title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Hiệp ước ba bên Mỹ–Nhật–Hàn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824262 | Hội nghị thưởng đỉnh Trại David.
Tại Trại David vào ngày 18 tháng 8 năm 2023, Biden công bố hiệp ước, đánh dấu lần đầu tiên các nhà lãnh đạo quốc tế đến thăm nơi nghỉ dưỡng này kể từ năm 2015, khi tổng thống bấy giờ là Barack Obama tổ chức hội nghị thượng đỉnh Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh ở đó. Hội nghị thượng đỉnh này là lần đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của Biden mà các nhà báo được phép vào khu vực Trại David.
Thi hành.
Hiệp ước thực hiện nguyên tắc chính thức "casus foederis", trong đó mối đe dọa đối với một thành viên cũng sẽ là mối đe dọa đối với tất cả các thành viên, nhưng lại không phản ánh Điều 5 của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Ngoài ra, phản ứng trước một cuộc tấn công nhằm vào một thành viên phải được thảo luận. Hiệp ước này cũng gia tăng các cuộc tập trận quân sự và nâng cấp phòng thủ tên lửa đạn đạo ba bên. Ba nước sẽ phát triển khuôn khổ an ninh cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. |
Roy Sullivan | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824263 | Roy Cleveland Sullivan (ngày 7 tháng 2 năm 1912 – ngày 28 tháng 9 năm 1983) là một kiểm lâm viên "park ranger" người Mỹ tại Công viên Quốc gia Shenandoah bang Virginia. Trong khoảng thời gian từ năm 1942 đến năm 1977, Sullivan được cho là đã bị sét đánh bảy lần, nhưng ông đã sống sót qua tất cả. Vì thế ông được đặt cho biệt danh "Bộ thu sét người" ("Human Lightning Conductor") và "Người cột sét" ("Human Lightning Rod"). Sullivan được công nhận bởi Sách Kỷ lục Guinness là người bị sét đánh nhiều lần hơn bất kỳ ai khác.
Đời tư cá nhân.
Roy Sullivan sinh tại Greene County, Virginia, vào ngày 7 tháng 2 năm 1912. Ông bắt đầu làm công việc kiểm lâm ("ranger") tại Công viên Quốc gia Shenandoah vào năm 1936. Sullivan được mô tả là một người đàn ông vạm vỡ lực lưỡng với khuôn mặt rộng, thô kệch, làm gợi tưởng đến nam diễn viên Gene Hackman. Ông được cho là bị tránh mặt bởi nhiều người trong những năm cuối cuộc đời, lý do là sợ bị sét đánh, và điều này khiến ông trở nên phiền muộn. Ông từng thuật lại, "Ví dụ, vào một ngày nọ, tôi đang đi dạo với Cảnh sát trưởng ("Chief Ranger") thì có sét đánh (ở phía xa)". Cảnh sát trưởng nói rằng, "Ta gặp lại nhau sau nhé".
Vào sáng ngày 28 tháng 9 năm 1983, Sullivan tạ thế, thọ 71 tuổi, được cho là bởi vết thương ở đầu từ một phát đạn tự thương cỡ nòng 22 Caliber. Mặc dù mô-típ của vụ việc không hề rõ ràng, nguyên nhân chính thức vẫn được cho là tự tử. Hai trong số những chiếc mũ kiểm lâm (mũ ranger) của ông được trưng bày tại hai Phòng Triển lãm Thế giới Guinness tại New York City và Nam Carolina.
Bảy lần sét đánh.
Sullivan đã mô tả một cách chi tiết từng sự kiện sét đánh.
Tất cả bảy lần bị sét đánh đều đã được ghi lại bởi người quản lý Công viên Quốc gia Shenandoah, R. Taylor Hoskins. Tuy nhiên, Hoskins chưa bao giờ có mặt tại bất kỳ vụ sét đánh nào được báo cáo và không phải là người quản lý hiện diện và hiện thời tại Công viên Quốc gia Shenandoah trong nhiều lần Sullivan bị sét đánh. Chính Sullivan đã nhớ lại rằng, lần đầu tiên ông bị sét đánh không phải là vào năm 1942 mà sớm hơn đó rất nhiều. |
Roy Sullivan | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824263 | Khi còn là một đứa trẻ, ông đã giúp cha mình cắt lúa trên cánh đồng, khi một tia sét đánh vào lưỡi dao cắt lưỡi hái của ông mà không làm ông bị thương. Tuy nhiên, vì sau này ông không thể chứng minh được sự việc ấy cho nên ông không bao giờ khẳng định nó.
Vợ của Sullivan cũng từng bị sét đánh một lần, khi một cơn bão bất ngờ kéo tới khi bà đang phơi quần áo ngoài sân sau. Chồng của bà cũng đang giúp bà vào lúc đó, nhưng đã thoát được mà không bị thương.
Thống kê.
Xác suất bị sét đánh trúng xuyên suốt 80 năm được ước tính xấp xỉ vào khoảng 1:10000. Nếu như giả sử rằng, các lần sét đánh là các sự kiện độc lập, xác suất bị sét đánh bảy lần sẽ là (1:10000)7 = 1:1028 hoặc 1 trong 10,000,000,000,000,000,000,000,000,000. Các con số này không thật sự có thể áp dụng cho trường hợp của Sullivan, nhưng dù sao nó cũng xảy ra bởi tính chất công việc của ông và tình hình địa lý tại địa phương chịu ảnh hưởng nhiều của bão hơn người thường. Bang Virginia, nơi mà ông ngụ cư, có trung bình 35 tới 45 ngày bão dông hằng năm, hầu hết đều rơi vào mùa thu các tháng sáu, bảy và tám. Giữa năm 1959 và năm 2000, sét đánh đã làm thiệt mạng 58 người và làm bị thương ít nhất 238 người tại bang Virginia. Tại Hoa Kỳ, 3.239 người đã thiệt mạng và 13.057 người bị thương bởi sét đánh trong cùng khoảng thời gian. Hầu hết các ca trường hợp là nam giới, trong độ tuổi từ 20 và 40 tuổi và xảy ra ngoài trời. |
Acid lignoceric | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824271 | Acid lignoceric, hoặc acid tetracosanoic, là một acid béo bão hoà với công thức . Nó được tìm thấy trong hắc ín, một số loại cerebroside khác nhau, và trong một lượng nhỏ của hầu hết các chất béo tự nhiên. Các acid béo của dầu đậu phộng có chứa những lượng nhỏ acid lignoceric (1.1% – 2.2%). Acid béo này cũng là một sản phẩm phụ của quá trình sản xuất lignin.
Quá trình khử acid lignoceric cho ra cồn alcohol lignoceryl. |
Trần Công Minh (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824278 | Trần Công Minh có thể là: |
Kinh Đô ngự sở | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824296 | Kinh Đô ngự sở hay Ngự sở Kyōto, là triều đình cai trị trên danh nghĩa của Nhật Bản từ năm 794 Công Nguyên cho đến thời Minh Trị (1868–1912), sau đó triều đình dời đô từ Kyōto (trước đó là Heian-kyō) đến Tokyo (trước đó là Edo) và sáp nhập vào chính quyền Minh Trị. Khi triều đình được Thiên hoàng Hoàn Vũ (737-806) chuyển từ Nagaoka đến Kyōto thì các cuộc tranh giành quyền lực ngai vàng vốn là đặc trưng của thời Nại Lương đã giảm bớt. Kyōto được chọn làm địa điểm xây dựng triều đình vì địa thế nhiều sông núi "thích hợp", được cho là môi trường xung quanh tốt lành nhất cho kinh đô mới. Bản thân kinh đô được xây dựng phỏng theo Trường An, bám sát các lí thuyết âm dương. Nhóm người nổi bật nhất trong triều đình là tầng lớp công gia ("kuge"), là giai cấp thống trị xã hội thực thi quyền lực thay mặt Thiên hoàng.
Kyōto từ chỗ là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa bắt đầu bị thách thức vào thời kì sau năm 1185 do sự trỗi dậy của Mạc phủ dần dần nắm quyền quản lí từ Thiên hoàng. Minamoto no Yoritomo là vị tướng đầu tiên lập ra chức shōgun như cha truyền con nối, tự phong danh hiệu này vào năm 1192. Sau khi Yoritomo lập ra Mạc phủ, quyền lực chính trị thực sự nằm trong tay các shōgun, đại diện các nước phương Tây nhiều lần nhầm lẫn shōgun với Thiên hoàng Nhật Bản. tồn tại đến gần 150 năm, từ năm 1185 đến năm 1333. |
Bolma anacanthos | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824301 | Bolma anacanthos là một loài ốc biển đã tuyệt chủng, thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài này được ghi nhận từng xuất hiện ở vùng ngoài khơi tiểu bang Victoria của Úc. |
Luật Asuka Kiyomihara | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824302 | là một tập hợp các quy tắc quản lí được biên soạn và ban hành vào năm 689, một trong những bộ luật đầu tiên ở Nhật Bản thời phong kiến (nếu không phải bộ luật Ritsuryō). Bộ luật này cũng đánh dấu sự xuất hiện lần đầu của cơ quan hành chính trung ương gọi là "Daijō-kan" (Thái chính quan) bao gồm ba đại thần—"Daijō-daijin" (Thái chính đại thần), "Sadaijin" (Tả đại thần) và "Udaijin" (Hữu đaị thần).
Vào năm 662, Thiên hoàng Thiên Trí đã biên soạn bộ luật đầu tiên của Nhật Bản, được các nhà sử học hiện đại biết đến. Bộ luật Ōmi (Cận Giang luật), gồm 22 tập, được ban hành vào năm cuối cùng dưới triều Thiên Trí. Tuy hệ thống hóa pháp lí này đã không còn tồn tại, song nó được cho là đã cải tiến trong cái gọi là bộ luật Asuka Kiyomihara "ritsu-ryō" năm 689. Việc biên soạn bắt đầu vào năm 681 dưới thời Thiên hoàng Thiên Vũ. Thiên hoàng qua đời năm 686, để lại việc hoàn thiện Bộ luật phải mất thêm vài năm nữa. Cuối cùng bộ luật được ban hành vào năm 689. Đây được hiểu là tiền thân của bộ luật Taihō "ritsu-ryō" năm 701.
Mặc dù chưa được "hoàn thiện" (ngoại trừ luật hình sự như "ritsu"), bộ luật này đã kết hợp nhiều quy định quan trọng (ví dụ như đăng kí bắt buộc đối với thần dân và việc báo cáo bệnh dịch), mở đường cho Đại Bảo luật lệnh (大宝律令, "Taihō-ritsuryō)" hoàn chỉnh hơn sau này. |
Megastraea | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824304 | Megastraea là một chi ốc biển có kích thước thân vỏ từ cỡ trung bình đến lớn, thuộc họ Turbinidae.
Các loài.
Các loài trong chi này trước đây được xếp vào chi "Astraea". Chúng bao gồm: |
Megastraea turbanica | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824306 | Megastraea turbanica là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Kích thước vỏ của loài này có thể đạt đến 150 mm.
Phân bổ.
Loài này phân bố ở Thái Bình Dương ngoài khơi California, Mỹ. |
Turbo (Turbinidae) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824307 | Turbo là một chi ốc biển lớn có mang và nắp, thuộc họ Turbinidae. Chúng cũng là chi điển hình của họ này.
Mô tả.
Vỏ của các loài trong chi này ít nhiều có hình xoắn ốc, dày, khoảng 20–200 mm. Loài "Turbo" đầu tiên được tìm thấy ở thời kỳ trước kỷ Phấn trắng, khoảng 100 triệu năm trước.
Phân loại.
Theo Alf et al. chi "Turbo" được chia thành 16 phân chi gần. Số loài còn sống được biết đến trong chi "Turbo" là 66, cộng với 5 phân loài.
Các loài.
Các loài trong chi này bao gồm
Đồng nghĩa.
Các loài sau đây được đưa vào danh pháp đồng nghĩa:
Các loài sau đây là nomina nuda (tên không được công bố kèm mô tả đầy đủ):
Các loài sau đây là đại diện thay thế:
Các loài sau đây là nomina dubia (tên chưa biết hoặc nghi ngờ):
Tên tạm thời:
Các loài sau đây là species inquirenda (tên có giá trị không chắc chắn hoặc còn tranh cãi):
Tham khảo. |
Alpbach (Tegernsee) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824308 | Alpbach là một con suối ở Bayern, Đức. Nó chạy qua thành phố Tegernsee vào hồ Tegernsee, nước từ đó chảy ra Mangfall. |
Uvanilla | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824310 | Uvanilla là một chi ốc biển thuộc họ Turbinidae. |
Yaronia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824311 | Yaronia là một chi ốc biển thuộc họ Colloniidae.
Các loài.
Các loài trong chi "Yaronia" bao gồm: |
Uvanilla babelis | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824312 | Uvanilla babelis là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Kích thước vỏ của loài này có thể đạt chiều dài 21 mm, đường kính 19 mm.
Phân bổ.
Loài này phân bố ở Thái Bình Dương ngoài khơi Nam Mỹ |
Nguyễn Duy Quang | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824316 | Nguyễn Duy Quang(ngày 24 tháng 9 năm 1906 – ?) là luật sư, quan chức và nhà ngoại giao người Việt Nam, từng là đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản và Malaysia, đồng thời cũng là đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa tại Pháp.
Tiểu sử.
Nguyễn Duy Quang sinh tại xã Đại Điền, tỉnh Bến Tre, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương vào ngày 24 tháng 9 năm 1906, là con trai thứ sáu của phú hào và Đốc phủ sứ quyền uy một thời Nguyễn Duy Hinh (1874 – 1945).
Năm 1931, ông tốt nghiệp Trường Nghiên cứu Kinh doanh Cao cấp Paris. Năm 1933, ông lấy bằng luật tại Đại học Paris. Từ năm 1935 đến năm 1942, ông vào làm trưởng ty ngự tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại, rồi lần lượt giữ chức Bố chánh sứ tỉnh Thanh Hóa, Quản đạo đạo Ninh Thuận và Tuần phủ tỉnh Khánh Hòa từ năm 1942 đến năm 1945.
Năm 1945, ông bị Việt Minh bắt giữ, sau này họ bổ nhiệm ông lên làm quản lý một nhà máy dệt. Mùa hè năm 1951, ông bỏ trốn khỏi hàng ngũ Việt Minh và quay sang ủng hộ phe cựu hoàng Bảo Đại.
Từ năm 1952 đến năm 1953, ông được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam. Năm 1953, ông giữ chức Vụ trưởng Vụ Lễ tân Văn phòng Quốc trưởng. Năm 1958, ông làm luật sư tại Tòa Phúc thẩm Sài Gòn, rồi chuyển sang làm Đại sứ tại Nhật Bản từ năm 1965 đến năm 1967, Đại sứ tại Malaysia từ năm 1967 đến năm 1973. Về sau, ông còn làm chức đại sứ tại Pháp trong hai năm 1973–1975, và đây cũng chính là nhiệm kỳ cuối cùng.
Tham khảo. |
Nguyễn Bảo Toàn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824317 | Nguyễn Bảo Toàn (? – 1963), tên thật là Nguyễn Hoàn Bích, là chính khách và tín hữu Công giáo người Việt Nam có quan hệ mật thiết với phong trào Phật giáo Hòa Hảo, từng giữ chức vụ Tổng Bí thư Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng (gọi tắt là Dân Xã Đảng).
Tiểu sử.
Nguyễn Bảo Toàn sinh ra trong một gia đình Công giáo ở làng Long Kiến, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên.
Ông theo học bậc trung học tại trường Collège de Cần Thơ khoảng thập niên 1930. Ông là người có lòng yêu nước, từng bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo vì âm mưu hoạt động cách mạng chống Pháp. Ngày 21 tháng 9 năm 1946, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ quy tụ tín đồ thành lập Dân Xã Đảng, và Huỳnh Giáo chủ đã đề cử Nguyễn Bảo Toàn làm Tổng Bí thư đảng mà đa số trên một triệu đoàn viên đều là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, mặc dù bản thân ông là tín đồ Công giáo.
Năm 1947, Dân Xã Đảng đã cử ông sang Trung Quốc hòng tiến hành đàm phán với phe phái chống Cộng vừa thoát khỏi những vụ thanh trừng của Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam lúc đó. Ngày 27 tháng 2 năm 1947, ông cùng với Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam sáng lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc tại Nam Kinh, chủ trương giải pháp mời cựu hoàng Bảo Đại ra làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp.
Ông được xem là người có công đầu trong việc truất phế Bảo Đại và đưa ông Ngô Đình Diệm lên ngôi vị Tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 của nhóm quân nhân thất bại phải đào thoát sang Campuchia tị nạn, ông đã trốn thoát rồi bị chính quyền lên án tử hình vắng mặt. Tháng 1 năm 1963, Nguyễn Bảo Toàn bị mật vụ của Đại tá Nguyễn Văn Y bí mật bắt giam và thủ tiêu tại Tổng Nha Cảnh Sát và Công An, xác ông bị cột vào trụ xi măng rồi cho thả xuống sông Nhà Bè. |
Nguyễn Bích Huệ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824318 | Nguyễn Bích Huệ (ngày 27 tháng 2 năm 1924 – ngày 25 tháng 8 năm 2005) là chủ ngân hàng và quan chức Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử.
Nguyễn Bích Huệ chào đời ở Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương vào ngày 27 tháng 2 năm 1924.
Trong những năm đầu đời, ông tốt nghiệp Đại học Paris, Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Paris, Trường Hành chính Quốc gia Pháp, và thi đậu lấy bằng luật. Năm 1955, ông được cất nhắc lên làm Tổng thư ký Ủy ban Kinh tế - Tài chính Bộ Kế hoạch, cùng năm, ông giữ chức vụ Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chi nhánh Huế cho đến năm 1956.
Từ năm 1959 đến năm 1967, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc kinh doanh và nghiên cứu Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Từ năm 1968 đến năm 1969, ông được thăng lên chức Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Từ năm 1969 đến năm 1971, ông lên làm Bộ trưởng Bộ Tài chánh dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ông qua đời tại Quận Fulton, Georgia, Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 8 năm 2005.
Đời tư.
Nguyễn Bích Huệ tin theo tín ngưỡng Phật giáo, ông lấy vợ là bà Bùi Khuê Đức, sinh được hai người con trai và một cô con gái. Vợ ông qua đời vào ngày 11 tháng 5 năm 2015, hưởng thọ 89 tuổi . |
Nguyễn Phú Đức | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824319 | Nguyễn Phú Đức (ngày 13 tháng 11 năm 1924 – ngày 9 tháng 12 năm 2017), là luật sư, nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Trợ lý đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về ngoại giao và là đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Bỉ.
Tiểu sử.
Nguyễn Phú Đức sinh ngày 13 tháng 11 năm 1924 tại tỉnh Sơn Tây, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Cha tên là Nguyễn Khánh Đắc và ông nội là Nguyễn Văn Thự.
Ông qua đời ngày 9 tháng 12 năm 2017 tại Paris, Pháp. |
Bá tước xứ Mar | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824323 | Bá tước xứ Mar (tiếng Anh: "Earl of Mar") hiện tại có 2 tước vị bá tước xứ Mar trong Đẳng cấp quý tộc Scotland, và danh hiệu này đã được tạo ra 7 lần trong suốt lịch sử. Người nắm giữ Bá tước xứ Mar thứ nhất là Margaret của Mar, Nữ bá tước thứ 31 xứ Mar, đồng thời là trưởng tộc của Thị tộc Mar. Vị bá tước xứ Mar thứ 2 là James Erskine, Bá tước thứ 14 xứ Mar và Bá tước thứ 16 xứ Kellie, nắm giữ, ông cũng là tộc trưởng của Thị tộc Erskine.
