title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Canada
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=797
Các công dân có quyền, ở nơi đủ nhu cầu, nhận các dịch vụ của chính phủ liên bang bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, và các ngôn ngữ thiểu số có địa vị chính thức được đảm bảo có trường học sử dụng chúng tại tất cả các tỉnh và lãnh thổ. Tiếng Anh và tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ nhất của lần lượt 59,7 và 23,2 phần trăm dân số Canada. Xấp xỉ 98% người Canada có thể nói tiếng Anh hoặc tiếng Pháp: 57,8% chỉ nói tiếng Anh, 22,1% chỉ nói tiếng Pháp, và 17,4% nói cả hai ngôn ngữ. Các cộng đồng ngôn ngữ chính thức tiếng Anh và tiếng Pháp, được xác định bằng ngôn ngữ chính thức thứ nhất được nói, tương ứng chiếm 73% và 23,6% dân số. Hiến chương Pháp ngữ 1977 xác định tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của Québec. Mặc dù hơn 85% số người Canada nói tiếng Pháp sống tại Québec, song cũng có dân số Pháp ngữ đáng kể tại Ontario, Alberta, và nam bộ Manitoba; Ontario là tỉnh có nhiều dân số Pháp ngữ nhất bên ngoài Québec. New Brunswick là tỉnh chính thức song ngữ duy nhất, có cộng đồng thiểu số Acadia nói tiếng Pháp chiếm 33% dân số. Cũng có các nhóm người Acadia tại tây nam bộ Nova Scotia, trên đảo Cape Breton, và qua trung bộ và tây bộ đảo Prince Edward. Các tỉnh khác không có ngôn ngữ chính thức như vậy, song tiếng Pháp được sử dụng như một ngôn ngữ trong giảng dạy, trong tòa án, và cho các dịch vụ chính quyền khác, cùng với tiếng Anh. Manitoba, Ontario, và Québec cho phép nói cả tiếng Anh và tiếng Pháp tại các cơ quan lập pháp cấp tỉnh, và các đạo luật được ban hành bằng cả hai ngôn ngữ. Tại Ontario, tiếng Pháp có một số địa vị pháp lý, song không hoàn toàn là ngôn ngữ đồng chính thức. Có 11 nhóm ngôn ngữ Thổ dân, bao gồm hơn 65 phương ngôn riêng biệt. Trong số đó, chỉ có Cree, Inuktitut và Ojibway là có số người nói thành thạo đủ lớn để được xem là có thể sinh tồn trường kỳ. Một vài ngôn ngữ thổ dân có địa vị chính thức tại Các Lãnh thổ Tây Bắc. Inuktitut là ngôn ngữ chính tại Nunavut, và là một trong ba ngôn ngữ chính thức tại lãnh thổ này. Năm 2016, hơn 7,3 triệu người Canada kê khai ngôn ngữ mẹ đẻ của họ là một ngôn ngữ phi chính thức.
Canada
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=797
Một số ngôn ngữ không chính thức phổ biến nhất bao gồm tiếng Trung Quốc (1.227.680 người nói như ngôn ngữ mẹ đẻ), Tiếng Punjabi (501.680), tiếng Tây Ban Nha (458.850), tiếng Tagalog (431,385), tiếng Ả Rập (419,895), tiếng Đức (384,040) và tiếng Ý (375,645). Văn hóa. Văn hóa Canada rút ra từ những ảnh hưởng của các dân tộc thành phần, và các chính sách nhằm thúc đẩy đa nguyên văn hóa được bảo vệ theo hiến pháp.. Québec là nơi có bản sắc mạnh hóa mạnh, và nhiều nhà bình luận nói tiếng Pháp nói về một văn hóa Québec khác biệt với văn hóa Canada Anh ngữ. Tuy nhiên, về tổng thể, Canada ở trong thuyết một khảm văn hóa – một tập hợp của vài tiểu văn hóa vùng miền, thổ dân, và dân tộc. Các chính sách của chính phủ như tài trợ công khai chăm sóc sức khỏe, áp thuế cao hơn để tái phân phối của cải, xóa bỏ tử hình, những nỗ lực mạnh mẽ nhằm loại trừ nghèo khổ, kiểm soát súng nghiêm ngặt, và hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính là những chỉ thị xã hội hơn nữa của các giá trị chính trị và văn hóa Canada. Về mặt lịch sử, Canada chịu ảnh hưởng của các văn hóa và truyền thống Anh Quốc, Pháp, và thổ dân. Thông qua ngôn ngữ, nghệ thuật và âm nhạc, các dân tộc thổ dân tiếp tục có ảnh hưởng đến bản sắc Canada. Nhiều người Canada xem trọng đa nguyên văn hóa và nhìn nhận Canada vốn đã đa nguyên văn hóa. Truyền thông và giải trí Mỹ phổ biến, nếu không nói là chi phối, tại Canada Anh ngữ; ngược lại, nhiều văn hóa phẩm và nghệ sĩ giải trí của Canada thành công tại Hoa Kỳ và toàn cầu. Việc duy trì một văn hóa Canada riêng biệt được chính phủ ủng hộ thông qua các chương trình, các đạo luật, và các thể chế như Công ty Phát thanh-Truyền hình Canada (CBC), Cục Điện ảnh Quốc gia Canada (NFB), và Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada (CRTC). Nghệ thuật thị giác Canada chịu sự chi phối của các cá nhân như Tom Thomson – họa sĩ nổi tiếng nhất của quốc gia – hay Group of Seven (nhóm 7 họa sĩ). Sự nghiệp hội họa phong cảnh Canada của Tom Thomson kéo dài một thập kỷ cho đến khi ông mất vào năm 1917 ở tuổi 39.
Canada
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=797
Group of Seven là các họa sĩ mang một tiêu điểm dân tộc chủ nghĩa và duy tâm chủ nghĩa, họ trưng bày các tác phẩm đặc biệt của mình lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1920. Mặc dù theo tên gọi thì có nghĩa là có bảy thành viên, song năm họa sĩ – Lawren Harris, A. Y. Jackson, Arthur Lismer, J. E. H. MacDonald, và Frederick Varley – chịu trách nhiệm về khớp nối các ý tưởng của Nhóm. Frank Johnston, và Franklin Carmichael cũng từng tham gia Nhóm. A. J. Casson trở thành một phần của Nhóm vào năm 1926. Một nghệ sĩ Canada nổi tiếng khác cũng liên kết với Group of Seven, đó là Emily Carr, bà được biết đến với các bức họa phong cảnh và chân dung về những người bản địa tại vùng Duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương. Kể từ thập niên 1950, các tác phẩm nghệ thuật Inuit được chính phủ Canada dùng làm quà tặng cho giới chức ngoại quốc cấp cao. Ngành công nghiệp âm nhạc của Canada sản sinh ra những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, ban nhạc nổi tiếng ở tầm quốc tế. Một số nghệ sĩ Canada chính thống với các hợp đồng thu âm toàn cầu như Nelly Furtado, Avril Lavigne, Michael Bublé, Drake, The Weeknd và Justin Bieber đã đạt được những tầm cao mới về thành công quốc tế, đồng thời thống trị các bảng xếp hạng âm nhạc Mỹ. Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada quy định về âm nhạc phát sóng trong nước. Viện Hàn lâm Canada về Nghệ thuật và Khoa học Ghi âm trao giải thưởng Juno cho các thành tựu trong ngành công nghiệp âm nhạc Canada, giải được trao thưởng lần đầu tiên vào năm 1970. Âm nhạc ái quốc tại Canada đã có từ trên 200 năm, khi đó là một thể loại riêng biệt với chủ nghĩa ái quốc Anh Quốc, trên 50 năm trước khi có các bước pháp lý đầu tiên hướng đến độc lập. Tác phẩm ái quốc sớm nhất là "The Bold Canadian" (người Canada Dũng cảm), được viết vào năm 1812. Quốc ca của Canada là "O Canada" ban đầu do Phó tổng đốc Québec Théodore Robitaille đặt sáng tác cho ngày lễ Thánh Jean-Baptiste năm 1880, và được chấp thuận chính thức vào năm 1980. Calixa Lavallée là người viết nhạc, phổ theo một bài thơ ái quốc do Adolphe-Basile Routhier sáng tác. Nguyên bản lời bài chỉ viết bằng tiếng Pháp, rồi được dịch sang tiếng Anh vào năm 1906. Các môn thể thao có tổ chức tại Canada khởi đầu từ thập niên 1770.
