giải phóng tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân; chọc thủng ""Hành lang Đông - tây của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị phá sản. Với chiến thắng biên giới, con đường liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông; quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI-XVIII,"Từ thế kỉ XVII và nhất là từ sau khi chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn, lãnh thổ Đàng Trong từng bước được mở rộng vào phía nam, bao gồm cả vùng đất từ Nam Quảng Bình đến Nam Bộ ngày nay. Các chúa Nguyễn nối tiếp nhau xây dựng chính quyền riêng của mình. Đất Đàng Trong chia thành 12 dinh, nơi đóng phủ chúa được gọi là Chính dinh.  Mỗi dinh đều có 2 hay 3 ti trông coi mọi việc, nhưng chủ yếu lo việc thuế khoá và hộ khẩu. Từ nửa sau thế kỉ XVII, Phú Xuân (Huế) trở thành trung tâm của Đàng Trong. Chúa Nguyễn cũng thành lập các cơ quan trực thuộc chuyên về việc thu thuế. dưới dinh là phủ, huyện, tổng, xã (hay phường, thuộ. quân đội Đàng Trong là quán thường trực, tuyển theo nghĩa vụ, được trang bị vũ khí đầy đủ, trong đó có súng đại bác chế tạo theo kiểu phương tây. Vào giữa thế kỉ XVII, chúa Nguyễn bắt đầu tổ chức các kì thi; quan lại được tuyển chọn bằng nhiều cách: dòng dõi, đề cử, khoa cử. Năm 1744, sau một thời kì phát triển ổn định của xã hội Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Khoát quyết định xưng vương, thành lập triều đình trung ương, đổi 3 ti thành 6 bộ và đặt thêm quan chức. Các dinh vẫn giữ như cũ. Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỉ XVIII, triều đình Đàng Trong vẫn chưa hoàn chinh. Từ giữa thế kỉ XVIII,chính quyền Ở ĐàngTrong cũng như ở Đàng Ngoài đều lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Với các hiệp ước Hácmăng và Patơnốt, thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam. Chúng bắt đầu xúc tiến việc thiết lập chế độ bảo hộ và bộ máy chính quyền thực dân trên phần lãnh thổ Bắc Kì và Trung Kì. Nhưng chúng đã vấp phải sự kháng cự của một số quan lại, văn quân, sĩ phu yêu nước và nhân dân các địa phương, cả trong Nam, ngoài Bắc. Phong trào phản đối hai hiệp ước 1883 và 1884 diễn ra rất sôi nổi. Nhiều toán nghĩa quân hoạt động mạnh ở các vùng xung quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Sơn tây, Hải dương..., khiến cho quân Pháp ăn không ngon, ngủ không yên. Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phái chủ chiến trong triều đình Huế, đại diện là Tôn Thất Thuyết (Thượng thư Bộ binh), mạnh tay hành động. Họ phế bỏ những ông vua có biểu hiện quân Pháp, đưa Ưng Lịch còn nhỏ tuổi lên ngôi (hiệu là Hàm Nghi), trừ khử những người không cùng chính kiến, bổ sung thêm lực lượng quân sự, bí mật liên kết với sĩ phu, vãn quân các nơi, xây dựng hệ thống sơn phòng và tuyến đường thượng đạo, ra sức tích trữ lương thảo và vũ khí đề chuẩn bị chiến đấu... Trước tình hình đó, thực dân Pháp phải tăng thêm lực lượng quân sự, siết chặt bộ máy kìm kẹp và tìm mọi cách đề loại phái chủ chiến ra khỏi triều đình. biết được âm mưu của Pháp, đến mồng 4 rạng sáng 5 -7 - 1885, Tôn Thất Thuyết và lực lượng chủ chiến đã ra tay trước." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Trong khi viên Toàn quyền về chính trị và quân sự Pháp tại Việt Nam là Đờ Cuốc-xi đang tổ chức yến tiệc tại toà Khâm sứ Pháp ở Huế, Tôn Thất Thuyết đã hạ lệnh cho các đạo quân của mình tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và toà Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, song do chuẩn bị vội vã, thiếu chu đáo nên sức chiến đấu của quân ta nhanh chóng giảm sút. Rạng sáng 5 - 7, quân Pháp phản công. Chúng cướp bóc và tàn sát nhân dân ta vô cùng man rợ. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra khỏi Hoàng thành, rồi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13 - 7 -1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, kêu gọi văn quân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến. Chiếu Cần vương đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, tạo thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, liên tực kéo dài hơn 10 năm mới chấm dứt." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX," Từ năm 1885 đến năm 1888 Thời gian này, phong trào được đặt dưới sự chỉ huy của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết, với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra trên phạm vi rộng lớn, nhất là ở Bắc Kì và Trung Kì. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, cùng nổi dấy có Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận, Đào Doãn Địch, Nguyễn Duy Cung...; Trần Vãn Dự, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Thanh Phiến nổi dậy ở Quảng Nam; Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân nổi dậy ở Quảng Ngãi; Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị; Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình; Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hà Tĩnh; Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An. Tại Thanh Hoá có các đội nghĩa quân của Phạm Bành, định Công Tráng, Tống Duy Tân, Cao Điển... Vùng đồng bằng Bắc Kì có khởi nghĩa của Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên). Tại vùng Lạng Sơn, Bắc Giang có khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh); vùng tây Bắc có các phong trào của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Vãn Giáp, Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đèo Vãn Thanh, Cầm Vãn Toa... Lúc này, đi theo Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có nhiều văn quân, sĩ phu và tướng lĩnh khác như: Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Thiệp (2 con của Tôn Thất Thuyết), Phạm Tường, Trần Văn Định... Bộ chỉ huy của phong trào đóng tại vùng rừng núi phía tây hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cuối năm 1888, do có sự chỉ điểm của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi rơi vào tay giặc. Nhà vua đã cự tuyệt mọi sự dụ dỗ của Pháp, chịu án lưu đầy sang An-giê-ri (Bắc Phi)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Cứ điểm Ba Đình được xây dựng ở ba làng Mậu Thinh, Thượng Thọ, Mĩ Khệ (thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá), do Phạm Bành và định Công Tráng chỉ huy. Tại đấy, nghĩa quân đã xây dựng một căn cứ chống Pháp vững chắc. Bao bọc xung quanh căn cứ là luỹ tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi đến lớp thành đất cao đến 3 mét, chân thành rộng từ 8 mét đến 10 mét, trên thành có các lỗ Châu mai. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng đề vẤn Động và tiếp tế khi chiến đấu. 0 những nơi xung yêu đều có công sự vững chắc. Các ngôi đình của ba làng được biến thành các chốt đóng quân, nối với nhau bằng hệ thống giao thông hào, có thể hỗ trợ cho nhau. Được sự ủng hộ của nhân dân đia phương, cứ điểm Ba Đình được xây dựng và hoàn thành chỉ trong 1 tháng. Ngoài Ba Đình là căn cứ chính, còn có một số căn cứ hỗ trợ ở ngoại vi như Phi Lai, Quảng Hoá, Mã Cao... do Cao Điển, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao đứng đầu; trong đó căn cứ Mã Cao có tầm quan trọng đặc biệt, là nơi nghĩa quân rút về đóng giữ khi căn cứ Ba Đình bị phá vỡ. Nghĩa quân Ba Đình có khoảng 300 người, bao gồm cả người Kinh, người Thái, người Mường. Họ tự trang bị các loại vũ khí thông thường như: súng hoả mai, gươm, giáo, cung, nỏ. Đông đảo nhân dân đia phương tham gia vào các đội vận chuyển lương thực, nuôi quân, tài thương... Hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là chặn đánh các đoàn xe vận tài của đich và tập kích các toán lính trên đường hành quân. đề đối phó lại, tháng 12 - 1886, thực dân Pháp tập trung 500 quân, mở cuộc tấn công vào căn cứ Ba Đình, nhưng thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Ngày 6 -1 -1887, Pháp lại huy động khoảng 2 500 quân, dưới sự chỉ huy của Đại tá Brít-xô, có pháo binh yểm trợ, bao vây căn cứ, rồi lấn dần từng bước. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong rất nhiều. Quân Pháp dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân bị tiêu hao rát nhiều. Đêm 20 - 1 - 1887, họ phải mở đường máu rút lên Mã Cao. Sáng 21 -1, chiếm được căn cứ, thực dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xoá tên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mĩ Khệ trên bản đồ hành chính. Nghĩa quân rút về Mã Cao, cầm cự được một thời gian, rồi bị đẩy lên miền tây Thanh Hoá và sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã hi sinh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt; người phải chạy sang Trung Quốc như Trần Xuân Soạn; người phải tự sát như Phạm Bành, Hà Văn Mao. định Công Tráng thoát khỏi tay giặc và tiếp tục gậy dựng lại phong trào. Nhưng đến mùa hè năm 1887, ông cũng bị giặc Pháp bắt và giết hại. Đến đấy, khởi nghĩa Ba Đình hoàn toàn tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Hương Khệ là một huyện miền núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh, nơi đấy có đại bản doanh của một cuộc khởi nghĩa lớn, quy mô lan rộng cả 4 tỉnh Bắc Trung Kì, kéo dài từ năm 1885 đến năm 1896. Lãnh tự cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng. Phan Đình Phùng sinh năm 1847, quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã từng Ảnh), Đức Thọ, Hà Tĩnh. Năm 1877, ông thi đỗ Đình nguyên Tiến sĩ, từng làm quan Ngự sử trong triều đình. Với bản tính cương trực, ông phản đôi việc Tôn Thất Thuyết phố bỏ Dục Đức, lập Hiệp Hoà làm vua, vì vậy đã bị cách chức đuổi về quê. Tuy vậy, khi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng Hà Tĩnh, ông vẫn đến yết kiến và được giao trọng trách tổ 7 chức phong trào chông Pháp ngay tại quê nhà. Từ năm 1885 đến năm 1888 là giai đoạn chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở chiến đấu của nghĩa quân. Được Phan Đình Phùng giao nhiêm vụ, Cao Thắng đã tích cực chiêu tập binh sĩ, trang bị, huấn luyện và xây dựng căn cứ thuộc vùng rừng núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Ông đã cùng các thợ rèn làng Trung Lương và vẫn Chàng (Đức Thọ) nghiên cứu chế tạo thành công súng trường theo mẫu của Pháp. Từ năm 1888 đến năm 1896, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Sau một thời gian ra Bắc, tìm cách liên lạc với các sĩ phu, văn quân, Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh, cùng Cao Thắng trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân Hương Khệ được phiên chế thành 15 quân thứ, đặt dưới sự chỉ huy của những tướng lĩnh tài ba. Đại bản doanh cuộc khởi nghĩa đặt tại núi Vụ Quang." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Giai đoạn từ năm 1893 đến năm 1897 Lúc này, Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) trở thành thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám tên thật là Trương Vãn Thám, quê ở Tiên Lữ (Hưng Yên), theo gia đình lên làm ãn ở Sơn tây, sau sang Yên Thế (Bắc Giang) sinh sống. Sau khi Đề Nắm hi sinh, ông tập hợp những toán nghĩa binh còn sót lại, mở rộng địa bàn hoạt động.   Trong bối cảnh phong trào kháng chiến cả nước bị đàn áp dữ dội, nhiều cuộc khởi nghĩa đã thất bại, Đề Thám phải tìm cách giảng hoà với Pháp đề có thời gian củng cố lực lượng. Tháng 10 -1894, theo thoả thuận giữa hai bên, quân Pháp phải rút khỏi Yên Thế, Đề Thám được cai quản bốn tổng: Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng. Nhưng cuộc hoà hoãn kéo dài chưa được bao lâu thì Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công (11 - 1895). Nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân đề hoạt động. Nhằm bảo toàn lực lượng, lại bịê't được ý đổ của Pháp đang muốn chấm dứt xung đột đề tiến hành khai thác thuộc địa, Đề Thám xin giảng hoà lần thứ hai (12 - 1897). đề được hoà hoãn lần này, Đề Thám phải tuân thủ những điều kiên ngặt nghèo do Pháp đặt ra, như nộp khí giới, thường xuyên trình diện chính quyền thực dân. Bề ngoài, Đề Thám tỏ ra phục từng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chống Pháp." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Ngày 6 -1 -1887, Pháp lại huy động khoảng 2 500 quân, dưới sự chỉ huy của Đại tá Brít-xô, có pháo binh yểm trợ, bao vây căn cứ, rồi lấn dần từng bước. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong rất nhiều. Quân Pháp dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân bị tiêu hao rất nhiều. Đêm 20 - 1 - 1887, họ phải mở đường máu rút lên Mã Cao. Sáng 21 -1, chiếm được căn cứ, thực dân Pháp điên cuồng đốt phá và sau đó ra lệnh xoá tên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mĩ Khệ trên bản đồ hành chính. Nghĩa quân rút về Mã Cao, cầm cự được một thời gian, rồi bị đẩy lên miền Tây Thanh Hoá và sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân đã hi sinh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt; người phải chạy sang Trung Quốc như Trần Xuân Soạn; người phải tự sát như Phạm Bành, Hà Văn Mao. Đinh Công Tráng thoát khỏi tay giặc và tiếp tục gây dựng lại phong trào. Nhưng đến mùa hè năm 1887, ông cũng bị giặc Pháp bắt và giết hại. Đến đây, khởi nghĩa Ba Đình hoàn toàn tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời. Ngày 12 - 12 - 1946, Ban Thưởng vụ Trung uơng Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 18 và 19-12- 1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thưởng vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tối 19 - 12 - 1946, thay mặt Trung uơng Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi có đoạn: ""Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa ! Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên ! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc"". Ngày 21 - 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước đồng minh. Trong thư, Người khẳng định niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Bức thư nêu rõ: ""Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta 20 triệu chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của chúng ta rất được bảo đảm"". Từ tháng 3 - 1947, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông dương Trường Chinh viết một loạt bài báo giải thích cụ thể về đường lối kháng chiến, đến tháng 9 - 1947 in thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là: toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn thể chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Trong vòng 3 tháng đấy của cuộc kháng chiến, ta đã vẫn chuyển hàng vạn tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu về chiến khu để tiếp tục sản xuất phục vụ nhu cầu cuộc kháng chiến. Riêng ở Bắc Bộ, gần 2/3 máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc. Nhân dân các đô thị nhanh chóng tản cư ra các vùng hậu phương và tiến hành phá hoại nhà cửa, đường sá, cầu cống để không cho địch sử dụng, thực hiện khẩu hiệu ""Vườn không nhà trống"", ""Tản cư cũng là kháng chiến"", ""Phá hoại để kháng chiến"", v.v... " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Tháng 3 - 1947, Chính phủ Ramađiê cử Bôlae sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông dương, thay Đácgiăngliơ. Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên lạc quốc tế của ta. Chúng âm mưu giành thắng lợi quân sự, tiến tới thành lập chính phủ bù nhìn, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Thực dân Pháp huy động 12000 quân và hầu hết máy bay ở Đông dương do tướng Valuy chỉ huy, tiến công Việt Bắc từ ngày 7 - 10 - 1947. Rạng sáng 7 - 10 - 1947, binh đoàn quân dù do Sôvanhâc chỉ huy đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc cạn, thị trấn Chợ Mới... Cùng ngày, binh đoàn bộ binh do Bôphơrê chỉ huy từ Lạng Sơn theo Đường số 4 đánh lên Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc cạn, theo Đường số 3, bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc. Ngày 9 - 10, một binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thuỷ đánh bộ do Cômmuynan chỉ huy từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên Quang, đến chiếm Thanh Hoá, đánh vào Đài Thị, bao vây Việt Bắc ở phía tây. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 21: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp (1946-1950).,"Thực hiện phương châm chiến lược ""đánh lâu dài phá âm mưu mới của địch, Đảng và Chính phủ ta chủ trương tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Trên mặt trận chính trị: Tháng 6 - 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào thi đua yêu nước toàn quốc. Phong trào lôi cuốn mọi lực lượng xã hội tham gia thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Chính quyền dân chủ nhân dân từng bước được kiện toàn, phát huy vai trò tổ chức, động viên toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Tháng 6 - 1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thống nhất hai tổ chức. Khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết giai cấp ngày càng củng cố và mở rộng, phá âm mưu chia rẽ ""dùng người Việt đánh người Việt"" của địch. Trên mặt trận quân sự: Đảng và Chính phủ chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích, tiến hành du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, rồi từ du kích chiến tiến dần lên vận động chiến. Trên mặt trận kinh tế: Chính phủ ra các sắc lệnh giảm tô 25%, giảm tức, hoãn nợ, xoá nợ, chia lại ruộng đất công, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, ruộng đất lấy từ tay đế quốc và bọn phản động. Tính đến cuối năm 1950, chính quyền cách mạng đã tạm cấp được 253 863 héc ta ruộng đất cho gần 500 000 nông dân. Nông dân phấn khởi, hăng hái sản xuất. Công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển theo quy mô nhỏ và phân tán, chú trọng công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng, đáp ứng nhu cầu thiết yêu của đời sống và chiến đấu. Trong những năm 1948 - 1949, ta đã sản xuất được súng cối 60 mm và 120 mm, súng SKZ... Trên mặt trận văn hoá, giáo dục,... Năm 1948, tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc, Tổng Bí thư Trường Chinh đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, nêu rõ nền văn hoá mới cách mạng Việt Nam được xây dựng theo phương châm: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Phong trào ""Bình dân học vụ và giáo dục phổ thông các cấp được duy trì và phát triển. Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông nhằm xoá bỏ những tàn tích của nền giáo dục thực dân phong kiến, hướng giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc và đặt nền móng cho nền giáo dục dân tộc, dân chủ Việt Nam (thay hệ thống giáo dục cũ bằng hệ thống giáo dục mới 9 năm). Hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp cũng bắt đầu được xây dựng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Việt Nam từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX,Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX,"Từ đầu năm 1889, nghĩa quân đẩy mạnh hoạt động và liên tục mở các cuộc tập kích, đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét của địch. Nhiều trận đánh nổi tiếng đã diễn ra, như trận tấn công đồn Trường Lưu (5 - 1890), trận tập kích thị xã Hà Tĩnh (8 - 1892) giải phóng 700 tù chính trị... Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương) trên đường tiến quân về tỉnh lị Nghệ An, Cao Thắng đã bị trúng đạn và hi sinh năm 29 tuổi. Đấy là một tổn thất lớn của nghĩa quân. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, nghĩa quân vẫn kiên trì chiến đấu. Ngày 17 -10 -1894, họ giành được thắng lợi lớn trong trận phục kích địch ở núi Vụ Quang, hàng chục tên giặc đã bị tiêu diệt. Sau trận đánh này, đội quân tay sai của Pháp do Nguyễn quân chỉ huy tiếp tục tổ chức cuộc vây hãm núi Vụ Quang. Nghĩa quân bị triệt đường tiếp tế, quân số giảm sút nhiều. Trong một trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh ngày 28 -12 -1895. Năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa lần lượt rơi vào tay Pháp. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê sau hơn 10 năm tồn tại đến đây kết thúc. Đấy là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có những hạn chế về đường lối, phương pháp tổ chức và lãnh đạo." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền như làm gốm sứ, dệt vải lụa, làm giấy, làm đồ trang sức, rèn sắt, đúc đồng... ngày càng phát triển và đạt trình độ cao. Nhiều nghề thủ công mới xuất hiện như nghề khắc in bản gỗ, nghề làm đường trắng, nghề làm đồng hồ, làm tranh sơn mài. Số làng nghề như dệt lụa, lĩnh các loại, làm giấy, làm gốm sứ, nhuộm vải, đúc đồng v.v... tăng lên ngày càng nhiều. Ở các làng này, cư dân vẫn làm ruộng, tuy nhiên, một số thợ giỏi đã họp nhau rời làng ra các đô thị, lập phường vừa sản xuất vừa bán hàng. Ngành khai mỏ trở thành một ngành kinh tế phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài, một số người Hoa đã sang xin thầu khai thác một số mỏ, sử dụng nhân công người Hoa. Nhân đó, một số nhà giàu người Việt cũng xin thầu. Lượng kim loại được bán ra thị trường hoặc phục vụ nhà đầu thế kỉ XVII nước ngày càng lớn." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của đô thị. Vào các thế kỉ XVI - XVIII, nhiều đô thị mới hình thành ở miền Bắc và miền Nam. Khu cư dân Thăng Long cũng phát triển với tên Kẻ Chợ gồm 36 phố phường và 8 chợ. Một thương nhân nước ngoài đã mô tả: ""Các phố ở Kẻ Chợ đều rộng, đẹp và lát gạch từng phần... Một thương nhân khác nói thêm: ""Tất cả những vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường... Phố Hiến (phía nam thị xã Hưng Yên ngày nay) ra đời và phát triển phồn thịnh. Nhân dân có câu ""Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến "". Theo người phương Tây mô tả, bấy giờ Phố Hiến có khoảng 2000 nóc nhà. Hội An là thành phố cảng lớn nhất ở Đàng Trong (trên đất Quảng Nam ngày nay), phát triển chủ yếu ở các thế kỉ XVII - XVIII. Giáo sĩ Bo-ri đã viết: ""Hải cảng đẹp nhất, nơi mà thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán là hải cảng thuộc tỉnh Các-ci-am (Quảng Nam)... Thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có 2 thị trấn, một của người Trung Quốc và một của người Nhật Bản. Thanh Hà cũng là một đô thị mới hình thành ở trên bờ sông Hương, gần Phú Xuân (Huế) do các thương nhân Trung Hoa thành lập với sự đồng ý của chúa Nguyễn. Trao đổi buôn bán ở đây khá sầm uất và người đương thời đã gọi là ""Đại Minh khách phố"". Ngoài ra, còn có một số trung tâm buôn bán nhỏ hơn, phồn vinh một thời. Vào đầu thế kỉ XIX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đô thị suy tàn dần, thậm chí không còn được nhắc đến, trừ Thăng Long." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tạo điểu kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của đô thị. Vào các thế kỉ XVI - XVIII, nhiều đô thị mới hình thành ở miền Bấc và miền Nam. Khu cư dân Thăng Long cũng phát triển với tên Kẻ Chợ gồm 36 phố phường và 8 chợ. Một thương nhân nước ngoài đã mô tả: ""Các phố ở Kẻ Chợ đều rộng, đẹp và lát gạch từng phần... Một thương nhân khác nói thệm: ""Tất cả những vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường... Phố Hiến (phía nam thị xã Hưng Yên ngày nay) ra đời và phát triển phồn thịnh. Nhân dân có cáu ""Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiển "". Theo người phương Táy mô tả, bấy giờ Phố Hiến có khoảng 2000 nóc nhà. Hội An là thành phố cảng lớn nhất ở Đàng Trong (trên đất Quảng Nam ngày nay), phát triển chủ yếu ở các thế kỉ XVII - XVIII. Giáo sĩ Bo-ri đã viết: ""Hải cảng đẹp nhất, nời mà thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán là hải cảng thuộc tỉnh Các-ci-am (Quảng Nam)... Thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có 2 thị trấn, một của người Trung Quốc và một của người Nhật Bản. Thanh Hà cũng là một đô thị mới hình thành ở trên bờ sông Hương, gần Phú Xuân (Huế) do các thương nhân Trung Hoa thành lập với sự đồng ý của chúa Nguyễn. Trao đổi buôn bán ở đây khá sầm uất và người đương thời đã gọi là ""Đại Minh khách phố"". Ngoài ra, còn có một số trung tâm buôn bán nhỏ hơn, phồn vinh một thời. Vào đầu thế kỉ XIX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đô thị suy tàn dần, thậm chí không còn được nhắc đến, trừ Thăng Long." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,"Sau khi đã cơ bản bình định được Việt Nam bằng quân sự, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khai thác trên đất nước ta. Dưới tác động của cuộc khai thác, xã hội Việt Nam có những biến động đáng kể, từ xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,"Năm 1897, Chính phủ Pháp cử Pôn Đu-me sang làm Toàn quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống trị và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Nổi bật là chính sách cướp đoạt ruộng đất. Năm 1897, thực dân Pháp ép triều đình nhà Nguyễn ""nhượng quyền ""khai khẩn đất hoang cho chúng. Ban đầu, tư bản Pháp tập trung vào việc khai thác mỏ (than đá, thiếc, kẽm...) ở Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Nam... Bên cạnh đó, những cơ sở công nghiệp, phục vụ đời sống như điện, nước, bưu điện... cũng lần lượt ra đời. Chính quyền thuộc địa chú ý đến việc xây dựng hệ thống giao thông, vừa phục vụ công cuộc khai thác lâu dài, vừa phục vụ mục đích quân sự. Những đoạn đường sắt quan trọng ở Bắc Kì và Trung Kì dần dần được xây dựng. Tính đến năm 1912, tổng chiều dài đường sắt đã làm xong ở Việt Nam là 2059 km. Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, bến cảng và các vùng biên giới trọng yếu. Nhiều cây cầu lớn được xây dựng như: cầu Long Biên (Hà Nội), cầu Tràng Tiền (Huế), cầu Bình Lợi (Sài Gòn)... Một số cảng biển, cảng sông cũng được mở mang vào thời gian này như: cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Các tuyên đường biển đã vươn ra nhiều nước trên thế giới. Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước du nhập vào Việt Nam. Tuy vậy, khi tiến hành khai thác, thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,"Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp đã kéo theo sự biến đổi về mặt xã hội. Một bộ phận nhỏ trong giai cấp địa chủ phong kiến trở nên rất giàu có. Dựa vào thực dân Pháp, họ ra sức chiếm đoạt ruộng đất của làng xã, của nông dân. Tuy vậy, một số địa chủ vừa và nhỏ bị đế quốc chèn ép, ít nhiều có tinh thần chống Pháp. Nông dân Việt Nam vốn đã khốn khổ bởi nạn thuế khoá, địa tô, phu phen, tạp dịch..., lại càng khổ thêm vì nạn cướp đất lập đồn điền, dựng nhà máy của thực dân Pháp. Bình quân ruộng đất vốn đã thấp nay càng thấp hơn. ở Bắc Kì, có xã tới 80% số hộ không có ruộng. Mất đất, người nông dân phải tìm đường ra các thành phố, đến các công trường, hầm mỏ và đồn điền, nhưng chỉ có một số ít kiêm được việc làm. Nông dân Việt Nam là một lực lượng to lớn trong phong trào chống Pháp, nhưng do thiếu sự lãnh đạo đúng đắn nên họ chưa phát huy được đầy đủ sức mạnh của mình. Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không chỉ làm phân hoá những giai cấp cũ trong xã hội mà còn làm xuất hiện những lực lượng xã hội mới. Trướ chết, nền công nghiệp thuộc địa mới hình thành là cơ sở cho sự ra đời đội ngũ công nhân Việt Nam. Họ làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền, các xí nghiệp công nghiệp, công trường, các ngành giao thông... Nhà máy xi mãng Hải Phòng đã có 1 800 công nhân, các nhà máy xay xát gạo ở Sài Gòn cũng có tới 3 000 công nhân. Riêng ngành than, năm 1904 mới có 4 000 công nhân, đến năm 1914 đã có 15 000 công nhân; xưởng đóng tàu Ba Son (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh) cũng có đến 1 000 công nhân có tay nghề." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,"Lực lượng công nhân Việt Nam đầu thế kỉ XX còn non trẻ. Mục tiêu đấu tranh chủ yếu của họ là vì quyền lợi kinh tế (đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc). Ngoài ra, họ còn hưởng ứng các phong trào chống Pháp do các tầng lớp khác lãnh đạo. Trong quá trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cần có những người làm trung gian, đại lí tiêu thụ hoặc thu mua hàng hoá, cung ứng nguyên vật liệu. Nhờ buôn bán họ trở nên giàu có. Ngoài ra, một số sĩ phu yêu nước, chịu ảnh hưởng của tư tưởng tư sản từ Trung Quốc, Nhật Bản, đã đứng ra lập các hiệu buôn, cơ sở sản xuất. Đó chính là những lớp người đầu tiên của tư sản Việt Nam. Cũng trong thời kì này đã xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Thành phần của họ khá phức tạp, gồm những tiểu thương, tiểu chủ sản xuất và buôn bán hàng thủ công. Số viên chức làm việc trong các công sở hoặc cơ sở tư nhân như nhà báo, nhà giáo, học sinh, sinh viên... cũng là một lực lượng quan trọng thuộc tầng lớp này.  Như vậy, cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm nảy sinh những lực lượng xã hội mới. Sự biến đổi này đã tạo ra những điều kiện bên trong cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo xu hướng mới ở đầu thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Bước sang giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, có sự giúp đỡ của đế quốc Mĩ, được đẩy mạnh; lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành mọi mặt, quân dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Từ tháng 5 - 1949, Mĩ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông dương. Ngày 23 - 12 - 1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông dương. Đấy là hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế - tài chính của Mĩ cho Pháp và tay sai, qua đó Mĩ từng bước thay chân Pháp ở Đông dương. Tháng 9 - 1951, Mĩ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mĩ nhằm trực tiếp ràng buộc Chính phủ Bảo Đại vào Mĩ. Sau những hiệp định này, viện trợ của Mĩ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông dương: Năm 1950 là 52 tỉ phrăng, chiếm 19% ngân sách; năm 1954 là 555 tỉ phrăng, chiếm 73% ngân sách. Các phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự... của Mĩ đến Việt Nam ngày càng nhiều. Các trung tâm và các trường huấn luyện của Mĩ bắt đấu tuyển chọn, đưa người Việt Nam sang học ở Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Ngày 6 - 12 - 1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đơ Tátxinhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiệm Cao uỷ Pháp ở Đông dương. Dựa vào viện trợ Mĩ, lại có quyền lực tập trung trong tay, Đờ Lát đơ Tátxinhi đề ra kế hoạch mới nhằm kết thức nhanh chiến tranh.  Kế hoạch gồm bốn điểm chính: - Gấp rút tập trung quân Âu - Phi nhằm xây dụng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh, đồng thời ra súc phát triển nguỵ quân đề xây dụng ""quân đội quốc gia"". - xây dụng phòng tuyến quân sự bằng xi măng cốt sắt (boong ke), thành lập ""vành đai trắng bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn chủ lực của ta và kiểm soát ta đưa nhân, tài, vật lực ra vùng tự do. - Tiến hành ""chiến tranh tổng lực"", bình định vùng tạm chiếm, vơ vét súc người; súc của của nhân dân ta đề tăng cường lực lượng của chúng. - Đánh phá hậu phương của ta bằng biệt kích, thổ phỉ, gián điệp, kết hợp oanh tạc bằng phi pháo với chiến tranh tâm lí, chiến tranh kinh tế. Kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông dương lên quy mô lớn, làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhất là ở vùng sau lưng địch, trở nên khó khăn, phức tạp." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Từ ngày 11 đến ngày 19 - 2 - 1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông dương họp ở xã Vinh Quang, huyện chiếm Hoá (tuyến Quang). Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên. Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng: ""Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiêm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh oanh liệt từ ngày ra đời, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng. Báo cáo ""Bàn về cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho dân tộc, xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gậy cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.  Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông dương đề thành lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác - Lênin riêng, có cương lĩnh phù hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc. ở Việt Nam, Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam, tiếp tục đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đại hội thông qua tuyến ngôn, Chính cương, Điều lệ mới; quyết định xuất bản báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội đại biểu lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, là ""Đại hội kháng chiến thắng lợi""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Từ ngày 3 đến ngày 7 - 3 - 1951, đã diễn ra Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành một mặt trận duy nhất, lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt), do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch, Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự. Ngày 11 - 3 - 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme Itxarắc, Mặt trận Lào Itxala họp Hội nghị đại biểu đề thành lập Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào. Liên minh thành lập đã tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa nhân dân ba nước trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Phong trào thi đua yêu nước ngày càng ăn sâu, lan rộng trong các ngành, các giới, làm nảy nở nhiều đơn vị, cá nhân ưu tú. Ngày 1 - 5 - 1952, Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất đã tổng kêt, biểu dương thành tích của phong trào thi đua yêu nước và bầu chọn 7 anh hùng: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiến, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Năm 1952, Chính phủ mở cuộc vận động lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm. Cuộc vận động đã lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia. Năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra đã sản xuất được 2 757 000 tấn thóc và hơn 650 000 tấn hoa màu. Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp về cơ bản đáp ứng được những nhu cầu về công cụ sản xuất và những mặt hàng thiết yêu của đời sống. Năm 1953, ta sản xuất được 3 500 tấn vũ khí đạn dược, cung cấp tạm đủ cho bộ đội về thuốc men, quân trang, quân dụng. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ đề ra những chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khoá, xây dựng nền tài chính, ngân hàng và thương nghiệp. đề bổi dưỡng sức dân, nhất là nông dân, đầu năm 1953 Đảng và Chính phủ quyết định phát động quần chúng triệt đề giảm tô và cải cách ruộng đất. Từ tháng 4 - 1953 đến tháng 7 - 1954, ta thực hiện 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở 53 xã thuộc vùng tự do Thái Nguyên, Thanh Hoá. Đến cuối năm 1953, từ Liên khu IV trở ra, chính quyền cách mạng đã tạm cấp cho nông dân 184 000 héc ta ruộng đất. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Ta tiếp tục cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950) thực hiện theo ba phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất, gắn nhà trường với đời sống xã hội. Tính đến năm 1952, ở các liên khu Việt Bắc, III, IV và V đỡ có trên 1 triệu học sinh phổ thông. Phong trào bình dân học vụ đạt kết quảtốt, đến năm 1952 có khoảng 14 triệu người thoát nạn mù chữ; công tác bổ túc văn hoá, đến tháng 9 - 1953, đỡ có 10 450 lớp học với 335 946 học viên. Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản xuất, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ""Kháng chiến hoá văn hoá và văn hoá hoá kháng chiến"". Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan ngày càng mang tính chất quần chúng rộng lớn. Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng nhiều nơi. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"đề giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ và đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, trong thời gian từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tực mở 3 chiến dịch: chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch Đường số 18) và chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà - Nam - Ninh). Đấy là những chiến dịch tiến công quy mô lớn của quân ta đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng, đỡ loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực địch, phá vỡ từng màng kế hoạch bình định của chúng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân và do lụa chọn địa bàn 3 chiến dịch chưa phù hợp với khà năng tác chiến của bộ đội ta, mà có lợi cho địch, nên kết quà chiến đấu bị hạn chế. Với phương châm chiến lược ""Đánh chắc thắng và phương hướng chiến lược ""Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yêu"", ta chủ trương mở những chiến dịch tiếp theo ở rừng núi. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Hoà Bình là cửa ngõ nối liền vùng tự do với vùng đồng bằng Bắc Bộ qua Chợ Bến, là mạch máu giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu IV. Ngày 9 - 11 - 1951, Đờ Lát đơ Tátxinhi sử dụng một lực lượng lớn quân cơ động tiến đánh Chợ Bến, đến ngày 14 - 11 đánh chiếm khu vực Hoà Bình. Nhằm tiêu diệt sinh lực địch ở Hoà Bình, phá kế hoạch bình định của chúng ở đồng bằng Bắc Bộ và đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của ta, từ giữa tháng 11 - 1951 đến cuối tháng 2 - 1952, ta mở chiến dịch phản công và tiến công địch ở Hoà Bình. Chiến dịch Hoà Bình kết thức sau hơn 3 tháng. Ta giải phóng hoàn toàn khu vực Hoà Bình - Sông Đà rộng 2 000 km2 với 15 vạn dân. Các căn cứ du kích của ta được mở rộng, nối liền từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh tới sát Đường số 5, qua Hưng Yên, Hải dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"tây Bắc là vùng chiến lược quan trọng, bị địch chiếm đóng, từ đó chúng uy hiêp căn cứ Việt Bắc của ta và che chở cho vùng Thượng Lào của chúng. Từ ngày 14 - 10 đến ngày 10 - 12 - 1952, ta mở chiến dịch tây Bắc. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái. Kêt thức chiến dịch, ta đã giải phóng 28 000 km vuông với 25 vạn dân, gồm toàn tỉnh Nghĩa Lộ, gần hệt tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái, phá một phần âm mưu lập ""xứ Thái tự trị của địch." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Thượng Lào là vùng chiến lược quan trọng, là hậu phương an toàn của địch. Sau thất bại ở tây Bắc (Việt Nam), địch tăng cường phòng thủ ở đấy. Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Itxala thoả thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Chiến dịch diễn ra từ ngày 8 - 4 đến ngày 18 - 5 - 1953. Liên quân Việt - Lào đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với trên 30 vạn dân. Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ năm 1951 đến năm 1953, ở các chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ, quân dân ta đã tận dụng các hình thức chiến tranh du kích, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá huỷ nhiều tổ chức tề nguỵ và nhiều cơ sở kinh tế của chúng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 22: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tạo điểu kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của đô thị. Vào các thế kỉ XVI - XVIII, nhiều đô thị mới hình thành ở miền Bấc và miền Nam. Khu cư dân Thăng Long cũng phát triển với tên Kẻ Chợ gồm 36 phố phường và 8 chợ. Một thương nhân nước ngoài đã mô tả: ""Các phố ở Kẻ Chợ đều rộng, đẹp và lát gạch từng phần... Một thương nhân khác nói thêm: ""Tất cả những vật phẩm khác nhau bản trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường... Phố Hiến (phía nam thị xã Hưng Yên ngày nay) ra đời và phát triển phồn thịnh. Nhân dân có cáu ""Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiển "". Theo người phương Táy mô tả, bấy giờ Phố Hiến có khoảng 2000 nóc nhà. Hội An là thành phố cảng lớn nhất ở Đàng Trong (trên đất Quảng Nam ngày nay), phát triển chủ yếu ở các thế kỉ XVII - XVIII. Giáo sĩ Bo-ri đã viết: ""Hải cảng đẹp nhất, nời mà thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bản là hải cảng thuộc tỉnh Các-ci-am (Quảng Nam)... Thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có 2 thị trấn, một của người Trung Quốc và một của người Nhật Bản. Thanh Hà cũng là một đô thị mới hình thành ở trên bờ sông Hương, gần Phú Xuân (Huế) do các thương nhân Trung Hoa thành lập với sự đồng ý của chúa Nguyễn. Trao đổi buôn bản ở đấy khá sầm uất và người đương thời đã gọi là ""Đại Minh khách phố"". Ngoài ra, còn có một số trung tâm buôn bản nhỏ hơn, phồn vinh một thời. Vào đầu thế kỉ XIX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đô thị suy tàn dần, thậm chí không còn được nhắc đến, trừ Thăng Long." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Tây Bắc là vùng chiến lược quan trọng, bị địch chiếm đóng, từ đó chúng uy hiếp căn cứ Việt Bắc của ta và che chở cho vùng Thượng Lào của chúng. Từ ngày 14 - 10 đến ngày 10 - 12 - 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái. Kết thức chiến dịch, ta đã giải phóng 28 000 km vuông với 25 vạn dân, gồm toàn tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái, phá một phần âm mưu lập ""xứ Thái tự trị"" của địch." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 22: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-1953).,"Thượng Lào là vùng chiến lược quan trọng, là hậu phương an toàn của địch. Sau thất bại ở tây Bắc (Việt Nam), địch tăng cường phòng thủ ở đấy. Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Itxala thoả thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Chiến dịch diễn ra từ ngày 8 - 4 đến ngày 18 - 5 - 1953. Liên quân Việt - Lào đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với trên 30 vạn dân. Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ. Từ năm 1951 đến năm 1953, ở các chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ, quân dân ta đã tận dụng các hình thức chiến tranh du kích, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá huỷ nhiều tổ chức tề nguỵ và nhiều cơ sở kinh tế của chúng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Tư tưởng Duy tân khi đi vào quần chúng đã vượt qua khuôn khổ ôn hoà, biến thành cuộc đấu tranh quyết liệt, điển hình là phong trào chống thuê năm 1908 ở Trung Kì. Phong trào Duy tân là một cuộc vận động yêu nước có nội dung chủ yếu là cải cách về văn hoá - xã hội, gắn liền với việc giáo dục lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị ngoại xâm. Phong trào đang phát triển sâu rộng thì bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt và chịu mức án tù 3 năm ở Côn Đảo. Năm 1911, chính quyền thực dân đưa ông sang Pháp. Suốt những năm sống ở Pa-ri, Phan Châu Trinh vẫn theo đường lối cải cách, kêu gọi thực hiện dân quyền, cải thiện dân sinh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Vào cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong bước vào giai đoạn khủng hoảng suy tàn. Một phong trào nông dân bùng lên rầm rộ, mở đầu từ ấp Tây Son (Bình Định) và trong quá trình đấu tranh kiên cường của mình đã làm nên hai sự nghiệp lớn: bước đầu thống nhất đất nước và đánh bại giặc ngoại xâm. bảo vệ nền độc lập dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Vào giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ, kéo dài trong hơn 10 năm và bị đàn áp. Cùng trong thời gian này, ở Đàng Trong, chúa Nguyễn xưng vưong, thành lập triều đình riêng. Đất nước bị chia thành hai miền. Nhưng rồi chính quyền mới lại suy thoái. Nhân dân cực khổ. Theo một giáo sĩ phương Tây, bấy giờ ""gạo đắt như vàng, tình trạng đói khổ bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau"". Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp Tây Sơn (Bình Định) do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Sau nhiều năm chiến đấu kiên cường, cuộc khởi nghĩa phát triển, tiến lên đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trỏ vào. Một nhiệm vụ mới được đặt ra: tiến quán ra Bấc đánh đổ chính quyền Lê - Trịnh và điều này cũng có nghĩa là, phong trào Tây Sơn sẽ phải đảm nhận thệm sứ mệnh thống nhất lại đất nước. Trong những năm I 786 - 1788, phong trào Tây Sơn lần lượt đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê và làm chủ toàn bộ đất nước. Sự nghiệp thống nhất đất nước bước đầu được hoàn thành." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Đầu những năm 80 của thế kỉ XVIII, sau khi chính quyền chúa Nguyễn bị lật đổ, một người cháu chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh đã cùng tàn quán trốn chạy sang Xiêm (Thái Lan) cầu cứu. Vua Xiêm sai tướng đem 5 vạn quân thuỷ, bộ tiến sang nước ta theo sự dẫn đường của quán Nguyễn Ánh. Sau khi chiếm được gần một nửa đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay), chúng ra sức cướp phá, hoành hành và chuẩn bị tấn công quán Tây Sơn ở vùng đất còn lại. Được tin đó, vua Táy Sơn là Thái Đức (Nguyễn Nhạ đã sai em là Nguyễn Huệ đem binh thuyền vào Nam chống giặc. Được sự ủng hộ của nhân dân, đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đã tổ chức trận Rạch Gầm - Xoài Mút đánh tan tành quân xâm lược. Nguyễn Ánh theo cánh tàn quân Xiêm chạy thoát. Miền Nam trỏ lại yên bình." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Sau khi bị quân Tây Son đánh bại, vua Lê Chiêu Thong cùng một số đại thần thân cận bỏ chạy lên phía bắc, cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh. Nhộn thấy đây là một thời cơ thuận lợi để xâm lược, vua Thanh sai tướng đem 29 vạn quân, theo sự chỉ dẫn của vua tôi Lê Chiêu Thống tiến sang nước ta, với danh nghĩa giúp nhà Lê đánh quân Tây Sơn giành lại chính quyền. Nhân dân Đàng Ngoài vừa trải qua những năm loạn lạc, đói khổ, cuối năm 1788 lại phải chứng kiến hàng chục vạn quân xâm lược tràn vào Thăng Long. Trở lại ngôi vua, Lê Chiêu Thống tìm mọi cách bắt nhân dân đóng góp để phục vụ quân xâm lược, cảnh cướp bóc, tàn phá, hoành hành lại xảy ra ở khắp nơi có quân Thanh đóng giữ, khiến cho nhân dân càng căm thù quân cướp nước và bán nước. Lực lượng Tây Sơn đóng ở kinh thành tạm rút về mạn Ninh Bình, Thanh Hoá, rồi cho người vào Phú Xuân (Huế) cấp báo. Được tin đó, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ quyết định làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, chi huy quán tiến ra Bắc; trên đường đi đã dừng lại ở Nghệ An, Thanh Hoá để tuyển thệm quân. Đúng vào đểm 30 Tết (tức 25-1-1789), quân ta được lệnh tiến công với khí thế từ lời hiểu dụ của vua Quang Trung: Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân hất phản Đánh cho nó phiến giáp hất hoàn Đánh cho sử trí Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.  Sau 5 ngày (bắt đầu từ đểm 30 cho đến trưa mồng 5 Tết Ki Dậu) tiến quán thần tốc, chiến đấu quyết liệt và với chiến thắng vang dội Ngọc Hồi - Đống Đa, quân ta đã đánh bại hoàn toàn quân xâm lược, tiến vào Thăng Long. Nhân dân kinh thành mừng vui chào đón đoàn quán chiến thắng đúng như lời thơ mô tả: Mây tạnh mù tan trời lại sáng Đầy thành giờ trẻ mặt như hoa Chung vai sát cánh cùng nhau nói Cổ đô vẫn thuộc núi sông ta. Những chiến công hiển hách của sự nghiệp thống nhất lại đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc trong hoàn cảnh đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng đã nói lên công lao to lớn của phong trào Tây Son và người ""anh hùng áo vải Nguyễn Huệ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Sau khi tiêu diệt các lực lượng chúa Nguyễn, năm 1778, thủ lĩnh nghĩa quân Tây Sơn là Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, thành lập vương triều nhưng không làm được gì thệm. Cuộc khỏi nghĩa vẫn tiếp tục. Cuối năm 1788, trước khi xuất quân lên đường ra Bắc chiến đấu chống quân xâm lược Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (Quang Trung) và sau ngày chiến thắng, chính thức xây dựng vương triều mới theo chế độ quân chủ chuyện chế, thống trị trên vùng đất từ Thuận Hoá trỏ ra Bắc. Chính quyền các trấn được thành lập. Vua Quang Trung ban chiếu kêu gọi nhân dân khôi phục sản xuất, lập lại sổ hộ, tổ chức lại giáo dục thi cử. Đất nước dần dần được ổn định. quân đội được tổ chức quy củ và trang bị vũ khí đầy đủ. Vua Quang Trung đặt quan hệ hoà hảo với nhà Thanh và được nhà Thanh rất tôn trọng. Quan hệ với Lào và Chán Lạp diễn ra tốt đẹp. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, triều đình rơi vào tình trạng lục đục, suy yếu dần. Năm 1802, trước sự tấn công của quán Nguyễn Ánh, các vương triều Tây Sơn lần lượt sụp đổ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Vào đầu thế kỉ XX, cùng với sự xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản, nhiều Tân thà, Tân báo của Trung Hoa cổ động cho tư tưởng dân chủ tư sản được đưa vào nước ta. Các sĩ phu yêu nước thức thời đã tiếp nhận tư tưởng đó một cách nồng nhiệt. Những đổi mới của Nhật Bản sau cuộc Duy tân Minh Trị (1868) càng củng cố niềm tin của họ vào con đường cách mạng tư sản. Đây chính là những điều kiện xã hội và tâm lí làm nảy sinh, thúc đẩy phong trào yêu nước theo khuynh hướng mới, trong đó, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là những nhân vật tiêu biểu." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Phan Bội Châu quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là người chủ trương dùng bạo lực để giành độc lập. Năm 1902, ông lên đường vào Nam, rồi ra Bắc, tìm cách liên kết những người có cùng chí hướng. Tháng 5 - 1904, tại Quảng Nam, Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông thành lập Hội Duy tân, chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến ở Việt Nam. Để chuẩn bị, Hội Duy tân tổ chức phong trào Đông du, đưa thanh niên sang học tập tại các trường của Nhật Bản. Tháng 8 - 1908, Chính phủ Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp ở Đông Dương, trục xuất số lưu học sinh Việt Nam, kể cả thủ lĩnh Phan Bội Châu. Phong trào Đông du tan rã. Phan Bội Châu về Trung Quốc, rổi sang Thái Lan nương náu chờ thời. Cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc nổ ra, triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, Chính phủ Dân quốc được thành lập, thi hành hàng loạt chính sách dân chủ tiến bộ. Phan Bội Châu từ Thái Lan quay trở lại Trung Quốc. Tháng 6 - 1912, tại Quảng Châu (Trung Quốc, ông tập hợp những người cùng chí hướng còn ở nước ngoài và một số mới từ trong nước sang (khoảng hơn 100 người), tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam Quang phục hội. Hội khẳng định tôn chỉ duy nhất là: ""Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà Dân quốc Việt Nam"". Để gây tiếng vang trong nước, thức tỉnh đồng bào, Hội đã cử người bí mật về nước để trừ khử những tên thực dân đầu sỏ, kể cả Toàn quyền An-be Xa-rô và những tay sai đắc lực của chúng. Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội trong buổi đầu đã đạt được một số kết quả nhất định, khuấy động được dư luận trong và ngoài nước. Nhưng thực dân Pháp nhân đó càng tăng cường khủng bố, nhiều người bị bắt và bị giết. Ngày 24 -12 -1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở nhà tù Quảng Đông. Cách mạng Việt Nam trải qua những ngày khó khăn." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Phan Châu Trinh quê ở phủ Tam Kì, tỉnh Quảng Nam. Ông là người sớm tiếp thu những tư tưởng tiên bộ, chủ trương cứu nước bằng biên pháp cải cách như nâng cao dân trí, dân quyền, dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, xem đó như là điều kiện tiên quyêt để giành độc lập. Từ năm 1906, Phan Châu Trinh và nhóm sĩ phu tiến bộ ở Quảng Nam như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kê mở cuộc vận động Duy tân ở Trung Kì. Trên lĩnh vực kinh tế, các ông chú ý đến việc cổ động chấn hưng thực nghiệp, lập hội kinh doanh. Tại Quảng Nam đã xuất hiện Quảng Nam hiệp thương công ti. Tại Hà Nội, Nguyễn Quyền và Hoàng Tăng Bí mở công ti Đông Thành Xương. Ở Nghệ An, Ngô Đức Kế lập ra Triêu Dương thương quán. Ở Phan Thiết có công ti Liên Thành. Ngoài việc lập hội buôn, các sĩ phu cải cách còn chú ý phát triển nghề làm vườn, nghề thủ công. Ngay tại quê nhà, Phan Châu Trinh đã thành lập ""nông hội"", chuyện việc san đổi trổng quê, hổ tiêu..., mở lò rèn, xưởng mộc... Việc mở trường dạy học theo lối mới cũng được quan tâm. Các trường này được thành lập ở nhiều nơi, dạy chữ Quôc ngữ, dạy các môn học mới, thay thế cho Tứ thư, Ngũ kinh của Nho học. Riêng ở Quảng Nam, có 4 trường lớn là Diên Phong, Phước Bình, Phú Lâm và Quảng Phước, mỗi trường trung bình có từ 70 đến 80 học sinh, trường đông nhất có tới 200 học sinh. Một hoạt động độc đáo khác là cuộc vận động cải cách trang phục và lối sống. Phan Châu Trinh cùng các cộng sự của mình vận động nhân dân cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn với các kiểu quần áo ""Au hoá"", may bằng vải nội. Những hủ tục phong kiến bị lên án mạnh mẽ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Tư tưởng Duy tân khi đi vào quần chúng đã vượt qua khuôn khổ ôn hoà, biến thành cuộc đấu tranh quyết liệt, điển hình là phong trào chống tHuế năm 1908 ở Trung Kì.  Phong trào Duy tân là một cuộc vận động yêu nước có nội dung chủ yếu là cải cách về văn hoá - xã hội, gắn liền với việc giáo dục lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị ngoại xâm. Phong trào đang phát triển sâu rộng thì bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt và chịu mức án tù 3 năm ở Côn Đảo. Năm 1911, chính quyền thực dân đưa ông sang Pháp. Suốt những năm sống ở Pa-ri, Phan Châu Trinh vẫn theo đường lối cải cách, kêu gọi thực hiện dân quyền, cải thiện dân sinh." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Trong khi Phan Bội Châu đang đẩy mạnh cuộc vận động vũ trang giải phóng dân tộc và các tỉnh Trung Kì đang sôi sực với cuộc vận động Duy tân, ở Hà Nội các sĩ phu tiến bộ như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... cùng nhau mở một trường học tư, lấy tên là Đông Kinh nghĩa thục. Trường bắt đầu hoạt động từ tháng 3 -1907. Đây là một kiểu trường học được xây dựng theo mô hình của Nhật Bản, xuất hiện từ thời Duy tân Minh Trị. Nội dung học bao gồm các môn Lịch sử, Địa lí, Cách trí, Vệ sinh... Trường còn tổ chức biên soạn, dịch thuật một số sách báo thấm đượm tinh thần duy tân và yêu nước. Ngoài việc giảng dạy chính thức, nhà trường còn tổ chức những buổi diễn thuyết, bình vãn để cổ7 động học chữ Quốc ngữ, hô hào mở hội kinh doanh công thương, kịch liệt lên án bọn quan lại hủ bại, chống việc học và thi cử theo lối cũ, bài trừ mê tín, hủ tục... Các buổi bình vãn còn là cơ hội giới thiệu công khai thơ vãn yêu nước, kêu gọi đoàn kết đấu tranh. Không bó hẹp trong phạm vi một trường học, những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục đã vươn ra ngoài xã hội, làm cho nhà trường nhanh chóng trở thành một trung tâm của phong trào Duy tân ở Bắc Kì. Hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục khiến thực dân Pháp lo ngại. Tháng 11 -1907, chúng ra lệnh đóng cửa trường. Hầu hết giáo viên Đông Kinh nghĩa thục bị bắt, sách báo bị cấm hoặc bị tịch thu, các tổ chức có liên quan với nhà trường đều bị giải tán. Mặc dù Đông Kinh nghĩa thục mới hoạt động được 9 tháng (từ tháng 3 đểh tháng 11 - 1907), nhưng đã có những đóng góp lớn trong cuộc vận động văn hoá đầu thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Bên cạnh cuộc vận động yêu nước do các sĩ phu tiến bộ khởi xướng, vào thời gian này còn có phong trào đấu tranh của binh lính người Việt trong quân đội Pháp và sự tiếp diễn của khởi nghĩa Yên Thế. Mở đầu là vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1908. Vụ đầu độc này nằm trong kế hoạch khởi nghĩa của binh lính người Việt ở Hà Nội kết hợp với nghĩa quân Yên Thế. Sau nhiều lần kế hoạch đánh úp thành Hà Nội bị hoãn lại, những người cầm đầu quyết định khởi sự vào đêm27 - 6 -1908, mở đầu bằng việc tổ chức đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành. Hơn 200 binh sĩ Pháp bị trúng độc. Sự việc bị phát giác, thực dân Pháp một mặt cho thầy thuốc cứu chữa những binh sĩ bị trúng độc, mặt khác tước hết khí giới và giam binh lính người Việt trong trại. Trong khi đó, các toán nghĩa quân ở vòng ngoài chờ mãi không thây ám hiệu tấn công nên đã rút lui để khỏi sa vào tay giặc. Tuy thất bại, vụ Hà thành đầu độc đã đánh dấu cuộc nổi dậy đầu tiên của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Điều này chứng tỏ họ là một lực lượng cần được tập hợp trong cuộc đấu tranh chống đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Trong quá trình điều tra vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, thực dân Pháp đã phát hiện được nhiều chứng cứ chứng tỏ Đề Thám tham gia tích cực vào vụ này. Chúng mở cuộc tấn công quy mô vào tháng 1 -1909, nhằm tiêu diệt căn cứ Yên Thế. Cuối tháng 1 -1909, quân Pháp gồm 15 000 lính Âu - Phi, lính khố xanh, khố đỏ với đủ các binh chủng pháo binh, công binh, kị binh..., dưới sự chỉ huy của Ba-tay, tấn công vào căn cứ Phồn Xương.  Đe tránh sức mạnh quân sự của địch, nghĩa quân thực hiện chiến dịch di chuyển, đánh một số trận khi có điều kiện thuận lợi và đã giành được một số thắng lợi như các trận chợ gỗ, Sơn Quả, rừng Phe (tháng 2 - 1909 ở Bắc Giang), đặc biệt là trận núi Sáng (Lập Thạch, Vĩnh Phúc ngày 5 -10 -1909), tiêu diệt trên 50 sĩ quan và lính Pháp. Những cuộc chiến đấu quyết liệt và kéo dài đã làm suy kiệt lực lượng nghĩa quân. Đầu tháng 11 _ 1909, lực lượng của Đề Thám chỉ còn vài chục người. Nhiều chỉ huy tài giỏi như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Ba Biều... đã tử trận, một số người khác buộc phải ra hàng như Cả Dinh, Cai Sơn... Cuối cùng, Đề Thám quyết định trở lại khu vực Yên Thế. Tại đây, được sự che chở của nhân dân, ông vẫn tiếp tục chiến đấu. Tháng 2 -1913, ông bị tay sai của Pháp giết hại tại một khu rừng gần chợ gỗ (Yên Thế). Nghĩa quân Yên Thế đã duy trì cuộc chiến đấu ngót 30 năm, ghi một dấu son trong lịch sử chống Pháp của dân tộc ta thời cận đại." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953-1954).,"Ta đỡ huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, gồm 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo và nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vân tỏi, quân y... với tổng số khoảng 55 000 quân, hàng chục nghìn tân vũ khí, đạn dược; 27 000 tân gạo...; 628 ô tô vân tỏi, 11 800 thuyền bè, 21 000 xe đạp, hàng nghìn xe ngụa, trâu, bờ v.v... chuyển ra mạt trộn. Đầu tháng 3 - 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13 - 3 - 1954, quân ta nổ súng mở màn cuộc tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 15 - 3 - 1954, Trung ương Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen ngợi, động viên cán bộ, chiến sĩ ngoài mạt trộn. Bức điện có đoạn viết: ""Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng"". Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm ba đợt: Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 - 3 - 1954: Quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần Hình 64. Lược đổ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) 2 000 địch.   Đợt 2, từ ngày 30 - 3 đền ngày 26 - 4 - 1954: Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu Trung tâm như E1, D1, C1, A1... Ta chiếm phần lớn các cứ điểm của địch, tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch. Sau đợt này, Mĩ khẩn cấp viên trợ cho Pháp và đe doạ ném bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ; ta kịp thời khắc phục khó khăn về tiếp tê, nâng cao quyêt tâm giành thắng lợi. Đợt 3, từ ngày 1 - 5 đền ngày 7 - 5 - 1954: Quân ta đồng loạt tiến công phân khu Trung tâm và phân khu Nam, lần lượt tiêu diệt các cứ điểm đề kháng còn lại của địch. Chiều 7 - 5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 ngày 7 - 5 - 1954, tướngĐờ Caxtơri - Chỉ huy trưởng - cùng toàn bộ Ban Tham mưu của địch đầu hàng và bị bắt sống. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953-1954).,"Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi. Ở Bắc Bộ, bộ đội Hà Nội đột nhập sân bay Gia Lâm phá huỷ 18 máy bay. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích làm tê liệt Đường số 5, tiêu diệt nhiều đồn bốt vùng sau lưng địch. Trong tháng 6 và đâu tháng 7 - 1954, địch buộc phải rút khỏi Việt Trĩ, Chợ Bến (Hoà bình), Thái bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh bình, Nam Định, Phủ Lí. Phân lớn đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Ở Trung Bộ, quân dân Liên khu V chân đúng đợt tiến công trong chiến dịch Átlăng lần thứ hai, diệt gân 5 000 tên địch. Bộ đội Tây Nguyên đánh mạnh trên các Đường số 14, 19 và tập kích lần thứ hai vào thị xã Plâyku, diệt nhiều địch.  Ở Nam Bộ, kết hợp với các cuộc tiến công của bộ đội, nhân dân nổi dậy vùa uy hiếp, vùa làm công tác binh vân, đỡ bức rút hoặc diệt hàng nghìn đồn bốt, tháp canh của địch. Vùng giải phóng mở rộng, nối liền tù miền Đông sang miền Tây. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128 200 địch, thu 19 000 súng các loại, bắn rơi và phá huỷ 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước. Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16 200 địch, trong đó có 1 thiếu tướng, hạ 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiên chiến tranh. Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diên chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953-1954).," Bước vào đông - xuân 1953 - 1954, đồng thời với cuộc tiến công quân sự, ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Ngày 26 - 11 - 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: ""Nếu thục dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đỡ rút được bài học trong cuộc chiến tranh mây năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết các vân đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó"".   Tháng 1 - 1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp họp tại Béclin đã thoả thuận về việc triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Ngày 8 - 5 - 1954, một ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kế thúc, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương. Phái đoàn Chính phủ ta, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, chính thức được mời họp. Cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị diễn ra gay gắt và phúc tạp, do lập trường thiếu thiện chí và ngoan cố của Pháp - Mĩ. Lộp trường của Chính phủ ta là đỉnh chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương, giải quyết vốn đề quân sự và chính trị cùng lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhốt và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng giữa ta với Pháp và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Việt Nam đã kí Hiệp đinh Giơnevơ ngày 21 - 7 - 1954. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 21 - 7 - 1954, các hiệp định đỉnh chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia được kí kết. Bản tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương đỡ được đại diện các nước dụ Hội nghị kí chính thúc. Đại diện Mĩ không kí mà ra tuyên bố riêng cam kết tôn trọng Hiệp định nhưng không chịu sự ràng buộc của Hiệp định." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953-1954).,"Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương bao gồm các văn bản: Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia; Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị và các phụ bản khác... Nội dung Hiệp định Giơnevơ quy định: - Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước. - Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn Đông Dương. - Các bên tham chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực... + ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải - Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. + ở Lào, lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phongxalì. + ở Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết. - Hiệp đinh cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông Dương. Các nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào và không để cho nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc gây chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược. - Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước, sẽ được tổ chức vào tháng 7 - 1956, dưới sự kiểm soát và giám sát của một uỷ ban quốc tế (trong đó Ấn Độ làm Chủ tịch, cùng hai nước thành viên là Ba Lan và Canada. - Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí Hiệp định và những người kế tục họ. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng. Hiệp định đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn phải tiếp tục nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.  Với Hiệp định Giơnevơ, Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương, rút hết quân đội về nước; đế quốc Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hoá chiến tranh xâm lược Đông Dương." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953-1954).,"Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thắng lợi là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta, cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia, được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Bước vào đông - xuân 1953 - 1954, Pháp - Mĩ âm mưu giành một thắng lợi quân sự quyết định nhằm ""kết thức chiến tranh trong danh dự""; quân ta mở cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện biên Phủ. Chiến thắng Điện biên Phủ đã buộc thực dân Pháp kí Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông dương." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Trải qua 8 năm kháng chiến và kiên quốc, lực lượng kháng chiến của nhân dân ta lớn mạnh đáng kể. Tướng Nava nhộn xét: ""Việt Minh là một quốc gia rõ rệt. Họ có chính quyền, ảnh hưởng của họ lan cỏ vào vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh. Tại đó họ tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách, mua được các thứ cần thiết cho chiến tranh. từ năm 1945 đến nay, họ chỉ có một Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong khi nước Pháp đỡ 19 lần thay đổi chính phủ và 7 lần thay đổi chỉ huy... . Trong khi đó, phía Pháp bị thiệt hại ngày càng nặng nề; đến năm 1953, bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2 000 tỉ phrăng. Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế phòng ngự, bị động. trước tình thể bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thố Pháp. Ngày 7 - 5 - 1953, với sự thoả thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tưổng Nava làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông dương (thay tưổng Xalăng). Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định đề ""kết thức chiến tranh trong danh dự"".  Kế hoạch Nava được chia thành hai bước: Bước thứ nhất, trong thu - đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tấn công chiến lược đề bình định Trung Bộ và Nam Đông dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xoá bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng nguỵ quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh. Bước thứ hai, từ thu - đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phánvới những điều kiên có lợi cho chúng nhằm kết thức chiến tranh. đề thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng thêm ở Đông dương 12 tiểu đoàn bộ binh đưa từ Pháp, Bắc Phi, đồng thời xin Mĩ tăng thêm viện trợ quân sự (tăng gặp đôi so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở Đông dương), ra súc tăng cưòng nguỵ quân, đưa lực lượng này lên đến 334 000 quân vào đấu năm 1954. Từ thu - đông năm 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn toàn Đông dương), tiến hành những cuộc càn quét bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi biên giới phía Bắc, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hoá (10 - 1953)... đề phá kế hoạch tiến công của ta. Thủ tướng Pháp Lanien nói: ""Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cỏ những người bạn Mĩ cùng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Trải qua 8 năm kháng chiến và kiên quốc, lực lượng kháng chiến của nhân dân ta lớn mạnh đáng kể. Tướng Nava nhộn xét: ""Việt Minh là một quốc gia rõ rệt. Họ có chính quyền, ảnh hưởng của họ lan cỏ vào vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh. Tại đó họ tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách, mua được các thứ cần thiết cho chiến tranh. từ năm 1945 đến nay, họ chỉ có một Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong khi nước Pháp đỡ 19 lần thay đổi chính phủ và 7 lần thay đổi chỉ huy... . Trong khi đó, phía Pháp bị thiệt hại ngày càng nặng nề; đến năm 1953, bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2 000 tỉ phrăng. Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế phòng ngự, bị động. trước tình thể bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thố Pháp. Ngày 7 - 5 - 1953, với sự thoả thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tưổng Nava làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông dương (thay tưổng Xalăng). Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định đề ""kết thức chiến tranh trong danh dự"".  Kế hoạch Nava được chia thành hai bước: Bước thứ nhất, trong thu - đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tấn công chiến lược đề bình định Trung Bộ và Nam Đông dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xoá bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng nguỵ quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh. Bước thứ hai, từ thu - đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điều kiên có lợi cho chúng nhằm kết thức chiến tranh. đề thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng thêm ở Đông dương 12 tiểu đoàn bộ binh đưa từ Pháp, Bắc Phi, đồng thời xin Mĩ tăng thêm viện trợ quân sự (tăng gặp đôi so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở Đông dương), ra súc tăng cưòng nguỵ quân, đưa lực lượng này lên đến 334 000 quân vào đấu năm 1954. Từ thu - đông năm 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn toàn Đông dương), tiến hành những cuộc càn quét bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi biên giới phía Bắc, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hoá (10 - 1953)... đề phá kế hoạch tiến công của ta. Thủ tướng Pháp Lanien nói: ""Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cỏ những người bạn Mĩ cùng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Cuối tháng 9 - 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Việt Bắc đề bàn về kế hoạch quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954.  Nắm vững nhiêm vụ tiêu diệt địch là chính, phương hướng chiến lược của ta trong đông - xuân 1953 - 1954 là: ""Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yêu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phán tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yêu mà chúng không thể bỏ, do phải phán tán lực lượng mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới đề tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng . Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trong đông - xuân 1953 - 1954, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch ở hầu khắp các chiến trường Đông dương. Ngày 10 - 12 - 1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến công thị xã Lai Châu, loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, giải phóng Lai Châu (trừ Điện biên Phủ). Nava buộc phải đưa 6 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ tăng cường cho Điện biên Phủ. Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của Pháp. Đầu tháng 12 - 1953, liên quân Lào - Việt mở cuộc tiến công địch ở Trung Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 4 vạn km vuông và thị xã Thà Khẹt; bao vây uy hiếp Xavannakhét và căn cứ Xênô. Nava buộc phải tăng cường lực lượng cho Xênô và Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của Pháp. Cuối tháng 1 - 1954, liên quân Lào - Việt tiến công địch ở Thượng Lào, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, toàn tỉnh Phongxalì, căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào được mở rộng thêm gần 1 vạn km vuông. Nava vội dùng đường hàng không đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ tăng cường cho Luông Phabang và Mường Sài. Luông Phabang và Mường Sài trở thành nơi tập trung binh lực thứ tư của Pháp. Đầu tháng 2 - 1954, quân ta tiến công địch ở Bắc tây Nguyên, loại khỏi vòng chiến đấu 2 000 địch, giải phóng toàn tỉnh Kon Tum, một vùng rộng lớn với 20 vạn dân; bao vây, uy hiếp Plấyku. Pháp buộc phải bỏ dở cuộc tiến công Tuy Hoà (Phú Yên) đề tăng cường lực lượng cho Plấyku và Plấyku trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của Pháp. Phối hợp với mặt trận chính khi quân chủ lực địch bị giam chân và phán tán nhiều nơi, tại các vùng sau lưng địch, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Ở Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực khu, chủ lực tỉnh tiến vào vùng tạm chiếm đề tiêu diệt địch, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân kết hợp với địch vẫn. sản bay Tân Sơn Nhốt bị tập kích làm nổ hàng tram tốn bom. Hơn 1 000 đồn trại, tháp canh địch bị diệt và bức rút. Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh, bao vây bức rút hàng loạt cứ điểm, đồn bốt địch, giài phóng nhiều vùng rộng lớn như Điện Bàn (Quàng Nam) với 4 vạn dân; vùng Hòn Kh6i và tây Bắc Khánh Hoà; huyện Tánh Linh và Lương Sơn (bình Thuận). Ở bình - Trị - Thiên, quân ta hoạt động mạnh trên Đường số 9, phá huỷ nhiều cầu cống, tiêu diệt và bức rút 6 vị trí địch, giài phóng huyện Hướng Hoá. Trên đường sắt và Đường số 1, nhiều đoàn tàu, xe của địch bị diệt. Ở đồng bằng Bắc Bộ, phòng tuyến sông Đáy của địch bị phá vỡ, các can cứ của ta ở hai bên bờ sông Hồng được mở rộng. Du kích tiến hành tập kích địch trên tuyến đường Hà Nội - Hài Phòng, phá huỷ nhiều tàu, xe. Các đô thị, ngay cà Hà Nội, bị quân ta tiến công; các sản bay Cát bị (Hài Phòng), Gia Lâm (Hà Nội) cũng bị quân ta tập kích, phá huỷ nhiều máy bay. Thắng lợi trong đông - xuân 1953 - 1954 đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân dân ta mở cuộc tiến công quyết định vào tập đoàn cứ điểm Điên biên Phủ" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Điện biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông dương và cả ở Đông Nam A, nên Pháp cố nắm giữ. Nava tập trung mọi cố gắng đề xây dựng Điện biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông dương. Tổng số binh lực địch ở đấy lúc cao nhốt có tới 16 200 quân, gồm 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội tang, 1 đại đội vận tài, 1 phi đội 12 máy bay. Địch bố trí thành ba phán khu: phán khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phán khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sản bay, tập trung 2/3 lực lượng; phán khu Nam đặt tại Hồng cứm, có trận địa pháo, sản bay. Tổng cộng cả ba phán khu có 49 cứ điểm. Trong khi quân ta mở chiến dịch tiến công Lai Châu (10 - 12 - 1953), Nava vội tang cường lực lượng cho Điện biên Phủ đề ""cứu nguy Lai Châu"", ""bào vệ Thượng Lào"". Đó là một hành động ngoài dụ tính của kế hoạch Nava. Nhưng do vị trí chiến lược quan trọng của Điện biên Phủ đối với Bac Đông dương, Nava tập trung xây dụng Điện biên Phủ thành một ""cái bẫy hiểm ác"", một ""cái máy nghiền kHồng lổ"".  Đầu tháng 12 - 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch ở đấy, giải phóng vùng tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Điện biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông dương và cả ở Đông Nam A, nên Pháp cố nắm giữ. Nava tập trung mọi cố gắng đề xây dựng Điện biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông dương. Tổng số binh lực địch ở đấy lúc cao nhốt có tới 16 200 quân, gồm 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội tang, 1 đại đội vận tài, 1 phi đội 12 máy bay. Địch bố trí thành ba phán khu: phán khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phán khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sản bay, tập trung 2/3 lực lượng; phán khu Nam đặt tại Hồng cứm, có trận địa pháo, sản bay. Tổng cộng cả ba phán khu có 49 cứ điểm. Trong khi quân ta mở chiến dịch tiến công Lai Châu (10 - 12 - 1953), Nava vội tang cường lực lượng cho Điện biên Phủ đề ""cứu nguy Lai Châu"", ""bào vệ Thượng Lào"". Đó là một hành động ngoài dụ tính của kế hoạch Nava. Nhưng do vị trí chiến lược quan trọng của Điện biên Phủ đối với Bac Đông dương, Nava tập trung xây dụng Điện biên Phủ thành một ""cái bẫy hiểm ác"", một ""cái máy nghiền khổng lổ"".  Đầu tháng 12 - 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch ở đấy, giải phóng vùng tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Điện biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông dương và cả ở Đông Nam A, nên Pháp cố nắm giữ. Nava tập trung mọi cố gắng đề xây dựng Điện biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông dương. Tổng số binh lực địch ở đấy lúc cao nhốt có tới 16 200 quân, gồm 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội tang, 1 đại đội vận tài, 1 phi đội 12 máy bay. Địch bố trí thành ba phán khu: phán khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phán khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sản bay, tập trung 2/3 lực lượng; phán khu Nam đặt tại Hồng cứm, có trận địa pháo, sản bay. Tổng cộng cả ba phán khu có 49 cứ điểm. Trong khi quân ta mở chiến dịch tiến công Lai Châu (10 - 12 - 1953), Nava vội tang cường lực lượng cho Điện biên Phủ đề ""cứu nguy Lai Châu"", ""bào vệ Thượng Lào"". Đó là một hành động ngoài dụ tính của kế hoạch Nava. Nhưng do vị trí chiến lược quan trọng của Điện biên Phủ đối với Bắc Đông Dương, Nava tập trung xây dụng Điện biên Phủ thành một ""cái bẫy hiểm ác"", một ""cái máy nghiền kHồng lổ"".  Đầu tháng 12 - 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch ở đấy, giải phóng vùng tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Ta đỡ huy động một lực lượng lớn chuân bị cho chiến dịch, gồm 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo và nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, quân y... với tổng số khoảng 55 000 quân, hàng chục nghìn tân vũ khí, đạn dược; 27 000 tân gạo...; 628 ô tô vận tải, 11 800 thuyền bè, 21 000 xe đạp, hàng nghìn xe ngụa, trâu, bò v.v... chuyển ra mạt trộn. Đầu tháng 3 - 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13 - 3 - 1954, quân ta nổ súng mở màn cuộc tấn công tập đoàn cứ điểm Điện biên Phủ. Ngày 15 - 3 - 1954, Trung ương Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen ngợi, động viên cán bộ, chiến sĩ ngoài mạt trộn. Bức điện có đoạn viết: ""Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng"". Chiến dịch Điện biên Phủ được chia làm ba đợt: Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 - 3 - 1954: Quân ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam và toàn bộ phán khu Bắc. Kết quả , ta loại khỏi vòng chiến đấu gần Hình 64. Lược đổ diễn biến chiến dịch Điện biên Phủ (1954) 2 000 địch.   Đợt 2, từ ngày 30 - 3 đền ngày 26 - 4 - 1954: Quân ta đồng loạt tiên công các cứ điểm phía đông phán khu Trung tâm như E1, D1, C1, A1... Ta chiếm phần lớn các cứ điểm của địch, tạo thêm điều kiên đề bao vây, chia cắt, không chệ địch. Sau đợt này, Mĩ khẩn cấp viên trợ cho Pháp và đe doạ ném bom nguyên tử ở Điện biên Phủ; ta kịp thời khắc phục khó khăn về tiếp tê, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi. Đợt 3, từ ngày 1 - 5 đền ngày 7 - 5 - 1954: Quân ta đồng loạt tiên công phán khu Trung tâm và phán khu Nam, lần lượt tiêu diệt các cứ điểm đề kháng còn lại của địch. Chiều 7 - 5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 ngày 7 - 5 - 1954, tưổng Đờ Caxtơri - Chỉ huy trưởng - cùng toàn bộ Ban Tham mưu của địch đầu hàng và bị bắt sống. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Vào giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ, kéo dài trong hơn 10 năm và bị đàn áp. Cùng trong thời gian này, ở Đàng Trong, chúa Nguyễn xưng vưong, thành lập triều đình riêng. Đất nước bị chia thành hai miền. Nhưng rồi chính quyền mới lại suy thoái. Nhân dân cực khổ. Theo một giáo sĩ phương tây, bấy giờ ""gạo đắt như vàng, tình trạng đói khổ bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau"". Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp tây Sơn (Bình Định) do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Sau nhiều năm chiến đấu kiên cường, cuộc khởi nghĩa phát triển, tiến lên đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trỏ vào. Một nhiệm vụ mới được đặt ra: tiến quán ra Bấc đánh đổ chính quyền Lê - Trịnh và điều này cũng có nghĩa là, phong trào tây Sơn sẽ phải đảm nhận thêm sứ mệnh thống nhất lại đất nước. Trong những năm I 786 - 1788, phong trào tây Sơn lần lượt đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê và làm chủ toàn bộ đất nước. Sự nghiệp thống nhất đất nước bước đầu được hoàn thành." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 23: Phong trào tây sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII","Sau khi tiêu diệt các lực lượng chúa Nguyễn, năm 1778, thủ lĩnh nghĩa quân tây Sơn là Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, thành lập vương triều nhưng không làm được gì thêm. Cuộc khỏi nghĩa vẫn tiếp tục. Cuối năm 1788, trước khi xuất quân lên đường ra Bắc chiến đấu chống quân xâm lược Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (Quang Trung) và sau ngày chiến thắng, chính thức xây dựng vương triều mới theo chế độ quân chủ chuyên chế, thống trị trên vùng đất từ Thuận Hoá trỏ ra Bắc. Chính quyền các trấn được thành lập. Vua Quang Trung ban chiếu kêu gọi nhân dân khôi phục sản xuất, lập lại sổ hộ, tổ chức lại giáo dục thi cử. Đất nước dần dần được ổn định. quân đội được tổ chức quy củ và trang bị vũ khí đầy đủ. Vua Quang Trung đặt quan hệ hoà hảo với nhà Thanh và được nhà Thanh rất tôn trọng. Quan hệ với Lào và Chán Lạp diễn ra tốt đẹp. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, triều đình rơi vào tình trạng lực đục, suy yêu dần. Năm 1802, trước sự tấn công của quán Nguyễn Ánh, các vương triều tây Sơn lần lượt sụp đổ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Phan Bội Châu quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là người chủ trương dùng bạo lực đề giành độc lập. Năm 1902, ông lên đường vào Nam, rồi ra Bắc, tìm cách liên kết những người có cùng chí hướng. Tháng 5 - 1904, tại Quảng Nam, Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông thành lập Hội Duy tân, chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến ở Việt Nam. đề chuẩn bị, Hội Duy tân tổ chức phong trào Đông du, đưa thanh niên sang học tập tại các trường của Nhật Bản. Tháng 8 - 1908, Chính phủ Nhật Bản cầu kết với thực dân Pháp ở Đông dương, trục xuất số lưu học sinh Việt Nam, kể cả thủ lĩnh Phan Bội Châu. Phong trào Đông du tan rã. Phan Bội Châu về Trung Quốc, rồi sang Thái Lan nương náu chờ thời. Cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc nổ ra, triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, Chính phủ Dân quốc được thành lập, thi hành hàng loạt chính sách dân chủ tiến bộ. Phan Bội Châu từ Thái Lan quay trở lại Trung Quốc. Tháng 6 - 1912, tại Quảng Châu (Trung Quốc, ông tập hợp những người cùng chí hướng còn ở nước ngoài và một số mới từ trong nước sang (khoảng hơn 100 người), tuyến bốgiải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam Quang phục hội. Hội khẳng định tôn chỉ duy nhất là: ""Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà Dân quốc Việt Nam"". đề gây tiếng vang trong nước, thức tỉnh đồng bào, Hội đã cử người bí mật về nước đề trừ khử những tên thực dân đầu sỏ, kể cả Toàn quyền An-be Xa-rô và những tay sai đắc lực của chúng. Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội trong buổi đầu đã đạt được một số kết quả nhất định, khuấy động được dự luận trong và ngoài nước. Nhưng thực dân Pháp nhân đó càng tăng cường khủng bố, nhiều người bị bắt và bị giết. Ngày 24 -12 -1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở nhà từ Quảng Đông. Cách mạng Việt Nam trải qua những ngày khó khăn." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914),"Bên cạnh cuộc vận động yêu nước do các sĩ phu tiến bộ khởi xướng, vào thời gian này còn có phong trào đấu tranh của binh lính người Việt trong quân đội Pháp và sự tiếp diễn của khởi nghĩa Yên Thế. Mở đầu là vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1908. Vụ đầu độc này nằm trong kế hoạch khởi nghĩa của binh lính người Việt ở Hà Nội kết hợp với nghĩa quân Yên Thế. Sau nhiều lần kế hoạch đánh úp thành Hà Nội bị hoãn lại, những người cầm đầu quyết định khởi sự vào đến 27 - 6 -1908, mở đầu bằng việc tổ chức đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành. Hơn 200 binh sĩ Pháp bị trúng độc. Sự việc bị phát giác, thực dân Pháp một mặt cho thầy thuốc cứu chữa những binh sĩ bị trúng độc, mặt khác tước hết khí giới và giam binh lính người Việt trong trại. Trong khi đó, các toán nghĩa quân ở vòng ngoài chờ mãi không thấy ám hiệu tấn công nên đã rút lui đề khỏi sa vào tay giặc. Tuy thất bại, vụ ""Hà thành đầu độc đã đánh dấu cuộc nổi dậy đầu tiên của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Điều này chứng tỏ họ là một lực lượng cần được tập hợp trong cuộc đấu tranh chống đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông dương bao gồm các văn bản: Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia; Bản tuyến bốcuối cùng của Hội nghị và các phụ bản khác... Nội dung Hiệp định Giơnevơ quy định: - Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước. - Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn Đông dương. - Các bên tham chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực... + ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải - Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. + ở Lào, lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phongxalì. + ở Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết. - Hiệp định cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông dương. Các nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông dương. Các nước Đông dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào và không đề cho nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc gậy chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược. - Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước, sẽ được tổ chức vào tháng 7 - 1956, dưới sự kiểm soát và giám sát của một uỷ ban quốc tế (trong đó Ấn Độ làm Chủ tịch, cùng hai nước thành viên là Ba Lan và Canađ. - Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí Hiệp định và những người kế tực họ. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông dương là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng. Hiệp định đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn phải tiếp tục nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.  Với Hiệp định Giơnevơ, Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông dương, rút hết quân đội về nước; đế quốc Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hoá chiến tranh xâm lược Đông dương." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phán tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện cho Điện biên Phủ giành thắng lợi. Ở Bắc Bộ, bộ đội Hà Nội đột nhập sản bay Gia Lâm phá huỷ 18 máy bay. Các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích làm tê liệt Đường số 5, tiêu diệt nhiều đồn bốt vùng sau lưng địch. Trong tháng 6 và đấu tháng 7 - 1954, địch buộc phải rút khỏi Việt Trĩ, Chợ Bến (Hoà bình), Thái bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh bình, Nam Định, Phủ Lí. phán lớn đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Ở Trung Bộ, quân dân Liên khu V chân đúng đợt tiến công trong chiến dịch Átlăng lần thứ hai, diệt gân 5 000 tên địch. Bộ đội tây Nguyên đánh mạnh trên các Đường số 14, 19 và tập kích lần thứ hai vào thị xã Plấyku, diệt nhiều địch.  Ở Nam Bộ, kết hợp với các cuộc tiến công của bộ đội, nhân dân nổi dấy vùa uy hiếp, vùa làm công tác binh vẫn, đỡ bức rút hoặc diệt hàng nghìn đồn bốt, tháp canh của địch. Vùng giải phóng mở rộng, nối liền từ miền Đông sang miền tây. Cuộc Tiên công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện biên Phủ đã toàn thắng. Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128 200 địch, thu 19 000 súng các loại, bắn rơi và phá huỷ 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước. Riêng tại mặt trận Điện biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16 200 địch, trong đó có 1 thiếu tướng, hạ 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiên chiến tranh. Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiên thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).," Bước vào đông - xuân 1953 - 1954, đồng thời với cuộc tiến công quân sự, ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngoại giao, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh ở Đông dương. Ngày 26 - 11 - 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyến bố: ""Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đỡ rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết các vẫn đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó"".   Tháng 1 - 1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp họp tại Béclin đã thoả thuận về việc triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ đề giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông dương. Ngày 8 - 5 - 1954, một ngày sau khi chiến dịch Điện biên Phủ kế thức, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông dương. Phái đoàn Chính phủ ta, do Phó Thủ tướng Phạm Văn đồng làm Trưởng đoàn, chính thức được mời họp. Cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị diễn ra gay gắt và phúc tạp, do lộp trường thiếu thiện chí và ngoan cố của Pháp - Mĩ. Lộp trường của Chính phủ ta là đỉnh chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông dương, giải quyết vốn đề quân sự và chính trị cùng lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lộp, chủ quyền, thống nhốt và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông dương. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng giữa ta với Pháp và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Việt Nam đã kí Hiệp định Giơnevơ ngày 21 - 7 - 1954. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 21 - 7 - 1954, các hiệp định đỉnh chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia được kí kết. Bản tuyến bốcuối cùng về việc lộp lại hoà bình ở Đông dương đỡ được đại diện các nước dụ Hội nghị kí chính thức. Đại diện Mĩ không kí mà ra tuyến bốriêng cam kết tôn trọng Hiệp định nhưng không chịu sự ràng buộc của Hiệp định." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thắng lợi là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta, cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia, được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở đề nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh.  Tuy vậy, miền Nam nước ta chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh gian khổ chống đế quốc Mĩ nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.,Bài 23: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thức (1953-1954).,"Trải qua 8 năm kháng chiến và kiến quốc, lực lượng kháng chiến của nhân dân ta lớn mạnh đáng kể. Tướng Nava nhận xét: ""Việt Minh là một quốc gia rõ rệt. Họ có chính quyền, ảnh hưởng của họ lan tỏa vào vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh. Tại đó họ tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách, mua được các thứ cần thiết cho chiến tranh. Từ năm 1945 đến nay, họ chỉ có một Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong khi nước Pháp đã 19 lần thay đổi chính phủ và 7 lần thay đổi chỉ huy... . Trong khi đó, phía Pháp bị thiệt hại ngày càng nặng nề; đến năm 1953, bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2 000 tỉ phrăng. Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế phòng ngự, bị động. Trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp. Ngày 7 - 5 - 1953, với sự thoả thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tướng Nava làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông dương (thay tướng Xalăng). Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định để ""kết thúc chiến tranh trong danh dự"". Kế hoạch Nava được chia thành hai bước: Bước thứ nhất, trong thu - đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tấn công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Đông dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; xoá bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng nguỵ quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh. Bước thứ hai, từ thu - đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh. Để thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng thêm ở Đông dương 12 tiểu đoàn bộ binh đưa từ Pháp, Bắc Phi, đồng thời xin Mĩ tăng thêm viện trợ quân sự (tăng gấp đôi so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở Đông dương), ra sức tăng cường nguỵ quân, đưa lực lượng này lên đến 334 000 quân vào đầu năm 1954. Từ thu - đông năm 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn toàn Đông dương), tiến hành những cuộc càn quét bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi biên giới phía Bắc, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hoá (10 - 1953)... Để phá kế hoạch tiến công của ta. Thủ tướng Pháp Lanien nói: ""Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà còn những người bạn Mĩ cùng tán thành"". Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Nguyễn Tất Thành, hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 - 2 -1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc. Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan. Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên ở một miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi, từ rất sớm Nguyễn Tất Thành đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đổng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Ngày 5 - 6 -1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rổng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước. Khác với thế hệ cha anh hướng về Trung Quốc và Nhật Bản, Người quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rổi trở về giúp đổng bào mình. Trong nhiều năm sau đó, Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục khác nhau. Người nhận thấy rằng ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị áp bức và bóc lột dã man. Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Tại đây, Người đã làm rất nhiều nghề, học tập, rèn luyện trong cuộc đấu tranh của quần chúng lao động và giai cấp công nhân Pháp. Tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước, Người tham gia những buổi diễn thuyết ngoài trời của các nhà chính trị, triết học. Người còn tham gia đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam sớm được hồi hương. Sống và làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có những biến chuyển mạnh mẽ. Những hoạt động yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy mới chỉ bước đầu, nhưng là cơ sở quan trọng để Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Những biến động lớn của xã hội đã ảnh hưởng đến tình hình vãn hoá, giáo dục. Hơn nữa, ở các thế kỉ XVI - XVIII, sự phát triển của ngoại thương, của kinh tế hàng hoá và giao lưu với thế giới bên ngoài cũng tác động lớn đến đời sống văn hoá của nhân dân ở cá Đàng Ngoài và Đàng Trong." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Nho giáo từng bước suy thoái, tôn ti trật tự phong kiến không còn được tôn trọng như trước mặc dù các chính quyền Lê - Trịnh, Nguyễn tìm mọi cách củng cố. Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện khôi phục vị trí của mình nhưng không được như dưới thời Lý, Trần. Chùa quán được xây dựng thệm. Nhiều vị chúa quan tâm xây dựng, sửa sang các ngôi chùa lớn. Nhân dân, quan chức cũng đóng góp tiền của, ruộng đất, sửa sang chùa chiền, đúc chuông, tô tượng. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, nhiều giáo sĩ đạo Thiên Chúa phương Tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Việt Nam truyền đạo. Nhà thờ Thiên Chúa giáo mọc lên ở nhiều nơi. Đạo Thiên Chúa trở thành một tôn giáo lan truyền trong cả nước. Tuy nhiên, về sau do nhiều điểm khác biệt, hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ bị nhà nước phong kiến cấm đoán. Thế kỉ XVII, cùng với sự truyền bá của Thiên Chúa giáo, chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh cũng được sáng tạo. Tuy nhiên, bấy giờ chữ Quốc ngữ chỉ được dùng chủ yếu trong phạm vi hoạt động truyền giáo, mà không được phổ cập rộng rãi trong xã hội. Tiếp nhận ảnh hưởng của các tư tưởng và tôn giáo, người dân Việt Nam đã tạo nên một nếp sống văn hoá riêng trên cơ sở hoà nhập với nền văn hoá cổ truyền thệ hiện trong quan hệ gia đình, người già người trẻ, phân biệt phải trái, đúng sai, chân thực, khoan dung trong cuộc sống. Đồng thời, các tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp được phát huy, tôn trọng như thờ cúng tổ tiên, tôn thờ những người có công với làng với nước, nhất là những người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh chùa chiền, các nhà thờ đạo, những đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Nhà Mạc được thành lập, tiếp tục phát triển giáo dục, tổ chức đều đặn các kì thi Hương, thi Hội đế tuyển chọn nhân tài. Khi đất nước bị chia cắt, ở Đàng Ngoài, nhà nước Lê - Trịnh cũng cố gắng tiếp tục mở rộng giáo dục Nho học theo chế độ thời Lê Sơ. Nhiều khoa thi được tổ chức nhưng số người đi thi và số người đồ đạt không nhiều. Ở Đàng Trong, mãi đến năm 1646, chúa Nguyễn mới mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng. Nội dung Nho học sơ lược. Vua Quang Trung lên ngôi, lo chấn chỉnh lại giáo dục, cho dịch các sách kinh từ chữ Hán ra chữ Nôm để học sinh học, đưa văn thơ Nôm vào nội dung thi cử. Tuy nhiên, nội dung giáo dục chủ yếu vẫn là kinh, sử. Các bộ môn khoa học tự nhiên không được chú ý, không được đưa vào khoa cử. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Từ thế kỉ XVI - XVII, cùng với sự suy thoái của Nho giáo, văn học chữ Hán đã mất dần vị thế vốn có của nó trong thời Lê Sơ. Tuy vậy, ở Đàng Trong cũng xuất hiện một số nhà thơ và hội thơ. Bên cạnh đó, xuất hiện một số nhà nghiên cứu biên soạn các sưu tạp thơ văn, một số người viết truyện kí... góp phần làm cho văn học thệm phong phú. Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện ở các thế kỉ XI - XII, dần dần được dùng nhiều để sáng tác văn học. Từ thế kỉ XVI - XVII, xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ v.v... Tuy nhiên, trong lúc văn học chính thống có phần suy thoái thì trong nhân dân hình thành và phát triển một trào lưu văn học dân gian khá rầm rộ. Với tài năng của mình, nhân dân đã sáng tác hàng loạt ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian v.v... vừa nói lên tâm tư nguyện vọng của mình về một cuộc sống tự do, thoát khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, ca ngợi quê hương, vừa phản ánh những phong tục tập quán hay đặc điểm của quê hương. Văn học dân gian cũng phát triển ở các vùng dân tộc ít người làm cho kho tàng văn học thệm đa dạng, phong phú, phản ánh cuộc sống tinh thần và tâm linh của người dân Việt Nam đương thời. Chính trên cơ sở đó, thơ ca chữ Nôm ngày càng được trau chuốt, để rồi hình thành những áng thơ Nôm bất hủ như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc..." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Ở các thế kỉ XVI - XV111, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển với các công trình có giá trị như chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế), tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), các tượng La Hán ở chùa Tây Phương (Hà Tây)...; xuất hiện một số tượng nhân vật (vua, chúa...), tranh vẽ chân dung. Cùng với văn học dân gian, một trào lưu nghệ thuật dân gian được hình thành. Trên các vì, kèo ở những ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt thường ngày của nhân dân như đi cày, đi bừa, đấu vật, nô đùa, hát xướng v.v... Trình độ nghệ thuật tuy đơn giản nhưng phản ánh được cuộc sống của người dân thường. Nghệ thuật sân khấu phát triển cả ở Đàng Ngoài, Đàng Trong. Nhiều làng có phường tuồng, phường chèo. Bên cạnh đó, phổ biến hàng loạt làn điệu dân ca mang tính địa phương đậm nét như quan họ, hát giặm, hò, vè, lí, si, lượn v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Số công trình nghiên cứu khoa học tăng lên. về sử học, bên cạnh các bộ lịch sử của nhà nước, có nhiều bộ lịch sử của tư nhân như Ỏ châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ hiên tạp lục, Đại Việt sử kí tiền hiển...và đặc biệt là bộ sử thi bằng chữ Nôm Thiên Nam ngữìục (khuyết danh); về địa lí có tập bản đồ Thiên Nam tứ chí ì ộ đồ thư; về quân sự có tập Hô trướng khu cơ (của Đào Duy Từ); về triết học có một số bài thơ, tập sách của Nguyễn Binh Khiêm, Lê Quý Đôn; về y học có bộ sách y dược của Hải Thượng Lãn Ong Lê Hữu Trác v.v... Ngoài ra còn nhiều tác phẩm về nông học, văn hoá Việt Nam... Do những hạn chế về quan niệm và giáo dục đương thời, khoa học tự nhiên không có điều kiện phát triển. về kĩ thuật: Nhu cầu quốc phòng đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo một số thành tựu kĩ thuật như đúc súng đại bác theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành 1 uỹ... Sử cũ viết: ""Người thợ kính ià Nguyễn Văn Tú... trước được sang Hà Lan học nghề 2 năm, về nước có thể chế các hạng đồng hổ và kính thiên lí rất khéo. Ông đã từng chế tạo một chiếc đồng hồ hạng trung, phía trong bớt đi 5 bánh xe và 6 quả chuông nhỏ. Đo bóng mặt trời mà nghiệm thì rất đúng. Ngoài ra, vào các thế kỉ XVII - XVIII, một số thành tựu kĩ thuật phương Tây đã du nhập vào nước ta thông qua con đường ngoại thương và truyền đạo, nhưng do nhiều hạn chế nên không có điều kiện để phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính quyền thực dân tăng cường bóc lột sức người, sức của ở Đông Dương. Các chính sách đó đã làm cho các tầng lớp, giai cấp mới trong xã hội tăng nhanh về số lượng, đồng thời nảy sinh một loạt cuộc khởi nghĩa vũ trang của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của binh sĩ người Việt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Khi cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, toàn quyền Đông Dương tuyên bố: Nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương là phải cung cấp cho chính quốc đến mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực... . Nhân dân Việt Nam phải đóng nhiều thứ thuế, mua công trái... Trong 4 năm chiến tranh, chính quyền thuộc địa đã thu được trên 184 triệu phrăng tiền công trái và gần 14 triệu phrăng tiền quyên góp; ngoài ra, hàng trăm tấn lương thực và nông lâm sản các loại, hàng vạn tấn kim loại cần thiết cho chế tạo vũ khí được đưa sang Pháp. Sự cướp bóc ráo riết của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ những tổn thất, thiếu hụt của chính quốc trong thời gian chiến tranh. Những mỏ đang khai thác nay được bỏ vốn thêm; một số công ti than mới xuất hiện như các công ti than Tuyên Quang (1915), Đông Triều (1916)..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Khi cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, toàn quyền Đông Dương tuyên bố: ""Nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương là phải cung cấp cho chính quốc đến mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực... . Nhân dân Việt Nam phải đóng nhiều thứ thuế, mua công trái... Trong 4 năm chiến tranh, chính quyền thuộc địa đã thu được trên 184 triệu phrăng tiền công trái và gần 14 triệu phrăng tiền quyên góp; ngoài ra, hàng trăm tấn lương thực và nông lâm sản các loại, hàng vạn tấn kim loại cần thiết cho chế tạo vũ khí được đưa sang Pháp. Sự cướp bóc ráo riết của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ những tổn thất, thiếu hụt của chính quốc trong thời gian chiến tranh. Những mỏ đang khai thác nay được bỏ vốn thêm; một số công ti than mới xuất hiện như các công ti than Tuyên Quang (1915), Đông Triều (1916)..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Chiến tranh làm cho hàng hoá nhập khẩu từ Pháp sang Đông Dương giảm hẳn xuống, từ 107 triệu phrăng năm 1913 xuống còn 33 triệu phrăng năm 1918. Để giải quyết khó khăn trên, tư bản Pháp phải nới lỏng độc quyền, cho tư bản người Việt được kinh doanh tương đối tự do, khiến cho công thương nghiệp và giao thông vận tải ở Việt Nam có điều kiện phát triển. Các xí nghiệp của người Việt có từ trước chiến tranh đều được mở rộng thêm phạm vi và quy mô sản xuất, đồng thời xuất hiện thêm nhiều xí nghiệp mới.  Nguyễn Hữu Thu - vốn chỉ là chủ một hãng xe kéo nhỏ ở Hải Phòng, trong chiến tranh đã có gần 10 tàu chở khách chạy ở Bắc Kì, Trung Kì và chạy đường Hải Phòng - Hương Cảng, trọng tải tổng cộng hơn 1 000 tấn. Công ti Bạch Thái Bưởi (Hải Phòng) từ 3 tàu chở khách, lên đến 25 tàu với trọng tải 4 042 tấn. Phạm Vãn Phi (Vinh) trong những năm chiến tranh lập ra công ti xe hơi, tới năm 1918 đã có xe chạy khắp Bắc Kì, Trung Kì. Ở các ngành khác, cũng xuất hiện nhiều cơ sở kinh doanh của người Việt như: xưởng thuỷ tinh Chương Mĩ ở Hà Đông; công ti xà phòng Quảng Hưng Long ở Hà Nội; các nhà máy xay ở Mĩ Tho, Rạch Giá, Gò Công; nhà máy rượu ở Bạc Liêu; nhà in Lê Văn Phúc ở Hà Nội... Ngoài ra, nhiều xưởng thủ công được dịp ra đời, kinh doanh hầu hết các ngành thủ công dân dụng như da giày, chiếu cói, đổ khảm... Nông nghiệp từ chỗ độc canh cây lúa đã chuyển một phần sang trồng các loại cây công nghiệp phục vụ chiến tranh như thầu dầu, đậu, lạc... Ở các tỉnh trung du Bắc Kì, có tới 251 ha đất trồng lúa chuyển sang trồng đậu tây. Trong 4 năm chiến tranh, nông nghiệp trồng lúa gặp nhiều khó khăn. Đầu năm 1915, các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Hoà Bình... bị hạn, đến mức mùa màng gần như mất trắng. Giữa năm này, để vỡ ở hầu hết các sông lớn thuộc Bắc Kì, làm ngập tới 22 000 ha." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Chính sách của Pháp và những biến động về kinh tế ở Việt Nam trong 4 năm chiến tranh đã tác động mạnh đến tình hình xã hội Việt Nam. Trước hết là nạn bắt lính mà đối tượng chính là nông dân: gần 10 vạn thanh niên đã bị đưa sang chiến trường Châu Âu làm lính chiến hay lính thợ. ""... Chế độ lính tình nguyện ây được tiến hành như thế này: vị chúa tỉnh - mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị chúa tỉnh - ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền ông, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở... Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ... Sau đó chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ, thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tình hình đó làm cho sức sản xuất ở nông thôn giảm sút nghiêm trọng. thêm vào đó là nạn chiếm đoạt ruộng đất ngày càng gia tăng trong chiến tranh, sưu thuế ngày càng nặng; thiên tai, lụt bão, hạn hán liên tiếp xảy ra làm cho đời sống của nông dân ngày càng bần cùng. Giai cấp công nhân đã tăng lên về số lượng. Riêng công nhân mỏ, từ 12 000 người năm 1913 lên tới 17 000 người năm 1916. Công nhân cao su tăng lên gấp 5 lần. Ngoài ra, các ngành công thương nghiệp khác của tư bản Pháp cũng thu nhận công nhân đông hơn. Công nhân trong các xí nghiệp, công ti của tư sản Việt Nam cũng tăng lên. Trước chiến tranh, các cơ sở kinh doanh của Bạch Thái Bưởi mới có vài trăm công nhân, trong chiến tranh đã lên tới trên 1 000 người. Tư sản Việt Nam trong một số ngành đã thoát khỏi sự kiềm chế của tư bản Pháp. Bạch Thái Bưởi là một trường hợp tiêu biểu. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị cũng có bước phát triển rõ rệt về số lượng. Nhưng cho tới cuối chiến tranh, hai giai cấp tư sản và tiểu tư sản vẫn chưa thực sự hình thành. Giành được vai trò nhất định trong kinh tế, tư sản Việt Nam cũng muốn có địa vị chính trị nhất định. Họ lập cơ quan ngôn luận riêng như các báo Diễn đàn bản xứ, Đại Việt... nhằm bênh vực quyền lợi về chính trị và kinh tế cho người trong nước. Song lực lượng chủ chốt của phong trào dân tộc thời kì này vẫn là công nhân và nông dân." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Sau những hoạt động không thành công trong năm 1913, Việt Nam Quang phục hội gần như nằm im. Khi chiến tranh bùng nổ, do tình hình thay đổi, Hội đã tổ chức nhiều cuộc bạo động. Tháng 9 -1914, hội viên Đỗ Chân Thiết đứng ra lập chi hội ở Vân Nam với phần đông là công nhân, viên chức hoả xa trên tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam. Họ sản xuất bom ở Hà Nội và dự định vận động binh lính đánh úp Hà Nội. Việc bị bại lộ, Đỗ Chân Thiết cùng hơn 50 người bị bắt. Trong suốt 2 năm đầu cuộc chiến, Hội đã tiến hành một số cuộc bạo động như tấn công vào các đồn binh của Pháp ở Cao Bằng, Phú Thọ, Nho Quan, Móng Cái... Ở Trung Kì, hoạt động đáng kể của Hội là tổ chức phá ngục  Lao Bảo (Quảng Trị) ngày 28 - 9 - 1915. Tại đây, một số hội viên đã vận động tù nhân cướp súng, phá nhà lao, rồi rút vào rừng chiến đấu. Nhưng do bị giam cầm lâu ngày nên sức khoẻ suy kiệt, lại bị cô lập, cuối cùng nghĩa quân đã thất bại. Trong những năm đầu chiến tranh, Việt Nam Quang phục hội đã vận động được nhiều tầng lớp tham gia một số cuộc bạo động. Nhưng các hoạt động đó đều lần lượt thất bại. Cuối cùng, Việt Nam Quang phục hội tan rã sau đợt khủng bố lớn của thực dân Pháp và tay sai vào năm 1916." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Trần Cao Vân đã bị tù vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kì năm 1908. Mãn hạn, ông bí mật liên hệ với Thái Phiên, một thành viên của Việt Nam Quang phục hội để xúc tiến khởi nghĩa. Hai ông đã mời vua Duy Tân tham gia với tư cách là người lãnh đạo tối cao cuộc khởi nghĩa. Nhân dân Trung Kì, đặc biệt là số binh lính người Việt tập trung ở Huế chờ ngày xuống tàu sang chiến trường Châu Âu, đã nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Thái Phiên và Trần Cao Vân, ráo riết chuẩn bị ngày khởi sự. Khởi nghĩa dự định vào giữa tháng 5 - 1916, nhưng kế hoạch bị lộ. ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trại lính, tước vũ khí của binh lính người Việt, lùng bắt những người yêu nước. Thái Phiên và Trần Cao Vân đưa được vua Duy Tân ra ngoài Hoàng thành, nhưng mấy hôm sau cả 3 người đều bị giặc bắt. Nghĩa binh ở Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi nổi dậy, nhưng thiếu người lãnh đạo nên tan rã nhanh chóng. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"ở Thái Nguyên, ách thống trị của thực dân Pháp cực kì tàn bạo. Công sứ Đác-lơ và Giám binh Nô-en khét tiếng tàn ác. Thái Nguyên lại là nơi đày ải những người yêu nước bị bắt trong các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế... Giữa những người tù chính trị với số binh lính yêu nước làm việc trong nhà tù dần dần có sự gặp gỡ, tiếp xúc bí mật. Một kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra.  Những người lãnh đạo cuộc bạo động là Trinh Văn Cấn (Đội Cấn) - một binh sĩ yêu nước và Lương Ngọc Quyến -hội viên của Việt Nam Quang phục hội bị giam ở nhà tù Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa nổ ra đêm 30 rạng sáng 31 - 8 - 1917. Giám binh Nô-en bị giết. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, phá nhà tù, giải phóng tất cả tù nhân, làm chủ toàn bộ thi xã, trừ trại lính Pháp. Ngọn cờ khởi nghĩa ""Nam binh phục quốc bay cao trên bầu trời tỉnh li Thái Nguyên. Lãnh đạo nghĩa quân phát hịch tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác của giặc Pháp, kêu gọi đồng bào vùng lên khôi phục nền độc lập của đất nước. Thực dân Pháp quyết định đưa 2 000 quân lên Thái Nguyên tiếp viện. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Sau một tuần lễ làm chủ tỉnh li, cuối cùng để thoát khỏi thế bao vây của quân thù, nghĩa quân phải rút ra ngoài và kéo dài cuộc chiến đấu được 6 tháng thì tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Tại Tây Bắc, vào đầu tháng 11 -1914 đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của người Thái. Nghĩa quân đánh chiếm nhiều đổn giặc dọc biên giới Việt - Lào và đến cuối năm 1915 đã làm chủ cả vùng Tây Bắc. Quân Pháp phải huy động 3000 quân đối phó. Mãi đến tháng 3 -1916, vùng Tây Bắc mới tạm yên. Năm 1918, đồng bào Mông vùng Lai Châu khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Giàng Tả Chay. Trong quá trình phát triển, cuộc khởi nghĩa đã thu hút hầu hết nhân dân các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. Nghĩa quân hoạt động trên một đia bàn rộng 4 vạn km2. Nhiều trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra, có trận số quân địch bị thương và bị chết lên tới hàng trăm tến. Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 4 năm, buộc chính quyền thực dân phải nới rộng ách kìm kẹp, áp bức đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc. ở vùng Đông Bắc, binh lính đổn Bình Liêu nổi dậy (11 -1918), lôi cuốn đông đảo đồng bào các dân tộc Hán, Nùng, Dao ở đia phương tham gia, hoạt động trên một đia bàn rất rộng, từ sông Tiên Yên ra đến biển; uy hiếp cả vùng mỏ Quảng Yên, lan sang các hải đảo từ Móng Cái đến Hải Phòng. Đến giữa năm 1919, giặc Pháp mới đẹp yên được cuộc khởi nghĩa này.  Cũng trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã nhiều lần nổi dậy chống thực dân Pháp. Cuộc khởi nghĩa có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc khởi nghĩa của đồng bào Mnông do N Trang Lơng chỉ huy. Nghĩa quân thắng nhiều trận lớn, buộc thực dân Pháp phải bỏ cả một vùng cao nguyên rộng lớn. Từ năm 1916, thực dân Pháp tổ chức bao vây chặt vùng nghĩa quân kiểm soát, triệt đường tiếp tế muối. Mặc dù vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn kéo dài đến nhiều năm sau chiến tranh, tới năm 1935 mới chấm dứt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Phong trào yêu nước của nhân dân Nam Kì tồn tại trong các tổ chức hội kín như Thiên địa hội, Nghĩa hoà hội, Phục hưng hội... Các hội kín thường núp dưới hình thức tôn giáo, mê tín để dễ tuyên truyền vận động và hoạt động trong quần chúng, chủ yếu là nông dân. Trong nhân dân hồi đó lan truyền rằng Phan Xích Long là dòng dõi nhà trời, sai xuống làm vua nước Nam. Ngay trước chiến tranh, vào năm 1913 đã có 600 nông dân các tỉnh Gia Định, Tân An, Vĩnh Long... mặc áo bà ba trắng, đeo bùa chú, kéo vào Sài Gòn định đánh chiếm công sở, rổi đưa Phan Xích Long lên ngôi. Đoàn người bị đàn áp. Phan Xích Long bị giam giữ trong Khám lớn Sài Gòn. Trong những năm chiến tranh, phong trào Hội kín phát triển rầm rộ ở tất cả các tỉnh Nam Kì. Đáng chú ý nhất là vụ đột nhập vào Sài Gòn, mưu phá Khám lớn để cứu Phan Xích Long. Đêm 14 -2 -1916, mây trăm người ăn mặc giống nhau (áo cánh đen, quần trắng, khăn trắng quân cổ), mỗi người đều có gươm hoặc giáo và bùa hộ mệnh, chia làm nhiều ngả tiến vào Sài Gòn. Quân địch đã phản công quyết liệt, nghĩa quân buộc phải rút lui. Trong khi đó, lực lượng nghĩa quân của các hội kín ở Gia Định, Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Chợ Lớn đã tập hợp xung quanh Sài Gòn chờ phối hợp, nhưng không nhận được hiệu lệnh như đã định nên buộc phải rút lui. Phong trào Hội kín ở Nam Kì thực chất là phong trào đấu tranh của nông dân - những người bị đè nén đến cùng cực đã vùng lên quyết liệt, nhưng vì thiếu sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến nên đã nhanh chóng thất bại." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, công nhân đã kết hợp đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế với bạo động vũ trang. Ngày 22 -2 -1916, nữ công nhân nhà máy sàng Kế Bào (Quảng Ninh) nghỉ việc 7 ngày chống cúp phạt lương. Cũng trong năm này, gần 100 công nhân mỏ than Hà Tu đã đánh trả bọn lính khố xanh khi chúng đến cướp bóc hàng hoá, trêu ghẹo phụ nữ. Trong các tháng 6 và 7 - 1917, 22 công nhân mỏ bôxít Cao Bằng bỏ trốn; 47 công nhân Thái Bình mới đến cũng chống lại bọn cai thầu. Ngày 31 - 2 -1917, nhiều công nhân ở các mỏ than Phấn Mễ và Na Dương tham gia khởi nghĩa Thái Nguyên. Cũng năm đó, công nhân mỏ than Hà Tu biểu tình trước văn phòng chủ mỏ đòi thả một số công nhân bị bắt vì tham gia đấu tranh. Năm 1918, khoảng 700 công nhân mỏ than Hà Tu đốt nhà một tên cai thầu ngược đãi công nhân. Như vậy, tiếp nối phong trào công nhân hồi đầu thế kỉ, phong trào công nhân trong 4 năm chiến tranh đã mang những nét riêng, thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, ý thức kỉ luật của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phong trào còn mang tính tự phát." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Nguyễn Tất Thành, hồi nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 - 2 -1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc. Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan. Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên ở một miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi, từ rất sớm Nguyễn Tất Thành đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ nên quyết định tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Ngày 5 - 6 -1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rổng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước. Khác với thế hệ cha anh hướng về Trung Quốc và Nhật Bản, Người quyết định sang phương Tây, đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rổi trở về giúp đồng bào mình. Trong nhiều năm sau đó, Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục khác nhau. Người nhận thấy rằng ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị áp bức và bóc lột dã man.  Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Tại đây, Người đã làm rất nhiều nghề, học tập, rèn luyện trong cuộc đấu tranh của quần chúng lao động và giai cấp công nhân Pháp. Tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước, Người tham gia những buổi diễn thuyết ngoài trời của các nhà chính trị, triết học. Người còn tham gia đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam sớm được hồi hương. Sống và làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có những biến chuyển mạnh mẽ. Những hoạt động yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy mới chỉ bước đầu, nhưng là cơ sở quan trọng để Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960)."," Hoàn thành cải cách ruộng đất Công cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô, cải cách ruộng đất được thực hiện từ cuối năm 1953. Khi ta vừa kết thúc đợt 5 giảm tô và đợt 1 cải cách ruộng đất thì hoà bình lập lại ở miền Bắc.  Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế miền Bắc và nhằm đáp ứng yêu cầu về quyền lợi kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định ""Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất"". Thực hiên chủ trương của Trung ương, trong hơn hai năm (1954 - 1956), miền Bắc tiến hành đợt 6 giảm tô và tiếp 4 đợt cải cách ruộng đất còn lại (từ đợt 2 đến đợt 5) ở 3 314 xã thuộc 22 tỉnh đồng bằng và trung du. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, chúng ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn hécta ruộng đất, 10 vạn trâu bờ, 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ đem chia cho trên 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp địa chủ đã căn bản bị xoá bỏ. Nông dân đã làm chủ nông thôn, nguyện vọng lâu đời của nông dân là ""người cày có ruộng đã được thực hiện. Tuy vậy, trong cải cách ruộng đất, chúng ta phạm một số sai lầm nghiêm trọng như đấu tố cả những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng, quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên... thành địa chủ. Sai lầm còn thể hiện trong phương pháp đấu tố tràn lan, thô bạo. Tháng 9 - 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) đã đề ra chủ trương kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Công tác sửa sai được tiến hành trong cả năm 1957. Nhờ đó, hậu quả của sai lầm đã được khắc phục. Sau cải cách ruộng đất, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối liên minh công nông được củng cố." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960)."," Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh Đây là nhiêm vụ tất yếu trong thời kì đầu sau chiến tranh. Kì họp thứ 4 Quốc hội khoá I (3 - 1955) đã quyết nghị củng cố miền Bắc bằng cách ""ra sức khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá"". Công cuộc khôi phục kinh tế được toàn dân tích cực hưởng ứng và triển khai trong tất cả các ngành. Trong nông nghiệp, nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, bảo đảm cày cấy hết ruộng đất vắng chủ, tăng thêm đàn trâu bờ, sắm thêm nông cụ. Hê thống để điều dài hơn 3 000 km đã được tu bổ. Nhiều đập nước như đập Bái Thượng (Thanh Hoá), Đô Lương (Nghệ An), Thác Huống (Thái Nguyên) đã được sửa chữa. Nhiều công trình thuỷ nông mới được xây dựng, có tác dụng mở rộng diên tích tưới và tiêu nước. Đến năm 1957, sản lượng lương thục đạt gần 4 triệu tđn, tăng hơn 1,5 triệu tân so với năm 1939. Nạn đói có tính chất kinh niên ở miền Bắc bước đầu được giải quyết. Đời sống của nhân dân lao động được cải thiện. Trong công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như mỏ than Hòn Gai, dêt Nam Định, xi măng Hải Phòng, điện Hà Nội; xây dựng thêm một số nhà máy mới như cơ khí Hà Nội, diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải Phòng, chè Phú Thọ... việc xây dựng Nhà máy cơ khí Hà Nội là sự kiên quan trọng trong lịch sử phát triển công nghiêp ở Viêt Nam. Đây là cơ sở đầu tiên của ngành chế tạo máy ở nước ta. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiêp lớn do Nhà nước quản lí. Cùng với việc khôi phục và phát triển công nghiêp, các ngành thủ công nghiêp miền Bắc cũng được nhanh chóng khôi phục. Đến năm 1957, ngành thủ công nghiêp đã cung cấp gần 59% số hàng hoá tiêu dùng trong nước, giải quyết phần nào việc làm cho người lao động." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Trong thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán được mở rộng, đã cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng cho nhân dân; giao lưu hàng hoá giữa các địa phương ngày càng phát triển; hoạt động ngoại thương dần dần tập trung vào Nhà nước. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đã đặt quan hệ buôn bán với 27 nước. Giao thông vận tải được chú trọng, khôi phục gần 700 km đường sắt, sửa chữa và làm mới hàng nghìn kilômét đường ô tô, xây dựng và mở rộng thêm một số cảng như cảng Hải Phòng, Cẩm Phả, Bến Thuỷ; đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông. Văn hoá, giáo dục, y tế được đẩy mạnh. Nền giáo dục được phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Hê thống giáo dục phổ thông theo chương trình 10 năm đã được khẳng định; giáo dục đại học được chú ý phát triển. Năm học 1956 - 1957 có gần 1 triệu học sinh phổ thông, hơn 600 000 học sinh vỡ lòng, gần 3 000 sinh viên đại học, gần 8 000 học sinh chuyện nghiệp trung cấp và hơn 1 triệu người được xoá nạn mù chữ. Hê thống y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được Nhà nước quan tâm xây dựng. Nếp sống lành mạnh, giữ gìn vê sinh được vận động thực hiện ở khắp mọi nơi. Đến năm 1957, miền Bắc có trên 150 cơ sở điều trị, hơn 100 đội y tế lưu động, khoảng 8 000 cán bộ tù y tá đến bác sĩ. Những nạn dịch phổ biến ở miền Bắc trước kia như đau mắt hột, sốt rét... được xoá bỏ. Trong giai đoạn này, chính quyền và quân đội được củng cố, khả năng phòng thủ đất nước được tăng cường, quan hệ ngoại giao được mở rộng. Mặt trận Tổ quốc được thành lập tháng 9 - 1955 đã tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng đất nước." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Ngay từ tháng 7 - 1954, nhận rõ đế quốc Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương, Trung ương Đảng đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng. Mở đầu là ""Phong trào hoà bình của trí thức và các tổng lớp nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tháng 8 - 1954. Phong trào tổ chức nhiều cuộc mít tinh, hội họp chào mừng ngày hội đất nước và đưa yêu cầu đòi chính quyền thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Phong trào nhanh chóng lan ra các đô thị khác và nhiều vùng nông thôn. Những ""Uỷ ban bảo vệ hoà bình"" được thành lập và hoạt động công khai. Tháng 11 - 1954, Mĩ - Diệm tiến hành khủng bố, đàn áp, lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhưng phong trào đấu tranh vì mục tiêu hoà bình của các tầng lớp nhân dân tiếp tục dâng cao, lan rộng, lôi cuốn hàng triệu người tham gia, gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc ít người... hình thành nên mặt trận chống Mĩ - Diệm.  Mục tiêu phong trào được mở rộng, hình thức đấu tranh có những thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Đấu tranh vừa đòi Mĩ - Diêm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống cái gọi là ""trưng cầu dân ý"", ""bầu cử quốc hội""... của Diệm, vừa chống Mĩ - Diệm khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch ""tố cộng"", ""diệt cộng của chúng, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đấu tranh giữ gìn kết hợp với phát triển lực lượng cách mạng. Hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị, hoà bình chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ, rồi dùng bạo lực cách mạng. Ngày 1 - 5 - 1957, 20 vạn quân chúng lao động Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường đầu tranh. Ngày 1 - 5 - 1958, 50 vạn đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường tuân hành đòi các quyền tụ do, dân sinh, dân chủ, chống khủng bố. Năm 1957, toàn miền Nam có 2 triệu lượt người tham gia đâu tranh; năm 1958, có 3,7 triệu lượt người; năm 1959, có 6 triệu lượt người." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Nho giáo từng bước suy thoái, tôn ti trật tự phong kiến không còn được tôn trọng như trước mặc dù các chính quyền Lê - Trịnh, Nguyễn tìm mọi cách củng cố. Phật giáo, Đạo giáo có điều kiện khôi phục vị trí của mình nhưng không được như dưới thời Lý, Trần. Chùa quán được xây dựng thêm. Nhiều vị chúa quan tâm xây dựng, sửa sang các ngôi chùa lớn. Nhân dân, quan chức cũng đóng góp tiền của, ruộng đất, sửa sang chùa chiền, đúc chuông, tô tượng. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, nhiều giáo sĩ đạo Thiên Chúa phương tây theo các thuyền buôn nước ngoài vào Việt Nam truyền đạo. Nhà thờ Thiên Chúa giáo mọc lên ở nhiều nơi. Đạo Thiên Chúa trở thành một tôn giáo lan truyền trong cả nước. Tuy nhiên, về sau do nhiều điểm khác biệt, hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ bị nhà nước phong kiến cấm đoán. Thế kỉ XVII, cùng với sự truyền bá của Thiên Chúa giáo, chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh cũng được sáng tạo. Tuy nhiên, bấy giờ chữ Quốc ngữ chỉ được dùng chủ yếu trong phạm vi hoạt động truyền giáo, mà không được phổ cập rộng rãi trong xã hội. Tiếp nhận ảnh hưởng của các tư tưởng và tôn giáo, người dân Việt Nam đã tạo nên một nếp sống văn hoá riêng trên cơ sở hoà nhập với nền văn hoá cổ truyền thế hiện trong quan hệ gia đình, người già người trẻ, phán biệt phải trái, đúng sai, chân thực, khoan dung trong cuộc sống. Đồng thời, các tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp được phát huy, tôn trọng như thờ cứng tổ tiên, tôn thờ những người có công với làng với nước, nhất là những người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh chùa chiền, các nhà thờ đạo, những đền thờ, lăng miếu được xây dựng ở nhiều nơi." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 24: Tình hình văn h6a ở các thế kỉ XVI-XVIII,"Ở các thế kỉ XVI - XV111, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển với các công trình có giá trị như chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế), tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), các tượng La Hán ở chùa tây Phương (Hà tây)...; xuất hiện một số tượng nhân vật (vua, chúa...), tranh vẽ chân dung. Cùng với văn học dân gian, một trào lưu nghệ thuật dân gian được hình thành. Trên các vì, kèo ở những ngôi đình làng, các nghệ nhân đã khắc lên những cảnh sinh hoạt thường ngày của nhân dân như đi cày, đi bừa, đấu vật, nô đùa, hát xướng v.v... Trình độ nghệ thuật tuy đơn giản nhưng phản ánh được cuộc sống của người dân thường. Nghệ thuật sản khấu phát triển cả ở Đàng Ngoài, Đàng Trong. Nhiều làng có phường tuồng, phường chèo. Bên cạnh đó, phổ biến hàng loạt làn điệu dân ca mang tính địa phương đậm nét như quan họ, hát giặm, hò, vè, lí, si, lượn v.v..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"Khi cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, toàn quyền Đông dương tuyến bố: ""Nhiệm vụ chủ yếu của Đông dương là phải cung cấp cho chính quốc đến mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực... . Nhân dân Việt Nam phải đóng nhiều thứ thuế, mua công trái... Trong 4 năm chiến tranh, chính quyền thuộc địa đã thu được trên 184 triệu phrăng tiền công trái và gần 14 triệu phrăng tiền quyên góp; ngoài ra, hàng trăm tấn lương thực và nông lâm sản các loại, hàng vạn tấn kim loại cần thiết cho chế tạo vũ khí được đưa sang Pháp. Sự cướp bóc ráo riết của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam. Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ những tổn thất, thiếu hụt của chính quốc trong thời gian chiến tranh. Những mỏ đang khai thác nay được bỏ vốn thêm; một số công ti than mới xuất hiện như các công ti than tuyến Quang (1915), Đông Triều (1916)..." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"ở Thái Nguyên, ách thống trị của thực dân Pháp cực kì tàn bạo. Công sứ Đác-lơ và Giám binh Nô-en khét tiếng tàn ác. Thái Nguyên lại là nơi đầy ải những người yêu nước bị bắt trong các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thực, khởi nghĩa Yên Thế... Giữa những người từ chính trị với số binh lính yêu nước làm việc trong nhà từ dần dần có sự gặp gỡ, tiếp xúc bí mật. Một kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra.  Những người lãnh đạo cuộc bạo động là Trinh Văn Cấn (Đội Cấn) - một binh sĩ yêu nước và Lương Ngọc Quyến -hội viên của Việt Nam Quang phục hội bị giam ở nhà từ Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa nổ ra đến 30 rạng sáng 31 - 8 - 1917. Giám binh Nô-en bị giết. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, phá nhà từ, giải phóng tất cả từ nhân, làm chủ toàn bộ thi xã, trừ trại lính Pháp. Ngọn cờ khởi nghĩa ""Nam binh phục quốc bay cao trên bầu trời tỉnh li Thái Nguyên. Lãnh đạo nghĩa quân phát hich tuyến bốThái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác của giặc Pháp, kêu gọi đồng bào vùng lên khôi phục nền độc lập của đất nước. Thực dân Pháp quyết định đưa 2 000 quân lên Thái Nguyên tiếp viện. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Sau một tuần lễ làm chủ tỉnh li, cuối cùng đề thoát khỏi thế bao vây của quân thù, nghĩa quân phải rút ra ngoài và kéo dài cuộc chiến đấu được 6 tháng thì tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Ngay từ tháng 7 - 1954, nhận rõ đế quốc Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông dương, Trung ương Đảng đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông dương, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng. Mở đầu là ""Phong trào hoà bình của trí thức và các tổng lớp nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tháng 8 - 1954. Phong trào tổ chức nhiều cuộc mít tinh, hội họp chào mùng ngày hội đất nước và đưa yêu cổu đòi chính quyền thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Phong trào nhanh chóng lan ra các đô thị khác và nhiều vùng nông thôn. Những ""Uỷ ban bảo vệ hoà bình được thành lập và hoạt động công khai. Tháng 11 - 1954, Mĩ - Diệm tiến hành khủng bố, đàn áp, lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhưng phong trào đấu tranh vì mục tiêu hoà bình của các tầng lớp nhân dân tiếp tục dâng cao, lan rộng, lôi cuốn hàng triệu người tham gia, gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc ít người... hình thành nên mặt trận chống Mĩ - Diệm.  