id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19856143
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%96
Zeni (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ზ, mtavruli Ზ) là chữ cái thứ 7 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ზ có giá trị là 7. ზ thường đại diện cho âm xát răng hữu thanh , giống như cách phát âm của trong "zebra". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Latinh Z Chữ cái Kirin З Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856148
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Spearfish%20%28SS-190%29
USS Spearfish (SS-190)
USS Spearfish (SS-190) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một chi thuộc họ Cá cờ. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 17.065 tấn. Được rút ra khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào đầu năm 1945, nó đảm nhiệm vai trò huấn luyện cho đến khi xung đột chấm dứt, và xuất biên chế vào năm 1946. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1947. Spearfish được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với dẫn trước, duy trì một tốc độ để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lớp Sargo có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric, có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Spearfish được trang bị kiểu động cơ Hooven-Owens-Rentschler (H.O.R.) 9-xy lanh hoạt động hai chiều vốn gặp nhiều trục trặc kỹ thuật. Trong một cố gắng tạo ra công suất lớn hơn từ một động cơ nhỏ, kiểu động cơ hoạt động hai chiều tỏ ra kém tin cậy. Vào giai đoạn giữa Thế Chiến II chúng được thay thế bởi động cơ GM Cleveland Diesel 16-278A, có thể vào lượt đại tu vào đầu năm 1943. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Spearfish được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 9 tháng 9, 1937. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 10, 1938, được đỡ đầu bởi bà Lillian Spear, phu nhân ngài Lawrence York Spear giám đốc Electric Boat Company. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 7, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Charles Edward Tolman, Jr. Lịch sử hoạt động 1939 - 1941 1945 Sau khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 1, 1945, Spearfish được sử dụng như một tàu huấn luyện tại vùng biển Hawaii cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó khởi hành vào ngày 19 tháng 8 để quay trở về vùng bờ Tây, đi đến Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 27 tháng 8. Đến ngày 7 tháng 9, một ủy ban thanh tra đã kết luận con tàu không phù hợp để tiếp tục phục vụ, nên xuất biên chế ngay và sẽ bị tháo dỡ. Nó được giữ lại trong trạng thái ngừng hoạt động để tham gia thử nghiệm chất nổ. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 22 tháng 6, 1946, rồi rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 7, 1946. Con tàu bị bán cho hãng Learner Company tại Oakland, California để tháo dỡ vào tháng 10, 1947. Phần thưởng Spearfish được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 17.065 tấn. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-190 Kill record: USS Spearfish Lớp tàu ngầm Sargo Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Sự cố bắn nhầm trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1944 Tàu thủy năm 1938 Sự cố quân ta bắn quân mình trong Thế chiến thứ hai Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II
19856150
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sculpin%20%28SS-191%29
USS Sculpin (SS-191)
USS Sculpin (SS-191) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên siêu họ Cá bống thuộc bộ Cá mù làn. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được chín chuyến tuần tra và đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.835 tấn. Trong chuyến tuần tra thứ chín, nó bị hư hại nặng bởi hỏa lực từ tàu khu trục Yamagumo, nên đã tự đánh đắm ngoài khơi đảo Truk vào ngày 19 tháng 11, 1943. Sculpin được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận cùng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Phlippines do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Thiết kế và chế tạo Đặc tính của lớp Sargo hầu như tương tự với dẫn trước, duy trì một tốc độ để hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lớp Sargo có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Chúng là lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt một kiểu ắc-quy a-xít chì mới "Kiểu Sargo" chịu đựng được hư hại trong chiến đấu nhờ lớp vỏ kép giúp ngăn ngừa việc rò rỉ acid sulfuric, có dung lượng nhỉnh hơn với 126 cell và điện áp danh định tăng lên 270 volt. Vũ khí trang bị chính gồm tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm). Sculpin được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 7 tháng 9, 1937. Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 7, 1938, được đỡ đầu bởi bà Bernice F. Defrees, phu nhân Chuẩn đô đốc Joseph R. Defrees, Sr., Tham mưu trưởng Lực lượng Tuần tiễu Hạm đội Hoa Kỳ. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 1, 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Warren Dudley Wilkin. Lịch sử hoạt động Phần thưởng Sculpin được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến trận cùng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippines do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 9.835 tấn. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-191 On Eternal Patrol: USS Sculpin Kill record: USS Sculpin Lớp tàu ngầm Sargo Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu bị đánh chìm bởi tàu chiến Nhật Bản Xác tàu đắm tại Thái Bình Dương trong Thế Chiến II Sự cố hàng hải năm 1943 Tàu thủy năm 1938
19856152
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sculpin
USS Sculpin
Ba tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên USS Sculpin, theo tên siêu họ Cá bống thuộc bộ Cá mù làn: là một nhập biên chế năm 1939 và bị đánhchìm năm 1943 dự định là một nhưng kế hoạch chế tạo bị hủy bỏ vào năm 1945 là một trong biên chế từ năm 1961 đến năm 1990 Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
19856155
https://vi.wikipedia.org/wiki/Veronica%20Buckley
Veronica Buckley
Veronica Buckley là một nhà văn và người viết tiểu sử. Cô sinh ra ở Christchurch, New Zealand. Năm 1979, cô tốt nghiệp Đại học Canterbury với danh dự hạng nhất về triết học bằng tiếng Pháp, và được trao học bổng sau đại học về lịch sử văn hóa và xã hội tại Đại học London.
19856158
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%97
Tani (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli თ, mtavruli Თ) là chữ cái thứ 9 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, თ có giá trị là 9. თ thường đại diện cho âm tắc răng vô thanh , giống như cách phát âm của trong "table". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Gruzia T'ari Chữ cái Latinh T Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856167
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%98
Ini (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ი, mtavruli Ი) là chữ cái thứ 10 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ი có giá trị là 10. ი thường đại diện cho nguyên âm không tròn môi trước đóng , giống như cách phát âm của trong "machine", hoặc nguyên âm không tròn môi trước gần đóng , giống như cách phát âm của trong "sin". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Latinh I Chữ cái Kirin И Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856168
https://vi.wikipedia.org/wiki/SBOOKS
SBOOKS