Canada
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=797
Các môn thể thao quốc gia chính thức của Canada là khúc côn cầu trên băng và bóng vợt. Bảy trong số tám vùng đô thị lớn nhất của Canada – Toronto, Montréal, Vancouver, Ottawa, Calgary, Edmonton và Winnipeg – có câu lạc bộ có tư cách tham gia Giải khúc côn cầu Quốc gia (NHL). Các môn thể thao đông khán giả khác tại Canada gồm có bi đá trên băng và bóng bầu dục Mỹ; giải vô địch bóng bầu dục kiểu Canada (CFL) là giải đấu chuyên nghiệp. Golf, kéo co, leo núi, quần vợt, bóng chày, trượt băng, cricket, bóng chuyền, bóng bầu dục, cầu lông, đạp xe, bơi lội, bowling, bi lắc, bi-a canoeing, võ thuật, môn cưỡi ngựa, bóng quần, bóng bàn, trượt tuyết, Quyền anh, Đua xe, thể dục dụng cụ, bóng đá, futsal và bóng rổ được chơi nhiều trong giới thanh thiếu niên và ở mức nghiệp dư, song các giải đấu chuyên nghiệp không phổ biến. Canada có một đội tuyển bóng chày chuyên nghiệp là Toronto Blue Jays, và một đội tuyển bóng rổ chuyên nghiệp là Toronto Raptors. Canada tham gia vào hầu như mọi kỳ Thế vận hội kể từ lần đầu tham gia vào năm 1900, và từng tổ chức một số sự kiện thể thao quốc tế cao cấp, bao gồm Thế vận hội Mùa hè 1976 tại Montréal, Thế vận hội Mùa đông 1988 tại Calgary, Thế vận hội Mùa đông 2010 tại Vancouver và Giải vô địch bóng chày thế giới 1994 và Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2007. Canada sẽ có lần đầu tiên tổ chức một kỳ World Cup khi sẽ cùng Mỹ và Mexico tổ chức giải đấu này vào năm 2026. Các biểu tượng quốc gia của Canada chịu ảnh hưởng từ các nguồn tự nhiên, lịch sử, và Thổ dân. Việc sử dụng lá phong làm một biểu tượng của Canada bắt đầu từ đầu thế kỷ XVIII. Lá phong được mô tả trên các quốc kỳ hiện nay và trước đây, trên tiền xu, và trên quốc huy. Các biểu tượng đáng chú ý khác gồm có hải ly, ngỗng Canada, chim lặn mỏ đen, vương vị, Kị cảnh vương thất Canada, và gần đây hơn là 'cột vật tổ' và cột hay ụ đá nhân tạo Inuksuk.
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=799
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (tiếng Anh: Voice of America, viết tắt: VOA) là dịch vụ truyền thông đối ngoại chính thức của chính phủ Hoa Kỳ. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ sản xuất nội dung số, TV và radio bằng hơn 40 ngôn ngữ mà nó phân phối nội dung tới các đài liên kết trên toàn cầu. Đối tượng của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ chủ yếu khán giả nước ngoài, vì vậy Đài Tiếng nói Hoa Kỳ được tập trung vào nội dung có ảnh hưởng đến dư luận nước ngoài liên quan đến Hoa Kỳ và người dân nước này. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ được thành lập năm 1942, và hiến chương Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (Luật công chúng 94-350 và 103-415) đã được Tổng thống Gerald Ford ký thành luật năm 1976. Hiến chương này có sứ mệnh "truyền phát tin tức và thông tin chính xác, cân bằng và toàn diện tới khán giả quốc tế" và nó xác định các tiêu chuẩn bắt buộc về mặt pháp lý trong cách thức làm báo chí của VOA. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ có trụ sở tại Washington, D.C., và được Cơ quan Truyền thông Toàn cầu Hoa Kỳ, một cơ quan độc lập của chính phủ Hoa Kỳ giám sát. Tiền tài trợ được Quốc hội Hoa Kỳ trích lập hàng năm theo ngân sách dành cho các đại sứ quán và lãnh sự quán. Trong năm 2016, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ đã phát sóng khoảng 1.800 giờ chương trình phát thanh và truyền hình mỗi tuần cho khoảng 236,6 triệu người trên toàn thế giới với khoảng 1.050 nhân viên và ngân sách hàng năm do người dân Hoa Kỳ đóng thuế là 218,5 triệu USD. Lịch sử. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ được thành lập năm 1942 thuộc Văn phòng Thông tin thời chiến với những chương trình tuyên truyền nhằm vào khu vực châu Âu bị chiếm đóng bởi Đức và khu vực Bắc Phi. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ bắt đầu phát thanh vào ngày 24 tháng 2 năm 1942. Các trạm phát sóng được Đài Tiếng nói Hoa Kỳ sử dụng lúc đó là các trạm phát sóng ngắn của Hệ thống phát thanh Columbia (CBS) và Công ty phát thanh quốc gia (NBC). Đài Tiếng nói Hoa Kỳ bắt đầu phủ sóng phát thanh trên lãnh thổ Liên Xô vào ngày 17 tháng 2 năm 1947. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ được đặt dưới quyền giám sát của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ.