Bá tước xứ Mar được nêu tên đầu tiên là Ruadrí, người được biết là còn sống vào năm 1128, mặc dù một bá tước giấu tên được đề cập là có mặt trong Trận Clontarf năm 1014. Năm 1435, bá tước bị Vua James II chiếm giữ và sau đó được trao cho một số đứa trẻ hoàng gia không có người thừa kế. Lần tạo ra thứ 6 được trao cho James Stewart, con trai ngoài giá thú của Vua James V, người đã bị tước bỏ danh hiệu sau một cuộc nổi loạn năm 1565.
Tước hiệu này sau đó được trao cho John Erskine, hậu duệ của các bá tước ban đầu. Năm 1866, bá tước lúc đó qua đời mà không có con, và không rõ liệu bá tước nên truyền cho người thừa kế nam ("hereditary successor") hay người thừa kế thân thể ("Heirs of the body"). Điều này cuối cùng đã dẫn đến hai quyết định của Viện quý tộc Anh nhằm tạo ra hai tước vị bá tước. Năm 1875, Viện quý tộc ra phán quyết rằng ngôi vị bá tước được trao cho John Erskine vào năm 1565 là lần tạo ra thứ bảy, không phải là sự tiếp nối của lần đầu tiên và nó sẽ được chuyển cho những người thừa kế nam. Tuy nhiên, vào năm 1885, Thượng viện đã thông qua và Quốc hội ban hành Đạo luật Bồi thường Bá tước xứ Mar, trong đó tuyên bố rằng việc tạo ra bá tước đầu tiên vẫn tồn tại và do người thừa kế thân thể của các bá tước ban đầu nắm giữ.
Một số bá tước xứ Mar đã nổi bật trong lịch sử Scotland. Đặc biệt John Erskine (mất 1572) giữ chức Nhiếp chính Scotland sau khi Mary, Nữ vương Scotland thoái vị, và John Erskine (1675–1732) là một chỉ huy Jacobite trốn sang Pháp. |
Công tước xứ Roxburghe | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824324 | Công tước xứ Roxburghe (tiếng Anh: "Duke of Roxburghe"; ) là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland, được thành lập vào năm 1707 cùng với các tước hiệu Hầu tước xứ Bowmont và Cessford, Bá tước xứ Kelso và Tử tước Broxmouth. John Ker, Bá tước thứ 5 xứ Roxburghe trở thành người đầu tiên nắm giữ những tước hiệu này. Danh hiệu này bắt nguồn từ thị trấn hoàng gia Roxburgh ở Biên giới Scotland mà vào năm 1460, người Scotland đã đánh chiếm.
Bá tước xứ Roxburghe ban đầu được tạo ra vào năm 1616, trước khi được phong làm công tước, một số tước vị phụ khác được giữ: Hầu tước xứ Bowmont và Cessford (thành lập năm 1707), Bá tước xứ Kelso (1707), Bá tước Innes (1837), Tử tước Broxmouth (1707) ), Lãnh chúa Roxburghe (1600), và Lãnh chúa Ker xứ Cessford và Cavertoun (1616). Tất cả các tước hiệu đều là một phần của Đẳng cấp quý tộc Scotland, ngoại trừ Bá tước Innes, thuộc về Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh. Con trai cả của Công tước mang tước hiệu lịch sự là Hầu tước xứ Bowmont và Cessford.
Công tước và các tước vị liên quan của nó được trao cho những người thừa kế, những người sẽ thừa kế Bá tước, do đó có dòng dõi rất cụ thể. Sau cái chết của công tước thứ 4, các tước vị trở nên không hoạt động vì không ai có thể chứng minh được tuyên bố của họ. Năm 1812, Viện quý tộc ra phán quyết có lợi cho Ngài James Innes-Ker, Nam tước thứ 6 xứ Innes (xem Nam tước Innes), bác bỏ các yêu sách của người phụ nữ thừa kế của bá tước thứ hai và người thừa kế nam của bá tước thứ nhất.
Công tước xứ Roxburghe sẽ là Trưởng tộc Innes, nhưng không thể được công nhận vì ông vẫn giữ cái tên Innes-Ker.
Gia đình có trụ sở tại Lâu đài Floors gần Kelso, Scotland. Khu đất có tàn tích của Lâu đài Roxburgh trên một mũi đất giữa sông Tweed và Teviot. Nơi chôn cất truyền thống của các Công tước xứ Roxburghe là Tu viện tưởng niệm Roxburghe (còn được gọi là "Roxburghe Aisle"), một công trình bổ sung từ thế kỷ XX cho tàn tích của Tu viện Kelso. |
Công tước xứ Atholl | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824325 | Công tước xứ Atholl (tiếng Anh: "Duke of Atholl"), được đặt tên theo địa danh Atholl ở Scotland, là một danh hiệu trong Peerage of Scotland do người đứng đầu Thị tộc Murray nắm giữ. Nó được Nữ vương Anne tạo ra vào năm 1703 và trao cho John Murray, Hầu tước thứ 2 xứ Atholl, với phần còn lại đặc biệt dành cho người thừa kế nam của cha ông, Hầu tước thứ nhất.
Tính đến năm 2017, có 12 tước hiệu phụ gắn liền với Công tước xứ Atholl: Lãnh chúa Murray xứ Tullibardine (1604), Lãnh chúa Murray, Gask và Balquhidder (1628), Lãnh chúa Murray, Balvany và Gask (1676), Lãnh chúa Murray, Balvenie và Gask, ở Hạt Perth (1703), Tử tước Balquhidder (1676), Tử tước Balquhidder, Glenalmond và Glenlyon, ở Hạt Perth (1703), Bá tước xứ Atholl (1629), Bá tước xứ Tullibardine (1628), Bá tước xứ Tullibardine ( 1676), Bá tước xứ Strathtay và Strathardle, ở Hạt Perth (1703), Hầu tước xứ Atholl (1676) và Hầu tước xứ Tullibardine, ở Hạt Perth (1703). Những danh hiệu này cũng nằm trong Đẳng cấp quý tộc Scotland. Các công tước trước đây cũng từng giữ các danh hiệu sau: Nam tước Strange (Đẳng cấp quý tộc Anh]] 1628) từ năm 1736 đến 1764 và 1805 đến 1957; Nam tước Murray, của Stanley ở Hạt Gloucester, và Bá tước xứ Strange (Đẳng cấp quý tộc Đại Anh 1786) từ năm 1786 đến 1957, Nam tước Glenlyon, của Glenlyon ở Hạt Perth (Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh 1821) từ năm 1846 đến 1957 và Nam tước Percy (Đẳng cấp quý tộc Đại Anh 1722) từ năm 1865 đến năm 1957. Từ năm 1786 đến năm 1957, Công tước xứ Atholl ngồi trong Viện Quý tộc với tư cách là Bá tước Strange.
Con trai cả và người thừa kế rõ ràng của Công tước sử dụng tước hiệu lịch sự là Hầu tước xứ Tullibardine. Người thừa kế rõ ràng của Lãnh chúa Tullibardine sử dụng tước hiệu lịch sự là Bá tước xứ Strathtay và Strathardle (thường được rút ngắn thành Bá tước xứ Strathtay). Người thừa kế rõ ràng của Lãnh chúa Strathtay sử dụng tước hiệu lịch sự Tử tước Balquhidder. Công tước Atholl là tộc trưởng cha truyền con nối của Thị tộc Murray. |
JR Bus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824326 | JR Bus dùng để chỉ chung hoạt động xe buýt của các công ty thuộc Hãng Đường sắt Nhật Bản (JR Group) tại Nhật Bản. JR Bus được điều hành bởi tám công ty đường sắt khu vực, mỗi công ty thuộc sở hữu của một công ty đường sắt JR. Các công ty xe buýt JR cung cấp dịch vụ xe buýt trong khu vực, đường dài và hợp đồng.
Lịch sử.
bắt đầu vận hành tuyến xe buýt đầu tiên tại tỉnh Aichi vào năm 1930 và sau đó dần dần mở rộng các tuyến xe buýt mới. Đường sắt Quốc gia Nhật Bản (JNR), là công ty đại chúng được thành lập vào năm 1949, đã kế thừa các hoạt động xe buýt, sau đó được gọi là "Kokutetsu Bus" hoặc "JNR Bus". Đến năm 1987, JNR được tách ra thành các công ty đường sắt khu vực cùng với các hoạt động xe buýt. Các công ty JR sau đó đã tách hoạt động xe buýt của họ thành các công ty con vào năm 1988 (JR East, JR Central, JR West), 2000 (JR Hokkaido), 2001 (JR Kyushu) và 2004 (JR Shikoku).
Ví dụ về các phương tiện.
Phương tiện chạy tại tuyến đường cao tốc.
JR Bus Tohoku, JR Bus Kanto, JR Tokai Bus và Chugoku JR Bus có chung một màu sơn dựa trên màu sơn của JNR Bus. |
Công tước xứ Montrose | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824329 | Công tước xứ Montrose (tiếng Anh: "Duke of Montrose") được đặt tên theo địa danh Montrose, Angus, Scotland, là một tước hiệu đã được tạo ra hai lần trong Đẳng cấp quý tộc Scotland. Tước hiệu này được lập lại vào năm 1707, dành cho James Graham, Hầu tước thứ 4 xứ Montrose, chắt của James Graham, Hầu tước thứ nhất xứ Montrose nổi tiếng.[2] Montrose được tôn vinh như một phần thưởng cho sự ủng hộ quan trọng của ông đối với Đạo luật Liên minh 1707. Kể từ đó nó vẫn được Gia tộc Graham nắm giữ, gắn liền với quyền lãnh đạo của Thị tộc Graham.
Các tước hiệu phụ của Công tước là: Hầu tước xứ Montrose (thành lập năm 1644), Hầu tước xứ Graham và Buchanan (1707), Bá tước xứ Montrose (1503), Bá tước xứ Kincardine (1644), Bá tước Graham (1722), Tử tước Dundaff (1707), Lãnh chúa Graham (1445),[3] Lord Graham và Mugdock (1644), Lãnh chúa Aberruthven, Mugdock và Fintrie (1707) và Nam tước Graham, của Belford (1722). Các tước hiệu của Bá tước Graham và Nam tước Graham đều thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh; phần còn lại thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland. Con trai cả của Công tước sử dụng tước hiệu lịch sự là Hầu tước xứ Graham và Buchanan.
Trụ sở của gia đình là Auchmar House, gần Loch Lomond, Stirlingshire. Trước đây nó là Lâu đài Buchanan, gần Drymen, Stirlingshire. |
Thị tộc Douglas | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824335 | Thị tộc Douglas (tiếng Gaelic: "Dùbhghlas"; tiếng Anh: "Clan Douglas") là một thị tộc cổ xưa hoặc gia đình quý tộc đến từ Vùng đất thấp Scotland.
Tên thị tộc được đặt theo địa danh Douglas ở Lanarkshire, các nhà lãnh đạo của họ đã giành được những lãnh thổ rộng lớn trên khắp Biên giới, Angus, Lothian, Moray, cũng như ở Pháp và Thụy Điển. Gia tộc này là một trong những gia đình quyền quý nhất ở Vương quốc Anh và đã nắm giữ nhiều tước vị.
Douglas là một trong những gia tộc quyền lực nhất Scotland, và chắc chắn là gia tộc nổi bật nhất ở vùng đất thấp Scotland trong thời kỳ Hậu kỳ Trung Cổ, thường nắm giữ quyền lực thực sự đằng sau ngai vàng của các vị vua Stewart. Những người đứng đầu Nhà Douglas giữ tước hiệu Bá tước xứ Douglas (Douglas đen) và sau đó là Bá tước xứ Angus (Douglas đỏ). Gia tộc hiện không có tộc trưởng được Lãnh chúa Lyon công nhận. Người đứng đầu Douglas ngày nay là Công tước xứ Hamilton, nhưng họ của ông là "Douglas-Hamilton" chứ không chỉ đơn giản là "Douglas", luật pháp của Triều đình Lyon ngăn cản ông đảm nhận chức vụ thủ lĩnh với cái tên này.
Trụ sở ban đầu của gia đình là Lâu đài Douglas ở Lanarkshire. Kirk của St Bride ở Douglas, cùng với Tu viện Melrose và Tu viện Saint-Germain-des-Prés lưu giữ hài cốt của nhiều Bá tước xứ Douglas và Angus.
Chi nhánh Thụy Điển là hậu duệ của Thống chế Robert Douglas, Bá tước xứ Skenninge, và là một trong những gia đình quý tộc nổi bật nhất Thụy Điển kể từ thế kỷ XVII. |
Sarmaturbo | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824337 | Sarmaturbo là một chi ốc biển đã tuyệt chủng, thuộc họ Turbinidae.
Các loài.
Các loài ốc biển trong chi "Sarmaturbo" bao gồm: |
Sarmaturbo superbus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824338 | Sarmaturbo superbus là một loài ốc biển đã tuyệt chủng, thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài này được ghi nhận từng xuất hiện ở cùng biển New Zealand. |
Sarmaturbo colini | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824339 | Sarmaturbo colini là một loài ốc biển đã tuyệt chủng, thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài này được ghi nhận từng xuất hiện ở vùng biển New Zealand. |
Shivaji Satam | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824346 | Shivaji Satam (sinh ngày 21 tháng 4 năm 1950 tại Bombay, Ấn Độ) là một nam diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ. Ông được biết đến qua vai diễn Thanh tra trưởng Pradyuman trong loạt phim "Đội đặc nhiệm CID" của hãng SET India. Trước khi trở thành diễn viên, ông từng là một cán bộ ngân hàng và một sĩ quan cảnh sát. Trong sự nghiệp diễn xuất, ông tham gia các bộ phim bằng Tiếng Hindi và Marathi, bao gồm "Vaastav", "Ghulam-E-Mustafa", "Yeshwant", "China Gate", "Taxi No. 9211", "Nayak", "Jis Desh Me Ganga Reheta Hai", "Sooryavansham", "Hu Tu Tu". Còn trong các bộ phim bằng tiếng Marathi, ông được biết đến qua bộ phim "Uttarayan".
Ông được đề cử tại hạng mục nam diễn viên xuất sắc nhất tại tại giải thưởng Star Screen cho bộ phim "Ghulam-E-Mustafa".
Tiểu sử và sự nghiệp.
Shivaji Satam sinh ngày 21 tháng 4 năm 1950 tại Bombay, Ấn Độ. Ông từng tốt nghiệp ngành Hóa học tài Trường Đại học Mumbai, và cũng đã hoàn thành chương trình Cao đẳng Quản trị Kinh doanh. Ông từng là một cán bộ ngân hàng và sĩ quan cảnh sát trước khi tham gia vào ngành công nghiệp điện ảnh. Trong sự nghiệp diễn xuất, ông có vai diễn đầu tay trong loạt phim truyền hình "Rishte-Naate" vào năm 1980. Ông từng đóng một vai diễn trong một chương trình truyền hình bằng tiếng Marathi mang tên "Ek Shunya Shunya". Sau đó, ông xuất hiện trong một số bộ phim truyền hình dài tập và điện ảnh, cho đến khi ông nổi tiếng qua vai diễn Thanh tra trưởng Pradyuman trong loạt phim truyền hình nổi tiếng "Đội đặc nhiệm CID", phát sóng trong 20 năm từ năm 1998 đến năm 2018, đã giúp ông giành cú đúp giải thưởng "Nam diễn viên chính xuất sắc" tại Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ vào các năm 2002 và 2003.
Đời tư.
Ông từng kết hôn với Aruna Satam vào khoảng trước năm 2000 cho đến khi bà qua đời vào năm 2002 vì căn bệnh ung thư vú. Ông đã có 1 người con trai là diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và doanh nhân Abhijeet Satam, người đã từng xuất hiện cùng ông trong một số tập của "Đội đặc nhiệm CID", con dâu của ông là nữ diễn viên Madhura Velankar. |
Juan de Zubileta | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824347 | Juan de Zubileta là một thành viên trong đoàn thám hiểm vòng quanh thế giới của Fernão de Magalhães, bắt đầu ở Seville vào ngày 10 tháng 8 năm 1519. Ông đến từ Barakaldo, là một trong 18 người đàn ông đã hoàn thành chuyến thám hiểm, đến được Sanlúcar de Barrameda vào ngày 6 tháng 9 năm 1522, trên con tàu "Victoria", cùng với 17 người sống sót khác. |
Nếu đi hết biển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824353 | Nếu đi hết biển là một cuốn sách của đạo diễn Trần Văn Thủy, xuất bản lần đầu năm 2003. Sách là tập hợp những bài phỏng vấn của tác giả với các tri thức Việt Nam tại hải ngoại. Thời điểm mới ra mắt, tác phẩm đã vấp phải nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt tại Mỹ. Sách tiếp tục tái bản sau đó vào năm 2004.
Miêu tả.
Cuốn sách đi sâu vào tìm hiểu những khía cạnh tinh thần, câu hỏi về lịch sử sau Chiến tranh Việt Nam thông qua việc phỏng vấn các nhà văn, tri thức đã sang Mỹ từ sau năm 1975, gồm Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Hoàng Khởi Phong, Wayne Karlin cùng hai nhận vật nữa mang tên Tuyết và Chris. Những câu chuyện từ chính tác giả về những phát hiện, suy ngẫm cũng được đưa vào sách trong những chương đầu tiên.
Phát triển, xuất bản.
Từ khoảng năm 2001–2002, Trần Văn Thủy đã được William Joiner Center (WJC) thuộc mời sang làm nghiên cứu sinh đợt ba của chương trình "Nghiên cứu về cộng đồng người Việt" dưới sự tài trợ của Quỹ Rockefeller. Lần đầu tiên nhận được sự động viên của bạn bè, ông đã từ chối. Đến lần tiếp theo vào khoảng tháng 8 cùng năm, đạo diễn cuối cùng đã chấp nhận rồi sang Mỹ trong 6 tháng từ tháng 10 năm 2002 đến tháng 4 năm 2003 để thực hiện công trình nghiên cứu. Đây là dự án thứ hai của ông đi tìm hiểu về cộng đồng người Việt hải ngoại, sau hai tập phim video trước đó "Thầy mù xem voi", cũng là những cuộc phỏng vấn với tri thức người Việt Nam tại châu Âu.
Trong quá trình làm việc, đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ động lực để ông hoàn thành công trình này là bởi sự ám ảnh về những thân phận phải tha hương sau 1975. Khi mới viết được khoảng 40–60 trang đầu, ông đã bị "khựng lại hoàn toàn". Sau đó, Trần Văn Thủy quyết định chuyển hướng tiếp cận đề tài từ góc nhìn cá nhân sang phỏng vấn các tri thức, bạn bè ở hải ngoại của ông. Một câu chuyện của người phụ nữ Việt Nam viết khi đang sống tại Mỹ từ 1968 cũng được đưa vào, kể lại câu chuyện riêng bên lề cuộc chiến. Để tránh gặp phải rắc rối, ông đã thuật lại "y như bản chính" những nội dung đã ghi lại. |
Nếu đi hết biển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824353 | Sau khi hoàn thành xong việc nghiên cứu dài trên 200 trang, hai tuần trước khi về nước, Trần Văn Thủy đã gặp nhà văn Nguyên Ngọc và đưa cho ông bản thảo để đọc thử. Nguyên Ngọc thời điểm đọc xong đã hối thúc Trần Văn Thủy mau chóng in công trình nghiên cứu thành sách vì cho rằng nó "rất cần và có ích". Đây là lý do cho sự ra đời của quyển sách sau đó, được đạo diễn đặt tên là "Nếu đi hết biển".