Công ty Cổ phần SBOOKS (thường gọi là SBOOKS) là một doanh nghiệp xuất bản - phát hành sách với nhiều dạng thức (bao gồm sách giấy, sách nói), có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thành lập SBOOKS được thành lập năm 2018, xuất phát từ ý tưởng và khát vọng "Xây dựng văn hoá đọc” của doanh nhân trẻ Nguyễn Anh Dũng. Quá trình phát triển Trong ba năm đầu tiên từ năm 2018 đến 2021, SBOOKS đã gặp rất nhiều khó khăn khi vừa mới bước vào thị trường xuất bản, chỉ có một chỗ đứng rất nhỏ so với các đơn vị kỳ cựu khác. Tuy nhiên, SBOOKS cũng đạt được một số thành tựu trong thời gian này như: SBOOKS liên kết với nhà xuất bản Văn học cho ra đời 2 cuốn sách thể loại ký - ghi chép Khi đại dịch thế kỷ COVID-19 qua đi của nhà văn Sương Nguyệt Minh và COVID-19 và cuộc chiến sinh tử (nhiều tác giả). Từ năm 2022 đến hết năm 2023, trong sự thoái lui của dịch Covid-19, sự bùng nổ của TikTok ở thị trường Việt Nam, SBOOKS đã đi đầu và tạo ra xu hướng kinh doanh sách trên nền tảng TikTok. Năm 2023, SBOOKS phát triển nhanh nhờ những thành tựu rực rỡ trong xu hướng thương mại điện tử, có cơ hội hợp tác với Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Hội đồng Tư vấn Khởi nghiệp phía Nam, đồng thời vinh dự được tham dự vào các hoạt động liên quan đến xuất bản của nhiều tỉnh thành. Sản phẩm Anh Nguyễn Anh Dũng cũng cho biết mục tiêu SBOOKS sẽ nhắm tới là 5 tủ sách gồm Tủ sách chữa lành, Tủ sách minh triết phương Đông, Tủ sách tự lực phát triển bản thân, Tủ sách Quà tặng cuộc sống, Tủ sách văn học. Tủ sách chữa lành Đây là tủ sách trọng tâm của SBOOKS, hướng đến mang những con chữ chữa lành, nâng niu những tâm hồn trong cuộc đời vội vã, xô bồ. Tủ sách minh triết phương Đông SBOOKS đặc biệt xây dựng tủ sách này để lưu giữ những câu chuyện, triết lý phương Đông, góp phần xây dựng hệ thống kiến thức văn hóa, lịch sử,... cho độc giả. Tủ sách tự lực phát triển bản thân Tủ sách tự lực là tủ sách đặc biệt quan trọng của SBOOKS khi có số lượng lớn các đầu sách thuộc tủ sách này. Những tựa sách thuộc tủ sách tự lực của SBOOKS đã liên tục xuất hiện trên top thống kê của các sàn thương mại điện tử, được vô số độc giả khen ngợi và đón nhận. Tủ sách Quà tặng cuộc sống Cuộc sống là một món quà quý giá, tủ sách bao gồm các tựa sách hay giúp cuộc sống mỗi người thêm bình yên hơn, sâu sắc hơn, chứa đựng những bài học nhỏ bé để ai cũng có thể cầm theo bên mình. Tủ sách văn học Bên cạnh các dòng sách trong tầm thị hiếu hiện nay, SBOOKS vẫn tiếp tục khai thác dòng sách Văn học kinh điển trong và ngoài nước, Văn học trẻ để ủng hộ các tác giả Việt Nam. Đặc biệt, mỗi năm SBOOKS đều tiến hành tuyển chọn các tác phẩm truyện ngắn đặc sắc để in thành tuyển tập, tri ân đến các cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại nước nhà. Tham khảo Xem thêm Nhà xuất bản Kim Đồng Nhà xuất bản Hội nhà văn Nhà xuất bản Công ty cổ phần
19856175
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20C%E1%BA%A5m%20th%C6%B0%20ma%20thu%E1%BA%ADt%20Index
Danh sách nhân vật trong Cấm thư ma thuật Index
Sau đây là danh sách các nhân vật trong light novel, manga và phim anime Cấm thư ma thuật, cũng như bộ truyện tranh và anime ngoại truyện có tựa đề Toaru Kagaku no Railgun và Toaru Kagaku no Accelerator, cũng như một số phương tiện truyền thông phụ. Sê-ri chủ yếu diễn ra tại Thành phố Học viện, một thành phố chứa đầy những học sinh cố gắng trở thành những siêu năng lực gia mạnh mẽ và bị đưa vào xung đột bởi sự xuất hiện của các Ma thuật sư. Các nhân vật trung tâm Toma Kamijo Lồng tiếng bởi: Atsushi Abe Toma Kamijo (上条 当麻, Kamijō Tōma) là học sinh trung học năm nhất và là siêu năng lực gia Level 0, nhưng lại có một khả năng gọi là "Imagine Breaker"(幻想殺し, Imajin Bureikā, "Sát thủ ảo ảnh"), trong đó cậu ta sử dụng tay phải của mình để vô hiệu hóa các năng lực siêu nhiên cho dù chúng là phép thuật hay khoa học, nó còn vô hiệu hóa cả vận may của cậu. Với niềm tin vào chính nghĩa, cậu luôn giúp đỡ bất kỳ ai cần giúp đỡ, dù có phải mạo hiểm mạng sống và không ngần ngại đối đầu với nhiều đối thủ mạnh, chính vì vậy mà cậu thu hút cảm tình của nhiều nhân vật trong sê-ri. Khi gặp Index, Toma tham gia vào các sự kiện lớn diễn ra trong loạt sê-ri. Với việc thường xuyên gặp Mikoto Misaka, Toma cũng đã tham gia vào các sự kiện lớn trong loạt truyện bên lề Toaru Kagaku no Railgun. Mikoto Misaka Lồng tiếng bởi: Rina Satō Mikoto Misaka (御坂 美琴) là một trong những nữ chính của phe khoa học trong sê-ri, đồng thời là nhân vật trong loạt sê-ri bên lề Toaru Kagaku no Railgun. Cô ấy là siêu năng lực gia Level 5 mạnh thứ ba của Thành phố Học viện với khả năng gọi là "Railgun"(超電磁砲, Rērugan, "Siêu Pháo Điện Từ") cho phép cô tạo ra một tỷ volt điện, khiến cô trở thành Electromaster mạnh nhất ở Thành phố Học viện. Touma hay gọi cô là Biri-biri mỗi khi giáp mặt. Cô là học sinh năm hai trường trung học Tokiwadai và là Át chủ bài của trường. Với hầu hết học sinh trong trường, cô được xem là một oujo-sama (tiểu thư) nhưng thực ra, cô lại nóng tính và kiêu ngạo, thường rất tomboy. Dù vậy cô vẫn đối xử thân thiết với một số người bạn. Index Lồng tiếng bởi: Yuka Iguchi Index Librorum Prohibitorum (禁書目録, Indekkusu), còn được gọi là Index, là một nữ tu người Anh mười lăm tuổi đến từ Necessarius của Giáo hội Anh, với Dedicatus545 ("Con chiên tận tụy bảo vệ kiến ​​thức của kẻ mạnh") là tên ma thuật của cô ấy. Người ta luôn thấy cô mặc đồ của một cô sơ, một chiếc áo choàng trắng có thêu vàng ở mọi mép (sau đó có ghim vàng sau khi nó bị Toma Kamijo phá hủy bằng Imagine Breaker của cậu ta). Tâm trí của Index đã được cấy ghép 103.000 cuốn ma đạo thư của Index Librorum Prohibitorum vì cô sở hữu trí nhớ nhiếp ảnh và là ma thuật sư duy nhất có thể đọc những cuốn ma đạo thư có thể gây chết người đối với một ma thuật sư hoặc cá nhân bình thường. Cô có một hệ thống nhân cách tự bảo vệ được gọi là "John's Pen" (自動書記, Yohane no Pen, "Viết tự động") cho phép cô thực hiện các đòn tấn công ma thuật cao cấp như Thánh địa St. George (ジョージの聖域, Seinto Jōji no Seīki) và Hơi thở của rồng(竜王の殺息, Doragon Buresu, "Hơi thở giết chóc của Vua Rồng"). Hệ thống tự bảo vệ của cô có một sản phẩm phụ tên là "Feather of Light" (光の羽, Hikari no Hane) có chức năng buộc thiết lập lại bộ nhớ của cô trong trường hợp không thực hiện được việc thiết lập lại thủ công. Mặc dù không biết rằng mình có khả năng phép thuật nhưng Index có thể dễ dàng xác định các loại phép thuật bằng cách nhìn thấy nó hoặc ai đó mô tả cho cô ấy và biết cách chống lại chúng. Kiến thức sâu rộng của cô về Index Librorum Prohibitorum trong tâm trí khiến cô trở thành một trong những nhân vật mạnh nhất cho đến nay và trở nên hữu ích cho bạn bè của cô trong nhiều tình huống khác nhau như sử dụng Spell Intercept (強制詠唱 (スペルインターセプト), Superu Intāseputo, "Buộc tụng kinh") và Nỗi sợ hãi địa ngục (魔滅の声, Sheōru Fia, "Tiếng nói hủy diệt của cái ác") trong cuộc chiến chống lại các nữ tu chiến đấu của Giáo hội Công giáo La Mã do Agnese Sanctis lãnh đạo. Index thường phấn khởi trước nhiều thứ và hơi thiếu hiểu biết cũng như tò mò về công nghệ hiện đại. Cô ấy thường dịu dàng, lịch sự với mọi người và có bản tính tốt bụng, nhưng cũng là một đứa trẻ hư hỏng ích kỷ khi ở cùng với Toma. Cô cũng mắng mỏ cậu ta làm những điều cô không thích, nhưng bản thân cô ấy lại làm những điều tương tự. Cô liên tục đưa ra kết luận mà không tìm hiểu tình tiết trước và liên tục trừng phạt Toma một cách sai trái bằng cách cắn cậu ta hoặc bắt đầu tranh cãi với cậu, khiến cậu ta bối rối và bực tức. Index cũng rất ham ăn và thích xem một bộ anime có tựa đề Magical Powered Kanamin. Cô có tình cảm mãnh liệt với Toma và thậm chí còn thú nhận tình yêu của mình sau khi nghe tin Toma mất ký ức vì cô. Tuy nhiên, cậu tránh trả lời bằng cách thay đổi chủ đề của cuộc trò chuyện vì cậu không biết mình từng có cảm xúc gì với Index. Kuroko Shirai Lồng tiếng bởi: Satomi Arai Kuroko Shirai (白井 黒子) là học sinh năm nhất và là kōhai của Mikoto. Cô ấy là một trong những nhân vật chính của Toaru Kagaku no Railgun. Kuroko là siêu năng lực gia Level 4 với khả năng gọi là "Dịch chuyển tức thời"(空間移動, Terepōto, "Chuyển động không gian") cho phép cô dịch chuyển bản thân hoặc đồ vật mà cô chạm vào có tổng trọng lượng khoảng 130–137 kg (287–302 lb) đến bất kỳ nơi nào trong bán kính khoảng 81–85 mét (266–279 ft), nhưng khả năng của cô nó đòi hỏi sự tập trung cao độ để thực hiện thành công. Cô ấy là thành viên của Judgement và thường mang một dây đinh quanh đùi, thứ mà cô ấy sử dụng trong quá trình làm việc của mình để hạ gục kẻ thù. Kuroko có tình cảm ám ảnh và biến thái với Mikoto, người mà cô gọi là "Onē-sama" (おねえさま, chị gái đáng kính). Cô ấy thường xuyên tìm kiếm cơ hội để thân mật với Mikoto, nhưng cuối cùng cô vẫn bị Mikoto điện giật. Cô hay ghen tị với những người khác thu hút được sự chú ý của Mikoto, chủ yếu là Toma Kamijo. Kuroko chính thức ra mắt trong tập thứ tám của sê-ri chính khi cô điều tra một vụ cướp tàn tích của Sơ đồ cây và phát hiện ra sự liên quan của Mikoto trong vụ việc. Cô