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=799
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ khi đó dính dáng đến các chương trình phát thanh mang tính tuyên truyền. Vào thập niên 1980, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ tăng thêm dịch vụ truyền hình cũng như các chương trình khu vực đặc biệt nhắm vào Cuba như Radio Marti và TV Marti. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ hiện nay nằm dưới sự quản lý của Ủy ban Phát thanh Quốc tế (IBB), là một bộ phận của Ủy ban Phát thanh chính quyền (BBG). Điều này dẫn đến sự tranh cãi về mức độ độc lập của các chương trình thông tin của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ đối với các đường lối chính sách của chính quyền (Hoa Kỳ).j Hoạt động. IBB sử dụng một loạt mạng lưới truyền thông trên toàn thế giới. Các trạm trong nước đặt tại Greenville ở Bắc Carolina và Delano ở California. Bên ngoài Mỹ, IBB có trạm tiếp vận đặt tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Hy Lạp, Philippines, São Tomé và Príncipe, Kuwait và Thái Lan. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ là một trong những cơ quan dưới quyền của Hội đồng quản lý phát sóng (BBG). BBG là một cơ quan thuộc chính phủ Hoa Kỳ và được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ kinh phí hoạt động, là một cơ quan tự trị của chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách thành viên lưỡng đảng. Bộ trưởng Ngoại giao có một ghế trong BBG.  BBG được thành lập như một bộ đệm để bảo vệ VOA và các đài truyền hình quốc tế, phi quân sự, do Hoa Kỳ tài trợ khỏi sự can thiệp chính trị. Nó thay thế Hội ​​đồng Phát thanh Quốc tế (BIB) giám sát việc cấp vốn và hoạt động của Đài Châu Âu Tự do / Đài Tự do , một chi nhánh của VOA. Theo luật pháp Hoa Kỳ thì Đài Tiếng nói Hoa Kỳ bị cấm phát thanh trực tiếp tới công dân Mỹ. Đạo luật được sửa đổi do việc thông qua Điều khoản của "Đạo luật Hiện đại hóa Smith-Mundt trong " . Mục đích của đạo luật năm 1948 là bảo vệ công chúng Mỹ khỏi các hành động tuyên truyền của chính phủ của họ và không có sự cạnh tranh với các công ty tư nhân của Mỹ.  Sửa đổi có mục đích thích ứng với Internet và cho phép công dân Mỹ yêu cầu truy cập nội dung VOA.
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=799
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ hiện nay phát thanh bằng hơn 50 thứ tiếng, bao gồm cả tiếng Anh đặc biệt (tiếng Anh với từ vựng và ngữ pháp được đơn giản hóa). Địa chỉ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ là 330 Independence Avenue, Washington, D.C., 20547. Nhạc hiệu của đài là bài "Yankee Doodle," được chơi bởi ban nhạc đồng và gõ, tiếp theo là thông báo: "This is the Voice of America, signing on" (Đây là Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, bắt đầu). Bài "Columbia, Gem of the Ocean" ("Columbia, hòn ngọc đại dương") đã từng được dùng làm nhạc hiệu trong nhiều năm. Các đài phát thanh "anh em" với VOA, được quản lý bởi IBB hoặc trực tiếp bởi một cơ quan thuộc chính phủ Hoa Kỳ mang tên Hội đồng quản lý phát sóng (BBG): Ngôn ngữ. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ hiện phát bằng 45 ngôn ngữ (có chương trình truyền hình được đánh dấu *):
1954
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=824
Mất. Tháng 6. 7 tháng 6 - Alan Turing Khám nghiệm tử thi cho thấy ông bị nhiễm độc cyanide. Bên cạnh thi thể ông là một quả táo đang cắn dở. Quả táo này chưa bao giờ được xét nghiệm là có nhiễm độc cyanide, nhưng nhiều khả năng cái chết của ông do từ quả táo tẩm cyanide ông đang ăn dở. Hầu hết mọi người tin rằng cái chết của Turing là có chủ ý và bản điều tra vụ tử vong đã được kết luận là do tự sát. Có dư luận cho rằng phương pháp tự ngộ độc này được lấy ra từ bộ phim mà Turing yêu thích - bộ phim "Bạch Tuyết và bảy chú lùn" ("Snow White and the Seven Dwarfs"). Tuy vậy, mẹ của ông không nghĩ như mọi người, mà khăng khăng cho rằng, cái chết đến từ tính bất cẩn trong việc bảo quản các chất hóa học của Turing. Bạn bè của ông có nói rằng Turing có thể đã chủ ý tự sát để cho mẹ ông có lý do từ chối một cách rõ ràng. Khả năng ông đã bị ám hại cũng đã từng được kể đến, do sự tham gia của ông trong cơ quan bí mật, và do việc họ nhận thức sai rằng bản chất đồng tính luyến ái của ông "gây nguy hiểm cho việc bảo vệ bí mật".
Đ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=835
Đ, đ là một chữ cái được dùng trong một số ngôn ngữ sử dụng chữ Latinh. Chữ cái này đứng thứ bảy trong bảng chữ cái tiếng Việt. Trong một số ngôn ngữ như tiếng Iceland hay tiếng Anh thượng cổ có chữ eth có hình thức chữ hoa là "Ð" (U+00D0) tương tự như hình thức chữ hoa của chữ "đ" nhưng hình thức chữ thường của nó là "ð" (U+00F0) chỉ gần giống chứ không giống hệt như hình thức chữ thường của chữ "đ". Sử dụng. Tiếng Việt. Trong tiếng Việt trung đại, chữ "đ" được dùng để ghi âm nội bạo quặt lưỡi hữu thanh /ᶑ/. Trong tiếng Việt hiện đại, chữ "đ" được dùng để ghi âm nội bạo lợi hữu thanh /ɗ/. Trong "Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh" xuất bản năm 1651 của Đắc Lộ, chữ "đ" cùng với chữ "ꞗ" không có hình thức chữ hoa và chữ thường, "đ" là dạng duy nhất của chữ "đ", không phải là chữ hoa mà cũng không phải là chữ thường. Đến khi cải tiến bảng chữ cái tiếng Việt mới xuất hiện hình thức chữ hoa của chữ "đ" là "Đ". Chữ Latinh Gaj. "Đ" cũng là một chữ cái trong Bảng chữ cái Latinh của Gaj, được sử dụng ở trong tiếng Bosna, tiếng Croatia, tiếng Montenegro và tiếng Serbia. Tuy nhiên khác với tiếng Việt, "Đ" trong Bảng chữ cái Latinh của Gaj thể hiện âm dʑ/, gần giống "Gi" của tiếng Việt. Vì thế để thể hiện rõ âm, tên người Serbia khi viết trong tiếng Anh hay ngôn ngữ khác, nếu có chữ "Đ" sẽ được chuyển tự lại thành "Dj". Ví dụ như Novak Djokovic, trong tiếng Serbia theo chữ Latinh Gaj, tên của anh được viết là "Novak Đoković", tuy nhiên trong các ngôn ngữ khác luôn viết là "Djokovic" thay vì "Dokovic", vì vậy tên của anh luôn được đọc gần đúng âm là "Giô-cô-vích" và bị tránh đọc sai là "Đô-cô-vích".
Trần Đức Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=838
Trần Đức Lương (sinh ngày 5 tháng 5 năm 1937 tại xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2006, là Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX và Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII. Sự nghiệp ban đầu. Tháng 2 năm 1955: ông Tập kết ra Bắc rồi học sơ cấp, học bổ túc trung cấp địa chất; rồi làm kĩ thuật viên, đội trưởng, đoàn phó kĩ thuật địa chất rồi đến bí thư chi đoàn, chi ủy viên rồi làm bí thư chi bộ, liên chi uỷ viên. Năm 1959, ông gia nhập đảng Lao Động Việt Nam. Tháng 9 năm 1959 đến tháng 3 năm 1964 ông là đội trưởng đội địa chất 4, đoàn địa chất 20, đồng tác giả công trình nghiên cứu lập "Bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000 miền Bắc Việt Nam" (công trình hợp tác Xô-Việt trong các năm 1960-1965). Trong giai đoạn này ông là ủy viên Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Lao động Cục Địa chất, Chi ủy viên (1963-1964). Từ tháng 9 năm 1966, ông học ở Trường Đại học Mỏ – Địa chất Hà Nội, hệ chuyên tu đến tháng 1 năm 1970, ông cũng là đảng ủy viên, bí thư đoàn trường vào năm 1969. Sự nghiệp chính trị. Thành viên Chính phủ. Năm 1987 ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, sau khi sửa đổi Hiến pháp chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đổi thành Phó Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn này ông là Đại biểu Quốc hội khoá VIII và là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa khoá VI, khoá VII. Ông là đại diện thường trực CHXHCN Việt Nam tại Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) (đến năm 1991). Ngày 24 tháng 9 năm 1997 ông được bầu làm Chủ tịch nước kiêm Phó Thủ tướng Chính phủ đến ngày 29 tháng 9 năm 1997. Chủ tịch nước (1997–2006).