Mục tiêu phong trào được mở rộng, hình thức đấu tranh có những thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Đấu tranh vừa đòi Mĩ - Diêm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống cái gọi là ""trưng cầu dân ý"", ""bầu cử quốc hội""... của Diệm, vừa chống Mĩ - Diệm khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch ""tố cộng"", ""diệt cộng của chúng, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đấu tranh giữ gìn kết hợp với phát triển lực lượng cách mạng. Hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị, hoà bình chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ, rồi dùng bạo lực cách mạng. Ngày 1 - 5 - 1957, 20 vạn quân chúng lao động Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường đấu tranh. Ngày 1 - 5 - 1958, 50 vạn đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường tuân hành đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ, chống khủng bố. Năm 1957, toàn miền Nam có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh; năm 1958, có 3,7 triệu lượt người; năm 1959, có 6 triệu lượt người." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Do đế quốc Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông dương, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong tình hình đó, mỗi miền Bắc - Nam thực hiện những nhiệm vụ thuộc hai chiến lược cách mạng khác nhau: Miền Bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội; miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng, từng bước đưa cách mạng tiến lên. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông dương được kí kết, đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Lào, Campuchia của thực dân Pháp có đế quốc Mĩ giúp sức. Ngày 10 - 10 - 1954, quân ta tiến vào tiếp quản Hà Nội trong không khí tưng bừng của ngày hội giải phóng. Ngày 1 - 1 - 1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân Thủ đô. Toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng ngày 13 - 5 - 1955, rút khỏi đảo Cát Bà ngày 16 - 5 - 1955. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Giữa tháng 5 - 1956, Pháp rút hết quân khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam - Bắc Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Ngay sau Hiệp định Giơnevơ, Mĩ liền thay thế thực dân Pháp dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông dương và Đông Nam A.  Do đó, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước chưa hoàn thành; nhân dân ta vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960)."," Hoàn thành cải cách ruộng đất Công cuộc phát động quần chúng triệt đề giảm tô, cải cách ruộng đất được thực hiện từ cuối năm 1953. Khi ta vừa kết thức đợt 5 giảm tô và đợt 1 cải cách ruộng đất thì hoà bình lập lại ở miền Bắc. Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế miền Bắc và nhằm đáp ứng yêu cầu về quyền lợi kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định ""Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất"". Thực hiên chủ trương của Trung ương, trong hơn hai năm (1954 - 1956), miền Bắc tiến hành đợt 6 giảm tô và tiếp 4 đợt cải cách ruộng đất còn lại (từ đợt 2 đến đợt 5) ở 3 314 xã thuộc 22 tỉnh đồng bằng và trung du. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, chúng ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn héc ta ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ đem chia cho trên 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp địa chủ đã căn bản bị xoá bỏ. Nông dân đã làm chủ nông thôn, nguyện vọng lâu đời của nông dân là ""người cày có ruộng đã được thực hiện. Tuy vậy, trong cải cách ruộng đất, chúng ta phạm một số sai lầm nghiêm trọng như đấu tố cả những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng, quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên... thành địa chủ. Sai lầm còn thể hiện trong phương pháp đấu tố tràn lan, thô bạo. Tháng 9 - 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) đã đề ra chủ trương kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Công tác sửa sai được tiến hành trong cả năm 1957. Nhờ đó, hậu quả của sai lầm đã được khắc phục. Sau cải cách ruộng đất, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối liên minh công nông được củng cố." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960)."," Hoàn thành cải cách ruộng đất Công cuộc phát động quần chúng triệt đề giảm tô, cải cách ruộng đất được thực hiện từ cuối năm 1953. Khi ta vừa kết thức đợt 5 giảm tô và đợt 1 cải cách ruộng đất thì hoà bình lập lại ở miền Bắc.  Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế miền Bắc và nhằm đáp ứng yêu cầu về quyền lợi kinh tế, chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Chính phủ quyết định ""Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất"". Thực hiên chủ trương của Trung ương, trong hơn hai năm (1954 - 1956), miền Bắc tiến hành đợt 6 giảm tô và tiếp 4 đợt cải cách ruộng đất còn lại (từ đợt 2 đến đợt 5) ở 3 314 xã thuộc 22 tỉnh đồng bằng và trung du. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, chúng ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn héc ta ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ đem chia cho trên 2 triệu hộ nông dân. Giai cấp địa chủ đã căn bản bị xoá bỏ. Nông dân đã làm chủ nông thôn, nguyện vọng lâu đời của nông dân là ""người cày có ruộng đã được thực hiện. Tuy vậy, trong cải cách ruộng đất, chúng ta phạm một số sai lầm nghiêm trọng như đấu tố cả những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng, quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên... thành địa chủ. Sai lầm còn thể hiện trong phương pháp đấu tố tràn lan, thô bạo. Tháng 9 - 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) đã đề ra chủ trương kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Công tác sửa sai được tiến hành trong cả năm 1957. Nhờ đó, hậu quả của sai lầm đã được khắc phục. Sau cải cách ruộng đất, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối liên minh công nông được củng cố." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960)."," Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh Đấy là nhiêm vụ tất yếu trong thời kì đầu sau chiến tranh. Kì họp thứ 4 Quốc hội khoá I (3 - 1955) đã quyết nghị củng cố miền Bắc bằng cách ""ra sức khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá"". Công cuộc khôi phục kinh tế được toàn dân tích cực hưởng ứng và triển khai trong tất cả các ngành. Trong nông nghiệp, nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, bảo đảm cày cấy hết ruộng đất vắng chủ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ. Hê thống đề điều dài hơn 3 000 km đã được tu bổ. Nhiều đập nước như đập Bái Thượng (Thanh Hoá), Đô Lương (Nghệ An), Thác Huống (Thái Nguyên) đã được sửa chữa. Nhiều công trình thuỷ nông mới được xây dựng, có tác dụng mở rộng diện tích tưới và tiêu nước. Đến năm 1957, sản lượng lương thực đạt gần 4 triệu tđn, tăng hơn 1,5 triệu tân so với năm 1939. Nạn đói có tính chất kinh niên ở miền Bắc bước đầu được giải quyết. Đời sống của nhân dân lao động được cải thiện. Trong công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như mỏ than Hòn Gai, dêt Nam Định, xi măng Hải Phòng, điện Hà Nội; xây dựng thêm một số nhà máy mới như cơ khí Hà Nội, diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải Phòng, chè Phú Thọ... Viêc xây dựng Nhà máy cơ khí Hà Nội là sự kiên quan trọng trong lịch sử phát triển công nghiệp ở Viêt Nam. Đấy là cơ sở đầu tiên của ngành chế tạo máy ở nước ta. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp lớn do Nhà nước quản lí. Cùng với viêc khôi phục và phát triển công nghiệp, các ngành thủ công nghiệp miền Bắc cũng được nhanh chóng khôi phục. Đến năm 1957, ngành thủ công nghiệp đã cung cấp gần 59% số hàng hoá tiêu dùng trong nước, giải quyết phần nào viêc làm cho người lao động." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),"ở Thái Nguyên, ách thống trị của thực dân Pháp cực kì tàn bạo. Công sứ Đác-lơ và Giám binh Nô-en khét tiếng tàn ác. Thái Nguyên lại là nơi đày ải những người yêu nước bị bắt trong các phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế... Giữa những người tù chính trị với số binh lính yêu nước làm việc trong nhà tù dần dần có sự gặp gỡ, tiếp xúc bí mật. Một kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra. Những người lãnh đạo cuộc bạo động là Trinh Văn Cấn (Đội Cấn) - một binh sĩ yêu nước và Lương Ngọc Quyến -hội viên của Việt Nam Quang phục hội bị giam ở nhà tù Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa nổ ra đêm 30 rạng sáng 31 - 8 - 1917. Giám binh Nô-en bị giết. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở, phá nhà tù, giải phóng tất cả tù nhân, làm chủ toàn bộ thi xã, trừ trại lính Pháp. Ngọn cờ khởi nghĩa ""Nam binh phục quốc bay cao trên bầu trời tỉnh li Thái Nguyên. Lãnh đạo nghĩa quân phát hịch tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác của giặc Pháp, kêu gọi đồng bào vùng lên khôi phục nền độc lập của đất nước. Thực dân Pháp quyết định đưa 2 000 quân lên Thái Nguyên tiếp viện. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Sau một tuần lễ làm chủ tỉnh li, cuối cùng để thoát khỏi thế bao vây của quân thù, nghĩa quân phải rút ra ngoài và kéo dài cuộc chiến đấu được 6 tháng thì tan rã." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 24: Miền bắc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ- Diệm, gìn gữ hòa bình (1954- 1960).","Ngay từ tháng 7 - 1954, nhận rõ đế quốc Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương, Trung ương Đảng đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng. Mở đầu là ""Phong trào hoà bình của trí thức và các tổng lớp nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tháng 8 - 1954. Phong trào tổ chức nhiều cuộc mít tinh, hội họp chào mừng ngày hội đất nước và đưa yêu cầu đòi chính quyền thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Phong trào nhanh chóng lan ra các đô thị khác và nhiều vùng nông thôn. Những ""Uỷ ban bảo vệ hoà bình"" được thành lập và hoạt động công khai. Tháng 11 - 1954, Mĩ - Diệm tiến hành khủng bố, đàn áp, lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhưng phong trào đấu tranh vì mục tiêu hoà bình của các tầng lớp nhân dân tiếp tục dâng cao, lan rộng, lôi cuốn hàng triệu người tham gia, gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc ít người... hình thành nên mặt trận chống Mĩ - Diệm. Mục tiêu phong trào được mở rộng, hình thức đấu tranh có những thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Đấu tranh vừa đòi Mĩ - Diêm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống cái gọi là ""trưng cầu dân ý"", ""bầu cử quốc hội""... của Diệm, vừa chống Mĩ - Diệm khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch ""tố cộng"", ""diệt cộng của chúng, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đấu tranh giữ gìn kết hợp với phát triển lực lượng cách mạng. Hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị, hoà bình chuyển sang đấu tranh vũ trang tự vệ, rồi dùng bạo lực cách mạng. Ngày 1 - 5 - 1957, 20 vạn quân chúng lao động Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường đầu tranh. Ngày 1 - 5 - 1958, 50 vạn đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường tuân hành đòi các quyền tụ do, dân sinh, dân chủ, chống khủng bố. Năm 1957, toàn miền Nam có 2 triệu lượt người tham gia đâu tranh; năm 1958, có 3,7 triệu lượt người; năm 1959, có 6 triệu lượt người." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Giữa thế kỉ XIX, Pháp mới có điều kiện tập trung lực lượng, tổ chức cuộc tấn công đánh chiếm Việt Nam. Ngày 1 - 9 -1858, liên quân Pháp -Tây Ban Nha nổ súng đánh vào cửa biển Đà Nang, mở đầu cuộc chiên tranh xâm lược. Do thiếu đường lối chỉ đạo đúng đắn và quyết tâm kháng chiến của triều đình nhà Nguyễn, cuối cùng Việt Nam đã rơi vào tay thực dân Pháp. Hiệp ước ngày 6 -6 -1884 (Hiệp ước Patơnốt) là hiệp ước cuối cùng, đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình phong kiến nước ta trước thế lực xâm lăng, kết thúc giai đoạn tồn tại của Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập. Trái ngược với thái độ của triều đình Huế, ngay từ đầu nhân dân Việt Nam đã đứng dậy chiến đấu chống Pháp. Cuộc chiến tranh nhân dân bền bỉ, dẻo dai, đều khắp, với tinh thần dũng cảm vô song... đã khiến thực dân Pháp phải chịu nhiều tổn thất, phải mất hơn 26 năm chúng mới hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược và còn phải mất thêm 11 năm nữa để tiên hành cuộc bình định quân sự mới tạm thời thiết lập được nền thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỉ XIX, cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp của nhân dân ta tiếp tục nổ ra. Tháng 7 -1885, phong trào Cần vương được phát động, kéo dài đến năm 1896 mới chấm dứt. Cùng lúc với phong trào Cần vương, phong trào đấu tranh tự vệ ở các địa phương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, là biểu hiện cụ thể, sinh động tinh thần quật khởi, bất khuất của nhân dân ta. Mặc dù thất bại, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yêu là thiêu một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực lãnh đạo, phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đã đánh một mốc son trong trang sử chống ngoại xâm của dân tộc ta và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Từ năm 1897, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa cuối cùng trong phong trào Cần vương là khởi nghĩa Hương Khệ và tiến hành giảng hoà với Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa quy mô, có hệ thống trên toàn cõi Đông Dương. Việt Nam dần dần trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến và bị biến thành nơi cung cấp sức người, sức của rẻ mạt cho Pháp. Để đảm bảo lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp đặt thêm nhiều thứ thuế mới, nặng hơn các thứ thuế của triều đình Huế trước kia. Chúng ra sức kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, cột chặt nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế chính quốc. Tuy nhiên, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp cũng làm nảy sinh những nhân tố mới, ngoài ý muốn của chúng. Vào đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã xuất hiện những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, dù còn non yêu. Thành thị mọc lên. Một số cơ sở công nghiệp ra đời. Cơ cấu xã hội biến động, một số tầng lớp mới xuất hiện. Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì này vẫn đang trong giai đoạn tự phát. Tư sản và tiểu tư sản thành thị lớn lên cùng với sự nảy sinh các nhân tố mới, song vẫn chưa trở thành giai cấp thực thụ. Mặc dù vậy, các tầng lớp xã hội này, đặc biệt là bộ phận sĩ phu đang trên con đường tư sản hoá, đã đóng một vai trò khá quan trọng trong việc tiếp thu những luồng tư tưởng mới để dấy lên một cuộc vận động yêu nước tiến bộ, mang màu sắc dân chủ tư sản ở nước ta hồi đầu thế kỉ XX. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Cuối thế kỉ XIX, ngọn cờ phong kiên đã tỏ ra lỗi thời. Giữa lúc đó, trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản bắt đầu dội vào Việt Nam qua Nhật Bản, Trung Quốc và Pháp. Đang trong lúc bế tắc về tư tưởng, các sĩ phu yêu nước Việt Nam thời đó đã hổ hởi đón nhận những ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới. Họ cổ súy cho ""văn minh tân học và mở cuộc vận động đổi mới trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá. Tuy nhiên, do tầm nhìn hạn chế và có những trở lực không thể vượt qua, cuối cùng cuộc vận động yêu nước của các sĩ phu đầu thế kỉ XX đã thất bại. Những cố gắng đáng khâm phục của họ chỉ mới tạo ra được một cuộc vận động theo khuynh hướng dân chủ tư sản chứ chưa có khả năng làm bùng nổ một cuộc cách mạng tư sản thực sự ở nước ta. Bên cạnh cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản như Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân..., trong hơn 10 năm đầu thế kỉ XX vẫn tiếp tục bùng nổ phong trào đấu tranh của nông dân, điển hình là khởi nghĩa Yên Thế và các cuộc nổi dậy của đổng bào các dân tộc thiểu số. Trong những năm Chiến tranh thệ giới thứ nhất, phong trào cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Nhiều cuộc đấu tranh, nhất là các cuộc đấu tranh của nông dân và binh lính, bị mất phương hướng, bị đàn áp đẫm máu và thất bại nhanh chóng. Chính trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước mới. Những hoạt động của Người trong thời kì này là cơ sở quan trọng để Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Nãm 1802, nhà Nguyễn được thành lập. Trong nửa thế kỉ thông trị, trên một đất nước vừa trải qua nhiều biến động lớn, nhà Nguyễn ra sức cúng cố quyền thống trị, phục hồi kinh tế, chấn chỉnh văn hoá. Tuy nhiên, trong điều kiện của giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam, với tư tưởng thù cựu, nhà Nguyễn không tạo ra được cơ sở cho một bước phát triển mới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Sau khi đánh bại Vương triều Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà Nguyễn, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Năm 1804, nhà Nguyễn đổi tên nước là Việt Nam, nhưng sau đó lại đổi thành Đại Nam. Chính quyền trung ương được tổ chức theo mô hình thời Lê với sự gia tăng quyền lực của vua. Đất nước mới hợp nhất hai miền nên bước đầu vua Gia Long phải chia thành ba vùng: Bắc thành (gồm các trấn ở Bắc Bộ ngày nay), Gia Định thành (các trấn thuộc Nam Bộ ngày nay) và các Trực doanh do triều đình trực tiếp cai quản (Trung Bộ ngày nay). Chính quyền trung ương cai quản cả nước, song mỗi thành lại có một Tổng trấn trực tiếp trông coi. Các trấn, dinh vẫn giữ như cũ. Năm 1831 - 1832, vua Minh Mạng quyết định bỏ Bắc thành và Gia Định thành, chia cả nước làm 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên. Mỗi tỉnh đều có Tổng đốc, Tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo sự điều hành của triều đình. Các phủ, huyện, châu, tổng, xã vẫn giữ như cũ.  Ban đầu, quan lại được tuyển chọn từ những người trước đây theo Nguyễn Ánh; về sau, giáo dục, khoa cử trở thành nguồn tuyển chọn chính. Chế độ lương bổng được quy định, nhưng không có phần ruộng đất. Mặc dù có một số quan lại thanh liêm, nhưng một bộ phận đáng kể đã trở nên thoái hoá như ở thời cuối Lê. Một bộ luật mới được ban hành - Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Hoàng triều luật lệ hay Luật Gia Long) - gồm gần 400 điều, quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà nước và các tôn ti trật tự phong kiến. quân đội được tổ chức quy củ với số lượng khoảng 20 vạn người, được trang bị vũ khí đầy đủ, có đại bác, súng tay, thuyền chiến. Đối với nhà Thanh, triều đình Nguyễn chịu phục tùng, nhưng đối với Lào và Chán Lạp lại bắt họ thần phục. Trước sự nhòm ngó của các nước phương Tây, nhà Nguyễn chủ trương ""đóng cửa"", không chấp nhận việc đặt quan hệ với họ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Sau khi đánh bại Vương triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà Nguyễn, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Năm 1804, nhà Nguyễn đổi tên nước là Việt Nam, nhưng sau đó lại đổi thành Đại Nam. Chính quyền trung ương được tổ chức theo mô hình thời Lê với sự gia tăng quyền lực của vua. Đất nước mới hợp nhất hai miền nên bước đầu vua Gia Long phải chia thành ba vùng: Bắc thành (gồm các trấn ở Bắc Bộ ngày nay), Gia Định thành (các trấn thuộc Nam Bộ ngày nay) và các Trực doanh do triều đình trực tiếp cai quản (Trung Bộ ngày nay). Chính quyền trung ương cai quản cả nước, song mỗi thành lại có một Tổng trấn trực tiếp trông coi. Các trấn, dinh vẫn giữ như cũ. Năm 1831 - 1832, vua Minh Mạng quyết định bỏ Bắc thành và Gia Định thành, chia cả nước làm 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên. Mỗi tỉnh đều có Tổng đốc, Tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo sự điều hành của triều đình. Các phủ, huyện, châu, tổng, xã vẫn giữ như cũ. Ban đầu, quan lại được tuyển chọn từ những người trước đây theo Nguyễn Ánh; về sau, giáo dục, khoa cử trở thành nguồn tuyển chọn chính. Chế độ lương bổng được quy định, nhưng không có phần ruộng đất. Mặc dù có một số quan lại thanh liêm, nhưng một bộ phận đáng kể đã trở nên thoái hoá như ở thời cuối Lê. Một bộ luật mới được ban hành - Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Hoàng triều luật lệ hay Luật Gia Long) - gồm gần 400 điều, quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà nước và các tôn ti trật tự phong kiến. Quân đội được tổ chức quy củ với số lượng khoảng 20 vạn người, được trang bị vũ khí đầy đủ, có đại bác, súng tay, thuyền chiến. Đối với nhà Thanh, triều đình Nguyễn chịu phục tùng, nhưng đối với Lào và Chân Lạp lại bắt họ thần phục. Trước sự nhòm ngó của các nước phương Tây, nhà Nguyễn chủ trương ""đóng cửa"", không chấp nhận việc đặt quan hệ với họ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Đầu thế kỉ XIX, đất nước tạm trở lại yên bình trong thống nhất. Nền kinh tế tuy có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Nông nghiệp lạc hậu, không có gì đổi mới, ruộng đất hoang hoá nhiều. Ngay từ năm 1804, nhà nước đã ban hành lại chính sách quân điền nhưng ruộng đất công chỉ còn khoảng 20% tổng diện tích ruộng đất. Hơn nữa, theo chính sách, việc chia ruộng phải ưu tiên cho quan lại, quý tộc và binh lính. Nhà nước khuyến khích khai hoang bằng nhiều hình thức hoặc cho dân tự động tổ chức hoặc nhà nước góp vốn ban đầu cho dân mua sắm nông cụ, trâu bò, mở thêm nhiều đồn điền. Ruộng đất tăng thêm nhưng không nhiều. Hằng năm, nhà nước cố gắng bỏ tiền, thóc, huy động nhân dân sửa đắp đê điều, nạo vét kênh mương, song vẫn không khắc phục được lũ lụt. Người nông dân ra sức tăng gia sản xuất, duy trì cuộc sống ở làng quê. Hình ảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa và trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa trông nắng, trông ngày trông đêm vẫn là hình ảnh phổ biến ở nông thôn. Người nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng, chịu bóc lột nặng nề. Việc trồng thêm các cây lương thực khác cùng diện tích trồng rau, đậu, hoa quả được mở rộng góp phần làm giảm đi cảnh đói nghèo. Các nghề thủ công tiếp tục phát triển, đặc biệt là các nghề làm gốm sứ, kéo tơ, dệt vải lụa, nấu đường, khai mỏ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Bộ phận thủ công nghiệp nhà nước được tổ chức với quy mô lớn, nhiều ngành nghề như đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, làm đồ trang sức, gạch ngói v.v... Thợ quan xưởng đã chế tạo được một số máy móc đơn giản, đặc biệt là đóng được tàu thuỷ chạy bằng máy hơi nước. Năm 1839, vua đi chơi ở cầu sông Ngự Hà (Huế) xem thí nghiệm thuyền máy hơi nước, thấy máy móc linh động, chạy đi nhanh nhẹ. Do nhu cầu của nhà nước, do chế độ công tượng hà khắc, sự tiếp cận với công nghiệp cơ khí chỉ dừng lại ở đây. Trong nhân dân, các làng, các phường thủ công được tiếp tục duy trì nhưng do nhu cầu thị trường không còn như trước nên không phát triển. Một số làng thủ công lại chịu sự quản chế của nhà nước. Tuy vậy, vẫn xuất hiện một nghề mới: in tranh dân gian. Việc buôn bán trong nước phát triển chậm chạp và mang tính địa phương. Thuyền buôn đi xa bị đánh thuế nhiều lần, hơn nữa, nhà nước hằng năm còn trưng dụng một số thuyền của tư nhân để chuyên chở. Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương. Thuyền bè các nước láng giềng phía Nam chủ yếu chỉ được vào một số cảng ở Gia Định. Thuyền buôn các nước Anh, Pháp chi được vào cảng Đà Nẵng, bị khám xét nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nhà nước cũng bắt đầu cho một số thuyền của mình sang các nước láng giềng mua bán những mặt hàng cần thiết. Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi. Thăng Long vẫn còn giữ các phố phường, nhưng buôn bán sút kém." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Bộ phận thủ công nghiệp nhà nước được tổ chức với quy mô lớn, nhiều ngành nghề như đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, làm đồ trang sức, gạch ngói v.v... Thợ quan xưởng đã chế tạo được một số máy móc đơn giản, đặc biệt là đóng được tàu thuỷ chạy bằng máy hơi nước. Năm 1839, vua đi chơi ở cầu sông Ngự Hà (Huế) xem thí nghiệm thuyền máy hơi nước, thấy máy móc linh động, chạy đi nhanh nhẹ. Do nhu cầu của nhà nước, do chế độ công tượng hà khắc, sự tiếp cận với công nghiệp cơ khí chỉ dừng lại ở đây. Trong nhân dân, các làng, các phường thủ công được tiếp tục duy trì nhưng do nhu cầu thị trường không còn như trước nên không phát triển. Một số làng thủ công lại chịu sự quản chế của nhà nước. Tuy vậy, vẫn xuất hiện một nghề mới: in tranh dân gian. Việc buôn bán trong nước phát triển chậm chạp và mang tính địa phương. Thuyền buôn đi xa bị đánh thuế nhiều lần, hơn nữa, nhà nước hằng năm còn trưng dụng một số thuyền của tư nhân để chuyên chở. Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương. Thuyền bè các nước láng giềng phía Nam chủ yếu chỉ được vào một số cảng ở Gia Định. Thuyền buôn các nước Anh, Pháp chỉ được vào cảng Đà Nẵng, bị khám xét nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nhà nước cũng bắt đầu cho một số thuyền của mình sang các nước láng giềng mua bán những mặt hàng cần thiết. Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi. Thăng Long vẫn còn giữ các phố phường, nhưng buôn bán sút kém." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế hoạt động của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo. Tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển. Đình làng, đền thờ mọc lên ở khắp các xóm làng. Giáo dục Nho học được củng cố. Năm 1807, đã diễn ra khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn và năm 1822, khoa thi Hội đầu tiên được tổ chức. Tuy nhiên, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều so với các thế kỉ trước. Văn học chữ Hán kém phát triển. Trong lúc đó, văn học chữ Nôm ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất hiện những tác phẩm văn học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, các bài thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Quốc sử quán được thành lập, chuyện sưu tầm, lưu trữ sử sách cổ và biên soạn các bộ sử chính thống. Nhiều nhà sử học cho ra đời các bộ sử, sách chuyện khảo như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Lịch triều tạp kỉ của Ngô Cao Lãng, gia đình thành thông chí của Trịnh Hoài Đức v.v... Nhiều tập địa chí địa phương được biên soạn. Về kiến trúc, nổi bật lên quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm. Rạp hát đầu tiên được xây dựng có sân khấu và phòng khán giả. Lị sở các tỉnh đều có thành luỹ xây theo kiểu Pháp cổ; nổi lên ở thành Hà Nội là cột cờ được xây dựng cao đẹp. Các ngành nghệ thuật dân gian tiếp tục phát triển theo các hình thức cũ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Đáp ứng yêu cầu của cách mạng từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, chống ""Chiến tranh đặc biệt của Mĩ và chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam được thành lập (1 - 1961) thay cho Xứ uỷ Nam Bộ cũ và các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam (15 - 2 - 1961). Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng do Đảng lãnh đạo, Quân giải phóng miền Nam cùng với nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tiến công trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị), tiến công địch bằng cả ba mũi chính trị, quân sự, binh vận. Trong những năm 1961 - 1962, Quân giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, đồng thời với tiến công tiêu diệt nhiều đổn bốt lẻ của địch. Năm 1962, quân dân ta đã đánh nhiều cuộc càn quét lớn của địch vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh, phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn. Cuộc đấu tranh chống và phá ấp chiến lược diễn ra gay go, quyết liệt giữa ta và địch, có hàng chục triệu lượt người tham gia phá ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng chiến đấu. Với quyết tâm ""một tấc không đi, một li không rời"", nhân dân miền Nam kiên quyết bám đất, giữ làng, phá thế kìm kẹp của địch. Mĩ và chính quyền Sài Gòn dù tập trung sức vào dồn dân lập ""ấp chiến lược"" nhưng cũng chỉ thực hiện được một phần kế hoạch (gần một nửa trong tổng số 16 000 ấp). Đến cuối năm 1962, cách mạng kiểm soát trên một nửa tổng số ấp, với gần 70% nông dân. Ngày 2 - 1 - 1963, hơn 2 000 quân Sài Gòn (được cố vân Mĩ chỉ huy, có cả lính dù cùng với xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, máy bay lên thẳng) tiến công vào Ap Bắc (xã Tân Phú - Cai Lây - Mĩ Tho). Bám sát trộn địa, chờ khi địch tiến sát, Quân giải phóng mới nổ súng. Suốt một ngày chiến đâu, tuy lực lượng của Quân giải phóng bằng 1/10 lực lượng của địch, nhưng các mũi tiến công của địch tù nhiều hướng vào Ap Bắc đều bị bẻ gãy. Ta loại khỏi vòng chiến đâu hơn 450 địch (có 19 cố vân Mĩ), bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 13 xe bọc thép M.113." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Chiến thắng Ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đã bước đầu đánh bại các chiến thuật ""trực thăng vận"", ""thiêt xa vận của địch, đánh sụp lòng tin của quân đội Sài Gòn vào trang bị vũ khí hiện đại của Mĩ. Chiến thắng này cũng chứng minh quân dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại ""Chiến tranh đặc biệt của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Sau trận Ấp Bắc, phong trào ""Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công"" dấy lên khắp miền Nam. Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân trong các đô thị, cả ở những thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, có bước phát triển mạnh mẽ, nổi bật là đấu tranh của các tín đổ Phật giáo, của ""đội quân tóc dài chống lại sự đàn áp của chính quyền Diệm. Ngày 8 - 5 - 1963, hai vạn tăng ni, Phật tủ ở Huế biểu tỉnh phân đối chính quyền Sài Gòn câm treo cò Phật. Một làn sóng ủng hộ phong trào Phật tủ ở Huế lan rộng trong cả nước, nhất là ở Sài Gòn, Đà Nẵng. Sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn để phân đối chính quyền Ngô Đình Diệm đỡ gây xúc động mạnh trong nhân dân. Ngày 16 - 6 - 1963, 70 vạn quân chúng Sài Gòn xuống đường biểu tỉnh chống Mĩ - Diệm, làm rung chuyển cả thành phố. Phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị cùng với phong trào phá ấp chiến lược ở nông thôn và những đòn tiến công liên tiếp của các lực lượng vũ trang cách mạng đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 1 - 11 - 1963, Mĩ giật dây các tướng lĩnh trong quân đội Sài Gòn, do Dương Văn Minh cầm đầu, làm cuộc đảo chính giết anh em Diệm - Nhu, với hi vọng ổn định tình hình để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Những cuộc đảo chính đã làm cho chính quyền Sài Gòn lâm vào khủng hoảng triền miên. Chỉ trong vòng 18 tháng sau đó, liên tục diễn ra trên 10 cuộc đảo chính. Sau khi lên làm Tổng thống (thay G. Kennơđi bị ám sát ngày 22 - 11 - 1963), L. Giônxơn quyết định đẩy mạnh hơn nữa ""Chiến tranh đặc biệt"". Kế hoạch Giônxơn - Mác Namara thay thế kế hoạch Xtalây - Taylo được vạch ra nhằm tăng cường viện trợ quân sự, ổn định chính quyền Sài Gòn, bình định miền Nam có trọng điểm trong 2 năm (1964 - 1965)." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965)."," Mặc dù vậy, từng mảng lớn ""ấp chiến lược"" của địch đã bị phá vỡ. Cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3 300 ấp (khoảng 1/5 số ấp dự kiến), tới tháng 6 - 1965,giảm xuống mức thấp nhất, chỉ còn kiểm soát 2 200 ấp. ""Ấp chiến lược""- xương sống của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"" - đã bị phá sản về cơ bản. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, trở thành hậu phương trực tiếp của cách mạng. Tại vùng giải phóng, chính quyền cách mạng các cấp được thành lập, ruộng đất của Việt gian bị tịch thu được chia cho dân cày nghèo. Sau chiến thắng Ấp Bắc, Quân giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn. Cuối năm 1964, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công đông - xuân 1964 - 1965 với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giã.  Ngày 2 - 12 - 1964, Quân giải phóng mở trộn tiến công vào ấp Bình Giã (Bà Rị). Trong hơn 1 tháng, Quân giải phóng đỡ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 700 địch (trong đó có 60 cố vấn Mỹ), tịch thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, Quân giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước). Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc thiệt hại nặng. quân đội Sài Gòn, lực lượng nòng cốt của ""Chiến tranh đặc biệt"", không còn đủ sức đương đầu với các cuộc tiến công lớn của Quân giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt thất bại hoàn toàn." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965)."," Mặc dù vậy, từng mảng lớn ""ấp chiến lược"" của địch đã bị phá vỡ. Cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3 300 ấp (khoảng 1/5 số ấp dự kiến), tới tháng 6 - 1965,giảm xuống mức thấp nhất, chỉ còn kiểm soát 2 200 ấp. ""Ấp chiến lược""- xương sống của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"" - đã bị phá sản về cơ bản. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, trở thành hậu phương trực tiếp của cách mạng. Tại vùng giải phóng, chính quyền cách mạng các cấp được thành lập, ruộng đất của Việt gian bị tịch thu được chia cho dân cày nghèo. Sau chiến thắng Ấp Bắc, Quân giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn. Cuối năm 1964, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công đông - xuân 1964 - 1965 với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giã.  Ngày 2 - 12 - 1964, Quân giải phóng mở trộn tiến công vào ấp Bình Giã (Bà Rị). Trong hơn 1 tháng, Quân giải phóng đỡ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 700 địch (trong đó có 60 cố vấn Mỹ), tịch thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, Quân giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước). Từng đ ơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc thiệt hại nặng. quân đội Sài Gòn, lực lượng nòng cốt của ""Chiến tranh đặc biệt"", không còn đủ sức đương đầu với các cuộc tiến công lớn của Quân giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt thất bại hoàn toàn." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Đáp ứng yêu cầu của cách mạng từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, chống ""Chiến tranh đặc biệt của Mĩ và chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam được thành lập (1 - 1961) thay cho Xứuỷ Nam Bộ cũ và các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam (15 - 2 - 1961). dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng do Đảng lãnh đạo, Quân giải phóng miền Nam cùng với nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tiến công trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị), tiến công địch bằng cả ba mũi chính trị, quân sự, binh vận. Trong những năm 1961 - 1962, Quân giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, đồng thời với tiến công tiêu diệt nhiều đổn bốt lẻ của địch. Năm 1962, quân dân ta đã đánh nhiều cuộc càn quét lớn của địch vào chiến khu D, căn cứ U Minh, tây Ninh, phía Bắc và tây Bắc Sài Gòn. Cuộc đấu tranh chống và phá ""ấp chiến lược diễn ra gay go, quyết liệt giữa ta và địch, có hàng chục triệu lượt người tham gia phá ""ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng chiến đấu. Với quyết tâm ""một tấc không đi, một li không rời"", nhân dân miền Nam kiên quyết bám đất, giữ làng, phá thế kìm kẹp của địch. Mĩ và chính quyền Sài Gòn dù tập trung sức vào dổn dân lập ""ấp chiến lược nhưng cũng chỉ thực hiện được một phần kế hoạch (gần một nửa trong tổng số 16 000 ấp). Đến cuối năm 1962, cách mạng kiểm soát trên một nửa tổng số ấp, với gần 70% nông dân. Ngày 2 - 1 - 1963, hơn 2 000 quân Sài Gòn (được cố vẫn Mĩ chỉ huy, có câ lính dù cùng với xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, máy bay lên thẳng) tiến công vào Ap Bắc (xã Tân Phú - Cai Lấy - Mĩ Tho). Bám sát trộn địa, chò khi địch tiến sát, Quân giâi phóng mới nổ súng. Suốt một ngày chiến đấu, tuy lực lượng của Quân giâi phóng bằng 1/10 lực lượng của địch, nhưng các mũi tiến công của địch từ nhiều hướng vào Ap Bắc đều bị bẻ gậy. Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 450 địch (có 19 cố vẫn Mĩ), bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 13 xe bọc thép M.113." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Chiến thắng Ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đã bước đầu đánh bại các chiến thuật ""trực thăng vận"", ""thiêt xa vận của địch, đánh sụp lòng tin của quân đội Sài Gòn vào trang bị vũ khí hiện đại của Mĩ. Chiến thắng này cũng chứng minh quân dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại ""Chiến tranh đặc biệt của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Sau trận Ấp Bắc, phong trào ""Thi đua Ấp Bắc, giêt giặc lập công dấy lên khắp miền Nam. Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân trong các đô thị, cả ở những thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nang, có bước phát triển mạnh mẽ, nổi bật là đấu tranh của các tín đổ Phật giáo, của ""đội quân tóc dài chống lại sự đàn áp của chính quyền Diệm. Ngày 8 - 5 - 1963, hai vạn tăng ni, Phật tủ ở Huế biểu tỉnh phán đối chính quyền Sài Gòn cấm treo cò Phật. Một làn sóng ủng hộ phong trào Phật tủ ở Huế lan rộng trong câ nước, nhất là ở Sài Gòn, Đà Nâng. Sự kiện Hoà thượng Thích Quâng Đúc tự thiêu tại Sài Gòn đề phán đối chính quyền Ngô Đỉnh Diệm đỡ gậy xúc động mạnh trong nhân dân. Ngày 16 - 6 - 1963, 70 vạn quân chúng Sài Gòn xuống đưòng biểu tỉnh chống Mĩ - Diệm, làm rung chuyển câ thành phố. Phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị cùng với phong trào phá ""ấp chiến lược ở nông thôn và những đòn tiên công liên tiêp của các lực lượng vũ trang cách mạng đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 1 - 11 - 1963, Mĩ giật dấy các tướng lĩnh trong quân đội Sài Gòn, do dương Văn Minh cấm đấu, làm cuộc đảo chính giết anh em Diệm - Nhu, với hi vọng ổn định tình hình đề đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Nhưng cuộc đảo chính đỡ làm cho chính quyền Sài Gòn lâm vào khủng hoâng triền miên. Chỉ trong vòng 18 tháng sau đó, liên tực diễn ra trên 10 cuộc đảo chính. Sau khi lên làm Tổng thống (thay G. Kennơđi bị ám sát ngày 22 - 11 - 1963), L. Giônxơn quyết định đẩy mạnh hơn nữa ""Chiến tranh đặc biệt"". Kế hoạch Giônxơn - Mác Namara thay thế kế hoạch Xtalấy - Taylo được vạch ra nhằm tăng cường viện trợ quân sự, ổn định chính quyền Sài Gòn, bình định miền Nam có trọng điểm trong 2 năm (1964 - 1965)." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965)."," Mặc dù vậy, từng mâng lớn ""ấp chiến lược của địch đỡ bị phá vỡ. Cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3 300 ấp (khoảng 1/5 số ấp dụ kiến), tới tháng 6 - 1965, giâm xuống múc thđp nhốt, chỉ còn kiểm soát 2 200 ấp. ""Ap chiến lược - xương sống của chiến lược ""Chiến tranh đạc biệt - đỡ bị phá sản về cơ bân. Vùng giâi phóng ngày càng mở rộng, trở thành hậu phương trục tiếp của cách mạng. Tại vùng giâi phóng, chính quyền cách mạng các cấp được thành lập, ruộng đất của Việt gian bị tịch thu được chia cho dân cày nghèo. Sau chiến thắng Ấp Bắc, Quân giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn. Cuối năm 1964, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công đông - xuân 1964 - 1965 với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giã.  Ngày 2 - 12 - 1964, Quân giải phóng mở trộn tiến công vào âp bình Giã (Bà Rị. Trong hơn 1 tháng, Quân giải phóng đỡ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 700 địch (trong đó có 60 cố vấn Mì), tịch thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, Quân giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiên công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), đồng Xoài (Bình Phước. Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc thiệt hại nặng. quân đội Sài Gòn, lực lượng nòng cốt của ""Chiến tranh đặc biệt"", không còn đủ sức đương đầu với các cuộc tiến công lớn của Quân giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt thất bại hoàn toàn." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,"Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn h6a dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)","Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế hoạt động của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo. Tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển. Đình làng, đền thờ mọc lên ở khắp các xóm làng. Giáo dục Nho học được củng cố. Năm 1807, đã diễn ra khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn và năm 1822, khoa thi Hội đầu tiên được tổ chức. Tuy nhiên, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều so với các thế kỉ trước. Văn học chữ Hán kém phát triển. Trong lúc đó, văn học chữ Nôm ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất hiện những tác phẩm văn học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, các bài thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Quốc sử quán được thành lập, chuyên sưu tầm, lưu trữ sử sách cổ và biên soạn các bộ sử chính thống. Nhiều nhà sử học cho ra đời các bộ sử, sách chuyên khảo như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Lịch triều tạp kỉ của Ngô Cao Lãng, gia đình thành thông chí của Trịnh Hoài Đức v.v... Nhiều tập địa chí địa phương được biên soạn. Về kiến trúc, nổi bật lên quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm. Rạp hát đầu tiên được xây dựng có sản khấu và phòng khán giả. Lị sở các tỉnh đều có thành luỹ xây theo kiểu Pháp cổ; nổi lên ở thành Hà Nội là cột cờ được xây dựng cao đẹp. Các ngành nghệ thuật dân gian tiếp tục phát triển theo các hình thức cũ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, nhân dân ta phát triển cuộc khởi nghĩa quần chúng lên chiến tranh cách mạng, chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Giữa lúc cách mạng ở hai miền Nam - Bắc có những bước tiến quan trọng, Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.  Đại hội họp từ ngày 5 đến 10 - 9 - 1960 ở Hà Nội. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Đại hội đề ra nhiêm vụ của cách mạng cả nước và cách mạng từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách mạng từng miền, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hoà bình thống nhất đất nước. Đối với miền Bắc, Đại hội khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. đề thực hiện mục tiêu trên, phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm xây dụng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nâng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nâng một cách hợp lí, đồng thời ra súc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng và kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng, bầu Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng, Lê Duẩn được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng là ""nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà""." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm là ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, tiếp tục công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiên một bước đời sông vật chất và văn hoá của nhân dân lao động, củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội. Trong tất cả các ngành, các giới đều dấy lên phong trào thi đua yêu nước sôi nổi: nông nghiệp có ""Đại Phong"", công nghiệp có ""Duyên Hải"", thủ công nghiệp có ""Thành Công"", quân đội có ""Ba nhất"", giáo dục có ""Hai tốt""... Ngành công nghiệp được ưu tiên đầu tư xây dựng. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN, từ năm 1961 đến năm 1964, vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho công nghiệp là 48%, trong đó công nghiệp nặng chiếm gần 80%. Giá trị sản lượng ngành công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với năm 1960. Trong những năm 1961 - 1965, 100 cơ sở sản xuất mới được xây dụng. Một số nhà máy cơ khí, điện nỡng được xây dụng hoặc mở rộng như Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy cơ khí Trân Hưng Đạo, Nhà máy xe đạpThống Nhốt, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Nhà máy điện Uống Bí, Khu Gang thép Thái Nguyên... các khu cống nghiệp Việt Trì, Thượng Đỉnh (Hà Nội), các nhà máy đường Vạn Điểm, Sống Lam, sú Hải dương, pin Vỡn Điển, dệt 8 - 3, dệt kim Đống Xuân, đỡ sản xuất nhiều mặt hàng phục vụ dân sinh và quốc phòng. Cống nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93% trong tổng giá trị sản lượng cống nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cống nghiệp nhẹ cùng với tiểu thủ cống nghiệp đỡ giải quyết được 80% hàng tiêu dùng thiết yêu cho nhân dân." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Sau phong trào ""Đồng khởi (1959 - 1960), nhân dân ta ở miền Nam tiếp tục nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Trong khi đó, trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ, trực tiếp đe doạ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. đề đối phó lại, G. Kennơđi, vừa lên làm Tổng thống nước Mĩ (đầu năm 1961), đã đề ra chiến lược toàn cầu ""Phản ứng linh hoạt và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam với chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"". ""Chiến tranh đặc biệt là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống ""cố vấn Mĩ, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của Mĩ trong chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt là ""dùng người Việt đánh người Việt"". Mĩ đề ra ""Kế hoạch Xtalấy - Taylo với nội dung chủ yếu là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Thực hiện kế hoạch, Mĩ tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Ngô Đình Diệm, tăng nhanh lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành dồn dân lập ""ấp chiến lược"", sử dụng phổ biến các chiến thuật mới ""trực thăng vận"", ""thiết xa vận"". Viện trợ quân sự của Mĩ tăng gấp đôi. Bộ Chỉ huy quân sự Mĩ (MACV) được thành lập tại Sài Gòn ngày 8 - 2 - 1962 thay cho Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG) thành lập năm 1950 đề trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở Việt Nam.  ""Ấp chiến lược (sau đó gọi là ""ấp tân sinh"") được Mĩ và chính quyền Sài Gòn coi như ""xương sống của ""Chiến tranh đạc biệt và nâng lên thành ""quốc sách"". Chúng coi việc lộp ""ấp chiến lược như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đấy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình ""bình định miền Nam. Chúng dụ định dồn 10 triệu nông dân vào 16 000 ấp trong tổng số 17 000 ấp toàn miền Nam. Được Mĩ hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn, quân đội Sài Gòn liên tiêp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiên hành những hoạt động phá hoại miền Bắc, phong toả biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiên Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội nảy sinh, biểu hiện bằng những cuộc bạo loạn và khởi nghĩa nông dân bùng phát trên phạm vi cả nước. Nền kinh tế tiểu nông cần được phát triển đã gặp phải trở lực lớn là chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiên lỗi thời. Yêu cầu lịch sử lúc này là thống nhất đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hoá và thị trường dân tộc phát triển, giải phóng sức sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Giữa lúc đó, các nước phương Tây trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa ráo riết bành trướng thế lực sang phương Đông. Sau một thời gian dài điều tra, tìm hiểu, tư bản Pháp đã tìm cách thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam, thông qua hoạt động của một số giáo sĩ trong Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp. Bằng nhiều thủ đoạn, chúng đã thiết lập những cơ sở chính trị, xã hội đầu tiên trên đất nước ta, dọn đường cho cuộc chiến tranh xâm lược sắp tới. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội nảy sinh, biểu hiện bằng những cuộc bạo loạn và khởi nghĩa nông dân bùng phát trên phạm vi cả nước. Nền kinh tế tiểu nông cần được phát triển đã gặp phải trở lực lớn là chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiên lỗi thời. Yêu cầu lịch sử lúc này là thống nhất đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hoá và thị trường dân tộc phát triển, giải phóng sức sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Giữa lúc đó, các nước phương Tây trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa ráo riết bành trướng thế lực sang phương Đông. Sau một thời gian dài điều tra, tìm hiểu, tư bản Pháp đã tìm cách thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam, thông qua hoạt động của một số giáo sĩ trong Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp. Bằng nhiều thủ đoạn, chúng đã thiết lập những cơ sở chính trị, xã hội đầu tiên trên đất nước ta, dọn đường cho cuộc chiến tranh xâm lược sắp tới. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Giữa thế kỉ XIX, Pháp mới có điều kiện tập trung lực lượng, tổ chức cuộc tấn công đánh chiếm Việt Nam. Ngày 1 - 9 -1858, liên quân Pháp -Tây Ban Nha nổ súng đánh vào cửa biển Đà Nang, mở đầu cuộc chiên tranh xâm lược. Do thiếu đường lối chỉ đạo đúng đắn và quyết tâm kháng chiến của triều đình nhà Nguyễn, cuối cùng Việt Nam đã rơi vào tay thực dân Pháp. Hiệp ước ngày 6 -6 -1884 (Hiệp ước Patơnốt) là hiệp ước cuối cùng, đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình phong kiến nước ta trước thế lực xâm lăng, kết thúc giai đoạn tồn tại của Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập. Trái ngược với thái độ của triều đình Huế, ngay từ đầu nhân dân Việt Nam đã đứng dậy chiến đấu chống Pháp. Cuộc chiến tranh nhân dân bền bỉ, dẻo dai, đều khắp, với tinh thần dũng cảm vô song... đã khiến thực dân Pháp phải chịu nhiều tổn thất, phải mất hơn 26 năm chúng mới hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược và còn phải mất thêm 11 năm nữa để tiên hành cuộc bình định quân sự mới tạm thời thiết lập được nền thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỉ XIX, cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp của nhân dân ta tiếp tục nổ ra. Tháng 7 -1885, phong trào Cần vương được phát động, kéo dài đến năm 1896 mới chấm dứt. Cùng lúc với phong trào Cần vương, phong trào đấu tranh tự vệ ở các địa phương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, là biểu hiện cụ thể, sinh động tinh thần quật khởi, bất khuất của nhân dân ta. Mặc dù thất bại, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yêu là thiếu một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực lãnh đạo, phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đã đánh một mốc son trong trang sử chống ngoại xâm của dân tộc ta và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Từ năm 1897, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa cuối cùng trong phong trào Cần vương là khởi nghĩa Hương Khê và tiến hành giảng hoà với Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa quy mô, có hệ thống trên toàn cõi Đông Dương. Việt Nam dần dần trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến và bị biến thành nơi cung cấp sức người, sức của rẻ mạt cho Pháp. Để đảm bảo lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp đặt thêm nhiều thứ thuế mới, nặng hơn các thứ thuế của triều đình Huế trước kia. Chúng ra sức kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, cột chặt nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế chính quốc. Tuy nhiên, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp cũng làm nảy sinh những nhân tố mới, ngoài ý muốn của chúng. Vào đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã xuất hiện những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, dù còn non yêu. Thành thị mọc lên. Một số cơ sở công nghiệp ra đời. Cơ cấu xã hội biến động, một số tầng lớp mới xuất hiện. Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì này vẫn đang trong giai đoạn tự phát. Tư sản và tiểu tư sản thành thị lớn lên cùng với sự nảy sinh các nhân tố mới, song vẫn chưa trở thành giai cấp thực thụ. Mặc dù vậy, các tầng lớp xã hội này, đặc biệt là bộ phận sĩ phu đang trên con đường tư sản hoá, đã đóng một vai trò khá quan trọng trong việc tiếp thu những luồng tư tưởng mới để dấy lên một cuộc vận động yêu nước tiến bộ, mang màu sắc dân chủ tư sản ở nước ta hồi đầu thế kỉ XX. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),Bài 25: Sơ kết lịch sử Việt Nam (1858-1918),"Cuối thế kỉ XIX, ngọn cờ phong kiến đã tỏ ra lỗi thời. Giữa lúc đó, trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản bắt đầu dội vào Việt Nam qua Nhật Bản, Trung Quốc và Pháp. Đang trong lúc bế tắc về tư tưởng, các sĩ phu yêu nước Việt Nam thời đó đã hổ hởi đón nhận những ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới. Họ cổ xúy cho ""văn minh tân học"" và mở cuộc vận động đổi mới trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá. Tuy nhiên, do tầm nhìn hạn chế và có những trở lực không thể vượt qua, cuối cùng cuộc vận động yêu nước của các sĩ phu đầu thế kỉ XX đã thất bại. Những cố gắng đáng khâm phục của họ chỉ mới tạo ra được một cuộc vận động theo khuynh hướng dân chủ tư sản chứ chưa có khả năng làm bùng nổ một cuộc cách mạng tư sản thực sự ở nước ta. Bên cạnh cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản như Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân..., trong hơn 10 năm đầu thế kỉ XX vẫn tiếp tục bùng nổ phong trào đấu tranh của nông dân, điển hình là khởi nghĩa Yên Thế và các cuộc nổi dậy của đổng bào các dân tộc thiểu số. Trong những năm Chiến tranh thệ giới thứ nhất, phong trào cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Nhiều cuộc đấu tranh, nhất là các cuộc đấu tranh của nông dân và binh lính, bị mất phương hướng, bị đàn áp đẫm máu và thất bại nhanh chóng. Chính trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước mới. Những hoạt động của Người trong thời kì này là cơ sở quan trọng để Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965)."," Mặc dù vậy, từng mảng lớn ""ấp chiến lược"" của địch đã bị phá vỡ. Cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3 300 ấp (khoảng 1/5 số ấp dự kiến), tới tháng 6 - 1965,giảm xuống mức thấp nhất, chỉ còn kiểm soát 2 200 ấp. ""Ấp chiến lược""- xương sống của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"" - đã bị phá sản về cơ bản. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, trở thành hậu phương trực tiếp của cách mạng. Tại vùng giải phóng, chính quyền cách mạng các cấp được thành lập, ruộng đất của Việt gian bị tịch thu được chia cho dân cày nghèo. Sau chiến thắng Ấp Bắc, Quân giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn. Cuối năm 1964, quân và dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công đông - xuân 1964 - 1965 với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giã. Ngày 2 - 12 - 1964, Quân giải phóng mở trộn tiến công vào ấp Bình Giã (Bà Rị). Trong hơn 1 tháng, Quân giải phóng đỡ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 700 địch (trong đó có 60 cố vấn Mỹ), tịch thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Thừa thắng sau chiến thắng Bình Giã, Quân giải phóng và nhân dân miền Nam đẩy mạnh tiến công xuân - hè 1965 và giành nhiều thắng lợi trong các chiến dịch An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước). Từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt gọn hoặc thiệt hại nặng. quân đội Sài Gòn, lực lượng nòng cốt của ""Chiến tranh đặc biệt"", không còn đủ sức đương đầu với các cuộc tiến công lớn của Quân giải phóng và đứng trước nguy cơ tan rã. Chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt thất bại hoàn toàn." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 25: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1961-1965).","Sau phong trào ""Đồng khởi (1959 - 1960)"", nhân dân ta ở miền Nam tiếp tục nổi dậy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Trong khi đó, trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ, trực tiếp đe doạ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Để đối phó lại, G. Kennơđi, vừa lên làm Tổng thống nước Mĩ (đầu năm 1961), đã đề ra chiến lược toàn cầu ""Phản ứng linh hoạt và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam"" với chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"". ""Chiến tranh đặc biệt"" là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mĩ, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của Mĩ trong chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"" là ""dùng người Việt đánh người Việt"". Mĩ đề ra ""Kế hoạch Xtalấy - Taylo"" với nội dung chủ yếu là bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Thực hiện kế hoạch, Mĩ tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Ngô Đình Diệm, tăng nhanh lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành dồn dân lập ""ấp chiến lược"", sử dụng phổ biến các chiến thuật mới ""trực thăng vận"", ""thiết xa vận"". Viện trợ quân sự của Mĩ tăng gấp đôi. Bộ Chỉ huy quân sự Mĩ (MACV) được thành lập tại Sài Gòn ngày 8 - 2 - 1962 thay cho Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG) thành lập năm 1950 để trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ấp chiến lược (sau đó gọi là ""ấp tân sinh"") được Mĩ và chính quyền Sài Gòn coi như ""xương sống"" của ""Chiến tranh đặc biệt"" và nâng lên thành ""quốc sách"". Chúng coi việc lập ""ấp chiến lược"" như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình ""bình định miền Nam"". Chúng dự định dồn 10 triệu nông dân vào 16 000 ấp trong tổng số 17 000 ấp toàn miền Nam. Được Mĩ hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn, quân đội Sài Gòn liên tiêp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành những hoạt động phá hoại miền Bắc, phong toả biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Đất nước trở lại thống nhất, tạm thời yên bình dưới sự thống trị của một nhà nước mới. Nhưng những thể chế cũ của chế độ phong kiến vẫn được duy trì, không tạo điềư kiện vượt qua khủng hoàng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng thệm khổ cực. Mâư thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân trở nên gay gắt, gây nên hàng trăm cưộc khởi nghĩa chống phong kiến kéo dài cho đến giữa thế kỉ XIX" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XVIII đã khiến nhà nước quân chủ phong kiến thời Nguyễn tăng thệm tính chuyện chế, củng cố quan hệ sản xuất phong kiến. Xã hội chia thành hai giai cấp: giai cấp thống trị bao gồm vua quan và địa chủ, cường hào; giai cấp bị trị bao gồm các tầng lớp nhân dân lao động mà tuyệt đại đa số là nông dân. Nhà Nguyễn cố gắng hoàn chỉnh bộ máy thống trị nhằm ổn định tình hình xã hội nhưng không ngăn chặn được sự phát triển của tệ tham quan ô lại. Nhân dân có câu: Con oi, mẹ bảo con này, Cướp đểm là giặc, cướp ngày là quan. Không chỉ có nhân dân than thở: ""Muốn nói gian làm quan mà nói hay ""quan tha, nha bắt""... mà cả vua Minh Mạng cũng bất bình, đã từng nhận xét: bọn quan lại ""xem pháp luật như hư văn, xoay xở nhiều vành, chỉ cốt lấy tiền, không được thì buộc tội"". Ở nông thôn, địa chủ cường hào lại tiếp tục hoành hành, ức hiếp nhân dân. Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tâu với vua: ""Cái hại quan lại là một, hai phần, còn cái hại cường hào đến 8, 9 phần"". Nhà nước chia vùng để đánh thuế, mức thuê' khá nặng. Tô tức của địa chủ cũng khá cao. Mỗi năm người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch. Bên cạnh đó,các vua Nguyễn còn tập trung sức dân, của cải xây dựng kinh thành, cung điện ở Phú Xuân, phá dỡ cung điện vua Lê à Hà Nội chuyển vào, điều động hàng nghìn dân đính, binh lính Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc thành vào làm trong hàng chục năm. Theo sử cũ, trong một lần tuần du ra Bắc, vua Thiệu Trị đã bắt nhân dân xây dựng 44 hành cung ở dọc đưòng để vua nghỉ. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Không những thế, thiên tai, mất mùa, đói kém lại thường xuyên xảy ra. Có năm bão lụt lớn làm đổ hàng vạn nhà dân, hàng ngàn người chết. Có năm nạn dịch lan tràn làm hàng chục vạn người chết. Một bài vè đương thời có câu: Xác đầy nghĩa địa Thây thôi hện cầu Trời ảm đạm u sầu Cảnh hoang tàn đói rét. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Những cuộc khỏi nghĩa nông dân đã nổ ra từ đầu thế kỉ XIX và tiếp tục phát triển rầm rộ ở khấp nước cho đến giữa thế kỉ XIX. sử cũ ghi lại có hơn 400 cuộc khởi nghĩa như vậy. Tiêu biểu và rộng lớn nhất trong phong trào nông dân là các cuộc khởi nghĩa do Phan Bá Vành và do Cao Bá Qucát lãnh đạo. Khởi nghĩa do Phan Bá Vành lãnh đạo nổ ra vào năm 1821 ở Sơn Nam hạ (Nam Định, Thái Bình...) mở rộng hoạt động ra các trấn Hải Dương, An Quảng. Nông dân tham gia đông đảo. Dân gian có câu: Trên trời có ông sao Tua, Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành. Triều đình đã huy động một lực lượng quán sự I611 tấn công đàn áp trong nhiều năm và đến năm 1827, cuộc khởi nghĩa bị đẹp yên. Làng Trà Lũ (Nam Định) bị phá trụi, 7000 - 8000 người bị bắt. Cuộc khởi nghĩa do Cao Bá Quát lãnh đạo bùng lên ở vùng ứng Hoà (Hà Tây) năm 1854, mở rộng hoạt động ra các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, nhung do chưa chuẩn bị đủ lực lượng nên năm 1855 đã bị triều đình đàn áp. Trong quá trình đàn áp các cuộc khởi nghĩa theo lệnh của triều đình Nguyễn, nhiều binh sĩ bất bình, đã có lúc chống đối. Năm 1833, ở Phiên An (Gia Định) đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của binh lính do Lê Văn Khôi lãnh đạo. Được sự hưởng ứng của binh lính và nông dân nhiều nơi, nghĩa quân đã có lúc làm chủ cả các tỉnh thuộc Nam Bộ ngày nay, nhưng đến năm 1835 thì bị đàn áp. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Ở nửa đầu thế kỉ XIX, các dân tộc ít người ở phía bắc cũng nhu' phía nam nhiều lần nổi dậy chống chính quyền. Ở phía bắc, nổi lên cuộc khởi nghĩa của người Tày ở Cao Bằng dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Ván vào các năm 1833 - 1835, của người Mường ở Hoà Bình và Tây Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng họ Quách với danh nghĩa ""phù Lê vào các năm 1832 - 1838. Ở vùng Tây Nam Kì, trong các năm 1840 - 1848, nhiều cuộc khởi nghĩa của người Khơ-me đã nổ ra, gây nhiều khó khăn cho sự thống trị của nhà Nguyễn. Phong trào đấu tranh của nhân dân chỉ tạm lắng xuống khi thực dân Pháp bắt đầu có những hành động chuẩn bị xâm lược nước ta." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Sau thất bại của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"", Mĩ tiến hành chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam"" và mở rộng chiến tranh không quân, hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất). Giai đoạn này, cả nước có chiến tranh, nhân dân hai miền trực tiếp đánh Mĩ: miền Nam chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ""; miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, tiếp tục sản xuất, xây dựng trong chiến tranh và làm nghĩa vụ hậu phương kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Sau thất bại của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"", Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, chuyển sang chiến lược ""Chiến tranh cục bộ"" và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. ""Chiến tranh cục bộ bắt đầu từ giữa năm 1965, là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, quânĐồng minh của Mr(1) và quân đội Sài Gòn, lúc cao nhất (vào năm 1969) gần 1,5 triệu quân, trong đó quân Mĩ chiếm hơn nửa triệu, quânĐồng minh 7 vạn. Với chiến lược ""Chiến tranh cục bộ"", Mĩ âm mưu nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lục và hoâ lục để có thể áp đảo quân chủ lục của ta bằng chiến lược quân sự mới ""tìm diệt"", cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đây lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngụ, buộc ta phải phân tán đánh nhỏ, hoặc rút về biên giới, làm cho chiến tranh tàn lụi dân. Dựa vào ưu thể quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, quân Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho mở ngay cuộc hành quân ""tìm diệt vào căn cứ của Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiêp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông - xuân) 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân ""tìm diệt và ""bình định vào vùng ""Đất thánh Việt Cộng""." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, gồm Mĩ, đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn, với vũ khí hiện đại. Nhưng với ý chí không gì lay chuyển ""Quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược"", được sự phối hợp chiến đấu và chi viện của miền Bắc, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng chiến đấu, với các thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi). (1) Từ mà Mĩ và chính quyền Sài Gòn gọi vùng đất do cách mạng nắm giữ. Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9 000 quân, nhiều xe tăng, xe bọc thép, máy bay, tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đỡ đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và máy bay. Vạn Tường được coi là ""Ấp Bắc đối với quân Mĩ và quânĐồng minh, mở đầu cao trào ""Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt trên khắp miền Nam. Nhiều ""Vành đai diệt Mĩ xuất hiên như ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)... Một phong trào thi đua trở thành ""Dũng sĩ diệt Mĩ và Đơn vị anh hùng diệt Mĩ diễn ra sôi nổi khắp nơi. Sau trận Vạn Tường, khả năng đánh thắng Mĩ trong ""Chiến tranh cục bộ của quân dân ta còn tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô. Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966) với 720 000 quân, trong đó Mĩ và Đồng minh có hơn 220 000, địch mở đợt phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân ""tìm diệt lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Liên khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực Quân giải phóng. Quân dân ta trong thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, chủ động tiến công địch khắp mọi nơi. Trong 4 tháng mùa khô (tù tháng 1 - 1966), trên toàn miền Nam, quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 địch, trong đó có 42 000 quân Mĩ, 3 500 quân đồng minh, bắn rơi 1 430 máy bay." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, gồm Mĩ, đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn, với vũ khí hiện đại. Nhưng với ý chí không gì lay chuyển ""Quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược"", được sự phối hợp chiến đấu và chi viện của miền Bắc, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng chiến đấu, với các thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi). (1) Từ mà Mĩ và chính quyền Sài Gòn gọi vùng đất do cách mạng nắm giữ. Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9 000 quân, nhiều xe tăng, xe bọc thép, máy bay, tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và máy bay. Vạn Tường được coi là ""Ấp Bắc đối với quân Mĩ và quânĐồng minh, mở đầu cao trào ""Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt trên khắp miền Nam. Nhiều ""Vành đai diệt Mĩ xuất hiên như ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)... Một phong trào thi đua trở thành ""Dũng sĩ diệt Mĩ và Đơn vị anh hùng diệt Mĩ diễn ra sôi nổi khắp nơi. Sau trận Vạn Tường, khả năng đánh thắng Mĩ trong ""Chiến tranh cục bộ của quân dân ta còn tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô. Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966) với 720 000 quân, trong đó Mĩ và Đồng minh có hơn 220 000, địch mở đợt phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân ""tìm diệt lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Liên khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực Quân giải phóng. Quân dân ta trong thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, chủ động tiến công địch khắp mọi nơi. Trong 4 tháng mùa khô (tù tháng 1 - 1966), trên toàn miền Nam, quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 địch, trong đó có 42 000 quân Mĩ, 3 500 quân đồng minh, bắn rơi 1 430 máy bay." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, gồm Mĩ, đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn, với vũ khí hiện đại. Nhưng với ý chí không gì lay chuyển ""Quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược"", được sự phối hợp chiến đấu và chi viện của miền Bắc, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng chiến đấu, với các thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi). (1) Từ mà Mĩ và chính quyền Sài Gòn gọi vùng đất do cách mạng nắm giữ. Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9 000 quân, nhiều xe tăng, xe bọc thép, máy bay, tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đỡ đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và máy bay. Vạn Tường được coi là ""Ấp Bắc"" đối với quân Mĩ và quân Đồng minh, mở đầu cao trào ""Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt trên khắp miền Nam. Nhiều ""Vành đai diệt Mĩ xuất hiên như ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)... Một phong trào thi đua trở thành ""Dũng sĩ diệt Mĩ và Đơn vị anh hùng diệt Mĩ diễn ra sôi nổi khắp nơi. Sau trận Vạn Tường, khả năng đánh thắng Mĩ trong ""Chiến tranh cục bộ của quân dân ta còn tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô. Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966) với 720 000 quân, trong đó Mĩ và Đồng minh có hơn 220 000, địch mở đợt phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân ""tìm diệt lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Liên khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực Quân giải phóng. Quân dân ta trong thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, chủ động tiến công địch khắp mọi nơi. Trong 4 tháng mùa khô (tù tháng 1 - 1966), trên toàn miền Nam, quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 địch, trong đó có 42 000 quân Mĩ, 3 500 quân đồng minh, bắn rơi 1 430 máy bay." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 98 vạn quân, trong đó Mĩ và Đồng minh có hơn 44 vạn, chúng mở đợt phản công với 895 cuộc hành quân, có ba cuộc hành quân lớn ""tìm diệt và ""bình định"", lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta. Cùng với những cuộc chủ động tiến công địch trên chiến trường Trị - Thiên, Đường số 9..., quân dân ta mở hàng loạt trận phản công đánh bại các cuộc hành quân ""tìm diệt và ""bình định của địch. Trong mùa khô thú hai, trên toàn miền Nam, quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 151000 tên địch, trong đó có 68 000 quân Mĩ, 5 500 quân đồng minh, bắn rơi 1 231 máy bay. ở hầu khắp các vùng nông thôn, quần chúng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng ""ấp chiến lược"". Trong hầu khắp các thành thị, công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, một số binh sĩ quân đội Sài Gòn... đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đến cuối năm 1967, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam có cơ quan thường trực ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước thuộc ""thế giới thứ ba"". Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ. Trong khi đó, đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ngày càng bị cô lập trên trường quốc tế. Năm 1967, theo sáng kiến của nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen, Toà án Quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam và Đông Dương được thành lập, tội ác chiến tranh của Mĩ bị vạch trần." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quânĐồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30 - 1 đến 25 - 2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9 - 1968. Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quân lị, ở hâu khắp các ""ấp chiến lược và các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch như Toà Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, quân dân ta đỡ loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá huỷ một khối lượng lớnvật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ, cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị, được thành lập. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và Đồng minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ Quân giải phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng trước đây, nay lại bị địch chiếm. Có hạn chế đó là do ta ""Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm hay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta .  Mặc dù có những tổn thất và hạn chế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn, đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố ""phi Mĩ hoá chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Chiến tranh cục bộ""), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bướcngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quâ nĐồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30 - 1 đến 25 - 2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9 - 1968. Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quân lị, ở hâu khắp các ""ấp chiến lược và các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch như Toà Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, quân dân ta đỡ loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá huỷ một khối lượng lớnvật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ, cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị, được thành lập. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và Đồng minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ Quân giải phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng trước đây, nay lại bị địch chiếm. Có hạn chế đó là do ta ""Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm hay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta .  Mặc dù có những tổn thất và hạn chế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn, đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố ""phi Mĩ hoá chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Chiến tranh cục bộ""), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bướcngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quânĐồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30 - 1 đến 25 - 2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9 - 1968. Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quân lị, ở hâu khắp các ""ấp chiến lược và các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch như Toà Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, quân dân ta đỡ loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá huỷ một khối lượng lớnvật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ, cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị, được thành lập. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và Đồng minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ Quân giải phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng trước đây, nay lại bị địch chiếm. Có hạn chế đó là do ta ""Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm hay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta .  Mặc dù có những tổn thất và hạn chế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn, đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố ""phi Mĩ hoá chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Chiến tranh cục bộ""), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Cuối năm 1964 - đầu năm 1965, đồng thời với đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc. Ngày 5 - 8 - 1964, sau khi dựng lên ""sựkiện Vịnh Bắc Bộ"", Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hoá), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh). Ngày 7 - 2 - 1965, lấy cổ ""trả đũa việc Quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại quân Mĩ ở Plâyku, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hổi (Quảng Bình), đảo Cổn Cỏ (Vĩnh Linh) v.v..., chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất). Tiến hành chiến tranh phá hoại, Mĩ âm mưu phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân ta ở hai miền đất nướcc.  Mĩ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau, cả những loại mớinhất, như F111, B52... và các loại vũ khí hiện đại. Không quân và hải quân Mĩ tập trung đánh vào các mục tiêu quân sự, các đầu mới giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi, khu đông dân. Chúng đánh cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền, chùa, nhà thờ. Máy bay, tàu chiến Mĩ ném bom, bắn phá liên tục, khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi thời tiết, với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày có 300 lần chiếc máy bay Mĩ đi gây tội ác với 1 600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá. Bom đạn của chúng đã cướp đi biết bao sinh mạng và gây thương tích cho bao nhiêu người khác. Bom đạn của chúng đã tàn phá biết bao của cải, cơ sở kinh tế, công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã tạo nên trong hơn 10 năm Trướcđó." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Ngay từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hoá toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh; triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của. Chống lại những hành động phá hoại của địch là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân, hải quân với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, của cả lực lượng tự vệ, dân quân và toàn dân với vũ khí thông thường. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu. Khi bình thường thì toàn dân sản xuất. Trong sản xuất xây dựng kinh tế, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh và tăng khả năng đảm bảo yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống nhân dân các địa phương. Trong chiến đấu và sản xuất, trên miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí ""Không có gì quý hơn độc lập, tự do"". Qua phong trào thi đua, quân dân ta tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc giàu truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu thông minh, dũng cảm, đã lập được thành tích to lớn trong chiến đấu và sản xuất. Trong hơn 4 năm (tù ngày 5 - 8 - 1964 đến ngày 1 - 11 - 1968), miền Bắc bân rơi, phá huỷ 3 243 máy bay, trong đó có 6 B52, 3 F111; bân cháy, bân chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 - 1968, Mĩ tuyên bố ngừng hẳn chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng. Trong nông nghiệp, diên tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt ""3 mục tiêu (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diên tích gieo trồng trong 1 năm). Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta gieo trồng trong 1 năm; đến năm 1967, tăng lên 30 huyện và 2 485 hợp tác xã. Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng đều phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh. Giao thông vận tải là một trong những trọng điểm bắn phá của địch, được quân và dân ta bảo đảm thường xuyên thông suốt. Văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, văn học, nghệ thuật cũng phát triển mạnh, đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Ngay từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hoá toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh; triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của. Chống lại những hành động phá hoại của địch là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân, hải quân với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, của cả lực lượng tự vệ, dân quân và toàn dân với vũ khí thông thường. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu. Khi bình thường thì toàn dân sản xuất. Trong sản xuất xây dựng kinh tế, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh và tăng khả năng đảm bảo yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống nhân dân các địa phương. Trong chiến đấu và sản xuất, trên miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí ""Không có gì quý hơn độc lập, tự do"". Qua phong trào thi đua, quân dân ta tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc giàu truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu thông minh, dũng cảm, đã lập được thành tích to lớn trong chiến đấu và sản xuất. Trong hơn 4 năm (từ ngày 5 - 8 - 1964 đến ngày 1 - 11 - 1968), miền Bắc bân rơi, phá huỷ 3 243 máy bay, trong đó có 6 B52, 3 F111; bân cháy, bân chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 - 1968, Mĩ tuyên bố ngừng hẳn chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng. Trong nông nghiệp, diên tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt ""3 mục tiêu (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diên tích gieo trồng trong 1 năm). Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta gieo trồng trong 1 năm; đến năm 1967, tăng lên 30 huyện và 2 485 hợp tác xã. Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng đều phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh. Giao thông vận tải là một trong những trọng điểm bắn phá của địch, được quân và dân ta bảo đảm thường xuyên thông suốt. Văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, văn học, nghệ thuật cũng phát triển mạnh, đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu ""Mỗi người làm việc bằng hai"". Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại ""Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"".   Từ năm 1959, tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ (dọc theo dãy núi Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển) bắt đầu khai thông, dài hàng nghìn cây số, đã nối liền hậu phương với tiền tuyên. Qua hai tuyên đường vận chuyển chiến lược đó, trong 4 năm (1965 - 1968) miền Bắc đã đưa hơn 300 000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đâu, phục vụ chiến đâu, xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng; hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung, sức người, sức của từ Bắc chuyển vào Nam trong 4 năm đã tăng gặp 10 lần so với giai đoạn trước. nguồn chi viên cùng với thắng lợi trong chiến đấu và sản xuất của quân dân miền Bắc đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam trong chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ của Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Không những thế, thiên tai, mất mùa, đói kém lại thường xuyên xảy ra. Có năm bão lụt lớn làm đổ hàng vạn nhà dân, hàng ngàn người chết. Có năm nạn dịch lan tràn làm hàng chục vạn người chết. Một bài vị đương thời có câu: Xác đầy nghĩa địa Thấy thôi hẹn cầu Trời ảm đạm u sầu Cảnh hoang tàn đói rét. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân,"Những cuộc khỏi nghĩa nông dân đã nổ ra từ đầu thế kỉ XIX và tiếp tục phát triển rầm rộ ở khấp nước cho đến giữa thế kỉ XIX. sử cũ ghi lại có hơn 400 cuộc khởi nghĩa như vậy. Tiêu biểu và rộng lớn nhất trong phong trào nông dân là các cuộc khởi nghĩa do Phan Bá Vành và do Cao Bá Qucát lãnh đạo. Khởi nghĩa do Phan Bá Vành lãnh đạo nổ ra vào năm 1821 ở Sơn Nam hạ (Nam Định, Thái Bình...) mở rộng hoạt động ra các trấn Hải dương, An Quảng. Nông dân tham gia đông đảo. Dân gian có cầu: Trên trời có ông sao Tua, Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành. Triều đình đã huy động một lực lượng quán sự I611 tấn công đàn áp trong nhiều năm và đến năm 1827, cuộc khởi nghĩa bị đẹp yên. Làng Trà Lũ (Nam Định) bị phá trụi, 7000 - 8000 người bị bắt. Cuộc khởi nghĩa do Cao Bá Quát lãnh đạo bùng lên ở vùng ứng Hoà (Hà tây) năm 1854, mở rộng hoạt động ra các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, nhung do chưa chuẩn bị đủ lực lượng nên năm 1855 đã bị triều đình đàn áp. Trong quá trình đàn áp các cuộc khởi nghĩa theo lệnh của triều đình Nguyễn, nhiều binh sĩ bất bình, đã có lúc chống đối. Năm 1833, ở Phiên An (Gia Định) đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của binh lính do Lê Văn Khôi lãnh đạo. Được sự hưởng ứng của binh lính và nông dân nhiều nơi, nghĩa quân đã có lúc làm chủ cả các tỉnh thuộc Nam Bộ ngày nay, nhưng đến năm 1835 thì bị đàn áp. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, gồm Mĩ, đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn, với vũ khí hiện đại. Nhưng với ý chí không gì lay chuyển ""Quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược"", được sự phối hợp chiến đấu và chi viện của miền Bắc, quân dân ta ở miền Nam đã anh dũng chiến đấu, với các thắng lợi mở đầu ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi). (1) Từ mà Mĩ và chính quyền Sài Gòn gọi vùng đất do cách mạng nắm giữ. Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9 000 quân, nhiều xe tăng, xe bọc thép, máy bay, tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tưòng nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đỡ đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và máy bay. Vạn Tường được coi là ""Ấp Bắc đối với quân Mĩ và quân đồng minh, mở đầu cao trào ""Tìm Mĩ mà đánh, lùng nguỵ mà diệt trên khắp miền Nam. Nhiều ""Vành đai diệt Mĩ xuất hiện như ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)... Một phong trào thi đua trở thành ""Dũng sĩ diệt Mĩ và Đơn vị anh hùng diệt Mĩ diễn ra sôi nổi khắp nơi. Sau trận Vạn Tường, khả năng đánh thắng Mĩ trong ""Chiến tranh cục bộ của quân dân ta còn tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô. Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966) với 720 000 quân, trong đó Mĩ và đồng minh có hơn 220 000, địch mở đợt phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân ""tìm diệt lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Liên khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực Quân giải phóng. Quân dân ta trong thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, chủ động tiến công địch khắp mọi nơi. Trong 4 tháng mùa khô (từ tháng 1 - 1966), trên toàn miền Nam, quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 địch, trong đó có 42 000 quân Mĩ, 3 500 quân đồng minh, bắn rơi 1 430 máy bay." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đến 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu quân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30 - 1 đến 25 - 2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9 - 1968. Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dấy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quân lị, ở hầu khắp các ""ấp chiến lược và các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch như Toà Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sản bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, quân dân ta đỡ loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá huỷ một khối lượng lớn vật chốt và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu quân năm 1968 có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ, cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị, được thành lập. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu quân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và đồng minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ Quân giải phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng trước đấy, nay lại bị địch chiếm. Có hạn chế đó là do ta ""Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhốt là sau đợt tiến công Tết Mậu quân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm hay đề đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta .  Mặc dù có những tổn thất và hạn chế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu quân vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn, đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyến bố""phi Mĩ hoá chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Chiến tranh cục bộ""), chấm dứt không điều kiên chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phánở Pari đề bàn về chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Ngay từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hoá toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh; triệt đề sơ tán, phán tán những nơi đông dân đề tránh thiệt hại về người và của. Chống lại những hành động phá hoại của địch là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân, hải quân với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, của cả lực lượng tự vệ, dân quân và toàn dân với vũ khí thông thường. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu. Khi bình thường thì toàn dân sản xuất. Trong sản xuất xây dựng kinh tế, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh và tăng khả năng đảm bảo yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống nhân dân các địa phương. Trong chiến đấu và sản xuất, trên miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí ""Không có gì quý hơn độc lập, tự do"". Qua phong trào thi đua, quân dân ta tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc giàu truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu thông minh, dũng cảm, đã lập được thành tích to lớn trong chiến đấu và sản xuất. Trong hơn 4 năm (từ ngày 5 - 8 - 1964 đến ngày 1 - 11 - 1968), miền Bắc bân rơi, phá huỷ 3 243 máy bay, trong đó có 6 B52, 3 F111; bân cháy, bân chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 - 1968, Mĩ tuyến bốngùng hẳn chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng. Trong nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt ""3 mục tiêu (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 héc ta diện tích gieo trổng trong 1 năm). Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 héc ta gieo trổng trong 1 năm; đến năm 1967, tăng lên 30 huyện và 2 485 hợp tác xã. Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phán tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yêu nhất của chiến đấu, sản xuất và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng đều phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh. Giao thông vận tài là một trong những trọng điểm bắn phá của địch, được quân và dân ta bảo đảm thường xuyên thông suốt. Văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, văn học, nghệ thuật cũng phát triển mạnh, đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Sau thất bại của chiến lược ""Chiến tranh đặc biệt"", Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, chuyển sang chiến lược ""Chiến tranh cục hộ và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. ""Chiến tranh cục bộ bắt đầu từ giữa năm 1965, là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiên hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, quân đồng minh của Mr(1) và quân đội Sài Gòn, lúc cao nhất (vào năm 1969) gần 1,5 triệu quân, trong đó quân Mĩ chiếm hơn nửa triệu, quân đồng minh 7 vạn. Với chiến lược ""Chiến tranh cục bộ"", Mĩ âm mưu nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hoâ lực đề có thể áp đảo quân chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới ""tỉm diệt"", cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đấy lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngụ, buộc ta phâi phán tán đánh nhỏ, hoặc rút về biên giới, làm cho chiến tranh tàn lụi dân. Dựa vào ưu thể quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, quân Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho mở ngay cuộc hành quân ""tìm diệt vào căn cứ của Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiêp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông - xuân) 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân ""tìm diệt và ""bình định vào vùng ""Đất thánh Việt Cộng""." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 26: Chiến đấu chống chiến lược ""Chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ (1965-1968).","Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quânĐồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra qua ba đợt: từ 30 - 1 đến 25 - 2; tháng 5 và 6; tháng 8 và 9 - 1968. Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quân lị, ở hâu khắp các ""ấp chiến lược và các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch như Toà Đại sứ Mĩ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, quân dân ta đỡ loại khỏi vòng chiến đấu 147 000 địch, trong đó có 43 000 lính Mĩ, phá huỷ một khối lượng lớnvật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ, cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị, được thành lập. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và Đồng minh, gần 1 triệu quân Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công quân ta ở cả thành thị và nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và ủng hộ Quân giải phóng trước đó bị bắt hoặc bị giết hại. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng trước đây, nay lại bị địch chiếm. Có hạn chế đó là do ta ""Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm hay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, ta chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta .Mặc dù có những tổn thất và hạn chế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân vẫn có ý nghĩa hết sức to lớn, đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố ""phi Mĩ hoá chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Chiến tranh cục bộ""), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Sự phát triển và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến đã dẫn đến sự suy thoái của nhà nước quân chủ trung ương tập quyển, cuộc sống khó khăn của nhân dân và sự hình thành các thế lực phong kiến riêng rẽ. Chiến tranh phong kiến bùng nổ và kéo dài trong nhiều thập kỉ, cuối cùng đã tạo nên sự chia cắt đất nước thành hai miền: Đàng Ngoài và Đàng Trong với hai chính quyền khác nhau. Nền quân chủ không còn vững chắc như trước. Nền kỉnh tế sau một thời gian khủng hoảng, đến thế kỉ XVII thì phục hồi. Nông nghiệp Đàng Ngoài từng bước ổn định, trong lúc đó ở Đàng Trong, do lãnh thổ được mở rộng dần vào phía nam, nông nghiệp phát triển nhanh chóng. Đất Gia Định (Nam Bộ) trở thành một ""vựa thóc lớn"". Từ đầu thế kỉ XVII, kỉnh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng với việc mở rộng ngoại thương. Số lượng sản phẩm thủ công ngày càng gia tăng và trở thành những mặt hàng hấp dẫn thương nhân nước ngoài. Sự phát triển của kỉnh tế hàng hoá đã tạo cơ sở cho sự hình thành và hưng khởi của các đô thị như Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến, Hội An... Văn hoá dân gian phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ thế kỉ XVIII, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ, trong lúc các chính quyền ở cả hai miền lại thiếu quan tâm đến đời sống của nông dân. Cuộc khủng hoảng xã hội diễn ra vào giữa thế kỉ XVIII với những phong trào nông dân rộng lớn ở Đàng Ngoài và phong trào Tây Sơn ở Đàng Trong. Nhà nước phong kiến ở cả hai miền đều sụp đổ trước sự tấn công của phong trào Tây Sơn, đất nước bước đầu thống nhất lại nhưng các vương triều Tây Sơn, được thành lập sau thắng lợi, không đủ sức duy trì. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Thừa hưởng những công lao to lớn của phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn đã làm chủ được cả nước với một chính quyền quân chủ chuyện chế phong kiến. Nhà nước được củng cố nhưng lại chủ trương ""đóng cửa trong hoàn cảnh thế giới đã đổi thay. Một số chính sách kinh tế được ban hành nhưng không giải quyết được tình trạng khủng hoảng xã hội. Cuộc sống của nhân dân vẫn khổ cực, khó khăn. Nhà Nguyễn khẳng định sự độc tôn của Nho giáo. Vãn học chữ Nôm lại phát triển mạnh mẽ. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau bùng lên. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Đất nước bước sang một thời kì mới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Thừa hưởng những công lao to lớn của phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn đã làm chủ được cà nước với một chính quyền quân chủ chuyện chế phong kiến. Nhà nước được cúng cố nhung lại chủ trương ""đóng cửa trong hoàn cảnh thế giới đã đổi thay. Một số chính sách kinh tế được ban hành nhưng không giải quyết được tình trạng khủng hoảng xã hội. Cuộc sống của nhân dân vẫn khổ cực, khó khăn. Nhà Nguyễn khẳng định sự độc tôn của Nho giáo. Vãn học chữ Nôm lại phát triển mạnh mẽ. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau bùng lên. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Đất nước bước sang một thời kì mới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Thừa hưởng những công lao to lớn của phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn đã làm chủ được cà nước với một chính quyền quân chủ chuyên chế phong kiến. Nhà nước được củng cố nhưng lại chủ trương ""đóng cửa trong hoàn cảnh thế giới đã đổi thay. Một số chính sách kinh tế được ban hành nhưng không giải quyết được tình trạng khủng hoảng xã hội. Cuộc sống của nhân dân vẫn khổ cực, khó khăn. Nhà Nguyễn khẳng định sự độc tôn của Nho giáo. Vãn học chữ Nôm lại phát triển mạnh mẽ. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau bùng lên. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Đất nước bước sang một thời kì mới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Thừa hưởng những công lao to lớn của phong trào Tây Sơn, nhà Nguyễn đã làm chủ được cà nước với một chính quyền quân chủ chuyên chế phong kiến. Nhà nước được củng cố nhưng lại chủ trương ""đóng cửa trong hoàn cảnh thế giới đã đổi thay. Một số chính sách kinh tế được ban hành nhưng không giải quyết được tình trạng khủng hoảng xã hội. Cuộc sống của nhân dân vẫn khổ cực, khó khăn. Nhà Nguyễn khẳng định sự độc tôn của Nho giáo. Vãn học chữ Nôm lại phát triển mạnh mẽ. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau bùng lên. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Đất nước bước sang một thời kì mới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Song song với quá trình xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam liên tục phải cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ cuối thế kỉ III TCN, nhân dân Lạc Việt và Tây Âu (Âu Việt) đã phải hợp lực chiến đấu lâu dài chống cuộc xâm lược của quân Tần. Tiếp đó, sau thất bại trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Triệu, nhân dân Việt cổ rơi vào cảnh Bắc thuộc và suốt hơn 1000 năm phải nối tiếp nhau nổi dậy chống chế độ đô hộ, giành lại độc lập. Sự nghiệp chiến đấu kiên cường, không mệt mỏi và liên tục đó đã đạt thắng lợi cuối cùng. Thế kỉ X - kỉ nguyên độc lộp theo hướng phong kiến hoá bắt đầu. Năm thế kỉ đầu thời phong kiến cũng là những thế kỉ liên tục nhân dân cùng các vương triều Tiền Lê, Lý, Trần hợp sức, đồng lòng cầm vũ khí chống lại những cuộc xâm lược lớn của nhà Tống, nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Đầu thế kỉ XV, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Quân Minh thiết lập nền đô hộ. Không chấp nhận cảnh mất nước, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt đã bùng nổ ở miền xuôi và miền núi, cuối cùng, họp nhất lại trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh bại Quân đô hộ, giành lại độc lập cho đất nước, ""mở nền thái bình muôn thuở"". Nguy cơ ngoại xâm tạm thời lắng xuống trong vài thế kỉ. Những cuộc nội chiến của các thế lực phong kiến đã dẫn đến sự chia cắt đất nước làm hai miền. Giai cấp phong kiến thống trị suy thoái dần, đẩy người nông dân đến chỗ nổi dậy đòi cuộc sống, đòi tự do. Vì quyền lợi giai cấp, các tập đoàn thống trị ở Nam, ở Bắc đã ""rước voi về giày mồ và những người nông dân một lần nữa, dưới sự lãnh đạo của người ""anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đứng lên kháng chiến cứu nước. Quân xâm lược Xiêm và sau đó là Quân xâm lược Thanh đã bị đánh bại. Nền độc lập của Tổ quốc được giữ vững. Công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc diễn ra hết đời này sang đời khác, đã để lại biết bao kì tích anh hùng, rất đáng tự hào, biết bao truyền thống cao quý, tươi đẹp, mãi mãi khắc sâu vào lòng của những người Việt Nam yêu nước. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Song song với quá trình xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam liên tục phải cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ cuối thế kỉ III TCN, nhân dân Lạc Việt và Tây Âu (Âu Việt) đã phải hợp lực chiến đấu lâu dài chống cuộc xâm lược của quân Tần. Tiếp đó, sau thất bại trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Triệu, nhân dân Việt cổ rơi vào cảnh Bắc thuộc và suốt hơn 1000 năm phải nối tiếp nhau nổi dậy chống chế độ đô hộ, giành lại độc lập. Sự nghiệp chiến đấu kiên cường, không mệt mỏi và liên tục đó đã đạt thắng lợi cuối cùng. Thế kỉ X - kỉ nguyên độc lập theo hướng phong kiến hoá bắt đầu. Năm thế kỉ đầu thời phong kiến cũng là những thế kỉ liên tục nhân dân cùng các vương triều Tiền Lê, Lý, Trần hợp sức, đồng lòng cầm vũ khí chống lại những cuộc xâm lược lớn của nhà Tống, nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Đầu thế kỉ XV, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Quân Minh thiết lập nền đô hộ. Không chấp nhận cảnh mất nước, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt đã bùng nổ ở miền xuôi và miền núi, cuối cùng, họp nhất lại trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh bại Quân đô hộ, giành lại độc lập cho đất nước, ""mở nền thái bình muôn thuở"". Nguy cơ ngoại xâm tạm thời lắng xuống trong vài thế kỉ. Những cuộc nội chiến của các thế lực phong kiến đã dẫn đến sự chia cắt đất nước làm hai miền. Giai cấp phong kiến thống trị suy thoái dần, đẩy người nông dân đến chỗ nổi dậy đòi cuộc sống, đòi tự do. Vì quyền lợi giai cấp, các tập đoàn thống trị ở Nam, ở Bắc đã ""rước voi về giày mồ và những người nông dân một lần nữa, dưới sự lãnh đạo của người ""anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đứng lên kháng chiến cứu nước. Quân xâm lược Xiêm và sau đó là Quân xâm lược Thanh đã bị đánh bại. Nền độc lập của Tổ quốc được giữ vững. Công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc diễn ra hết đời này sang đời khác, đã để lại biết bao kì tích anh hùng, rất đáng tự hào, biết bao truyền thống cao quý, tươi đẹp, mãi mãi khắc sâu vào lòng của những người Việt Nam yêu nước. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Từ buổi đầu dựng nước Văn Lang - Âu Lạc cho đến giữa thế kỉ XIX, dân tộc Việt Nam đã trải qua một quá trình lao động và chiến đấu đầy hi sinh, gian khổ nhung hết sức kiên cường, anh dũng, sáng tạo để xây dựng đất nước và bào vệ vững chắc nền độc lập và thống nhất của Tố quốc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Vào khoảng thế kỉ VII TCN, sau hàng chục vạn năm sinh sống và mở rộng vùng cu trú, các tộc người Việt cổ trên đất Bắc Việt Nam đã họp nhất lại, dựng nên quốc gia đầu tiên: Văn Lang và sau đó là Âu Lạc. Một nền văn minh lúa nước hình thành với nhiều thành tựu văn hoá đặc sắc. Đầu thế kỉ II TCN, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của các triều đại phương Bắc và phải trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc trong đấu tranh kiên cường để tự giải phóng và gìn giũ nền văn hoá của tổ tiên. Trong khoảng những thế kỉ đầu Công nguyên, ở Nam Trung Bộ ngày nay, quốc gia Lâm Âp - Cham-pa ra đời và phát triển; ở vùng Tây Nam Bộ, quốc gia Phù Nam hình thành. Tuy nhiên, trong lúc Cham-pa phát triển dưới chế độ quân chủ với một nền văn minh độc đáo, mang nặng ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ thì vào thế kỉ VI, quốc gia Phù Nam suy sụp.  " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Đầu thế kỉ X, người Việt lật đổ được chế độ đô hộ của nhà Đường, giành lại quyền tự chủ, độc lập. Năm 968, quốc hiệu Đại Cồ Việt được xác định. Tiến thệm một bước, năm 1054, quốc hiệu được đổi thành Đại Việt và chính thức trỏ thành tên nước từ đó cho đến cuối thế kỉ XVIII. Nhà nước quân chủ ra đời, từng bước được sửa đổi và đến cuối thế kỉ XV thì hoàn chỉnh từ triều đình trung ương đóng Ở Thăng Long (kinh đô của đất nướ- đến các địa phương. Xã là đơn vị hành chính cơ sở. Nền kinh tế nông nghiệp ngày càng phát triển, ruộng đồng ngày càng mở rộng, hệ thống trị thuỷ, thuỷ lợi hoàn chỉnh. Nhà nước và nhân dân cùng quan tâm đến sản xuất. Công thương nghiệp phát triển đa dạng, sản phẩm thủ công như tơ lụa, gốm sứ, đồ vàng bạc v.v... có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, thu hút cả thương nhân nước ngoài. Mạng lưới chợ làng rộng khắp. Kinh thành Thăng Long trở thành một đô thị phồn thịnh với 36 phố phường. Thuyền buôn Trung Quốc và các nước phía nam thường xuyên qua lại trao đổi buôn bán. Năm 1070, nền giáo dục Đại Việt chính thức ra đời và ngày càng phát triển, vừa đào tạo các bậc ""hiền tài cho đất nước vừa nâng cao dân trí. Phật giáo phát triển. Nho giáo từng bước được đề cao và chiếm địa vị độc tôn vào thế kỉ XV. Văn học, nghệ thuật dân tộc hình thành và không ngừng phát triển với hàng loạt tác phẩm và công trình quý giá mang đậm bản sắc dân tộc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Sự phát triển và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến đã dẫn đến sự suy thoái của nhà nước quân chủ trung ương tập quyển, cuộc sống khó khăn của nhân dân và sự hình thành các thế lực phong kiến riêng rẽ. Chiến tranh phong kiến bùng nổ và kéo dài trong nhiều thập kỉ, cuối cùng đã tạo nên sự chia cắt đất nước thành hai miền: Đàng Ngoài và Đàng Trong với hai chính quyền khác nhau. Nền quân chủ không còn vững chắc như trước. Nền kỉnh tế sau một thời gian khủng hoáng, đến thế kỉ XVII thì phục hồi. Nông nghiệp Đàng Ngoài từng bước ổn định, trong lúc đó ở Đàng Trong, do lãnh thổ được mở rộng dần vào phía nam, nông nghiệp phát triển nhanh chóng. Đất Gia Định (Nam Bộ) trở thành một ""vựa thóc lớn"". Từ đầu thế kỉ XVII, kỉnh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng với việc mở rộng ngoại thương. Số lượng sản phẩm thủ công ngày càng gia tăng và trở thành những mặt hàng hấp dẫn thương nhân nước ngoài. Sự phát triển của kỉnh tế hàng hoá đã tạo cơ sở cho sự hình thành và hưng khởi của các đô thị như Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến, Hội An... Văn hoá dân gian phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ thế kỉ XVIII, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ, trong lúc các chính quyền ở cả hai miền lại thiếu quan tâm đến đời sống của nông dân. Cuộc khủng hoảng xã hội diễn ra vào giữa thế kỉ XVIII với những phong trào nông dân rộng lớn ở Đàng Ngoài và phong trào Tây Sơn ở Đàng Trong. Nhà nước phong kiến ở cả hai miền đều sụp đổ trước sự tấn công của phong trào Tây Sơn, đất nước bước đầu thống nhất lại nhưng các vương triều Tây Sơn, được thành lập sau thắng lợi, không đủ sức duy trì. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Sau thất bại của chiến lược ""Chiến tranh cục bộ"", Mĩ tiến hành chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam và mở rộng chiến tranh không quân, hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); miền Nam chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ. Thời gian giữa hai cuộc chiến tranh phá hoại, miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá, làm nghĩa vụ hậu phương." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Đầu năm 1969, Níchxơn vừa lên nắm chính quyền đã đề ra chiến lược toàn cầu ""Ngăn đe thực tê (thay cho chiến lược ""Phản ứng linh hoạt của Kennơđi) và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, thực hiện chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với chiến lược ""Đông Dương hoá chiến tranh"". chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"" được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực, không quân, hậu cần của Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn. Với chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", quân Mĩ và quân đồng minh rút dân khỏi chiến tranh để giảm xương máu người Mĩ trên chiến trường, đồng thời là quá trình tăng cường lực lượng của quân đội Sài Gòn nhằm tân dụng xương máu người Việt Nam. Thục chât đó là sự tiếp tục thực hiện âm mưu ""Dùng người Việt đánh người Việt của Mĩ. quân đội Sài Gòn còn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu ""Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương"".  Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao, như lợi dụng mâu thuẫn Trung - Xô, thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước đó đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Nhân dân ta chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương; vừa chiến đấu chống địch trên chiến trường, vừa đấu tranh với địch trên bàn đàm phán. Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống ""Việt Nam hoá chiến tranh là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 6 - 6 - 1969. Đó là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang trên đà thắng lợi thì Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 - 9 - 1969. Đó là một tổn thất lớn, không gì có thể bù đắp đối với dân tộc ta, đối với cách mạng nước ta. Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đỡ để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bân Di chúc lịch sử. Trong Di chúc, Người nêu rõ: ""Cuộc kháng chiến chống Mĩ có thể kéo dài... Đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mĩ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"". Người cũng nhắc nhở ""Đảng cân có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"". Thực hiên Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở hai miền đẩy mạnh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Trong hai năm 1970 - 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước Campuchia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị. Trong hai ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia họp nhằm đối phó lại việc Mĩ chỉ đạo bọn tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập Xihanúc của Campuchia (18 - 3 - 1970) để chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới; biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết chiến đấu chống Mĩ. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973)."," Từ ngày 30 - 4 đến ngày 30 - 6 - 1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Campuchia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17 000 địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân. Từ ngày 12 - 2 đến ngày 23 - 3 - 1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân mang tên ""Lam Sơn - 719 chiếm giữ Đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22 000 địch, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương. Thắng lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, chống ""bình định"". ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào học sinh, sinh viên nổ ra rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia. Phong trào học sinh, sinh viên có vai trò quan trọng, thường ""châm ngòi nổ cho phong trào chung của các tầng lớp nhân nhân thành thị. Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị, khắp nơi có phong trào của quần chúng nổi dậy chống ""bình đinh"", phá ấp chiến lược của địch. Đến đầu năm 1971, cách mạng giành quyền làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân. Chính quyền cách mạng cũng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu hécta ruộng đất. Trong vùng giải phóng, các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp được đẩy mạnh." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973)."," Từ ngày 30 - 4 đến ngày 30 - 6 - 1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Campuchia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiên đấu 17 000 địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân. Từ ngày 12 - 2 đến ngày 23 - 3 - 1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân mang tên ""Lam Sơn - 719 chiếm giữ Đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiên đấu 22 000 địch, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương. Thắng lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, chống ""bình định"". ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào học sinh, sinh viên nổ ra rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia. Phong trào học sinh, sinh viên có vai trò quan trọng, thường ""châm ngòi nổ cho phong trào chung của các tầng lớp nhân nhân thành thị. Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị, khắp nơi có phong trào của quần chúng nổi dậy chống ""bình đinh"", phá ""ấp chiên lược của địch. Đên đầu năm 1971, cách mạng giành quyền làm chủ thệm 3600 ấp với 3 triệu dân. Chính quyền cách mạng cũng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu hécta ruộng đất. Trong vùng giải phóng, các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp được đẩy mạnh." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Bước vào năm 1972, quân ta mở cuộc tiến công chiên lược từ ngày 30 - 3, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu bên cạnh các hướng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, rổi phát triển rộng ra khắp chiên trường miền Nam. Quân ta tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hầu khắp các địa bàn chiên lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngắn (đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyên mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiên đấu hơn 20 vạn tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và đông dân. Sau đòn mở đầu bất ngờ của quân ta, quân đội Sài Gòn có sự yểm trợ của Mĩ đã phản công lại, gây cho ta nhiều tổn thất; Mĩ gây trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc từ ngày 6 - 4 - 1972.  Cuộc tiến công chiên lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", buộc Mĩ phải tuyên bố ""Mĩ hoá trở lại chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Việt Nam hoá chiến tranh"")." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Miền Bắc vừa trải qua cuộc chiến tranh phá hoại, vì vậy, yêu cầu cấp bách trước mắt là khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tể - xã hội. Một yêu cầu cấp bách khác đặt ra đối với miền Bắc giai đoạn này là khắc phục những yêu kém trong nền kinh tế. Thục hiện chủ trương của Đảng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba cuộc vận động chính trị lớn được phát động: đẩy mạnh lao động sàn xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quân chúng xã viên ở nông thôn; nâng cao chốt lượng đàng viên và kết nạp đàng viên lớp Hồ Chí Minh. Trên khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất, nhằm khôi phục và phát triển kinh te - xã hội. Trong nông nghiệp, Nhà nước đề ra một số chủ trương khuyện khích sản xuất. Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc trên một hecta gieo trồng, một số hợp tác xã đạt từ 6 đến 7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968. Việc cải tiên quản lí hợp tác xã có bước tiên đáng kể.  Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp, đưa vào hoạt động. Nhà máy Thuỷ điện Thác Bà (Yên Bái) là nhà máy thuỷ điện đầu tiên của ta được gấp rút hoàn thành và bắt đầu phát điện từ tháng 10 - 1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng, như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng... đều có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968. Hệ thống giao thông vận tải, nhất là các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề, được khẩn trương khôi phục. Vãn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm, khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế - xã hội bước đầu được khắc phục." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Ngày 6 - 4 - 1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16 - 4 - 1972, Níchxơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 9 - 5 - 1972, tuyên bố phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại lớn thứ hai của Níchxơn vượt xa cuộc chiến tranh phá hoại lớn thứ nhất của Giônxơn cả về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, sử dụng các loại máy bay hiện đại nhất như B52, F111. ý đồ của Níchxơn là cứu nguy cho chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Pari. Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đầu. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất xây dựng ở miền Bắc vẫn không bị ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hoá, giáo dục, y tế được duy trì và phát triển. Ngày 14 - 12 - 1972, gần 2 tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị - ngoại giao mới, Níchxơn phệ chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng, bắt đầu từ tối ngày 18 đến hết ngày 29 - 12 - 1972, nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải kí một hiệp định có lợi cho Mĩ. Quân dân ta ở miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận ""Điện Biên Phủ trên không"". Tính chung, trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6 - 4 - 1972 đến ngày 15 - 1 - 1973), miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ (trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111), bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đâu hàng trăm phi công Mĩ. ""Điện Biên Phủ trên không là trận thắng quyết định của ta, đã buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15 - 1 - 1973) và kí Hiệp đinh Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27 - 1 - 1973)." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Trong thời gian Mĩ ngừng ném bom sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và cả trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai, miền Bắc đã tập trung lớn khả năng về lực lượng và phương tiện để khắc phục kip thời hậu quả của những trận đánh phá khốc liệt, vượt qua những cuộc bao vây phong toả gắt gao của địch, bảo đảm tiếp nhận tốt hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, cả chiến trường Lào và Campuchia. Trong 3 năm (1969 - 1971), hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, có 60% trong số đó lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia. Khối lượng vật chất đưa vào các chiến trường trường gấp 1,6 lớn so với 3 năm trước đó. Năm 1972, miền Bắc đỡ động viên hơn 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang; đưa vào chiến trường 3 nước Đông Dương nhiều đơn vị bộ đội được huđn luyện, trang bị đổy đủ. Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường năm 1972 trường gấp 1,7 lớn so với năm 1971." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Đầu năm 1967, sau thắng lợi trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, ta chủ trương mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao, nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mĩ, vạch trần luận điệu hoà bình bịp bợm của chúng, nêu cao tính chất chính nghĩa, lập trường đúng đắn của ta, tranh thủ rộng rãi sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế. Mục tiêu đấu tranh ngoại giao trước mắt của ta là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, coi đó là điều kiện tiên quyết để đi đến thương lượng ở bàn hội nghị. Ngày 31 - 3 - 1968, sau đòn tiến công bất ngờ của quân dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và bắt đầu nói đến đàm phán với Việt Nam.  Ngày 13 - 5 - 1968, cuộc đàm phán chính thức Hai bên, giữa đại diên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diên Chính phủ Hoa Kì họp phiên đầu tiên ở Pari. Ngày 1 - 11 - 1968, Tổng thống Mĩ Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá trên toàn miền Bắc. Từ đây, đấu tranh giữa ta và Mĩ chủ yếu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất về hình thức Hội nghị Bốn bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng hoà (chính quyền Sài Gòn). Hội nghị Bốn bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên ngày 25 - 1 - 1969 tại Pari. Từ phiên họp đầu tiên đến khi đạt được giải pháp hiệp định, Hội nghị Bốn bên ở Pari trải qua nhiều phiên họp chung công khai và nhiều cuộc tiếp xúc riêng. Lập trường Bốn bên, mà thực chất là Hai bên Việt Nam và Hoa Kì, rất khác nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn thương lượng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Trong các phiên họp chung công khai cũng như trong các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất: đòi quân Mĩ và quân đồng minh rút hết khỏi miền Nam và đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mĩ có quan điểm ngược lại, nhất là vấn đề rút quân, đòi quân đội miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam, và từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (10 - 1972) để rồi mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đổ buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định do Mĩ đưa ra. Nhưng Mĩ đã thất bại. Quân dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của Mĩ, làm nên trận ""Điện Biên Phủ trên không"", sau đó buộc Mĩ phải kí dự thảo Hiệp định Pari do Việt Nam đưa ra trước đó. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được kí tắt ngày 23 - 1 - 1973 giữa đại diện hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kì, và kí chính thức ngày 27 - 1 - 1973 giữa bốn Ngoại trưởng, đại diện cho các chính phủ tham dự Hội nghị tại Pari. Hiệp định Pari bắt đầu có hiệu lực từ ngày kí chính thức." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Nội dung Hiệp định gồm những điều khoản cơ bản sau: - Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. - Cuộc ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam được thực hiện vào 24 giờ ngày 27 - 1 - 1973. Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam. - Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân đồng minh trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kí hiệp định, huỷ bỏ các căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. - Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài. - Hai miền Nam - Bắc Việt Nam sẽ thương lượng về việc thống nhất đất nước không có sự can thiệp của nước ngoài. - Hai bên tiến hành trao trả tù binh và dân thường bị bắt. - Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị (lực lượng cách mạng, lực lượng hoà bình trung lập và lực lượng chính quyền Sài Gòn). - Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, tiến tới thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa hai nước.   Ngày 2 - 3 - 1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam được triệu tập tại Pari, gồm đại biểu các nước Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, bốn bên tham gia kí Hiệp định và bốn nước trong Uỷ ban giám sát và kiểm soát quốc tế (Ba Lan, Canađa, Hunggari, Inđônêxi, với sự có mạt của Tổng thư kí Liên hợp quốc. Tất cả các nước tham dự Hội nghị đã kí vào bản Định ước công nhận về mặt pháp lí quốc tế Hiệp định Pari về Việt Nam và bảo đảm cho Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh. Hiệp định Pari về Việt Nam là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miền đất nước, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc. Với Hiệp đinh Pari, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta và rút hết quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo ra thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Đầu thế kỉ X, người Việt lật đổ được chế độ đô hộ của nhà Đường, giành lại quyền tự chủ, độc lập. Năm 968, quốc hiệu Đại Cồ Việt được xác định. Tiến thêm một bước, năm 1054, quốc hiệu được đổi thành Đại Việt và chính thức trỏ thành tên nước từ đó cho đến cuối thế kỉ XVIII. Nhà nước quân chủ ra đời, từng bước được sửa đổi và đến cuối thế kỉ XV thì hoàn chỉnh từ triều đình trung ương đóng Ở Thăng Long (kinh đô của đất nướ- đến các địa phương. Xã là đơn vị hành chính cơ sở. Nền kinh tế nông nghiệp ngày càng phát triển, ruộng đồng ngày càng mở rộng, hệ thống trị thuỷ, thuỷ lợi hoàn chỉnh. Nhà nước và nhân dân cùng quan tâm đến sản xuất. Công thương nghiệp phát triển đa dạng, sản phẩm thủ công như tơ lụa, gốm sứ, đồ vàng bạc v.v... có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, thu hút cả thương nhân nước ngoài. Mạng lưới chợ làng rộng khắp. Kinh thành Thăng Long trở thành một đô thị phồn thịnh với 36 phố phường. Thuyền buôn Trung Quốc và các nước phía nam thường xuyên qua lại trao đổi buôn bản. Năm 1070, nền giáo dục Đại Việt chính thức ra đời và ngày càng phát triển, vừa đào tạo các bậc ""hiền tài cho đất nước vừa nâng cao dân trí. Phật giáo phát triển. Nho giáo từng bước được đề cao và chiếm địa vị độc tôn vào thế kỉ XV. Văn học, nghệ thuật dân tộc hình thành và không ngừng phát triển với hàng loạt tác phẩm và công trình quý giá mang đậm bản sắc dân tộc. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Sự phát triển và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến đã dẫn đến sự suy thoái của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, cuộc sống khó khăn của nhân dân và sự hình thành các thế lực phong kiến riêng rẽ. Chiến tranh phong kiến bùng nổ và kéo dài trong nhiều thập kỉ, cuối cùng đã tạo nên sự chia cắt đất nước thành hai miền: Đàng Ngoài và Đàng Trong với hai chính quyền khác nhau. Nền quân chủ không còn vững chắc như trước. Nền kỉnh tế sau một thời gian khủng hoáng, đến thế kỉ XVII thì phục hồi. Nông nghiệp Đàng Ngoài từng bước ổn định, trong lúc đó ở Đàng Trong, do lãnh thổ được mở rộng dần vào phía nam, nông nghiệp phát triển nhanh chóng. Đất Gia Định (Nam Bộ) trở thành một ""vựa thóc lớn"". Từ đầu thế kỉ XVII, kỉnh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng với việc mở rộng ngoại thương. Số lượng sản phẩm thủ công ngày càng gia tăng và trở thành những mặt hàng hấp dẫn thương nhân nước ngoài. Sự phát triển của kỉnh tế hàng hoá đã tạo cơ sở cho sự hình thành và hưng khởi của các đô thị như Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến, Hội An... Văn hoá dân gian phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ thế kỉ XVIII, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ, trong lúc các chính quyền ở cả hai miền lại thiếu quan tâm đến đời sống của nông dân. Cuộc khủng hoảng xã hội diễn ra vào giữa thế kỉ XVIII với những phong trào nông dân rộng lớn ở Đàng Ngoài và phong trào tây Sơn ở Đàng Trong. Nhà nước phong kiến ở cả hai miền đều sụp đổ trước sự tấn công của phong trào tây Sơn, đất nước bước đầu thống nhất lại nhưng các vương triều tây Sơn, được thành lập sau thắng lợi, không đủ sức duy trì. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 27: Quá trình dựng nước và giữ nước,"Song song với quá trình xây dụng đất nước, nhân dân Việt Nam liên tục phải cầm vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Từ cuối thế kỉ III TCN, nhân dân Lạc Việt và tây Âu (Âu Việt) đã phải hợp lực chiến đấu lâu dài chống cuộc xâm lược của quân Tần. Tiếp đó, sau thất bại trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Triệu, nhân dân Việt cổ rơi vào cảnh Bắc thuộc và suốt hơn 1000 năm phải nối tiếp nhau nổi dậy chống chế độ đô hộ, giành lại độc lập. Sự nghiệp chiến đấu kiên cường, không mệt mỏi và liên tực đó đã đạt thắng lợi cuối cùng. Thế kỉ X - kỉ nguyên độc lộp theo hướng phong kiến hoá bắt đầu. Năm thế kỉ đầu thời phong kiến cũng là những thế kỉ liên tực nhân dân cùng các vương triều Tiền Lê, Lý, Trần hợp sức, đồng lòng cầm vũ khí chống lại những cuộc xâm lược lớn của nhà Tống, nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Đầu thế kỉ XV, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, Quân Minh thiết lập nền đô hộ. Không chấp nhận cảnh mất nước, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt đã bùng nổ ở miền xuôi và miền núi, cuối cùng, họp nhất lại trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh bại Quân đô hộ, giành lại độc lập cho đất nước, ""mở nền thái bình muôn thuở"". Nguy cơ ngoại xâm tạm thời lắng xuống trong vài thế kỉ. Những cuộc nội chiến của các thế lực phong kiến đã dẫn đến sự chia cắt đất nước làm hai miền. Giai cấp phong kiến thống trị suy thoái dần, đẩy người nông dân đến chỗ nổi dậy đòi cuộc sống, đòi tự do. Vì quyền lợi giai cấp, các tập đoàn thống trị ở Nam, ở Bắc đã ""rước voi về giày mồ và những người nông dân một lần nữa, dưới sự lãnh đạo của người ""anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đứng lên kháng chiến cứu nước. Quân xâm lược Xiêm và sau đó là Quân xâm lược Thanh đã bị đánh bại. Nền độc lập của Tổ quốc được giữ vững. Công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc diễn ra hết đời này sang đời khác, đã đề lại biết bao kì tích anh hùng, rất đáng tự hào, biết bao truyền thống cao quý, tươi đẹp, mãi mãi khắc sâu vào lòng của những người Việt Nam yêu nước. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Nhân dân ta chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông dương; vừa chiến đấu chống địch trên chiến trường, vừa đấu tranh với địch trên bàn đàm phán. Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống ""Việt Nam hoá chiến tranh là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 6 - 6 - 1969. Đó là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang trên đà thắng lợi thì Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 - 9 - 1969. Đó là một tổn thất lớn, không gì có thể bù đắp đối với dân tộc ta, đối với cách mạng nước ta. Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đỡ đề lại cho toàn Đàng, toàn dân ta bân Di chúc lịch sử. Trong Di chúc, Người nêu rõ: ""Cuộc kháng chiến chống Mĩ có thể kéo dài... Đồng bào ta có thể phâi hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phâi quyết tâm đánh giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mĩ nhất định phâi cứt khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"". Người cũng nhắc nhở ""Đàng cần có kế hoạch thật tốt đề phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngùng nâng cao đời sống của nhân dân"". Thực hiên Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở hai miền đẩy mạnh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Trong hai năm 1970 - 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước Campuchia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị. Trong hai ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia họp nhằm đối phó lại việc Mĩ chỉ đạo bọn tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập Xihanúc của Campuchia (18 - 3 - 1970) đề chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới; biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước Đông dương đoàn kết chiến đấu chống Mĩ. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Miền Bắc vừa trải qua cuộc chiến tranh phá hoại, vì vậy, yêu cầu cấp bách trước mắt là khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Một yêu cầu cấp bách khác đặt ra đối với miền Bắc giai đoạn này là khắc phục những yêu kém trong nền kinh tố. thực hiện chủ trương của Đàng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba cuộc vẤn Động chính trị lớn được phát động: đẩy mạnh lao động sàn xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quân chúng xã viên ở nông thôn; nâng cao chốt lượng đàng viên và kết nạp đàng viên lớp Hồ Chí Minh. Trên khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất, nhằm khôi phục và phát triển kinh te - xã hội. Trong nông nghiệp, Nhà nước đề ra một số chủ trương khuyến khích sản xuất. Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc trên một hecta gieo trổng, một số hợp tác xã đạt từ 6 đến 7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968. Việc cải tiên quản lí hợp tác xã có bước tiên đáng kể.  Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp, đưa vào hoạt động. Nhà máy Thuỷ điện Thác Bà (Yên Bái) là nhà máy thuỷ điện đầu tiên của ta được gấp rút hoàn thành và bắt đầu phát điện từ tháng 10 - 1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng, như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng... đều có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968. Hệ thống giao thông vận tài, nhất là các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề, được khẩn trương khôi phục. Vãn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm, khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế - xã hội bước đầu được khắc phục." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Ngày 6 - 4 - 1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16 - 4 - 1972, Níchxơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 9 - 5 - 1972, tuyến bốphong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại lớn thứ hai của Níchxơn vượt xa cuộc chiến tranh phá hoại lớn thứ nhất của Giônxơn câ về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, sủ dụng các loại máy bay hiện đại nhất như B52, F111. ý đồ của Níchxơn là cứu nguy cho chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", tạo thế mạnh trên bàn đàm phánở Pari. Nhờ được chuẩn bị trước và với tư thế luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đầu. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất xây dựng ở miền Bắc vẫn không bị ngừng trệ, giao thông vận tài bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hoá, giáo dục, y tế được duy trì và phát triển. Ngày 14 - 12 - 1972, gần 2 tháng sau khi tuyến bốngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, đề hỗ trợ cho mưu đồ chính trị - ngoại giao mới, Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng, bắt đầu từ tối ngày 18 đến hết ngày 29 - 12 - 1972, nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải kí một hiệp định có lợi cho Mĩ. Quân dân ta ở miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận ""Điện biên Phủ trên không"". Tính chung, trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6 - 4 - 1972 đến ngày 15 - 1 - 1973), miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ (trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111), bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ. ""Điện biên Phủ trên không là trận thắng quyết định của ta, đã buộc Mĩ phải tuyến bốngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15 - 1 - 1973) và kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27 - 1 - 1973)." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Bước vào năm 1972, quân ta mở cuộc tiến công chiên lược từ ngày 30 - 3, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu bên cạnh các hướng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, rổi phát triển rộng ra khắp chiên trường miền Nam. Quân ta tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hầu khắp các địa bàn chiên lược quan trọng. Chỉ trong thời gian ngắn (đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyên mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiên đấu hơn 20 vạn tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và đông dân. Sau đòn mở đầu bất ngờ của quân ta, quân đội Sài Gòn có sự yểm trợ của Mĩ đã phản công lại, gây cho ta nhiều tổn thất; Mĩ gây trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc từ ngày 6 - 4 - 1972. Cuộc tiến công chiên lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", buộc Mĩ phải tuyên bố ""Mĩ hoá trở lại chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của ""Việt Nam hoá chiến tranh"")." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 27: Chiến đấu chống chiến lược ""Việt Nam h6a chiến tranh ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mĩ (1969-1973).","Đầu năm 1969, Níchxơn vừa lên nắm chính quyền đã đề ra chiến lược toàn cầu. Ngăn để thực tế (thay cho chiến lược ""Phản ứng linh hoạt"" của Kennơđi) và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, thực hiện chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông dương với chiến lược ""Đông dương hoá chiến tranh"". Chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"" được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực, không quân, hậu cần của Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn. Với chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh"", quân Mĩ và quân đồng minh rút dân khỏi chiến tranh để giành xương máu người Mĩ trên chiến trường, đồng thời là quá trình tăng cường lực lượng của quân đội Sài Gòn nhằm tận dụng xương máu người Việt Nam. Thực chất đó là sự tiếp tục thực hiện âm mưu ""Dùng người Việt đánh người Việt"" của Mĩ. Quân đội Sài Gòn còn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu ""Dùng người Đông dương đánh người Đông dương"". Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao, như lợi dụng mâu thuẫn Trung - Xô, thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước đó đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trải qua lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài, oanh liệt, dân tộc Việt Nam đã làm nên biết bao sự tích anh hùng để từ đó tạo nên những truyền thống tốt đẹp, trong đó nổi lên truyền thống yêu nước - một truyền thông cao quý vừa được hun đúc và phát huy qua hàng nghìn năm lịch sử, vừa thấm đượm sâu sắc vào cuộc sống ngày càng vươn cao của dân tộc." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Nhân dân các dân tộc đều có lòng yêu nước của mình. Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình cảm của từng con người đối với người mẹ, người cha, những người anh em ruột thịt và mở rộng ra, với nơi chôn nhau cắt rốn, với những con người và không gian nhỏ hẹp của cộng đổng, nơi mình sinh sống, với mảnh đất mà mình đã ""đổ mồ hôi lấy bát cơm đầy"". Từ nhiều nghìn năm trước đây, những người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam đã trải qua những chặng đường lao động gian khổ, nâng cao dần cuộc sống và cùng nhau tiến xuống vùng đồng bằng, châu thổ các con sông lớn. Bằng lao động và giúp đỡ lẫn nhau, họ từng bước sáng tạo ra nền văn minh Việt cổ để từ đó họp nhất lại thành một quốc gia - nước Văn Lang. Quá trình giao lưu, trao đổi thường xuyên diễn ra trên đất nước đã phát huy những tình cảm yêu thương, gắn bó mang tính địa phương, làng chạ trước đây thành một tình cảm rộng lớn hơn, bao quát hơn - lòng yêu nước. Nhưng, những mối quan hệ sơ khai về kinh tế- chính trị của quốc gia Văn Lang cùng những yếu tố văn hoá chung chỉ mới là hạt nhân, là cơ sở của lòng yêu nước. Thách thức lớn lao được đặt ra khi quân Tần xâm lược và trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, những tình cảm yêu nước của người Lạc Việt và Âu Việt thực sự được thử thách và gắn kết lợi. Đánh bại quán xâm lược, nhà nước Âu Lạc ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của lòng yêu nước. Tiếp theo, cuộc đấu tranh đầy gian lao, quyết liệt của người dân Việt cổ trong hơn 1000 năm Bắc thuộc vừa chống chế độ đô hộ, giành lại quyển tự chủ, vừa bảo vệ những di sản văn hoá của tổ tiên đã nâng cao và phát triển hơn nữa lòng yêu nước. Những huyền thoại Con Rồng cháu Tiên, Quả hầu mẹ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, v.v... được lan truyền rộng khắp cùng với việc xây dựng miếu thờ các vị anh hùng chống đô hộ đã thực sự gắn kết, khắc sâu lòng yêu nước của người dân Việt để từ đó hình thành truyền thống yêu nước Việt Nam. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Nhân dân các dân tộc đều có lòng yêu nước của mình. Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình cảm của từng con người đối với người mẹ, người cha, những người anh em ruột thịt và mở rộng ra, với nơi chôn nhau cắt rốn, với những con người và không gian nhỏ hẹp của cộng đổng, nơi mình sinh sống, với mảnh đất mà mình đã ""đổ mồ hôi lấy bát cơm đầy"". Từ nhiều nghìn năm trước đây, những người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam đã trải qua những chặng đường lao động gian khổ, nâng cao dần cuộc sống và cùng nhau tiến xuống vùng đồng bằng, châu thổ các con sông lớn. Bằng lao động và giúp đỡ lẫn nhau, họ từng bước sáng tạo ra nền văn minh Việt cổ để từ đó họp nhất lại thành một quốc gia - nước Văn Lang. Quá trình giao lưu, trao đổi thường xuyên diễn ra trên đất nước đã phát huy những tình cảm yêu thương, gắn bó mang tính địa phương, làng chạ trước đây thành một tình cảm rộng lớn hơn, bao quát hơn - lòng yêu nước. Nhưng, những mối quan hệ sơ khai về kinh tế- chính trị của quốc gia Văn Lang cùng những yếu tố văn hoá chung chỉ mới là hạt nhân, là cơ sở của lòng yêu nước. Thách thức lớn lao được đặt ra khi quân Tần xâm lược và trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, những tình cảm yêu nước của người Lạc Việt và Âu Việt thực sự được thử thách và gắn kết lợi. Đánh bại quân xâm lược, nhà nước Âu Lạc ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của lòng yêu nước. Tiếp theo, cuộc đấu tranh đầy gian lao, quyết liệt của người dân Việt cổ trong hơn 1000 năm Bắc thuộc vừa chống chế độ đô hộ, giành lại quyển tự chủ, vừa bảo vệ những di sản văn hoá của tổ tiên đã nâng cao và phát triển hơn nữa lòng yêu nước. Những huyền thoại Con Rồng cháu Tiên, Quả hầu mẹ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, v.v... được lan truyền rộng khắp cùng với việc xây dựng miếu thờ các vị anh hùng chống đô hộ đã thực sự gắn kết, khắc sâu lòng yêu nước của người dân Việt để từ đó hình thành truyền thống yêu nước Việt Nam. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Thế kỉ X, đất nước trở lại độc lập, tự chủ với lãnh thổ, tiếng nói, phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng, cổ truyền. Đó đâu phải là một hiện tượng ngầu nhiên. Nhưng, cuộc sống mới không còn đơn giản như ở thời xa xưa, ""buộc nút dáy mà làm chính sự"". Hơn 1000 năm dưới ách đô hộ cùa các triều đại phương Bắc, đất nước hầu như bị chững lại trong cảnh nô lệ, lạc hậu, đói nghèo. Vươn lên về mọi mặt trong xây dựng đất nước vừa là yêu cầu bức thiết vừa là nghĩa vụ, là sự thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha anh. Nhưng, không phải chí như vậy. Các triều đại phương Bắc vẫn chưa hì bỏ mưu đồ xâm chiếm các nước phương Nam. Nhiệm vụ giữ nước vẫn được đặt ra thường xuyên. Tinh hình còn khó khăn, phức tạp hơn trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong quá trình phân hoá của chế độ phong kiến. Truyền thống yêu nước Việt Nam trong hơn 9 thế kỉ tiếp sau đã được tôi luyện và phát triển trong bối cảnh nói trên. Những cuộc kháng chiến thắng lợi không chỉ làm tăng thệm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến công oanh liệt mà còn khắc sáu thệm tình yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt Nam ở miền xuôi cũng như miền núi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển một nền kỉnh tế tự chủ và một nền văn hoá vừa gắn liền với truyền thống của tổ tiên thời xa xưa, vừa đổi mới ngang tầm thời đại, đòi hỏi con người không chỉ ở lao động và trí tuệ, tài năng thông thường mà còn ở sự thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm vươn lên, góp phần vào sự nghiệp giữ nước" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Thế kỉ X, đất nước trở lại độc lập, tự chủ với lãnh thổ, tiếng nói, phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng, cổ truyền. Đó đâu phải là một hiện tượng ngầu nhiên. Nhưng, cuộc sống mới không còn đơn giản như ở thời xa xưa, ""buộc nút dáy mà làm chính sự"". Hơn 1000 năm dưới ách đô hộ cùa các triều đại phương Bắc, đất nước hầu như bị chững lại trong cảnh nô lệ, lạc hậu, đói nghèo. Vươn lên về mọi mặt trong xây dựng đất nước vừa là yêu cầu bức thiết vừa là nghĩa vụ, là sự thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha anh. Nhưng, không phải chí như vậy. Các triều đại phương Bắc vẫn chưa từ bỏ mưu đồ xâm chiếm các nước phương Nam. Nhiệm vụ giữ nước vẫn được đặt ra thường xuyên. Tinh hình còn khó khăn, phức tạp hơn trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong quá trình phân hoá của chế độ phong kiến. Truyền thống yêu nước Việt Nam trong hơn 9 thế kỉ tiếp sau đã được tôi luyện và phát triển trong bối cảnh nói trên. Những cuộc kháng chiến thắng lợi không chỉ làm tăng thệm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến công oanh liệt mà còn khắc sáu thệm tình yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt Nam ở miền xuôi cũng như miền núi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển một nền kỉnh tế tự chủ và một nền văn hoá vừa gắn liền với truyền thống của tổ tiên thời xa xưa, vừa đổi mới ngang tầm thời đại, đòi hỏi con người không chỉ ở lao động và trí tuệ, tài năng thông thường mà còn ở sự thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm vươn lên, góp phần vào sự nghiệp giữ nước" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Thế kỉ X, đất nước trở lại độc lập, tự chủ với lãnh thổ, tiếng nói, phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng, cổ truyền. Đó đâu phải là một hiện tượng ngầu nhiên. Nhưng, cuộc sống mới không còn đơn giản như ở thời xa xưa, ""buộc nút dáy mà làm chính sự"". Hơn 1000 năm dưới ách đô hộ của các triều đại phương Bắc, đất nước hầu như bị chững lại trong cảnh nô lệ, lạc hậu, đói nghèo. Vươn lên về mọi mặt trong xây dựng đất nước vừa là yêu cầu bức thiết vừa là nghĩa vụ, là sự thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha anh. Nhưng, không phải chí như vậy. Các triều đại phương Bắc vẫn chưa từ bỏ mưu đồ xâm chiếm các nước phương Nam. Nhiệm vụ giữ nước vẫn được đặt ra thường xuyên. Tinh hình còn khó khăn, phức tạp hơn trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong quá trình phân hoá của chế độ phong kiến. Truyền thống yêu nước Việt Nam trong hơn 9 thế kỉ tiếp sau đã được tôi luyện và phát triển trong bối cảnh nói trên. Những cuộc kháng chiến thắng lợi không chỉ làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến công oanh liệt mà còn khắc sâu thêm tình yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt Nam ở miền xuôi cũng như miền núi. Sự nghiệp xây dựng và phát triển một nền kỉnh tế tự chủ và một nền văn hoá vừa gắn liền với truyền thống của tổ tiên thời xa xưa, vừa đổi mới ngang tầm thời đại, đòi hỏi con người không chỉ ở lao động và trí tuệ, tài năng thông thường mà còn ở sự thể hiện lòng yêu nước, quyết tâm vươn lên, góp phần vào sự nghiệp giữ nước" 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Truyền thống yêu nước được tôi luyện và phát huy ngày càng cao. Nhưng, Việt Nam là một nước đa dân tộc. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước không chỉ dành riêng cho một tộc người, một địa phương hay một nhóm người, một giai cấp nào mà là sự nghiệp của tất cả các tộc người sống trên đất Việt Nam. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn chặt với ý thức đoàn kết, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trên đất Việt Nam, đoàn kết tất cả các tộc người trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trên bước đường phát triển của chế độ phong kiến, không ít kẻ trong giai cấp thống trị vì quyền lợi của giai cấp mình, vì sự giàu sang phú quý của bản thân mình mà đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân hoặc phản bội Tổ quốc hoặc đẩy nhân dân lao động vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, khổ cực, tối tăm. Trong lúc đó, nhân dân ngày càng hiểu rằng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Truyền thống yêu nước là sản phẩm hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đáu phải vì một lợi ích nào đó mà quên lãng. Lòng yêu nước của họ thật giản dị và trong sáng, song không phải vì thế mà họ không hiểu gì về giai cấp thống trị. Truyền thống yêu nước dần dần mang thệm yếu tố nhân dân, vì dân và thương dân. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định ""khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là ""thượng sách để giữ nước và Nguyễn Trãi: ""Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành thì người dân lao động cũng hiểu ""Mến người có nhân là dân; chở thuyền, lật thuyền cũng là dân""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Truyền thống yêu nước được tôi luyện và phát huy ngày càng cao. Nhưng, Việt Nam là một nước đa dân tộc. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước không chỉ dành riêng cho một tộc người, một địa phương hay một nhóm người, một giai cấp nào mà là sự nghiệp của tất cả các tộc người sống trên đất Việt Nam. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn chặt với ý thức đoàn kết, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trên đất Việt Nam, đoàn kết tất cả các tộc người trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trên bước đường phát triển của chế độ phong kiến, không ít kẻ trong giai cấp thống trị vì quyền lợi của giai cấp mình, vì sự giàu sang phú quý của bản thân mình mà đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân hoặc phản bội Tổ quốc hoặc đẩy nhân dân lao động vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, khổ cực, tối tăm. Trong lúc đó, nhân dân ngày càng hiểu rằng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Truyền thống yêu nước là sản phẩm hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đâu phải vì một lợi ích nào đó mà quên lãng. Lòng yêu nước của họ thật giản dị và trong sáng, song không phải vì thế mà họ không hiểu gì về giai cấp thống trị. Truyền thống yêu nước dần dần mang thêm yếu tố nhân dân, vì dân và thương dân. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định ""khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là ""thượng sách để giữ nước và Nguyễn Trãi: ""Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành thì người dân lao động cũng hiểu ""Mến người có nhân là dân; chở thuyền, lật thuyền cũng là dân""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Truyền thống yêu nước được tôi luyện và phát huy ngày càng cao. Nhưng, Việt Nam là một nước đa dân tộc. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước không chỉ dành riêng cho một tộc người, một địa phương hay một nhóm người, một giai cấp nào mà là sự nghiệp của tất cả các tộc người sống trên đất Việt Nam. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn chặt với ý thức đoàn kết, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trên đất Việt Nam, đoàn kết tất cả các tộc người trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trên bước đường phát triển của chế độ phong kiến, không ít kẻ trong giai cấp thống trị vì quyền lợi của giai cấp mình, vì sự giàu sang phú quý của bản thân mình mà đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân hoặc phản bội Tổ quốc hoặc đẩy nhân dân lao động vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, khổ cực, tối tăm. Trong lúc đó, nhân dân ngày càng hiểu rằng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Truyền thống yêu nước là sản phẩm hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đâu phải vì một lợi ích nào đó mà quên lãng. Lòng yêu nước của họ thật giản dị và trong sáng, song không phải vì thế mà họ không hiểu gì về giai cấp thống trị. Truyền thống yêu nước dần dần mang thệm yếu tố nhân dân, vì dân và thương dân. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định ""khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là ""thượng sách để giữ nước và Nguyễn Trãi: ""Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành thì người dân lao động cũng hiểu ""Mến người có nhân là dân; chở thuyền, lật thuyền cũng là dân""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Truyền thống yêu nước được tôi luyện và phát huy ngày càng cao. Nhưng, Việt Nam là một nước đa dân tộc. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước không chỉ dành riêng cho một tộc người, một địa phương hay một nhóm người, một giai cấp nào mà là sự nghiệp của tất cả các tộc người sống trên đất Việt Nam. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn chặt với ý thức đoàn kết, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trên đất Việt Nam, đoàn kết tất cả các tộc người trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trên bước đường phát triển của chế độ phong kiến, không ít kẻ trong giai cấp thống trị vì quyền lợi của giai cấp mình, vì sự giàu sang phú quý của bản thân mình mà đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân hoặc phản bội Tổ quốc hoặc đẩy nhân dân lao động vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, khổ cực, tối tăm. Trong lúc đó, nhân dân ngày càng hiểu rằng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Truyền thống yêu nước là sản phẩm hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đáu phải vì một lợi ích nào đó mà quên lãng. Lòng yêu nước của họ thật giản dị và trong sáng, song không phải vì thế mà họ không hiểu gì về giai cấp thống trị. Truyền thống yêu nước dần dần mang thêm yếu tố nhân dân, vì dân và thương dân. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định ""khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là ""thượng sách để giữ nước và Nguyễn Trãi: ""Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành thì người dân lao động cũng hiểu ""Mến người có nhân là dân; chở thuyền, lật thuyền cũng là dân""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược hay đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời, chính vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết lại, nhất trí đồng lòng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến đấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng. Và cũng có thể nói rằng, chí trong kháng chiến báo vệ đất nước, báo vệ nền độc lập dân tộc, ý thức, tình cảm và tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước mới trở nên trong sáng, chán thành và cao thượng hơn bao giờ hết. Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bột nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Giữa những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: ""Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"". Nhưng chiến tranh dù có dai dẳng đến đâu cũng chí là nhất thời, kháng chiến thắng lợi, đất nước trở lại yên bình. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ, nhưng sự chi phối của chế độ phong kiến không tạo được khả nâng chuyển hoá những nét đặc sắc, cao quý nói trên thành một động lực to lớn, đưa đất nước vươn lên tiên tiến, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược hay đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời, chính vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết lại, nhất trí đồng lòng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến đấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng. Và cũng có thể nói rằng, chí trong kháng chiến báo vệ đất nước, báo vệ nền độc lập dân tộc, ý thức, tình cảm và tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước mới trở nên trong sáng, chân thành và cao thượng hơn bao giờ hết. Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bột nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Giữa những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: ""Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"". Nhưng chiến tranh dù có dai dẳng đến đâu cũng chí là nhất thời, kháng chiến thắng lợi, đất nước trở lại yên bình. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ, nhưng sự chi phối của chế độ phong kiến không tạo được khả nâng chuyển hoá những nét đặc sắc, cao quý nói trên thành một động lực to lớn, đưa đất nước vươn lên tiên tiến, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược hay đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời, chính vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết lại, nhất trí đồng lòng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến đấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng. Và cũng có thể nói rằng, chí trong kháng chiến báo vệ đất nước, báo vệ nền độc lập dân tộc, ý thức, tình cảm và tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước mới trở nên trong sáng, chân thành và cao thượng hơn bao giờ hết. Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bột nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Giữa những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: ""Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước""). Nhưng chiến tranh dù có dai dẳng đến đâu cũng chí là nhất thời, kháng chiến thắng lợi, đất nước trở lại yên bình. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ, nhưng sự chi phối của chế độ phong kiến không tạo được khả nâng chuyển hoá những nét đặc sắc, cao quý nói trên thành một động lực to lớn, đưa đất nước vươn lên tiên tiến, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược hay đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời, chính vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết lại, nhất trí đồng lòng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến đấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng. Và cũng có thể nói rằng, chí trong kháng chiến báo vệ đất nước, báo vệ nền độc lập dân tộc, ý thức, tình cảm và tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước mới trở nên trong sáng, chán thành và cao thượng hơn bao giờ hết. Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bột nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Giữa những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: ""Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước""). Nhưng chiến tranh dù có dai dẳng đến đâu cũng chí là nhất thời, kháng chiến thắng lợi, đất nước trở lại yên bình. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ, nhưng sự chi phối của chế độ phong kiến không tạo được khả nâng chuyển hoá những nét đặc sắc, cao quý nói trên thành một động lực to lớn, đưa đất nước vươn lên tiên tiến, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Trên thế giới, có lẽ không có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược hay đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước như dân tộc Việt Nam. Đó là nét đặc trưng nổi bật nhất của lịch sử dân tộc. Đồng thời, chính vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết lại, nhất trí đồng lòng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ, phát huy mọi tài năng, trí tuệ, chiến đấu dũng cảm giành thắng lợi cuối cùng. Và cũng có thể nói rằng, chí trong kháng chiến báo vệ đất nước, báo vệ nền độc lập dân tộc, ý thức, tình cảm và tâm hồn của những người Việt Nam yêu nước mới trở nên trong sáng, chân thành và cao thượng hơn bao giờ hết. Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc là nét đặc trưng nổi bột nhất của truyền thống yêu nước Việt Nam. Giữa những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: ""Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước""). Nhưng chiến tranh dù có dai dẳng đến đâu cũng chỉ là nhất thời, kháng chiến thắng lợi, đất nước trở lại yên bình. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ, nhưng sự chi phối của chế độ phong kiến không tạo được khả năng chuyển hoá những nét đặc sắc, cao quý nói trên thành một động lực to lớn, đưa đất nước vươn lên tiên tiến, làm cho cuộc sống của mọi người dân ngày càng tươi đẹp. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Sau Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam; miền Nam đấu tranh chống địch ""bình định - lấn chiếm"", tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam được kí kết, quân Mĩ buộc phải rút khỏi nước ta, làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hoà bình, tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đến cuối tháng 6 - 1973, miền Bắc căn bản hoàn thành việc tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường. Sau hai năm (1973 - 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, mạng lưới giao thông, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển. Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 - hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965, năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4 %. Sản lượng lúa năm 1973 là 5 triệu tấn; đến năm 1974, mạc dù có những khó khăn do thiên tai, miền Bắc cũng đạt được 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1974 tăng 15 % so với năm 1973. Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 - 1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường miền Nam, Campuchia, Lào gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyện môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong 2 tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 57 000 bộ đội (trong tổng số 108 000 bộ đội của kế hoạch động viên năm 1975).  Về vật chất - kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. Từ đầu mùa khô 1973 - 1974 đến đầu mùa khô 1974 - 1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thục, thực phẩm (trong đó có 4,6 vạn tấn vũ khí đạn dược, 12,4 vạn tấn gạo, 3,2 vạn tấn xăng dầu). Chi viện cho miền Nam trong thời kì này, ngoài yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chiến đấu tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, còn phải phục vụ nhiệm vụ xây dụng vùng giải phóng (trên các mặt quốc phòng, kinh tế, giao thông vân tải, văn hoá, giáo dục, y tế) và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Với Hiệp định Pari năm 1973, ta đã ""đánh cho Mĩ cút"". Ngày 29 - 3 - 1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rút khỏi nước ta, song Mĩ vẫn giữ lại hơn 2 vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Được cố vấn Mĩ chỉ huy và nhận viện trợ của Mĩ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pari. Chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch ""tràn ngập lãnh thổ"", liên tiếp mở những cuộc hành quân ""bình định - lấn chiếm vùng giải phóng. Đây thực chất là hành động tiếp tục chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh của Níchxơn. Về phía ta, việc kí Hiệp đinh Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam năm 1973 và việc quân đội xâm lược Mĩ rút khỏi nước ta, đã tạo nên sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Trong cuộc đấu tranh chống địch ""bình định - lấn chiếm"", chống âm mưu ""tràn ngập lãnh thổ của chúng, những tháng đầu sau khi kí Hiệp định, quân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, do quá nhấn mạnh đến hoà bình, hoà hợp dân tộc... nên trên một số địa bàn quan trọng, ta bị mất đất, mất dân.  " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Nắm bắt tình hình trên, tháng 7 - 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21. Trên cơ sở nhận định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu - kẻ đang phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc, ngăn càn nhân dân ta đi tới độc lập, tụ do, thống nhất Tổ quốc - Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ cơ bàn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn hiện tại là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hội nghị nhấn mạnh trong bất cứ tình hình nào cũng phải tiếp tục con đường cách mạng bạo lực, phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao. Thực hiên Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng, từ cuối năm 1973, quân dân ta ở miền Nam vừa kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ vùng giải phóng, vừa chủ động mở những cuộc tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, ta mở đợt hoạt động quân sự ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long (từ ngày 12 - 12 - 1974 đến ngày 6 - 1 - 1975), loại khỏi vòng chiến đấu 3 000 địch, giải phóng Đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long với 5 vạn dân. Sau chiến thắng này của ta, chính quyền Sài Gòn phản ứng mạnh và đưa quân chiếm lại, nhưng đã thất bại. Còn Mĩ chỉ phản ứng yếu ớt, chủ yếu dùng áp lực đe doạ từ xa.  Thực tế thắng lợi của ta ở Phước Long, phải ứng của Mĩ và chính quyền Sài Gòn sau đó cho thây rõ về sự lớn mạnh và khả năng thắng lớn của quân ta, sự suy yếu và bất lực của quân đội Sài Gòn; về khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự rât hạn chế của Mĩ. Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao nhằm tố cáo hành động của Mĩ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc; nêu cao tính chất chính nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân ta; đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thực hiện các quyền tự do, dân chủ... Tại các vùng giải phóng, đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn dự trữ chiến lược cho cuộc chiến đấu hoàn thành giải phóng miền Nam. Năm 1973, diện tích gieo trồng ở các vùng giải phóng thuộc đồng bằng sông Củu Long tăng 20% so với năm 1972. Nhờ sản xuất phát triển, đóng góp của nhân dân cho cách mạng ngày càng tăng. Năm 1973, nhân dân Khu 9 (miền Tây Nam Bộ) đã đóng góp 1,7 triệu giạ lúa (bằng 34 000 tấn) và 6 tháng đầu năm 1974 đã đóng góp được 2,4 triệu giạ (bằng 48 000 tấn). Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, các mặt hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế cũng được đẩy mạnh" 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Cuối năm 1974 - đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Tuy nhiên, Bộ Chính trị nhấn mạnh ""cả năm 1975 là thời cơ và chỉ rõ ""nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975"". Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá... giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Cuối năm 1974 - đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Tuy nhiên, Bộ Chính trị nhấn mạnh ""cả năm 1975 là thời cơ và chỉ rõ nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975"". Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá... giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã diễn ra trong gần 2 tháng (từ ngày 4 - 3 đến ngày 2 - 5) qua 3 chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 - 3 đến ngày 24 - 3) Tây Nguyên là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, cả ta và địch đều cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiến công của quân ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975. Thực hiện kế hoạch, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10-3- 1975 đã giành thắng lợi (trước đó, ngày 4 - 3, quân ta đánh nghi binh ở Plâyku và Kon Tum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó). Ngày 12-3- 1975, địch phản công chiếm lại Buôn Ma Thuột nhưng không thành. Sau hai đòn đau ở Buôn Ma Thuột (vào các ngày 10 và 12 - 3), hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn. Ngày 14 - 3 - 1975, Nguyễn Văn Thiêu ra lênh rút toàn bộ quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24 - 3 - 1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn cuối: Từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 - 3 đến ngày 24 - 3) Tây Nguyên là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, cả ta và địch đều cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiến công của quân ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975. Thực hiện kế hoạch, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10-3- 1975 đã giành thắng lợi (trước đó, ngày 4 - 3, quân ta đánh nghi binh ở Plâyku và Kon Tum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó). Ngày 12-3- 1975, địch phản công chiếm lại Buôn Ma Thuột nhưng không thành. Sau hai đòn đau ở Buôn Ma Thuột (vào các ngày 10 và 12 - 3), hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn. Ngày 14 - 3 - 1975, Nguyễn Văn Thiêu ra lênh rút toàn bộ quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24 - 3 - 1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng. chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn cuối: Từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 - 3 đến ngày 29 - 3) Nhận thấy thời cơ chiến lược để nhanh và hết sức thuận lợi, ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên là tiến hành chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng. Phát hiên địch co cụm ở Huế, ngày 21 - 3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thể bao vây trong thành phố. Đúng 10 giờ 30 ngày 25 - 3, quân ta tiến vào cố đô Huế, để hôm sau (26 - 3) thì giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên. Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ và quân đội Sài Gòn, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn địch bị dồn ứ về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Sáng ngày 29 - 3, quân ta từ ba phía bắc, tây, nam tiên thẳng vào thành phố, đến 3 giờ chiều thì giải phóng toàn bộ Đà Nẵng. Cùng thời gian giải phóng Huế, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kỉ, Quảng Ngãi, Chu Lai... tạo thệm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam. Từ cuối tháng 3 đến tháng 4, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và một số tỉnh Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương và quân chủ lực, đã nổi dậy đánh địch giành quyền làm chủ. Các đảo biển miền Trung cũng lần lượt được giải phóng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 - 4 đến ngày 30 - 4) Sau thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận đinh ""Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam""; từ đó đi đến quyết định ""Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975)"". Ngày 14 - 4 - 1975, Bộ Chính trị quyêt đình chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang - những căn cứ phòng thủ trọng yêu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Trước việc tuyên phòng thủ bị chọc thủng (Phan Rang ngày 16 - 4, Xuân Lộc ngày 21 - 4) và Phnôm Pênh (thủ đô Campuchi giải phóng (17 - 4), nội bộ Mĩ và chính quyền Sài Gòn càng thệm hoảng loạn. Ngày 18 - 4, Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hết người Mĩ khỏi Sài Gòn. Ngày 21 - 4, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống. 17 giờ ngày 26 - 4, quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch, 5 cánh quân vượt qua tuyên phòng thủ vòng ngoài của địch tiên vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiểm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30 - 4, xe tăng và bộ binh của ta tiên vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các Sài Gòn, Dương Văn Minh (vừa lên giữ chức Tổng thống Chính phủ Sài Gòn ngày 28 - 4) đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đên 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại thùa thắng nhất tề đúng lên tiến công và nổi dậy, theo phương thúc ""xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh"". Đến ngày 2 - 5, Châu Đốc, tỉnh cuối cùng ở miền Nam, được giải phóng." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, đường lối tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết hợp đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại giao. Nhân dân ta ở hai miền giàu lòng yêu nước, đoàn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền. Cuộc kháng chiến thắng lợi còn nhờ sự phối hợp chiến đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù chung của ba dân tộc ở Đông Dương;  sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; phong trào nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám 1945; chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Trên cơ sở đó, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nướcc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc - kỉ nguyên đất nướcc độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mĩ đã tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giải phóng dân tộc. Thắng lợi đó ""Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc""." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Nhân dân các dân tộc đều có lòng yêu nước của mình. Lòng yêu nước bắt nguồn từ những tình cảm của từng con người đối với người mẹ, người cha, những người anh em ruột thịt và mở rộng ra, với nơi chôn nhau cắt rốn, với những con người và không gian nhỏ hẹp của cộng đồng, nơi mình sinh sống, với mảnh đất mà mình đã ""đổ mồ hôi lấy bát cơm đầy"". Từ nhiều nghìn năm trước đấy, những người nguyên thuỷ trên đất Việt Nam đã trải qua những chặng đường lao động gian khổ, nâng cao dần cuộc sống và cùng nhau tiến xuống vùng đồng bằng, Châu thổ các con sông lớn. Bằng lao động và giúp đỡ lẫn nhau, họ từng bước sáng tạo ra nền văn minh Việt cổ đề từ đó họp nhất lại thành một quốc gia - nước Văn Lang. Quá trình giao lưu, trao đổi thường xuyên diễn ra trên đất nước đã phát huy những tình cảm yêu thương, gắn bó mang tính địa phương, làng chạ trước đấy thành một tình cảm rộng lớn hơn, bao quát hơn - lòng yêu nước. Nhưng, những mối quan hệ sơ khai về kinh tế- chính trị của quốc gia Văn Lang cùng những yếu tố văn hoá chung chỉ mới là hạt nhân, là cơ sở của lòng yêu nước. Thách thức lớn lao được đặt ra khi quân Tần xâm lược và trong cuộc chiến đấu lâu dài, gian khổ, những tình cảm yêu nước của người Lạc Việt và Âu Việt thực sự được thử thách và gắn kết lợi. Đánh bại quán xâm lược, nhà nước Âu Lạc ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của lòng yêu nước. Tiếp theo, cuộc đấu tranh đầy gian lao, quyết liệt của người dân Việt cổ trong hơn 1000 năm Bắc thuộc vừa chống chế độ đô hộ, giành lại quyền tự chủ, vừa bảo vệ những di sản văn hoá của tổ tiên đã nâng cao và phát triển hơn nữa lòng yêu nước. Những huyền thoại Con Rồng cháu Tiên, Quả hầu mẹ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, v.v... được lan truyền rộng khắp cùng với việc xây dựng miếu thờ các vị anh hùng chống đô hộ đã thực sự gắn kết, khắc sâu lòng yêu nước của người dân Việt đề từ đó hình thành truyền thống yêu nước Việt Nam. " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Sau Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam; miền Nam đấu tranh chống địch ""bình định - lấn chiếm"", tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam được kí kết, quân Mĩ buộc phải rút khỏi nước ta, làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hoà bình, tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đến cuối tháng 6 - 1973, miền Bắc căn bản hoàn thành việc tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường. Sau hai năm (1973 - 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, mạng lưới giao thông, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển. Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 - hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tổng sản phđm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965, năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4 %. Sản lượng lúa năm 1973 là 5 triệu tấn; đến năm 1974, mạc dù có những khó khăn do thiên tai, miền Bắc cũng đạt được 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1974 tăng 15 % so với năm 1973. Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 - 1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường miền Nam, Campuchia, Lào gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong 2 tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 57 000 bộ đội (trong tổng số 108 000 bộ đội của kế hoạch động viên năm 1975).  Về vật chất - kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. từ đầu mùa khô 1973 - 1974 đến đấu mùa khô 1974 - 1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tân vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dâu, thuốc men, lương thực, thực phâm (trong đó có 4,6 vạn tân vũ khí đạn dược, 12,4 vạn tân gạo, 3,2 vạn tân xăng dâu). Chi viện cho miền Nam trong thời kỉ này, ngoài yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chiến đấu tiến tới Tổng tiến công và nổi dấy Xuân 1975, còn phải phục vụ nhiệm vụ xây dụng vùng giải phóng (trên các mạt quốc phòng, kinh tế, giao thông vẫn tài, văn hoá, giáo dục, y tế) và chuân bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thức." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Với Hiệp định Pari năm 1973, ta đã ""đánh cho Mĩ cứt"". Ngày 29 - 3 - 1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rút khỏi nước ta, song Mĩ vẫn giữ lại hơn 2 vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Được cố vấn Mĩ chỉ huy và nhận viện trợ của Mĩ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pari. Chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch ""tràn ngập lãnh thổ"", liên tiếp mở những cuộc hành quân ""bình định - lấn chiếm vùng giải phóng. Đấy thực chất là hành động tiếp tục chiến lược ""Việt Nam hoá chiến tranh của Níchxơn. Về phía ta, việc kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam năm 1973 và việc quân đội xâm lược Mĩ rút khỏi nước ta, đã tạo nên sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Trong cuộc đấu tranh chống địch ""bình định - lấn chiếm"", chống âm mưu ""tràn ngập lãnh thổ của chúng, những tháng đầu sau khi kí Hiệp định, quân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, do quá nhấn mạnh đến hoà bình, hoà hợp dân tộc... nên trên một số địa bàn quan trọng, ta bị mất đất, mất dân.  " 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Nắm bắt tình hình trên, tháng 7 - 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21. Trên cơ sở nhộn định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu - kẻ đang phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc, ngăn càn nhân dân ta đi tới độc lộp, tự do, thống nhất Tổ quốc - Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ cơ bàn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn hiện tại là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hội nghị nhđn mạnh trong bđt cứ tình hình nào cũng phài tiếp tục con đường cách mạng bạo lực, phài nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đđu tranh trên cà ba mạt trộn: quân sự, chính trị, ngoại giao. Thực hiên Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng, từ cuối năm 1973, quân dân ta ở miền Nam vừa kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ vùng giải phóng, vừa chủ động mở những cuộc tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, ta mở đợt hoạt động quân sự ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14 - Phướcc Long (từ ngày 12 - 12 - 1974 đến ngày 6 - 1 - 1975), loại khỏi vòng chiến đấu 3 000 địch, giải phóng Đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phướcc Long với 5 vạn dân. Sau chiến thắng này của ta, chính quyền Sài Gòn phản ứng mạnh và đưa quân chiếm lại, nhưng đã thất bại. Còn Mĩ chỉ phản ứng yêu ớt, chủ yếu dùng áp lực đe doạ từ xa.  thực tế thắng lợi của ta ở Phướcc Long, phán úng của Mĩ và chính quyền Sài Gòn sau đó cho thấy rõ về sự lớn mạnh và khâ năng thắng lớn của quân ta, sự suy yêu và bât lực của quân đội Sài Gòn; về khâ năng can thiệp trở lại bằng quân sự rât hạn chế của Mĩ. Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao nhằm tố cáo hành động của Mĩ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc; nêu cao tính chất chính nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân ta; đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thực hiện các quyền tự do, dân chủ... Tại các vùng giải phóng, đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn dự trữ chiến lược cho cuộc chiến đấu hoàn thành giải phóng miền Nam. Năm 1973, diện tích gieo trồng ở các vùng giâi phóng thuộc đồng bằng sông Củu Long tăng 20% so với năm 1972. Nhờ sản xuât phát triển, đóng góp của nhân dân cho cách mạng ngày càng tăng. Năm 1973, nhân dân Khu 9 (miền tây Nam Bộ) đỡ đóng góp 1,7 triệu giạ lúa (bằng 34 000 tân) và 6 tháng đấu năm 1974 đỡ đóng góp được 2,4 triệu giạ (bằng 48 000 tân). Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, các mặt hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế cũng được đẩy mạnh" 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch tây Nguyên (từ ngày 4 - 3 đến ngày 24 - 3) tây Nguyên là địa bàn chiến lược hệt sức quan trọng, cả ta và địch đều cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiên công của quân ta, địch chốt giữ ở đấy một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta quyết định chọn tây Nguyên làm hướng tiên công chủ yếu trong năm 1975. Thực hiên kể hoạch, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở tây Nguyên. Trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10-3- 1975đã giành thắng lợi (trước đó, ngày 4 - 3, quân ta đánh nghi binh ở Plấyku và Kon Tum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó). Ngày 12-3- 1975, địch phản công chiếm lại Buôn Ma Thuột nhưng không thành. Sau hai đòn đau ở Buôn Ma Thuột (vào các ngày 10 và 12 - 3), hệ thống phòng thủ của địch ở tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn. Ngày 14 - 3 - 1975, Nguyễn Văn Thiêu ra lệnh rút toàn bộ quân khỏi tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đên ngày 24 - 3 - 1975, tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng. chiến dịch tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn cuối: Từ tiến công chiến lược ở tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiêri trường miền Nam." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975)."," Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 - 4 đến ngày 30 - 4) Sau thắng lợi chiến dịch tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nang, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định ""Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam""; từ đó đi đến quyết định ""Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 - 1975)"". Ngày 14 - 4 - 1975, Bộ Chính trị quyết đình chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta tiên công Xuân Lộc và Phan Rang - những căn cứ phòng thủ trọng yêu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Trước việc tuyến phòng thủ bị chọc thủng (Phan Rang ngày 16 - 4, Xuân Lộc ngày 21 - 4) và Phnôm Pênh (thủ đô Campuchi giải phóng (17 - 4), nội bộ Mĩ và chính quyền Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Ngày 18 - 4, Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hệt người Mĩ khỏi Sài Gòn. Ngày 21 - 4, Nguyễn Văn Thiệu tuyến bốtừ chức Tổng thống. 17 giờ ngày 26 - 4, quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch, 5 cánh quân vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiên vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiểm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30 - 4, xe tăng và bộ binh của ta tiên vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các Sài Gòn, dương Văn Minh (vừa lên giữ chức Tổng thống Chính phủ Sài Gòn ngày 28 - 4) đã phải tuyến bố đầu hàng không điều kiện. Đên 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại thùa thắng nhất tề đúng lên tiến công và nổi dấy, theo phương thức ""xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh"". Đến ngày 2 - 5, Châu Đốc, tỉnh cuối cùng ở miền Nam, được giải phóng." 10 + 11 + 12,Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thể kỉ XVIII,Bài 28: Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến,"Truyền thống yêu nước được tôi luyện và phát huy ngày càng cao. Nhưng, Việt Nam là một nước đa dân tộc. Sự nghiệp dựng nước và giữ nước không chỉ dành riêng cho một tộc người, một địa phương hay một nhóm người, một giai cấp nào mà là sự nghiệp của tất cả các tộc người sống trên đất Việt Nam. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn chặt với ý thức đoàn kết, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trên đất Việt Nam, đoàn kết tất cả các tộc người trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trên bước đường phát triển của chế độ phong kiến, không ít kẻ trong giai cấp thống trị vì quyền lợi của giai cấp mình, vì sự giàu sang phú quý của bản thân mình mà đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân hoặc phản bội Tổ quốc hoặc đẩy nhân dân lao động vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, khổ cực, tối tăm. Trong lúc đó, nhân dân ngày càng hiểu rằng nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Truyền thống yêu nước là sản phẩm hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đáu phải vì một lợi ích nào đó mà quên lãng. Lòng yêu nước của họ thật giản dị và trong sáng, song không phải vì thế mà họ không hiểu gì về giai cấp thống trị. Truyền thống yêu nước dần dần mang thêm yếu tố nhân dân, vì dân và thương dân. Nếu như Trần Hưng Đạo khẳng định ""khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc"" là ""thượng sách để giữ nước và Nguyễn Trãi: ""Nhớ thuở Lam Sơn đọc võ kinh; Bấy giờ chí đã ở dân lành thì người dân lao động cũng hiểu ""Mến người có nhân là dân; chở thuyền, lật thuyền cũng là dân""." 10 + 11 + 12,Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.,"Bài 28: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phống hoàn toàn miền Nam (1973-1975).","Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam được kí kết, quân Mĩ buộc phải rút khỏi nước ta, làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hoà bình, tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đến cuối tháng 6 - 1973, miền Bắc căn bản hoàn thành việc tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường. Sau hai năm (1973 - 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, mạng lưới giao thông, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển. Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 - hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965, năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4 %. Sản lượng lúa năm 1973 là 5 triệu tấn; đến năm 1974, mạc dù có những khó khăn do thiên tai, miền Bắc cũng đạt được 4,8 triệu tấn. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1974 tăng 15% so với năm 1973. Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 - 1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường miền Nam, Campuchia, Lào gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyện môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong 2 tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 57 000 bộ đội (trong tổng số 108 000 bộ đội của kế hoạch động viên năm 1975).  Về vật chất - kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam. Từ đầu mùa khô 1973 - 1974 đến đầu mùa khô 1974 - 1975, miền Bắc đưa vào chiến trường hơn 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thục, thực phẩm (trong đó có 4,6 vạn tấn vũ khí đạn dược, 12,4 vạn tấn gạo, 3,2 vạn tấn xăng dầu). Chi viện cho miền Nam trong thời kì này, ngoài yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chiến đấu tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, còn phải phục vụ nhiệm vụ xây dụng vùng giải phóng (trên các mặt quốc phòng, kinh tế, giao thông vân tải, văn hoá, giáo dục, y tế) và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa từ thời hậu kì trung đại dẫn đến bước chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Bước chuyện ấy được mở đầu bởi các cuộc cách mạng tư sản. Tù giữa thế kỉ XVI, nhân dân Hà Lan đã đấu tranh lật đổ ách thống trị của Vương triều Tây Ban Nha, thiết lập nền cộng hoà tư sản đầu tiên. Tiếp đó, cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII là trận tấn công lớn vào thành trì của chế độ cũ, lật đố quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho lực lượng sản xuất tư bán chủ nghĩa phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Sự phát triển của kinh tế tư bàn chủ nghĩa từ thời hậu kì trung đại dẫn đến bước chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Bước chuyển ấy được mở đầu bởi các cuộc cách mạng tư sản. Tù giữa thế kỉ XVI, nhân dân Hà Lan đã đấu tranh lật đổ ách thống trị của Vương triều Tây Ban Nha, thiết lập nền cộng hoà tư sản đầu tiên. Tiếp đó, cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII là trận tấn công lớn vào thành trì của chế độ cũ, lật đố quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho lực lượng sản xuất tư bán chủ nghĩa phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Sự phát triển của kinh tế tư bàn chủ nghĩa từ thời hậu kì trung đại dẫn đến bước chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Bước chuyện ấy được mở đầu bởi các cuộc cách mạng tư sản. Từ giữa thế kỉ XVI, nhân dân Hà Lan đã đấu tranh lật đổ ách thống trị của Vương triều Tây Ban Nha, thiết lập nền cộng hoà tư sản đầu tiên. Tiếp đó, cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII là trận tấn công lớn vào thành trì của chế độ cũ, lật đố quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho lực lượng sản xuất tư bán chủ nghĩa phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Sự phát triển của kinh tế tư bàn chủ nghĩa từ thời hậu kì trung đại dẫn đến bước chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Bước chuyện ấy được mở đầu bởi các cuộc cách mạng tư sản. Tù giữa thế kỉ XVI, nhân dân Hà Lan đã đấu tranh lật đổ ách thống trị của Vương triều Tây Ban Nha, thiết lập nền cộng hoà tư sản đầu tiên. Tiếp đó, cách mạng tư sản Anh giữa thế kỉ XVII là trận tấn công lớn vào thành trì của chế độ cũ, lật đố quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho lực lượng sản xuất tư bán chủ nghĩa phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Trước cách mạng, lãnh thổ thuộc hai nước Bỉ và Hà Lan ngày nay, gọi là Nê-đéc-lan (nghĩa là ""vùng đất thấp"", vì phần lớn đất đai ở đây thấp hơn mực nước biển). Cuối thế kỉ XV, Nê-đéc-lan lệ thuộc Áo; đến giữa thế kỉ XVI, lại chịu sự thống trị của Vương triều Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỉ XVI, Nê-đẻc-lan là một trong những vùng kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất Châu Âu với nhiều thành phố và hải cảng, trong đó đã hình thành những trung tâm thương mại nổi tiếng là U-trếch, Am-xtéc-đam, An-véc-pen... Cùng với sự lớn mạnh của công thương nghiệp, giai cấp tư sản Nê-đéc-lan sớm hình thành, ngày càng có thế lực về kinh tế. Cũng vào thời điểm này, khi làn sóng cải cách tôn giáo lan rộng khắp Châu Âu thì Nê-đéc-lan là một địa bàn thuận lợi đế tư tưởng Tân giáo của Can-vanh phát triển. Để củng cố uy quyền, Quốc vương Tây Ban Nha đã tăng cường kiểm soát và vơ vét của cải của nhân dân Nê-đéc-lan bằng việc đánh thuê' nặng nề nhằm kìm hãm sự phát triển của ""vùng đất thấp này, đồng thời thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt những người theo Tân giáo. Triều đinh Tây Ban Nha còn ban lệnh: hễ ai là tín đồ Tân giáo, đàn ông sẽ bị chặt đẩu, đàn bà sẽ bị chôn sống hoặc thiêu chết, tài sản sẽ bị tịch thu; những người giúp đỡ, che giấu hoặc nói chuyện thân mật với tín đồ Tân giáo cũng bị tịch thu tài sản... " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Trước cách mạng, lãnh thổ thuộc hai nước Bỉ và Hà Lan ngày nay, gọi là Nê-đéc-lan (nghĩa là ""vùng đất thấp"", vì phần lớn đất đai ở đây thấp hơn mực nước biển). Cuối thế kỉ XV, Nê-đéc-lan lệ thuộc Áo; đến giữa thế kỉ XVI, lại chịu sự thống trị của Vương triều Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỉ XVI, Nê-đẻc-lan là một trong những vùng kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất Châu Âu với nhiều thành phố và hải cảng, trong đó đã hình thành những trung tám thương mại nổi tiếng là U-trếch, Am-xtéc-đam, An-véc-pen... Cùng với sự lớn mạnh của công thương nghiệp, giai cấp tư sản Nê-đéc-lan sớm hình thành, ngày càng có thế lực về kinh tế. Cũng vào thời điểm này, khi làn sóng cải cách tôn giáo lan rộng khắp Châu Âu thì Nê-đéc-lan là một địa bàn thuận lợi đế tư tưởng Tân giáo của Can-vanh phát triển. Để củng cố uy quyền, Quốc vương Tây Ban Nha đã tăng cường kiểm soát và vơ vét của cải của nhân dân Nê-đéc-lan bằng việc đánh thuê' nặng nề nhằm kìm hãm sự phát triển của ""vùng đất thấp này, đồng thời thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt những người theo Tân giáo. Triều đinh Tây Ban Nha còn ban lệnh: hễ ai là tín đồ Tân giáo, đàn ông sẽ bị chặt đẩu, đàn bà sẽ bị chôn sống hoặc thiêu chết, tài sản sẽ bị tịch thu; những người giúp đỡ, che giấu hoặc nói chuyện thân mật với tín đồ Tân giáo cũng bị tịch thu tài sản... " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Trước cách mạng, lãnh thổ thuộc hai nước Bỉ và Hà Lan ngày nay, gọi là Nê-đéc-lan (nghĩa là ""vùng đất thấp"", vì phần lớn đất đai ở đây thấp hơn mực nước biển). Cuối thế kỉ XV, Nê-đéc-lan lệ thuộc Áo; đến giữa thế kỉ XVI, lại chịu sự thống trị của Vương triều Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỉ XVI, Nê-đéc-lan là một trong những vùng kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất Châu Âu với nhiều thành phố và hải cảng, trong đó đã hình thành những trung tâm thương mại nổi tiếng là U-trếch, Am-xtéc-đam, An-véc-pen... Cùng với sự lớn mạnh của công thương nghiệp, giai cấp tư sản Nê-đéc-lan sớm hình thành, ngày càng có thế lực về kinh tế. Cũng vào thời điểm này, khi làn sóng cải cách tôn giáo lan rộng khắp Châu Âu thì Nê-đéc-lan là một địa bàn thuận lợi đế tư tưởng Tân giáo của Can-vanh phát triển. Để củng cố uy quyền, Quốc vương Tây Ban Nha đã tăng cường kiểm soát và vơ vét của cải của nhân dân Nê-đéc-lan bằng việc đánh thuê' nặng nề nhằm kìm hãm sự phát triển của ""vùng đất thấp này, đồng thời thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt những người theo Tân giáo. Triều đinh Tây Ban Nha còn ban lệnh: hễ ai là tín đồ Tân giáo, đàn ông sẽ bị chặt đẩu, đàn bà sẽ bị chôn sống hoặc thiêu chết, tài sản sẽ bị tịch thu; những người giúp đỡ, che giấu hoặc nói chuyện thân mật với tín đồ Tân giáo cũng bị tịch thu tài sản... " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Tây Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quần chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đứng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Táy Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đứng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Táy Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quần chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đứng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Tây Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đúng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Tây Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đúhg về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Táy Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đứng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Tây Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều Tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị Tây Ban Nha đã đứng về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyên bố thống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyển tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua Tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền Tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Tây Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc để lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Đầu thế kỉ XVII, Anh là nước có nền kỉnh tế phát triển nhất Châu Âu. Sản xuất công trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng. Tư sản Anh giàu lên nhanh chóng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương, chú yếu là bán len dạ và buôn nô lệ da đen. Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ, vốn là quý tộc, chuyển hướng kỉnh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, đuổi tá điền đi, biến ruộng đất thành đồng cỏ, rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy lông cung cấp cho thị trường. Bộ phận quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hoá, trở thành tầng lớp quý tộc mới. Chế độ phong kiến, với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và Giáo hội Anh, ngày càng cản trở sự kinh doanh làm giàu của tư sản và quý tộc mới. Dưới thời vua Sác-lơ I (từ năm 1625), nhiều thứ thuế mới được đặt ra, nhà nước nắm độc quyền thương mại và thu thuế thuyền bè, duy trì nhiều đặc quyền phong kiến, đời sống nhân dân càng thệm cơ cực. Mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với các thế lực phong kiến phản động được biểu hiện qua những cuộc xung đột giữa Quốc hội với nhà vua. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cách mạng xoay quanh vấn đề tài chính, khi Sác-lơ I triệu tập Quốc hội (4 - 1640) nhằm tăng thuế, để có tiền chi cho việc đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len ở miền Bắc nước Anh. Quốc hội, gồm đa số là quý tộc mới và tư sản, không phệ duyệt các khoản thuê' mới do vua đặt ra, kịch liệt công kích chính sách bạo ngược của nhà vua và đòi quyền kỉểm soát quân đội, tài chính và Giáo hội. Sác-lơ I định dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, song đã bị quần chúng nhân dân phản đối quyết liệt. Bị thất bại, Sác-lơ I chạy lên phía Bắc Luân Đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản công" 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Đầu thế kỉ XVII, Anh là nước có nền kỉnh tế phát triển nhất Châu Âu. Sản xuất công trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng. Tư sản Anh giàu lên nhanh chóng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương, chủ yếu là bán len dạ và buôn nô lệ da đen. Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ, vốn là quý tộc, chuyển hướng kỉnh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, đuổi tá điền đi, biến ruộng đất thành đồng cỏ, rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy lông cung cấp cho thị trường. Bộ phận quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hoá, trở thành tầng lớp quý tộc mới. Chế độ phong kiến, với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và Giáo hội Anh, ngày càng cản trở sự kinh doanh làm giàu của tư sản và quý tộc mới. Dưới thời vua Sác-lơ I (từ năm 1625), nhiều thứ thuế mới được đặt ra, nhà nước nắm độc quyền thương mại và thu thuế thuyền bè, duy trì nhiều đặc quyền phong kiến, đời sống nhân dân càng thệm cơ cực. Mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với các thế lực phong kiến phản động được biểu hiện qua những cuộc xung đột giữa Quốc hội với nhà vua. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cách mạng xoay quanh vấn đề tài chính, khi Sác-lơ I triệu tập Quốc hội (4 - 1640) nhằm tăng thuế, để có tiền chi cho việc đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len ở miền Bắc nước Anh. Quốc hội, gồm đa số là quý tộc mới và tư sản, không phệ duyệt các khoản thuê' mới do vua đặt ra, kịch liệt công kích chính sách bạo ngược của nhà vua và đòi quyền kỉểm soát quân đội, tài chính và Giáo hội. Sác-lơ I định dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, song đã bị quần chúng nhân dân phản đối quyết liệt. Bị thất bại, Sác-lơ I chạy lên phía Bắc Luân Đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản công" 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội. Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh. Do áp lực của quần chúng, đầu năm 1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trỏ thành nước cộng hoà do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599 - 1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới Đỉnh cao. Crôm-oen đem quán chinh phục Ai-len và Xcốt-len. Đê bảo vệ quyển lợi của mình, tư sản và quý tộc mới đã trao trọng trách cho Crôm-oen với tước Bảo hộ công. Nền độc tài quân sự được thiết lập (năm 1653). Sau khi Crôm-oen qua đời (1658), nước Anh lâm vào tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thoả hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ. Tháng 12 - 1688, Quốc hội đã tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan và là con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Cách mạng tư sán Anh đã lật đô chệ độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn. Đây là cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa trọng đại trong thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội. Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh. Do áp lực của quần chúng, đầu năm 1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hòa do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599 - 1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới Đỉnh cao. Crôm-oen đem quán chinh phục Ai-len và Xcốt-len. Để bảo vệ quyển lợi của mình, tư sản và quý tộc mới đã trao trọng trách cho Crôm-oen với tước Bảo hộ công. Nền độc tài quân sự được thiết lập (năm 1653). Sau khi Crôm-oen qua đời (1658), nước Anh lâm vào tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thoả hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ. Tháng 12 - 1688, Quốc hội đã tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan và là con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Cách mạng tư sản Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn. Đây là cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa trọng đại trong thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội. Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh. Do áp lực của quần chúng, đầu năm 1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hòa do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599 - 1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới đỉnh cao. Crôm-oen đem quân chinh phục Ai-len và Xcốt-len. Để bảo vệ quyển lợi của mình, tư sản và quý tộc mới đã trao trọng trách cho Crôm-oen với tước Bảo hộ công. Nền độc tài quân sự được thiết lập (năm 1653). Sau khi Crôm-oen qua đời (1658), nước Anh lâm vào tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thoả hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ. Tháng 12 - 1688, Quốc hội đã tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan và là con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Cách mạng tư sản Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn. Đây là cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa trọng đại trong thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1642, Sác-lơ I tuyên chiến với Quốc hội. Từ năm 1642 đến năm 1648, đã xảy ra nội chiến giữa Quốc hội được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, với nhà vua có sự hỗ trợ của quý tộc phong kiến và Giáo hội Anh. Do áp lực của quần chúng, đầu năm 1649, Sác-lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hòa do Ô-li-vơ Crôm-oen (1599 - 1658) đứng đầu. Cách mạng đạt tới Đỉnh cao. Crôm-oen đem quân chinh phục Ai-len và Xcốt-len. Để bảo vệ quyển lợi của mình, tư sản và quý tộc mới đã trao trọng trách cho Crôm-oen với tước Bảo hộ công. Nền độc tài quân sự được thiết lập (năm 1653). Sau khi Crôm-oen qua đời (1658), nước Anh lâm vào tình trạng không ổn định về chính trị, dẫn đến sự thoả hiệp giữa Quốc hội với lực lượng phong kiến cũ. Tháng 12 - 1688, Quốc hội đã tiến hành chính biến, đưa Vin-hem Ô-ran-giơ (Quốc trưởng Hà Lan và là con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập. Cách mạng tư sản Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn. Đây là cuộc cách mạng tư sản có ý nghĩa trọng đại trong thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong năm đầu là khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở hai miền, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Trải qua hơn 20 năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc. ""Chiến tranh phá hoại của Mĩ đỡ phá huỷ hầu hết những cái mà nhân dân ta đỡ tốn biết bao công sức để xây dụng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị châm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm""(,). Miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn ở trung ương bị sụp đổ, nhưng cơ sở của chính quyền này ở địa phương cùng bao di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại. Cuộc chiến tranh của Mĩ đã gây ra hậu quả nặng nề. Nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá. Nửa triệu hécta ruộng đất bị bỏ hoang. Một triệu hécta rừng bị chất độc hoá học và bom đạn cày xới. Vô số bom mìn còn vùi lấp trên các cánh đồng, ruộng vườn, nơi cư trú của nhân dân. Đội ngũ thất nghiệp có tới hàng triệu người. Số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân.  Miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pari năm 1973, nhưng do bị tàn phá nặng nề của chiến tranh phá hoại, nên đến giữa năm 1976, ta mới căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 6 tháng cuối năm 1975 và 6 tháng đầu năm 1976, miền Bắc có những tiến bộ đáng kể. Diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp 1976 đều tăng hơn năm 1975. Nhiều công trình, nhà máy được mở rộng và xây dụng mới. Sản lượng phân lớn các sản phẩm quan trọng đều đạt và vượt mức trước chiến tranh. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế phát triển mạnh. Miền Bắc còn làm nghĩa vụ của căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia trong thời kì mới. Ở miền Nam, công việc tiếp quản vùng mới giải phóng từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo, từ căn cứ quân sự đến các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hoá được tiến hành khẩn trương." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"ở những vùng mới giải phóng, việc thành lập chính quyền cách mạng và đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... chính quyền cách mạng tuyên bố thành lập ngay sau khi giải phóng hoàn toàn. Được sự hướng dẫn và giúp đỡ của Nhà nước, hàng triệu đồng bào ta, trong thời gian chiến tranh bị dồn vào các ""ấp chiến lược hay bỏ chạy vào các thành phố không có việc làm, được hồi hương, chuyển về nông thôn tham gia sản xuất hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới.  Chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của bọn phản động trốn ra nước ngoài, tuyên bố xoá bỏ hình thức bóc lột phong kiến, tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân, quốc hữu hoá ngân hàng, thay đồng tiền cũ bằng đồng tiền mới của cách mạng. Chính quyền cách mạng chú trọng khôi phục sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của nhân dân về lương thực. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp, cả những cơ sở bị gián đoạn quan hệ với nước ngoài, đều trở lại hoạt động. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế... được tiến hành khẩn trương ngay từ những ngày đầu mới giải phóng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam về mặt lãnh thổ đã được thống nhất, song ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Thực tế đó trái với nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dân hai miền Bắc - Nam là sớm được sum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện quyền lực chung cho nhân dân cả nước. Đáp lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử dân tộc - ""Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"", Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9 - 1975) đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Nghị quyết của Đàng nêu rõ: ""Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam"". Từ ngày 15 đến ngày 21 - 11 - 1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự. Hội nghị nhất trí hoàn toàn các vấn đề về chủ trương, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ngày 25 - 4 - 1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bỏ phiếu và bầu ra 492 đại biểu. " 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.," Từ ngày 24 - 6 đến ngày 3 - 7 - 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất - Quốc hội khoá VI, họp kì đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất, quyết định tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 2 - 7 - 1976), quyết định Quốc huy mang dòng chữ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn - Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp. Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước, Trường Chinh làm Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ. Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chúc thành ba cấp chính quyền: cấp tỉnh và thành phố trục thuộc Trung ương, cấp huyện và tương đương, cấp xã và tương đương. Ở mỗi cấp chính quyền có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khoá VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành. Từ đây, việc tiếp tục hoàn thành thống nhất trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước.  Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được thành lập đã có 94 nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao (đến cuối năm 1980 có 106 nước. Ngày 20 - 9 - 1977, nước ta trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Tháng 8 - 1566, nhân dân nhiều nơi ở miền Bắc Nê-đéc-lan đã nổi dậy khởi nghĩa, mà mục tiêu tấn công đầu tiên là Giáo hội - chỗ dựa vững chắc của chính quyền Táy Ban Nha. Tháng 8 - 1567, Vương triều tây Ban Nha đưa quân sang Nê-đéc-lan, đàn áp dã man những người khởi nghĩa, nhưng không ngăn cản được sự phản kháng của quẩn chúng. Tháng 4 - 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được các tỉnh phía bắc. Một số quý tộc tư sản hoá ở Nê-đéc-lan bất mãn với tầng lớp thống trị tây Ban Nha đã đúhg về phía quân khởi nghĩa, nắm quyền lãnh đạo phong trào. Tháng 1 - 1579, đại biểu các tỉnh miền Bắc họp hội nghị ờ U-trếch, tuyến bốthống nhất hệ thống tiền tệ, đo lường, tổ chức quân sự và chính sách đối ngoại. Đạo Can-vanh được công nhận là quốc giáo, quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tiếp đó, tháng 7 - 1581, vua tây Ban Nha Phi-líp II bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tinh miền Bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan được thống nhất thành một nước cộng hoà với tên gọi Các tỉnh liên hiệp hay Hà Lan (tên một tinh có vai trò quan trọng nhất trong các tinh liên hiệp và thủ đô là Am-xtéc-đam). Song, chính quyền tây Ban Nha chưa chịu công nhận Hà Lan. Nhân dân Hà Lan phải tiếp tục đấu tranh. Mặc dù Hiệp định đình chiến giữa Táy Ban Nha và Hà Lan đã được kí kết vào năm 1609, song mãi đến năm 1648, nền độc lập của Hà Lan mới được chính thức công nhận. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, diễn ra dưới hình thức chiến tranh giải phóng dân tộc đề lật đổ ách thống trị của thế lực phong kiến nước ngoài, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng Cách mạng Hà Lan vẫn có ý nghĩa báo hiệu một thời đại mới - thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và bước đầu suy vong của chế độ phong kiến. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Đầu thế kỉ XVII, Anh là nước có nền kỉnh tế phát triển nhất Châu Âu. Sản xuất công trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng. Tư sản Anh giàu lên nhanh chóng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương, chú yêu là bản len dạ và buôn nô lệ da đen. Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ, vốn là quý tộc, chuyển hướng kỉnh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, đuổi tá điền đi, biến ruộng đất thành đồng cỏ, rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy lông cung cấp cho thị trường. Bộ phận quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hoá, trở thành tầng lớp quý tộc mới. Chế độ phong kiến, với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và Giáo hội Anh, ngày càng cản trở sự kinh doanh làm giàu của tư sản và quý tộc mới. dưới thời vua Sác-lơ I (từ năm 1625), nhiều thứ thuế mới được đặt ra, nhà nước nắm độc quyền thương mại và thu thuế thuyền bè, duy trì nhiều đặc quyền phong kiến, đời sống nhân dân càng thêm cơ cực. Mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với các thế lực phong kiến phản động được biểu hiện qua những cuộc xung đột giữa Quốc hội với nhà vua. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cách mạng xoay quanh vấn đề tài chính, khi Sác-lơ I triệu tập Quốc hội (4 - 1640) nhằm tăng thuế, đề có tiền chi cho việc đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len ở miền Bắc nước Anh. Quốc hội, gồm đa số là quý tộc mới và tư sản, không phê duyệt các khoản thuê' mới do vua đặt ra, kịch liệt công kích chính sách bạo ngược của nhà vua và đòi quyền kỉểm soát quân đội, tài chính và Giáo hội. Sác-lơ I định dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, song đã bị quần chúng nhân dân phản đối quyết liệt. Bị thất bại, Sác-lơ I chạy lên phía Bắc Luân Đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản công" 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Trải qua hơn 20 năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ đã tàn phá nặng nề, gậy hậu quả lâu dài đối với miền Bắc. ""Chiến tranh phá hoại của Mĩ đỡ phá huỷ hầu hết những cái mà nhân dân ta đỡ tốn biết bao công súc đề xây dụng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị châm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm""(,). Miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn ở trung ương bị sụp đổ, nhưng cơ sở của chính quyền này ở địa phương cùng bao di hại của xã hội cũ vẫn tồn tại. Cuộc chiến tranh của Mĩ đã gậy ra hậu quả nặng nề. Nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá. Nửa triệu héc ta ruộng đất bị bỏ hoang. Một triệu héc ta rừng bị chất độc hoá học và bom đạn cày xổi. Vô số bom mìn còn vùi lấp trên các cánh đồng, ruộng vườn, nơi cư trú của nhân dân. Đội ngũ thất nghiệp có tổi hàng triệu người. Số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân.  Miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, song về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ và phán tán, phát triển không cần đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.,"Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pari năm 1973, nhưng do bị tàn phá nặng nề của chiến tranh phá hoại, nên đến giữa năm 1976, ta mới căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 6 tháng cuối năm 1975 và 6 tháng đấu năm 1976, miền Bắc có những tiến bộ đáng kể. Diện tích trồng lúa, hoa màu, cấy công nghiệp 1976 đều tăng hơn năm 1975. Nhiều công trình, nhà máy được mở rộng và xây dụng mới. sản lượng phán lớn các sản phẩm quan trọng đều đạt và vượt múc trước chiến tranh. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế phát triển mạnh. Miền Bắc còn làm nghĩa vụ của căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia trong thời kì mới. Ở miền Nam, công việc tiếp quản vùng mới giải phóng từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo, từ căn cứ quân sự đến các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hoá được tiến hành khẩn trương." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 29: Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng mùa xuân 1975.," Từ ngày 24 - 6 đến ngày 3 - 7 - 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất - Quốc hội khoá VI, họp kì đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất, quyết định tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 2 - 7 - 1976), quyết định Quốc huy mang dòng chữ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn - Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp. Tôn Đúc Thắng được bầu làm Chủ tịch nước, Trường Chinh làm Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ. Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chúc thành ba cấp chính quyền: cấp tỉnh và thành phố trục thuộc Trung ương, cấp huyện và tương đương, cấp xã và tương đương. Ở mỗi cấp chính quyền có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khoá VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành. Từ đấy, việc tiếp tục hoàn thành thống nhất trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước.  Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiên chính trị cơ bản đề phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, những điều kiên thuận lợi đề cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những khả năng to lớn đề bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được thành lập đã có 94 nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao (đến cuối năm 1980 có 106 nướ. Ngày 20 - 9 - 1977, nước ta trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 29: Cách mạng hà lan và cách mạng tư sản anh,"Đầu thế kỉ XVII, Anh là nước có nền kỉnh tế phát triển nhất Châu Âu. Sản xuất công trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn sản xuất của phường hội, số lượng và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng. Tư sản Anh giàu lên nhanh chóng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương, chú yếu là bán len dạ và buôn nô lệ da đen. Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ, vốn là quý tộc, chuyển hướng kỉnh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, đuổi tá điền đi, biến ruộng đất thành đồng cỏ, rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy lông cung cấp cho thị trường. Bộ phận quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hoá, trở thành tầng lớp quý tộc mới. Chế độ phong kiến, với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và Giáo hội Anh, ngày càng cản trở sự kinh doanh làm giàu của tư sản và quý tộc mới. Dưới thời vua Sác-lơ I (từ năm 1625), nhiều thứ thuế mới được đặt ra, nhà nước nắm độc quyền thương mại và thu thuế thuyền bè, duy trì nhiều đặc quyền phong kiến, đời sống nhân dân càng thêm cơ cực. Mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới với các thế lực phong kiến phản động được biểu hiện qua những cuộc xung đột giữa Quốc hội với nhà vua. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cách mạng xoay quanh vấn đề tài chính, khi Sác-lơ I triệu tập Quốc hội (4 - 1640) nhằm tăng thuế, để có tiền chi cho việc đàn áp cuộc nổi dậy của người Xcốt-len ở miền Bắc nước Anh. Quốc hội, gồm đa số là quý tộc mới và tư sản, không phệ duyệt các khoản thuế mới do vua đặt ra, kịch liệt công kích chính sách bạo ngược của nhà vua và đòi quyền kiểm soát quân đội, tài chính và Giáo hội. Sác-lơ I định dùng vũ lực đàn áp Quốc hội, song đã bị quần chúng nhân dân phản đối quyết liệt. Bị thất bại, Sác-lơ I chạy lên phía Bắc Luân Đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản công" 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Vào nửa sau thế kỉ XVIII, một cuộc biến động xã hội - chính trị to lớn đã bùng nổ ở Bắc Mĩ- đó là cuộc cách mạng tư sản diễn ra dưới hình thức một cuộc chiến tranh giải phóng nhằm lật đổ sự thống trị của chính quyền thực dân Anh, mở đường cho chủ nghĩa tư bán phát triển ở Bắc Mĩ, dẫn đến sự ra đời của một quốc gia mới - Hợp chủng quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sau phát kiến của Cri-xtốp Cô-lôm-bô, nhiều người dân Châu Âu di cư sang vùng Bắc Mĩ. Đến nửa đầu thế kỉ XVIII, người Anh đã lập được 13 thuộc địa dọc theo bờ Đại Tây Dương ở Bắc Mĩ với số dân khoảng 1,3 triệu người. Đến giữa thế kỉ XVIII, nền công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ở 13 thuộc địa đã có những bước tiến đáng kể. Ở miền Bắc, các công trường thủ công sản xuất rượu, dệt đay, làm đồ thuỷ tinh, đặc biệt là nghề luyện kim và đóng tàu, rất phát triển. Bô-xtơn trở thành trung tâm công nghiệp thời bấy giờ. ở miền Nam, các chủ đồn điền bóc lột sức lao động của nô lệ da đen (đưa từ Châu Phi sang) để sản xuất lương thực, bông, mía, thuốc lá... phục vụ cho nhu cầu của thuộc địa và xuất khẩu. Do kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi giữa các thuộc địa ngày càng tăng. Cùng với sự tiến bộ của hệ thống giao thông và thông tin liên lạc, một thị trường thống nhất dần hình thành ở Bắc Mĩ. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính của nhân dân khu vực này. Sự phát triển kinh tế của các thuộc địa làm cho Bắc Mĩ trỏ thành nơi cạnh tranh đối với nước Anh. Vì vậy, bằng mọi biện pháp, Chính phủ Anh đã cấm Bắc Mĩ sản xuất nhiều loại hàng công nghiệp, cấm mở doanh nghiệp, cấm đem máy móc và thợ lành nghề từ Anh sang, đồng thời ban hành chế độ thuế khoá nặng nề. Các thuộc địa Bắc Mĩ không được tự do buôn bán với các nước khác và cư dân ở đây không được khai hoang những vùng đất ở miền Tây. Những chính sách đó đã làm tổn hại đến quyền lợi của nhân dân thuộc địa, gây nên sự phản ứng mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sau phát kiến của Cri-xtốp Cô-lôm-bô, nhiều người dân Châu Âu di cư sang vùng Bắc Mĩ. Đến nửa đầu thế kỉ XVIII, người Anh đã lập được 13 thuộc địa dọc theo bờ Đại Tây Dương ở Bắc Mĩ với số dân khoảng 1,3 triệu người. Đến giữa thế kỉ XVIII, nền công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ở 13 thuộc địa đã có những bước tiến đáng kể. Ở miền Bắc, các công trường thủ công sản xuất rượu, dệt đay, làm đồ thuỷ tinh, đặc biệt là nghề luyện kim và đóng tàu, rất phát triển. Bô-xtơn trở thành trung tâm công nghiệp thời bấy giờ. ở miền Nam, các chủ đồn điền bóc lột sức lao động của nô lệ da đen (đưa từ Châu Phi sang) để sản xuất lương thực, bông, mía, thuốc lá... phục vụ cho nhu cầu của thuộc địa và xuất khẩu. Do kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi giữa các thuộc địa ngày càng tăng. Cùng với sự tiến bộ của hệ thống giao thông và thông tin liên lạc, một thị trường thống nhất dần hình thành ở Bắc Mĩ. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính của nhân dân khu vực này. Sự phát triển kinh tế của các thuộc địa làm cho Bắc Mĩ trở thành nơi cạnh tranh đối với nước Anh. Vì vậy, bằng mọi biện pháp, Chính phủ Anh đã cấm Bắc Mĩ sản xuất nhiều loại hàng công nghiệp, cấm mở doanh nghiệp, cấm đem máy móc và thợ lành nghề từ Anh sang, đồng thời ban hành chế độ thuế khoá nặng nề. Các thuộc địa Bắc Mĩ không được tự do buôn bán với các nước khác và cư dân ở đây không được khai hoang những vùng đất ở miền Tây. Những chính sách đó đã làm tổn hại đến quyền lợi của nhân dân thuộc địa, gây nên sự phản ứng mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sự kiện ""chè Bô-xton đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh ở Bắc Mĩ. Cuối năm 1773, ba chiếc tàu chở chè của Anh cập bến cảng Bô-xtơn. Để bảo vệ quyền lợi của mình, những người dân địa phương đã cải trang thành thổ dân da đỏ, nhảy lên tàu, ném các thùng chè xuống biển. Chính phủ Anh liền trừng phạt, ra lệnh phong toả cảng Bô-xtơn và điều quân đến chiếm đóng vùng này. Việc buôn bán bị ngùng trệ, công nhân thất nghiệp. Không khí khủng bố tràn ngập. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình đó, đầu tháng 9 - 1774, đại hội đại biểu các thuộc địa được tiến hành ở Phi-la-đen-phi-a - Đại hội lục địa lần thứ nhất. Các đại biểu yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp ở Bắc Mĩ. Không chấp nhận yêu cầu đó, vua Anh tuyên bố sẽ ra lệnh trừng trị, nếu các thuộc địa ""nổi loạn"". Tháng 4 - 1775, chiến tranh giữa các thuộc địa với chính quốc bùng nổ. Nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, song do lực lượng yếu và tổ chức kém nên không thắng nổi đội quán chính quy của vua Anh. Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập vào tháng 5 - 1775 quyết định thành lập ""quân đội thuộc địa và bổ nhiệm Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn - một điền chủ giàu có, một sĩ quan có tài quân sự và tổ chức - làm tổng chỉ huy; đồng thời kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dụng quán đội. Cuộc đấu tranh giành độc lập không ngừng phát triển. Các thuộc địa lần lượt tuyên bố tách khỏi nước Anh. Ngày 4-7-1776, Đại hội thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân Anh và chính thức tuyên bố 13 thuộc địa thoát li khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập - Hợp chúng quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sự kiện ""chè Bô-xton đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh ở Bắc Mĩ. Cuối năm 1773, ba chiếc tàu chở chè của Anh cập bến cảng Bô-xtơn. Để bảo vệ quyền lợi của mình, những người dân địa phương đã cải trang thành thổ dân da đỏ, nhảy lên tàu, ném các thùng chè xuống biển. Chính phủ Anh liền trừng phạt, ra lệnh phong toả cảng Bô-xtơn và điều quân đến chiếm đóng vùng này. Việc buôn bán bị ngừng trệ, công nhân thất nghiệp. Không khí khủng bố tràn ngập. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình đó, đầu tháng 9 - 1774, đại hội đại biểu các thuộc địa được tiến hành ở Phi-la-đen-phi-a - Đại hội lục địa lần thứ nhất. Các đại biểu yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp ở Bắc Mĩ. Không chấp nhận yêu cầu đó, vua Anh tuyên bố sẽ ra lệnh trừng trị, nếu các thuộc địa ""nổi loạn"". Tháng 4 - 1775, chiến tranh giữa các thuộc địa với chính quốc bùng nổ. Nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, song do lực lượng yếu và tổ chức kém nên không thắng nổi đội quán chính quy của vua Anh. Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập vào tháng 5 - 1775 quyết định thành lập ""quân đội thuộc địa và bổ nhiệm Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn - một điền chủ giàu có, một sĩ quan có tài quân sự và tổ chức - làm tổng chỉ huy; đồng thời kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dụng quán đội. Cuộc đấu tranh giành độc lập không ngừng phát triển. Các thuộc địa lần lượt tuyên bố tách khỏi nước Anh. Ngày 4-7-1776, Đại hội thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân Anh và chính thức tuyên bố 13 thuộc địa thoát li khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập - Hợp chúng quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Lần đầu tiên, các quyền con người và quyền công dân được chính thức công bố trước toàn thể nhân loại. Nguyên tắc về chủ quyền của nhân dân được đề cao như một sự thách thức đối với chế độ thực dân Anh ở Bắc Mĩ cũng như chế độ quân chủ chuyên chế đang thống trị khắp lục địa Châu Âu. Nhưng tuyên ngôn cũng không đề cập đến việc xoá bỏ chế độ nô lệ cùng việc bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân thuộc địa vẫn tiếp diễn. Dưới sự chỉ huy của Oa-sinh-tơn, lực lượng nghĩa quân ngày càng được củng cố và được sự ủng hộ của nhân dân, biết dựa vào địa thế hiểm trở ở Bắc Mĩ để phát huy lối đánh du kích. Ngày 17 - 10 - 1777, nghĩa quân thắng lớn ở Xa-ra-tô-ga, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh. Trong cuộc chiến đấu vì chính nghĩa này, nước Mĩ đã được các tầng lớp nhân dân tiến bộ Pháp cùng nhiều nước Châu Âu ủng hộ. Năm 1781, nghĩa quân thắng trận quyết định ở I-oóc-tao. Toàn bộ lực lượng quân Anh ở đây phải đầu hàng. Năm sau, chiến tranh kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Lần đầu tiên, các quyền con người và quyền công dân được chính thức công bố trước toàn thể nhân loại. Nguyên tắc về chủ quyền của nhân dân được đề cao như một sự thách thức đối với chế độ thực dân Anh ở Bắc Mĩ cũng như chế độ quân chủ chuyện chế đang thống trị khắp lục địa Châu Âu. Nhưng tuyên ngôn cũng không đề cập đến việc xoá bỏ chế độ nô lệ cùng việc bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân thuộc địa vẫn tiếp diễn. Dưới sự chỉ huy của Oa-sinh-tơn, lực lượng nghĩa quân ngày càng được củng cố và được sự ủng hộ của nhân dân, biết dựa vào địa thế hiểm trở ở Bắc Mĩ để phát huy lối đánh du kích. Ngày 17 - 10 - 1777, nghĩa quân thắng lớn ở Xa-ra-tô-ga, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh. Trong cuộc chiến đấu vì chính nghĩa này, nước Mĩ đã được các tầng lớp nhân dân tiến bộ Pháp cùng nhiều nước Châu Âu ủng hộ. Năm 1781, nghĩa quân thắng trận quyết định ở I-oóc-tao. Toàn bộ lực lượng quân Anh ở đây phải đầu hàng. Năm sau, chiến tranh kết thúc." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Tháng 9 - 1783, hoà ước được kí kết ở Véc-xai (Pháp). Theo hoà ước này, Anh chính thức công nhận nền độc lập của 13 thuộc địa ở Bắc Mĩ. Năm 1787, Hiến pháp nước Mĩ được thông qua, củng cố vị trí của nhà nước mới. Theo Hiến pháp, Mĩ là một nước cộng hoà liên bang được tổ chức theo nguyên tắc ""tam quyền phân lập"": Quốc hội, gồm hai viện, là Thượng viện và Hạ viện, nắm quyền lập pháp; Tổng thống nắm quyền hành pháp; Toà án nắm quyền tư pháp. Năm 1789, Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Mĩ. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa đã giải phóng Bấc Mĩ khỏi sự thống trị của thực dân Anh, thành lập một nhà nước mới, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mĩ phát triển, về thực chất, đó là một cuộc cách mạng tư sản, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng chống phong kiến ở châu Âu và phong trào đấu tranh giành độc lập ở Mĩ Latinh cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Cách mạng Việt Nam chuyển giai đoạn sang cách mạng xã hội chủ nghĩa từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Trong 10 năm đầu, từ năm 1976 đến năm 1986, qua hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980 và 1981 - 1985), nhân dân ta thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nhằm xây dựng đất nước đồng thời với đấu tranh bảo vệ Tổ quốc." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.  Độc lập và thống nhất là điều kiện tiên quyết để đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ đảm bảo cho độc lập và thống nhất của đất nước thệm bền vững. Độc lập và thống nhất không những gắn với nhau mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát triển hợp quy luật của cách mạng nước ta. Quy luật đó là ""Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xâ hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lânh đạo cách mạng thỉ thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đâu của cách mạng xâ hội chủ nghĩa""(,)." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Quốc hội khoá VI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kì họp đầu tiên (từ ngày 24 - 6 đến ngày 3 - 7 - 1976) đã nêu rõ: ""Hoàn thành thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 14 đến ngày 20 - 12 - 1976) đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ do Đại hội đề ra dựa trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong 21 năm (1954 - 1975), nhất là xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn cách mạng mới. Đại hội nêu ba đặc điểm lớn, mà đặc điểm lớn nhất là ""Nước ta vân đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa . Đặc điểm này quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp trong quá trình đó. Đại hội quyết định phương hướng, nhiêm vụ và mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1976 - 1980, là xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm hai mục tiêu cơ bản: Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (họp từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1982) đề ra nhiệm vụ cách mạng giai đoạn tiếp theo nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hai nhiêm vụ chiên lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Đại hội khẳng định tiếp tục đường lối chung tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ do Đại hội IV đề ra. Tuy nhiên, đến Đại hội V, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, cụ thể hoá theo từng chặng đường, từng giai đoạn cho phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể. Đại hội xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trài qua nhiều chặng: chặng đường trước mắt (chặng đường đầu) gồm 5 năm đầu (1981 - 1985) và những năm còn lại của thập kỉ 80, và những chặng tiếp sau. Nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội của chặng đường đầu 10 năm (1981 - 1990) cũng được Đại hội cụ thể hoá và đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch Nhà nước 5 năm 1981 - 1985." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Kế hoạch 5 năm có nhiêm vụ ""phát triển thệm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân nhằm cơ bản Ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế. Thực hiên kế hoạch, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ đáng kể: - Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã chặn được đà giảm sút của những năm 1976 - 1980. Sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9% so với 1,9% của thời kì 1976 - 1980. Sản xuất lương thực từ 13,4 triệu tấn (trong thời kì 1976 - 1980) tăng lên 17 triệu tấn (trong thời kì 1981 - 1985). Sản xuất công nghiêp tăng bình quân hằng năm là 9,5% so với 0,6% của thời kì 1976 - 1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước. - Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, trong 5 năm đã hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, giao thông, thuỷ lợi, dệt... Các hoạt động khoa học - kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, các công trình thuỷ điên Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, chuẩn bị đưa vào hoạt động trong những năm tới." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"- Trong cải tạo quan hệ sản xuất, đại bộ phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên có nhiều chuyển biến tiến bộ trong xây dựng cuộc sống mới. Cùng với việc áp dụng những thành tựu về khoa học - kĩ thuật, việc thực hiện rộng rãi phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động theo Chỉ thị 100 (năm 1981) của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tuy chưa hoàn thiện và còn nhiều hạn chế, song đã góp một phần quan trọng tạo nên bước phát triển sản xuất nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng cho việc củng cố quan hệ kinh tế mới ở nông thôn. - Chăm lo đời sống của nhân dân là nhiệm vụ thường xuyên và hết sức khó khăn của Đảng và Nhà nước ta trong hoàn cảnh nền kinh tế còn yếu kém, thiên tai dồn dập, dân số tăng nhanh. Các ngành kinh tế quốc dân đã thu hút thệm 4 triệu lao động. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, văn học, nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Đại hội V đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời cũng chỉ rõ những khó khăn, yếu kém, trước hết về kinh tế - xã hội, cũng vẫn là những khó khăn, yếu kém của thời kì trước không được hạn chế, khắc phục, thậm chí có mặt trầm trọng thệm. Mục tiêu do Đại hội V đề ra là ""Về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân vẫn chưa thực hiện được. Nguyên nhân của những khó khăn, yếu kém thời kì này cũng vẫn là những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những khó khăn, yếu kém thời kì trước chưa được khắc phục, nhất là nguyên nhân do ""Sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quân lí của Đảng và Nhà nước""(,) gây nên." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Do có âm mưu từ trước, tập đoàn Pôn Pốt - đại diên cho phái ""Khơme đỏ ở Campuchia - lên nắm quyền sau thắng lợi trong kháng chiến chống Mĩ, đã quay súng bắn vào nhân dân ta, người bạn chiên đấu thân thiết, thuỷ chung vừa góp phần xương máu làm nên chiến thắng ngày 17-4- 1975 của nhân dân Campuchia. Quân Pôn Pốt mở những cuộc hành quân khiêu khích, xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ nước ta dọc biên giới từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Ngày 3 - 5 - 1975, chúng cho quân đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc; đến ngày 10-5-1975, đánh chiếm đảo Thổ Chu. Từ tháng 4 - 1977, tập đoàn Pôn Pốt tăng cường những cuộc hành quân lấn chiếm lãnh thổ nước ta, từ những cuộc xung đột vũ trang lẻ tẻ chúng mở rộng dần thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Ngày 22 - 12 - 1978, tập đoàn Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn bộ binh, cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng... đến biên giới phía Đông, tiến vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh Tây Ninh, bắt đầu cuộc tiến công quy mô lớn, với ý đổ đánh chiếm thị xã Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thực hiên quyền tự vê chính đáng của mình, quân dân ta tổ chức phản công, tiêu diệt toàn bộ cánh quân xâm lược vào đất nước ta. Tiếp đó, quân ta thừa thắng phát triển cuộc tiến công tiêu diệt, làm tan rã đại bộ phận quân chủ lực của địch tại nơi xuất phát.  Cuộc tiến công quy mô lớn của tập đoàn Pôn Pốt hoàn toàn bị đập tan. Toàn bộ quân xâm lược bị đánh đuổi khỏi bờ cõi, hoà bình lập lại trên biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Chiến thắng biên giới Tây Nam của quân dân ta đỡ tạo thời cơ lớn, hết súc thuận lợi cho nhân dân Campuchia trong cuộc đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Theo yêu cầu của Mạt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, quân đội Việt Nam cùng với lực lượng cách mạng Campuchia tiến công chế độ diệt chủng. Ngày 7 - 1 - 1979, Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia và Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia tuyên bố thành lập." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Trung Quốc là nước láng giềng thân thiết của Việt Nam. Trong quá trình đâu tranh cách mạng, nhân dân hai nước đã từng gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng trong việc tập đoàn Pôn Pốt cầm quyền ở Campuchia có hành động thù địch chống Việt Nam, một số nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đồng tình ủng hộ. Họ còn có những hành động làm tổn hại đến tình cảm giữa nhân dân hai nước, như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, dựng lên sự kiện ""nạn kiều"", cắt viện trợ, rút chuyện gia nhằm gây khó khăn cho Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, từ sáng 17 - 2 - 1979, Trung Quốc cho quân đội, với lực lượng 32 sư đoàn, mở cuộc tiến công dọc biên giới phía Bắc nước ta từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu) dài hơn một nghìn cây số. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc, đã đứng lên chiến đâu. Đến ngày 18 - 3 - 1979, quân Trung Quốc rút khỏi nước ta." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 30: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1976-1986).,"Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.  Độc lập và thống nhất là điều kiên tiên quyết đề đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ đảm bảo cho độc lập và thống nhất của đất nước thêm bền vững. Độc lập và thống nhất không những gắn với nhau mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát triển hợp quy luật của cách mạng nước ta. Quy luật đó là ""Trong thời đại ngày nay, khi độc lộp dân tộc và chủ nghĩa xâ hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lảnh đạo cách mạng thỉ thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đấu của cách mạng xâ hội chủ nghĩa""(,)." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sự kiện ""chè Bô-xton"" đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh ở Bắc Mĩ. Cuối năm 1773, ba chiếc tàu chở chè của Anh cập bến cảng Bô-xtơn. Để bảo vệ quyền lợi của mình, những người dân địa phương đã cải trang thành thổ dân da đỏ, nhảy lên tàu, ném các thùng chè xuống biển. Chính phủ Anh liền trừng phạt, ra lệnh phong toả cảng Bô-xtơn và điều quân đến chiếm đóng vùng này. Việc buôn bán bị ngừng trệ, công nhân thất nghiệp. Không khí khủng bố tràn ngập. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình đó, đầu tháng 9 - 1774, đại hội đại biểu các thuộc địa được tiến hành ở Phi-la-đen-phi-a - Đại hội lục địa lần thứ nhất. Các đại biểu yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp ở Bắc Mĩ. Không chấp nhận yêu cầu đó, vua Anh tuyên bố sẽ ra lệnh trừng trị, nếu các thuộc địa ""nổi loạn"". Tháng 4 - 1775, chiến tranh giữa các thuộc địa với chính quốc bùng nổ. Nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, song do lực lượng yếu và tổ chức kém nên không thắng nổi đội quán chính quy của vua Anh. Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập vào tháng 5 - 1775 quyết định thành lập ""quân đội thuộc địa và bổ nhiệm Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn - một điền chủ giàu có, một sĩ quan có tài quân sự và tổ chức - làm tổng chỉ huy; đồng thời kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dụng quán đội. Cuộc đấu tranh giành độc lập không ngừng phát triển. Các thuộc địa lần lượt tuyên bố tách khỏi nước Anh. Ngày 4-7-1776, Đại hội thông qua bản Tuyên ngôn Độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân Anh và chính thức tuyên bố 13 thuộc địa thoát li khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập - Hợp chúng quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 30: Chiến tranh giành độc lập ở các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ,"Sự kiện ""chè Bô-xton"" đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh ở Bắc Mĩ. Cuối năm 1773, ba chiếc tàu chở chè của Anh cập bến cảng Bô-xtơn. Để bảo vệ quyền lợi của mình, những người dân địa phương đã cải trang thành thổ dân da đỏ, nhảy lên tàu, ném các thùng chè xuống biển. Chính phủ Anh liền trừng phạt, ra lệnh phong toả cảng Bô-xtơn và điều quân đến chiếm đóng vùng này. Việc buôn bán bị ngừng trệ, công nhân thất nghiệp. Không khí khủng bố tràn ngập. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình đó, đầu tháng 9 - 1774, đại hội đại biểu các thuộc địa được tiến hành ở Phi-la-đen-phi-a - Đại hội lục địa lần thứ nhất. Các đại biểu yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp ở Bắc Mĩ. Không chấp nhận yêu cầu đó, vua Anh tuyến bố sẽ ra lệnh trừng trị, nếu các thuộc địa ""nổi loạn"". Tháng 4 - 1775, chiến tranh giữa các thuộc địa với chính quốc bùng nổ. Nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, song do lực lượng yếu và tổ chức kém nên không thắng nổi đội quân chính quy của vua Anh. Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập vào tháng 5 - 1775 quyết định thành lập quân đội thuộc địa và bổ nhiệm Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn - một điền chủ giàu có, một sĩ quan có tài quân sự và tổ chức - làm tổng chỉ huy; đồng thời kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng quân đội. Cuộc đấu tranh giành độc lập không ngừng phát triển. Các thuộc địa lần lượt tuyên bố tách khỏi nước Anh. Ngày 4-7-1776, Đại hội thông qua bản tuyên ngôn Độc lập, tố cáo chế độ áp bức thuộc địa của thực dân Anh và chính thức tuyên bố 13 thuộc địa thoát li khỏi chính quốc, thành lập một quốc gia độc lập - Hợp chủng quốc Mĩ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII là một cuộc cách mạng xã hội sâu rộng. Nó đã xoá bỏ chế độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Pháp, góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống phong kiến ở Châu Âu. Quần chúng nhân dân là động lực chủ yếu thúc đẩy cách mạng tiến lên. " 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải nộp địa tô hết sức nặng nề, phải thực hiện mọi nghĩa vụ phong kiến với lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ti thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở cháu Âu và phương Đông. Về tình hình chính trị, đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyện chế (đứng đầu là vua Lu-i XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tàng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải nộp địa tô hết sức nặng nề, phải thực hiện mọi nghĩa vụ phong kiến với lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ti thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở châu Âu và phương Đông. Về tình hình chính trị, đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyện chế (đứng đầu là vua Lu-i XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tàng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải nộp địa tô hết sức nặng nề, phải thực hiện mọi nghĩa vụ phong kiến với lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ti thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở châu Âu và phương Đông. Về tình hình chính trị, đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế (đứng đầu là vua Lu-i XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tàng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là một nuớc nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải nộp địa tô hết sức nặng nề, phải thực hiện mọi nghĩa vụ phong kiến với lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ti thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở cháu Âu và phương Đông. Về tình hình chính trị, đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyện chế (đứng đầu là vua Lu-i XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tăng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Mâu thuẫn xã hội cũng được phản ánh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Những thành tựu mới của khoa học, sự phát triển của mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã giúp những người có tư tưởng tiến bộ phệ phán những giáo lí lạc hậu, những quan điểm lỗi thời và đề xuất những tư tưởng mới tiến bộ, thúc đẩy xã hội tiến lên. Do vậy, trào lưu tư tưởng ở Pháp vào thế kỉ XVIII được gọi là trào lưu Triết học Ánh sáng, tiêu biểu là Mông-te-xki-ơ, Vôn-te, Rút-xô. Các ông đã kịch liệt phệ phán sự thối nát của chế độ phong kiến và nhà thờ Ki-tô giáo, đưa ra những lí thuyết về việc xây dựng nhà nước mới. Những quan điểm tiến bộ của Triết học Ánh sáng đã tấn công vào hệ tư tưởng của chế độ phong kiến, dọn đường cho cuộc cách mạng xã hội bùng nổ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Mâu thuẫn xã hội cũng được phản ánh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Những thành tựu mới của khoa học, sự phát triển của mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã giúp những người có tư tưởng tiến bộ phê phán những giáo lí lạc hậu, những quan điểm lỗi thời và đề xuất những tư tưởng mới tiến bộ, thúc đẩy xã hội tiến lên. Do vậy, trào lưu tư tưởng ở Pháp vào thế kỉ XVIII được gọi là trào lưu Triết học Ánh sáng, tiêu biểu là Mông-te-xki-ơ, Vôn-te, Rút-xô. Các ông đã kịch liệt phệ phán sự thối nát của chế độ phong kiến và nhà thờ Ki-tô giáo, đưa ra những lí thuyết về việc xây dựng nhà nước mới. Những quan điểm tiến bộ của Triết học Ánh sáng đã tấn công vào hệ tư tưởng của chế độ phong kiến, dọn đường cho cuộc cách mạng xã hội bùng nổ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Sự khủng hoảng trầm trọng của nền tài chính quốc gia buộc Lu-i XVI phải triệu tập Hội nghị ba đẳng cấp ngày 5 - 5 -1789 tại cung điện Véc-xai để đề xuất vấn đề vay tiền và ban hành thệm thuế mới. Phản đối ý định ban hành thuế mới của nhà vua, ngày 17-6, đại biểu Đẳng cấp thứ ba tự tuyên bố là Quốc hội, xem đây là cơ quan duy nhất thông qua các đạo luật tài chính. Tiếp đó, Quốc hội đổi thành Quốc hội lập hiến để lập ra chế độ mới và soạn thảo Hiến pháp. Vua và quý tộc phản ứng, ráo riết chuẩn bị tấn công Đẳng cấp thứ ba bằng bạo lực. Bất bình trước hành động của nhà vua, ngày 14 - 7 - 1789, quần chúng nhân dân đã tự vũ trang, tấn công các trụ sở, các cơ quan quan trọng của thành phố và chiếm ngục Ba-xti - biểu tượng của chế độ phong kiến chuyện chế. Cách mạng đã bùng nổ ở Pháp. Sự kiện ngày 14 - 7 ở Pa-ri đã kéo theo cuộc ""cách mạng đô thị ở các thành phố và phong trào nổi dậy ở nông thôn. Chính quyền mới thành lập nằm trong tay đại tư sản tài chính (chủ yếu là chủ ngân hàng, chủ thuyền buôn, các nhà công nghiệp và thương nghiệp lớn), được gọi là phái Lập hiến. Ngôi vua vẫn được duy trì." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyển tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bán với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lặp quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phệ chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyện chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quán phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyên bố ""Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài ""Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyển tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bán với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lặp quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phệ chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyện chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quán phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyên bố ""Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyển tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bán với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phê chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyện chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quán phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyên bố ""Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài ""Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyển tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bán với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phê chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyện chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quân phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyên bố ""Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài ""Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyển tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bán với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phê chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyện chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quân phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyên bố Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Ngày 10 - 8 - 1792, không khí cách mạng bao trùm khấp Pa-ri. Các công xã cách mạng được thành lập, nắm toàn bộ chính quyền trong thành phố. Nhân dân Pa-ri, được sự hỗ trợ của các địa phương, đã tấn công hoàng cung, bắt giam vua và hoàng hậu. Chính quyền chuyển sang tay tư sản công thương được gọi là phái Girôngđanh. Một quốc hội mới được bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới từ 21 tuổi trở lên. Ngày 21 - 9 - 1792, Quốc hội khai mạc, tuyên bố phế truất nhà vua, thiết lập nền Cộng hoà thứ nhất. Ngày 21 - 1 - 1793, vua Lu-i XVI bị xử chém vì tội phản quốc. Đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước những thử thách nặng nề. Bên trong, bọn phản cách mạng nổi loạn, đời sống nhân dân sa sút do nạn đầu cơ tích trữ và chiến tranh kéo dài, sản xuất bị đình trệ. Bên ngoài, các nước phong kiến Châu Âu, được sự hỗ trợ của quân Anh, liên minh với nhau chống lại nền cộng hoà non trẻ. Phái Girôngđanh, sau khi đạt được mục đích, không muốn đưa cách mạng tiến xa hơn, làm thiệt hại đến quyền lợi của tư sản. Chỉ những người thuộc phái Giacôbanh đại diện cho tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, gần gũi với những người tiểu tư sản và bình dân là muốn đẩy cách mạng tiếp tục đi lên nhằm giải quyết triệt để những yêu cầu của quần chúng. Ngày 31 - 5 - 1793, hưởng ứng lời kêu gọi của ủy ban khởi nghĩa, quần chúng cách mạng ở Pa-ri đã kéo đến bao vây trụ sở Quốc hội. Ngày 2-6, nhiều đại biểu Girôngđanh bị bắt. Chính quyển chuyển sang tay phái Giacôbanh." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Chính quyền Giơcôhanh (đứng đầu là Luật sư Rô-he-spie - người có tinh thần cách mạng triệt để và tích cực bảo vệ quyển lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe dọa nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quán Pháp đã tạo đà cho quán đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tâm bóp chết nền cộng hoà. Để đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hỏi cơ bản của quần chúng nông dân; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài. Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bán theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng. Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ. Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh ""Tổng động viên toàn quốc để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống ""thù trong, giặc ngoài""; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quán cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nội loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao. Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phân hoá nội bộ làm cho phái Glacôbanh suy yếu. Ngày 27 - 7 – 1794 , trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phán động, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Chính quyền Giơcôhanh (đứng đầu là Luật sư Rô-he-spie - người có tinh thần cách mạng triệt để và tích cực bảo vệ quyển lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe dọa nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quân Pháp đã tạo đà cho quán đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tâm bóp chết nền cộng hoà. Để đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hỏi cơ bản của quần chúng nông dân; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài. Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bán theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng. Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ. Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh ""Tổng động viên toàn quốc để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống ""thù trong, giặc ngoài""; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quán cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nội loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao. Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phân hoá nội bộ làm cho phái Glacôbanh suy yếu. Ngày 27 - 7 – 1794 , trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phán động, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Chính quyền Giơcôhanh (đứng đầu là Luật sư Rô-he-spie - người có tinh thần cách mạng triệt để và tích cực bảo vệ quyển lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe dọa nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quán Pháp đã tạo đà cho quán đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tâm bóp chết nền cộng hoà. Để đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hỏi cơ bản của quần chúng nông dân; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài. Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bán theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng. Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ. Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh Tổng động viên toàn quốc để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống ""thù trong, giặc ngoài""; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quán cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nội loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao. Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phân hoá nội bộ làm cho phái Glacôbanh suy yếu. Ngày 27 - 7 – 1794 , trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phán động, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Chính quyền Giơcôhanh (đứng đầu là Luật sư Rô-he-spie - người có tinh thần cách mạng triệt để và tích cực bảo vệ quyển lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe dọa nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quán Pháp đã tạo đà cho quán đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tâm bóp chết nền cộng hoà. Để đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hỏi cơ bản của quần chúng nông dân; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài. Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bán theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng. Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ. Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh ""Tổng động viên toàn quốc để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống ""thù trong, giặc ngoài""; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quân cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nội loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao. Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phân hoá nội bộ làm cho phái Glacôbanh suy yếu. Ngày 27 - 7 – 1794 , trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phán động, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Sau cuộc đảo chính ngày 27 - 7 - 1794, chính quyền thuộc về phái tư sản mới giàu lên trong thời gian chiến tranh nhờ buôn bán gian lận, đầu cơ tích trữ và tham ô công quỹ. Ủy ban Đốc chính được thành lập, tập trung quyền lực vào 5 uỷ viên. Nhiều thành quả cách mạng bị thủ tiêu: luật giá tối đa bị bãi bỏ, quyền tự do dân chủ bị hạn chế, những người cách mạng bị khủng bố, các câu lạc bộ chính trị bị đóng cửa... Dưới chế độ Đốc chính, nước Pháp luôn trong tình trạng xáo động và ngày càng khó khăn. Các thế lực phong kiến vẫn âm mưu nổi loạn. Một liên minh mối của các nước Châu Âu nhằm chống Pháp được hình thành. Để cùng cố địa vị thống trị của mình và lập lại trật tự xã hội, giai cấp tư sản đã ủng hộ Na-pô-lê-ông Bô-na-pác - một viên tướng có tài chi huy quán sự, làm cuộc đảo chính thành công (11 - 1799), chấm dứt chế độ Đốc chính. Nền độc tài quân sự được thiết lập ở Pháp. Năm 1804, Na-pô-lê-ông lên ngôi Hoàng đế đã thành lập Đế chế thứ nhất, lấy hiệu là Na-pô-lê-ông I, tiến hành cuộc chinh phạt hầu hết các nước Châu Âu. Năm 1812, Na-pô-lê-ông bị thua trận ở Nga. Năm 1815, các nước đồng minh chống Pháp đã đánh thắng Na-pô-lê-ông ở trận Oa-téc-lô. Chế độ quân chủ ở Pháp được phục hồi." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Sau cuộc đảo chính ngày 27 - 7 - 1794, chính quyền thuộc về phái tư sản mới giàu lên trong thời gian chiến tranh nhờ buôn bán gian lận, đầu cơ tích trữ và tham ô công quỹ. Ủy ban Đốc chính được thành lập, tập trung quyền lực vào 5 uỷ viên. Nhiều thành quả cách mạng bị thủ tiêu: luật giá tối đa bị bãi bỏ, quyền tự do dân chủ bị hạn chế, những người cách mạng bị khủng bố, các câu lạc bộ chính trị bị đóng cửa... Dưới chế độ Đốc chính, nước Pháp luôn trong tình trạng xáo động và ngày càng khó khăn. Các thế lực phong kiến vẫn âm mưu nổi loạn. Một liên minh mới của các nước Châu Âu nhằm chống Pháp được hình thành. Để cùng cố địa vị thống trị của mình và lập lại trật tự xã hội, giai cấp tư sản đã ủng hộ Na-pô-lê-ông Bô-na-pác - một viên tướng có tài chi huy quán sự, làm cuộc đảo chính thành công (11 - 1799), chấm dứt chế độ Đốc chính. Nền độc tài quân sự được thiết lập ở Pháp. Năm 1804, Na-pô-lê-ông lên ngôi Hoàng đế đã thành lập Đế chế thứ nhất, lấy hiệu là Na-pô-lê-ông I, tiến hành cuộc chinh phạt hầu hết các nước Châu Âu. Năm 1812, Na-pô-lê-ông bị thua trận ở Nga. Năm 1815, các nước đồng minh chống Pháp đã đánh thắng Na-pô-lê-ông ở trận Oa-téc-lô. Chế độ quân chủ ở Pháp được phục hồi." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII đã lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế từng thống trị nước Pháp trong nhiều thế kỉ, hoàn thành các nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản: lật đổ chính quyền quân chủ chuyện chế, thủ tiêu mọi tàn dư phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, những cản trở đối với công thương nghiệp bị xoá bỏ, thị trường dân tộc thống nhất được hình thành. Giai cấp tư sản lãnh đạo cách mạng, song quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển, đưa cách mạng đến thành công. Do ảnh hưởng của cách mạng và do hậu quả khách quan của những cuộc chiến tranh thôn tính các nước Châu Âu, chế độ phong kiến đã bị lung lay ở khắp cháu Âu. Cách mạng tư sản Pháp đã mở ra thời đại mới - thời đại thắng lợi và củng cố của chủ nghĩa tư bản ở các nước tiên tiến thời bấy giờ." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII đã lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế từng thống trị nước Pháp trong nhiều thế kỉ, hoàn thành các nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản: lật đổ chính quyền quân chủ chuyện chế, thủ tiêu mọi tàn dư phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, những cản trở đối với công thương nghiệp bị xoá bỏ, thị trường dân tộc thống nhất được hình thành. Giai cấp tư sản lãnh đạo cách mạng, song quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển, đưa cách mạng đến thành công. Do ảnh hưởng của cách mạng và do hậu quả khách quan của những cuộc chiến tranh thôn tính các nước Châu Âu, chế độ phong kiến đã bị lung lay ở khắp châu Âu. Cách mạng tư sản Pháp đã mở ra thời đại mới - thời đại thắng lợi và củng cố của chủ nghĩa tư bản ở các nước tiên tiến thời bấy giờ." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Việt Nam chuyển sang thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội VI (tháng 12 - 1986) của Đảng. Trong 1 5 năm, từ năm 1986 đến năm 2000, nhân dân ta đã thực hiện ba kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm: 1986 - 1990, bước đầu công cuộc đổi mới; 1991 - 1995, tiếp tục sự nghiệp đổi mới; 1996 - 2000, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1985), cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, song cũng gặp không ít khó khăn, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là khủng hoảng kinh tế - xã hội. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là do ta mắc phải ""sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật trở thành xu thế thế giới; cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. Như vậy, đổi mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), được điều chỉnh, bổ sung, phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), Đại hội VIII (6 - 1996), Đại hội IX (4 - 2001).  Đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hoá. Đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Đổi mới kinh tế - Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề; nhiều quy mô, trình độ công nghệ, với 2 bộ phận chủ yếu là công nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau. - Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và tạo ra sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần. - Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự phát triển. Cải tạo đi đôi với sử dụng và thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cải tạo phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ. - Xoá bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Quản lí kinh tế không bằng mệnh lệnh hành chính, mà bằng biện pháp kinh tế, bằng khuyến khích lợi ích vật chất. - Thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai thác nguồn vốn, khai thác công nghệ, khai thác thị trường." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Đổi mới chính trị - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. - Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. - Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chuyện chính đối với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. - Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng của dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Thực hiên chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác, ""Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước""." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Đại hội VI (12 - 1986) của Đảng và nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (họp từ ngày 15 đến ngày 18 - 12 - 1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lí của Nhà nước trong thập kỉ đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới. Đại hội khẳng định tiếp tục đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa do các Đại hội IV và V của Đảng đề ra. Tuy nhiên, đến Đại hội VI, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ tiếp tục được cụ thể hoá trên cơ sở nâng cao nhận thức về đặc điểm thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cả một thời kì lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng đường đầu tiên. Trước mắt, trong 5 năm (1986 - 1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của Ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ thuật v.v... " 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới{V) Công cuộc đổi mới bước đầu đạt được thành tựu, trước tiên là trong việc thực hiện các mục tiêu của Ba chương trình kinh tế: - Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập 45 vạn tấn gạo, đến năm 1989, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Sản xuất lương thực năm 1988 đạt 19,5 triệu tấn, vượt năm 1987 là 2 triệu tấn, và năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn. - Hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch, vẫn tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã, chất lượng. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường. Phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá, vật tư, tiền lương... giảm đáng kể. - Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức... đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ năm 1986 đến năm 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần. Từ năm 1989, ta tăng thệm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới khác. Năm 1989, ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo. Nhập khẩu giảm đáng kể, tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và nhập khẩu." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," - Đã kiềm chế được một bước đà lạm phát. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hằng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1988 là 14% thì năm 1990 là 4,4%. Nhờ kiềm chế được lạm phát, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn. - Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Đây là chủ trương chiến lược lâu dài của Đảng. Chủ trương này thực sự phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhân dân, khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo của quần chúng để phát triển sản xuất và dịch vụ, tạo thệm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội. Bộ máy Nhà nước các cấp ở trung ương và địa phương được sắp xếp lại. Nội dung và phương thúc hoạt động của các tổ chúc trong hệ thống chính trị có một số đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ quan dân chủ. Những thành tựu, ưu điểm, tiến bộ đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Công cuộc đổi mới như một cuộc cách mạng, có thành tựu, ưu điểm, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. + Nền kinh tế còn mới cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm tăng, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất đỉnh đốn kéo dài. + Chế độ tiền lương bất hợp lí, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phân nông dân bị giảm sút. + Sự nghiệp văn hoá có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tỉnh trạng tham nhũng, ăn hối lộ, mới dân chủ, bất công xã hội và nhiều hiện tượng tiêu cực khác còn nặng nề và phổ biến." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Đại hội VII (6 - 1991) của Đảng và nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến ngày 27 - 6 - 1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn, yếu kém mắc phải trong bước đầu đổi mới; ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó; điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới (đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên. Ngoài việc quyết định những nhiệm vụ cách mạng trong nhiệm kì, Đại hội VII của Đảng còn quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài; đó là thông qua ""Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ""Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000"". Bước vào nhiệm kỉ Đại hội VII của Đảng, tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi lớn, nhất là sự thay đổi ở Liên Xô và của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, tác động đếnquá trình đổi mới của ta. Xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của Đảng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) là: đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát; Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội; Ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân; bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Để thực hiện mục tiêu trên, cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1991 - 1995), trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ to lớn. - Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn thành vượt mức. Sau 5 năm thực hiện kế hoạch, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hằng năm là 8,2%; công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13,3%; nông nghiệp là 4,5%. Sản lượng lương thực 5 năm này tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990. Vận tải hàng hoá tăng 62%. Thị trường hàng hoá trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Trong lĩnh vực tài chính, tiền tê: nạn lạm phát ở mức cao từng bước bị đẩy lùi, từ mức 67,1% năm 1991, xuống mức 12,7% năm 1995. Tỉ lê thiếu hụt ngân sách được kiềm chế. - Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Trong 5 năm, xuất khẩu đạt 17 tỉ USD; tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cả phệ, hải sản, may mặc... Trong 5 năm, nhập khẩu trên 21 tỉ USD. Tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới. Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân hằng năm là 50%. Đến cuối năm 1995, tổng số vốn đăng kí cho các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, trong đó có khoảng 1/3 đã được thực hiện. Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hoá và xã hội có những chuyển biến tích cực. Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Mạng lưới trường phổ thông được mở rộng đến khắp các xã, phường; cơ sở vật chất được cải thiên. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc thiểu số." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cu chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa đề cày cấy và phải nộp địa tô hết sức nặng nề, phải thực hiện mọi nghĩa vụ phong kiến với lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thuơng nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại tây Dương.  Máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ti thương mại Pháp buôn bản với nhiều nước ở cháu Âu và phương Đông. về tình hình chính trị, đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế (đứng đầu là vua Lu-i XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tàng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Sự khủng hoảng trầm trọng của nền tài chính quốc gia buộc Lu-i XVI phải triệu tập Hội nghị ba đẳng cấp ngày 5 - 5 -1789 tại cung điện Véc-xai đề đề xuất vấn đề vay tiền và ban hành thêm thuế mới. Phản đối ý định ban hành thuê' mối của nhà vua, ngày 17-6, đại biểu Đẳng cấp thứ ba tự tuyến bốlà Quốc hội, xem đấy là cơ quan duy nhất thông qua các đạo luật tài chính. Tiếp đó, Quốc hội đổi thành Quốc hội lập hiến đề lập ra chế độ mới và soạn thảo Hiến pháp. Vua và quý tộc phản ứng, ráo riết chuẩn bị tấn công Đẳng cấp thứ ba bằng bạo lực. Bất bình trước hành động của nhà vua, ngày 14 - 7 - 1789, quần chúng nhân dân đã tự vũ trang, tấn công các trụ sở, các cơ quan quan trọng của thành phố và chiếm ngục Ba-xti - biểu tượng của chế độ phong kiến chuyên chế. Cách mạng đã bùng nổ ở Pháp ) Sự kiện ngày 14 - 7 ở Pa-ri đã kéo theo cuộc ""cách mạng đô thị ở các thành phố và phong trào nổi dậy ở nông thôn. Chính quyền mới thành lập nằm trong tay đại tư sởn tời chính (chủ yếu là chủ ngân hàng, chủ thuyền buôn, các nhà công nghiệp và thưotig nghiệp lớn), được gọi là phái Lập hiến. Ngôi vua vẫn được duy trì." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản tuyến ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng: ""Tự do - Bình đẳng - Bác ái"". tuyến ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của con người và khắng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyến bốquyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung CO' bản của tuyến ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp. Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như: bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bản, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...). Tuy vậy, cuộc sôhg của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện: việc chia ruộng đất theo từng lô lốn đem bản với giá cao nên nông dân không có khả năng mua; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra. Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lộp quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến. Lu-i XVI, bề ngoài phê chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng: xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, cấu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyên chế và trật tự phong kiến. Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quán phong kiến Áo - Phổ bùng nổ. Trước tình hình đó, ngày 11-7- 1792, Quốc hội tuyến bố""Tổ quốc lâm nguy và ra sắc lệnh động viên quán tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quần chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài ""Mácxâye đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Chính quyền Giơcôhanh (đứng đầu là Luật sư Rô-he-spie - người có tinh thần cách mạng triệt đề và tích cực bảo vệ quyền lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe doạ nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quán Pháp đã tạo đà cho quán đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tám ""bóp chết nền cộng hoà.   Đê đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hỏi cơ bản của quần chúng nông dân; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài. Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bản theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sỏ hữu một mảnh ruộng. Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyến bốchế độ cộng hoà, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ. Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh ""Tổng động viên toàn quốc đề huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống ""thù trong, giặc ngoài""; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm đề chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quán cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nội loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao. Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phán hoá nội bộ làm cho phái Glacôbanh suy yêu. Ngày 27 - 7 – 1794 , trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phánđộng, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề; nhiều quy mô, trình độ công nghệ, với 2 bộ phận chủ yếu là công nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau. - Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và tạo ra sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần. - Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự phát triển. Cải tạo đi đôi với sử dụng và thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cải tạo phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tực trong suốt thời kì quá độ. - Xoá bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Quản lí kinh tế không bằng mệnh lệnh hành chính, mà bằng biện pháp kinh tế, bằng khuyến khích lợi ích vật chất. - Thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phán công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai thác nguồn vốn, khai thác công nghệ, khai thác thị trường." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).," Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1991 - 1995), trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ to lớn. - Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn thành vượt mức. Sau 5 năm thực hiện kế hoạch, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hằng năm là 8,2%; công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13,3%; nông nghiệp là 4,5%. Sản lượng lương thực 5 năm này tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ bản đề ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990. Vận tài hàng hoá tăng 62%. Thị trường hàng hoá trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Trong lĩnh vực tài chính, tiền tê: nạn lạm phát ở mức cao từng bước bị đẩy lùi, từ mức 67,1% năm 1991, xuống mức 12,7% năm 1995. Tỉ lê thiếu hụt ngân sách được kiềm chế. - Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Trong 5 năm, xuất khẩu đạt 17 tỉ USD; tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc... Trong 5 năm, nhập khẩu trên 21 tỉ USD. Tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới. Nhà nước đã mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân hằng năm là 50%. Đến cuối năm 1995, tổng số vốn đăng kí cho các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD, trong đó có khoảng 1/3 đã được thực hiện. Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hoá và xã hội có những chuyển biến tích cực. Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Mạng lưới trường phổ thông được mở rộng đến khắp các xã, phường; cơ sở vật chất được cải thiên. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc thiểu số." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Đại hội VIII (6 - 1996) của Đảng và nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (họp từ ngày 28 - 6 đến ngày 1 - 7 - 1996) đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết 10 năm đất nước thực hiện đường lối đổi mới, đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong nhiệm kì mới. Xuất phát từ đặc điểm tình hình, từ nhận định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và căn cứ vào ""Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội"", Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh ""nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá"". Đại hội của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 là: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới. Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 được thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn thách thức do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực (1997 - 1999) cùng với thiên tai liên tiếp xảy ra. Trong bối cảnh đó, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Trong 5 năm, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hằng năm 7%; công nghiệp tăng bình quân hằng năm 13,5%; nông nghiệp là 5,7%. Lương thực bình quân đầu người tăng từ 360 kg năm 1995 lên 444 kg năm 2000. Nông nghiệp phát triển liên tực, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế - xã hội. Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Trong tổng sản phẩm xã hội, tăng tỉ trọng công nghiệp từ 28,7% năm 1995 lên đến 36,6% năm 2000, giảm tỉ trọng nông nghiệp từ 27,2% xuống còn 24,3%. Các cần đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp. Đã cải thiện một bước quan hệ tích luỹ và tiêu dùng theo hướng tích luỹ cho phát triển. Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm khoảng 440 000 tỉ đồng, tương đương 40 tỉ USD, tốc độ tăng bình quân 8,6%/năm. Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Trong 5 năm, xuất khẩu đạt 51,6 tỉ USD, tăng bình quân hằng năm 21%. Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu, thủ công nghiệp) tăng nhanh, năm 2000 đạt 10 tỉ USD, gấp hơn 3,4 lần năm 1995. Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2000 đạt 4,3 tỉ USD, gấp hơn 1,7 lần năm 1995, với 3 mặt hàng chủ lực là gạo (đứng thứ hai thế giới), cà phê (đứng thứ b và thuỷ sản. Nhập khẩu khoảng 61 tỉ USD, tăng bình quân hằng năm 13,3%; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện đạt khoảng 10 tỉ USD, gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đến năm 2000, đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ. - Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Đến hết năm 2000, có 100% tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá nạn mù chữ; một số tỉnh, thành phố bắt đầu thực hiện chương trình phổ cập Trung học cơ sở. - Các lĩnh vực văn hoá - xã hội có bước phát triển đáng kể." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Trong 5 năm, có khoảng 6,1 triệu lao động được thu hút vào làm việc, bình quân mỗi năm thu hút 1,2 triệu người. Tỉ lệ hộ đói nghèo trên tổng số hộ trong cả nước giảm, từ 20% năm 1995 xuống còn 10% năm 2000. - Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng. Đến năm 2000, nước ta có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài ." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Những thành tựu và ưu điểm trong 5 năm (1996 - 2000) và nói chung trong 15 năm (1986 - 2000) thực hiện đường lối đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, chúng ta gặp không ít khó khăn và yêu kém.  + Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc; năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể chưa mạnh. + Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tỉ lê thất nghiệp ở thành thị và thiếu viêc làm ở nông thôn còn ở mức cao. + Tình trạng tham Những chưa được khắc phục triệt đề. Trong bối cảnh lịch sử đầu thế kỉ XXI, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4 - 2001) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), nhằm ""Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chốt và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đề đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại..."". Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) là rất quan trọng đối với việc thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010). Bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm đầu tiên của thế kỉ XXI, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi và thời cơ, nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức đan xen nhau. dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta luôn chủ động nắm bắt thời cơ, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo đoán biết và kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên mạnh mẽ, đúng hướng." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Những thành tựu và ưu điểm trong 5 năm (1996 - 2000) và nói chung trong 15 năm (1986 - 2000) thực hiện đường lối đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, chúng ta gặp không ít khó khăn và yêu kém.  + Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc; năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể chưa mạnh. + Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tỉ lê thất nghiệp ở thành thị và thiếu viêc làm ở nông thôn còn ở mức cao. + Tình trạng tham nhũng chưa được khắc phục triệt đề. Trong bối cảnh lịch sử đầu thế kỉ XXI, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4 - 2001) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), nhằm ""Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chốt và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đề đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại..."". Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) là rất quan trọng đối với việc thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010). Bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm đầu tiên của thế kỉ XXI, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi và thời cơ, nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức đan xen nhau. dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta luôn chủ động nắm bắt thời cơ, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo đoán biết và kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên mạnh mẽ, đúng hướng." 10 + 11 + 12,Chương 1: Cuộc cách mạng tư sản (Từ giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII),Bài 31: Cách mạng tư sản pháp cuối thế kỉ XVIII,"Ngày 10 - 8 - 1792, không khí cách mạng bao trùm khắp Pa-ri. Các công xã cách mạng được thành lập, nắm toàn bộ chính quyền trong thành phố. Nhân dân Pa-ri, được sự hỗ trợ của các địa phương, đã tấn công hoàng cung, bắt giam vua và hoàng hậu. Chính quyền chuyển sang tay tư sản công thương được gọi là phái Girôngđanh. Một quốc hội mới được bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới từ 21 tuổi trở lên. Ngày 21 - 9 - 1792, Quốc hội khai mạc, tuyên bố phế truất nhà vua, thiết lập nền Cộng hoà thứ nhất. Ngày 21 - 1 - 1793, vua Lu-i XVI bị xử chém vì tội phản quốc. Đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước những thử thách nặng nề. Bên trong, bọn phản cách mạng nổi loạn, đời sống nhân dân sa sút do nạn đầu cơ tích trữ và chiến tranh kéo dài, sản xuất bị đình trệ. Bên ngoài, các nước phong kiến Châu Âu, được sự hỗ trợ của quân Anh, liên minh với nhau chống lại nền cộng hoà non trẻ. Phái Girôngđanh, sau khi đạt được mục đích, không muốn đưa cách mạng tiến xa hơn, làm thiệt hại đến quyền lợi của tư sản. Chỉ những người thuộc phái Giacôbanh đại diện cho tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, gần gũi với những người tiểu tư sản và bình dân là muốn đẩy cách mạng tiếp tục đi lên nhằm giải quyết triệt để những yêu cầu của quần chúng. Ngày 31 - 5 - 1793, hưởng ứng lời kêu gọi của ủy ban khởi nghĩa, quần chúng cách mạng ở Pa-ri đã kéo đến bao vây trụ sở Quốc hội. Ngày 2-6, nhiều đại biểu Girôngđanh bị bắt. Chính quyển chuyển sang tay phái Giacôbanh." 10 + 11 + 12,Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000.,Bài 31: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986-2000).,"Những thành tựu và ưu điểm trong 5 năm (1996 - 2000) và nói chung trong 15 năm (1986 - 2000) thực hiện đường lối đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, chúng ta gặp không ít khó khăn và yếu kém. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc; năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể chưa mạnh. Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao. Tình trạng tham nhũng chưa được khắc phục triệt để. Trong bối cảnh lịch sử đầu thế kỉ XXI, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4 - 2001) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), nhằm ""Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại..."". Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) là rất quan trọng đối với việc thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010). Bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm đầu tiên của thế kỉ XXI, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi và thời cơ, nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức đan xen nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta luôn chủ động nắm bắt thời cơ, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo đoán biết và kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên mạnh mẽ, đúng hướng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở châu âu,"Anh là nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp do cách mạng tư sản nổ ra sớm, tạo những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh sản xuất: tư bản, nhân công và sự phát triển kĩ thuật. Cách mạng công nghiệp ở Anh bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XVIII và kết thúc vào những năm 40 của thế kỉ XIX. Những phát minh kĩ thuật đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp dệt vải bông - ngành công nghiệp phát đạt thời bấy giờ. Năm 1764, người thợ dệt Giêm Ha-gri-vơ đã sáng chế ra máy kéo sợi và lấy tên con gái mình đặt cho máy - ""máy Gien-ni"". Khác xa với quay tay, người thợ chỉ dùng được một cọc suốt, máy Gien-ni đã sử dụng từ 16-18 cọc suốt và chỉ do một công nhân điều khiển." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở châu âu,"Ở Pháp, cho đến đầu thế kỉ XIX, khi cuộc chiến tranh với các nước châu Âu kết thúc (năm 1815), đất nước mới dần ổn định và có điều kiện phát triển về kỉnh tế. Cũng như nước Anh, cách mạng công nghiệp ở Pháp được bắt đầu từ các ngành công nghiệp nhẹ vào những năm 30 của thế kỉ XIX và phát triển mạnh vào thời gian 1850 - 1870. Trong khoảng 20 năm đó, số máy hơi nước của Pháp tăng hơn 5 lần, từ 5000 chiếc lên 27000 chiếc; chiều dài đường sắt tăng 5,5 lần, từ 3000 km lên 16500 km; tàu chạy bằng máy hơi nước tăng hơn 3,5 lần với trọng tải tăng hơn 10 lần. Cách mạng công nghiệp đã đưa nền kinh tế Pháp vươn lên mạnh mẽ, công nghiệp Pháp đứng thứ hai trên thế giới, sau nước Anh. Bộ mặt Pa-ri và các thành phố thay đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng... được xây dựng thay thế các phố cũ chật hẹp. Ở Đức, cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỉ XIX mặc dù đất nước đang còn bị chia xẻ thành nhiều vương quốc và giai cấp tư sản chưa cầm quyền. Đến giữa thế kỉ XIX, tốc độ phát triển công nghiệp của Đức đạt mức kỉ lục. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lượng than, sắt, thép và độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi; số lượng động cơ chạy bằng hơi nước tăng gần 6 lần; công nghiệp khai mỏ phát triển mạnh, từ năm 1860 đến năm 1870, sản lượng than đá tăng từ 12 triệu tấn lên 26 triệu tấn. Công nghiệp luyện kim và hoá chất chiếm vai trò quan trọng trong nền kỉnh tế Đức. Máy móc cũng thâm nhập vào nông nghiệp. Việc sử dụng máy cày, máy bừa, máy gặt,... và dùng phân bón hoá học đã làm cho năng suất tăng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở châu âu,"Ở Pháp, cho đến đầu thế kỉ XIX, khi cuộc chiến tranh với các nước châu Âu kết thúc (năm 1815), đất nước mới dần ổn định và có điều kiện phát triển về kinh tế. Cũng như nước Anh, cách mạng công nghiệp ở Pháp được bắt đầu từ các ngành công nghiệp nhẹ vào những năm 30 của thế kỉ XIX và phát triển mạnh vào thời gian 1850 - 1870. Trong khoảng 20 năm đó, số máy hơi nước của Pháp tăng hơn 5 lần, từ 5000 chiếc lên 27000 chiếc; chiều dài đường sắt tăng 5,5 lần, từ 3000 km lên 16500 km; tàu chạy bằng máy hơi nước tăng hơn 3,5 lần với trọng tải tăng hơn 10 lần. Cách mạng công nghiệp đã đưa nền kinh tế Pháp vươn lên mạnh mẽ, công nghiệp Pháp đứng thứ hai trên thế giới, sau nước Anh. Bộ mặt Pa-ri và các thành phố thay đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng... được xây dựng thay thế các phố cũ chật hẹp. Ở Đức, cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỉ XIX mặc dù đất nước đang còn bị chia xẻ thành nhiều vương quốc và giai cấp tư sản chưa cầm quyển. Đến giữa thế kỉ XIX, tốc độ phát triển công nghiệp của Đức đạt mức kỉ lục. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lượng than, sắt, thép và độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi; số lượng động cơ chạy bằng hơi nước tăng gần 6 lần; công nghiệp khai mỏ phát triển mạnh, từ năm 1860 đến năm 1870, sản lượng than đá tăng từ 12 triệu tấn lên 26 triệu tấn. Công nghiệp luyện kim và hoá chất chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế Đức. Máy móc cũng thâm nhập vào nông nghiệp. Việc sử dụng máy cày, máy bừa, máy gặt,... và dùng phân bón hoá học đã làm cho năng suất tăng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở châu âu,"Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt các nước tư bản: nhiều trung tâm công nghiệp mới và thành thị đông dân xuất hiện, sản xuất bằng máy đã nâng cao năng suất lao động và ngày càng xã hội hoá quá trình lao động của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng công nghiệp cũng góp phần thúc đẩy những chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành kinh tế khác, đặc biệt là nông nghiệp và giao thông vận tải. Nhu cầu công nghiệp hoá khiến nông nghiệp nhanh chóng chuyển sang phương thức chuyên canh hoặc thâm canh, đồng thời quá trình cơ giới hoá nông nghiệp đã góp phần giải phóng nông dân, bổ sung lực lượng lao động cho thành phố. Hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản được hình thành - tư sản công nghiệp và vô sản công nghiệp. Sự tăng cường bóc lột công nhân của giai cấp tư sản làm cho mâu thuẫn trong xã hội tư bản và cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản không ngừng tăng lên. " 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở Châu âu,"Anh là nước đầu tiên tiến hành cách mạng công nghiệp do cách mạng tư sản nổ ra sớm, tạo những điều kiện thuận lợi đề đẩy mạnh sản xuất: tư bản, nhân công và sự phát triển kĩ thuật. Cách mạng công nghiệp ở Anh bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XVIII và kết thức vào những năm 40 của thế kỉ XIX. Những phát minh kĩ thuật đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp dệt vải bống - ngành công nghiệp phát đạt thời bấy giờ. Năm 1764, người thợ dệt Giêm Ha-gri-vơ đã sáng chế ra máy kéo sợi và lấy tên con gái mình đặt cho máy - ""máy Gien-ni"". Khác v6i xa quay tay, người thợ chỉ dùng được một cọc suốt, máy Gien-ni đã sử dụng từ 16-18 cọc suốt và chỉ do một công nhân điều khiển." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 32: Cách mạng công nghiệp ở Châu âu,"Ở Pháp, cho đến đầu thế kỉ XIX, khi cuộc chiến tranh với các nước cháu Âu kết thức (năm I815), đất nước mới dần ổn định và có điều kỉện phát triển về kỉnh tế. Cũng như nước Anh, cách mạng công nghiệp ở Pháp được bắt đầu từ các ngành công nghiệp nhẹ vào những năm 30 của thế kỉ XIX và phát triển mạnh vào thời gian 1850 - 1870. Trong khoảng 20 năm đó, số máy hơi nước của Pháp tăng hơn 5 lần, từ 5000 chiếc lên 27000 chiếc; chiều dài đường sắt tăng 5,5 lần, từ 3000 km lên 16500 km; tàu chạy bằng máy hơi nước tăng hơn 3,5 lần với trọng tài tăng hơn 10 lần. Cách mạng công nghiệp đã đưa nền kỉnh tế Pháp vươn lên mạnh mẽ, công nghiệp Pháp đứng thứ hai trên thế giới, sau nước Anh. Bộ mặt Pa-ri và các thành phố thay đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng... được xây dựng thay thế các phố cũ chật hẹp. ơ Đức, cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỉ XIX mặc dù đất nước đang còn bị chia xẻ thành nhiều vương quốc và giai cấp tư sản chưa cầm quyền. Đến giữa thế kỉ XIX, tốc độ phát triển công nghiệp của Đức đạt mức kỉ lực. Từ năm 1850 đến năm 1860, sản lượng than, sắt, thép và độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi; số lượng động cơ chạy bằng hơi nước tăng gần 6 lần; công nghiệp khai mỏ phát triển mạnh, từ năm 1860 đến năm 1870, sản lượng than đá tăng từ 12 triệu tấn lên 26 triệu tấn. Công nghiệp luyện kim và hoá chất chiếm vai trò quan trọng trong nền kỉnh tế Đức. Máy móc cũng thâm nhập vào nông nghiệp. Việc sử dụng máy cày, máy bừa, máy gặt,... và dùng phán bón hoá học đã làm cho năng suất tăng cao." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"A-bra-ham Lin-côn (1809 - 1865) sinh ra trong một gia đình chủ trại nghèo ở Ken-tấc-ki. Hồi trẻ, ông làm nhiều nghề để sinh sống, tranh thủ thời gian học luật và trở thành luật sư. Năm 1848, Lin-côn được bầu vào Quốc hội. Ông đã đọc nhiều bài diễn văn chống lại chế độ nô lệ da đen. Sự kiện này đe dọa quyền lợi của các chủ nô miền Nam vì Đảng Cộng hòa chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ. Để tỏ thái độ phản đối, liên bang miền Nam tuyên bố tách khỏi Liên bang, thành lập Hiệp bang riêng, có chính phủ, tổng thống riêng và chuẩn bị lực lượng chống lại chính phủ trung ương. Ngày 12 - 4- 1861, nội chiến bùng nổ. Giữa năm 1862, Tổng thống Lin-côn kí sắc lệnh cấp đất ở miền Tây cho dân di cư (người được cấp đất chi phải trả một khoản tiền nhỏ), tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế trang trại. Ngày 1-1-1863, sắc lệnh bãi bỏ chế độ nô lệ được ban hành. Nhờ vậy, hàng vạn nô lệ được giải phóng cùng với đông đảo dân tự do - những người mới được cấp đất, đã gia nhập đội quán của Chính phủ Liên bang. Sức mạnh của quân đội Liên bang được tăng cường. Ngày 9-4-1865, trong trận đánh quyết định tấn công thủ phủ Hiệp bang, quân đội Liên bang đã chiến thắng vẻ vang, chấm dứt cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến 1861 - 1865 là cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai ở Mĩ, kể từ sau Chiến tranh giành độc lập. Dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng (những chủ trại, dân tự do và người da đen), giai cấp tư sản miền Bắc đã xoá bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở khu vực này. Nền kinh tế Mĩ đã vươn lên mạnh mẽ vào cuối thế kỉ XIX." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Trong các thập niên 50 - 60 của thế kỉ XIX, nhiều cuộc cách mạng tư sản diễn ra dưới những hình thức khác nhau ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Điều này đã khẳng định sự toàn thắng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bàn phát triển mạnh mẽ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Trong các thập niên 50 - 60 của thế kỉ XIX, nhiều cuộc cách mạng tư sản diễn ra dưới những hình thức khác nhau ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Điều này đã khẳng định sự toàn thắng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Đến giữa thế kỉ XIX, kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Đức phát triển nhanh chóng; từ một nước nông nghiệp, Đức trở thành nước công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp làm cho đội ngũ công nhân tăng nhanh; riêng ở Béc-lin, chỉ trong 10 năm (1849 - 1859), số công nhân tăng từ 5 vạn lên 18 vạn. Béc-lin trở thành trung tâm chế tạo máy móc. Công nghiệp và các thành thị phát triển nhanh chóng đã thôi thúc nhiều quý tộc địa chủ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa: sử dụng máy móc, thuê mướn nhân công, đẩy mạnh khai khẩn... Phương thức kinh doanh mới tạo nên tầng lớp quý tộc tư sản hoá, gọi là Gioongke. Trở ngại lớn nhất cho sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Đức là đất nước vẫn trong tình trạng bị chia xẻ thành nhiều vương quốc, trong đó Áo và Phổ là hai vương quốc lớn nhất. Vấn đề thống nhất đất nước ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết. Bộ phận quý tộc quân phiệt Phổ đại diện là Bi-xmác, được sự ủng hộ của giai cấp tư sản đã dùng vũ lực để thống nhất đất nước bằng ba cuộc chiến tranh với các nước láng giềng: chống Đan Mạch (1864), chống Áo (1866) và chống Pháp (1870 - 1871). Do thắng lợi, năm 1867, Liên bang Bắc Đức ra đời, bao gồm 18 quốc gia ở Bắc Đức và 3 thành phố tự do. Hiến pháp Đức được thông qua, thừa nhận quyền lực tối cao thuộc về vua Phổ và hạn chế vai trò của Quốc hội. Với sự thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), Bi-xmác đã gạt được ảnh hưởng của Pháp, thu phục các bang miền Nam, hoàn thành việc thống nhất đất nước. Ngày 18 - 1 - 1871, lễ thành lập Đế chế Đức được tổ chức tại Cung điện Véc-xai (Pháp). Vua Phổ Vin-hem 1 chính thức lên ngôi Hoàng đế. Bi-xmác trở thành Thủ tướng nước Đức. Tháng 4 - 1871, Hiến pháp mới được ban hành, quy định nước Đức là một liên bang gồm 22 bang và 3 thành phố tự do, củng cố vai trò của quý tộc quân phiệt Phổ. Như vậy, việc thống nhất nước Đức mang tính chất một cuộc cách mạng tư sản, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Sau chiến tranh giành độc lập vào nửa cuối thế kỉ XVIII, nước Mĩ ra đời gồm 13 bang ở ven biển Đại Tây Dương thuộc Bắc Mĩ. Tiếp đó, lãnh thổ Mĩ được mở rộng nhanh chóng sang phía tây. Miền Đông Bắc nước Mĩ là vùng phát triển công nghiệp, miền Nam là vùng nông nghiệp đồn điền, miền Tây là vùng đất bao la, nơi thu hút dân di cư mới. Bằng biện pháp mua lại đất đai của Pháp, Anh, của Tây Ban Nha, chiếm cứ đất đai của Mê-hi-cô và dồn đuổi thổ dân, nước Mĩ ngày càng được mở rộng, lập thêm nhiều bang mới. Đến giữa thế kỉ XIX, lãnh thổ Mĩ đã kéo dài tới bờ biển Thái Bình Dương, bao gồm 30 bang. Bấy giờ, kinh tế Mĩ phát triển theo hai con đường: miền Bắc phát triển nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, ruộng đất nằm trong tay các trại chủ và nông dân tự do; miền Nam phát triển kinh tế đồn điền dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Nhờ những điều kiện thuận lợi (có vùng đất đai miền Tây rộng lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, tàn dư phong kiến không nặng nề như nhiều quốc gia Châu Âu, nguồn nhân công dồi dào do dân di cư từ Châu Âu tới mang theo những tiến bộ về khoa học - kĩ thuật...), nền kinh tế Mĩ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các ngành công nghiệp: dệt, đường sắt, khai mỏ, luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy v.v... Năm 1850, sản xuất công nghiệp của Mĩ đứng thứ tư thế giới, sau Anh, Pháp, Đức. Về mặt nông nghiệp, ở miền Bắc và miền Tây, kinh tế trại chủ nhỏ và nông dân tự do chiếm ưu thế dựa trên sự phát triển chăn nuôi và sản xuất lúa mì để phục vụ thị trường công nghiệp. Ở miền Nam, kinh tế đồn điền phát triển với các nghề trồng bông, mía, thuốc lá... dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ đã làm giàu nhanh chóng cho giới chủ nô. Tuy vậy, sự tồn tại của chế độ nô lệ đã cản trở nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ở Mĩ. Bằng việc vắt kiệt sức lao động của người nô lệ, các chủ nô không chịu áp dụng những tiến bộ của khoa học - kĩ thuật nên năng suất thu hoạch ngày càng thấp, đất đai trở nên cằn cỗi vì không được chăm bón, cải tạo. Các chủ nô miền Nam muốn khai khẩn những vùng đất mới ở miền Tây để lập đồn điền, nơi mà các trại chủ miền Bắc cũng đang ""nhòm ngó"" để mở rộng diện tích chăn nuôi và trồng trọt, cung cấp thực phẩm cho công nghiệp. Mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với các chủ nô miền Nam càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ nô lệ, được đông đảo những người tiến bộ da trắng tư sản, trại chủ, công nhân, nông dân... ủng hộ, diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nguy cơ một cuộc nội chiến đang đến gần để thanh toán các lực lượng bảo thủ, giải phóng nô lệ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản Mĩ phát triển trong cả nước. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nội chiến là cuộc bầu cử tổng thống năm 1860, khi ứng cử viên của Đảng Cộng hoà (đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản và các trại chủ miền Bắc là A-bra-ham Lin-côn trúng cử Tổng thống." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"A-bra-ham Lin-côn (1809 - 1865) sinh ra trong một gia đình chủ trại nghèo ở Ken-tấc-ki. Hồi trẻ, ông làm nhiều nghề để sinh sống, tranh thủ thời gian học luật và trở thành luật sư. Năm 1848, Lin-côn được bầu vào Quốc hội. Ông đã đọc nhiều bài diễn văn chống lại chế độ nô lệ da đen. Sự kiện này đe doạ quyền lợi của các chủ nô miền Nam vì Đảng Cộng hoà chủ trương bãi bỏ chế độ nô lệ. Để tỏ thái độ phản đối, liên bang miền Nam tuyên bố tách khỏi Liên bang, thành lập Hiệp bang riêng, có chính phủ, tổng thống riêng và chuẩn bị lực lượng chống lại chính phủ trung ương. Ngày 12-4-1861, nội chiến bùng nổ. Giữa năm 1862, Tổng thống Lin-côn kí sắc lệnh cấp đất ở miền Tây cho dân di cư (người được cấp đất chỉ phải trả một khoản tiền nhỏ), tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế trang trại. Ngày 1-1-1863, sắc lệnh bãi bỏ chế độ nô lệ được ban hành. Nhờ vậy, hàng vạn nô lệ được giải phóng cùng với đông đảo dân tự do - những người mới được cấp đất, đã gia nhập đội quân của Chính phủ Liên bang. Sức mạnh của quân đội Liên bang được tăng cường. Ngày 9-4-1865, trong trận đánh quyết định tấn công thủ phủ Hiệp bang, quân đội Liên bang đã chiến thắng vẻ vang, chấm dứt cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến 1861 - 1865 là cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai ở Mĩ, kể từ sau Chiến tranh giành độc lập. Dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng (những chủ trại, dân tự do và người da đen), giai cấp tư sản miền Bắc đã xoá bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở khu vực này. Nền kinh tế Mĩ đã vươn lên mạnh mẽ vào cuối thế kỉ XIX." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở Châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Sau chiến tranh giành độc lộp vào nửa cuối thế kỉ XVIII, nước Mĩ ra đời gồm 13 bang ở ven biển Đại tây dương thuộc Bắc Mĩ. Tiếp đó, lãnh thổ Mĩ được mở rộng nhanh chóng sang phía tây. Miền Đông Bắc nước Mĩ là vùng phát triển công nghiệp, miền Nam là vùng nông nghiệp đồn điền, miền tây là vùng đất bao la, nơi thu hút dân di cư mới. Bằng biện pháp mua lại đất đai của Pháp, Anh, của tây Ban Nha, chiếm cứ đất đai của Mê-hi-cô và dồn đuổi thổ dân, nước Mĩ ngày càng được mỏ rộng, lập thêm nhiều bang mới. Đến giữa thế kỉ XIX, lãnh thổ Mĩ đã kéo dài tới bờ biển Thái Bình dương, bao gồm 30 bang. Bấy giờ, kinh tế Mĩ phát triển theo hai con đường: miền Bắc phát triển nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, ruộng đất nằm trong tay các trại chủ và nông dân tự do; miền Nam phát triển kinh tế đồn diển dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở Châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Nhờ những điều kiện thuận lợi (có vùng đất đai miền tây rộng lốn với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, tàn dự phong kiến không nặng nề như nhiều quốc gia Châu Âu, nguồn nhân công dồi dào do dân di cư từ Châu Âu tới mang theo những tiến bộ về khoa học - kĩ thuật...), nền kinh tế Mĩ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các ngành công nghiệp: dệt, đưòng sắt, khai mỏ, luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy v.v... Năm 1850, sản xuất công nghiệp của Mĩ đứng thứ tư thế giới, sau Anh, Pháp, Đức. về mặt nông nghiệp, ở miền Bắc và miền tây, kinh tế trại chủ nhỏ và nông dân tự do chiếm ưu thế dựa trên sự phát triển chăn nuôi và sản xuất lúa mì đề phục vụ thị trường công nghiệp. Ở miền Nam, kinh tế đồn điền phát triển với các nghề trồng bống, mía, thuốc lá... dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ đã làm giàu nhanh chóng cho giới chủ nô. Tuy vậy, sự tồn tại của chế độ nô lệ đã cản trở nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ở Mĩ. Bằng việc vắt kiệt sức lao động của người nô lệ, các chủ nô không chịu áp dụng những tiến bộ của khoa học - kĩ thuật nên năng suất thu hoạch ngày càng thấp, đất đai trở nên cằn cỗi vì không được chăm bón, cải tạo. Các chủ nô miền Nam muốn khai khẩn những vùng đất mới ở miền tây đề lập đồn điền, noi mà các trại chủ miền Bắc cũng đang ""Nhờm ngó đề mở rộng diện tích chăn nuôi và trồng trọt, cung cấp thực phẩm cho công nghiệp. Mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với các chủ nô miền Nam càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ nô lệ, được đông đảo những người tiến bộ da trắng tư sản, trại chủ, công nhân, nông dân... ủng hộ, diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nguy cơ một cuộc nội chiến đang đến gần đề thanh toán các lực lượng bảo thủ, giải phóng nô lệ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản Mĩ phát triển trong cả nước. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nội chiến là cuộc bầu cử tổng thống năm 1860, khi ứng cử viên của Đảng Cộng hoà (đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản và các trại chủ miền Bắ là A-bra-ham Lin-côn trúng cử Tổng thống." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 33: Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu âu và mĩ giữa thế kỉ XIX,"Nhờ những điều kiện thuận lợi (có vùng đất đai miền Tây rộng lốn với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, tàn dư phong kiến không nặng nề như nhiều quốc gia Châu Âu, nguồn nhân công dồi dào do dân di cư từ Châu Âu tới mang theo những tiến bộ về khoa học - kĩ thuật...), nền kinh tế Mĩ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các ngành công nghiệp: dệt, đường sắt, khai mỏ, luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy v.v... Năm 1850, sản xuất công nghiệp của Mĩ đứng thứ tư thế giới, sau Anh, Pháp, Đức. Về mặt nông nghiệp, ở miền Bắc và miền Tây, kinh tế trại chủ nhỏ và nông dân tự do chiếm ưu thế dựa trên sự phát triển chăn nuôi và sản xuất lúa mì để phục vụ thị trường công nghiệp. Ở miền Nam, kinh tế đồn điền phát triển với các nghề trồng bông, mía, thuốc lá... dựa trên sự bóc lột sức lao động của nô lệ đã làm giàu nhanh chóng cho giới chủ nô. Tuy vậy, sự tồn tại của chế độ nô lệ đã cản trở nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ở Mĩ. Bằng việc vắt kiệt sức lao động của người nô lệ, các chủ nô không chịu áp dụng những tiến bộ của khoa học - kĩ thuật nên năng suất thu hoạch ngày càng thấp, đất đai trở nên cằn cỗi vì không được chăm bón, cải tạo. Các chủ nô miền Nam muốn khai khẩn những vùng đất mới ở miền Tây để lập đồn điền, nơi mà các trại chủ miền Bắc cũng đang nhòm ngó để mở rộng diện tích chăn nuôi và trồng trọt, cung cấp thực phẩm cho công nghiệp. Mâu thuẫn giữa tư sản và trại chủ miền Bắc với các chủ nô miền Nam càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ nô lệ, được đông đảo những người tiến bộ da trắng tư sản, trại chủ, công nhân, nông dân... ủng hộ, diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nguy cơ một cuộc nội chiến đang đến gần để thanh toán các lực lượng bảo thủ, giải phóng nô lệ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản Mĩ phát triển trong cả nước. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nội chiến là cuộc bầu cử tổng thống năm 1860, khi ứng cử viên của Đảng Cộng hòa (đại diện cho quyển lợi của giai cấp tư sản và các trại chủ miền Bắc là A-bra-ham Lin-côn trúng cử Tổng thống." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 34: Các nước tư bản chuyển sang giai đoan đế quốc chủ nghĩa,"Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, các nước tư bản Âu - Mĩ có những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế xã hội, bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là sự ra đời của các tổ chức độc quyền và sự bóc lột ngày càng tinh vi đối với nhân dân lao động, làm cho mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản ngày càng sâu sắc. Đây cũng là giai đoạn các nước đế quốc đẩy mạnh chính sách xâm lược, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới, tăng cường đàn áp phong trào công nhân trong nước và những cuộc nổi dậy của nhân dân các thuộc địa." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 34: Các nước tư bản chuyển sang giai đoan đế quốc chủ nghĩa,"Vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản đạt đến trình độ phát triển cao. Nhờ những phát minh khoa học trong các lĩnh vực Vật lí, Hoá học, Sinh học..., con người đã đi sâu khám phá được nguồn năng lượng vô tận của thiên nhiên, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của mình. Trong lĩnh vực Vật lí, những phát minh về điện của các nhà bác học như Ghệ-oóc Xi-môn Ôm (1789-1854) người Đức, Mai-cơn Pha-ra-đây (1791-1867) và Giêmx Pre-xcốt Giun (1818-1889) người Anh, E-mi-li Khri-xchia-nô-vích Len-xơ (1804-1865) người Nga đã mở ra khả năng ứng dụng một nguồn năng lượng mới. Thuyết electron của Tôm-xơn (Anh) cho thấy nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất của vật chất mà trước đó người ta vẫn lầm tưởng. Những phát hiện về hiện tượng phóng xạ của các nhà bác học người Pháp Hăng-ri Béc-cơ-ren (1852-1908), Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy-ri đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm nguồn năng lượng hạt nhân; công trình nghiên cứu của nhà vật lí học người Anh Ec-nét Rơ-dơ-pho (1871-1937) là một bước tiến vĩ đại trong việc tìm hiểu cấu trúc vật chất và trở thành chiếc chìa khoá thần kì để tìm hiểu thế giới bên trong của nguyên tử. Phát minh của nhà bác học người Đức Vin-hem Rơn-ghen (1845-1923) về tia X vào năm 1895 đã giúp y học chẩn đoán chính xác bệnh tật, biết hướng điểu trị nhằm phục hồi sức khoẻ cho con người." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 34: Các nước tư bản chuyển sang giai đoan đế quốc chủ nghĩa,"Trong lĩnh vực Hoá học, định luật tuần hoàn của nhà bác học Nga Men-để-lê-ép đã đặt cơ sở cho sự phân hạng các nguyên tố hoá học. Lĩnh vực Sinh học cũng có nhiều tiến bộ lớn. Học thuyết Tiến hoá của Đác-uyn (Anh) đã giải thích nguồn gốc chung của sinh giới và sự tiến hoá bằng con đường chọn lọc tự nhiên; phát minh của nhà bác học người Pháp Lu-i Pa-xtơ (1822 - 1895) giúp chế tạo thành công vắcxin chống bệnh chó dại; công trình của nhà sinh lí học người Nga Páp-iốp (1849 - 1936) với thí nghiệm về những phản xạ có điều kiện đã nghiên cứu về hoạt động của hệ thần kinh cấp cao của động vật và con người v.v... Những sáng kiến về kĩ thuật trong thời kì này đã mở ra khả năng rộng lớn trong việc thúc đẩy sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu mới, sản lượng công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Kĩ thuật luyện kim được cải tiến với việc sử dụng lò Bét-xme và lò Mác-tanh đã đẩy nhanh quá trình sản xuất thép. Nhờ đó, thép được sử dụng phổ biến trong sản xuất như chế tạo máy, làm đường ray, đóng tàu và xây dựng. Ngành luyện kim phát triển đã thúc đẩy việc khai thác than. Việc sử dụng rộng rãi năng lượng điện đòi hỏi những động cơ hoàn chỉnh hơn để giúp các nhà máy phát điện hoạt động. Do vậy, từ cuối thế kỉ XIX, ngoài máy hơi nước, đã có những tuốc bin chạy bằng sức nước, những tuốc bin liên hợp với đinamô thành máy tuốc bin phát điện, cung cấp nguồn điện năng mạnh mẽ và rẻ tiền. Dầu hoả được khai thác để thắp sáng và cung cấp nguồn nhiên liệu mới cho giao thông vận tải. Công nghiệp hoá học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phán bón và thuốc nổ. Việc phát minh ra máy điện tín (giữa thế kỉ XIX) giúp cho liên lạc ngày càng xa và nhanh. Cuối thế kỉ XIX, xe ô tô được đưa vào sử dụng nhờ phát minh ra động cơ đốt trong. Tháng 12-1903, với chuyến bay thử của hai anh em người Mĩ (trên chuyến bay do họ chế tạo nhờ sức mạnh của một động cơ chạy bằng xăng), ngành hàng không đã ra đời. Nông nghiệp cũng có bước tiến đáng kể nhờ sử dụng nhiều máy móc: máy kéo, máy gặt, máy đập... Phương pháp canh tác được cải tiến, chế độ luân canh thay thế dần chế độ hữu canh thời phong kiến. Việc sử dụng phân bón hoá học càng nâng cao năng suất cây trồng. Những tiến bộ về khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi cơ bản nền sản xuất và cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, đánh dấu bước tiến mới của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn này." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 34: Các nước tư bản chuyển sang giai đoan đế quốc chủ nghĩa,"Trong lĩnh vực Hoá học, định luật tuần hoàn cùa nhà bác học Nga Men-đề-lê-ép đã đặt cơ sở cho sự phánhạng các nguyên tố hoá học. Lĩnh vực Sinh học cũng có nhiều tiến bộ lớn. Học thuyết Tiến hoá của Đác-uyn (Anh) đã giải thích nguồn gốc chung của sinh giới và sự tiến hoá bằng con đường chọn lọc tự nhiên; phát minh của nhà bác học người Pháp Lu-i Pa-xtơ (1822 - 1895) giúp chế tạo thành công vắcxin chống bệnh chó dại; công trình của nhà sinh lí học người Nga Páp-iốp (1849 - 1936) với thí nghiệm về những phản xạ có điều kiện đã nghiên cứu về hoạt động của hệ thần kinh cấp cao của động vật và con người v.v... Những sáng kiến về kĩ thuật trong thời kì này đã mỏ ra khả năng rộng lớn trong việc thức đẩy sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu mới, sản lượng công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Kĩ thuật luyện kim được cải tiến với việc sử dụng lò Bét-xme và lò Mác-tanh đã đẩy nhanh quá trình sản xuất thép. Nhờ đó, thép được sử dụng phổ biến trong sản xuất như chế tạo máy, làm đường ray, đóng tàu và xây dựng. Ngành luyện kim phát triển đã thức đẩy việc khai thác than. Việc sử dụng rộng rãi năng lượng điện đòi hỏi nhữhg động cơ hoàn chỉnh hơn đề giúp các nhà máy phát điện hoạt động. Do vậy, từ cuối thế kỉ XIX, ngoài máy hơi nước, đã có những tuốc bịn chạy bằng sức nước, nhữhg tuốc bịn liên hợp với đínamô thành máy tuốc bịn phát điện, cung cấp nguồn điện năng mạnh mẽ và rẻ tiền. Dầu hoả được khai thác đề thắp sáng và cung cấp nguồn nhiên liệu mới cho giao thông vận tài. Công nghiệp hoá học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phánbón và thuốc nổ. Việc phát minh ra máy điện tín (giữa thế kỉ XIX) giúp cho liên lạc ngày càng xa và nhanh. Cuối thế kỉ XIX, xe ô tô được đưa vào sử dụng nhờ phát minh ra động cơ đốt trong.  Tháng 12-1903, với chuyến bay thử của hai anh em người Mĩ (trên chuyến bay do họ chế tạo nhờ sức mạnh của một động cơ chạy bằng xăng), ngành hàng không đã ra đời. Nông nghiệp cũng có bước tiến đáng kể nhờ sử dụng nhiều máy móc: máy kéo, máy gặt, máy đập... Phương pháp canh tác được cải tiến, chế độ luân canh thay thế dần chế độ hưu canh thời phong kiến. Việc sử dụng phán bón hoá học càng nâng cao năng suất cáy trồng. Những tiến bộ về khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi cơ bản nền sản xuất và cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, đánh dấu bước tiến mới của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn này." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, sự phát triển nhảy vọt của nền kinh tế Đức và kinh tế Mỹ vượt qua Anh, Pháp là những biểu hiện về sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bàn. Việc đẩy mạnh xâm lược thuộc địa, phân chia lại thị trường thế giới làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trở nên gay gắt." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tình hình kinh tế Đầu thập niên 70 của thế kỉ XIX, nền công nghiệp Anh vẫn đứng đầu thế giới. Sản lượng than của Anh gấp 3 lần Mĩ và Đức; sản lượng gang gấp 4 lần Mĩ và gần 5 lần Đức. Về xuất khẩu kim loại, sản lượng của ba nước: Pháp, Đức, Mĩ gộp lại cũng không bằng Anh. Từ cuối thập niên 70, Anh mất dần địa vị độc quyền công nghiệp, do vậy, vai trò lũng đoạn thị trường thế giới bị giảm sút. Mĩ và Đức là những nước tư bản phát triển sau nhưng lại vượt Anh. Tính riêng về sản lượng thép: Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng suy giảm của công nghiệp Anh so với Đức, Mĩ là do ở Anh máy móc đã xuất hiện sớm hơn các nước khác hàng mấy chục năm, nhiều thiết bị cũ kĩ được tích lại và việc hiện đại hoá rất tốn kém. Tình trạng đó gắn liền với sự tồn tại của một đế quốc thuộc địa to lớn. Một số lớn tư bản được đầu tư vào thuộc địa, vì ở đây thu được nhiều lợi nhuận hơn đầu tư ở trong nước. Khi ấy, cướp đoạt thuộc địa có lợi hơn nhiều so với đầu tư cải tạo công nghiệp ở Anh. Tuy vai trò bá chủ thế giới về công nghiệp bị giảm sút, Anh vẫn chiếm ưu thế về tài chính, xuất khẩu tư bản, thương mại, hải quan và thuộc địa. Trong thời kì này, nhiều công ti độc quyền xuất hiện ở hầu hết các ngành công nghiệp: khai thác than, dệt, thuốc lá, hoá chất, luyện kim, vận tải và đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), 12 nhà ngân hàng lớn nhất ở Anh, mà nòng cốt là 5 ngân hàng ở khu Xi-ti Luân Đôn, đã nắm 70% số tư bản trong cả nước và chiếm địa vị chỉ huy về kinh tế, tài chính. Nền nông nghiệp Anh cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vào cuối thế kỉ XIX, giá lúa mì nhập từ Châu Âu và Mĩ rất rẻ trong khi giá lương thực sản xuất trong nước lại rất cao do chế độ thuế khoá. Vì thế, giai cấp tư sản Anh lao vào buôn bán lương thực hơn là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Trong những năm 60 của thế kỉ XIX, nước Anh tự cấp được 3/4 số lúa mì mỗi năm; từ thập niên 70 trở đi, giảm xuống còn 1/3, nghĩa là lương thực của Anh chỉ tự túc được 4 tháng." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tình hình chính trị về hình thức, nước Anh là một vương quốc nhưng thực chất theo chế độ đại nghị gồm thượng viện và hạ viện. Hai đảng (Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ) thay nhau cầm quyền. Sự khác biệt giữa hai đảng là không đáng kể, chủ yếu về biện pháp thực hiện và chính sách cụ thể song đều thống nhất với nhau trong việc bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, đàn áp phong trào quần chúng và đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Đây cũng là thời kì giai cấp tư sản Anh tăng cường mở rộng hệ thống thuộc địa, đặc biệt ở Châu Á và Châu Phi. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Anh đã rải hầu khắp địa cầu, chiếm 1/4 diện tích lục địa (33 triệu km vuông) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu người). Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bóc lột thuộc địa của đế quốc rộng lớn mà ""Mặt Trời không bao giờ lặn"", Lê-nin đã nhận định: chủ nghĩa đế quốc Anh là chủ nghĩa đế quốc thực dân." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tình hình kinh tế Trước năm 1870, sản xuất công nghiệp của Pháp đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Anh. Từ cuối thập niên 70 trở đi, nhịp độ phát triển công nghiệp ở Pháp bắt đầu chậm lại vì nhiều lí do: phải bồi thường chiến tranh do bại trận, nghèo nguyên liệu và nhiên liệu, đặc biệt là than, giai cấp tư sản chỉ quan tâm đến việc cho vay và đầu tư sang những nước chậm tiến để kiếm lợi nhuận cao... Đến cuối thế kỉ XIX, sản xuất công nghiệp của Pháp tụt xuống hàng thứ tư, sau Đức, Mĩ, Anh và kĩ thuật lạc hậu rõ rệt so với nền công nghiệp của nhiều nước tư bản trẻ khác. Tuy vậy, công nghiệp Pháp cũng có những tiến bộ đáng kể. Hệ thống đường sắt lan rộng cả nước, đã đẩy nhanh sự phát triển của các ngành khai mỏ, luyện kim và thương nghiệp. Việc cơ khí hoá sản xuất được tăng cường. Từ năm 1852 đến năm 1900, số xí nghiệp sử dụng máy móc tăng lên 9 lần, số động cơ chạy bằng hơi nước tăng lên 12 lần. Bên cạnh đó, ở Pháp vẫn còn nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1896, trong tổng số 3,3 triệu công nhân, thì trên 1 triệu làm việc trong các xí nghiệp có từ 10 đến 100 công nhân và trên 1,3 triệu lao động ở các xí nghiệp có từ 1 đến 10 công nhân. Nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong kinh tế Pháp vì phần đông dân cư sống bằng nghề nông. Tiểu nông chiếm đa số nông hộ. Tình trạng đất đai phân tán, manh mún không cho phép sử dụng máy móc và kĩ thuật canh tác mới. Nghề nấu rượu nho bị cạnh tranh gay gắt, nên nghề trồng nho - một nguồn lợi kinh tế quan trọng, cũng bị sa sút. Trong thời kì này, ở Pháp cũng hình thành nhiều tổ chức độc quyền, dần dần chi phối nền kinh tế đất nước. Điểm nổi bật của tổ chức độc quyền ở Pháp là sự tập trung ngân hàng đạt mức cao: 5 ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm 2/3 tư bản của các ngân hàng trong cả nước. Pháp là nước đứng thứ hai (sau Anh) về xuất khẩu tư bản, nhưng hình thức khác Anh ở chỗ phần lớn số vốn đem cho các nước vay với lãi suất nặng. Năm 1908, 38 tỉ phrăng được xuất khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỉ đầu tư vào công nghiệp trong nước, còn lại là cho vay nặng lãi. Năm 1914, số vốn xuất khẩu lên 50 - 60 tỉ phrăng, trong đó 13 tỉ cho nước Nga vay, chỉ có 2 - 3 tỉ được đưa vào thuộc địa. Tổng số lãi do vốn xuất khẩu năm 1913 lên tới 2,3 tỉ phrăng. Do vậy, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc Pháp là chủ nghĩa đế quốc cho vay lãi." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tháng 9 - 1870, nước Pháp thành lập nền Cộng hoà thứ ba. Song, phái Cộng hoà Pháp đã sớm chia thành hai nhóm: Ôn hoà và Cấp tiến, thay nhau cầm quyền ở Pháp. Đặc điểm của nền cộng hoà Pháp là tình trạng thường xuyên khủng hoảng nội các. Trong vòng 40 năm (1875 - 1914), ở Pháp đã diễn ra 50 lần thay đổi chính phủ. Nhiều vụ bê bối chính trị bị vỡ lở, nạn hối lộ và tham nhũng lan tràn trong chính phủ. Trong những thập niên cuối của thế kỉ XIX, nước Pháp ráo riết chạy đua vũ trang để trả mối thù với Đức, tiến hành những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, chủ yếu ở khu vực Châu Á và Châu Phi. Nửa cuối thế kỉ XIX, Pháp lần lượt thôn tính Cam-pu-chia, Việt Nam, Lào. Cùng với các đế quốc khác, Pháp tham gia xâu xé Trung Quốc, lập tô giới ở đảo Hải Nam (1898), có ""khu vực ảnh hưởng ở nhiều thành phố và tỉnh thành ở miền Nam Trung Quốc. Những năm 90, Pháp chinh phục nhiều nước Châu Phi (Xê-nê-gan, Tây Xu-đăng, Ghi-nê, một phần Công-gô, Đa-hô-mây v.v...). Đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Pháp được mở rộng chỉ đứng sau Anh, với diện tích gần 11 triệu km vuông và 55,5 triệu dân." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tình hình kinh tế Sau khi đất nước thống nhất (1871), nền kinh tế Đức phát triển với tốc độ mau lẹ. Từ năm 1870 đến năm 1900, sản xuất than tăng 4,4 lần, gang tăng 6 lần, độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi. Đức đã vượt Pháp và gần đuổi kịp Anh. Trong những ngành công nghiệp mới như điện, hoá chất..., Đức cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Năm 1883, công nghiệp hoá chất của Đức đã sản xuất 2/3 lượng thuốc nhuộm trên thế giới. Ngành dệt các nước ưa chuộng thuốc nhuộm có anilin của Đức vừa đẹp vừa rẻ, thay cho thuốc nhuộm từ thực vật của Anh, Pháp. Nền công nghiệp Đức sở dĩ có được bước nhảy vọt như thế là do có một số thuận lợi. Một là thống nhất được thị trường dân tộc; hai là nhờ có nguồn tài nguyên dồi dào, nhất là than đá; Đức lại giàu về sắt do chiếm được hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp; ba là nhận được số tiền bồi thường chiến tranh 5 tỉ phrăng của Pháp; bốn là do công nghiệp hoá muộn nên Đức có thể sử dụng thành tựu kĩ thuật của những nước đi trước; năm là nguồn nhân lực dồi dào do số dân tăng nhanh và sự bóc lột nhân dân lao động trong nước. Trong những năm 1890 - 1900, sản lượng công nghiệp Đức tăng 163% (Anh - 49%, Pháp - 65%). Do sản xuất phát triển, việc xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp của Đức tăng rõ rệt: Đến năm 1900, Đức vượt Anh về sản xuất thép, về tổng sản lượng công nghiệp, Đức dẫn đầu Châu Âu và đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ). Công nghiệp phát triển đã làm thay đổi cơ cấu dân cư giữa thành thị và nông thôn. Từ năm 1871 đến năm 1901, số dân thành thị tăng từ 36% đến 54,3%. Nhiều thành phố mới, nhiều trung tâm công thương nghiệp và bến cảng đã xuất hiện. Điểm nổi bật của quá trình phát triển công nghiệp Đức bấy giờ là sự tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức độc quyền diễn ra sớm hơn nhiều nước khác ở Châu Âu. Hình thức độc quyền phổ biến ở Đức là các-ten và xanh-đi-ca. Không đầy 1% xí nghiệp sử dụng hơn 75% tổng số điện lực trong khi 91% là xí nghiệp nhỏ chỉ nhận được có 7% thôi, số các-ten tăng lên nhanh chóng: năm 1905 có 385, đến năm 1911 có khoảng 550 - 600. Những tổ chức độc quyền này gắn với các ngân hàng thành tư bản tài chính. Ngành ngân hàng cũng tập trung cao độ. Nông nghiệp của Đức cũng có những tiến bộ nhưng chậm chạp hơn do việc tiến hành cách mạng tư sản không triệt để. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc và địa chủ. Bên cạnh việc canh tác theo phương thức tư bản chủ nghĩa (dùng máy móc, phân hoá học, áp dụng kĩ thuật mới...), những tàn dư phong kiến vẫn được duy trì. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông dân Đức càng phân hoá sâu sắc. Phần lớn nông dân bị phá sản phải đi làm thuê cho quý tộc, địa chủ, hoặc đi kiếm ăn ở các cơ sở công nghiệp." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa","Tình hình chính trị Hiến pháp 1871 quy định nước Đức là một Liên bang gồm 22 bang và 3 thành phố tự do, theo chế độ quân chủ lập hiến. Trong nhà nước liên bang, Hoàng đế là người đứng đầu, có quyền hạn tối cao (tổng chỉ huy quân đội, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, triệu tập và giải tán Quốc hội...). Quyền lập pháp trong tay hai viện: Hội đồng Liên bang (Thượng viện) gồm đại biểu các bang và Quốc hội (Hạ viện) do bầu cử, nhiệm kì 3 năm. Các bang vẫn giữ hình thức vương quốc (có vua, chính phủ và quốc hội riêng), nhưng quyền hạn bị thu hẹp. Phổ là bang lớn nhất và mạnh nhất trong Liên bang Đức (chiếm 61% dân số và 64% lãnh thổ). Vai trò của Phổ trong liên bang rất lớn: Hoàng đế Đức là vua Phổ, Thủ tướng Đức thường là Thủ tướng Phổ, Chủ tịch Hội đồng Liên bang là Thủ tướng của Liên bang và trong 58 ghế của Hội đồng, Phổ chiếm 17 ghế. Nhà nước liên bang được xây dựng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc tư sản, đứng đầu là Hoàng đế Vin-hem I và Thủ tướng Bi-xmác. Đây là lực lượng đã lãnh đạo công cuộc thống nhất đất nước bằng con đường vũ lực, có thế lực về chính trị và tiềm lực mạnh về kinh tế. Khi nước Đức chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tầng lớp quý tộc tư sản hoá vẫn giữ vai trò quan trọng. Mặc dù có Hiến pháp, có Quốc hội, nhưng chế độ chính trị ở Đức thời kì này không phải là chế độ đại nghị tư sản mà thực chất là chế độ nửa chuyên chế, áp dụng sự thống trị của Phổ trên toàn nước Đức. Nước Đức tiến lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khi phần lớn đất đai trên thế giới đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của Anh, Pháp. Do vậy, đường lối đối ngoại của Đức vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX là công khai đòi chia lại thị trường và thuộc địa, ráo riết chạy đưa vũ trang để thoả mãn nhu cầu của giới cầm quyền. Mâu thuẫn giữa Đức với Anh, Pháp càng thêm sâu sắc. Tính chất quân phiệt hiếu chiến là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình chính trị về hình thức, nước Anh là một vương quốc nhưng thực chất theo chế độ đại nghị gồm thượng viện và hạ viện. Hai đảng (ĐảngTự do và Đảng Bảo thủ) thay nhau cầm quyền. Sự khác biệt giữa hai đàng là không đáng kể, chủ yếu về biện pháp thực hiện và chính sách cụ thể song đều thống nhất với nhau trong việc bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, đàn áp phong trào quần chúng và đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Đấy cũng là thời kì giai cấp tư sản Anh tăng cường mở rộng hệ thống thuộc địa, đặc biệt ở Châu Á và Châu Phi. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Anh đã rải hầu khắp địa cầu, chiếm 1/4 diện tích lực địa (33 triệu km vuông) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu người). Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bóc lột thuộc địa của đế quốc rộng lớn mà ""Mặt Trời không bao giờ lặn"", Lê-nin đã nhận định: chủ nghĩa đế quốc Anh là chủ nghĩa đế quốc thực dân." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình kinh tê Trước năm 1870, sản xuất công nghiệp của Pháp đứng thứ hai thế giới, chí sau Anh. Từ cuối thập niên 70 trở đi, nhịp độ phát triển công nghiệp ở Pháp bất đầu chậm lại vì nhiều lí do: phải bồi thường chiến tranh do bại trậnO, nghèo nguyên liệu và nhiên liệu, đặc biệt là than, giai cấp tư sản chỉ quan tâm đến việc cho vay và đầu tu sang những nước chậm tiến đề kiếm lợi nhuận cao... Đến cuối thế kỉ XIX, sản xuất công nghiệp của Pháp tụt xuống hàng thứ tu, sau Đức, Mĩ, Anh và kĩ thuật lạc hậu rõ rệt so với nền công nghiệp của nhiều nước tu bản trẻ khác. Tuy vậy, công nghiệp Pháp cũng có những tiến bộ đáng kể. Hệ thống đường sắt lan rộng cả nước, đã đẩy nhanh sự phát triển của các ngành khai mỏ, luyện kim và thương nghiệp. Việc cơ khí hoá sản xuất được tăng cường. Từ năm 1852 đến năm 1900, số xí nghiệp sử dụng máy móc tâng lên 9 lần, số động cơ chạy bằng hơi nước tăng lên 12 lần. Bên cạnh đó, ở Pháp vẫn còn nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1896, trong tổng số 3,3 triệu công nhân, thì trên 1 triệu làm việc trong các xí nghiệp có từ 10 đến 100 công nhân và trên 1,3 triệu lao động ở các xí nghiệp có từ 1 đến 10 công nhân. Nông nghiệp vẫn giũ vai trò quan trọng trong kinh tế Pháp vì phần đông dân cu sống bằng nghề nông. Tiểu nông chiếm đa số nông hộ. Tinh trạng đất đai phántán, manh mún không cho phép sử dụng máy móc và kĩ thuật canh tác mới. Nghề nấu rượu nho bị cạnh tranh gay gắt, nên nghề trồng nho - một nguồn lợi kinh tế quan trọng, cũng bị sa sút. Trong thời kì này, ở Pháp cũng hình thành nhiều tổ chức độc quyền, dần dần chi phối nền kinh tế đất nước. Điểm nổi bật của tổ chức độc quyền ở Pháp là sự tập trung ngán hàng đạt mức cao: 5 ngân hàng lớn ở Pa-ri nắm 2/3 tu bản của các ngán hàng trong cả nước. Pháp là nước đứng thứ hai (sau Anh) về xuất khẩu tu bản, nhưng hình thức khác Anh ở chỗ phần lớn số vốn đem cho các nước vay với lãi suất nặng. Năm 1908, 38 tỉ phrăng được xuất khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỉ đầu tư vào công nghiệp trong nước, còn lại là cho vay nặng lãi. Năm 1914, số vốn xuất khẩu lên 50 - 60 tỉ phrăng, trong đó 13 tỉ cho nước Nga vay, chỉ có 2 - 3 tỉ được đưa vào thuộc địa. Tổng số lãi do vốn xuất khẩu năm 1913 lên tới 2,3 tỉ phrăng.   