bị thương bởi Awaki Musujime trong cuộc chiến của họ tại một nhà hàng, nhưng sau đó cô được Tōma và Mikoto cứu trước khi Awaki có thể giải phóng một khối lượng dịch chuyển khổng lồ lên cô. Sau những sự kiện xung quanh Sơ đồ cây, Kuroko phải ngồi trên xe lăn một thời gian vì những vết thương mà cô phải chịu trong trận chiến. Accelerator Lồng tiếng bởi: Nobuhiko Okamoto Accelerator (一方通行, Akuserarēta ) là một trong những nhân vật trung tâm của phe khoa học trong sê-ri chính, đồng thời là nhân vật chính và nhân vật chính của sê-ri bên lề Toaru Kagaku no Accelerator. Anh là siêu năng lực gia Level 5 mạnh nhất trong Thành phố Học viện với khả năng cùng tên cho phép mình điều khiển bất kỳ vectơ nào anh chạm vào, xếp anh ta ở vị trí cao nhất trong bảy người Level 5 trong thành phố. Vì khả năng tự nhiên của anh ngăn chặn mọi bức xạ cực tím nên anh có ngoại hình với mái tóc trắng. Tên của anh được viết là "Ippōtsūkō", có nghĩa là "Con đường một chiều". Tên thật của anh ta vẫn chưa được biết, mặc dù Accelerator nhớ lại họ của anh bao gồm hai ký tự kanji và tên riêng của anh bao gồm ba ký tự kanji. Lần đầu tiên xuất hiện với tư cách là nhân vật phản diện trong tập thứ ba, sau đó anh trở thành nhân vật chính của phe khoa học. Khả năng độc đáo của Accelerator khiến anh trở thành đối tượng của một thí nghiệm cố gắng tạo ra siêu năng lực gia Level 6 đầu tiên, trong đó theo siêu máy tính tốt nhất của thành phố được gọi là Sơ đồ cây (bị phá hủy bởi Hơi thở rồng của Index), thành tích này chỉ có thể đạt được bằng cách giết chết Misaka Mikoto 128 lần không một lần thất bại. Vì không thể thu được 128 kết quả từ một mục tiêu duy nhất, nên một kế hoạch thay thế được hình thành để "nâng cấp" Accelerator bằng cách yêu cầu anh phải giết 20.000 bản sao của Mikoto. Anh sẵn sàng tham gia thí nghiệm để nổi tiếng là siêu năng lực gia mạnh mẽ và đáng sợ nhất để không ai có thể ngu ngốc đến mức thách thức anh. Mong muốn đạt được mục tiêu này khiến anh ta phải giết nhiều người cản đường mình. Mikoto cố gắng dừng thí nghiệm để cứu bản sao của mình, nhưng Toma Kamijo cuối cùng mới là người làm như vậy và đánh bại Accelerator sau khi phát hiện ra điểm yếu của Accelerator là thể chất yếu đuối vì hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh và sự tự tin quá mức vào khả năng siêu năng lực của mình. Vì vậy, Toma đã đánh bại anh ta bằng Imagine Breaker và kỹ năng chiến đấu trên đường phố. Tập thứ năm tiết lộ quá khứ của anh, nơi anh được đưa đến Thành phố Học viện khi còn trẻ sau khi khả năng của anh lần đầu tiên được phát hiện nhưng vì thiếu hiểu biết nên mọi người sợ hãi anh và trong một số trường hợp còn cố gắng giết anh. Do có nhiều nỗ lực trong cuộc sống và vô số thí nghiệm được thực hiện trên anh ta, những sự kiện này đã biến Accelerator trở thành một kẻ tàn bạo và khiến anh khó tin tưởng bất cứ ai ngoại trừ Kikyō Yoshikawa, nhà khoa học duy nhất quan tâm đến anh ta và cứu mạng anh. Anh cũng đảm nhận vai trò anh hùng và làm cha hơn bằng cách bảo vệ một cô gái trẻ tên là Last Order, bản sao Misaka cuối cùng, người tin tưởng qua ký ức của các bản sao Sister đã chiến đấu với anh ta rằng Accelerator không phải là người xấu và không bao giờ muốn làm tổn thương các bản sao nhưng đã cố gắng chỉ để đe dọa họ không chiến đấu với anh ta, một lý thuyết mà Accelerator bác bỏ. Sau vụ việc, Accelerator bị Ao Amai bắn vào đầu và mắc chứng mất ngôn ngữ do tổn thương não. Chấn thương cũng ảnh hưởng đến khả năng của anh nhưng bồi thẩm đoàn Heaven Canceller đã gắn một thiết bị giống như vòng cổ vào não anh, cho phép Accelerator truy cập vào Mạng Misaka để bù đắp vết thương và hoạt động bình thường của mình. Anh cũng có thể chuyển máy phát sang công suất tối đa, khôi phục khả năng của mình trong tối đa 15 phút lúc đầu, nhưng thời gian sau đó được kéo dài lên 30 phút do cập nhật thiết bị. Đến cuối tập thứ mười ba, Accelerator bắt đầu "thức tỉnh" sau khi suýt bị Amata Kihara giết và chứng mất ngôn ngữ của anh bằng cách nào đó đã tạm thời được chữa khỏi. Anh thực sự "thức tỉnh" trong tập mười lăm, có được đôi cánh đen khi chiến đấu với một siêu năng lực gia Level 5 "thức tỉnh" khác, Teitoku Kakine. Shiage Hamazura Lồng tiếng bởi: Satoshi Hino Shiage Hamazura (浜面 仕上) là một trong những nhân vật chính thuộc phe khoa học trong sê-ri chính. Anh ta là cựu thành viên của Skill-Out, một nhóm Level 0 sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để chống lại khả năng siêu năng lực gia, những người vô tình bị cuốn vào Mặt tối của Thành phố Học viện. Anh ta được giới thiệu lần đầu tiên trong tiểu thuyết Side Story, nơi anh ta trở thành thủ lĩnh băng nhóm Skill-Out của mình sau khi Accelerator giết chết thủ lĩnh cũ, người bạn thân nhất của anh là Ritoku Komaba theo lệnh của Hội đồng quản trị. Cùng ngày anh trở thành thủ lĩnh mới, băng nhóm của anh bị Hội đồng quản trị buộc phải giết mẹ của Mikoto, Misuzu, nếu không sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, anh và nhóm của mình đã bị Tōma và Accelerator đánh bại và họ không giết được Misuzu. Nhục nhã, anh rời băng đảng để theo người bạn Hattori Hanzo và trở thành tài xế kiêm người cung cấp thông tin cho Đội ITEM, nơi anh phải lòng một trong những thành viên của họ, Rikō Takitsubo.
19856178
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valorant%20Champions%202021
Valorant Champions 2021
Giải đấu Valorant Champions 2021 là 1 giải đấu thể thao điện tử của bộ môn Valorant. Đây là lần đầu tiên giải đấu Valorant Champions được tổ chức, cũng là giải đấu toàn cầu quan trọng nhất của Valorant Champions Tour (VCT) trong mùa giải 2021. Giải đấu được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 12 tháng 12 năm 2021 tại Berlin, Đức. 16 đội đủ điều kiện tham gia dựa trên kết quả của họ tại các giải đấu trong mùa giải, Masters: Stage 3, điểm tích lũy, và vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ). "Die For You" được công bố là bài hát chủ đề của giải đấu, được sáng tác, sản xuất và biểu diễn bởi Grabbitz. Acend trở thành đội đầu tiên vô địch giải đấu Valorant Champions sau khi đánh bại Gambit Esports tại trận chung kết với tỷ số 3–2. Địa điểm Berlin được lựa chọn làm nơi tổ chức giải đấu. Giải đấu được tổ chức tại Marlene-Dietrich-Halle ở vòng bảng và tứ kết, trong khi bán kết và chung kết được tổ chức tại Verti Music Hall. Các đội tham gia Có tổng cộng có 16 đội đủ điều kiện tham gia Champions. Đội vô địch ở Masters giai đoạn 3 tự động đủ điều kiện tham gia, 11 đội đủ điều kiện tham gia thông qua điểm tích lũy, và 4 đứng đầu Vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ) của 4 khu vực Bắc Mỹ, , Brazil và Đông Nam Á sẽ đủ điều kiện tham dự Valorant Champions. Vòng bảng Vòng bảng diễn ra từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 12 năm 2021. Các bảng được chia dựa trên thành tích của các đội trong các giải đấu Valorant Challengers và Valorant Masters, điểm tích lũy. 16 đội sẽ được chia đều vào 4 bảng. Các đội sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua GSL. 2 đội có thành tích cao nhất của mỗi bảng sẽ giành quyền vào Vòng loại trực tiếp (Play-off). Tất cả các trận đấu được phân định bằng thể thức . Bảng đấu Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Vòng loại trực tiếp Vòng loại trực tiếp bắt đầu vào ngày 8 tháng 12, đỉnh điểm là trận chung kết vào ngày 12 tháng 12. Tám đội được bốc thăm vào nhánh đấu theo thể thức loại trực tiếp. Các đội đứng đầu của mỗi bảng được bốc thăm gặp các đội đứng thứ hai của một bảng khác. 2 đội nằm cùng bảng trong vòng bảng không được xếp ở cùng phía của nhánh đấu, nghĩa là 2 đội đó chỉ có thể thi đấu với nhau cho đến trận Chung kết. Tất cả các trận đấu được phân định bằng thể thức , ngoại trừ trận chung kết được phân định bằng thể thức . Bracket Tiền thưởng Tham khảo Chú thích Giải đấu Valorant Giải đấu Valorant 2021 Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất Giải đấu trò chơi bắn súng góc nhìn thứ nhất 2021 en:2021 Valorant Champions
19856181
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20V%C4%83n%20H%C3%A0
Hoàng Văn Hà