Trần Đức Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=838
Chủ tịch nước (1997–2006). Ngày 24 tháng 9 năm 1997, Trần Đức Lương được bầu làm Chủ tịch nước, ông là Ủy viên Bộ Chính trị, sau đó Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng khoá VIII, Ủy viên Bộ Chính trị khoá IX, ông kiêm luôn chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Ngày 24 tháng 7 năm 2002, ông Lương tái đắc cử chức Chủ tịch nước tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá XI. Hoạt động trong nhiệm kỳ. Trong nhiệm kỳ của ông đã có cuộc bạo loạn tại Tây Nguyên vào năm 2004. Trong sự kiện vụ án Năm Cam, ông đã bác đơn ân xá đối với các tử tù trong đó có Năm Cam. Năm 2005, ông và các đồng sự trong Cục Đo đạc Bản đồ được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ với 2 công trình: Đối ngoại. Trần Đức Lương là Chủ tịch nước đầu tiên trong lịch sử đón tiếp Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton vào năm 2000 sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1995, hai bên tin tưởng chuyến thăm sẽ đánh dấu việc mở ra quan hệ mới giữa Việt - Mỹ. Năm 2001, trong chuyến thăm của Tổng thống Nga Putin, hai nước đã xác lập mối quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược, ông đồng thời cũng trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho ông Putin. Ông cũng là Chủ tịch nước đầu tiên thăm Hàn Quốc. Từ chức. Ngày 24 tháng 6 năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cho biết Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An vì tuổi đã cao và thực hiện chủ trương trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã nêu nguyện vọng xin không tái ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương khoá X, nguyện vọng này đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX và Đại hội X chấp thuận, sau đó cùng với các ông Phan Văn Khải và Nguyễn Văn An, ông đã đọc đơn xin thôi chức trước khi kết thúc nhiệm kỳ sau đó 1 năm.
Trần Đức Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=838
Trình bày đơn xin thôi giữ chức vụ Chủ tịch nước, ông Trần Đức Lương giãi bày: "Trong hai mươi năm qua, tôi đã hết sức cố gắng, toàn tâm toàn ý thực hiện các chức trách nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần nhất định cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong tiến trình chuẩn bị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, vì tuổi đã cao và thực hiện chủ trương trẻ hóa đội ngũ cán bộ, tôi đã nêu nguyện vọng xin không tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Nguyện vọng của tôi đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X chấp nhận". Việc miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước đối với ông Trần Đức Lương, số phiếu xin ý kiến thu về là 465 phiếu, số phiếu đồng ý là 458 phiếu (98,49% số phiếu) thu về và bằng 92,9% so với tổng số đại biểu Quốc hội, có 7 phiếu không đồng ý (1,51% số phiếu) thu về và bằng 1,42% so với tổng số đại biểu Quốc hội, chiều cùng ngày Quốc hội đã miễn nhiệm chức Chủ tịch nước của ông. Ông Lương sau đó vẫn giữ chức Chủ tịch nước đến ngày 27 tháng 6 khi Nguyễn Minh Triết được bầu làm người kế nhiệm, ông mới thôi giữ chức. Nghỉ hưu. Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn là Chủ tịch danh dự Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cho đến năm 2012. Ông chủ yếu dành cuộc sống cho gia đình và tham dự một số sự kiện của Đảng. Năm 2007, ông được tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Gia đình. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Vinh, cả hai người có với nhau hai người con. Con trai ông là Trần Tuấn Anh hiện là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Ủy viên Bộ Chính Trị khóa XIII, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Con gái ông là Trần Thị Minh Anh (1962) hiện là Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
Québec
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=839
Québec (phát âm là "Kê-béc" trong tiếng Pháp và "Kuy-béc" trong tiếng Anh), là tỉnh bang có diện tích gần 1,5 triệu km² - tức là gần gấp 3 lần nước Pháp, 7 lần xứ Anh, 2 lần Liên bang Đông Dương và 4 lần Việt Nam - là tỉnh bang lớn nhất của Canada tính theo diện tích. Québec có tư cách là một quốc gia trực thuộc Canada, với ngôn ngữ, văn hoá và thể chế chính trị riêng. Về phía tây của Québec là tỉnh bang Ontario và vịnh Hudson (Hắt-xơn), về phía đông là tỉnh bang New Brunswick và vùng Labrador (phần đất nội địa của tỉnh bang Newfoundland và Labrador), về phía nam là các tiểu bang Maine, New Hampshire, Vermont và New York của Hoa Kỳ. Hơn 90% diện tích của Québec nằm trên một nền đá lớn gọi là Canadian Shield. Chữ "québec" có nguồn gốc từ chữ "gepèèg" của người thổ dân Mi'kmaq. "Gepèèg" có nghĩa là "eo biển", dùng để ám chỉ chỗ thắt nhỏ lại của sông Saint-Laurent gần Thành phố Québec (tiếng Pháp: "Ville de Québec", tiếng Anh: "Quebec City"). Vào năm 2004, hơn 7,5 triệu người đang sinh sống tại Québec (tỉnh bang đứng thứ nhì Canada về dân số, chỉ sau Ontario), trong đó 80% tập trung ở các trung tâm đô thị nằm dọc theo sông Saint-Laurent (tiếng Anh: "Saint Lawrence"). Thành phố Montréal (tiếng Anh: "Montreal"), với dân số khoảng 3 triệu người, là một hòn đảo khá lớn nằm giữa sông Saint-Laurent và rất nổi tiếng về lịch sử, kiến trúc và các hoạt động văn hoá. Cho đến đầu thập niên 1980, Montréal vẫn còn là thành phố nổi tiếng nhất và đông dân nhất của Canada. Nằm ngay phía bắc của Montréal là thành phố đông dân thứ hai của Québec: Laval. Thành phố Québec, nằm cách 300 km về phía đông bắc của Montréal là thủ phủ của tỉnh bang và là thành phố lớn thứ ba. Lịch sử. Người Âu Châu đầu tiên đến Québec là nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier, khi ông đi thuyền ngược trên sông Saint-Laurent đến một ngôi làng nhỏ có tên là Stadacona (một địa điểm trong Thành phố Québec hiện nay) của thổ dân Iroquois vào khoảng năm 1535. Tiếp sau đó là nhà thám hiểm Samuel de Champlain đến khoảng năm 1608. Từ đó, Québec thành thuộc địa của Đế quốc Pháp, dưới thời vua Louis XII, và được đặt tên là Nouvelle-France (tiếng Pháp:"Tân Pháp"; sang đến 1663 thì vua Louis XIV sắc phong Nouveau France thành một tỉnh ("province") của Pháp. Năm 1763, Pháp thua Anh và vua Louis XV phải nhượng xứ Québec cho Đế quốc Anh.