Sách, với độ dài khoảng 193 trang, đã xuất bản tại Mỹ do Nhà xuất bản Thời Văn ấn hành vào tháng 12 năm 2003. "Nếu đi hết biển" phát hành với tư cách là tư liệu chính thức của chương trình nghiên cứu về cộng đồng người Việt hải ngoại của WJC. Tại lời giới thiệu tập sách, giám đốc trung tâm Kevin Bowen đã công nhận sự quan trọng của tập phỏng vấn khi xem đây là "thử nghiệm đầu tiên nỗ lực tìm tòi để khôi phục một ngôn ngữ chung của người Việt, những người đã còn tồn tại sau một loạt những cuộc chiến tranh do ngoại bang áp đặt [...] để lại cho họ một dân tộc cuốn lốc trong những bong bóng của chân lý và những điều giả dối".
Tiếp nhận.
Thời điểm ra mắt, cuốn sách đã gây nên những tranh cãi đặc biệt, có lúc gay gắt trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Nhưng theo Trần Văn Thủy, cuốn sách vẫn được nhiều người tìm mua và bán hết sách, sau đó tiếp tục tái bản lần hai năm 2004. Nhiều tiếng nói trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, đa số người là tị nạn chính trị và theo chủ nghĩa chống cộng, đã phê phán cuốn sách theo hướng nặng nề. Không chỉ tác giả bị chỉ trích mà cả những nhân vật tham gia phỏng vấn trong sách cũng vướng vào những lời tấn công, quy chụp từ nhiều phía. Cá biệt tác giả Trần Nghi Hoàng đã viết hẳn một cuốn sách xuất bản năm 2004 với tựa đề "Trần Văn Thủy: Chuyện không tử tế" để phản bác toàn bộ công trình và chỉ trích đạo diễn. Những ý kiến cáo buộc này đều cho rằng sách phát hành có chủ đích trong hoàn cảnh một nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đang được triển khai tại cộng đồng người Việt hải ngoại, cùng với đó là việc hầu hết nhân vật được phỏng vấn trong sách là những người tị nạn cộng sản. |
Nếu đi hết biển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824353 | Viết trong một bài phê bình dài đăng trên báo năm 2005, nhà báo Đinh Từ Thức nhận xét cuốn sách là "một cố gắng vận động hòa giải", nhưng vấn đề đặt ra và đề cập đến đã "cho thấy cố gắng này khó thành công [...] hướng dẫn người đọc hiểu không đúng về vấn đề hòa giải". Trong đó, ngoài dành lời khen cho một số khía cạnh của sách, ông đã chỉ ra những sai lầm trong nhận định của Trần Văn Thủy về chính quyền Việt Nam sau 1975 và tính dân tộc Việt. Tác giả cũng phân tích quan điểm của một số nhà văn được phỏng vấn trong tác phẩm để liên hệ cũng như làm rõ các vấn đề hòa giải dân tộc Việt Nam và căn nguyên của sự xung đột bắt nguồn từ tầng lớp chính trị thay vì người dân hai miền.
Trong chính quyền Việt Nam, cuốn sách đã không được chấp nhận và phổ biến trong nước. Từng có nhà xuất bản tại Việt Nam muốn in sách nhưng Trần Văn Thủy yêu cầu phải giữ "đúng từng dấu chấm, dấu phẩy". Tuy nhiên, những trích đoạn trong truyện vẫn được các tờ báo tại Việt Nam trích dẫn và sử dụng thường xuyên. Trong cuốn sách "Chuyện nghề của Thủy" hoàn thành 10 năm sau đó, một số chương của "Nếu đi hết biển" cũng đã được Trần Văn Thủy đưa vào sách để giới thiệu bạn đọc Việt Nam trong nước.
Tiêu đề của quyển sách từng được chương trình "Ngày trở về" của Đài Truyền hình Việt Nam lấy làm tiêu đề cho một chủ đề phát sóng năm 2014. Chương trình này do Tạ Quỳnh Tư đạo diễn, đã đoạt giải B giải Báo chí Quốc gia lần thứ VIII năm 2013. |
Động đất Guayas 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824354 | Động đất Guayas 2023 () là trận động đất xảy ra vào lúc 12:12 (), ngày 18 tháng 3 năm 2023. Trận động đất có cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 65,8 km. Hậu quả trận động đất đã làm 18 người chết, 496 người bị thương. |
Đảng Ummah | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824358 | Đảng Ummah () là một đảng chính trị của Indonesia. Việc thành lập đảng được thông báo vào ngày 1 tháng 10 năm 2020 và tuyên bố vào ngày 29 tháng 4 năm 2021.
Đảng được thành lập bởi cựu Chủ tịch Ban Cố vấn của Đảng Ủy nhiệm Dân tộc, Amien Rais. Amien, một người theo chủ nghĩa hiện đại Hồi giáo chuyển sang bảo thủ Hồi giáo, trở thành Chủ tịch sau sự rạn nứt nội bộ trong đảng về việc ủng hộ chính quyền của Joko Widodo. |
Concerto cho piano số 6 (Mozart) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824359 | Concerto cho piano số 6 cung Si giáng trưởng, K. 238 là một tác phẩm được sáng tác bởi Wolfgang Amadeus Mozart vào tháng 1 năm 1776. Bản Concerto số 7 (K. 242) cho ba đàn piano và bản Concerto số 8 (K. 246) cung Đô trưởng của anh ấy sẽ ra mắt trong vòng ba tháng. Ba tác phẩm đã thể hiện những gì Cuthbert Girdlestone gọi là phong cách âm nhạc galant.
Cấu trúc.
Tác phẩm được viết theo cấu trúc 3 chương:
Tác phẩm được sáng tác cho hai sáo flute, hai kèn oboe, hai kèn cor, piano độc tấu và dàn nhac dây. Đây là một tác phẩm có cấu trúc đơn giản từ thời kỳ đầu trong sự nghiệp của Mozart. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ hiện đang nắm giữ bản viết tay của tác phẩm. Mozart đã có ý định xuất bản tác phẩm sau khi ông viết nó, nhưng cuối cùng bản concerto không được in ra cho đến năm 1793, sau khi ông qua đời. Tuy nhiên, ông đã từng biểu diễn tác phẩm ở Munich vào năm 1777, và ở Augsburg vào ngày 22 tháng 10 năm 1777. Học trò của ông là Rose Cannabich đã biểu diễn tác phẩm ở Mannheim vào ngày 13 tháng 2 năm 1778. Angela Hewitt cho rằng buổi công diễn đầu tiên của tác phẩm có lẽ là đánh ở đàn harpsichord chứ không phải đàn fortepiano.
Âm nhạc.
Chương đầu tiên được viết ở hình thức sonata,với tốc độ là "Allegro aperto". "Aperto" theo nghĩa đen có nghĩa là "mở", một thuộc tính thường được sử dụng trong các bản concerto đầu tiên của Mozart, và mặc dù chưa rõ ý nghĩa chính xác mà Mozart dự định, nhưng nó truyền tải "sự rạng rỡ và vui tươi", như nghệ sĩ piano Angela Hewitt nhấn mạnh. Phần phát triển mang một tập hợp âm rải ở âm giai thứ tự nhiên và các quãng tám rời trong đàn piano, tương phản với "những quãng âm rầu rĩ" của kèn oboe. Chính trong quá trình phát triển, và chỉ ở đó, Girdlestone cho rằng chương nhạc "cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về Mozart thực sự", vì phần tái hiện thể hiện "tính khí tốt bụng, quý phái" khi mở đầu chương. Mozart còn viết một đoạn cadenza ngắn ở cuối bài.
Chương thứ hai viết ở cung Mi giáng trưởng và mang nhịp "Andante un poco adagio". Ông đã cho hai sáo flute thay thế cho oboe của chương đầu tiên. Âm nhạc mang tính chất đơn giản và nhẹ nhàng. Hewitt tìm thấy các yếu tố của chương này trong Concerto số 21, K. |
Concerto cho piano số 6 (Mozart) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824359 | 467: "áp dụng phần đệm chùm ba, đàn dây giảm âm và âm trầm pizzicato". Bà nhấn mạnh "tác dụng tuyệt vời của chiaroscuro" bằng cách chuyển đổi giữa giọng trưởng và giọng thứ, một kỹ thuật sáng tác được áp dụng trong nhiều tác phẩm sau này của Mozart.
Trong chương cuối cùng mang hình thức Rondeau, kèn oboe quay trở lại thay thế flute, nhưng kèn cor lại có sự nổi bật hơn. Hewitt thuật lại rằng Mozart đã từng nhờ chị gái nhắc nhở bản thân "hãy giao cho những chiếc kèn trong dàn nhạc một việc gì đó đáng làm". Kèn cor đã góp phần tạo nên tính chất giống như một điệu khiêu vũ của chương nhạc này. Một chủ đề mang giọng Sol thứ được gọi là "một trang thực sự điêu luyện của bản concerto, đòi hỏi một số thao tác ngón tay theo phong cách Baroque rất nhanh nhẹn". Mozart đã viết một đoạn cadenza ngắn khác, với những đoạn nghỉ mà nghệ sĩ độc tấu vẫn phải ứng biến. |
Ống khói | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824361 | Ống khói là cấu trúc dẫn đường được thiết kế để loại bỏ khí thải từ các thiết bị sinh nhiệt như lò sưởi, lò nung và máy nước nóng ra khỏi không gian sống. Tại Hoa Kỳ, chúng thường được gọi là "lỗ thông hơi" khi áp dụng cho nồi hơi và "ống lót" khi liên quan đến lò nung hiện đại và máy nước nóng. Để đảm bảo sự di chuyển hiệu quả của khí thải, chúng thường sử dụng hiệu ứng ngăn xếp hoặc lực nổi, và có thể được hỗ trợ bởi quạt. Vì khí thải thường chứa các chất nguy hiểm, quá trình này yêu cầu sự tuần hoàn và thay thế không khí tốt. Các tiêu chuẩn và mã xây dựng đề ra yêu cầu về vật liệu và thiết kế của ống khói.
Các loại ống khói.
Các loại ống khói bao gồm: |
Trần Nguyên Minh Thư | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824365 | Trần Nguyên Minh Thư(sinh ngày 10 tháng 07 năm 2001 tại Quảng Trị) là một hoa hậu người Việt Nam. Cô đã giành được ngôi vị Á Hậu 3 trong cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Việt Nam 2022 và đăng quang Hoa hậu Du lịch Đà Nẵng 2022.
Tiểu sử.
Minh Thư sinh năm 2001 tại Quảng Trị, hiện đang sinh sống, học tập và làm việc tại Đà Nẵng. Cô tốt nghiệp khoa Du Lịch tại trường Đại học kinh tế Đà Nẵng.
Sự nghiệp.
Hoa hậu Du lịch Đà Nẵng 2022.
Tối ngày 5/3, tại Nhà hát Trưng Vương, tại vòng chung kết cuộc thi Hoa hậu Du lịch Đà Nẵng năm 2022 với chủ đề “Hương sắc Sông Hàn” đã chính thức khép lại và cô đã chính thức đăng quang ngôi vị cao nhất.
Hoa hậu Hòa bình Việt Nam 2022.
Cô tham dự và xuất sắc đạt ngôi vị Á Hậu 3 chung cuộc. |
Acid magic | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824366 | Acid magic (FSO3H·SbF5) là một siêu acid bao gồm hỗn hợp, phổ biến nhất là theo tỷ lệ mol 1:1, của acid fluorosulfuric (HSO3F) và antimon pentafluoride (SbF5). Hệ siêu acid kết hợp Brønsted–Lewis này được phát triển vào những năm 1960 bởi phòng thí nghiệm George Olah tại Đại học Case Western Reserve, và đã được sử dụng để ổn định các carbocation và các ion carboni siêu phối hợp trong môi trường chất lỏng. Acid magic và các siêu acid khác cũng được sử dụng để xúc tác quá trình đồng phân hóa của hydrocarbon bão hòa, và đã được chứng minh là có khả năng proton hóa ngay cả các base yếu, bao gồm methan, xenon, halogen và hydro phân tử.
Lịch sử.
Thuật ngữ "siêu acid" được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1927 khi James Bryant Conant phát hiện ra rằng acid perchloric có thể proton hóa keton và aldehyde để tạo thành muối trong dung dịch không chứa nước. Bản thân thuật ngữ này được Ronald Gillespie đặt ra sau đó, sau khi Conant kết hợp acid sulfuric với acid fluorosulfuric, và tìm ra dung dịch có tính acid cao hơn vài triệu lần so với chỉ riêng acid sulfuric. Gillespie cũng sử dụng hệ acid để tạo ra các cation vô cơ.
Hệ acid magic được phát triển vào những năm 1960 bởi George Andrew Olah và được sử dụng để nghiên cứu các carbocation ổn định. Tên của acid magic bắt nguồn từ một bữa tiệc Giáng Sinh năm 1966, khi một thành viên của phòng thí nghiệm Olah đặt một cây nến parafin vào acid và nhận thấy rằng nó hòa tan khá nhanh. Kiểm tra dung dịch với 1H-NMR cho thấy một cation "tert"-butyl, điều đó cho thấy chuỗi parafin tạo thành sáp đã bị tách ra, sau đó được đồng phân hóa thành carbocation bậc ba tương đối ổn định. Cái tên này sau đó xuất hiện trong một bài báo do phòng thí nghiệm Olah xuất bản. |
Yếu tố tăng trưởng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824383 | Yếu tố tăng trưởng (tiếng Anh: "Growth factor") là các chất tự nhiên (thường là các protein được tiết ra hoặc các hormone steroid) có khả năng kích thích quá trình phân chia tế bào, chữa lành vết thương và biệt hóa tế bào, giữ vai trò quan trọng trong điều chỉnh các quá trình tế bào.
Các yếu tố tăng trưởng hoạt động một cách đặc hiệu như các phân tử tín hiệu giữa các tế bào và trong các quá trình biệt hóa tế bào. Ví dụ yếu tố tăng trưởng biểu bì ("epidermal growth factor") tăng cường quá trình biệt hóa tạo xương, trong khi yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi ("fibroblast growth factor") và yếu tố tăng trưởng nội mạch ("vascular endothelial growth factor") kích thích quá trình tân sinh mạch.
Lịch sử.
Nghiên cứu về các yếu tố tăng trưởng bắt nguồn từ những cố gắng trong nuôi cấy tế bào động vật "in vitro". Thuật ngữ "factors" chỉ ra các yếu tố hiện diện trong huyết thanh động vật giúp duy trì các dòng tế bào nuôi cấy. Đầu những năm 1950, tại lab của giáo sư phôi học Viktor Hamburger, trường Đại học Washington (St. Louis), tiến sĩ Levi-Montalcini đã nghiên cứu về một hiện tượng sinh học chưa thể giải thích liên quan đến sự phát triển thần kinh ở phôi gà. Bà phát hiện rằng nếu cấy ghép một dòng tế bào ung thư bất kỳ ở đâu trên phôi đang phát triển thì các sợi thần kinh sẽ phát triển rất nhanh, thậm chí cấy ghép khối u ở nơi không gần với sợi thần kinh, chúng vẫn phát triển nhanh hơn so với phôi bình thường. Sau đó, bà đã phát triển một hệ thống nuôi cấy mô đặc biệt, đặt khối u gần hạch cảm giác ("sensory ganglion") và chỉ sau một ngày nuôi cấy, các sợi thần kinh đã kéo dài về phía khối u. Năm 1952, bà kết luận rằng phải có một loại chất sinh học nào đó được giải phóng từ các tế bào khối u này có khả năng kích thích sự phát triển của sợi thần kinh từ xa. Nhưng bà không phải là một nhà hóa sinh, để tìm hiểu về chất sinh học này, bà đã nhờ đến sự giúp đỡ của tiến sĩ Stanley Cohen (Đại học Washington tại St. Louis, Bộ môn Động vật học).
Bằng các phương pháp hóa sinh, Stantey cho rằng chất sinh học này là một protein vì những đặc tính không thể thẩm tách, bị ảnh hưởng bởi nhiệt và bất hoạt bởi protease. |
Yếu tố tăng trưởng | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824383 | Tuy nhiên, để đảm bảo rằng những hiệu ứng này không phải được tạo ra từ một loài virus nào đó, ông đã tìm đến phosphodiesterase được tinh chế từ nọc rắn. Khi các tế bào khối u được xử lý với phosphodiesterase nọc rắn, hạch thần kinh phát triển nhanh gấp nhiều lần so với dịch chiết từ tế bào khối u không qua xử lý và kỳ lạ hơn, sự phát triển nhanh tương tự của hạch thần kinh cũng được quan sát thấy khi chỉ nuôi chung với phosphodiesterase nọc rắn. Điều này cho thấy, trong dịch chiết nọc rắn có một protein khác gây nên hiệu ứng này. Sau khi phân lập protein này từ nọc rắn, năm 1957, Levi-Montalcini đã tiêm nó vào túi noãn hoàng ("yolk sac") của một phôi thai đang phát triển và quan sát thấy hiệu ứng tương tự như tế bào khối u. Họ đã đặt tên cho protein mới này là "Nerve Growth Factor" (Yếu tố tăng trưởng thần kinh). Tiếp tục hợp tác thông qua nhiều nghiên cứu, họ đã phát hiện yếu tố tăng trưởng biểu bì, một yếu tố tăng trưởng thiết yếu kích thích sự tăng sinh tế bào biểu bì. Năm 1986, Levi-Montalcini và Stanley Cohen đã vinh dự đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa cho công trình phát hiện ra yếu tố tăng trưởng thần kinh.
Danh sách các yếu tố tăng trưởng.
Các yếu tố tăng trưởng được phân loại dựa vào sự tương quan về cấu trúc và tiến hóa của các nhóm protein.
Yếu tố tăng trưởng ở tiểu cầu.
Ở tiểu cầu, các hạt alpha chứa các yếu tố tăng trưởng như PDGF, IGF-1, EGF và TGF-β giữ vai trò quan trọng trong quá trình lành vết thương thông qua việc triệu tập và kích thích các đại thực bào, nguyên bào sợi và tế bào nội mô.
Ứng dụng trong y tế.
Trong hai thập kỷ gần đây, các yếu tố tăng trưởng đã được áp dụng trong trị liệu các bệnh về máu, ung thư và tim mạch như sau: |
Tiếng Sami Inari | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824399 | Tiếng Sami Inari (tiếng Inari Sami: "anarâškielâ", "tiếng Inari" hoặc "aanaarsämikielâ", "tiếng Sami Inari") là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Sami và là tiếng nói của người Sami Inari. Hiện tại có xấp xỉ 300 người nói ngôn ngữ này, phần lớn trong số đó là người từ độ trung niên đến cao tuổi và sống tại huyện Inari, Phần Lan. Trong cuộc bầu cử Nghị viện Sami Phần Lan năm 2003, có 269 cử tri hợp lệ coi tiếng Sami Inari là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Tuy được xếp loại là ngôn ngữ bị đe doạ nghiêm trọng, hiện nay có ngày càng nhiều trẻ em được học tiếng Sami Inari trong các lớp thẩm thấu ngôn ngữ (, ). Nhờ các biện pháp bảo tồn và phục hồi đối với ngôn ngữ này nên đến cuối năm 2018, số người nói tiếng Sami Inari đã tăng lên thành 400 người. Hiện nay, một số nhỏ người dân tộc Sami Inari không dùng tiếng mẹ đẻ, tuy nhiên do cơ hội học tập tiếng Sami Inari ngày càng được mở rộng, cho nên ngày càng có nhiều người Sami Inari học và nói tiếng mẹ đẻ của mình trong đời sống hằng ngày (kể cả những người đã quên tiếng Sami Inari). Tiếng Sami Inari được xếp vào nhóm ngôn ngữ Sami Đông, với hình thái học liên quan đến danh từ và động từ rất phức tạp và tận dụng nhiều cách biến đổi nguyên âm và phụ âm.