Hoàng Văn Hà (sinh năm 1976), là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam cấp bậc hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Thủ trưởng thường trực Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục An ninh điều tra, Bộ Công an. Sự nghiệp Thiếu tướng Hoàng Văn Hà, sinh năm 1976, quê quán thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông đã có 6 năm là lãnh đạo Phòng; 5 năm giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục ANĐT, Phó Thủ trưởng Cơ quan ANĐT, được thăng cấp bậc hàm Đại tá tháng 8/2020. Trong quá trình công tác, Thiếu tướng Hoàng Văn Hà đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba và nhiều Bằng khen các cấp… Chiều ngày 6 tháng 5 năm 2022, Thứ trưởng Lương Tam Quang đã trao quyết định bổ nhiệm Đại tá Hoàng Văn Hà, Phó Cục trưởng Cục An ninh điều tra (ANĐT) giữ chức Cục trưởng Cục ANĐT. Tháng 7 năm 2023, ông được Chủ tịch nước Thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng. Lịch sử thụ phong cấp bậc hàm Chú thích Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam
19856183
https://vi.wikipedia.org/wiki/Boulevard
Boulevard
"Boulevard" (nghĩa tiếng Việt: Đại lộ) là ca khúc do ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Jackson Browne viết và thể hiện qua album Hold Out năm 1980. Khi được phát hành dưới dạng đĩa đơn, ca khúc đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 72 vào ngày 5 tháng 7 năm 1980 - sau đó leo lên đến vị trí thứ 19 và ở trên bảng xếp hạng suốt 16 tuần; điều này biến nó thành bản hit thành công thứ năm trong Top 40 suốt sự nghiệp của Browne. Ngoài phạm vi Hoa Kỳ, ca khúc còn được phát hành dưới dạng đĩa đơn ở Tây Ban Nha, Nhật Bản, Anh, Ý và Đức. Tại Canada, "Boulevard" đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng. Nguồn gốc Browne từng chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh như sau: "Tôi từng sống ngay phía trên Đại lộ Hollywood. Ở đó, có một nơi tên là The Gold Cup tụ tập rất nhiều trẻ em bụi đời cũng như thanh thiếu niên hành nghề mại dâm. Ca khúc được viết từ góc nhìn của một thanh niên sống trên con phố đó - một người đồng cảm với những cảnh đời nêu trên ở một mức độ nhất định, nhưng cũng đồng thời tự nhủ rằng 'vấn đề chỉ là thời gian thôi.' Chúng ta đang ở trên đại lộ, nhưng nó không có nghĩa rằng đây là con người thực của bạn, cũng không có nghĩa rằng bạn sẽ vẫn như vậy trong tương lai. Tôi cho rằng đó là điều tôi muốn truyền tải khi viết lên ca khúc này..." Trái tim nhân gian thì khô héo, mà thời gian lại khắc nghiệt. Trong một góc đại lộ, bị che phủ bởi bóng đêm. Thời gian trôi đi sao chậm quá, Giữa bóng tối phía trước cửa hàng, ánh đèn đường rực sáng. Mọi người đi ngang qua như thể không lo lắng điều gì ... Họ nào có biết đâu — Ca khúc được cấu trúc dưới dạng một đoạn riff dành cho guitar điện. Theo ghi chú trong album, Rick Marotta sẽ chơi trống cho bài hát này. Russ Kunkel được ghi nhận là người chơi trống trên tất cả các bản nhạc khác trong album. Danny Kortchmar thì đánh maraca. Phản ứng công chúng Trong bài đánh giá về album Hold Out, Robert Christgau nhận định về "Boulevard" trong bối cảnh thể loại nhạc punk rock mới nổi lúc bấy giờ như sau: "... tôi tự hỏi liệu những đứa trẻ lạc lối (tức là Lost Kids) trong 'Boulevard' có đội tóc mohawk, và liệu JB có tự mình hát cho họ nghe hay không." Cash Box nhận xét ca khúc mang âm hưởng "dẫn nhập cứng và nhịp điệu guitar" kết hợp với "trống và bộ gõ." Record World thì ví nó như "một cây đàn guitar âm điệu sắc bén như dao cạo, trên nền một dòng giai điệu quyến rũ khó cưỡng" và "một đoạn điệp khúc cuồng nhiệt hòa hợp với giọng ca đặc biệt của [Browne]." Ca khúc sau này đã được phát lại trong buổi thử nghiệm năm 1990 cho loạt phim truyền hình Beverly Hills 90210. Thành tích trên bảng xếp hạng Theo tuần Theo năm Ghi chú Đĩa đơn năm 1980 Ca khúc của Jackson Browne Nhạc phẩm viết bởi Jackson Browne Bài hát năm 1980 Đĩa đơn Asylum Records
19856193
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Ukraine
Cảnh sát Quốc gia Ukraine
Cảnh sát Quốc gia Ukraina hay Công an Quốc gia Ukraine (tiếng Ukraina: Національна поліція України ред, chuyển tự: Natsionalʹna politsiya Ukrayiny, tiếng Anh: National Police of Ukraine, viết tắt: НПУ, NPU), gọi tắt là Công an Ukraine, là cơ quan cảnh sát quốc gia và duy nhất của Ukraine. Nó được thành lập vào ngày 3 tháng 7 năm 2015, như một phần của cuộc cải cách sau khởi nghĩa Maidan do tổng thống Ukraine Petro Poroshenko phát động, để thay thế lực lượng cảnh sát quốc gia trước đây của Ukraine, Militsiya. Vào ngày 7 tháng 11 năm 2015, tất cả các thành viên militsiya còn lại được coi là thành viên "có quyền tạm thời" của Cảnh sát Quốc gia. Cơ quan này được giám sát bởi Bộ Nội vụ. Tham khảo Cảnh sát theo quốc gia
19856195
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neil%20McCormick
Neil McCormick
Neil McCormick (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1961) là một nhà báo, nhà văn và phát thanh viên âm nhạc người Anh. Ông là Trưởng Ban Phê bình âm nhạc của The Daily Telegraph từ năm 1996, đồng thời cũng tham gia dẫn chương trình phỏng vấn âm nhạc Neil McCormick's Needle Time cho kênh Vintage TV ở Anh. McCormick là cộng sự thân thiết của ban nhạc rock U2. Tiểu sử McCormick sinh ra ở Anh nhưng sau đó cùng gia đình chuyển đến Scotland, sau đó là Ireland. Ông theo học tại Trường Tổng hợp Mount Temple ở Dublin cùng thời điểm với tất cả các thành viên tương lai của ban nhạc U2. Sự nghiệp McCormick là nhạc sĩ và ca sĩ của nhiều ban nhạc vô danh: Frankie Corpse & The Undertaker (1978), The Modulators (1978–79), Yeah! Yeah! (1980–83) và Shook Up! (1985–88). Ông đã phát hành một album phòng thu đơn ca lấy tựa đề Mortal Coil dưới nghệ danh Ghost Who Walks vào năm 2004. Bài hát "Harm's Way" nằm trong album Songs Inspired by The Passion of the Christ (2004). Viết trên tờ The Daily Telegraph, McCormick cho biết, "Có lẽ tôi nên nghỉ việc khi đang dẫn đầu." Dưới vai trò một nhà báo, ông làm việc cho tạp chí âm nhạc Ireland Hot Press từ năm 1978. Ông trở lại nghề báo vào đầu những năm 1990 sau khi nhận thấy sự nghiệp âm nhạc không gặt hái nhiều thành công, và trở thành biên tập viên đóng góp cho British GQ (1991–96). Ông là trưởng mảng phê bình nhạc rock cho tờ The Daily Telegraph từ năm 1996, đồng thời là khách mời thường xuyên trên các chương trình phát thanh và truyền hình BBC với tư cách là một chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh âm nhạc. Hồi ký của ông về sự nghiệp không thành công trong lĩnh vực kinh doanh âm nhạc lấy tựa đề I Was Bono’s Doppelgänger (được đổi tên thành Killing Bono ở Mỹ) được xuất bản năm 2004. Elton John gọi đây là "cuốn sách hay nhất mà tôi từng đọc về việc cố gắng thành công trong lĩnh vực kinh doanh âm nhạc." Tác phẩm đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Bộ phim Killing Bono năm 2011 có sự tham gia của Ben Barnes trong vai McCormick và Martin McCann trong vai Bono. McCormick là người viết U2 by U2, cuốn tự truyện bán chạy nhất năm 2006 của ban nhạc U2. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, #Zero, được xuất bản vào năm 2019. Để đi kèm với cuốn sách, ông đã phát hành một album gồm các bài hát của các nhân vật nhạc sĩ giả tưởng xuất hiện trong cuốn sách. Tham khảo Sinh 1961 Nhà báo âm nhạc Vương quốc Liên hiệp Anh Nhân vật còn sống
19856197
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-17%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202024
Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia 2024
Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia 2024 là mùa giải thứ 20 của Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Vòng loại diễn ra từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 07 tháng 4 năm 2024. Tổng cộng có 12 đội sẽ đủ điều kiện để tham dự vòng chung kết, bao gồm cả đội chủ nhà được đặc cách tham dự giải đấu với tư cách chủ nhà. Các đội bóng Hai hai là số đội bóng tham dự Vòng loại năm nay. Vòng loại diễn ra từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 07 tháng 4 năm 2024. Các đội bóng được sắp xếp sẵn vào các bảng đấu dựa theo khu vực địa lý. Những đội bóng đóng vai trò là chủ nhà của bảng đấu vòng loại được in đậm. Thể thức Các Đội thi đấu vòng tròn hai lượt (đi - về) tại địa phương đăng cai. Tính điểm xếp hạng ở mỗi Bảng. Chọn 04 đội xếp thứ Nhất, 04 Đội xếp thứ Nhì và 03 đội xếp thứ Ba có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng vào Vòng chung kết. Nếu đội Chủ nhà VCK kết thúc thi đấu tại Vòng loại với vị trí trong nhóm 11 đội có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng nêu trên, thì đội xếp thứ Ba có thành tích tốt tiếp theo sẽ giành quyền tham dự VCK. Các Đội thi đấu vòng tròn hai lượt (đi - về) tại địa phương đăng cai. Tính điểm xếp hạng ở mỗi Bảng. Chọn 04 đội xếp thứ Nhất, 04 Đội xếp thứ Nhì và 03 đội xếp thứ Ba có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng Lịch thi đấu Lịch thi đấu của mỗi ngày đấu như sau. Địa điểm trung lập và đơn vị đăng cai Bảng A: Trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF - Bộ Công An Bảng B: Sân Hàm Rồng, Công ty cổ phần thể thao LPBank Hoàng Anh Gia Lai Bảng C: Sân vận động Tân Hưng, Công ty Cổ phần Bóng đá Bà Rịa Vũng Tàu Bảng D: Sân vận động Huyện Chợ Gạo, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao Tiền Giang Các bảng Bảng A <onlyinclude> Bảng B <onlyinclude> Bảng C <onlyinclude> Tham khảo Liên kết ngoài Liên đoàn bóng đá Việt Nam
19856199
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danionella%20cerebrum
Danionella cerebrum
Danionella cerebrum là một loài cá nước ngọt thuộc chi Danionella trong họ Cá chép. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2021. Từ nguyên Danh từ định danh cerebrum trong tiếng Latinh có nghĩa là “não”, hàm ý đề cập đến việc loài cá này có bộ não trưởng thành nhỏ nhất trong số các loài động vật có xương sống. Phân bố và môi trường sống D. cerebrum lần đầu tiên được biết đến trong những dòng suối ở sườn phía nam và phía đông của dãy Pegu (nằm giữa sông Ayeyarwaddy và sông Sittaung), thuộc vùng Yangon và vùng Bago. Tất cả các vùng nước nơi tìm thấy D. cerebrum đều là những dòng nước đục, với dòng chảy nhìn thấy được, nhiệt độ bề mặt khoảng 30°C và độ pH 7,4–7,5. Chú thích Tham khảo C Động vật được mô tả năm 2021 Cá Myanmar
19856207
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Nga
Cảnh sát Nga
Cảnh sát Nga (, chuyển tự: Politsiya Rossii, tiếng Anh: Police of Russia) là cơ quan thực thi pháp luật quốc gia ở Nga, hoạt động trực thuộc Bộ Nội vụ từ ngày 8 tháng 9 năm 1802. Nó được thành lập ngày 7 tháng 6 năm 1718 theo sắc lệnh của Peter Đại đế và vào năm 2011, thay thế Militsiya, cơ quan công an cũ. Cơ quan cảnh sát quốc gia của Nga hoạt động theo luật "Về cảnh sát" (Закон "о полиции"), đã được Quốc hội Liên bang phê chuẩn và sau đó được ký thành luật vào ngày 7 tháng 2 năm 2011, bởi Tổng thống Liên bang Nga, Dmitry Medvedev. Chú thích Tham khảo Cảnh sát theo quốc gia Chính phủ Nga
19856208
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-17%20qu%E1%BB%91c%20gia%202024
Giải bóng đá Vô địch U-17 quốc gia 2024
Giải bóng đá vô địch U-17 quốc gia 2024 là mùa giải thứ 20 của Giải bóng đá Vô địch U-17 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) và tổ chức. là đương kim vô địch của giải đấu sau khi đánh bại với tỷ số 2-1 trong trận chung kết năm 2023. Vòng loại Vòng loại diễn ra từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 07 tháng 4 năm 2024. Các Đội thi đấu vòng tròn hai lượt (đi - về) tại địa phương đăng cai. Tính điểm xếp hạng ở mỗi Bảng. Chọn 04 đội xếp thứ Nhất, 04 Đội xếp thứ Nhì và 03 đội xếp thứ Ba có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng vào Vòng chung kết. Nếu đội Chủ nhà VCK kết thúc thi đấu tại Vòng loại với vị trí trong nhóm 11 đội có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng nêu trên, thì đội xếp thứ Ba có thành tích tốt tiếp theo sẽ giành quyền tham dự VCK. Các Đội thi đấu vòng tròn hai lượt (đi - về) tại địa phương đăng cai. Tính điểm xếp hạng ở mỗi Bảng. Chọn 04 đội xếp thứ Nhất, 04 Đội xếp thứ Nhì và 03 đội xếp thứ Ba có thành tích tốt nhất ở 04 Bảng Các đội vượt qua vòng loại Đội hình Cầu thủ sinh từ ngày 01 tháng 1 năm 2008 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 có đủ điều kiện để tham dự giải đấu. Mỗi đội tuyển phải đăng ký một đội hình tối thiểu 18 cầu thủ và tối đa 30 cầu thủ. Trong đó, danh sách phải có tối thiểu 2 thủ môn và tối đa 1 cầu thủ nước ngoài gốc Việt Nam (Quy định mục 7.1). Vòng bảng Các tiêu chí Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng: Điểm trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Hiệu số bàn thắng thua trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Số bàn thắng ghi được trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Nếu có nhiều hơn hai đội bằng điểm, và sau khi áp dụng tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên, một nhóm nhỏ các đội vẫn còn bằng điểm nhau, tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên được áp dụng lại cho riêng nhóm này; Hiệu số bàn thắng thua trong tất cả các trận đấu bảng; Số bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu bảng; Sút luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng điểm và họ gặp nhau trong trận cuối cùng của bảng; Điểm thẻ phạt (thẻ vàng = –1 điểm, thẻ đỏ gián tiếp (2 thẻ vàng) = –3 điểm, thẻ đỏ trực tiếp = –3 điểm, thẻ vàng và thẻ đỏ trực tiếp = –4 điểm); Bốc thăm. Bảng A Bảng B Bảng C Xếp hạng các đội đứng thứ ba bảng đấu Vòng đấu loại trực tiếp Trong vòng đấu loại trực tiếp, loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết. Sẽ không có hiệp phụ sau khi kết thúc 90 phút thi đấu hiệp phụ. Các trường hợp Các trận đấu cụ thể giữa các đội xếp thứ ba sẽ phụ thuộc vào hai đội xếp thứ ba sẽ giành quyền vào vòng tứ kết: Sơ đồ Tứ kết Bán kết Chung kết Tham khảo Liên kết ngoài Liên đoàn bóng đá Việt Nam
19856209
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stereogum
Stereogum
Stereogum là một ấn phẩm Internet hàng ngày tập trung vào tin tức, đánh giá, phỏng vấn và bình luận mảng âm nhạc. Trang web được Scott Lapatine lập ra vào tháng 1 năm 2002. Stereogum là một trong những blog MP3 đầu tiên và đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như vinh danh, bao gồm Giải PLUG cho Blog âm nhạc của năm, Powergeek 25 của Blender và Trang web âm nhạc xuất sắc nhất của Entertainment Weekly. Trang web này đã được vinh danh Official Honoree bởi Giải Webby ở hạng mục âm nhạc và giành được Giải OMMA cho Trang web xuất sắc ở hạng mục giải trí/âm nhạc. Năm 2011, Stereogum đã giành giải Blog âm nhạc của năm của The Village Voice. Lịch sử Trang web được đặt tên theo một cụm từ trong lời bài hát "Radio #1" của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Air. Cuối năm 2006, Stereogum nhận được khoản đầu tư từ tổ chức đầu tư tư nhân The Pilot Group của Bob Pittman. Tháng 11 năm 2007, dự án đã được SpinMedia (trước đây gọi là Buzz Media) mua lại. Tháng 4 năm 2008 chứng kiến sự ra mắt của Videogum, trang web chị em của Stereogum, tập trung vào mảng truyền hình, điện ảnh và video trên web. Videogum sau đó đã đóng cửa. Sự kiện SXSW đầu tiên của Stereogum vào năm 2006 được tổ chức bởi diễn viên hài mới nổi Aziz Ansari cùng với có màn trình diễn của Ted Leo. Trong những năm sau, các sự kiện của Stereogum tổ chức có mời các nghệ sĩ Ben Gibbard, Sky Ferreira, Mitski, Beach House, St. Vincent, Deerhunter, Japanese Breakfast, Rico Nasty... tới biểu diễn. Tháng 12 năm 2016, Eldridge Industries đã mua lại SpinMedia thông qua Hollywood Reporter-Billboard Media Group với số tiền không được tiết lộ. Tháng 7 năm 2017, Arcade Fire đã tạo ra trang web nhại lại lấy tên Stereoyum để "đánh giá sớm" về album Everything Now sắp phát hành của ban nhạc. Tháng 1 năm 2020, có nguồn tin xác nhận Scott Lapatine đã đạt được thỏa thuận mua lại Stereogum từ Hollywood Reporter-Billboard Media Group, biến nó một lần nữa trở thành một trang báo độc lập. Biên tập viên cấp cao Tom Breihan của Stereogum bắt đầu viết chuyên mục "The Number Ones" vào tháng 9 năm 2018, trong đó ông đánh giá, phân tích và cung cấp bối cảnh lịch sử cho mọi đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Tháng 11 năm 2022, Hatchette Book Group xuất bản cuốn sách lịch sử âm nhạc The Number Ones: Twenty Chart-Topping Hits That Reveal The History Of Pop Music dựa trên chuyên mục này của Breihan. Tháng 7 năm 2023, Breihan bắt đầu thực hiện một chuyên mục nhỏ chỉ dành cho những người đăng ký trang web, trong đó ông đăng tải những bài đánh giá các đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Alternative Airplay. Album của năm Sản phẩm âm nhạc Tháng 7 năm 2007, Stereogum phát