Québec
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=839
Phần đất từ đó chính thức mang tên Quebec. Người Anh cai trị Québec nhưng vẫn cho phép dân chúng giữ các phong tục và luật lệ của người Pháp kể cả việc cho họ đạo Giáo hội Công giáo Rôma hoạt động mà không bắt dân đổi sang Anh giáo. Khi 13 thuộc địa tại châu Mỹ nổi lên chống Đế quốc Anh để giành độc lập từ thập niên 1770 cho đến thập niên 1780, một số người trung thành với Đế quốc Anh bỏ Mỹ chạy sang Québec. Để giúp đỡ nhóm Trung Dân này định cư dễ dàng, Đế quốc Anh ra một đạo luật vào năm 1791 chia Québec làm hai phần: Upper Canada ở phía tây theo luật lệ của Anh ("Common Law") và Lower Canada ở phía đông theo luật lệ của Pháp ("la Codes civiles"). Đến năm 1837, một số người Pháp tại Lower Canada nổi lên chống lại Đế quốc Anh. Sau khi Anh dẹp tan cuộc nổi loạn này, người Anh lại sáp nhập Upper Canada và Lower Canada trở lại thành một thuộc địa gọi là Tỉnh Canada ("Province of Canada") vào năm 1841. Sang đến năm 1867 thì ba thuộc địa Canada, New Brunswick và Nova Scotia gia nhập với nhau thành một liên bang gọi là Canada. Sau khi liên bang được thành lập, mỗi thuộc địa được gọi là một tỉnh bang ("province") và được giữ tên cũng như luật lệ cũ. Riêng Tỉnh Canada thì lại một lần nữa bị chia làm hai: tỉnh bang Québec theo luật Pháp và tỉnh bang Ontario theo luật Anh. Văn hoá. Ảnh hưởng của văn hóa Pháp và đạo Công giáo làm cho Québec trở thành một vùng đặc thái nhất của Canada, hay có thể nói là của tất cả Bắc Mỹ. Trong tổng số hơn 7,5 triệu dân Québec, trên năm triệu có gốc Pháp; tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ của 82% dân số. Từ năm 1970 trở đi, dân nhập cư đã góp một phần quan trọng trong bình diện kinh tế và văn hoá của tỉnh bang này. Từ năm 1986 đến 1991, 78% lợi ích trong dân ở Québec là do những người không phải là Pháp, Anh hay dân bản xứ mang lại. Ngày 23 tháng 11 năm 2006, Chính phủ Canada đã đưa ra bản đề nghị công nhận Québec là một quốc gia trong Canada ("a nation within Canada") nhằm ngăn chặn việc ly khai . Chính phủ và chính trị. Quebec được quản lý dựa trên hệ thống Westminster, và theo chế độ dân chủ tự do cũng như quân chủ lập hiến với hệ thống nghị viện.
Québec
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=839
Người đứng đầu chính phủ tại Quebec là thủ tướng ('premier ministre' trong tiếng Pháp và 'premier' trong tiếng Anh), và đây là người đứng đầu đảng lớn nhất trong Quốc hội (), và Quốc hội bổ nhiệm Hội đồng Hành chính Quebec. (lieutenant governor) đại diện cho Quốc vương Canada và giữ vai trò là người đứng đầu nhà nước trong tỉnh. Quebec có 78 nghị viên trong Hạ viện Canada. Họ được bầu ra trong các cuộc bầu cử liên bang. Tại Thượng viện Canada, Quebec có 24 nghị viên, họ được bổ nhiệm theo khuyến nghị của thủ tướng Canada. Quebec có một mạng lưới gồm ba văn phòng để đại diện cho tỉnh và bảo vệ lợi ích của tỉnh bên trong Canada; nhiệm vụ của các văn phòng này là đảm bảo sự hiện diện theo thể chế của Chính phủ Quebec gần các chính phủ khác tại Canada và cho phép Quebec tương tác hiệu quả với các tỉnh khác. Chính phủ Quebec có độc quyền tài phán trong một số lĩnh vực hành chính và cảnh sát. Conseil du trésor (Ban Ngân khố) hỗ trợ các bộ trưởng trong Hội đồng hành chính trong việc quản lý nhà nước. Một số đảng tại Quebec là Liên minh Tương lai Quebec (CAQ), Đảng Tự do Québec (PLQ), Đoàn kết Québec (QS) và Đảng Quebec (PQ). Quebec có 22 chính đảng chính thức. Hành chính. Lãnh thổ Quebec được chia thành 17 vùng hành chính như sau: Ngoài ra tỉnh còn bao gồm: Đối với mục đích quản lý địa phương, Quebec gồm có:
Saskatchewan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=840
Saskatchewan ( / s ə ˈ s k æ tʃ ə w ə n , s k æ tʃ w ə n / ( nghe )  "sə- SKATCH -ə-wən" ; [saskatʃəwan] ) là một tỉnh ở miền Tây Canada , giáp với phía tây giáp Alberta, phía bắc giáp Lãnh thổ Tây Bắc, phía đông giáp Manitoba, phía đông bắc giáp Nunavut, và về phía nam giáp với các bang Montana và North Dakota của Hoa Kỳ. Saskatchewan và Alberta là những tỉnh không giáp biển duy nhất của Canada. Vào năm 2022, dân số của Saskatchewan ước tính là 1.214.618.  Gần 10% trong tổng diện tích 651.900 kilômét vuông (251.700 dặm vuông Anh) của Saskatchewan là nước ngọt, chủ yếu là sông, hồ chứa nước và hồ. Cư dân chủ yếu sống ở nửa đồng cỏ phía nam của tỉnh, trong khi nửa phía bắc chủ yếu là rừng và dân cư thưa thớt. Khoảng một nửa sống ở thành phố lớn nhất tỉnh Saskatoon hoặc thủ phủ tỉnh Regina. Các thành phố đáng chú ý khác bao gồm Prince Albert, Moose Jaw , Yorkton , Swift Current , North Battleford , Estevan , Weyburn , Melfort và thành phố biên giới Lloydminster .  Tiếng Anh là ngôn ngữ chính của tỉnh, với 82,4% người dân Saskatchewan nói tiếng Anh như ngôn ngữ chính của họ.ngôn ngữ đầu tiên . Saskatchewan đã có hàng ngàn năm là nơi sinh sống của các nhóm bản địa . Người châu Âu lần đầu tiên khám phá khu vực này vào năm 1690 và lần đầu tiên định cư tại khu vực này vào năm 1774. Nó trở thành một tỉnh vào năm 1905, được tách ra từ Lãnh thổ Tây Bắc rộng lớn , cho đến lúc đó bao gồm hầu hết các Đồng cỏ của Canada. Vào đầu thế kỷ 20, tỉnh được biết đến như một thành trì của nền dân chủ xã hội Canada; Chính phủ dân chủ-xã hội đầu tiên của Bắc Mỹ được bầu vào năm 1944 . Nền kinh tế của tỉnh dựa trên nông nghiệp , khai khoáng và năng lượng . Saskatchewan hiện được điều hành bởi thủ tướng Scott Moe, một thành viên của Đảng Saskatchewan đã nắm quyền từ năm 2007. Năm 1992, chính quyền liên bang và tỉnh đã ký một thỏa thuận yêu sách đất đai lịch sử với First Nations ở Saskatchewan.  