Những cuốn sách đầu tiên trong tiếng Sami Inari được dịch bởi Edvard Wilhelm Borg vào năm 1859, với chủ đề giáo lý vấn đáp và ghép vần trong bảng chữ cái. Ngôn ngữ trang trọng dùng trong sách báo được chuẩn hoá dưới sự điều phối của mục sư Lauri Itkonen. Từ năm 1979, tiếng Sami Inari được giảng dạy tại một số trường tiểu học. Nhà ngôn ngữ học Erkki Itkonen là tác giả của bộ từ điển thuật ngữ khoa học gồm bốn quyển bằng tiếng Inari Sami; bên cạnh đó còn có bộ từ điển Phần Lan – Inari Sami thông dụng của giáo sư Pekka Sammallahti.
Phân bố theo địa lý.
Tiếng Sami Inari là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của huyện Inari, bên cạnh tiếng Phần Lan, tiếng Sami Skolt và tiếng Sami Bắc, và được sử dụng chủ yếu tại các thôn nằm bên bờ hồ Inari (tên các làng bằng tiếng Sami Inari được viết bên trong dấu ngoặc tròn):
Hệ thống chữ viết.
Tiếng Inari Sami được viết bằng chữ Latinh . |
Tiếng Sami Inari | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824399 | Tiếng Inari Sami được viết bằng chữ Latinh . Bảng chữ cái Latinh cho tiếng Inari Sami (chuẩn hoá vào năm 1996) được trình bày dưới đây với mỗi chữ cái đi kèm với phiên âm IPA tương ứng. |
Khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824409 | Trong 5 ngày của tháng 3 năm 2023, ba ngân hàng vừa và nhỏ của Hoa Kỳ lần lượt phá sản, khiến giá cổ phiếu ngân hàng toàn cầu sụt giảm mạnh và buộc các cơ quan quản lý phải phản ứng nhanh chóng để ngăn chặn khả năng lan rộng toàn cầu. Silicon Valley Bank (SVB) sụp đổ do một đợt đột biến rút tiền gửi bùng nổ sau khi ngân hàng này bán trái phiếu kho bạc của mình với mức lỗ lớn, khiến người gửi tiền lo ngại về vấn đề thanh khoản của ngân hàng. Trái phiếu đã mất giá đáng kể do lãi suất thị trường tăng sau khi ngân hàng chuyển hạng mục đầu tư sang trái phiếu có kỳ hạn dài hơn. Khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các công ty công nghệ và những cá nhân giàu có nắm giữ số tiền gửi lớn, nhưng số dư vượt quá 250.000 USD thì không được Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) cung cấp bảo hiểm. Silvergate Bank và Signature Bank, hai ngân hàng đều có mức độ hoạt động đáng kể với tiền mã hóa, đã phá sản trong bối cảnh hỗn loạn thị trường lúc bấy giờ.
Để đối phó với sự sụp đổ của các ngân hàng, ba cơ quan quản lý ngân hàng liên bang lớn của Hoa Kỳ đã tuyên bố trong một thông cáo chung rằng các biện pháp đặc biệt sẽ được thực hiện để đảm bảo rằng tất cả các khoản tiền gửi tại Silicon Valley Bank và Signature Bank sẽ được bảo hộ. Cục Dự trữ Liên bang đã thành lập Chương trình Tài trợ Ngân hàng Có kỳ hạn ("Bank Term Funding Program", BTFP) để cung cấp các khoản vay lên tới một năm cho các tổ chức lưu ký đủ điều kiện sử dụng tài sản đủ điều kiện làm tài sản thế chấp.
Để ngăn chặn tình trạng này ảnh hưởng đến nhiều ngân hàng hơn, các cơ quan quản lý tài chính toàn cầu, bao gồm Cục Dự trữ Liên bang, Ngân hàng Canada, Ngân hàng Anh, Ngân hàng Nhật Bản, Ngân hàng Trung ương Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ, đã can thiệp để cung cấp thanh khoản đặc biệt.
Đến ngày 16 tháng 3, các dòng vốn lớn liên ngân hàng đã xuất hiện để củng cố bảng cân đối ngân hàng và một số nhà phân tích cho rằng khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ có thể lan rộng hơn nữa. Cơ sở thanh khoản trong "cửa sổ chiết khấu" của Cục Dự trữ Liên bang đã phải vay khoảng 150 tỷ USD từ nhiều ngân hàng khác nhau tính đến ngày 16 tháng 3. |
Khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824409 | Ngay sau khi SVB rơi vào khủng hoảng, người gửi tiền đã nhanh chóng bắt đầu rút tiền mặt ở First Republic Bank (FRB) có trụ sở tại San Francisco, nơi tập trung vào nhóm ngân hàng tư nhân dành cho nhóm khách hàng giàu có. Giống như SVB, FRB có số tiền gửi không được bảo hiểm đáng kể vượt quá 250.000 USD. Những khoản tiền gửi này chiếm 68% tổng số tiền gửi tại ngân hàng vào cuối năm 2022, và đã giảm xuống còn 27% vào cuối tháng 3, do 100 tỷ USD tiền gửi không được bảo hiểm đã bị rút. Mặc dù được một nhóm ngân hàng lớn bơm vốn 30 tỷ USD vào tháng 3, FRB vẫn tiếp tục mất ổn định và giá cổ phiếu của nó lao dốc khi FDIC chuẩn bị tiếp quản nó và tìm người mua vào ngày 29 tháng 4. Ngày 1 tháng 5, FDIC thông báo rằng First Republic đã bị đóng cửa và bán cho JPMorgan Chase. |
Conradia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824410 | Conradia là một chi ốc biển rất nhỏ thuộc họ Conradiidae.
Các loài.
Các loài trong chi "Conradia" bao gồm: |
Khoa Các khoa học liên ngành | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824414 | Khoa Các khoa học liên ngành - Đại học Quốc gia Hà Nội (tiếng Anh: "VNU School of Interdisciplinary Studies") là một đơn vị thành viên thuộc mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội, được thành lập ngày 20 tháng 5 năm 2002 theo quyết định của Giám đốc ĐHQGHN với tên gọi khoa sau đại học. Nhiệm vụ trọng tâm của Khoa là thực hiện những chương trình đào tạo đại học, sau đại học mới, có tính liên ngành, liên lĩnh vực. Ngày 25 tháng 1 năm 2017 khoa được chính thức đổi tên thành Khoa Các khoa học liên ngành. |
Crossea | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824416 | Crossea là một chi ốc biển rất nhỏ thuộc họ Conradiidae.
Phân bổ.
Các loài trong chi này phân bố ở ngoài khơi Vịnh Oman, Nhật Bản, New Zealand, Nam Phi, các lãnh thổ Úc như New South Wales, Northern Territory, Queensland, South Australia, Tasmania, Victoria.
Các loài.
Các loài trong chi "Crossea" bao gồm: |
Crossolida | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824422 | Crossolida là một chi ốc biển rất nhỏ thuộc họ Conradiidae. |
Y học chuyển dịch | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824429 | Y học chuyển dịch ("translational medicine"), cũng được gọi là khoa học chuyển dịch ("translational science"), theo Hội đồng Y học Chuyển dịch Châu Âu (EUSTM), là một nhánh đa chuyên ngành thuộc lĩnh vực y sinh được hỗ trợ bởi ba trụ cột chính: bàn thí nghiệm ("benchside"), giường bệnh ("bedside") và cộng đồng ("community"). Mục đích của y học chuyển dịch là nhằm kết hợp các ngành học, nguồn tài nguyên, chuyên môn và kỹ thuật trong các trụ cột này để thúc đẩy sự cải tiến trong phòng ngừa, chẩn đoán và trị liệu. Y học chuyển dịch phát triển các ứng dụng thực hành lâm sàng từ các khía cạnh của khoa học cơ bản trong khoa học y sinh, nghĩa là chuyển dịch các nghiên cứu từ khoa học cơ bản sang khoa học ứng dụng trong thực hành y tế. Theo đó, y học chuyển dịch là một lĩnh vực đa ngành cao cấp với mục tiêu chính là hợp nhất các nghiên cứu khác nhau trong các trụ cột riêng lẻ nhằm cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu một cách đáng kể.
Lịch sử.
Y học chuyển dịch là một lĩnh vực đang phát triển nhanh chóng trong nghiên cứu y sinh, đẩy nhanh quá trình khám phá công cụ chẩn đoán và phương pháp điều trị mới bằng cách sử dụng một phương pháp tiếp cận đa ngành, hợp tác mạnh mẽ, tiếp cận từ "bàn thí nghiệm đến giường bệnh" ("benchside-to-bedside"). Trong lĩnh vực y tế cộng đồng, y học chuyển dịch tập trung vào việc đảm bảo các chiến lược phòng bệnh và điều trị (đã được chứng minh) được triển khai trong cộng đồng. |
Uvanilla buschii | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824442 | Uvanilla buschii là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Vỏ của loài này đạt kích thước từ 17 mm đến 60 mm.
Phân bổ.
Loài này phân bố ở Thái Bình Dương từ México tới Peru . |
Bộ Giáo dục (Hàn Quốc) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824448 | Bộ Giáo dục Hàn Quốc (MOE; ) là một cơ quan cấp nội các của chính phủ Hàn Quốc. Nó được thành lập vào ngày 23 tháng 3 năm 2013. Không nên nhầm lẫn nó với 17 Văn phòng Giáo dục khu vực có người đứng đầu, các Giám đốc, được bầu trực tiếp trong các cuộc bầu cử địa phương.
Trụ sở chính của nó nằm trong Khu liên hợp chính quyền khu vực Sejong ở Thành phố Sejong. Trước đây nó được đặt tại Khu liên hợp chính quyền trung ương ở Jongno-gu, Seoul. |
Bộ Đại dương và Thủy sản (Hàn Quốc) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824452 | Bộ Đại dương và Thủy sản (MOF; ), là một tổ chức cấp nội các của Chính phủ Hàn Quốc. Cơ quan này chịu trách nhiệm chung đối với các lĩnh vực hàng hải và thủy sản nói chung, từ thúc đẩy an toàn và an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường biển, phát triển cảng và cảng cá, nghiên cứu và phát triển về các vấn đề vùng cực cho đến quản lý và sử dụng bền vững. nguồn lợi thủy sản và phát huy hoạt động giải trí biển. Trụ sở chính đặt tại 94 Dasom-2 ro, thành phố Sejong. Trước khi sáp nhập vào năm 2008, Bộ Hàng hải và Thủy sản có trụ sở tại 140-2 Gye-dong, Jongno-gu, Seoul.
MOF được thành lập như một phần của cuộc tái tổ chức nội các vào năm 1996. Trong 35 năm trước đó, các chức năng hàng hải đã được phân chia giữa các cơ quan khác nhau. Từ năm 1955 đến năm 1961, dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, Bộ Hàng hải đã tồn tại và Bộ hiện tại có nguồn gốc từ cơ quan đó.
Năm 2008, với sự sáp nhập của Bộ Xây dựng và Giao thông Vận tải và MOMAF, Bộ Đất đai, Giao thông và Hàng hải được thành lập. Năm 2013, Bộ Đại dương và Thủy sản được thành lập lại với việc tổ chức lại chính phủ. |
Google AI | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824453 | Google AI là một bộ phận của Google chuyên nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo (AI). Bộ phận này được thành lập vào năm 2017 với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của AI và ứng dụng AI vào các sản phẩm và dịch vụ của Google.
Google AI có trụ sở chính tại Mountain View, California, Hoa Kỳ, và có các văn phòng ở nhiều nơi trên thế giới. Bộ phận này có đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư và nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực AI.
Google AI đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực AI, bao gồm:
Google AI đang tiếp tục nghiên cứu và phát triển AI để thúc đẩy sự phát triển của công nghệ này và ứng dụng AI vào nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Chiến tranh Ba Lan–Ukraina, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina và Cộng hòa Nhân dân Ukraina). Xung đột bắt nguồn từ sự khác biệt về sắc tộc, văn hóa và chính trị giữa các cư dân người Ba Lan và người Ukraina sống trong khu vực, trong khi Ba Lan và cả hai nước cộng hòa Ukraina đều là quốc gia kế thừa của các đế quốc Nga và Áo đã bị giải thể. Chiến tranh bắt đầu tại Đông Galicia sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã, và lan sang các vùng từng thuộc Đế quốc Nga là Kholm (Chełm) và Volyn (Wołyń). Ba Lan tái chiếm lãnh thổ tranh chấp vào ngày 18 tháng 7 năm 1919.
Bối cảnh.
Nguồn gốc của xung đột nằm ở tình hình dân tộc phức tạp tại Galicia vào đầu thế kỷ 20. Do Nhà Habsburg khoan dung tương đối với các dân tộc thiểu số, Áo-Hung là nền tảng hoàn hảo cho sự phát triển của cả các phong trào dân tộc Ba Lan và Ukraina. Trong Cách mạng 1848, Áo lo ngại trước các yêu cầu của người Ba Lan về quyền tự trị lớn hơn trong tỉnh, nên họ ủng hộ một nhóm nhỏ người Ruthenia, là tên gọi của những người Đông Slav sau này chấp nhận tên là "người Ukraina" hoặc "người Rusyn"; mục tiêu của người Ruthenia là được công nhận là một dân tộc riêng biệt.
Các trường dạy tiếng Ruthenia được thành lập, các đảng chính trị Ruthenia được thành lập và bắt đầu có những nỗ lực để phát triển văn hóa dân tộc của họ. Điều này gây ngạc nhiên cho một số người Ba Lan, vì cho đến trước cuộc cách mạng họ cùng với hầu hết những người Ruthenia có ý thức chính trị cho rằng người Ruthenia là một phần của "dân tộc Ba Lan", lúc đó được định nghĩa theo thuật ngữ chính trị thay vì dân tộc học. Vào cuối thập niên 1890 và những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, giới trí thức dân túy Ruthenia sử dụng thuật ngữ người Ukraina để mô tả dân tộc của họ. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Họ nỗ lực quảng bá văn hóa dân tộc, bao gồm các nỗ lực hướng tới tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ Ukraina, đồng thời thành lập và hỗ trợ các tổ chức văn hóa Ukraina như hiệp hội khoa học, nhà hát và bảo tàng dân tộc tại Lviv; bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, ý thức dân tộc phát triển trong cộng đồng dân cư Ruthenia, lúc này họ chủ yếu là người dân nông thôn.
Nhiều sự cố giữa hai dân tộc xảy ra trong suốt cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Chẳng hạn như giới cầm quyền Ba Lan phản đối người Ukraina trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1897. Một cuộc xung đột khác phát triển vào năm 1901 đến năm 1908 xung quanh Đại học Lviv vì sinh viên Ukraina yêu cầu một trường đại học Ukraina riêng biệt, nhưng sinh viên và giảng viên Ba Lan cố gắng đàn áp phong trào. Đến năm 1903, cả người Ba Lan và người Ukraina đều tổ chức các hội nghị riêng biệt tại Lviv: người Ba Lan vào tháng 5 và người Ukraina vào tháng 8. Sau đó, hai phong trào dân tộc phát triển với mục tiêu trái ngược nhau, là nguyên nhân dẫn đến xung đột sau này.
Thành phần dân tộc của Galicia là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa người Ba Lan và người Ukraina tại đây. Tỉnh Galicia của Áo bao gồm lãnh thổ tỉnh Ruthenia là một phần của Ba Lantừ năm 1434, và bị Áo chiếm giữ vào năm 1772 trong phân chia Ba Lan lần đầu tiên. Vùng đất này bao gồm lãnh thổ có tầm quan trọng lịch sử đối với Ba Lan, bao gồm cố đô Kraków, và có phần lớn dân số là người Ba Lan, nhưng Đông Galicia bao gồm vùng trung tâm của lãnh thổ lịch sử Galicia-Volyn và có người Ukraina chiếm đa số. Ở miền đông Galicia, người Ukraina chiếm khoảng 65% dân số và người Ba Lan chỉ chiếm 22% dân số.
Trong số 44 đơn vị hành chính của miền đông Galicia thuộc Áo, Lviv (, ) là thành phố lớn nhất và là thủ phủ tỉnh, cũng là nơi duy nhất mà người Ba Lan chiếm đa số dân số. Ở Lviv, dân số năm 1910 có xấp xỉ 60% là người Ba Lan và 17% là người Ukraina. Người Ba Lan nhìn nhận Lviv là một trong những thủ đô văn hóa của Ba Lan và việc không kiểm soát được thành phố là điều không thể tưởng tượng được đối với họ.
Sự phân chia tôn giáo và sắc tộc tương ứng với phân tầng xã hội. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Tầng lớp xã hội hàng đầu của Galicia là quý tộc Ba Lan hoặc hậu duệ của dòng dõi quý tộc Rus' đã bị Ba Lan hóa trong quá khứ, nhưng ở miền đông của tỉnh, người Ruthenia (người Ukraina) chiếm đa số nông dân. Người Ba Lan và người Do Thái kiểm soát phần lớn quá trình phát triển thương mại và công nghiệp tại Galicia vào cuối thế kỷ 19.
Trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người Ukraina địa phương cố gắng thuyết phục Áo chia Galicia thành các tỉnh miền Tây (người Ba Lan) và miền Đông (người Ukraina). Người Ba Lan địa phương phản đối và cản trở các nỗ lực này, họ lo sợ mất quyền kiểm soát Lviv và Đông Galicia. Áo cuối cùng đồng ý trên nguyên tắc về việc chia tách tỉnh Galicia. Vào tháng 10 năm 1916, Hoàng đế Karl I hứa sẽ làm như vậy sau khi chiến tranh kết thúc.
Khúc dạo đầu.
Do sự can thiệp của Đại công tước Wilhelm của Áo, một người mang bản sắc Ukraina và tự coi mình là một người Ukraina ái quốc, vào tháng 10 năm 1918, hai trung đoàn chủ yếu là binh sĩ Ukraina đóng quân tại Lemberg (Lviv hiện đại). Khi chính phủ Áo-Hung sụp đổ, vào ngày 18 tháng 10 năm 1918, Hội đồng Quốc gia Ukraina ("Rada") được thành lập, bao gồm các thành viên người Ukraina trong quốc hội Áo và các hội đồng lập pháp khu vực Galicia và Bukovina, cũng như các nhà lãnh đạo của các đảng chính trị Ukraina. Hội đồng công bố ý định thống nhất các vùng đất Tây Ukraina thành một quốc gia duy nhất. Khi người Ba Lan đang tiến hành các bước đi nhằm tiếp quản Lviv và Đông Galicia, Đại úy Dmytro Vitovsky của quân súng trường Sich dẫn đầu nhóm sĩ quan trẻ Ukraina thực hiện một hành động quyết định và trong đêm 31 tháng 10 – ngày 1 tháng 11, các đơn vị quân đội Ukraina, bao gồm 1.400 binh sĩ và 60 sĩ quan, nắm quyền kiểm soát Lviv. Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina được tuyên bố thành lập vào ngày 13 tháng 11 năm 1918, với thủ đô là Lviv.