Do vậy, đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc Pháp là chủ nghĩa đế quốc cho vay lãi" 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình kinh tế Sau khi đất nước thống nhất (1871), nền kinh tế Đức phát triển với tốc độ mau lẹ. Từ năm 1870 đến năm 1900, sản xuất than tăng 4,4 lần, gang tăng 6 lần, độ dài đường sắt tăng hơn gấp đôi. Đức đã vượt Pháp và gần đuổi kịp Anh. Trong những ngành công nghiệp mới như điện, hoá chất..., Đức cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Năm 1883, công nghiệp hoá chất của Đức đã sản xuất 2/3 lượng thuốc nhuộm trên thế giới. Ngành dệt các nước ưa chuộng thuốc nhuộm có anilin của Đức vừa đẹp vừa rẻ, thay cho thuốc nhuộm từ thực vật của Anh, Pháp. Nền công nghiệp Đức sở dĩ có được bước nhảy vọt như thế là do có một số thuận lợi. Một là thống nhất được thị trường dân tộc; hai là nhờ có nguồn tài nguyên dồi dào, nhất là than đá; Đức lại giàu về sắt do chiếm được hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp; ba là nhận được số tiền bổi thường chiến tranh 5 tỉ phrăng của Pháp; bốn là do công nghiệp hoá muộn nên Đức có thể sử dụng thành tựu kĩ thuật của những nước đi trước; năm là nguồn nhân lực dồi dào do sô' dân tăng nhanh và sự bóc lột nhân dân lao động trong nước. Trong những năm 1890 - 1900, sản lượng công nghiệp Đức tăng 163% (Anh - 49%, Pháp - 65%). Do sản xuất phát triển, việc xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp của Đức tăng rõ rệt: Đến năm 1900, Đức vượt Anh về sản xuất thép, về tổng sản lượng công nghiệp, Đức dẫn đầu Châu Âu và đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ). Công nghiệp phát triển đã làm thay đổi cơ cấu dân cư giữa thành thị và nông thôn. Từ năm 1871 đến năm 1901, số dân thành thị tăng từ 36% đến 54,3%. Nhiều thành phố mới, nhiều trung tâm công thương nghiệp và bến cảng đã xuất hiện. Điểm nổi bật của quá trình phát triển công nghiệp Đức bấy giờ là sự tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức độc quyền diễn ra sớm hơn nhiều nước khác ở Châu Âu. Hình thức độc quyền phổ biến ở Đức là cácten và xơnlĩđicơ^h Không đầy 1% xí nghiệp sử dụng hơn 75% tổng số điện lực trong khi 91% là xí nghiệp nhỏ chỉ nhận được có 7% thôi, số cácten tăng lên nhanh chóng: năm 1905 có 385, đến năm 1911 có khoảng 550 - 600. Những tổ chức độc quyền này gắn với các ngân hàng thành tư bản tài chính. Ngành ngán hàng cũng tập trungcao độ. Nông nghiệp của Đức cũng có những tiến bộ nhưng chậm chạp hơn do việc tiến hành cách mạng tư sản không triệt đề. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay quý tộc và địa chủ. Bên cạnh việc canh tác theo phương thức tư bản chủ nghĩa (dùng máy móc, phán hoá học, áp dụng kĩ thuật mới...), những tàn dự phong kiến vẫn được duy trì. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông dân Đức càng phán hoá sâu sắc. Phần lớn nông dân bị phá sản phải đi làm thuê cho quý tộc, địa chủ, hoặc đi kiếm ăn ở các cơ sở công nghiệp." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình chính trị Hiến pháp 1871 quy định nước Đức là một Liên bang gồm 22 bang và 3 thành phố tự do, theo chế độ quán chú lập hiến. Trong nhà nước liên bang, Hoàng đế là người đứng đầu, có quyền hạn tối cao (tổng chỉ huy quân đội, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, triệu tập và giải tán Quốc hội...). Quyền lập pháp trong tay hai viện: Hội đồng Liên hang (Thượng viện) gồm đại biểu các bang và Quốc hội (Hạ viện) do bầu cử, nhiệm kì 3 năm. Các bang vẫn giữ hình thức vương quốc (có vua, chính phủ và quốc hội riêng), nhưng quyền hạn bị thu hẹp. Phổ là bang lớn nhất và mạnh nhất trong Liên bang Đức (chiếm 61% dân số và 64% lãnh thổ). Vai trò của Phổ trong liên bang rất lớn: Hoàng đế Đức là vua Phổ, Thủ tướng Đức thường là Thủ tướng Phổ, Chủ tịch HỘI đồng Liên bang là Thủ tướng của Liên bang và trong 58 ghệ' của Hội đồng, Phổ chiếm 17 ghế.   Nhà nước liên bang dựợc xây dựng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc tư sản hod, đứng đầu là Hoàng đế Vin-hem i và Thủ tướng bị-xmác. Đấy là lực lượng đã lãnh đạo công cuộc thống nhất đất nước bằng con đường vũ lực, có thế lực về chính trị và tiềm lực mạnh về kinh tế. Khi nước Đức chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tầng lớp quý tộc tư sản hoá vẫn giữ vai trò quan trọng. Mặc dù có Hiến pháp, có Quốc hội, nhưng chế độ chính trị ỎĐức thời kì này không phải là chế độ đại nghị tư sản mà thực chất là chế độ nửa chuyên chế, áp dụng sự thống trị của Phổ trên toàn nước Đức. Nước Đức tiến lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khi phần lớn đất đai trên thế giới đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của Anh, Pháp. Do vậy, đường lối đối ngoại của Đức vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX là công khai đòi chia lại thị trường và thuộc địa, ráo riết chạy đưa vũ trang đề thoả mãn nhu cầu của giới cầm quyền. Mâư thuẫn giữa Đức với Anh, Pháp càng thêm sâu sắc. Tính chất quân phiệt hiếu chiến là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Đức." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình kinh tế Cuối thế kỉ XIX, trong số các nước công nghiệp tiên tiến, Mĩ là nước có nền kinh tế phát triển hơn cả. Trong 30 năm (1865 - 1894), Mĩ từ hàng thứ tư vươn lên hàng đầu thế giới về sản xuất công nghiệp - bằng 1/2 tổng sản lượng các nước tây Âu và gấp 2 lần nước Anh. Sản xuất gang, thép, máy móc... chiếm vị trí hàng đầu thế giới. Năm 1913, sản lượng gang, thép của Mĩ vượt Đức 2 lẩn, vượt Anh 4 lần; than gấp 2 lần Anh và Pháp gộp lại. Độ dài đường sắt của Mĩ vượt tổng chiều dài đường sắt tây Âu. Nông nghiệp cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Nhờ điều kiện thiên nhiên thuận lợi (đất đai rộng và màu mỡ) kết họp với phương thức canh tác hiện đại (chuyên canh, sử dụng máy móc và phán bón), Mĩ đã trở thành vựa lúa và nơi cung cấp thực phẩm cho Châu Âu. Trong khoảng 1860 - 1900, sản lượng lúa mì tăng 4 lẩn, ngô - 3,5 lần, lúa mạch - 5,5 lần; giá trị nông sản xuất khẩu tăng gần 4 lần. Cuối thế kỉ XIX, Mĩ bản 9/10 bống, 1/4 lúa mạch trên thị trường thế giới. Mĩ cũng là nước cung cấp nhiều thịt, bo và lúa mì nhất.  Như vậy, ngoài những thuận lợi về nông nghiệp, nước Mĩ còn có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú (đặc biệt là mỏ vàng, mỏ dầu lử; có nguồn lao động dồi dào, tay nghề cao luôn được bổ sung bởi luồng người nhập cư, tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật mới. Sự cạnh tranh gay gắt trong sản xuất công nghiệp và những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì ở giai đoạn này đã thức đẩy mạnh mẽ sự tập trung sản xuất và tư bản của MĨ. Các nhà tư bản lớn liên Mĩnh với nhau thành những tơrớt. Họ trở thành những ""vua công nghiệp"", đồng thời cũng là chủ những ngân hàng kếch xù. Có thế lực nhất là hai tập đoàn tư bản Moóc-gân và Rốc-phe-lơ. ""Công ti thép MĨ của Moóc-gân thành lập năm 1903 kiểm soát 60% ngành công nghiệp thép, 60% việc khai thác quặng đồng, 66% việc sản xuất thép tấm và 50% thép thành phẩm... Tơrớt dầu lửa ""Stan-đa của Rốc-phe-lơ kiểm soát 90% ngành sản xuất dầu với 7 vạn km ống dẫn dầu, hàng trăm tàu đi biển và kho hàng ở trong và ngoài nước... Hai tập đoàn trên còn lũng đoạn ngành ngân hàng ở Mĩ, nắm trong tay 1/3 toàn bộ của cải nước Mĩ. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Mĩ đã vươn lên thành nước phát triển về ngoại thương và xuất khẩu tư bản. Thị trường đầu tư và buôn bản của Mĩ là Ca-na-đa, các nước ở vùng biển Ca-ri-bê, Trung MĨ và một số nước Châu Á." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình chính trị Chế độ chính trị ở Mĩ đề cao vai trò Tổng thống thông qua đại diện của một trong hai đảng thắng cử, thay phiên nhau cầm quyền - Đảng Cộng hoà (đại diện cho lợi ích của đại tư bản công nghiệp và tài chính) và Đảng Dân chủ (đại diện cho lợi ích của tư bản nông nghiệp và trại chủ), cả hai đảng đều bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản và đều nhất trí trong những vấn đề cơ bản của chính trị tư sản, chi khác nhau về những biện pháp cụ thể.   Sự tranh cử giữa hai đảng đã tạo điều kiện cho giới cầm quyền lôi kéo về phía mình một bộ phận những người bất mãn, gậy ảo tưởng về nền dân chủ trong nhân dân và gạt bỏ việc lên nắm chính quyền của một đảng thứ ba. Dù đảng nào cầm quyền, đời sống của người lao động - đặc biệt là người da đen và thổ dân ln-đi-an, vẫn tồi tệ và khổ sở. Sau cuộc nội chiến 1861 - 1865, đời sống chính trị của người da đen được cải thiện phần nào. Song họ vẫn bị loại ra khỏi các cơ quan chính quyền và mất quyền công dân bởi những quy định khắt khe về quyền bầu cử (tài sản, mức thuế và trình độ văn h6. thêm vào đó, nạn phán biệt chủng tộc thời kì này đã đẩy họ vào tình cảnh hết sức tồi tệ. Năm 1881, nước Mĩ ban hành đạo luật quy dinh người da đen phải ngồi toa riêng khi đi tàu, không được vào khách sạn, vườn hoa và những nơi công cộng dành cho người da trắng v.v... Đáy cũng là thời kì Mĩ đẩy mạnh việc thôn tính những đất đai rộng lớn ở Miền Trung và Miền tây của thổ dân In-đi-an, mở rộng biên giới đến bò'Thái Bình dương. Từ thập niên 80, MĨ bành trướng ảnh hưởng ở khu vực Mĩ Latinh và Thái Bình dương, gậy chiến tranh với tây Ban Nha (1898) đề tranh giành thuộc địa, chiếm Ha-oai, Cu Ba và Phi-líp-pin... Mĩ từng bước can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Trung, Nam Mĩ thông qua việc áp dụng chính sách ""cái gậy và củ cà rất"", kết hợp sức mạnh của pháo hạm và đồng đôla. Để xâm nhập vào thị trường Trung Quốc sau khi các nước đế quốc đã chia nhau ""phạm vi ảnh hưởng"", Mĩ đưa ra chính sách ""mở cửa nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá Mĩ tràn vào quốc gia rộng lớn này, đem lại lợi nhuận cho tư bản MĨ." 10 + 11 + 12,Chương 2: Các nước Âu- Mĩ (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 35: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa"," Tình hình chính trị Hiến pháp 1871 quy định nước Đức là một Liên bang gồm 22 bang và 3 thành phố tự do, theo chế độ quân chủ lập hiến. Trong nhà nước liên bang, Hoàng đế là người đứng đầu, có quyền hạn tối cao (tổng chỉ huy quân đội, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, triệu tập và giải tán Quốc hội...). Quyền lập pháp trong tay hai viện: Hội đồng Liên hang (Thượng viện) gồm đại biểu các bang và Quốc hội (Hạ viện) do bầu cử, nhiệm kì 3 năm. Các bang vẫn giữ hình thức vương quốc (có vua, chính phủ và quốc hội riêng), nhưng quyền hạn bị thu hẹp. Phổ là bang lớn nhất và mạnh nhất trong Liên bang Đức (chiếm 61% dân số và 64% lãnh thổ). Vai trò của Phổ trong liên bang rất lớn: Hoàng đế Đức là vua Phổ, Thủ tướng Đức thường là Thủ tướng Phổ, Chủ tịch Hội đồng Liên bang là Thủ tướng của Liên bang và trong 58 ghế của Hội đồng, Phổ chiếm 17 ghế. Nhà nước liên bang được xây dựng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc tư sản, đứng đầu là Hoàng đế Vin-hem i và Thủ tướng bị-xmác. Đây là lực lượng đã lãnh đạo công cuộc thống nhất đất nước bằng con đường vũ lực, có thế lực về chính trị và tiềm lực mạnh về kinh tế. Khi nước Đức chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tầng lớp quý tộc tư sản hoá vẫn giữ vai trò quan trọng. Mặc dù có Hiến pháp, có Quốc hội, nhưng chế độ chính trị ở Đức thời kì này không phải là chế độ đại nghị tư sản mà thực chất là chế độ nửa chuyên chế, áp dụng sự thống trị của Phổ trên toàn nước Đức. Nước Đức tiến lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khi phần lớn đất đai trên thế giới đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của Anh, Pháp. Do vậy, đường lối đối ngoại của Đức vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX là công khai đòi chia lại thị trường và thuộc địa, ráo riết chạy đua vũ trang để thoả mãn nhu cầu của giới cầm quyền. Mâu thuẫn giữa Đức với Anh, Pháp càng thêm sâu sắc. Tính chất quân phiệt hiếu chiến là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Đức." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển, xã hội ngày càng phân chia thành hai lực lượng lớn, đối lập nhau về mặt quyền lợi: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản hình thành bao gồm những chủ xưởng, chủ nhà máy, chủ hãng buôn, chủ đồn điền... Đội ngũ vô sản bắt nguồn từ những nông dân mất đất, phải rời bỏ quê hương ra thành thị tìm đường sinh sống, làm thuê trong các công xưởng, nhà máy. Nhiều thợ thủ công ở thành thị bị phá sản cũng trở thành công nhân. Giai cấp vô sản hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, chỉ dựa vào việc làm thuê, bán sức lao động để sinh sống. Do hệ quả của cách mạng công nghiệp, giai cấp vô sản ra đời từ nửa cuối thế kỉ XVIII, trước tiên ở Anh, đến giữa thế kỉ XIX dần hình thành và lớn mạnh ở nhiều nước Châu Âu và Bắc Mĩ. Trong các công xưởng tư bản, công nhân phải làm việc hết sức vất vả nhưng chi được nhận đồng lương chết đói. Ở nước Anh, mỗi ngày công nhân trong các xưởng dệt (kể cả phụ nữ và trẻ em) phải lao động 14-15 giờ, thậm chí có nơi 16-18 giờ. Điều kiện làm việc rất tồi tệ bởi môi trường luôn ẩm thấp, nóng nực, bụi bông phủ đẩy những căn phòng chật hẹp. Trong khi đó, tiền lương của công nhân rất thấp, lương của phụ nữ và trẻ em còn rẻ mạt hơn. Trong 20 năm (1815 - 1835), tiền lương thực tế giảm sút ba lần. Điều kiện sinh hoạt cũng rất tồi tệ. Việc sử dụng máy làm cho nhiều công nhân luôn phải sống trong cảnh đe doạ bị mất việc làm. Đó là những lí do thúc đẩy giai cấp vô sản đấu tranh chống giai cấp tư sản. Lúc đầu, do nhận thức còn hạn chế, nhiều công nhân đã tưởng rằng máy móc là nguồn gốc gây nên nỗi khổ của họ. Phong trào đập phá máy móc, đốt công xưởng là hình thức đấu tranh tự phát đầu tiên của giai cấp vô sản. Phong trào này diễn ra từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, trước hết ở Anh rồi lan ra các nước khác. Song, việc đập phá máy móc không đem lại kết quả gì ngoài sự tăng cường đàn áp của giai cấp thống trị. Qua kinh nghiệm của nhiều lần thất bại và sự trưởng thành về ý thức, phong trào đấu tranh của công nhân ngày càng được nâng cao và có tổ chức với hình thức bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm và thành lập các nghiệp đoàn." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Trong những năm 20 - 30 của thế kỉ XIX, đội ngũ công nhân nhiều nước Châu Âu ngày càng đông, càng đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị. Ở Pháp, năm 1831, do bị bóc lột nặng nề và đời sống quá khó khăn, công nhân dệt thành phố Li-ông khởi nghĩa đòi tăng lương, giảm giờ làm. Những người khởi nghĩa đã làm chủ thành phố trong 10 ngày. Quyết tâm đấu tranh của họ thể hiện trong khẩu hiệu: ""Sống trong lao động hoặc chết trong chiến đấu!"". Năm 1834, công nhân các nhà máy tơ ở Li-ông lại khởi nghĩa đòi thiết lập nền cộng hoà. Cuộc đấu tranh quyết liệt đã diễn ra suốt 4 ngày, cuối cùng bị dập tắt. Ở Anh, trong những năm 1836 - 1848, một phong trào công nhân rộng lớn, có tổ chức đã diễn ra - phong trào Hiến chương. Họ tiến hành mít tinh, đưa kiến nghị có chữ kí của đông đảo công nhân lên nghị viện, đòi quyền phổ thông đầu phiếu, tăng lương và giảm giờ làm cho người lao động. Mặc dù bị đàn áp, song đây là phong trào có mục tiêu chính trị rõ ràng và được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng. Ở Đức, đời sống của công nhân và thợ thủ công cũng rất cơ cực. Năm 1844, công nhân dệt vùng Sơ-lê-din khởi nghĩa, phá huỷ nhà xưởng. Cuộc khởi nghĩa không duy trì được lâu nhưng có tác dụng mở đầu phong trào đấu tranh sôi nổi của công nhân Đức sau này. Những cuộc đấu tranh trên của giai cấp công nhân Anh, Pháp, Đức đều thất bại vì thiếu sự lãnh đạo đúng đắn và chưa có đường lối chính trị rõ ràng, song đã đánh dấu sự trưởng thành của công nhân, tạo điều kiện quan trọng cho sự ra đời của lí luận khoa học sau này." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, một mặt đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đồ sộ và tốc độ ""đô thị hoá tăng lên rất nhanh, nhưng mặt khác cũng phơi bày những hạn chế của nó: sự bóc lột tàn nhẫn của tư sản đối với người lao động, cuộc sống cơ cực của công nhân bởi đồng lương chết đói và điều kiện làm việc tồi tệ, tình trạng thất nghiệp và các tệ nạn xã hội ngày càng phổ biến. Tình cảnh khổ cực của những người lao động đã tác động vào ý thức, tư tưởng của một số người tiến bộ trong hàng ngũ tư sản. Họ nhận thức được những mặt hạn chế của xã hội tư bản, mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, không có tư hữu, không có bóc lột. Tư tưởng đó là nội dung của chủ nghĩa xã hội không tưởng mà đại biểu xuất sắc là Xanh Xi-mông, Sác-lơ Phu-ri-ê ở Pháp và Rô-be ô-oen ở Anh. Ông kịch liệt phê phán chế độ áp bức bóc lột, kêu gọi xây dựng một xã hội công bằng, trong đó mọi người được thoả mãn về vật chất và tinh thần. S.Phu-ri-ê (1772 - 1837) là con một thương gia ở Pháp, ông phê phán xã hội tư bản một cách sâu sắc, đề ra kế hoạch cải tạo xã hội bằng việc lập ra những đơn vị lao động, trong đó mọi người lao động theo kế hoạch, có thời gian nghỉ ngơi. R.ô-oen (1771 - 1858) sinh trưởng ở Anh, là con một người thợ thủ công, sau trở thành chủ một công xưởng lớn thuê tới 2500 công nhân. Ông đã tổ chức một số công xưởng kiểu mẫu ở Anh, ở Mĩ, trong đó công nhân chỉ làm việc 10 giờ rưỡi một ngày, được trả lương cao và được hưởng phúc lợi tập thể. ông cũng chủ trương đi đến chủ nghĩa xã hội bằng cách tuyên truyền, thuyết phục và nêu gương. Công lao của các nhà xã hội không tưởng là phê phán sâu sắc xã hội tư bản, có ý thức bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, dự đoán về xã hội tương lai. Nhưng họ không phát hiện được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không nhìn thấy lực lượng xã hội có khả năng xây dựng xã hội mới là giai cấp công nhân nên các kế hoạch đề ra đều không thực hiện được. Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội bấy giờ, chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trào lưu tư tưởng tiến bộ, có tác dụng cổ vũ những người lao động và là một trong những tiền đề cho học thuyết Mác sau này." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, một mặt đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đồ sộ và tốc độ ""đô thị hoá tăng lên rất nhanh, nhưng mặt khác cũng phơi bày những hạn chế của nó: sự bóc lột tàn nhẫn của tư sản đối với người lao động, cuộc sống cơ cực của công nhân bởi đồng lương chết đói và điều kiện làm việc tồi tệ, tình trạng thất nghiệp và các tệ nạn xã hội ngày càng phổ biến. Tình cảnh khổ cực của những người lao động đã tác động vào ý thức, tư tưởng của một số người tiến bộ trong hàng ngũ tư sản. Họ nhận thức được những mặt hạn chế của xã hội tư bản, mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, không có tư hữu, không có bóc lột. Tư tưởng đó là nội dung của chủ nghĩa xã hội không tưởng mà đại biểu xuất sắc là Xanh Xi-mông, Sác-lơ Phu-ri-ê ở Pháp và Rô-be ô-oen ở Anh. Xanh Xi-mông (1760 - 1825) xuất thân quý tộc, có học vấn uyên bác và tư tưởng tiến bộ, đã tình nguyện sang Bắc Mĩ chiến đấu giúp nhân dân các thuộc địa Anh đấu tranh giành độc lập. Ông kịch liệt phê phán chế độ áp bức bóc lột, kêu gọi xây dựng một xã hội công bằng, trong đó mọi người được thoả mãn về vật chất và tinh thần. S.Phu-ri-ê (1772 - 1837) là con một thương gia ở Pháp, ông phê phán xã hội tư bản một cách sâu sắc, đề ra kế hoạch cải tạo xã hội bằng việc lập ra những đơn vị lao động, trong đó mọi người lao động theo kế hoạch, có thời gian nghỉ ngơi. R.ô-oen (1771 - 1858) sinh trưởng ở Anh, là con một người thợ thủ công, sau trở thành chủ một công xưởng lớn thuê tới 2500 công nhân. Ông đã tổ chức một số công xưởng kiểu mẫu ở Anh, ở Mĩ, trong đó công nhân chỉ làm việc 10 giờ rưỡi một ngày, được trả lương cao và được hưởng phúc lợi tập thể. ông cũng chủ trương đi đến chủ nghĩa xã hội bằng cách tuyên truyền, thuyết phục và nêu gương. Công lao của các nhà xã hội không tưởng là phê phán sâu sắc xã hội tư bản, có ý thức bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, dự đoán về xã hội tương lai. Nhưng họ không phát hiện được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không nhìn thấy lực lượng xã hội có khả năng xây dựng xã hội mới là giai cấp công nhân nên các kế hoạch đề ra đều không thực hiện được. Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội bấy giờ, chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trào lưu tư tưởng tiến bộ, có tác dụng cổ vũ những người lao động và là một trong những tiền đề cho học thuyết Mác sau này." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, một mặt đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đồ sộ và tốc độ ""đô thị hoá tăng lên rất nhanh, nhưng mặt khác cũng phơi bày những hạn chế của nó: sự bóc lột tàn nhẫn của tư sản đối với người lao động, cuộc sống cơ cực của công nhân bởi đồng lương chết đói và điểu kiện làm việc tồi tệ, tình trạng thất nghiệp và các tệ nạn xã hội ngày càng phổ biến. Tinh cảnh khổ cực của những người lao động đã tác động vào ý thức, tư tưởng của một số người tiến bộ trong hàng ngũ tư sản. Họ nhận thức được những mặt hạn chế của xã hội tư bàn, mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, không có tư hữu, không có bóc lột. Tư tương đó la nội dung của chủ nghĩa xã hội không tưởng mà đại biểu xuất sắc là Xanh Xi-mông, Sác-lơ Phu-ri-ê ở Pháp và Rô-be ô-oen ở Anh. Xanh Xi-mông (1760 - 1825) xuất quân quý tộc, có học vấn uyên bác và tưtưỏng tiến bộ, đã tinh nguyện sang Bắc Mĩ chiến đấu giúp nhân dân các thuộc địa Anh đấu tranh giành độc lập. ông kịch liệt phê phánchế độ áp bức bóc lột, kêu gọi xây dựng một xã hội công bằng, trong đó mọi ngưòl được thoả mãn về vật chất và tinh thần. S.Phu-rhệ (1772 - 1837) là con một thương gia ở Pháp, ông phê phánxã hội tư bản một cách sâu sắc, đề ra kế hoạch cải tạo xã hội bằng việc lập ra những đơn vị lao động, trong đó mọi người lao động theo kế hoạch, có thời gian nghỉ ngơi. R.ồ-oen (1771 - 1858) sinh trưởng ở Anh, là con một người thợ thủ công, sau trổ thành chủ một công xưởng lớn thuê tới 2500 công nhân. Ông đã tổ chức một số công xưởng kiểu mẫu ở Anh, ở Mĩ, trong đó công nhân chỉ làm việc 10 giờ rưỡi một ngày, được trả lương cao và được hưởng phúc lợi tập thể. ông cũng chủ trương dí đến chủ nghĩa xã hội bằng cách tuyến truyền, thuyết phục và nêu gương. Công lao của các nhà xã hội không tưởng là phê phán sâu sắc xã hội tư bản, có ý thức bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, dự đoán về xã hội tương lai. Nhưng họ không phát hiện được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không nhìn thấy lực lượng xã hội có khả năng xây dựng xã hội mới là giai cấp công nhân nên các kế hoạch đề ra đều không thực hiện được. Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội bấy giờ, chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trào lưu tư tưởng tiến bộ, có tác dụng cổ vũ những người lao động và là một trong những tiền đề cho học thuyết Mác sau này." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đối lập về quyền lợi, mâu thuẫn giữa tư sản với công nhân đã nảy sinh, dẫn đến những cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển, xã hội ngày càng phán chia thành hai lực lượng lớn, đối lập nhau về mặt quyền lợi: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản hình thành bao gồm những chủ xưởng, chủ nhà máy, chủ hãng buôn, chủ đồn điền... Đội ngũ vô sản bắt nguồn từ những nông dân mất đất, phải rời bỏ quê hương ra thành thị tìm đường sinh sống, làm thuê trong các công xưởng, nhà máy. Nhiều thợ thủ công ở thành thị bị phá sản cũng trở thành công nhân. Giai cấp vô sản hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, chi dựa vào việc làm thuê, bản sức lao động đề sinh sống. Do hệ quả của cách mạng công nghiệp, giai cấp vô sản ra đời từ nửa cuối thế kỉ XVIII, trước tiên ở Anh, đến giữa thế kỉ XIX dần hình thành và lớn mạnh ở nhiều nước Châu Âu và Bắc Mĩ. Trong các công xưởng tư bản, công nhân phải làm việc hết sức vất vả nhưng chi được nhận đồng lưong chết đói. ở nước Anh, mỗi ngày công nhân trong các xưởng dệt (kể cả phụ nữ và trẻ em) phải lao động 14-15 giờ, thậm chí có nơi 16-18 giờ. Điều kiện làm việc rất tồi tệ bởi môl trường luôn ẩm thấp, nóng nực, bụi bống phủ đẩy những căn phòng chật hẹp. Trong khi đó, tiền lương của công nhân rất thấp, lương của phụ nữ và trẻ em còn rẻ mạt hơn. Trong 20 năm (1815 - 1835), tiền lương thực tế giảm sút ba lần. Điều kiện sinh hoạt cũng rất tồi tệ. Việc sử dụng máy làm cho nhiều công nhân luôn phải sống trong cảnh đe doạ bị mất việc làm. Đó là những lí do thức đẩy giai cấp vô sản đấu tranh chống giai cấp tư sản. Lúc đầu, do nhận thức còn hạn chế, nhiều công nhân đã tưởng rằng máy móc là nguồn gốc gậy nên nỗi khổ của họ. Phong trào đập phá máy móc, đốt công xưởng là hình thức đấu tranh tự phát đầu tiên của giai cấp vô sản. Phong trào này diễn ra từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, trước hết ở Anh rồi lan ra các nước khác. Song, việc đập phá máy móc không đem lại kết quà gì ngoài sự tăng cường đàn áp của giai cấp thống trị. Qua kinh nghiệm của nhiều lần thất bại và sự trưởng thành về ý thức, phong trào đấu tranh của công nhân ngày càng được nâng cao và có tổ chức với hình thức bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm và thành lập các nghiệp đoàn." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 36: Sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân,"Trong những năm 20 - 30 của thế kỉ XIX, đội ngũ công nhân nhiều nước Châu Âu ngày càng đông, càng đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị.  Ở Pháp, năm 1831, do bị bóc lột nặng nề và đời sống quá khó khăn, công nhân dệt thành phố Li-ỏng khởi nghĩa đòi tăng lương, giảm giờ làm. Những người khởi nghĩa đã làm chủ thành phố trong 10 ngày. Quyết tâm đấu tranh của họ thể hiện trong khẩu hiệu: ""Sống trong lao động hoặc chết trong chiến đấu !"". Năm 1834, công nhân các nhà máy tơ ở Li-ông lại khởi nghĩa đòi thiết lập nền cộng hoà. Cuộc đấu tranh quyết liệt đã diễn ra suốt 4 ngày, cuối cùng bị dập tắt. Ở Anh, trong những năm 1836 - 1848, một phong trào công nhân rộng lớn, có tổ chức đã diễn ra - pliong trào Hiến chương. Họ tiến hành mít tinh, đưa kiến nghị có chữ kí của đông đảo công nhân lên nghị viện, đòi quyền phổ thông đầu phiếu, tăng lương và giảm giờ làm cho người lao động. Mặc dù bị đàn áp, song đấy là phong trào có mục tiêu chính trị rõ ràng và được sự hưởng ứng rộng rãi của quần clúmg. Ở Đức, đời Sống của công nhân và thợ thủ công cũng rất cơ cực. Năm 1844, công nhân dệt vùng Sơ-lê-din khởi nghĩa, phá huỷ nhà xưởng. Cuộc khởi nghĩa không duy trì được láu nhưng có tác dụng mở đầu phong trào đấu tranh sôi nổi của công nhân Đức sau này. Những cuộc đấu tranh trên của giai cấp công nhân Anh, Pháp, Đức đều thất bại vì thiếu sự lãnh đạo đúng đắn và chưa có đường lối chính trị rõ ràng, song đã đánh dấu sự trưởng thành của công nhân, tạo điều kiện quan trọng cho sự ra đời cùa lí luận khoa học sau này." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Trong những năm 30 - 40 của thế kỉ XIX, phong trào công nhân ở Châu Âu phát triển rất nhanh, ngày càng đòi hỏi một lí luận khoa học cách mạng để giải phóng công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong bối cảnh như vậy, học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học - do C.Mác và PhĂng-ghen đề xướng, đã ra đời." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Trong những năm 30 - 40 của thế kỉ XIX, phong trào công nhân ở Châu Âu phát triển rất nhanh, ngày càng đòi hỏi một lí luận khoa học cách mạng để giải phóng công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong bôi cành như vậy, học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học - do C.Mác và PhĂng-ghen đề xướng, đã ra đời." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Các Mác sinh ngày 5-5-1818 trong một gia đình luật sư gốc Do Thái có tư tưởng tự do tiến bộ, ở thành phố Tơ-ri-ơ (Đức). Từ nhỏ, Mác đã nổi tiếng thông minh. Năm 23 tuổi (1841), Mác đỗ Tiến sĩ với luận án xuất sắc về đề tài triết học cổ đại Hi Lạp. Năm 1842, Mác làm cộng tác viên, rồi làm Tổng biên tập Báo sông Ranh - một tờ báo có xu hướng dân chủ cách mạng. Vì có tư tưởng chống đối chính quyền, Báo sông Ranh bị đóng cửa. Năm 1843, Mác cùng vợ là Gien-ni phải rời sang Pa-ri (Pháp), rồi Brúc-xen (Bỉ) và cuối cùng cư trú lâu dài ở Luân Đôn (Anh). Ở Pa-ri, Mác thường xuyên tiếp xúc với những nhà hoạt động cách mạng của phong trào công nhân, nghiên cứu lịch sử cách mạng Pháp, các tác phẩm triết học và tham gia xuất bản tạp chí Biên niên Pháp - Đức. Trong những bài viết của mình, Mác đi đến nhận định: Giai cấp vô sản được giác ngộ lí luận cách mạng là giai cấp sẽ đảm đương sứ mệnh lịch sử giải phóng loài người khỏi áp bức bóc lột. Phri-đrích Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng ở thành phố Bác-men (Đức). Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng ông rất căm ghét chế độ chuyên chế và khinh thường những thủ đoạn làm giàu của giới kinh doanh. Do yêu cầu của người cha, Ăng-ghen phải sang làm thư kí cho một hãng buôn ở Anh. Tuy vậy, việc đó không thể ngăn cản ông nghiên cứu khoa học và hoạt động chính trị. Trong thời gian sống ở Anh (từ năm 1842), Ăng-ghen luôn gần gũi công nhân, từng chứng kiến tình cảnh khốn cùng và cuộc sống lao động vất vả của họ. Trong cuốn Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh, bằng ngòi bút sắc sảo và dẫn chứng cụ thể, Ăng-ghen nêu rõ sự bóc lột tàn bạo của giai cấp tư sản đối với công nhân và đi đến kết luận: giai cấp vô sản không chi là nạn nhân của chủ nghĩa tư bản, mà còn là lực lượng có thể đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và tự giải phóng khỏi mọi xiềng xích. Năm 1844, Ảng-ghen sang Pa-ri và gặp Mác. Cuộc gặp gỡ này đã mở đầu tình bạn và sự cộng tác giữa hai ông. Từ năm 1844 đến năm 1847, những tác phẩm của Mác và Ăng-ghen cho thấy sự chín muồi về những quan điểm triết học, kinh tế-chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, từng bước hình thành học thuyết Mác." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Trong những năm sống ở Anh, Mác và Ăng-ghen đã liên hệ với tổ chức Đồng minh những người chính nghĩa (thành lập năm 1836 ở Pa-ri). Tham gia tổ chức này là những người Đức lánh nạn, chủ yếu là thợ may, về sau có thêm thợ thủ công nhiều nước. Đồng minh những người chính nghĩa đã phát triển tổ chức sang Anh, Đức, Thuỵ Sĩ, Nga, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Hà Lan, Nam Tư... Tháng 6-1847, tại đại hội của Đồng minh những người chính nghĩa họp ở Luân Đôn, theo đề nghị của Ăng-ghen, tổ chức này được đổi tên thành Đồng minh những người cộng sản. Mục đích của Đồng minh được khẳng định là ""... lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập sự thống trị của vô sản, thủ tiêu xã hội tư sản cũ"". Đại hội lần thứ hai của Đồng minh những người cộng sản họp ở Luân Đôn (1847), có sự tham dự của Mác và Ăng-ghen, đã thông qua điều lệ của Đồng minh. Tháng 2-1848, Cương lĩnh của Đồng minh (do Mác và Ăng-ghen soạn thảo) được công bố ở Luân Đôn dưới hình thức một bản tuyên ngôn - Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuyên ngôn gồm có Lời mở đầu và 4 chương, trong đó khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là lãnh đạo cuộc đấu tranh chống sự thống trị và ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa. Muốn thực hiện thành công cuộc cách mạng vô sản, giai cấp công nhân phải thành lập chính đảng của mình, thiết lập nền chuyện chính vô sản và đoàn kết các lực lượng công nhân trên thế giới. Những người cộng sản đã công khai tuyên bố mục đích của mình, đó là: dùng bạo lực để lật đổ trật tự xã hội hiện có và kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng, bởi lẽ, trong cuộc cách mạng đó, những người vô sản chẳng mất gì ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Tuyên ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi: ""Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại "". Như vậy, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa xã hội khoa học, đánh dấu bước đầu kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Từ đây, giai cấp công nhân đã có lí luận cách mạng soi đường để thực hiện mục tiêu cuối cùng của những người cộng sản là xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Trong những năm sống ở Anh, Mác và Ăng-ghen đã liên hệ với tổ chức Đồng minh những người chính nghĩa (thành lập năm 1836 ở Pa-ri).  Tham gia tổ chức này là những người Đức lánh nạn, chủ yếu là thợ may, về sau có thêm thợ thủ công nhiều nước. Đồng minh những người chính nghĩa đã phát triển tổ chức sang Anh, Đức, Thuỵ Sĩ, Nga, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Hà Lan, Nam Tư... Tháng 6 - 1847, tại đại hội của Đồng minh những người chính nghĩa họp ở Luân Đôn, theo đề nghị của Ăng-ghen, tổ chức này được đổi tên thành Đồng minh những người cộng sản. Mục đích của Đồng minh được khẳng định là ""... lật đổ giai cấp tư sản, thiết lộp sự thống trị của vô sản, thủ tiêu xã hội tư sản cũ"". Đại hội lần thứ hai của Đồng minh những người cộng sản họp ở Luân Đôn (1847), có sự tham dự của Mác và Ăng-ghen, đã thông qua điểu lệ của Đồng minh. Tháng 2 - 1848, Cương lĩnh của Đồng minh (do Mác và Ăng-ghen soạn thảo) được công bố ở Luân Đôn dưới hình thức một bản tuyến ngôn - tuyến ngôn của Đàng Cộng sản. tuyến ngôn gồm có Lài mà đầu và 4 chương, trong đó khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là lãnh đạo cuộc đấu tranh chống sự thống trị và ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, xây dụng chế độ cộng sản chủ nghĩa. Muốn thực hiện thành công cuộc cách mạng vô sản, giai cấp công nhân phải thành lập chính đảng của mình, thiết lập nền chuyên chính vô sản và đoàn kết các lực lượng công nhân trên thế giới. Những người cộng sản đã công khai tuyến bốmục đích của mình, đó là: dùng bạo lực đề lật đổ trật tự xã hội hiện có và kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng, bởi lẽ, trong cuộc cách mạng đó, những người vô sản chẳng mất gì ngoài những xiềng xích tr6i buộc họ. tuyến ngôn kết thức bằng lời kêu gọi: ""Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại "". Như vậy, tuyến ngôn của Đảng Cộng sởn là văn kiện có tính chất cương linh đầu tiên của chủ nghĩa xã hội khoa học, đánh dấu bước đẩu kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Từ đấy, giai cấp công nhân đã có lí luận cách mạng soi đường đề thực hiện mục tiêu cuối cùng của những người cộng sản là xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),"Bài 37: Mác và Ăng-Ghen, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học","Các Mác sinh ngày 5-5-1818 trong một gia đình luật sư gốc Do Thái có tư tưởng tự do tiến bộ, ở thành phố Tơ-ri-ơ (Đứ. Từ nhỏ, Mác đã nổi tiếng thông minh. Năm 23 tuổi (1841), Mác đổ Tiến sĩ với luận án xuất sắc về đề tài triết học cổ đại Hi Lạp. Năm 1842, Mác làm cộng tác viên, rồi làm Tổng biêntập Báo sông Ranh - một tờ báo có xu hướng dân chủ cách mạng. Vì có tư tưởng chống đối chính quyền, Báo sông Ranh bị đóng cửa. Năm 1843, Mác cùng vợ là Gien-ni phải rời sang Pa-ri (Pháp), rồi Brúc-xen (Bỉ) và cuối cùng cư trú lâu dài ở Luân Đôn (Anh). Ở Pa-ri, Mác thường xuyên tiếpxúc với những nhà hoạt động cách mạng của phong trào công nhân, nghiên cứu lịch sử cách mạng Pháp, các tác phẩm triết học và tham gia xuất bản tạp chí biênniên Pháp - Đức. Trong những bài viết của mình, Mác đi đến nhận định: Giai cấp vô sản được giác ngộ lí luận cách mạng là giai cấp sẽ đảm đương sứ mệnh lịch sử giải phóng loài người khỏi áp bức bóc lột.  Phri - đrích Ăng-ghen sinh ngày 28- 11 - 1820, trong một gia đình chủ xưởng ở thành phố Bác-men (Đứ. Xuất quân từ tầng lớp trên nhưng ông rất căm ghét chế độ chuyên chế và khinh thường những thủ đoạn làm giàu của giới kinh doanh. Do yêu cầu của người cha, Ảng-ghen phải sang làm thư kí cho một hãng buôn ở Anh. Tuy vậy, việc đó không thể ngàn cản ông nghiên cứu khoa học và hoạt động chính trị. Trong thời gian sống ở Anh (từ năm 1842), Ăng-ghen luôn gần gũi công nhân, từng chứng kiến tình cảnh khốn cùng và cuộc sống lao động vất vả của họ. Trong cuốn Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh, bằng ngòi bút sắc sảo và dẫn chứng cụ thể, Ăng-ghen nêu rõ sự bóc lột tàn bạo của giai cấp tư sản đối với công nhân và đi đến kết luận: giai cấp vô sản không chi là nạn nhân của chủ nghĩa tư bản, mà còn là lực lượng có thể đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và tự giải phóng khỏi mọi xiềng xích. Năm 1844, Ảng-ghen sang Pa-ri và gặp Mác. Cuộc gặp gỡ này đã mở đầu tình bạn và sự cộng tác giữa hai ông. Từ năm 1844 đến năm 1847, những tác phẩm của Mác và Ảng-ghen cho thấy sự chín muồi về những quan điểm triết học, kinh tế- chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, từng bước hình thành học thuyết Mác." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1871,"Giữa thế kỉ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa làm cho đội ngũ công nhân càng thêm đông đảo và tập trung tới mức độ khá cao, đặc biệt ở những trung tâm công nghiệp. Ách áp bức, bóc lột đối với công nhân cũng tăng thêm. Do đó, những cuộc đấu tranh mới của công nhân Châu Âu không ngừng diễn ra, song vẫn còn trong tình trạng phân tán về tổ chức và thiếu thống nhất về tư tưởng. Tình hình trên đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng quốc tế để đoàn kết và lãnh đạo phong trào công nhân các nước. Ngày 28 - 9 - 1864, trong cuộc mít tinh lớn ở Luân Đôn có đại biểu công nhân nhiều nước tham gia, Hội Liên hiệp lao động quốc tế (thường được gọi là Quốc tế thứ nhất) được thành lập với sự tham gia tích cực của Mác." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1872,"Trong thời gian tồn tại (từ tháng 9-1864 đến tháng 7-1876), Quốc tế thứ nhất đã tiến hành 5 đại hội. Hoạt động chủ yếu của Quốc tế nhằm truyền bá học thuyết Mác, chống những tư tưởng lệch lạc trong nội bộ; đồng thời, thông qua những nghị quyết có ý nghĩa chính trị và kinh tế quan trọng: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh có tổ chức, đòi ngày làm 8 giờ và cải thiện đời sống công nhân. Dưới ảnh hưởng của Quốc tế thứ nhất, công nhân các nước tham gia ngày càng nhiều vào phong trào đấu tranh chính trị. Các tổ chức quần chúng của công nhân như công đoàn, hội tương tế được thành lập ở nhiều nơi. Quốc tế có nhiều đóng góp cụ thể giúp đỡ phong trào công nhân, đặc biệt là kêu gọi ủng hộ cuộc đấu tranh của những người lao động Pa-ri (1871). Năm 1867, công nhân đúc đồng ở Pa-ri bãi công. Quốc tế đã tổ chức quyên góp giúp đỡ đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi. Trong những năm 1868-1869, công nhân mỏ ở Bỉ liên tục bãi công. Quốc tế đã kêu gọi công nhân các nước giúp những người bãi công và gia đình họ vượt qua khó khăn. Năm 1871, công nhân và nhân dân lao động Pa-ri đứng lên làm cách mạng, thành lập Công xã - chính quyền vô sản đầu tiên trên thế giới. Quốc tế đã tích cực hưởng ứng cuộc đấu tranh của những người lao động Pa-ri và kêu gọi công nhân các nước ủng hộ Công xã. Như vậy, bằng những đóng góp thiết thực của mình, Quốc tế thứ nhất là tổ chức quốc tế đầu tiên góp phần truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân quốc tế và đoàn kết, thống nhất lực lượng vô sản quốc tế dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người khỏi áp bức, bóc lột. Năm 1876, Quốc tế thứ nhất tuyên bố giải tán." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1873,"Trong những năm 1850 - 1870, ở Pháp, cách mạng công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng: sản xuất công nghiệp tăng nhanh so với thời gian trước, đội ngũ công nhân ngày càng đông và tập trung hơn. Sự tăng cường độ và thời gian lao động đối với công nhân (ngày làm việc kéo dài 13 - 14 giờ) và cuộc sống khó khăn do hậu quả của khủng hoảng kinh tế những năm 1860 - 1867 đã làm gay gắt thêm những mâu thuẫn giai cấp vốn có trong lòng xã hội tư bản, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh mới của công nhân. Trước tình hình đó, chính phủ Đế chế II do Na-pô-lê-ông III đứng đầu quyết định gây chiến với Phổ nhằm khắc phục nguy cơ khủng hoảng trong nước, về phía Phổ, cũng muốn tiến hành chiến tranh để hoàn thành thống nhất nước Đức, đàn áp phong trào dân chủ trong nước." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1874,"Ngày 19-7-1870, chiến tranh Pháp - Phổ bùng nổ. Ngày 2-9-1870, toàn bộ đội quán Pháp và Na-pô-lê-ông III phải đầu hàng. Ngày 4-9-1870, nhân dân Pa-ri khởi nghĩa lật đổ Đế chế II, đòi thiết lập chế độ cộng hoà và tổ chức kháng chiến chống quân Phổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập mang tên Chính phủ Vệ quốc. Khi quân Phổ tiến về Pa-ri và bao vây thành phố, ""Chính phủ Vệ quốc"" đã trở thành ""Chính phủ phản quốc"", quyết định đầu hàng và xin đình chiến, mở cửa cho quân Phổ tiến vào nước Pháp. Nhưng nhân dân Pa-ri đã tổ chức thành các đơn vị Quốc dân quân, tự vũ trang và xây dựng phòng tuyến bảo vệ thủ đô. 3 giờ sáng ngày 18-3-1871, Chính phủ cho quân đánh chiếm đồi Mông-mác, nơi tập trung đại bác của Quốc dân quân. Quần chúng nhân dân đã kịp thời kéo đến hỗ trợ Quốc dân quân, bao vây quân chính phủ. Trưa 18-3, theo lệnh của uỷ ban trung ương Quốc dân quân, các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thủ đô, chiếm được các cơ quan chính phủ, nhà ga, sở cảnh sát và toà Thị chính. Quân chính phủ phải rút chạy về Véc-xai để củng cố lực lượng. Quốc dân quân làm chủ thành phố. Ngày 18-3-1871, lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền của giai cấp tư sản bị lật đổ. Uỷ ban trung ương Quốc dân quân đảm nhận chức năng của chính quyền mới, trở thành chính phủ lâm thời." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1875,"Để củng cố chính quyền mới, ngày 26-3-1871, một chính phủ cách mạng được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Cơ quan cao nhất của Nhà nước mới là Hội đồng Công xã. Hội đồng gồm nhiều uỷ ban, đứng đầu mỗi uỷ ban là một uỷ viên công xã, chịu trách nhiệm trước nhân dân và có thể bị bãi miễn. Quân đội và bộ máy cảnh sát cũ bị giải tán, thay vào đó là lực lượng vũ trang nhân dân. Công xã tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của trường học và nhà nước, nhà trường không dạy Kinh Thánh. Công xã còn thi hành nhiều chính sách tiến bộ: công nhân được làm chủ những xí nghiệp mà bọn chủ bỏ trốn; đối với những xí nghiệp còn chủ ở lại, Công xã kiểm soát chế độ tiền lương, giảm bớt lao động ban đêm, cấm cúp phạt công nhân. Công xã để ra chủ trương giáo dục bắt buộc và không mất tiền cho toàn dân, cải thiện điều kiện làm việc cho nữ công nhân. Như vậy, cơ cấu tổ chức và hoạt động thực tế chứng tỏ Công xã Pa-ri là một nhà nước khác hẳn các kiểu nhà nước của những giai cấp bóc lột trước đó. Đây là một nhà nước kiểu mới - nhà nước vô sản, do dân và vì dân. Trong thời gian nhân dân Pa-ri nổi dậy, chính phủ tư sản phản động - đứng đầu là Chi-e, đã hoảng sợ rút chạy về Véc-xai với một số tàn quân. Thắng lợi của Công xã làm cho kẻ thù tức tối. Sau một thời gian tập hợp lực lượng và câu kết với quân Phổ, ngày 2-4-1871, quân đội của Chi-e tiến hành phản công, mở đầu cuộc nội chiến. Các chiến sĩ Công xã và nhân dân lao động Pa-ri đã thể hiện tinh thần anh dũng tuyệt vời khi chống trả kẻ thù, đặc biệt trong thời gian từ 21-5 đến 28-5-1871 mà lịch sử gọi là ""Tuần lễ đẫm máu"". Do cuộc chiến đấu không cân sức, ngày 28-5, chiến luỹ cuối cùng của Công xã đã lọt vào tay kẻ thù. Công xã Pa-ri chỉ tồn tại 72 ngày, nhưng để lại ""một kinh nghiệm"" lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn, một bước tiến nhất định của cách mạng vô sản trên thế giới (Lê-nin). Mặc dù thất bại, những chính sách mà Công xã để ra đã thể hiện sự sáng tạo hình thức nhà nước kiểu mới dựa trên cơ sở dân chủ vô sản và hoạt động vì lợi ích của đa số nhân dân lao động." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1871,"Giữa thế kỉ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa làm cho đội ngũ công nhân càng thêm đông đảo và tập trung tới mức độ khá cao, đặc biệt ở những trung tâm công nghiệp. Ách áp bức, bóc lột đối với công nhân cũng tăng thêm. Do đó, những cuộc đấu tranh mới của công nhân Châu Âu không ngừng diễn ra, song vẫn còn trong tình trạng phán tán về tổ chức và thiếu thống nhất về tư tưởng. Tinh hình trên đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng quốc tế đề đoàn kết và lãnh đạo phong trào công nhân các nước. Ngày 28 - 9 - 1864, trong cuộc mít tinh lớn ở Luân Đôn có đại biểu công nhân nhiều nước tham gia, Hội Liên hiệp lao động quốc tế (thường được gọi là Quốc tế thứ nhất) được thành lập với sự tham gia tích cực của Mác." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1875,"đề củng cố chính quyền mới, ngày 26-3-1871, một chính phủ cách mạng được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Cơ quan cao nhất của Nhà nước mới là Hội đồng Công xã. Hội đồng gồm nhiều uỷ ban, đứng đầu mỗi uỷ ban là một uỷ viên công xã, chịu trách nhiệm trước nhân dân và có thể bị bãi miễn. quân đội và bộ máy cảnh sát cũ bị giải tán, thay vào đó là lực lượng vũ trang nhân dân. Công xã tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của trường học và nhà nước, nhà trường không dạy Kinh Thánh.  Công xã còn thi hành nhiều chính sách tiến bộ: công nhân được làm chủ những xí nghiệp mà bọn chủ bỏ trốn; đối với những xí nghiệp còn chủ ở lại, Công xã kiểm soát chế độ tiền lương, giảm bớt lao động ban đến, cấm cứp phạt công nhân. Công xã đề ra chủ trương giáo dục bắt buộc và không mất tiền cho toàn dân, cải thiện điểu kiện làm việc cho nữ công nhân. Như vậy, cơ cấu tổ chức và hoạt động thực tế chứng tỏ Công xã Pa-ri là một nhà nước khác hẳn các kiểu nhà nước của những giai cấp bóc lột trước đó. Đấy là một nhà nước kiểu mới - nhà nước vô sản, do dân và vì dân. Trong thời gian nhân dân Pa-ri nổi dậy, chính phủ tư sản phản động - đứng đầu là Chi-e, đã hoảng sợ rút chạy về Véc-xai với một số tàn quân. Thắng lợi của Công xã làm cho kẻ thù tức tối. Sau một thời gian tập hợp lực lượng và cầu kết với quân Phổ, ngày 2 - 4 - 1871, quân đội của Chl-e tiến hành phản công, mở đầu cuộc nội chiến. Các chiến sĩ Công xã và nhân dân lao động Pa-rl đã thể hiện tinh thần anh dũng tuyệt VỜI khi chống trả kẻ thù, đặc biệt trong thời gian từ 21 - 5 đến 28 - 5 - 1871 mà lịch sử gọi là ""Tuần lễ đẫm máu"". Do cuộc chiến đấu không cần sức, ngày 28 - 5, chiến luỹ cuối cùng của Công xã đã lọt vào tay kẻ thù. Công xã Pa-ri chỉ tồn tại 72 ngày, nhưng đề lại ""một kinh nghiệm lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn, một bước tiến nhất định của cách mạng vô sản trên thế giới (Lê-nin). Mặc dù thất bại, những chính sách mà Công xã đề ra đã thể hiện sự sáng tạo hình thức nhà nước kiểu mới dựa trên cơ sở dân chủ vô sản và hoạt động vì lợi ích của đa số nhân dân lao động." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 38: Quốc tế thứ nhất và công xã Pa-ri 1874,"Ngày 19-7- 1870, chiến tranh Pháp - Phổ bùng nổ. Ngày 2-9-1870, toàn bộ đội quán Pháp và Na-pô-lê-ông III phải đầu hàng. Ngày 4-9-1870, nhân dân Pa-ri khởi nghĩa lật đổ Đế chế II, đòi thiết lập chế độ cộng hoà và tổ chức kháng chiến chống quân Phổ. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập mang tên Chính phủ Vệ quốc. Khi quán Phổ tiến về Pa-ri và bao váy thành phố, ""Chính phủ Vệ quốc đã trở thành ""Chính phủ phản quốc"", quyết định đầu hàng và xin đình chiến, mở cửa cho quân Phổ tiến vào nước Pháp. Nhưng nhân dân Pa-ri đã tổ chức thành các đơn vị Quốc dân quán, tự vũ trang và xây dựng phòng tuyến bảo vệ thủ đô. 3 giờ sáng ngày 18 - 3 - 1871, Chính phủ cho quân đánh chiếm đồi Mông-mác, nơi tập trung đại bác của Quốc dân quân. Quần chúng nhân dân đã kịp thời kéo đến hỗ trợ Quốc dân quân, bao vây quân chính phủ.  Trưa 18-3, theo lệnh của uỷ ban trung ương Quốc dân quân, các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thủ đô, chiếm được các cơ quan chính phủ, nhà ga, sd cảnh sát và toà Thị chính. Quân chính phủ phải rút chạy về Véc-xai đề củng cố lực lượng. Quốc dân quân làm chủ thành phố. Ngày 18-3-1871, lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền của giai cấp tư sản bị lật đổ. uỷ ban trung ương Quốc dân quân đảm nhận chức năng của chính quyền mới, trở thành chính phủ lâm thời." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 39: Quốc tế thứ hai,"Sau khi Quốc tế thứ nhất giải tán (1876), sự ra đời của các chính đảng công nhân ở nhiều nước đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế mới để lãnh đạo phong trào công nhân thế giới - Quốc tế thứ hai được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Ph.Ăng-ghen, Quốc tế thứ hai có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới, đồng thời cũng bộc lộ sự phân hoá sâu sắc vào những năm cuối thế kỉ XIX." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 39: Quốc tế thứ hai,"Từ thập niên 70 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Đội ngũ giai cấp công nhân các nước tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản, sự thắng thế của xu hướng độc quyền và chính sách chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh để phân chia lại thế giới... làm cho đời sống của công nhân và nhân dân lao động càng thêm khó khăn. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong thời gian này. Ở Đức, phong trào đấu tranh đòi cải thiện đài sống cho người lao động phát triển mạnh mẽ trong những thập niên 70 - 80, buộc giai cấp tư sản phải bãi bỏ ""Đạo luật đặc biệt"" (ban hành tháng 10-1878, nhằm chống lại công nhân) vào năm 1890. Ở Pháp, do hậu quả của khủng hoảng kinh tế 1882 - 1888, nhiều cuộc bãi công, biểu tình của công nhân liên tiếp diễn ra. Riêng năm 1886, tại các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là vùng mỏ, phong trào đấu tranh đòi tăng lương và quyền dân chủ đã thể hiện sự lớn mạnh của công nhân Pháp. Ở Anh, những cuộc bãi công của công nhân đòi tăng lương, thực hiện ngày làm 8 giờ và đòi cải thiện đời sống liên tục diễn ra, điển hình là cuộc bãi công của hàng vạn công nhân khuân vác ở bến tàu Luân Đôn vào cuối thập niên 80. Nét nổi bật của phong trào công nhân Mĩ hồi cuối thế kỉ XIX gắn liền với những cuộc đình công và bãi công sôi nổi khắp cả nước. Cuộc tổng bãi công của gần 40 vạn công nhân dệt Chi-ca-gô (Mĩ) ngày 1 - 5 - 1886 đòi thực hiện chế độ ngày lao động 8 giờ đã buộc giới chủ phải nhượng bộ. Ngày đó đi vào lịch sử là ngày Quốc tế lao động và chế độ ngày làm 8 giờ dần được thực hiện trong nhiều nước. Cũng trong thời gian này, do kết quả của việc truyền bá học thuyết Mác ở nhiều nước tư bản tiên tiến, các đảng công nhân, đảng xã hội hay các nhóm có khuynh hướng tiến bộ cách mạng của giai cấp công nhân được thành lập: Đảng Công nhân xã hội dân chủ Đức (1875), Đảng Công nhân xã hội MT (1876), Đảng Công nhân Pháp (1879), nhóm Giải phóng lao động Nga (1883), Liên minh xã hội dân chủ ở Anh (1884)... Thực tế trên đặt ra yêu cầu phải thành lập một tổ chức Quốc tế mới của giai cấp vô sản thế giới tiếp nối nhiệm vụ của Quốc tế thứ nhất. Sau khi C.Mác qua đời (1883), sứ mệnh lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế thuộc về Ph.Ăng-ghen." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 39: Quốc tế thứ hai,"Ngày 14 - 7 - 1889, Đại hội thành lập Quốc tế thứ hai được tổ chức ở Pa-ri. Đại hội đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, nêu lên sự cần thiết phải thành lập chính đảng của giai cấp vô sản mỗi nước, để cao vai trò đấu tranh chính trị, tăng cường phong trào quần chúng, đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, và lấy ngày 1 - 5 hằng năm làm ngày Quốc tế lao động để đoàn kết và biểu dương lực lượng của giai cấp vô sản thế giới. Cũng như Quốc tế thứ nhất, Quốc tế thứ hai tồn tại và hoạt động chủ yếu dưới hình thức đại hội. Nhờ vai trò tích cực của Ph.Ăng-ghen, Quốc tế thứ hai đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển phong trào công nhân thế giới cuối thế kỉ XIX: đoàn kết phong trào công nhân ở Châu Âu và Mĩ, thúc đẩy việc thành lập các chính đảng vô sản ở nhiều nước... Năm 1895, PhĂng-ghen qua đời. Đây là một tổn thất lớn đối với phong trào công nhân. Những phần tử cơ hội chủ nghĩa chống lại học thuyết Mác dần dần chiếm ưu thế trong Quốc tế thứ hai. Người đại diện cho trào lưu xã hội chủ nghĩa cuối thế kỉ XIX là E.Béc-xtai-nơ (1850 - 1932) ở Đức. Che đậy dưới danh nghĩa ""xem xét lại học thuyết Mác, Béc-xtai-nơ muốn gạt bỏ những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác về đấu tranh giai cấp (nên còn gọi là ""chủ nghĩa xét lại""). Những người theo chủ nghĩa xét lại chủ trương thoả hiệp với giai cấp tư sản, xem đấu tranh nghị trường là hình thức chủ yếu để giành chính quyền về tay giai cấp công nhân." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 39: Quốc tế thứ hai,"Tiếp tục sự nghiệp của Ph.Ăng-ghen, một số lãnh tụ cách mạng trong các đảng công nhân như: La-phác-gơ (Pháp), Bê-ben, Rô-da Lúc-xein-bua (Đức)... đã lên tiếng phê phán các xu hướng cơ hội, xét lại trái với học thuyết Mác. Tuy vậy, cuộc đấu tranh này không được tiến hành triệt để nên kết quả rất hạn chế. V.I.Lê-nin - lãnh tụ của giai cấp công nhân Nga, đã vạch trần những sai lầm của chủ nghĩa xét lại và tác hại của nó đối với sự nghiệp của giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh để loại trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội ra khỏi các đảng công nhân. Trong những năm đầu thế kỉ XX, cuộc đấu tranh tư tưởng qua các đại hội tiếp theo của Quốc tế thứ hai diễn ra gay gắt và phức tạp giữa khuynh hướng cách mạng và khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa về những vấn đề cơ bản, đó là: vấn đề giành chính quyền của giai cấp vô sản, thái độ đối với vấn đề thuộc địa và chiến tranh đế quốc... Khuynh hướng cách mạng, đại diện là V.I.Lê-nin, kiên quyết lên án ách thống trị của các nước đế quốc đối với thuộc địa, tích cực đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc và kiên trì bảo vệ học thuyết Mác. Do sự thiếu nhất trí về đường lối chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Quốc tế thứ hai đi dần đến chỗ phân hoá và tan rã khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Hầu hết những người lãnh đạo các đảng xã hội dân chủ của các nước trong Quốc tế thứ hai ủng hộ chính phủ tư sản, đẩy quần chúng nhân dân và vô sản các nước vào cuộc chiến tranh vì quyền lợi của bọn đế quốc." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 39: Quốc tế thứ hai,"Từ thập niên 70 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Đội ngũ giai cấp công nhân các nước tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản, sự thắng thế của xu hướng độc quyền và chính sách chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh đề phánchia lại thế giới... làm cho đời sống của công nhân và nhân dân lao động càng thêm khó khăn. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong thời gian này. Ở Đức, phong trào đấu tranh đòi cải thiện đài sống cho người lao động phát triển mạnh mẽ trong những thập niên 70 - 80, buộc giai cấp tưsản phải bãi bỏ ""Đạo luật đặc biệt (ban hành tháng 10-1878, nhằm chống lại công nhân) vào năm 1890. Ở Pháp, do hậu quả của khủng hoảng kinh tế 1882 - 1888, nhiều cuộc bãi công, biểu tinh của công nhân liên tiếp diễn ra. Riêng năm 1886, tại các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là vùng mỏ, phong trào đấu tranh đòi tăng lương và quyền dân chủ đã thể hiện sự lớn mạnh của công nhân Pháp. Ở Anh, những cuộc bãi công của công nhân đòi tăng lương, thực hiện ngày iàm 8 giờ và đòi cải thiện đời sống liên tực diễn ra, điển hình là cuộc bãi công của hàng vạn công nhân khuân vác ở bến tàu Luân Đôn vào cuối thập niên 80. Nét nổi bật của phong trào công nhân Mĩ hồi cuối thế kỉ XIX gắn liền với những cuộc định công và bãi công sôi nổi khắp cả nước. Cuộc tổng bãi công của gần 40 vạn công nhân dệt Si-ca-gô (Mĩ) ngày 1 - 5 - 1886 đòi thực hiện chế độ ngày lao động 8 giờ đã buộc giới chủ phải nhượng bộ. Ngày đó đi vào lịch sử là ngày Quốc tếìơo động và chế độ ngày làm 8 giờ dần được thực hiện trong nhiều nước. Cũng trong thời gian này, do kết quả của việc truyền bá học thuyết Mác ở nhiều nước tư bản tiên tiến, các đảng công nhân, đảng xã hội hay các nhóm có khuynh hướng tiến bộ cách mạng của giai cấp công nhân được thành lập: Đàng Công nhân xã hội dân chủ Đức (1875), Đảng Công nhân xã hội MT (1876), Đảng Công nhân Pháp (1879), nhóm Giải phóng lao động Nga (1883), Liên minh xã hội dân chủ ở Anh (1884)... Thực tế trên đặt ra yêu cầu phải thành lập một tổ chức Quốc tế mới của giai cấp vô sản thế giới tiếp nối nhiệm vụ của Quốc tế thứ nhất. Sau khi C.Mác qua đời (1883), sứ mệnh lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế thuộc về Ph.Ăng-ghen." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, V.I. Lê-nin tham gia phong trào công nhân Nga, thành lập chính đảng vô sản, đấu tranh bảo vệ học thuyết Mác. Cách mạng 1905 - 1907 ở Nga đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chế độ Nga hoàng, có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh đòi dân chủ ở các nước đế quốc và phong trào đấu tranh chống ách áp bức phong kiến, thực dân ở các nước phương Đông." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Vla-đi-mia I-lích U-li-a-nốp, tức Lê-nin, sinh ngày 22 - 4 -1870 trong một gia đình nhà giáo tiến bộ. Lê-nin giác ngộ cách mạng rất sớm và tham gia hoạt động từ khi còn ở trường trung học. Năm 1893, Lê-nin tới Xanh Pê-téc-bua và trở thành người đứng đầu một nhóm mácxít ở đây. Mùa thu 1895, Lê-nin thống nhất các nhóm mácxít ở Xanh Pê-téc-bua thành một tổ chức chính trị, lấy tên là Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân. Đó là mầm mống của Đảng mácxít cách mạng. Năm 1898, tại Min-xcơ, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga tuyên bố thành lập nhưng không hoạt động được vì ngay sau đó các thành viên đều bị bắt. Do tham gia hoạt động cách mạng chống chế độ Nga hoàng, Lê-nin bị bắt và bị đày đi Xi-bia. Năm 1900, hết hạn đày, ông cùng các đồng chí của mình xuất bản báo Tia lửa nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân Nga. Năm 1903, Đại hội Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga được triệu tập ở Luân Đôn dưới sự chủ trì của Lê-nin để bàn về cương lĩnh và điều lệ của Đảng. Tại Đại hội, đa số đại biểu tán thành đường lối cách mạng của Lê-nin nên gọi là phái Bônsêvích, còn thiểu số theo khuynh hướng cơ hội, chống lại Lê-nin nên gọi là phái Mensêvích. Trong thời gian này, Lê-nin viết nhiều tác phẩm quan trọng nhằm phê phán sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, đồng thời khẳng định vai trò của giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của lực lượng này; nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chính trị trong sự nghiệp giải phóng người lao động." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Từ cuối năm 1904, nhiều cuộc bãi công và biểu tình của quần chúng đã nổ ra với khẩu hiệu: ""Đả đảo chế độ chuyên chế!"", ""Đả đảo chiến tranh!"". Các cuộc đấu tranh của quần chúng đã châm ngòi lửa cho cách mạng. Ngày 9-1-1905, 14 vạn công nhân Xanh Pê-téc-bua và gia đình tay không vũ khí, mang theo cờ và ảnh của Nga hoàng tiến đến Cung điện Mùa Đông để thỉnh cầu Nga hoàng cải thiện đời sống. Nhưng quân đội và cảnh sát đã xả súng vào đoàn biểu tình của quần chúng làm hàng nghìn người chết và bị thương. Đó là ""Ngày chủ nhật đẫm máu"". Lòng tin của nhân dân vào Nga hoàng bị tiêu tan. Công nhân thủ đô bắt đầu dựng chiến lũy, chuẩn bị chiến đấu. Khẩu hiệu ""Đả đảo chế độ chuyên chế!"" được truyền đi khắp nơi, một làn sóng bãi công phản đối bùng lên trong cả nước. Chỉ trong tháng 1 - 1905, số người bãi công đã lên tới 44 vạn, nhiều hơn cả số người bãi công của 10 năm trước đó cộng lại. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Mùa hè 1905, phong trào cách mạng lan rộng, lôi cuốn cả binh lính và nông dân. Lễ kỉ niệm 1 - 5 - 1905 đã biến thành cuộc biểu dương tình đoàn kết của công nhân toàn Nga. Tinh thần cách mạng tác động đến cả quân đội. Tháng 6-1905, thuỷ thủ trên chiến hạm Pô-tem-kin ở Ố-đét-xa khởi nghĩa. Nông dân cũng nổi dậy đốt phá dinh thự của địa chủ. Ở nhiều nơi, các xô viết đại biểu công nhân - mầm mống của chính quyền vô sản, được thành lập." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Mùa thu 1905, phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao với những cuộc bãi công chính trị của quần chúng, làm ngưng trệ mọi hoạt động kinh tế và giao thông trong cả nước. Tháng 12 - 1905, cuộc tổng bãi công được bắt đầu ở Mát-xcơ-va, rồi nhanh chóng biến thành khởi nghĩa vũ trang. Công nhân đã dựng chiến luỹ và chiến đấu anh dũng trong hai tuần lễ. Theo gương Mát-xcơ-va, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang cũng nổ ra ở các thành phố khác trong cả nước... Song do thiếu tổ chức chặt chẽ, lực lượng quá chệnh lệch nên những cuộc khởi nghĩa này đã nhanh chóng bị thất bại. Phong trào cách mạng xuống dần và chấm dứt vào cuối năm 1907." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Vla-đi-mia l-lích U-li-a-nốp, tức Lê-nin, sinh ngày 22 - 4 -1870 trong một gia đình nhà giáo tiến bộ. Lê-nin giác ngộ cách mạng rất sớm và tham gia hoạt động từ khi còn ở trường trung học. Năm 1893, Lê-nin tới Xanh Pê-téc-bua và trỏ thành người đứng đầu một nhóm mácxít ở đấy. Mùa thu I895, Lê-nin thống nhất các nhóm mácxítởXanh Pê-téc-bua thành một tổ chức chính trị, lấy tên là Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp côn gnhán. Đó là mầm mống của Đảng mácxít cách mạng.  Năm 1898, tại Min-xcơ, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Ngơ tuyến bốthành lập nhưng không hoạt động được vì ngay sau đó các thành viên đều bị bắt. Do tham gia hoạt động cách mạng chống chế độ Nga hoàng, Lê-nin bị bắt và bị đầy đi Xi-bịa. Năm 1900, hết hạn đầy, ông cùng các đồng chí của mình xuất bản báo Tia lửa nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân Nga. Năm 1903, Đại hội Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga được triệu tập ở Luân Đôn dưới sự chủ trì của Lê-nin đề bàn về cương lĩnh và điều lệ của Đảng. Tại Đại hội, đa số đại biểu tán thành đường lối cách mạng của Lê-nin nên gọi là phái bốnsêvích, còn thiểu số theo khuynh hưống cơ hội, chống lại Lê-nin nên gọi là phái Mensêvích. Trong thời gian này, Lê-nin viết nhiều tác phẩm quan trọng nhằm phê phán sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, đồng thài khẳng định vai trò của giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của lực lượng này; nhấn mạnh tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chính trị trong sự nghiệp giải phóng người lao động." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Mùa hè 1905, phong trào cách mạng lan rộng, lôi cuốn cả binh lính và nông dân. Lễ kỉ niệm 1 - 5 - 1905 đã biến thành cuộc biểu dựong tình đoàn kết của công nhân toàn Nga. Tinh thần cách mạng tác động đến cả quân đội. Tháng 6-1905, thuỷ thủ trên chiến hạm Pô-tem-kin ở Ố-đét-xa khởi nghĩa. Nông dân cũng nổi dậy đốt phá dinh thự của địa chủ. Ở nhiều nơi, các xô viết đại biểu công nhân - mầm mống của chính quyền vô sản, được thành lập." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, nước Nga chưa tiến hành cuộc cách mạng tư sản nhưng đã chuyên sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Kinh tế công thương nghiệp phát triển cùng với sự xuất hiện của các công ti độc quyền. Nền công nghiệp mở rộng với quy mô ngày càng lớn làm cho đội ngũ công nhân càng thêm đông đảo. về chính trị, nước Nga duy trì hầu như nguyên vẹn bộ máy cai trị của nền quân chủ phong kiến chuyên chế. Nga hoàng bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ nên hầu hết các giai cấp đều bất mãn với chế độ này. Đời sống của công nhân và nhân dân lao động Nga hết sức cơ cực. Giai cấp vô sản Nga vừa chịu ách áp bức của chế độ phong kiến, vừa chịu sự bóc lột của giai cấp tư sản trong nước và tư sản nước ngoài.  thêm vào đó, sự thất bại của Nga trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905), làm cho đời sống nhân dân càng thêm cơ cực, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, thức đẩy sự bùng nổ cách mạng ở Nga." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Từ cuối năm 1904, nhiều cuộc bãi công và biểu tình của quần clúmg đã nổ ra với khẩu hiệu: ""Đả đảo chế độ chuyên chế !"", ""Đả đảo chiến tranh !"". Các cuộc đấu tranh của quần chúng đã châm ngòi lửa cho cách mạng. Ngày 9 -1-1905, 14 vạn công nhân Xanh Pê-téc-bua và gia đình tay không vũ khí, mang theo cờ và ảnh của Nga hoàng tiến đến Cung điện Mùa Đông đề thỉnh cầu Nga hoàng cải thiện đời sống. Nhưng quân đội và cảnh sát đã xả súng vào đoàn biểu tình của quần chúng làm hàng nghìn người chết và bị thương. Đó là ""Ngày chủ nhật đẫm máu"". Lòng tin của nhân dân vào Nga hoàng bị tiêu tan. Công nhân thủ đô bắt đầu dựng chiến lũy, chuẩn bị chiến đấu. Khẩu hiệu ""Đả đảo chế độ chuyên chế ! được truyền đi khắp nơi, một làn sóng bãi công phản đối bùng lên trong cả nước. Chỉ trong tháng I - 1905, số người bãi công đã lên tới 44 vạn, nhiều hơn cả số người bãi công của 10 năm trước đó cộng lại. " 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Cách mạng 1905 - 1907 là cuộc cách mạng dân chủ tư sản đầu tiên do giai cấp vô sản lãnh đạo trong thời kì đế quốc chủ nghĩa. Tuy thất bại nhưng ý nghĩa của cách mạng thật lớn lao. Cách mạng đã phát động các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trong đế quốc Nga đứng lên đấu tranh, làm lung lay chế độ Nga hoàng. Cuộc cách mạng Nga đã dấy lên một cao trào đấu tranh của giai cấp vô sản trong các nước đế quốc và thức đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông vào đầu thế kỉ XX." 10 + 11 + 12,Chương 3: Phong trào công nhân (Từ đầu thế kỉ XIX đến dầu thế kỉ XX),Bài 40: Lê-nin và phong trào công nhân nga đầu thế kỉ XX,"Mùa thu 1905, phong trào cách mạng tiếp tục dâng cao với những cuộc bãi công chính trị của quần chúng, làm ngưng trệ mọi hoạt động kinh tế và giao thông trong cả nước. Tháng 12 - 1905, cuộc tổng bãi công được bắt đầu ở Mát-xcơ-va, rồi nhanh chóng biến thành khởi nghĩa vũ trang. Công nhân đã dựng chiến luỹ và chiến đấu anh dũng trong hai tuần lễ. Theo gương Mát-xcơ-va, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang cũng nổ ra ở các thành phố khác trong cả nước. Song do thiếu tổ chức chặt chẽ, lực lượng quá chênh lệch nên những cuộc khởi nghĩa này đã nhanh chóng bị thất bại. Phong trào cách mạng xuống dần và chấm dứt vào cuối năm 1907."