Các quốc gia đầu tiên đã nhận được tiền bồi thường mà họ có thể sử dụng để mua đất trên thị trường mở cho các ban nhạc. Họ đã mua được khoảng 3.079 kilômét vuông (761.000 mẫu Anh; 1.189 dặm vuông Anh), đất dự trữ mới trong quá trình này. Một số Quốc gia đầu tiên đã sử dụng khu định cư của họ để đầu tư vào các khu vực đô thị, bao gồm Regina và Saskatoon.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Đảo Hoàng tử Edward (tiếng Anh: "Prince Edward Island", viết tắt: "PEI"; tiếng Pháp: "l'Île-du-Prince-Édouard") là một tỉnh bang của vùng miền đông của Canada. Đây là tỉnh bang nhỏ nhất của Canada về diện tích và dân số, nhưng lại có mật độ dân cư đông đúc nhất. Được đặt theo tên của Hoàng tử Edward Augustus của Anh. Tỉnh bang nằm trong một hình chữ nhật nằm khoảng 46-47° vĩ độ bắc và 62-64°30' kinh độ tây. Là một phần của vùng đất truyền thống của người Miꞌkmaq, vùng đất này đã bị thuộc địa hoá bởi người Pháp vào năm 1604 và sau đó được nhượng lại cho người Anh sau khi kết thúc Chiến tranh Bảy năm vào năm 1763. Năm 1873, nó đã gia nhập vào Canada với tư cách một tỉnh bang. Thủ phủ của tỉnh bang là Charlottetown. Tên gọi. Hòn đảo được biết đến trong ngôn ngữ của những cư dân bản địa lịch sử Mi'kmaq là "Abegweit" hoặc "Epekwitk", tạm dịch là "vùng đất nằm trong sóng". Khi hòn đảo là một phần của thuộc địa Acadia được thực dân Pháp đến định cư, tên tiếng Pháp trước đây của nó là "Île Saint-Jean" (Đảo St. John). Trong tiếng Pháp, hòn đảo ngày nay được gọi là "Île-du-Prince-Édouard". Do cái tên thuộc địa ban đầu của Pháp, những người Scotland nhập cư biết đến hòn đảo này với cái tên bằng tiếng Gaelic Scotland là "Eilean a 'Phrionnsa" (gọi tắt là "Đảo của Hoàng tử", dạng địa phương của từ còn lại là' Eilean a 'Phrionnsa Iomhair / Eideard') hoặc "Eilean Eòin" cho một số người nói tiếng Gaelic ở Nova Scotia, mặc dù không có trên PEI (theo nghĩa đen, "Đảo của John" liên quan đến tên tiếng Pháp trước đây của hòn đảo). Sau khi người Anh tiếp quản lãnh thổ, vào năm 1798, họ đặt tên thuộc địa đảo theo tên của Hoàng tử Edward, Công tước xứ Kent và Strathearn (1767–1820), con trai thứ tư của Vua George III và là cha của Victoria của Anh. Hoàng tử Edward đã được gọi là "Người Cha của Hoàng gia Canada". Các địa danh trên đảo sau đây cũng được đặt theo tên của Công tước xứ Kent: Prince Edward Battery, Công viên Victoria, Charlottetown Cao đẳng Kent, được thành lập vào năm 1804 bởi Thống đốc Edmund Fanning và Hội đồng Lập pháp của ông, sau này ngôi trường trở thành Đại học Đảo Prince Edward Phố Kent, Charlottetown Trường tiểu học West Kent Phố Kent, Georgetown Lịch sử.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Trước khi người châu Âu đến định cư, các dân tộc bản địa Mi'kmaq đã sinh sống tại Đảo Hoàng tử Edward như một phần của khu vực Mi'kma'ki. Họ đặt tên cho Đảo là Epekwitk, có nghĩa là 'nằm trên những con sóng'; Người châu Âu biểu thị cách phát âm là Abegweit, một tên khác là Minegoo. Truyền thuyết của người Mi'kmaq cho rằng hòn đảo được hình thành bởi vị Thần linh vĩ đại đã đặt một hòn đất sét hình lưỡi liềm màu đỏ sẫm trên mặt biển. Ngày nay, Có hai cộng đồng người bản địa Mi'kmaq trên hòn đảo. Lịch sử Canada vẫn sống mãi và được kỷ niệm ở Charlottetown. Hội nghị Charlottetown vào năm 1864 là cuộc họp đầu tiên để cuối cùng đã dẫn đến việc tuyên bố tự trị của Canada vào năm 1867. Do cuộc họp này, thành phố Chalottetown ngày nay được biết đến như là nơi khai sinh ra Liên bang. Thuộc địa của Pháp. Năm 1534, Jacques Cartier là người châu Âu đầu tiên đã nhìn thấy đảo Hoàng tử Edward. Năm 1604, Vương quốc Pháp từng bước khai phá và thiết lập thuộc địa Pháp Acadia trong đó có Đảo Hoàng tử Edward. Hòn đảo được người Pháp đặt tên là "Île Saint-Jean". Người Mi’kmaq đã không bao giờ thừa nhận sự thống trị của Pháp nhưng vẫn chào đón người Pháp như một đồng minh và đối tác thương mại. Trong thế kỷ thứ 18, người Pháp rơi vào cuộc mâu thuẫn kéo dài với Vương quốc Anh. Nhiều cuộc chiến đã diễn ra và Đảo Hoàng tử Edward cũng là một chiến trường trong giai đoạn này. Kết quả cuối cùng, người Pháp chịu nhiều thất bại và buộc phải nhượng lại hòn đảo và hầu hết lãnh thổ Tân Pháp tại Bắc Mỹ cho người Anh theo Hiệp định Paris năm 1763. Thuộc địa của Anh. Ban đầu, người Anh đặt tên hòn đảo là St. John’s Island và chịu quyền kiểm soát như một phần của Nova Scotia đến khi được tách ra vào năm 1769. Giữa thập kỷ 1760, một nhóm khảo sát đã phân chia hòn đảo thành 67 phân khu. Ngày 1/7/1767, những tài sản này được phân bổ cho những người ủng hộ vua George III bằng cách bốc thăm.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Năm 1853, chính quyền hòn đảo đã thông qua Đạo luật mua bán đất đai, đạo luật này đã trao quyền mua bán đất đai cho những chủ sở hữu và bán lại cho những người định cư với giá vừa phải. Kế hoạch này đã phá sản khi nguồn tài chính hạn hẹp đã khiến cho họ không thể tiếp tục mua bán được. Đất đai tại Đảo Hoàng tử Edward thật sự màu mỡ và là chìa khóa dẫn tới sự ổn định kinh tế cho hòn đảo trong thời gian sau này. Gia nhập Liên bang. Tháng 9/1864, Đảo Hoàng tử Edward là nơi tổ chức Hội nghị Charlottetown, một trong những cuộc họp đầu tiên trong quá trình dẫn tới Nghị quyết Québec và sự hình thành Canada năm 1867. Nhưng Đảo Hoàng tử Edward đã không đồng thuận với các điều khoản hợp nhất để gia nhập liên bang Canada vào năm 1867 và lựa chọn tiếp tục là thuộc địa của Vương quốc Anh. Cuối thập niên 60 của thế kỷ 19, hòn đảo đứng trước nhiều lựa chọn, bao gồm việc trở thành một quốc gia tự trị hoặc trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. Năm 1871, Đảo Hoàng tử Edward bắt đầu xây dựng đường sắt và giao thương với Hoa Kỳ, điều