Thời điểm tuyên bố thành lập nền cộng hòa đã khiến người dân và giới cầm quyền dân tộc Ba Lan bất ngờ. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Nước cộng hòa Ukraina mới tuyên bố chủ quyền đối với Đông Galicia, bao gồm dãy núi Karpat cho đến thành phố Nowy Sącz ở phía Tây, cũng như Volyn, Ruthenia Karpat và Bukovina (hai lãnh thổ cuối cũng lần lượt được Hungary và Romania yêu sách chủ quyền). Mặc dù phần lớn dân số của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina là người Ukraina, nhưng nhiều khu dân cư đô thị có đa số là người Ba Lan. Tại Lviv, cư dân Ukraina nhiệt tình ủng hộ tuyên bố này. Cộng đồng thiểu số Do Thái đáng kể của thành phố chấp nhận hoặc giữ thái độ trung lập đối với tuyên bố của người Ukraina, trong khi người Ba Lan chiếm đa số của thành phố bị sốc khi thấy mình ở trong một nhà nước Ukraina được tuyên bố thành lập. Do Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina chưa được quốc tế công nhận và ranh giới của Ba Lan vẫn chưa được xác định, nên vấn đề quyền sở hữu lãnh thổ tranh chấp được giảm xuống thành một vấn đề kiểm soát quân sự.
Chiến tranh.
Giai đoạn đầu.
Giao tranh giữa các lực lượng Ukraina và Ba Lan tập trung xung quanh Lviv được Tây Ukraina tuyên bố là thủ đô, và các tuyến đường tiếp cận thành phố này. Tại Lviv, quân Ukraina gặp chống đối từ các đơn vị tự vệ địa phương, chúng được thành lập chủ yếu từ các cựu chiến binh trong thế chiến, sinh viên và trẻ em. Tuy nhiên, khả năng chỉ huy khéo léo, chiến thuật tốt và tinh thần cao khiến người Ba Lan có thể chống lại các cuộc tấn công được lên kế hoạch kém của người Ukraina. Ngoài ra, người Ba Lan còn có thể khéo léo câu giờ và chờ đợi quân tiếp viện thông qua việc thỏa thuận ngừng bắn với người Ukraina. Trong khi người Ba Lan có thể trông cậy vào nền tảng ủng hộ rộng rãi từ dân chúng thành phố, thì phía Ukraina chủ yếu phụ thuộc vào giúp đỡ từ bên ngoài thành phố. Các cuộc nổi dậy khác chống lại quyền cai trị của Tây Ukraina nổ ra tại Drohobych, Przemyśl, Sambir và Jarosław. Tại Przemyśl, binh sĩ Ukraina địa phương nhanh chóng giải tán về nhà của họ và người Ba Lan chiếm giữ các cây cầu bắc qua sông San và tuyến đường sắt đến Lviv, tạo điều kiện cho lực lượng Ba Lan tại thành phố này có được tiếp viện đáng kể. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Sau hai tuần giao tranh ác liệt tại Lviv, một đơn vị vũ trang dưới quyền chỉ huy của Trung tá Michał Karaszewicz-Tokarzewski của Lục quân Ba Lan mới thành lập đã vượt qua vòng vây của Ukraina vào ngày 21 tháng 11 và đến thành phố. Người Ukraina đã bị đẩy lùi. Ngay sau khi Ba Lan chiếm được thành phố, một số dân quân Do Thái địa phương tấn công các binh sĩ Ba Lan, đồng thời một số thành phần của lực lượng Ba Lan cũng như tội phạm thông thường tiến hành cướp phá các khu Do Thái và Ukraina trong thành phố, giết chết khoảng 340 thường dân. Người Ba Lan cũng giam giữ một lượng lớn các nhà hoạt động Ukraina trong trại giam. Chính phủ Ukraina cung cấp hỗ trợ tài chính cho các nạn nhân Do Thái trong bạo lực và có thể chiêu mộ một tiểu đoàn Do Thái vào quân đội của họ. Một số phe phái đổ lỗi những hành động tàn bạo này cho Lam quân của Tướng Haller. Điều này khó xảy ra vì lực lượng chiến đấu do Pháp huấn luyện và hỗ trợ này đã không rời Pháp và Mặt trận phía Tây cho đến tháng 4 năm 1919, sau khi cuộc bạo loạn xảy ra.
Vào ngày 9 tháng 11, quân Ba Lan cố gắng bất ngờ chiếm giữ các mỏ dầu Drohobych, nhưng do quân Ukraina đông hơn nên họ bị đánh lui. Người Ukraina giữ quyền kiểm soát các mỏ dầu cho đến tháng 5 năm 1919.
Vào ngày 6 tháng 11, một chính thể Ukraina mới được thành lập tại nửa phía bắc của vùng Bukovina: Bukovina thuộc Ukraina dưới quyền Tổng thống . Nhà nước mới có thủ đô tại Chernivtsi. Nó bị giải thể vào ngày 11 tháng 11, khi Lục quân Romania chiếm lĩnh Chernivtsi. Chính quyền Ukraina và những hỗ trợ quân sự của họ rút khỏi thành phố một ngày trước đó.
Đến cuối tháng 11 năm 1918, lực lượng Ba Lan kiểm soát Lviv và tuyến đường sắt nối Lviv với miền trung Ba Lan qua Przemyśl, trong khi người Ukraina kiểm soát phần còn lại của Đông Galicia về phía đông sông San, bao gồm các khu vực phía nam và phía bắc của tuyến đường sắt vào Lviv. Do đó, thành phố Lviv (Lwów) do Ba Lan kiểm soát phải đối mặt với quân Ukraina ở ba phía.
Chiến đấu tại Volyn.
Ngay sau khi Áo-Hung sụp đổ, quân Ba Lan đã chiếm được khu vực Kholm (tiếng Ba Lan: "Chełm"); ngay sau đó các chỉ huy của Áo tại miền tây nam Volyn (Volodymyr-Volynskyi và Kovel) bàn giao chính quyền cho các ủy ban dân tộc Ba Lan địa phương. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Vào tháng 11 đến tháng 12 năm 1918, người Ba Lan cũng tiến vào Podlachia và Tây Polesia, nhưng bị quân của Tướng M. Osetsky chặn lại tại Tây Volyn.
Khi các đơn vị Ba Lan cố gắng giành quyền kiểm soát khu vực, quân của Cộng hòa Nhân dân Ukraina dưới quyền chỉ huy của Symon Petliura cố gắng giành lại lãnh thổ của tỉnh Kholm đã bị quân Ba Lan kiểm soát trước đó.
Theo Richard Pipes, pogrom lớn đầu tiên trong vùng này diễn ra vào tháng 1 năm 1919 tại thị trấn Ovruch, nơi các trung đoàn Kozyr-Zyrka liên kết với chính phủ của Symon Petliura cướp bóc và giết hại người Do Thái. Nicolas Werth tuyên bố rằng các đơn vị vũ trang của Cộng hòa Nhân dân Ukraina cũng phải chịu trách nhiệm về các vụ hãm hiếp, cướp bóc và thảm sát tại Zhytomir, trong đó 500–700 người Do Thái thiệt mạng.
Sau hai tháng giao tranh ác liệt, xung đột đã được giải quyết vào tháng 3 năm 1919 do các đơn vị quân đội Ba Lan mới và được trang bị tốt dưới quyền chỉ huy của Tướng Edward Rydz-Śmigły.
Bế tắc tại Đông Galicia.
Nhờ huy động nhanh chóng và hiệu quả nên đến tháng 12 năm 1918, quân Ukraina chiếm ưu thế lớn về quân số cho đến tháng 2 năm 1919, và đẩy quân Ba Lan vào thế phòng thủ. Theo một báo cáo của Mỹ trong khoảng thời gian từ ngày 13 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 1919, quân Ukraina cuối cùng đã bao vây được Lviv từ ba phía. Người dân thành phố bị thiếu nước và điện. Quân đội Ukraina cũng trấn giữ các ngôi làng ở hai bên tuyến đường sắt dẫn đến Przemyśl.
Quân Ukraina tiếp tục kiểm soát phần lớn miền đông Galicia và là mối đe dọa đối với thành phố Lviv cho đến tháng 5 năm 1919. Trong thời gian này, theo báo cáo của Ý và Ba Lan, quân Ukraina có tinh thần cao (một nhà quan sát người Ý đứng sau phòng tuyến Galicia nói rằng quân Ukraina đang chiến đấu với "lòng dũng cảm của những kẻ cam chịu") trong khi nhiều binh sĩ Ba Lan, đặc biệt là từ Ba Lan lập hiến, muốn trở về nhà vì họ không thấy có lý do gì để chiến đấu chống lại người Ruthenia trên vùng đất của người Ruthenia; Quân số Ba Lan bị áp đảo bởi lượng địch gấp đôi và bị thiếu đạn dược. Mặc dù ban đầu bị áp đảo về số lượng nhưng quân Ba Lan có những lợi thế nhất định. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Lực lượng của họ có nhiều sĩ quan hơn và được đào tạo tốt hơn, kết quả là một lực lượng có kỷ luật tốt hơn và cơ động hơn; người Ba Lan cũng có được tình báo xuất sắc và nhờ kiểm soát được các tuyến đường sắt phía sau phòng tuyến của mình nên họ có thể di chuyển binh sĩ khá nhanh chóng. Kết quả là, mặc dù quân Ba Lan có tổng quân số ít hơn quân Ukraina, nhưng trong những trận chiến đặc biệt quan trọng, họ có thể điều động nhiều binh sĩ tương đương phía Ukraina.
Vào ngày 9 tháng 12 năm 1918, quân Ukraina chọc thủng tuyến phòng thủ bên ngoài Przemyśl với hy vọng chiếm được thành phố và do đó cắt đứt Lviv do Ba Lan kiểm soát khỏi miền trung Ba Lan. Tuy nhiên, người Ba Lan nhanh chóng gửi quân tiếp viện và đến ngày 17 tháng 12, quân Ukraina buộc phải rút lui. Vào ngày 27 tháng 12, có hỗ trợ từ quân nông dân được gửi từ Đông Ukraina đến Galicia với hy vọng rằng người Tây Ukraina có thể thành lập một lực lượng có kỷ luật từ họ, một cuộc tổng tấn công của Ukraina chống lại Lviv đã bắt đầu. Lực lượng phòng thủ của Lviv được giữ vững và quân đội miền Đông Ukraina nổi loạn.
Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 11 tháng 1 năm 1919, một cuộc tấn công của Ba Lan gồm 5.000 tân binh được tuyển mộ từ khu vực Ba Lan thuộc Nga trước đây do Jan Romer chỉ huy đã bị đẩy lui trước quân Tây Ukraina gần Rava-Ruska, phía bắc Lviv. Chỉ một số ít quân cùng với Romer có thể đột phá được đến Lviv sau khi chịu tổn thất nặng nề. Trong khoảng thời gian từ ngày 11 tháng 1 đến ngày 13 tháng 1, quân Ba Lan cố gắng đánh bật quân Ukraina đang bao vây Lviv từ phía nam, trong khi cùng lúc đó quân đội Ukraina cố gắng thực hiện một cuộc tổng tấn công khác vào Lviv. Cả hai nỗ lực trên đều thất bại. Vào tháng 2 năm 1919, quân Ba Lan cố gắng chiếm Sambir nhưng bị quân phòng thủ Ukraina đánh bại với tổn thất nặng nề, mặc dù vậy do khả năng cơ động kém của quân Ukraina nên họ không thể tận dụng được chiến thắng này.
Vào ngày 14 tháng 2, quân Ukraina bắt đầu một cuộc tấn công khác vào Lviv. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Đến ngày 20 tháng 2, họ cắt đứt thành công tuyến đường sắt giữa Lviv và Przemysl, khiến Lviv bị bao vây và quân Ukraina ở vị trí thuận lợi để chiếm thành phố. Tuy nhiên, một phái đoàn do Pháp dẫn đầu từ Entente (Đồng minh) đến trụ sở của người Ukraina vào ngày 22 tháng 2 và yêu cầu người Ukraina chấm dứt hành động thù địch, với lời đe doạ cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao giữa Entente và chính phủ Ukraina. Vào ngày 25 tháng 2, quân đội Ukraina đình chỉ cuộc tấn công. Phái đoàn Barthélemy đề xuất một đường phân giới (28 tháng 2) để lại gần 70% lãnh thổ Đông Galicia cho người Ukraina, còn Lviv và các mỏ dầu cho Ba Lan. Người Ukraina sẽ được cung cấp một nửa sản lượng dầu. Đề xuất được người Ba Lan chấp nhận. Tuy nhiên, các yêu cầu của Đồng minh bao gồm việc để mất một lượng đáng kể lãnh thổ do người Ukraina nắm giữ và cư trú, và bị người Ukraina cho là quá thiên vị người Ba Lan, và họ tiếp tục tấn công vào ngày 4 tháng 3. Đến ngày 5 tháng 3, pháo binh Ukraina làm nổ tung bãi chứa đạn dược của quân Ba Lan tại Lviv; vụ nổ khiến binh sĩ Ba Lan hoảng sợ. Tuy nhiên, người Ukraina không tận dụng được điều này. Trong thời gian ngừng bắn, người Ba Lan có thể tổ chức được một lực lượng cứu viện gồm 8.000–10.000 quân, đến ngày 12 tháng 3 họ tiến đến Przemyśl và đến ngày 18 tháng 3 thì đánh đuổi quân Ukraina khỏi tuyến đường sắt Lviv-Przemyśl, bảo vệ vĩnh viễn Lviv.
Vào ngày 6–11 tháng 1 năm 1919, một bộ phận nhỏ của Quân đội Galicia Ukraina xâm chiếm Ngoại Karpat để truyền bá tình cảm ủng hộ Ukraina trong cư dân (khu vực đang bị Hungary và Tiệp Khắc chiếm đóng). Quân đội Ukraina giao tranh với cảnh sát địa phương Tiệp Khắc và Hungary. Họ thành công trong việc chiếm lĩnh một số khu định cư của người Ukraina do Hungary kiểm soát. Sau một số cuộc đụng độ với Tiệp Khắc, người Ukraina rút lui vì Tiệp Khắc (thay vì Cộng hòa Nhân dân Ukraina) là quốc gia duy nhất giao thương với Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina và ủng hộ nước này về mặt chính trị. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Xung đột xa hơn với chính quyền Tiệp Khắc sẽ dẫn đến Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina bị cô lập hoàn toàn về kinh tế và chính trị.
Ukraina sụp đổ.
Vào ngày 14 tháng 5 năm 1919, Ba Lan bắt đầu một cuộc tổng tấn công trên khắp Volyn và Đông Galicia. Thực hiện kế hoạch là các đơn vị của Lục quân Ba Lan, được hỗ trợ bởi Lam quân mới đến của Tướng Józef Haller de Hallenburg. Đội quân này bao gồm các lực lượng Ba Lan từng chiến đấu cho Entente trên Mặt trận phía Tây, với số lượng 60.000 quân, được Đồng minh phương Tây trang bị tốt và được biên chế một phần các sĩ quan Pháp giàu kinh nghiệm, đặc biệt là để chiến đấu với Bolshevik chứ không phải với quân đội của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina. Mặc dù vậy, người Ba Lan vẫn phái quân của Haller chống lại quân Ukraina nhằm phá vỡ thế bế tắc tại miền đông Galicia. Đồng minh gửi một số điện tín ra lệnh cho người Ba Lan dừng cuộc tấn công của họ, vì việc sử dụng quân đội do Pháp trang bị để chống lại người Ukraina đặc biệt mâu thuẫn với các điều kiện hỗ trợ của Pháp, nhưng những điều này bị bỏ qua, còn phía Ba Lan cho rằng người Ukraina là những người có cảm tình với Bolshevik. Đồng thời, vào ngày 23 tháng 5, Romania mở mặt trận thứ hai chống lại lực lượng Ukraina, yêu cầu họ rút khỏi các khu vực phía nam của miền đông Galicia, bao gồm cả thủ đô tạm thời là Stanislaviv. Điều này dẫn đến việc mất lãnh thổ, đạn dược và bị cô lập hơn nữa với thế giới bên ngoài.
Phòng tuyến của Ukraina bị phá vỡ, phần lớn là do lực lượng tinh nhuệ quân súng trường Sich rút lui. Vào ngày 27 tháng 5, quân Ba Lan tiến đến phòng tuyến Złota Lipa–Berezhany-Jezierna-Radziwiłłów. Cuộc tiến công của Ba Lan đi kèm với một làn sóng bạo lực và cướp bóc quy mô lớn chống người Do Thái của đám đông Ba Lan vô tổ chức, giống như tại Lviv vào năm 1918. Ngoài ra còn có sự tham gia của các đơn vị quân đội Ba Lan hoạt động chống lại mệnh lệnh các sĩ quan của họ, đặc biệt là các trung đoàn Poznań và quân đội của Haller. Theo yêu cầu của Entente, cuộc tấn công của Ba Lan bị dừng lại và quân của Haller đảm nhận các vị trí phòng thủ. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Cuộc tấn công Chortkiv và chiến thắng cuối cùng của Ba Lan.
Vào ngày 8 tháng 6 năm 1919, quân Ukraina dưới quyền tư lệnh mới Oleksander Hrekov, một cựu tướng lĩnh trong quân đội Nga, bắt đầu phản công. Sau ba tuần, họ tiến tới Hnyla Lypa và thượng du sông Stryi, đánh bại năm sư đoàn Ba Lan. Mặc dù quân Ba Lan buộc phải rút lui nhưng họ ngăn chặn được lực lượng sụp đổ và tránh bị bao vây và bắt giữ. Vì vậy, bất chấp những chiến thắng của mình, quân Ukraina không thể có được một lượng vũ khí và đạn dược đáng kể. Đến ngày 27 tháng 6, quân Ukraina tiến được 120 km dọc theo sông Dnister, và trên một hướng khác họ tiến được 150 km, qua thị trấn Brody. Họ đến nơi trong vòng hai ngày hành quân từ Lviv.
Cuộc tấn công Chortkiv thành công bị dừng lại chủ yếu vì thiếu vũ khí - mỗi người lính Ukraina chỉ có 5–10 viên đạn. Chính phủ Tây Ukraina kiểm soát các mỏ dầu Drohobych, họ dự định dùng nó để mua vũ khí cho cuộc chiến, nhưng vì lý do chính trị và ngoại giao, vũ khí và đạn dược chỉ có thể được gửi đến Ukraina thông qua Tiệp Khắc. Mặc dù quân Ukraina đẩy lùi được quân Ba Lan khoảng 120–150 km, họ không đảm bảo được một tuyến đường đến Tiệp Khắc. Điều này có nghĩa là họ không thể bổ sung nguồn cung cấp vũ khí và đạn dược, dẫn đến việc thiếu nguồn cung cấp đã buộc Hrekov phải kết thúc chiến dịch của mình.