hành Stereogum Presents... OKX: A Tribute to OK Computer như một lời tri ân kỷ niệm mười năm tới album OK Computer (1997) của ban nhạc Radiohead. Các bài hát trong album được thể hiện bởi 14 nghệ sĩ indie rock gồm Doveman, Vampire Weekend, John Vanderslice, David Bazan, Cold War Kids, My Brightest Diamond, Marissa Nadler, Chris Funk của The Decemberists, và Chris Walla của Death Cab for Cutie. Các album tuyển tập được Stereogum phát hành miễn phí khác bao gồm: Drive XV: A Tribute to Automatic for the People, một sản phẩm tri ân tới album Automatic for the People (1992) của R.E.M., với sự góp giọng của Rogue Wave, Meat Puppets, Sara Quin và Dr. Dog; Enjoyed: A Tribute to Björk's Post, một sản phẩm tri ân tới album Post (1995) của Björk, với sự góp giọng của Liars, Edward Droste, Dirty Projectors, Final Fantasy và Atlas Sound); Stroked: A Tribute to Is This It, một sản phẩm tri ân tới album Is This It (2001) của The Strokes, với sự góp giọng của Real Estate, Owen Pallett, Peter Bjorn and John và The Morning Benders; MySplice Vols 1-4:, các bản mashup hàng năm hợp tác với team9; và Stereogum Presents... RAC Vol. 1, bản phát hành đầu tiên của nhà sản xuất từng đoạt giải Grammy RAC. Năm 2020, là một phần trong nỗ lực gây quỹ để duy trì hoạt động và tính độc lập của trang web, một tuyển tập gồm 55 bản hát lại các bài hát từ những năm 2000 do nhiều nghệ sĩ khác nhau thể hiện lấy tựa đề Save Stereogum: An '00s Covers Comp đã được phát hành để thu hút các nhà tài trợ với chiến dịch Indiegogo của trang web. Chiến dịch đã quyên góp được tổng cộng hơn 370.000 USD. Album ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Compilation Albums và vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng Top Album Sales của Billboard. Tham khảo Liên kết ngoài Website âm nhạc Mỹ Tính năng Internet thành lập năm 2002 Blog âm nhạc Websites đánh giá âm nhạc Tạp chí âm nhạc trực tuyến xuất bản ở Hoa Kỳ
19856216
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20C%C3%BAp%20FA%202022
Chung kết Cúp FA 2022
Trận chung kết Cúp FA 2022 là trận đấu cuối cùng của Cúp FA 2021–22 và là trận chung kết lần thứ 141 của Cúp FA. Trận đấu được tổ chức tại sân vận động Wembley ở Luân Đôn, Anh, vào ngày 14 tháng 5 năm 2022. Trận đấu là cuộc đọ sức giữa Chelsea và Liverpool. Đây là lần đầu tiên cả 2 đội gặp nhau ở cả Chung kết Cúp EFL và Chung kết Cúp FA trong cùng một mùa giải kể từ lần gần nhất Arsenal gặp Sheffield Wednesday năm 1993. Được tổ chức bởi Hiệp hội bóng đá (FA), đây là trận chung kết thứ 141 của Cúp FA và là trận đấu tiêu biểu của giải đấu cúp sơ cấp của bóng đá Anh. Trận đấu cũng đánh dấu 150 năm kể từ khi trận chung kết FA Cup đầu tiên được diễn ra vào năm 1872. Liverpool giành chiến thắng trên loạt sút luân lưu sau khi trận đấu kết thúc sau hiệp phụ mà không có bàn thắng; đây là trận chung kết đầu tiên kết thúc không bàn thắng kể từ năm 2005 và là trận đầu tiên diễn ra loạt sút luân lưu kể từ chiến thắng trước đó của Liverpool năm 2006. Huấn luyện viên Jürgen Klopp của Liverpool trở thành huấn luyện viên người Đức đầu tiên vô địch Cúp FA. Chelsea lập kỷ lục khi thua trận chung kết thứ ba liên tiếp, sau thất bại lần lượt trước Arsenal và Leicester City ở chung kết năm 2020 và 2021. Với tư cách là đương kim vô địch, Liverpool đủ điều kiện tham dự giải đấu UEFA Champions League nhờ vị trí của họ tại Premier League 2021–22, vị trí tham dự giải đấu UEFA Europa League 2022–23 thuộc về đội đứng thứ 6 tại Premier League là Manchester United. Đường đến trận chung kết Chelsea Là một câu lạc bộ Premier League, Chelsea tham gia vòng 3, nơi họ chơi trên sân nhà Stamford Bridge đánh bại Chesterfield. Họ đánh bại Plymouth Argyle ở vòng 4 tại sân nhà Stamford Bridge. Ở vòng 5, họ đánh bại Luton Town trên sân Kenilworth Road. Chelsea làm khách khi họ đánh bại Middlesbrough ở trận tứ kết trên sân vận động Riverside. Ở trận bán kết, Chelsea thi đấu ở sân trung lập Wembley, nơi họ đánh bại Crystal Palace. Liverpool Là một câu lạc bộ Premier League, Liverpool tham gia vòng 3, nơi họ chơi trên sân nhà Anfield và đánh bại Shrewsbury Town. Ở vòng 4, họ đánh bại Cardiff City với tỉ số 3–1 cũng tại Anfield. Họ cũng đánh bại Norwich City trên sân nhà ở vòng 5. Họ đánh bại Nottingham Forest trên sân khách City Ground trong trận tứ kết, rước khi đánh bại Manchester City tại Sân vận động Wembley. Trước trận đấu Đây là lần gặp nhau thứ hai giữa hai đội trong một trận chung kết FA Cup, sau lần gặp nhau vào năm 2012, khi Chelsea thắng 2-1. Họ cũng gặp nhau trong bốn trận đấu quyết định danh hiệu khác; trận chung kết Cúp EFL 2005 và 2022, Siêu cúp Anh năm 2006 và Siêu cúp châu Âu 2019; Chelsea thắng trận gặp nhau năm 2005 và Liverpool thắng ba trận còn lại. Hai đội đã gặp nhau hồi đầu mùa giải, trong trận Chung kết Cúp EFL 2022, trong đó Liverpool thắng trên loạt sút luân lưu, với cả hai trận đấu giữa hai đội ở mùa giải Premier League 2021–22 kết thúc với tỷ số hòa, 1–1 tại Anfield và 2–2 tại Stamford Bridge. Đây là lần đầu tiên cả 2 đội gặp nhau ở cả Chung kết Cúp EFL và Chung kết Cúp FA trong cùng một mùa giải kể từ khi Arsenal gặp Sheffield Wednesday năm 1993. Trận đấu Chi tiết Số liệu thống kê Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Trận đấu của Liverpool F.C. Trận đấu của Chelsea F.C. Sự kiện tại Sân vận động Wembley Chung kết Cúp FA
19856221
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rami%20Yacoub
Rami Yacoub
Rami Yacoub (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1975), còn được biết đến với biệt danh Rami, là nhà sản xuất thu âm và nhạc sĩ sáng tác bài hát người Thụy Điển, đồng thời là cựu thành viên của Cheiron Studios và Maratone. Yacoub là cộng sự lâu năm của Max Martin, đặc biệt là trong thời gian đầu của sự nghiệp. Ông đã làm việc với các nghệ sĩ như Lady Gaga, Ariana Grande, Demi Lovato, Selena Gomez, Britney Spears, Nicki Minaj, Madonna, Charli XCX, Bon Jovi, Backstreet Boys, One Direction, Arashi, Westlife, The Saturdays, P!nk, Celine Dion, Enrique Iglesias, Tiësto, Avicii, NSYNC, 5 Seconds of Summer, Lindsay Lohan, Weezer, Måneskin, Foster the People và Loreen. Tiểu sử Rami, sinh ra với cha mẹ là người Palestine, bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình ở tuổi 13 khi ông bắt đầu chơi bass trong một ban nhạc ở Stockholm. Tài năng sáng tác của ông đã được thể hiện rõ khi ông bắt đầu viết nhiều bài hát cho nhóm. Yacoub cũng có một sự nghiệp ca hát ngắn ngủi nhưng sau đó quyết định dành toàn tâm cho việc sáng tác và sản xuất. Đến năm 18 tuổi, ông bắt đầu phát triển năng lực sản xuất của bản thân với sự hỗ trợ của "sampler, bộ mixer, synthesizer", đồng thời thử nghiệm với các bản remix. Năm 1998, Max Martin khi đang trong quá trình tìm kiếm cộng sự sản xuất mới đã tiếp cận ông và đề nghị ông gia nhập Cheiron Studios ở Stockholm. Lần hợp tác sản xuất đầu tiên giữa Rami với Martin là cho "...Baby One More Time" – đĩa đơn mở đầu sự nghiệp của Britney Spears. Sau mười năm làm việc, Rami chia tay Maratone vào đầu năm 2008 vì ông cảm thấy mình "cần phải đi theo con đường riêng." Sau vài năm nghỉ ngơi và đánh giá xem mình muốn làm gì tiếp theo, ông bắt đầu thành lập nhóm sản xuất riêng, lấy Kinglet Studios ở Los Angeles và Stockholm, Thụy Điển làm địa điểm hoạt động chính. Ảnh hưởng Rami Yacoub cho biết trong suốt thời gian trưởng thành ông đã nghe The Beatles, Prince và Tom Jones. Các nghệ sĩ khác bao gồm Mötley Crüe, AC/DC, Iron Maiden cũng có tác động rất lớn tới các sản phẩm của ông. Ông cũng coi Denniz Pop là "Bố già" trong ngành âm nhạc và đồng thời cũng là cố vấn cá nhân của ông. Tham khảo Liên kết ngoài Max Martin Fansite: Trang của Rami Yacoub Nhà sản xuất âm nhạc Thụy Điển Nhân vật còn sống Sinh 1975
19856233
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8B%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20c%E1%BA%ADn%20bi%C3%AAn
Thị trường cận biên