này làm cho Vương quốc Anh không mấy hài lòng. Năm 1873, Thủ tướng Canada là Sir John A. Macdonald phải đối mặt với chủ nghĩa bành trướng của Hoa Kỳ và vụ bê bối Pacific đã thỏa thuận với Đảo Hoàng tử Edward gia nhập liên bang Canada. Liên bang thừa nhận các khoản nợ từ việc xây dựng đường sắt và đồng ý mua lại từ những chủ nhân vắng mặt để giải phóng hòn đảo khỏi những hợp đồng thuê đất từ người dân mới nhập cư. Cuối cùng Đảo Hoàng tử Edward tham gia Liên bang Canada vào ngày 1/7/1873. Với kết quả tổ chức thành công Hội nghị Charlottetown, Đảo Hoàng tử Edward được xem như là nơi khai sinh ra Canada. Được kỷ niệm bởi một vài công trình, trong đó có cây Cầu Liên Bang (xây dựng năm 1993 đến 1997). Vào ngày 31 tháng 5 năm 1997, Đảo Hoàng tử Edward đã cử hành lễ khánh thành chính thức chiếc cầu. Chiếc cầu dài 12,9 km bắc qua eo biển Northumberland đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc lưu thông từ đất liền đến đảo, ngoài phương tiện phà và máy bay. Địa lý. Đảo Hoàng tử Edward là một hòn đảo tọa lạc trên vịnh St. Lawrence.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Lawrence. Nằm ở phía tây của đảo Cape Breton, phía Bắc của bán đảo Nova Scotia và phía đông của New Brunswick, phía nam giáp với eo biển Northumberland. Hòn đảo có 2 khu vực đô thị lớn: Khu vực xung quanh cảng Charlottetown nằm ở trung tâm hòn đảo bao gồm thủ phủ Charlottetown và các thị trấn ngoại ô Cornwall và Stratford. Một khu đô thị nhỏ hơn ở khu vực cảng Summerside ở bờ biển phía nam cách Charlottetown 40 km về hướng tây.Bờ biển của Đảo Hoàng tử Edward là sự kết hợp giữa những bãi biển, đụn cát, đất đỏ với vô số vịnh và hải cảng. Mặc dù có diện tích nhỏ và khu vực nông thôn chiếm đa số, nhưng Đảo Hoàng tử Edward lại có mật độ dân số cao nhất tại Canada. Đảo Hoàng tử Edward có khí hậu ôn đới và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi đại dương bao quanh. Vì vậy, khí hậu tại đảo tương đối ôn hòa hơn so với lục địa do có dòng biển nóng từ vịnh St. Lawrence chảy qua. Khí hậu tại Đảo Hoàng tử Edward thay đổi quanh năm, có những mùa khí hậu giữa các ngày khác nhau và không có kiểu thời tiết cụ thể nào kéo dài lâu. Vào mùa đông, khí hậu tương đối lạnh và kéo dài nhưng tương đối ổn định hơn so với lục địa. Tỉnhnh bang hoàn toàn sử dụng nguồn nước mặt, nguồn nước có thể dùng để uống với xấp xỉ 305 giếng công suất cao. Những hệ thống hạ tầng cung cấp nước được lấp đặt từ năm 1888 vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Đảo Hoàng tử Edward từng có nai sừng tấm bản địa, gấu, tuần lộc, chó sói và các loài lớn hơn khác. Do nạn săn bắn và sự phá vỡ môi trường sống, những loài này không còn được tìm thấy trên đảo. Một số loài phổ biến là cáo đỏ, chó sói đồng cỏ, giẻ cùi xanh và rô phi. Chồn hôi và gấu trúc là những loài phi bản địa phổ biến. Các loài có nguy cơ bao gồm chim bìm bịp, cá chình Mỹ, dơi nâu nhỏ và bèo tấm bãi biển. Một số loài là đặc hữu của tỉnh. Năm 2008, một loài ascomycete mới, Jahnula apiospora (Jahnulales, Dothideomycetes), đã được thu thập từ gỗ ngập nước trong một con lạch nước ngọt trên Đảo Prince Edward.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Cá voi Bắc Đại Tây Dương, một trong những loài cá voi quý hiếm nhất, từng được cho là hiếm gặp trong các vùng St. Lawrence cho đến năm 1994, đã cho thấy sự gia tăng đáng kể (tần suất hàng năm được phát hiện ở ngoài khơi Percé vào năm 1995 và tăng dần trên các khu vực kể từ năm 1998 ), và kể từ năm 2014, một số lượng cá voi đáng chú ý đã được ghi nhận xung quanh đảo Cape Breton đến Đảo Prince Edward, khoảng 35 đến 40 con cá voi được nhìn thấy ở những khu vực này vào năm 2015. Nhân khẩu. Theo Khảo sát hộ gia đình Quốc gia năm 2011, cộng đồng lớn nhất ở Đảo Hoàng tử Edward là con cháu của người Scotland (39.2%), tiếp theo đó là người Anh (31.1%), người Pháp (21.1%). Dân cư Đảo Hoàng tử Edward đa số là người da trắng, ngươi Hoa chiếm một phần nhỏ trong nhóm thiểu số khoáng 1.3% dân số. Đại đa số dân của tỉnh bang nói tiếng Anh (94.9%), ngoài ra còn các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp (3.5%), tiếng Hoa, tiếng Ả rập, tiếng Hà Lan, tiếng Đức… Hai tôn giáo lớn nhất ở tỉnh là Đạo Công giáo (47%) và Đạo Tin lành (43%) theo khảo sát dân số năm 2011. Kinh tế. Nền kinh tế tỉnh bang chủ yếu dựa vào các ngành mùa vụ như nông nghiệp, đánh bắt thủy sản và dịch vụ du lịch. Đảo Hoàng tử Edward không phát triển mạnh trong các ngành công nghiệp nặng và sản xuất. Cavendish Farms là một trong những doanh nghiệp hiếm hoi có nhà máy sản xuất thực phẩm tại tỉnh bang. Kinhnh tế của một số cộng đồng ven biển tại tỉnh bang dựa trên việc đánh bắt ốc, sò, đặc biệt là uào, tôm hùm. Nông nghiệp là ngành thống trị trong kinh tế của tỉnh bang kể từ thời thuộc địa. Năm 2015, nông nghiệp và sản xuất thực phẩm chiếm khoảng 7.6% GDP toàn tỉnh. Tỉnh bang có khoảng 240.000 ha dành cho nông nghiệp, chiếm khoảng 1/3 diện tích tỉnh bang. Năm 2016, số lượng trang trại vào khoảng 1.353, giảm 9.5% so với 5 năm trước. Sản lượng nông nghiệp chủ yếu là khoai tây, trái berry và rau xanh. Kinh tế tỉnh bang đã phát triển mạnh trong thập kỷ vừa qua với sự đổi mới hiệu quả. Hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học, công nghệ và truyền thông thông tin, năng lượng tái tạo được tập trung và đa dạng hóa.