Józef Piłsudski đảm nhận chức tư lệnh lực lượng Ba Lan vào ngày 27 tháng 6 và bắt đầu một cuộc tấn công khác, với hỗ trợ của hai sư đoàn Ba Lan mới. Vào ngày 28 tháng 6, cuộc tấn công của Ba Lan bắt đầu. Thiếu đạn dược và phải đối mặt với kẻ thù có quy mô gấp đôi, Quân đội Galicia Ukraina và ban lãnh đạo Tây Ukraina bị đẩy lùi về phòng tuyến sông Zbruch vào ngày 16–18 tháng 7, sau đó Tây Ukraina bị Ba Lan chiếm đóng. Mặc dù bộ binh Ukraina hết đạn nhưng pháo binh của họ thì không. Điều này giúp quân Ukraina có chỗ dựa cho một cuộc rút lui có trật tự. Khoảng 100.000 người tị nạn dân sự và 60.000 binh sĩ, 20.000 người trong số họ sẵn sàng chiến đấu, đã có thể trốn thoát qua sông Zbruch vào miền Trung Ukraina.
Mặt trận ngoại giao. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Mặt trận ngoại giao.
Lực lượng Ba Lan và Ukraina gặp khó khăn trên các mặt trận ngoại giao cũng như quân sự cả trong và sau chiến tranh. Người Ukraina hy vọng rằng phe Đồng minh phương Tây trong Thế chiến thứ nhất sẽ ủng hộ mục tiêu của họ vì Hiệp ước Versailles chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ nhất dựa trên nguyên tắc quyền tự quyết dân tộc. Theo đó, các nhà ngoại giao của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina hy vọng rằng phương Tây sẽ buộc Ba Lan phải rút khỏi các vùng lãnh thổ có đa số nhân khẩu là người Ukraina.
Quan điểm trong phe Đồng minh bị chia rẽ. Anh dưới quyền lãnh đạo của Thủ tướng David Lloyd George, và ở mức độ thấp hơn là Ý phản đối Ba Lan bành trướng. Đại biểu của họ cho rằng việc trao lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina cho Ba Lan sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự quyết dân tộc và các dân tộc thiểu số thù địch sẽ làm suy yếu nhà nước Ba Lan. Trên thực tế, chính sách của Anh được quyết định bởi việc không sẵn lòng làm tổn hại đến lợi ích của Nga trong khu vực và xa lánh nhà nước Nga trong tương lai thông qua việc ngăn chặn khả năng liên minh Đông Galicia với Nga. Ngoài ra, Anh còn quan tâm đến các mỏ dầu tại Tây Ukraina. Bản thân Tiệp Khắc tham gia vào xung đột với Ba Lan, họ tỏ ra thân thiện với chính phủ Tây Ukraina và bán vũ khí cho chính phủ này để đổi lấy dầu. Mặt khác, Pháp lại ủng hộ mạnh mẽ Ba Lan trong cuộc xung đột. Người Pháp hy vọng rằng một nhà nước Ba Lan rộng lớn và hùng mạnh sẽ đóng vai trò là đối trọng với Đức và sẽ cô lập Đức khỏi nước Nga Xô viết. Các nhà ngoại giao Pháp luôn ủng hộ các yêu sách của Ba Lan đối với các vùng lãnh thổ mà Đức, Litva và Ukraina cũng tuyên bố chủ quyền. Pháp cũng cung cấp một số lượng lớn vũ khí, đạn dược và các sĩ quan Pháp, đáng chú ý nhất là quân của Tướng Haller, tiêpa viện cho lực lượng Ba Lan và chúng được sử dụng để chống lại quân đội Tây Ukraina, khiến Thủ tướng Anh Lloyd George và Tổng thống Hoa Kỳ Wilson kinh hoàng. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Trong mùa đông năm 1918–1919, một cuộc tấn công ngoại giao của chính phủ Ba Lan cố gắng khiến cho quan điểm của Đồng minh nghiêng về ủng hộ hoàn toàn mục tiêu của Ba Lan, và chống lại chiến dịch thông tin sai lệch của Đức có mục đích làm suy yếu sự ủng hộ của Pháp, Anh và Mỹ đối với nhà nước Ba Lan mới. Các quan chức chính phủ tại Ba Lan và nước ngoài liên tục nêu ra vấn đề về mối liên hệ có thể có giữa Đức và Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina, nhấn mạnh rằng người Đức đang hỗ trợ tài chính cho chính phủ Tây Ukraina và cuộc cách mạng Bolshevik tại Nga nhằm gieo mầm một làn sóng bất ổn chính trị và hỗn loạn trong khu vực. Tuy nhiên, người Ukraina phản đối những tuyên bố như vậy, cho rằng người Ba Lan chỉ tìm cách miêu tả Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina là thân Đức và có thiện cảm với những người Bolshevik bởi Quân đội Galicia Ukraina thiết lập một cuộc phòng thủ thành công, khiến cuộc tấn công của quân đội Ba Lan bị đình trệ.
Để nhằm chấm dứt chiến tranh, vào tháng 1 năm 1919, một ủy ban của Đồng minh do một tướng Pháp dẫn đầu được cử đến đàm phán một hiệp ước hòa bình giữa hai bên, thúc đẩy lệnh ngừng bắn. Vào tháng 2, họ khuyến nghị Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina từ bỏ một phần ba lãnh thổ, bao gồm thành phố Lviv và các mỏ dầu Drohobych. Người Ukraina từ chối vì thỏa thuận đình chiến không phù hợp với dân tộc học của đất nước cũng như tình hình quân sự, đồng thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Ba Lan. Vào giữa tháng 3 năm 1919, nguyên soái Pháp Ferdinand Foch, là người muốn sử dụng Ba Lan làm căn cứ hoạt động cho một cuộc tấn công chống lại Hồng quân, đã đưa vấn đề chiến tranh Ba Lan-Ukraina ra trước Hội đồng Tối cao và kêu gọi hoạt động quân sự Ba Lan-Romania quy mô lớn sẽ được tiến hành với sự hỗ trợ của Đồng minh, cũng như gửi các sư đoàn của Haller đến Ba Lan ngay lập tức để giải vây Lviv khỏi vòng vây của Ukraina.
Một ủy ban khác của Đồng minh do Tướng Nam Phi Louis Botha lãnh đạo đề xuất một hiệp định đình chiến vào tháng 5, theo đó sẽ liên quan đến việc người Ukraina (Tây) giữ các mỏ dầu Drohobych và người Ba Lan giữ Lviv. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Phía Ukraina đồng ý với đề xuất này nhưng nó bị người Ba Lan từ chối với lý do không tính đến tình hình quân sự chung của Ba Lan và tình hình trên mặt trận phía đông. Trong khi đó, Quân đội Bolshevik xuyên thủng quân Cộng hòa Nhân dân Ukraina và đang tiến tới Podolia và Volyn. Người Ba Lan lập luận rằng họ cần quyền kiểm soát quân sự đối với toàn bộ miền Đông Galicia để bảo vệ mặt trận với Nga ở phần phía nam và củng cố nó bằng một điểm giao với Romania. Người Ba Lan phát động một cuộc tấn công ngay sau đó bằng cách sử dụng một lực lượng lớn được Pháp trang bị (Quân đội Haller), lực lượng này chiếm được phần lớn lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina. Những bức điện khẩn cấp của các đồng minh phương Tây nhằm ngăn chặn cuộc tấn công này bị phớt lờ. Tiệp Khắc là quốc gia thừa kế bảy nhà máy lọc dầu từ thời Áo trước chiến tranh và phụ thuộc vào các hợp đồng cung cấp dầu với chính phủ Tây Ukraina, họ yêu cầu người Ba Lan gửi cho Tiệp Khắc số dầu đã được thanh toán cho chính phủ Ukraina. Người Ba Lan từ chối, nói rằng số dầu này được thanh toán bằng đạn được dùng để chống lại binh sĩ Ba Lan. Mặc dù Tiệp Khắc không trả đũa, nhưng theo báo cáo của Ba Lan, Tiệp Khắc cân nhắc việc chiếm giữ các mỏ dầu từ Ba Lan và trả lại cho người Ukraina, những người sẽ tôn trọng hợp đồng của họ.
Vào ngày 25 tháng 6 năm 1919, Hội đồng Đồng minh hợp pháp hóa quyền kiểm soát của Ba Lan đối với Đông Galicia thông qua nghị quyết phê chuẩn quân Ba Lan chiếm đóng quân sự, bao gồm cả quân của Haller, đến tận sông Zbruch và ủy quyền cho chính phủ Ba Lan thành lập một chính quyền dân sự tạm thời, thể chế này sẽ bảo vệ tối đa quyền tự chủ và quyền tự do về lãnh thổ của cư dân. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1919, Hội đồng Tối cao của Hội nghị hòa bình Paris trao Đông Galicia cho Ba Lan trong thời hạn 25 năm, sau đó một cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức tại đây, và bắt buộc chính phủ Ba Lan trao quyền tự trị lãnh thổ cho khu vực. Quyết định này bị đình chỉ vào ngày 22 tháng 12 năm 1919 và không bao giờ được thi hành. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Vào ngày 21 tháng 4 năm 1920, Józef Piłsudski và Symon Petliura ký kết một liên minh, trong đó Ba Lan hứa với Cộng hòa Nhân dân Ukraina sẽ giúp đỡ quân sự trong cuộc tấn công Kyiv chống lại Hồng quân để đổi lấy việc chấp nhận biên giới Ba Lan-Ukraina trên sông Zbruch.
Sau thỏa thuận này, chính phủ của Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina phải lưu vong tại Wien, tại đây họ nhận được ủng hộ từ nhiều người di cư chính trị Tây Ukraina cũng như binh sĩ của quân đội Galicia bị giam giữ tại Bohemia. Mặc dù không được bất kỳ quốc gia nào chính thức công nhận là chính phủ của Tây Ukraina, họ tham gia vào hoạt động ngoại giao với chính phủ Pháp và Anh với hy vọng đạt được một giải pháp thuận lợi tại Versailles. Nhờ những nỗ lực của họ, hội đồng của Hội Quốc Liên tuyên bố vào ngày 23 tháng 2 năm 1921 rằng Galicia nằm ngoài lãnh thổ Ba Lan và Ba Lan không được ủy thác thiết lập quyền kiểm soát hành chính tại quốc gia đó và Ba Lan chỉ là lực lượng chiếm đóng quân sự tại Galicia, chủ quyền thuộc về các cường quốc Đồng minh (theo Hiệp ước Saint-Germain ký với Áo vào tháng 9 năm 1919) và số phận của khu vực sẽ được xác định bởi Hội đồng Đại sứ tại Hội Quốc Liên. Hội đồng Đại sứ tại Paris tuyên bố vào ngày 8 tháng 7 năm 1921 rằng cái gọi là "Chính phủ Tây Ukraina" của Yevhen Petrushevych không cấu thành một chính phủ trên thực tế hay trên pháp lý, và không có quyền đại diện cho bất kỳ nơi nào trong số các các lãnh thổ liên quan từng thuộc về Đế quốc Áo. Sau một loạt các cuộc đàm phán kéo dài, vào ngày 14 tháng 3 năm 1923, Hội đồng Đại sứ quyết định rằng Galicia sẽ được sáp nhập vào Ba Lan "có tính đến việc Ba Lan đã công nhận rằng đối với phần phía đông của Galicia, các điều kiện dân tộc học hoàn toàn xứng đáng với vị thế tự trị của họ." Sau năm 1923, Galicia được quốc tế công nhận là một phần của nhà nước Ba Lan. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina sau đó giải tán, trong khi Ba Lan từ bỏ lời hứa trao quyền tự trị cho Đông Galicia.
Đường Barthélemy. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Đường Barthélemy.
Trong nỗ lực ngăn chặn chiến tranh, một tướng Pháp là Marie Joseph Barthélemy đề xuất một đường phân giới, được gọi là Đường Barthélemy, được cho là nhằm chấm dứt giao tranh giữa quân đội Ba Lan và quân đội Tây Ukraina.
Năm 1918, các quốc gia Entente tìm cách thành lập một mặt trận chung chống Bolshevik, bao gồm quân đội Ba Lan, Nga Bạch vệ, quân đội Romania và Ukraina. Sự kiện bùng nổ thù địch giữa Ba Lan-Ukraina tại Lviv vào ngày 1 tháng 11 cản trở các kế hoạch này, vì vậy các quốc gia Entente bắt đầu thúc ép cả Ba Lan và Galicia tìm kiếm một giải pháp và thông qua đường phân giới do các quốc gia đồng minh đề xuất.
Vào ngày 19 tháng 1 năm 1919, theo lệnh của Tướng Franchet d'Esperey, một phái đoàn gìn giữ hòa bình dưới quyền chỉ huy của Tướng Joseph Barthélemy đến Cracow. Ban đầu, phái đoàn làm quen với quan điểm của Ba Lan, họ chọn đường Bug-. Sau đó họ đi đến Lviv, gặp phái đoàn Ukraina. Người Ukraina chọn đường San làm đường phân giới trong tương lai.
Trong tình hình này, Tướng Barthélemy trình bày đề xuất thỏa hiệp của mình vào ngày 28 tháng 1 năm 1919. Đường đình chiến sẽ chạy dọc theo sông Bug đến Kamionka Strumiłłowa, sau đó dọc theo ranh giới các huyện đến Bóbrka, sau đó dọc theo tuyến đường sắt Bóbrka-Wybranka, về phía tây đến Mikołajów (để Mikolajiv bên phía Ukraina), sau đó dọc theo tuyến đường sắt Lviv-Stryi đến biên giới lãnh thổ tranh chấp tại Đông Karpat. Tuyến đường sắt Stryi-Lavochne vẫn nằm trong tay Ukraina. Đây chỉ là ranh giới tạm thời cho đến khi vấn đề được giải quyết bởi Hội nghị Hòa bình Paris.
Phía Ba Lan chấp nhận giải pháp này, nhưng phái đoàn Ukraina nhất quyết yêu cầu 'đường San'. Do Ukraina không đồng ý, phái đoàn Entente thực hiện một nỗ lực hòa giải khác. Việc này được thực hiện bởi tiểu ban Ủy ban liên Đồng minh về Ba Lan được thành lập vào ngày 15 tháng 2 năm 1919 và do Joseph Noulens đứng đầu. Tiểu ban gồm có Tướng Joseph Barthélemy (Pháp) làm chủ tịch, Thượng tá Adrian Carton de Wiart (Anh), Tiến sĩ Robert Howard Lord (Hoa Kỳ) và Thiếu tá Giovanni Stabile (Ý). Tiểu ban trình bày một dự thảo hiệp định đình chiến vào ngày 15 tháng 2 năm 1919. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Thỏa thuận ngừng bắn dọc theo Đường Barthélemy chỉ mang tính chất quân sự thuần túy và không ảnh hưởng đến các quyết định của Hội nghị Hòa bình Paris dưới bất kỳ hình thức nào. Một phần không thể thiếu của hiệp định là một hiệp ước bổ sung liên quan đến bể dầu Boryslav-Drohobych. Bể dầu vẫn thuộc về phía Ba Lan trong đường ranh giới đình chiến, nằm dưới quyền quản lý của một ủy ban quốc tế, với 50% sản lượng dầu sẽ được chuyển cho phía Ukraina. Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina chỉ có thể ghi lại khối lượng sản xuất và thanh toán cho nguồn cung cấp dầu. Kế hoạch đảm bảo lợi ích của Entente trong bể dầu và là bước đầu tiên hướng tới việc trung lập hóa nó. Vào thời điểm đề xuất, lãnh thổ của bể dầu nằm dưới quyền kiểm soát của Quân đội Galicia Ukraina. Đối với chính phủ Tây Ukraina, các điều khoản của Hiệp định đình chiến là không thuận lợi; tuy nhiên, chúng tạo cơ hội để thỏa hiệp với Ba Lan và đạt được sự công nhận quốc tế của Entente đối với nhà nước Ukraina.
Ủy ban thành công trong việc ký kết hiệp ước đình chiến vào ngày 24 tháng 2 năm 1919, và trình bày các đề xuất của mình với các bên vào ngày 28 tháng 2, nhưng bị phía Tây Ukraina từ chối. Do không đạt được thỏa thuận về đường phân giới, xung đột giữa Ba Lan và Ukraina lại tiếp tục vào ngày 2 tháng 3.
Thương vong thường dân.
Nhà sử học Christoph Mick tuyên bố không xảy ra bạo lực có hệ thống hay thảm sát người dân tộc Ba Lan bởi người Ukraina trong suốt cuộc chiến này nhưng cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau về việc đổ máu. Khi quân Ukraina lần đầu tiên chiếm được Lviv, họ từ chối bắt con tin, các trung tâm tuyển mộ Ba Lan được dung thứ và thậm chí còn chuẩn bị tham gia đàm phán với phía Ba Lan, nhưng vấp phải sự kháng cự có vũ trang. Tuy nhiên, các nhà sử học Ba Lan mô tả nhiều ví dụ trong đó quân đội Ukraina sử dụng khủng bố để khuất phục người Ba Lan phải tuân theo. Chính quyền Ukraina cố gắng đe dọa cư dân Ba Lan tại Lviv bằng cách cử binh sĩ và xe tải có vũ trang xuống đường và giải tán đám đông có thể dẫn đến tuần hành của người Ba Lan. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Binh sĩ Ukraina tuần tra trên đường phố với súng cầm tay và súng máy nhắm vào người bộ hành; các nguồn tin Ba Lan cho rằng quân Ukraina bắn những người ngoài cuộc đang nhìn họ từ cửa sổ hoặc lối vào tòa nhà. trong khi người Ukraina cho rằng quân Ba Lan đang bắn vào binh sĩ của họ từ cửa sổ và phía sau cổng vào. Các chiến binh Ba Lan cũng thường mặc quần áo dân sự khi bắn vào binh sĩ Ukraina. Theo nhà sử học Christoph Mick, cả người Ba Lan và người Ukraina đều tham gia vào một cuộc chiến tuyên truyền, mỗi bên đều cáo buộc bên kia về tội ác chiến tranh và sự tàn bạo. Trong cuộc chiến tại Lviv, các y tá Ba Lan từng hỗ trợ các binh sĩ bị thương được cho là đã bị quân Ukraina bắt giữ và tra tấn trước khi bị hành quyết, trong khi các nguồn tin Ukraina cho rằng binh sĩ Ba Lan bắn các đội tuần tra y tế Ukraina và cáo buộc người Ba Lan hiếp dâm và khát máu.
Khi người Ba Lan chiếm được Lviv, một nhóm các tội phạm Ba Lan khác nhau được thả ra khỏi nhà tù, họ cùng dân quân và một số binh sĩ chính quy tiến hành cướp bóc các khu vực Do Thái và Ukraina trong thành phố, và lạm dụng thường dân địa phương. Theo nhà sử học Norman Davis người Ba Lan giết hại khoảng 340 thường dân, 2/3 trong số họ là người Ukraina và số còn lại là người Do Thái. Theo Christoph Mick, chỉ có người Do Thái bị giết trong những sự kiện này còn người Ukraina không bị sát hại nhưng phải chịu các hành động thù địch.