Thị trường cận biên (Frontier markets) là thuật ngữ chỉ một loại hình nền kinh tế thị trường của các nước đang phát triển phát triển hơn quốc gia kém phát triển nhất nhưng vẫn quá nhỏ, rủi ro hoặc kém thanh khoản để được phân loại chung là nền kinh tế thị trường mới nổi thuộc nhóm các nền kinh tế đang nổi lên. Thuật ngữ kinh tế này được người đứng đầu của Tập đoàn Tài chính Quốc tế là ông Farida Khambata đặt ra vào năm 1992 và bắt đầu được sử dụng khi Cơ sở dữ liệu các thị trường mới nổi của IFC (EMDB) bắt đầu công bố dữ liệu về các thị trường nhỏ hơn vào năm 1992. Thuật ngữ này thường được sử dụng để mô tả thị trường vốn cổ phần của các nước đang phát triển dù quy mô nhỏ và khó tiếp cận hơn nhưng vẫn "có thể đầu tư", tìm kiếm cơ hội. Thị trường chứng khoán cận biên hay thị trường mới nổi thứ cấp (Pre-emerging equity markets) thường được các nhà đầu tư theo đuổi với tiềm năng lợi nhuận cao, dài hạn cũng như mối tương quan thấp với các thị trường khác. Một số quốc gia được phân loại thuộc nhóm thị trường cận biên trước đây từng được phân hạng là thị trường mới nổi, nhưng hiện nay đã bị tụt hạng rơi về vị thế trong hạng thị trường cận biên. Đại cương Hiện nay trên thế giới, các thị trường tài chính xếp 3 nhóm: cao nhất là thị trường phát triển, tiếp đến là thị trường mới nổi, và thấp nhất là thị trường cận biên. Có 3 tổ chức lớn về xếp hạng thị trường bao gồm MSCI, FTSE Russell, và S&P Dow Jones. MSCI Frontier Markets Index hiện là chỉ số quan trọng nhất trong các bộ chỉ số theo dõi thị trường cận biên của MSCI. Nhiều quỹ chủ động có quy mô hàng trăm triệu USD đang sử dụng chỉ số này làm cơ sở tham chiếu. MSCI chỉ ra 9 tiêu chí định lượng đánh giá như sau: Một là giới hạn sở hữu nước ngoài. Hai là hạn mức/dư địa (room) ngoại còn lại cho nhà đầu tư nước ngoài vì thị trường cổ phiếu chịu ảnh hướng lớn từ vấn đề room nước ngoài. Ba là quyền bình đẳng của nhà đầu tư nước ngoài. Bốn là mức độ tự do trên thị trường ngoại hối, có thị trường giao dịch tiền tệ ở nước ngoài và thị trường giao dịch trong nước (giao dịch ngoại tệ phải liên quan tới giao dịch chứng khoán). Năm là đăng ký đầu tư và mở tài khoản chứng khoán và đăng ký giao dịch. Bảy là luồng thông tin. Tám là thanh toán và bù trừ, có hay không có công cụ vay thấu chi và giao dịch cần ứng tiền trước. Chín là khả năng chuyển nhượng, trong đó có một số giao dịch ngoài sàn và chuyển nhượng hiện vật. Bản chất thị trường cận biên là thị trường có quy mô nhỏ, chất lượng hàng thấp, không ổn định, kém thanh khoản, kém minh bạch, thông tin tài chính và luật lệ không tương thích, rủi ro cao. Việc vượt cận biên chỉ là để thoát nghèo, thị trường muốn phát triển sẽ cần các yếu tố cốt lõi về nền tảng (platform), các điều kiện nội tại đồng bộ phổ quát và chuẩn mực (integrated). Cần phân biệt giữa thị trường mới nổi và thị trường cận biên, thị trường cận biên là những quốc gia vẫn còn nhiều chặng đường để đạt được giai đoạn của thị trường mới nổi. Các thị trường này chưa đủ tính thanh khoản và do đó không nằm trong danh mục đầu tư của thị trường mới nổi, ví dụ về thị trường cận biên là các quốc gia như Ai Cập, Nigeria, Pakistan, Bangladesh, Argentina và Panama. Colombia được Standard & Poors thăng cấp lên Thị trường mới nổi, đánh giá này có hiệu lực từ ngày 19 tháng 9 năm 2011. Việt Nam vẫn chưa góp mặt trong danh sách xem xét để được nâng hạng từ thị trường chứng khoán cận biên lên thị trường mới nổi của MSCI, tuy nhiên, theo ông Johan Nyvene-Chủ tịch Công ty cổ phần Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HSC) thì dù Việt Nam vẫn được xem là một thị trường cận biên bởi các tổ chức xếp hạng thị trường trên thế giới, mặc dù vậy, đã có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài xem thị trường chứng khoán Việt Nam như một thị trường mới nổi. Phân hạng Chú thích Tham khảo Thủ tướng Phạm Minh Chính: Quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi trong năm 2025 Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi trong thời gian sớm nhất QUYẾT TÂM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ CẬN BIÊN LÊN MỚI NỔI, BẢO ĐẢM AN TOÀN, LÀNH MẠNH, BỀN VỮNG - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tuyên Quang Sớm nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi vào năm 2025 - Báo Đấu thầu Việt Nam phấn đấu nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi - Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp Chuyên gia “hiến kế” nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Tạp chí Tài chính Những tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam và kiến nghị giải pháp - Tạp chí Kinh tế và Dự báo Chứng khoán Thị trường chứng khoán
19856234
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shikisai%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20yama%29
Shikisai (bài hát của yama)
là đĩa đơn thứ ba của yama. Được phát hành bởi MASTERSIX FOUNDATION vào ngày 9 tháng 11 năm 2022. Tổng quan Đây là đĩa đơn đầu tiên của cô ấy sau một năm kể từ album trước đó. Shikisai là bài hát chủ đề kết thúc cho phần thứ hai mùa đầu tiên của anime truyền hình Spy × Family. Bài hát này không có thông báo trước đó và nó chỉ được công bố sau khi anime được phát sóng vào ngày 1 tháng 10. Video âm nhạc Phát hành vào ngày 3/10/2022. (Đạo diễn: Kazuki Gotanda) Tính đến tháng 1/2023, MV này đã được xem hơn 10 triệu lần. Vào ngày 23 tháng 12 năm 2022, một video âm nhạc cho bộ anime đã được phát hành trên kênh Youtube chính thức của TOHO animation. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2022, video âm nhạc của ca khúc kết hợp "Aiwotoku" được phát hành. Minh họa: Tomowaka. Danh sách bài hát Sáng tác, viết lời, hòa âm phối khí: Whale. Lời & Sáng tác: yama / Hòa âm: Nobuaki Tanaka Tham khảo Spy × Family Bài hát của Spy × Family Bài hát tiếng Nhật Bài hát anime Đĩa đơn năm 2022
19856235
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jordan%20Amissah
Jordan Amissah
Jordan Yamoah Amissah (sinh ngày 2 tháng 8 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Sheffield United tại Premier League. Sự nghiệp thi đấu Đầu sự nghiệp Amissah là sản phẩm của học viện các câu lạc bộ Holsterhausen Herne, VfL Bochum, Schalke 04 và Borussia Dortmund trước khi chuyển đến đội trẻ của Sheffield United vào năm 2018. Sheffield United Vào ngày 21 tháng 5 năm 2021, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Sheffield United. Anh bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Guiseley ở National League North theo dạng cho mượn trong nửa đầu mùa giải 2021–22. Vào tháng 1 năm 2022, anh được cho mượn tại Spennymoor Town trong nửa sau của mùa giải. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Sheffield United trong trận hòa 1-1 với Luton Town tại EFL Championship vào ngày 26 tháng 8 năm 2022, vào sân thay người ở phút thứ 78 sau khi Wes Foderingham gặp chấn thương. Cho mượn tại Burton Albion Vào tháng 1 năm 2023, Amissah gia nhập câu lạc bộ Burton Albion tại EFL League One theo dạng cho mượn đến cuối mùa giải. Amissah có trận ra mắt cho Burton Albion trong trận thua 0-1 trước Grimsby Town tại Cúp FA vào ngày 7 tháng 1. Một tuần sau, anh có trận ra mắt League One, trận thua 4–0 trước Shrewsbury. Phải đến ngày 3 tháng 5, anh mới lại tiếp tục ra sân, chiến thắng 1–0 trước Cambridge United. Đời tư Sinh ra ở Đức, Amissah là người gốc Ghana. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Đức Cầu thủ bóng đá nam Ghana Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá Ghana ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh Cầu thủ bóng đá Boreham Wood F.C. Cầu thủ bóng đá Sheffield United F.C. Cầu thủ bóng đá Guiseley A.F.C. Cầu thủ bóng đá Spennymoor Town F.C. Cầu thủ bóng đá Burton Albion F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
19856236
https://vi.wikipedia.org/wiki/Noel%20Aguirre
Noel Aguirre
Noel Ricardo Aguirre Ledezma (26 tháng 4 năm 1960 – 2 tháng 1 năm 2024) là cựu nhà kinh tế học, nhà giáo và chính khách người Bolivia. Trước đây, ông từng là thành viên của đảng MAS-IPSP và giữ chức vụ làm Bộ trưởng Kế hoạch Phát triển Bolivia từ ngày 8 tháng 2 năm 2009 đến ngày 23 tháng 1 năm 2010. Tham khảo
19856237
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alonso%20Duralde
Alonso Duralde