Theo các nhà sử học Ba Lan, trong quá trình chiến tranh, quân Ukraina tiến hành các vụ thảm sát người Ba Lan tại Sokoloniki, tại đây có 500 tòa nhà bị thiêu rụi và khoảng 50 người Ba Lan bị giết. Tại Zamarstynow, một chỉ huy người Ukraina cáo buộc thường dân Ba Lan ủng hộ phía Ba Lan và cho phép quân đội của ông ta tiến hành lục soát nhà cửa một cách tàn bạo, trong đó thường dân bị đánh đập, cướp bóc, sát hại và hãm hiếp. Lực lượng Ukraina cũng sát hại tù nhân chiến tranh trong những sự kiện này. Một ngày sau, quân Ba Lan hành quyết một nhóm tù nhân Ukraina để trả đũa. Vào ngày 24 tháng 11 năm 1919, làng Bilka Szlachecka bị quân Ukraina tấn công, làng bị thiêu rụi và dân thường tại đây bị thảm sát, với 45 thường dân bị sát hại và 22 người bị thương. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Tại Chodaczkow Wielki, 4 cô gái Ba Lan bị binh sĩ Ukraina sát hại và thi thể bị cắt xẻo. Một ủy ban đặc biệt của Ba Lan điều tra những hành động tàn bạo này xác định rằng những sự kiện thậm chí còn khốc liệt hơn đã xảy ra, nhưng từ chối đổ lỗi chúng cho dân tộc Ukraina mà đổ lỗi cho một tỷ lệ nhỏ trong xã hội Ukraina, chủ yếu là binh sĩ, nông dân và những người được gọi là "dân trí thức nửa vời" là giáo viên làng, cán bộ và hiến binh. Ủy ban bao gồm các đại biểu từ Ý và Pháp xác định rằng chỉ trong ba huyện đã có 90 vụ giết người xảy ra với thường dân ngoài các vụ cướp. Nhiều nhà thờ cũng bị lực lượng Ukraina mạo phạm. Các nữ tu từ ba tu viện bị hãm hiếp và sau đó bị sát hại bằng cách cho nổ tung bằng lựu đạn nổ. Có trường hợp người bị chôn sống. Tuy nhiên, ủy ban cũng lưu ý rằng một số dân làng Ukraina đã giấu người Ba Lan. Người đứng đầu ủy ban là Zamorski đề nghị bỏ tù thủ phạm của những tội ác tàn bạo, đồng thời thiết lập mối quan hệ thân thiện với người dân Ukraina dựa trên luật pháp hiện hành.
Nhìn chung, mặc dù không có bằng chứng nào về các cuộc đàn áp hàng loạt dân thường do chính phủ Ukraina hoặc Ba Lan thực hiện, do tính chất bán quân sự của các cuộc giao tranh nên hành động tàn bạo do binh sĩ hoặc lực lượng bán quân sự của cả hai bên thực hiện.
Hậu quả.
Khoảng 10.000 người Ba Lan và 15.000 người Ukraina chết trong cuộc chiến này, chủ yếu là binh sĩ. Các tù binh chiến tranh người Ukraina bị giam giữ trong các trại tù binh cũ của Áo tại Dąbie (Kraków), Łańcut, Pikulice, Strzałków và Wadowice.
Cả hai bên đều tiến hành bắt giữ hàng loạt thường dân. Đến tháng 7 năm 1919, có tới 25.000 người Ba Lan bị đưa vào các trại tập trung của Ukraina, tại Zhovkva, Zolochiv, Mykulyntsi, Strusiv, Yazlovets, Kolomyya và Kosiv. Thường dân, binh sĩ và linh mục Công giáo Ba Lan bị giam giữ trong những tháng mùa đông trong doanh trại không có hệ thống sưởi hoặc toa tàu với ít thức ăn, nhiều người sau đó chết vì lạnh, đói và bệnh thương hàn. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Sau chiến tranh, vào năm 1920–1921, hơn một trăm nghìn người bị chính phủ Ba Lan đưa vào các trại (thường được coi là trại giam hoặc đôi khi là trại tập trung). Trong nhiều trường hợp, tù nhân không được cung cấp thức ăn và chăm sóc y tế, một số bị bỏ đói, chết vì bệnh tật hoặc tự sát. Các nạn nhân không chỉ bao gồm binh lính và sĩ quan Ukraina mà còn cả các linh mục, luật sư và bác sĩ ủng hộ đại nghiệp Ukraina. Số người chết tại các trại này ước tính khoảng 20.000 người vì bệnh tật hoặc 30.000 người.
Sau chiến tranh, người Pháp vốn hỗ trợ Ba Lan về mặt ngoại giao và quân sự lúc này đã giành được quyền kiểm soát các mỏ dầu miền đông Galicia, dưới những điều kiện rất bất lợi cho Ba Lan.
Vào đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực được được Liên Xô sáp nhập và thuộc về CHXHCNXV Ukraina. Theo các quyết định của Hội nghị Yalta, cư dân Ba Lan tại Đông Galicia bị tái định cư sang Ba Lan, biên giới của Ba Lan được chuyển về phía tây, khu vực này vẫn nằm trong Ukraina Xô viết sau chiến tranh và hiện tạo thành phần cực tây của Ukraina độc lập.
Di sản.
Mặc dù 70 đến 75 nghìn người chiến đấu trong Quân đội Galicia Ukraina chiến bại và Galicia trở thành lãnh thổ Ba Lan, nhưng trải nghiệm về việc tuyên bố thành lập một nhà nước Ukraina và chiến đấu vì nó giúp tăng cường và làm sâu sắc thêm đáng kể khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa Ukraina tại Galicia. Kể từ thời kỳ giữa hai thế chiến, Galicia đã là trung tâm của chủ nghĩa dân tộc Ukraina.
Theo một nhà báo Ba Lan nổi tiếng giữa hai thế chiến, Chiến tranh Ba Lan–Ukraina là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại trong việc thành lập một nhà nước Ukraina tại Kyiv vào cuối năm 1918 và đầu năm 1919. Trong thời điểm quan trọng đó, lực lượng Galicia đông đảo, có kỷ luật tốt và miễn nhiễm với khả năng cộng sản lật đổ, có thể làm cán cân quyền lực nghiêng về phía nhà nước Ukraina. Thay vào đó, lực lượng này tập trung toàn bộ nguồn lực vào việc bảo vệ quê hương Galicia của họ. Khi các lực lượng miền tây Ukraina chuyển về phía đông vào mùa hè năm 1919 sau khi họ bị người Ba Lan áp đảo, lực lượng Nga đã phát triển đáng kể và tác động của quân Galicia không còn mang tính quyết định nữa. |
Chiến tranh Ba Lan–Ukraina | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824455 | Sau chiến tranh, những binh sĩ Ukraina chiến đấu trở thành chủ đề của các bài hát dân gian và mộ của họ là địa điểm hành hương hàng năm tại miền tây Ukraina và vẫn tồn tại đến thời Xô viết bất chấp đàn áp của giới chức Liên Xô đối với những người tôn vinh binh sĩ Ukraina.
Đối với người Ba Lan sống tại Đông Galicia, chiến thắng của quân Ba Lan trước Quân đội Galicia Ukraina và viễn cảnh khu vực này trở thành một phần của Cộng hòa Ba Lan mới tái lập, sau 146 năm thống trị của ngoại bang đã gây ra một làn sóng phấn khích lớn. Trong những năm sau chiến tranh, những trận chiến như trận Lviv được ví như những tấm gương nổi bật về chủ nghĩa anh hùng và tính kiên cường của người Ba Lan. Những trẻ em và thanh niên bảo vệ nghĩa trang Łyczakowski, những người hy sinh mạng sống để bảo vệ thành phố, chẳng hạn như Jerzy Bitschan đã trở thành những cái tên quen thuộc tại Ba Lan trong thời kỳ giữa hai thế chiến.
Thư mục.
(ukr.) Західно-Українська Народна Республіка 1918–1923. Енциклопедія. Т. 1 [archive]: А–Ж. Івано-Франківськ : Манускрипт-Львів, 2018. 688 с. ISBN 978-966-2067-44-6
(ukr.) Західно-Українська Народна Республіка 1918–1923. Енциклопедія. Т. 2 [archive]: З–О. Івано-Франківськ : Манускрипт-Львів, 2019. 832 с. ISBN 978-966-2067-61-3
(ukr.) Західно-Українська Народна Республіка 1918-1923. Енциклопедія. Т. 3 [archive]: П - С. Івано-Франківськ: Манускрипт-Львів, 2020.576 с. ISBN 978-966-2067-65-1
(ukr.) Західно-Українська Народна Республіка 1918-1923. Енциклопедія. Т. 4 [archive]: Т - Я. Івано-Франківськ: Манускрипт-Львів, 2021.688 с. ISBN 978-966-2067-72-9 |
Động đất Thanh Hải 2022 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824463 | Động đất Thanh Hải 2022 () là trận động đất xảy ra vào lúc 1:45 (), ngày 8 tháng 1 năm 2022. Trận động đất có cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 13 km. Hậu quả trận động đất đã làm 9 người bị thương. |
Động đất Paphos 2022 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824469 | Động đất Paphos 2022 là trận động đất xảy ra vào lúc 3:07 (), ngày 11 tháng 1 năm 2022. Trận động đất có cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 21 km. Động đất đã tạo ra sóng thần nhỏ khoảng 10 cm. Hậu quả trận động đất đã làm 3 người chết, 1 người bị thương. |
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng E) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824475 | Bảng E của Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 là một trong 10 bảng để quyết định đội sẽ vượt qua vòng loại cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Đức. Bảng E bao gồm 5 đội: , , , và . Các đội tuyển sẽ thi đấu với nhau mỗi trận khác trên sân nhà và sân khách với thể thức đấu vòng tròn.
Hai đội tuyển đứng nhất và nhì bảng sẽ vượt qua vòng loại trực tiếp cho trận chung kết. Các đội tham gia vòng play-off sẽ được quyết định dựa trên thành tích của họ trong UEFA Nations League 2022–23.
Các trận đấu.
Lịch thi đấu đã được xác nhận bởi UEFA vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, sau lễ bốc thăm một ngày. Thời gian là CET/CEST, như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau, nằm trong dấu ngoặc đơn).
Kỷ luật.
Một cầu thủ sẽ bị đình chỉ tự động trong trận đấu tiếp theo cho các hành vi phạm lỗi sau đây: |
Dayanand Shetty | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824491 | Dayanand Chandrashekhar Shetty (sinh ngày 11 tháng 12 năm 1969 tại Karnataka, Ấn Độ) là một nam diễn viên, người mẫu, doanh nhân và người dẫn chương trình người Ấn Độ. Ông được biết đến qua vai diễn Thanh tra Daya trong loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Ông được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng của Giải Vàng vào năm 2018.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Dayanand Shetty sinh ngày 11 tháng 12 năm 1969 trong một gia đình thuộc cộng đồng Bunt nói tiếng Tulu tại Shirva, huyện Udupi bang Mysuru (nay là Karnataka, Ấn Độ). Ông từng là một vận động viên thể thao trước khi chuyển sang làm diễn viên do gặp chấn thương ở chân. Ông từng là một vận động viên ném đĩa, môn thể thao này đã giúp ông giành được nhiều giải thưởng trong sự nghiệp. Năm 1996, ông giành chức vô địch ném đĩa tại giải đấu ở bang Maharastra. Ông đã từng đóng nhiều bộ phim quảng cáo và từng nhận giải thưởng với tư cách là một diễn viên kịch. Ông đã giành giải thưởng "Nam diễn viên xuất sắc nhất" với vai diễn cho vở kịch bằng tiếng Tulu mang tên "Secret".
Năm 1998, ông được khán giả biết đến qua vai diễn "Thanh tra Daya" trong "Đội đặc nhiệm CID". Trong bộ phim, ông cùng với Shivaji Satam và Aditya Srivastava là bộ ba diễn viên chính. Ông cũng viết kịch bản cho một số tập của bộ phim.
Ông cũng đóng một số bộ phim quảng cáo, phim điện ảnh và phim truyền hình dài tập. Ông cũng từng nhận giải thưởng "Best Looking Guys" (tạm dịch là: "Chàng trai đẹp nhất màn ảnh") vào năm 2002. Ông cũng tham gia "Jhalak Dikhhla Jaa" (mùa 4 năm 2010), một chương trình truyền hình thực tế về khiêu vũ ở Ấn Độ.
Ông từng tham gia mùa 5 của chương trình "", một chương trình truyền hình thực tế về lĩnh vực xây dựng ở Ấn Độ, và đã thực hiện nhiều tình huống nguy hiểm, tuy nhiên ông bị loại và xếp thứ 13 chung cuộc.
Ông và Shivaji Satam từng xuất hiện với tư cách khách mời trong chương trình "Sa Re Ga Ma Pa L'il Champs" (phát sóng nhân dịp kỷ niệm 64 năm ngày Quốc khánh Ấn Độ vào năm 2011). |
Dayanand Shetty | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824491 | Năm 2014, ông cùng với Shivaji Satam, Aditya Srivastava và Narendra Gupta đã từng tham gia chương trình "Kaun Banega Crorepati" (Ai là triệu phú phiên bản tiếng Hindi). Ông từng nhận giải "Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất" tại Giải Vàng 2012.
Đời tư.
Ông từng kết hôn với Smitha Shetty và cả hai người đã có một cô con gái tên là Viva Shetty. |
Danh sách biểu tượng cảm xúc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824492 | Đây là danh sách các biểu tượng cảm xúc thường xuyên được sử dụng hoặc những miêu tả bằng văn bản về tâm trạng hoặc nét mặt của người viết dưới dạng biểu tượng . Ban đầu, các biểu tượng này bao gồm nghệ thuật ASCII, và sau đó là nghệ thuật Shift JIS cùng với nghệ thuật Unicode. Trong thời gian gần đây, các biểu tượng đồ họa, cả tĩnh và cả động, đã gia nhập cùng các biểu tượng cảm xúc dựa trên văn bản truyền thống; chúng thường được gọi là các "emoji".
Biểu tượng cảm xúc (emoticons) thường được chia thành ba nhóm chính: phong cách phương Tây (chủ yếu từ Mỹ và châu Âu) hoặc đọc theo chiều ngang (mặc dù không phải tất cả đều ở dạng ngang); phong cách phương Đông hoặc đọc theo chiều dọc (chủ yếu từ khu vực Đông Á); và phong cách 2channel (ban đầu được sử dụng trên 2channel và các diễn đàn tin nhắn khác tại Nhật Bản). Cách giải thích phổ biến nhất cho những phong cách khác nhau này là tại phương Đông, đôi mắt đóng vai trò chính trong biểu hiện khuôn mặt, trong khi tại phương Tây, cả khuôn mặt thường được sử dụng.
Phương tây.
Các biểu tượng cảm xúc kiểu phương Tây hầu hết được viết theo chiều từ trái sang phải như thể chiếc đầu được quay ngược chiều kim đồng hồ 90 độ. Người ta thường sẽ nhìn thấy mắt ở bên trái ngoài cùng, tiếp theo là mũi (thường không được bao gồm) và sau đó là miệng. Thông thường, dấu hai chấm được sử dụng làm mắt của khuôn mặt, trừ phi nháy mắt mà trong trường hợp đó, dấu chấm phẩy được sử dụng. Tuy nhiên, dấu bằng, số 8, hoặc chữ cái in hoa B cũng được sử dụng để biểu thị con mắt bình thường, mắt mở rộng hoặc những người đeo kính. Các biểu tượng cho miệng khác nhau, ví dụ: ")" cho khuôn mặt cười hoặc "(" cho khuôn mặt buồn. Người ta cũng có thể thêm "}" sau ký tự miệng để biểu thị bộ râu.
Phương đông.
Các biểu tượng cảm xúc phương Đông thường không được xoay theo chiều ngang và có thể bao gồm các ký tự phi Latinh để tăng thêm độ phức tạp. Những biểu tượng cảm xúc này lần đầu tiên xuất hiện tại Nhật Bản, nơi chúng được gọi là các "kaomoji" (nghĩa đen là "ký tự khuôn mặt"). |
Danh sách biểu tượng cảm xúc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824492 | Hình thức cơ bản bao gồm một chuỗi dấu ngoặc tròn mở, ký tự cho mắt trái, ký tự cho miệng hoặc mũi, ký tự cho mắt phải và dấu ngoặc tròn đóng. Các dấu ngoặc đơn thường được bỏ qua đối với kaomoji nổi tiếng thông dụng. Phần miệng/mũi cũng có thể bị lược bỏ nếu như đôi mắt đóng vai trò quan trọng hơn nhiều.
Hầu hết các ký tự Đông Á thường được viết trong một hình vuông vô hình với chiều rộng cố định. Mặc dù cũng có lịch sử về các ký tự bán giác, nhưng nhiều phông chữ Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc bao gồm các thể có độ rộng toàn giác cho các chữ cái trong bảng ký tự La Mã cơ bản, bao gồm cả các chữ số và dấu câu như trong ASCII Hoa Kỳ. Các dạng thể có chiều rộng cố định này cũng có sẵn ở dạng Unicode. Chủ yếu tùy thuộc vào chế độ nhập có sẵn, kaomoji có thể sử dụng các loại ký tự phương Tây này, nhưng hầu như không bao giờ dựa vào bất kỳ chiều rộng cụ thể nào để có thể nhận biết được.
Biểu tượng cảm xúc 2channel.
Một số biểu tượng cảm xúc phương Đông ban đầu được phát triển trên trang thảo luận của diễn đàn 2channel Nhật Bản. Một vài trong số này có độ rộng lớn hơn (được tạo thành từ nhiều ký tự) hơn "kaomoji" thông thường hoặc trải dài trên nhiều dòng văn bản. Nhiều người sử dụng các ký tự từ các bộ ký tự khác ngoài tiếng Nhật và tiếng Latin.
Ký tự Unicode.
Có nhiều biểu tượng cảm xúc được bao gồm sẵn dưới dạng các ký tự trong bảng mã Unicode tiêu chuẩn, trong bảng mã các "Biểu tượng linh tinh", bảng các "Biểu tượng cảm xúc", và bảng "Ký hiệu và chữ tượng hình bổ sung". |
Pentel | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824494 | là một doanh nghiệp tư nhân sở hữu Nhật Bản, công ty sản xuất các mặt hàng văn phòng phẩm. Tên gọi bắt nguồn từ một trong những sản phẩm nổi danh nhất của công ty và là cách chơi chữ của các từ tiếng Anh "pen" và "pastel." Pentel cũng đồng thời là nhà phát minh ra công nghệ bút dạ xoá được. Hầu hết các sản phẩm của Pentel được sản xuất tại Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Mexico và Pháp.
Công ty được cho là đã phát minh ra bút đầu sợi (felt-tip/fibre-tip) năm 1963.
Ngày nay, Pentel sản xuất một loạt các sản phẩm bao gồm dụng cụ viết, hoạ cụ và đồ dùng văn phòng.
Lịch sử.
Công ty được thành lập vào năm 1946 với tên gọi "Công ty Văn phòng phẩm Nhật Bản" ("Nihonbungu Kabushiki Gaisha") tại Tokyo bởi Yokio Horie, với mục đích sản xuất bút sáp màu và bút pastel. Những sản phẩm đầu tiên được bán ra thị trường vào năm 1951, tiếp theo là bút chì vào năm 1960.
Năm 1963, Pentel ra mắt bút "Sign Pen", một loại bút sợi fibre-tip được sử dụng bởi Tổng thống Hoa Kỳ thời đó Lyndon B. Johnson, người đã mua một tá bút để ký tên trên các bức ảnh, ngoài việc được chọn làm dụng cụ viết chính thức của NASA và được mang lên không gian trong nhiệm vụ Gemini năm 1966. Nhu cầu đối với bút "Sign Pen" lớn tới nỗi các nhà máy tại Tokyo không thể cung cấp đủ các đơn hàng. Bút "Sign Pen" là một trong những sản phẩm thành công nhất của Pentel với hơn hai tỷ đơn vị được bán ra.
Năm 1971, công ty đổi tên thành "Công ty Pentel Co. Ltd." và một năm sau, họ ra mắt bút bi mực nước màu xanh lá cây. Horie tiếp tục giữ chức vụ Chủ tịch công ty cho đến khi ông tạ thế năm 2010.
Vào thập kỷ 2010, Pentel ra mắt "Bút lông Pocket", một loại bút fudepen sử dụng hộp tiếp mực cartridge không thấm nước có thể thay thế, tương tự như bút máy (khác với bút cọ thông thường, mà chúng giống như bút dạ.)
Bút cọ (được thiết kế, khuyên dùng cho thư pháp) cũng trở nên phổ biến trong số các họa sĩ truyện tranh, được ưa chuộng dùng vào các tác phẩm của họ thay vì bút nhúng hoặc bút cọ truyền thống. Một trong những nghệ sĩ sử dụng bút Pentel này là Neal Adams.
Các sản phẩm.
Văn phòng phẩm. |
Pentel | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824494 | Các sản phẩm.
Văn phòng phẩm.
Các dòng sản phẩm bao gồm "Sharp Kerry", "Feel-It",
"'Sharp P200 series", "Graph 1000", "Graphgear" ("500, 800 và 1000"), "Graphlet", "Sharplet", "Smash", "Stein", "Orenz", "OrenzNero" (bút chì cơ hoặc "sharps"); "Ain" và "Hi-Polymer" (ngòi bút chì kim, gôm tẩy); "Energel" (bút mực gel); "Vicuna" (bút bi mực hybrid); "Pentel Pen" (bút dạ vĩnh viễn), và "Sign Pen" (bút dạ ngòi mảnh).
Một loạt các sản phẩm được sản xuất bởi Pentel bao gồm:
Các sản phẩm khác.
Các sản phẩm thiết bị điện tử và thiết bị sản xuất do Pentel sản xuất bên cạnh văn phòng phẩm: |
Động đất Kita Mino 1961 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824503 | là trận động đất xảy ra vào lúc 14:33 (JST), ngày 19 tháng 8 năm 1961. Trận động đất có cường độ 7.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất làm 8 người chết, 48 người bị thương. |
Uvanilla olivacea | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824509 | Uvanilla olivacea là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài ốc biển này được tìm thấy từ La Paz ở Vịnh California về phía nam tới Oaxaca, Mexico . |
Uvanilla unguis | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824512 | Uvanilla unguis là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Kích thước vỏ của loài này thay đổi từ 20 mm đến 40 mm.
Phân bổ.
Loài ốc biển này này phân bố từ Vịnh California, Tây Mexico tới Panama |
Cookia kawauensis | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824516 | Cookia kawauensis là một loài ốc biển đã tuyệt chủng, thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài này được ghi nhận từng xuất hiện ở vùng biển New Zealand. |
Lunella moniliformis | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824517 | Lunella moniliformis là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Loài này đôi khi được xem là đồng nghĩa của "Lunella granulata"
Mô tả.
Chiều dài của vỏ loài này thay đổi trong khoảng từ 20 mm đến 25 mm.
Phân bổ.
Loài ôc biển này phân bố ngoài khơi Việt Nam .
Ghi chú.
Thông tin bổ sung về loài này: |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada năm 2023 là cuộc đình công của các công nhân liên bang Canada thuộc Nghiệp đoàn Liên minh Dịch vụ công Canada (PSAC). Cuộc đình công diễn ra từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 3 tháng 5 năm 2023, mặc dù các đơn vị thương lượng của Hội đồng Tài chính đã chấm dứt đình công vào ngày 1 tháng 5.
Cuộc đình công là sự kiện đỉnh điểm của hơn một năm thương lượng tập thể, sau khi thỏa thuận tập thể trước đó hết hạn vào năm 2021. Và nguyên nhân chính xuất phát từ những bất đồng giữa PSAC và Chính phủ Canada (đại diện trong cuộc thương lượng của Ban Thư ký Hội đồng Tài chính Canada) về các vấn đề liên quan đến làm việc từ xa, nâng cao tiện nghi làm việc và tăng lương nhằm giảm gánh nặng lạm phát. Đình công ảnh hưởng đến một số chương trình liên bang, bao gồm gia hạn hộ chiếu và xử lý nhập cư. Nó cũng được cho là sẽ có tác động đến vấn đề thuế, chẳng hạn như chậm trễ trong xử lý, với thời hạn nộp thuế không thay đổi là ngày 30 tháng 4 năm 2023 (thực tế là ngày 1 tháng 5 năm 2023, vì ngày 30 tháng 4 là Chủ Nhật).
Đầu ngày 1 tháng 5, PSAC thông báo rằng các đơn vị thương lượng , , và đã đạt được thỏa thuận dự kiến và cho biết nhân viên trong các đơn vị này phải quay lại làm việc lúc 9 giờ sáng (giờ ET) vào ngày 1 tháng 5, hoặc theo lịch trình chuyển sang ngày hôm sau của họ. Công nhân từ đơn vị thương lượng của Liên minh Nhân viên Thuế (UTE) tiếp tục đình công cho đến khi một thỏa thuận dự kiến được công bố vào ngày 3 tháng 5, chấm dứt hoàn toàn cuộc đình công. Lúc đó, họ được yêu cầu trở lại làm việc trước ngày 4 tháng 5, chậm nhất là 11:30 sáng (giờ ET).
Bối cảnh.
Nghiệp đoàn Liên minh Dịch vụ công Canada (PSAC) là công đoàn khu vực công lớn nhất ở Canada, đại diện cho 159.000 nhân viên dịch vụ công, trong đó có 120.000 người thuộc Hội đồng Tài chính Canada và 39.000 thuộc Cơ quan Thuế Canada (CRA) thuộc thành phần Liên minh Nhân viên Thuế (UTE) của PSAC.
Hợp đồng làm việc trước đây của các nhân viên PSAC đã hết hạn vào năm 2021. |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | Kể từ tháng 6 năm 2021, PSAC đã thương lượng với Chính phủ Canada để thiết lập một hợp đồng mới, chủ yếu nhằm cố gắng tăng lương cho công nhân để theo kịp với đà tăng của lạm phát, kéo theo đó là gia tăng chi phí sinh hoạt. Nhân viên CRA yêu cầu tăng lương 30% trong ba năm tới, trong khi những người khác yêu cầu tăng 13,5%, tương đương mức tăng 4,5% hàng năm. Tuy nhiên, Chính phủ Canada đưa ra mức tăng 9%, nhưng PSAC không chấp nhận. Ngoài ra, PSAC liên tục kêu gọi một thỏa thuận liên quan đến làm việc từ xa, bất chấp lệnh của Hội đồng Tài chính vào tháng 12 năm 2022 yêu cầu người lao động phải làm việc tại các văn phòng chính phủ ít nhất 40–60% thời gian (trong hầu hết hai đến ba ngày mỗi tuần mỗi trường hợp). Công đoàn cũng kêu gọi tăng đào tạo chống phân biệt chủng tộc và tăng giới hạn đối với công việc theo hợp đồng.
Vào tháng 5 năm 2022, công đoàn đã đến gặp hội đồng lao động, và sau đó công bố một báo cáo không mang tính ràng buộc vào tháng 1 năm 2023. Báo cáo khuyến nghị tăng các khoản phụ cấp cho nhân viên và cải thiện chế độ nghỉ phép gia đình, phí bảo hiểm theo ca và tính linh hoạt. Một thông cáo báo chí tiết lộ rằng chính phủ sẽ đàm phán với PSAC vào tháng 4.
Cả Chính phủ Canada và công đoàn đều đồng ý rằng cần tăng lương cho người lao động. Tuy nhiên, mức lương tăng còn phải được đàm phán. Bất chấp những nỗ lực để đạt được sự đồng thuận, các cuộc thảo luận giữa các bên vẫn tiến triển chậm. Kết quả là vào ngày 22 tháng 2 năm 2023, một cuộc bỏ phiếu đình công của các thành viên đã được Hội đồng Tài chính của PSAC tổ chức. Thành phần UTE của PSAC đã tổ chức một cuộc bỏ phiếu đình công vào ngày 31 tháng 1. Các đơn vị thương lượng của Hội đồng Tài chính bắt đầu đình công hợp pháp vào ngày 12 tháng 4 tiếp đó là đơn vị thương lượng UTE vào ngày 14 tháng 4.
Đình công.
Ngày 7 tháng 4, nhóm thương lượng CRA đã bỏ phiếu ủng hộ quan điểm hợp pháp hóa đình công. |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | Ngày 12 tháng 4, chủ tịch quốc gia của PSAC, Chris Aylward, thông báo rằng đơn vị thương lượng của Hội đồng Tài chính có kết quả bỏ phiếu áp đảo ủng hộ việc tham gia vào quan điểm hợp pháp hóa đình công, do đó cho phép nhóm này có thời hạn 60 ngày để bắt đầu một cuộc đình công lao động. Ngày 19 tháng 4 lúc 12:01 sáng (giờ ET), cuộc đình công bắt đầu. Khoảng 100.000 trong số 159.000 thành viên PSAC đã dừng việc để tham gia biểu tình tại hàng trăm địa điểm trên khắp đất nước. Tuy nhiên, khoảng 30.000–46.000 lao động (bao gồm khoảng 8.600 nhân viên Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada cấu thành đơn vị thương lượng của PSAC) được coi là thành phần thiết yếu (có nghĩa họ được coi là cần thiết cho sự an toàn hoặc an ninh của công chúng hoặc một bộ phận công chúng). Điều có có nghĩa là nhóm lao động này không thể tham gia đình công và cần tiếp tục làm việc, cũng như những người đình công không thể cản trở những người lao động thiết yếu đi làm.
Vùng Thủ đô Quốc gia.
Ở Vùng Thủ đô Quốc gia, các công nhân đình công đã biểu tình tại 13 địa điểm biểu tình khác nhau, bao gồm phía trước Văn phòng Thủ tướng và Hội đồng Cơ mật, Đồi Quốc hội, văn phòng Hội đồng Tài chính, văn phòng Bộ trưởng Du lịch, Văn phòng Bộ Quốc phòng, Văn phòng Cơ quan Thu nhập Canada, Tunney's Pasture, trụ sở Bưu chính Canada, Bộ Tài chính, cũng như văn phòng của các nghị sĩ Greg Fergus, Mona Fortier, Marie-France Lalonde và Steven MacKinnon.
Toàn quốc.
Công nhân đình công tại nhiều địa điểm khác nhau trên khắp Canada, bao gồm các văn phòng hộ chiếu ở Ontario, Văn phòng Đặc xá ở Edmonton, văn phòng Tài nguyên Thiên nhiên Canada ở Vancouver, văn phòng Chiến lược Hưu trí Canada ở Victoria, các căn cứ quân sự ở Québec, cũng như các văn phòng địa phương ở Winnipeg, New Brunswick, Newfoundland, Nova Scotia và Đảo Hoàng tử Edward.
Đàm phán.
Ngày 24 tháng 4, Mona Fortier đã viết một bức thư ngỏ gửi tới các công chức và người dân Canada, trong đó bà xác định bốn lĩnh vực bất đồng chính còn tồn đọng giữa chính phủ và PSAC: tiền lương, làm việc từ xa, hợp đồng gia công phần mềm và các quy định về thâm niên trong trường hợp bị sa thải. |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | PSAC đã trả lời bức thư này bằng cách nhắc lại mong muốn đạt được một "thỏa thuận công bằng". Ngày 26 tháng 4, Fortier tuyên bố rằng cô thất vọng với những lời đề nghị mà các nhà đàm phán PSAC đưa ra. Ngày 28 tháng 4, Ban Thư ký Hội đồng Tài chính Canada đưa ra "đề nghị toàn diện được cập nhật cuối cùng nhằm giải quyết tất cả các nhu cầu còn lại của PSAC", mà không tiết lộ chi tiết về lời đề nghị cho công chúng. Cùng ngày, PSAC xác nhận đã nhận được lời đề nghị, nhưng dự kiến các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục kéo dài đến cuối tuần. Đầu giờ ngày 1 tháng 5, vào khoảng 1:20 sáng (giờ ET), PSAC xác nhận rằng họ đã đạt được thỏa thuận dự kiến cho các đơn vị thương lượng , , và tại Hội đồng Tài chính, và các nhóm này sẽ phải quay lại làm việc lúc 9 giờ sáng (giờ ET) ngày 1 tháng 5 hoặc ca làm việc tiếp theo theo lịch trình của họ sau ngày đó.
Tác động.
Tác động đến các chương trình, dịch vụ và hoạt động liên bang.
Trong buổi họp báo vào ngày 19 tháng 4 năm 2023, các bộ trưởng Mona Fortier (Chủ tịch Hội đồng Tài chính), Karina Gould (Bộ trưởng Gia đình, Trẻ em và Phát triển xã hội), Diane Lebouthillier (Bộ trưởng Thu nhập Quốc gia) và Sean Fraser (Bộ trưởng Nhập cư, Người tị nạn và Quyền công dân) đã nêu các tác động của cuộc đình công đối với một số chương trình và hoạt động của liên bang. Trong số những tác động này có chậm trễ xử lý tờ khai thuế thu nhập và đơn xin nhập cư, cũng như chỉ cấp hộ chiếu trong các tình huống nhân đạo hoặc khẩn cấp.
Tác động kinh tế.
Chính phủ Canada tuyên bố rằng cuộc đình công sẽ không ảnh hưởng đến dòng người và hàng hóa bình thường ra vào đất nước. Tuy nhiên, cuộc đình công có quy mô lớn cỡ này của liên bang trước đây (vào năm 1991) đã gây ra chậm trễ trong một số chuyến hàng hóa quốc tế, cũng như gián đoạn các chuyến bay và du lịch quốc tế. |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | Charles St-Arnaud, nhà kinh tế trưởng tại Trung tâm Alberta, suy đoán rằng mức độ tăng lương do đàm phán có thể khiến các công đoàn khác làm theo, và điều này có thể gây ra lạm phát, bởi vì việc nhiều người yêu cầu mức lương cao hơn có thể duy trì chu kỳ lạm phát bằng cách tăng sức mua của người tiêu dùng, từ đó kích thích nhu cầu về nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn và do đó gây áp lực về giá lên chi phí. Vì thị trường lao động đang bị thắt chặt, các công ty tư nhân có thể phải trả lương ngang bằng với lĩnh vực công để ngăn những người có triển vọng chuyển sang làm việc cho chính phủ. Tuy nhiên, bất kể lương tăng như thế nào, khu vực tư nhân vẫn có khả năng hấp thụ chi phí thay vì tăng giá và Ngân hàng Canada có khả năng kiểm soát nhu cầu tăng tiềm năng (do mức lương cao hơn) bằng cách tăng lãi suất. Từ đó, có thể hạn chế khả năng của các công đoàn khác đảm bảo lợi ích tương đương.
Mô hình từ Hội đồng Hội nghị Canada cho rằng thu nhập hộ gia đình ở Vùng Thủ đô Quốc gia sẽ giảm 44 triệu đô la mỗi tuần, chiếm 5% tổng chi phí và tiền lương ở CMA, vì chi phí đình công thấp hơn đáng kể so với mức lương thông thường của người lao động. Do đó, một cuộc đình công kéo dài sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến các doanh nghiệp hướng tới người tiêu dùng như nhà hàng và nhà bán lẻ. Đồng thời, đình công cũng có thể có tác động rộng hơn đến nền kinh tế Canada do các chương trình và dịch vụ của chính phủ bị gián đoạn kéo dài. Ngoài ra, việc công nhân đình công không nhận được tiền lương thường xuyên (và thay vào đó được công đoàn trả) sẽ kéo giảm chi tiêu chính phủ (mặc dù có thể ít hơn so với mức lương bị mất), và điều này sẽ tác động tiêu cực đến GDP danh nghĩa.
Phản ứng.
Liên đoàn Doanh nghiệp Độc lập Canada, trong một thông cáo báo chí ngày 19 tháng 4 do chủ tịch Dan Kelly soạn thảo, đã bày tỏ lo ngại về tác động của cuộc đình công. |
Cuộc đình công của công nhân liên bang Canada 2023 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824519 | Họ kêu gọi Chính phủ Canada đảm bảo rằng tất cả các bộ phận duy trì dịch vụ đầy đủ cho doanh nghiệp nhỏ, tiếp tục đàm phán "để đảm bảo một thỏa thuận thương lượng tập thể dài hạn với chi phí phải chăng được ký kết" và chuẩn bị luật về quay lại làm việc "khi đình công kéo dài hơn". Restaurants Canada cũng bày tỏ lo ngại về tác động của cuộc đình công, đặc biệt là đối với ngành dịch vụ thực phẩm và rộng hơn là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Lãnh đạo Đảng NDP Jagmeet Singh bày tỏ sự ủng hộ đối với công nhân liên bang trước cuộc bỏ phiếu đình công. Ông cũng bày tỏ rằng NDP sẽ không ủng hộ bất kỳ đạo luật quay trở lại làm việc nào do Đảng Tự do đưa ra. Quan điểm này đã được Đại hội Lao động Canada chia sẻ trong một lá thư ngày 19 tháng 4, do chủ tịch Bea Bruske viết gửi đến Mona Fortier, rằng họ phản đối việc Liên đoàn Doanh nghiệp Độc lập Canada thúc đẩy luật quay trở lại làm việc.
Nghị sĩ Đảng Bảo thủ Stephanie Kusie bình luận về cuộc đình công bằng cách chỉ trích hành động của thủ tướng Justin Trudeau kể từ khi ông nhậm chức vào năm 2015, cho rằng đình công là do lạm phát, tăng ngân sách dịch vụ công và tăng chi tiêu cho tư vấn bên ngoài. |
Lunella smaragda | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824520 | Lunella smaragda là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Loài này có nắp mang màu xanh lá cây. Kích thước vỏ thay đổi từ 35 mm đến 70 mm.
Phân bổ.
"Lunella smaragda" là loài đặc hữu được tìm thấy ở cả bờ đá bãi triều và bãi triều thấp cũng như các nền đất mềm (bao gồm cả rong biển) của New Zealand. Chúng thường được tìm thấy xung quanh các đảo Bắc, Nam và Stewart, trên các tảng đá giữa thủy triều thấp và trung bình. |
Lunella viridicallus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824521 | Lunella viridicallus là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Loài này có chiều dài của vỏ đạt 3,2 mm.
Phân bổ.
Chúng thường xuất hiện ở Biển Đỏ . |
Pomaulax spiratus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824523 | Pomaulax spiratus là một loài ốc biển thuộc họ Turbinidae.
Phân bổ.
Loài này phân bố ở Vịnh California, Tây Mexico |
Prisogaster elevatus | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824524 | Prisogaster elevatus là một loài ốc biểnthuộc họ Turbinidae.
Mô tả.
Chiều dài của vỏ ốc có thể đạt đến 13 mm, đường kính là 12 mm.
Phân bổ.
Loài này phân bố ở Thái Bình Dương, ngoài khơi Chile. |
Weißach (Tegernsee) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824525 | Weißach là một con sông ở Bayern, Đức. Nó chảy vào hồ Tegernsee, mà lại chạy ra sông Mangfall, gần Rottach-Egern. |
Subsets and Splits