Alonso Duralde (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1967) là nhà phê bình điện ảnh, nhà văn và người dẫn podcast người Mỹ. Anh là cây viết và cũng là biên tập viên cho The Film Verdict, The Wrap, The Advocate và MSNBC.com. Tiểu sử Duralde sinh ra ở East Point, Georgia, là con út trong gia đình bảy người con của những người nhập cư Tây Ban Nha. Anh theo học tại Đại học Vanderbilt và hiện đang sinh sống ở West Hollywood, California cùng chồng – cây bút kiêm và nhà phê bình điện ảnh Dave White. Cả hai cùng nhau dẫn một loạt podcast lấy tựa đề Linoleum Knife từ cuối thập niên 2010. Anh ấy lớn lên theo Công giáo, nhưng hiện được xác định là một người vô thần. Tháng 1 năm 2010, Duralde là thí sinh của cuộc thi Jeopardy!. Sự nghiệp Duralde là giám đốc nghệ thuật tại Liên hoan phim Hoa Kỳ/Dallas trong 5 năm. Anh cũng là cựu biên tập viên nghệ thuật và giải trí của tạp chí đồng tính quốc gia The Advocate. Năm 2007, anh đảm nhiệm vai trò nhà phê bình phim cho MSNBC.com, và vào năm 2009, các bài phê bình của anh bắt đầu xuất hiện thường xuyên trên The Rotten Tomatoes Show. Duralde là thành viên của Hiệp hội phê bình phim Los Angeles và Hiệp hội phê bình phim quốc gia. Các bài viết của anh đã xuất hiện trên The Village Voice, Movieline và Detour. Từ năm 2011 đến năm 2023, Duralde là nhà phê bình phim cao cấp của TheWrap, trang này cũng đã cung cấp các bài đánh giá của anh cho hãng thông tấn Reuters. Anh cũng tham gia vai trò dẫn chương trình cho loạt What the Flick?! của kênh TYT Network cùng với Ben Mankiewicz của Turner Classic Movies, Christy Lemire của The Associated Press và Matt Atchity của Rotten Tomatoes. Sau khi What the Flick?! bị hủy bỏ, anh và Lemire bắt đầu tổ chức podcast điện ảnh Breakfast All Day. Năm 2023, Duralde gia nhập trang web The Film Verdict với vai trò trưởng ban nhà phê bình phim điện ảnh Hoa Kỳ. Phim điện ảnh của năm 2011: Weekend 2012: How to Survive a Plague 2013: Frances Ha 2014: Thời thơ ấu 2015: Max điên: Con đường tử thần 2016: Moonlight 2017: Call Me by Your Name 2018: Paddington 2 2019: Những người phụ nữ bé nhỏ 2020: Collective 2021: Licorice Pizza 2022: RRR 2023: Poor Things Sự nghiệp văn học Tham khảo Liên kết ngoài Trang Rotten Tomatoes của Alonso Duralde Sinh 1967 Nhân vật còn sống Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 21 Người vô thần Mỹ Nhà phê bình phim Mỹ Người Mỹ gốc Tây Ban Nha Người LGBT từ Georgia Cựu tín hữu Công giáo Rôma Người East Point, Georgia Người West Hollywood, California Cựu sinh viên Đại học Vanderbilt Nhà văn Georgia
19856240
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%99
K'ani (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli კ, mtavruli Კ) là chữ cái thứ 11 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, კ có giá trị là 20. Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Xem thêm Chữ cái Gruzia Kani Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856245
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bob%20Marley%3A%20M%E1%BB%99t%20t%C3%ACnh%20y%C3%AAu
Bob Marley: Một tình yêu
Bob Marley: Một tình yêu (tên tiếng Anh: Bob Marley: One Love) là bộ phim tiểu sử thuộc thể loại âm nhạc chính kịch của Hoa Kỳ dựa trên cuộc đời của nhà viết ca từ và ca sĩ reggae Bob Marley, được thủ vai bởi Kingsley Ben-Adir, từ sự nổi dậy vào giữa thập niên 70 cho đến cuối đời vào năm 1981 của ông. Phim sẽ được đạo diễn bởi Reinaldo Marcus Green, người sẽ đồng biên kịch cùng với Terence Winter, Frank E. Flowers và Zach Baylin. Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của Lashana Lynch trong vai Rita Marley và James Norton trong vai Chris Blackwell. Bob Marley: Một tình yêu được công chiếu lần đầu tại rạp chiếu Carib 5 ở Kingston, Jamaica vào ngày 23 tháng 1, 2024 và được phát hành tại Hoa Kỳ bởi Paramount Pictures vào ngày 14 tháng 2, 2024. Tại thị trường Việt Nam, bộ phim được ra mắt vào ngày 15 tháng 3, 2024. Sau khi phát hành, bộ phim đã nhận được về nhiều đánh giá lẫn lộn từ những nhà phê bình và thành công thu được $123 triệu trên toàn cầu. Nguồn Liên kết ngoài Phim năm 2024 Phim Mỹ Phim ca nhạc Phim tiểu sử Phim chính kịch Phim tiếng Anh Phim tiếng Thổ ngữ Jamaica Phim thập niên 2020
19856246
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%83%9A
Lasi (asomtavruli , nuskuri , mkhedruli ლ, mtavruli Ლ) là chữ cái thứ 12 trong bảng chữ cái Gruzia. Trong hệ thống chữ số Gruzia, ლ có giá trị là 30. ლ thường đại diện cho âm tiếp cận cạnh lưỡi chân răng hữu thanh , giống như cách phát âm của trong "lord". Chữ cái Mã hóa máy tính Chữ nổi Sử dụng Mkhedruli ლ là biểu tượng tiền tệ của lari Gruzia. Đôi khi, ký hiệu ₾ cũng được sử dụng. Xem thêm Chữ cái Latinh L Tham khảo Chữ cái Gruzia
19856261
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ikigai
Ikigai
là một khái niệm trong văn hóa Nhật Bản, đề cập đến thứ/ điều gì đó mang lại cho mỗi người ý thức về mục đích, lý do tồn tại trong cuộc sống. Ý nghĩa và từ nguyên Từ điển Oxford English Dictionary định nghĩa ikigai là "động lực; cái gì đó, hoặc ai đó mang lại cho một cá nhân ý thức về mục đích hoặc lý do sống". Nói cách khác, nó đề cập đến điều gì đó mang lại niềm vui hoặc sự thỏa mãn. Thuật ngữ này là sự kết hợp của hai từ tiếng Nhật: và (biến âm thành gai). Ý nghĩa nó truyền tải là 'lý do để sống; ý nghĩa trong cuộc sống; [điều gì đó] làm cho cuộc sống trở nên đáng sống'. Tổng quan có thể dùng để mô tả việc có ý thức về mục đích cũng như khả năng duy trì động lực trong cuộc sống. Theo một nghiên cứu của Michiko Kumano, cảm nhận về tại Nhật thường được mô tả như cảm giác hoàn thành và thỏa mãn khi một cá nhân theo đuổi niềm đam mê của mình. Các hoạt động mang lại không thể mang tính ép buộc; chúng được thực hiện một cách tự nguyện, do đó mang tính cá nhân và phụ thuộc vào nội tâm của từng người. Theo nhà tâm lý học Katsuya Inoue, là một khái niệm bao gồm hai khía cạnh: "nguồn/ đối tượng mang lại giá trị hoặc ý nghĩa cho cuộc sống" và "cảm giác rằng cuộc sống của chính mình có giá trị, nhờ vào sự tồn tại của nguồn/ đối tượng đó". Inoue phân loại thành ba loại – xã hội, phi xã hội và phản xã hội. xã hội đề cập đến được xã hội chấp nhận thông qua các hoạt động tình nguyện và cộng đồng. phi xã hội là một không liên quan trực tiếp đến xã hội (ví dụ: niềm tin, kỷ luật tự giác). phản xã hội đề cập đến động lực cơ bản để vượt qua những cảm xúc tiêu cực (ví dụ: mong muốn ghét bỏ/ trả thù ai đó). Phóng viên National Geographic Dan Buettner cho rằng có thể là một trong những lý do chính ảnh hưởng đến tuổi thọ trung bình của người dân Okinawa. Theo Buettner, người dân Okinawa thường không có mong muốn nghỉ hưu - chừng nào còn khỏe mạnh, mọi người sẽ vẫn tiếp tục làm công việc mình yêu thích. Bên cạnh đó, xu hướng kết nối qua việc tham gia các cộng đồng thân thiết (moai) cũng được xem là nguyên nhân quan trọng giúp người dân Okinawa sống lâu. Phổ biến Tuy đã tồn tại từ lâu trong văn hóa Nhật Bản, khái niệm chỉ lần đầu tiên được phổ biến vào năm 1966 qua tác phẩm "Về ý nghĩa cuộc sống" () của bác sĩ tâm thần và học giả người Nhật Mieko Kamiya. Tác phẩm của bà vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh. Tầm quan trọng Trong thập niên 1960, 1970 và 1980, được cho là có tác dụng giúp hướng tới sự cải thiện xã hội ("đặt mong muốn của người khác lên trên chính mình") cũng như phát triển bản thân ("đi theo con đường của riêng mình"). Theo nhà nhân chủng học Chikako Ozawa-de Silva, đối với thế hệ lớn tuổi ở Nhật Bản, của họ là "sống phù hợp với khuôn mẫu tiêu chuẩn của công ty và gia đình", trong khi thế hệ trẻ cho biết của họ là "suy nghĩ và mơ ước về những gì họ có thể trở thành trong tương lai". Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người không cảm nhận được ikigai có nhiều khả năng mắc các bệnh lý về tim mạch hơn. Tuy nhiên, không có bằng chứng về mối tương quan giữa việc thiếu cảm nhận ikigai với sự phát triển khối u ác tính. Đọc thêm Raison d'être Liệu pháp ý nghĩa Động cơ (tâm lý học) Self-help Tham khảo Liên kết ngoài "Factors associated with 'Ikigai' among members of a public temporary employment agency for seniors (Silver Human Resources Centre) in Japan; gender differences", Health and Quality of Life Outcomes. 2006; 4:12 (retrieved Nov 2008). "Ikigai and Mortality" Psychology Today. 17 Sep 2008 (retrieved Jan 2010). "Dan Buettner: How to live to be 100+" TED talk about longevity that explains the word in the Okinawan context. Jan 2010. Japan's formula for life satisfaction. By Lily Crossley-Baxter, 11 May 2020, bbc.com. Hạnh phúc Văn hóa Nhật Bản Thuật ngữ tiếng Nhật Trạng thái tinh thần Cá nhân Thuật ngữ xã hội học Từ & cụm từ mô tả tính cách