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Công nghệ hàng không vũ trụ là ngành công nghiệp lớn thứ tư tỉnh bang, chiếm 25% giá trị xuất khẩu và đạt kim ngạch 355 triệu đô la Mỹ hàng năm. Hiện nay, xấp xỉ 25% năng lượng điện của tỉnh bang sử dụng năng lượng tái tạo là điện gió. Chính quyền tỉnh bang đã ước tính sẽ tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo lên con số 50%. Chính quyền tỉnh bang. Chính quyền tỉnh bang có trách nhiệm trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dịch vụ xã hội, giáo dục, phát triển kinh tế, ban bố luật lao động và luật dân sự. Chính quyền Đảo Hoàng tử Edward được điều hành bởi nghị viện theo chế độ Quân chủ lập hiến, Quân chủ tại Đảo Hoàng tử Edward là người sáng lập các nhánh lập pháp, tư pháp và hành pháp trong tỉnh bang. Đứng đầu cho Chế độ quân chủ là Nữ hoàng Elizabeth II, người cũng là Quân chủ tại 15 quốc gia khác trong khối thịnh vương chung và 9 tỉnh bang khác tại Canada. Người đại diện cho Nữ hoàng tại Đảo Hoàng tử Edward là Thống Đốc Đảo Hoàng tử Edward, hiện là bà Antoinette Perry, chịu trách nhiệm hầu hết các công việc của Hoàng gia tại Đảo Hoàng tử Edward. Sự tham gia của hoàng gia và những người đại diện vào việc điều hành công việc của tỉnh bang là rất hạn chế. Trên thực tế, quyền hành pháp được chỉ đạo bởi một Hội đồng điều hành chính quyền tỉnh bang, những thành viên trong Hội đồng này được bầu cử và lựa chọn bởi Thủ hiến tỉnh bang (hiện tại là ông Dennis King). Để ổn định quyền lực, Thống đốc sẽ chỉ đạo Đảng có số ghế cao thứ nhì trong nghị viện là Đảng Đối lập. Người dẫn đầu Đảng Đối lập sẽ là Người đối lập trung thành của Nữ Hoàng (hiện tại là ông Peter Bevan-Baker). Hành chính. Thủ phủ: Charlottetown Đảo Hoàng tử Edward được chia thành ba quận trong lịch sử được sử dụng làm đơn vị hành chính cho chính quyền cấp tỉnh và trước thời kỳ thuộc địa (năm 1873). Các quận không còn được sử dụng làm ranh giới hành chính cho chính quyền cấp tỉnh, tuy nhiên, chúng tiếp tục được Cơ quan Thống kê Canada sử dụng làm đơn vị điều tra dân số cho các mục đích thống kê trong việc quản lý điều tra dân số Canada. Phân vùng.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Phân vùng. Những ngọn đồi uốn lượn, rừng cây, những bãi biển cát trắng hơi đỏ, vịnh nhỏ đại dương và vùng đất đỏ nổi tiếng đã mang lại cho Đảo Hoàng tử Edward danh tiếng là một tỉnh có vẻ đẹp tự nhiên nổi bật. Do đó, chính quyền tỉnh đã ban hành luật để bảo tồn cảnh quan thông qua các quy định, mặc dù thiếu sự thực thi nhất quán. Không có quy hoạch phân vùng và quy hoạch sử dụng đất trên toàn tỉnh. Theo Luật Quy hoạch của tỉnh, các khu tự quản có quyền lựa chọn chịu trách nhiệm về quy hoạch sử dụng đất thông qua việc xây dựng và thông qua các quy hoạch chính thức và luật sử dụng đất. 31 khu tự quản đã chịu trách nhiệm lập kế hoạch. Ở những khu vực mà các khu tự quản không chịu trách nhiệm lập kế hoạch, Tỉnh vẫn chịu trách nhiệm kiểm soát phát triển. Giáo dục. Tại Đảo Hoàng tử Edward, Hệ thống trường học công lập được chia thành hai nhóm: Những quận chuyên về trường Anh ngữ và quận chuyên về trường Pháp ngữ. Có khoảng 10 trường phổ thông và 54 trường tiểu học trong nhóm trường Anh ngữ và 6 trường học nhiều cấp trong nhóm trường Pháp ngữ. Có 22% sinh viên ghi danh ở chương trình học song ngữ, đây là bậc học cao nhất tại tỉnh bang. Có 3 học viện sau phổ thông được vận hành trong tỉnh bang, bao gồm 1 trường đại học và 2 trường cao đẳng. Đại học Prince Edward Island là trường đại học công lập duy nhất, và tọa lạc tại thành phố Charlottetown. Y tế. Tỉnh bang có một phân ban chịu trách nhiệm điều hành việc chăm sóc sức khỏe cho người dân gọi là Health PEI. Phân ban này nhận ngân sách để vận hành theo quy định của Sở Y tế và Sức khỏe Prince Edward Island. Có 8 bệnh viện tại Prince Edward Island: Bệnh viện Queen Elizabeth, (Charlottetown), Bệnh viện Prince County (Summerside), Bệnh viện Kings County Memorial (Montague), Bệnh viện Community (O’Leary), Bệnh viện Souris (Souris), Bệnh viện Western (Alberton), Bệnh viện Hillsborough (Charlottetown) – bệnh viện tâm thần duy nhất tại tỉnh bang. Chương trình chăm sóc sức khỏe toàn diện của tỉnh bang bao gồm từ chăm sóc sức khỏe cơ bản đến chăm sóc tại nhà, các biện pháp thể lực nâng cáo sức khỏe, phòng chống dịch bệnh… Tỉnh bang cũng tổ chức một số trung tâm sức khỏe gia đình tại vùng nông thôn và các đô thị nhỏ xa trung tâm.
Đảo Hoàng tử Edward
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=842
Đảo Hoàng tử Edward là tỉnh bang duy nhất không cung cấp các dịch vụ phá thai trong hệ thống bệnh viện của họ. Ca phá thai cuối cùng là năm 1982 trước khi Bệnh viện Queen Elizabeth được thành lập. Giao thông. Giao thông vận tải của Đảo Hoàng tử Edward chủ yếu thông qua hệ thống hải cảng tại Charlottetown, Summerside, Borden, Georgetown và Souris kết hợp với hệ thống đường sắt, hai sân bay ở Charlottetown và Summerside để kết nội với lục địa Bắc Mỹ. Hệ thống đường sắt tại Đảo Hoàng tử Edward không được sử dụng đến từ năm 1989  để củng cố hệ thống đường cao tốc. Năm 1997, Cây Cầu Liên Bang được khánh thành đã kết nối Borden, Carleton (Đảo Hoàng tử Edward) với Cape Jourimain (New Brunswick). Đây là cây cầu bắc qua biển đóng băng dài nhất thế giới, nó đã thay thế cho dịch vụ phà Marrine Atlantic. Tỉnh bang có hệ thống đường xá dày đặc nhất Canada. Văn hoá. Văn hóa truyền thống về nghệ thuật, âm nhạc và sự sáng tạo đã có nhiều hỗ trợ cho hệ thống giáo dục. Một số lễ hội nghệ thuật hàng năm như Lễ hội Charlottetown được tổ chức tại Trung tâm Nghệ thuật Liên Bang. Lucy Maud Montgomery, sinh năm 1874 tại Clifton (New London) đã viết hơn 20 tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn. Cuốn sách Anne of Green Gables lấy bối cảnh tại Cavendish, Prince Edward Island được xuất bản lần đầu tiên năm 1908. Về thể thao, Đảo Hoàng tử Edward có những môn thể thao phổ biến như khúc côn cầu, đánh gôn, bóng rổ, đua ngựa, bóng chày, bóng đá, bóng bầu dục… Thể thao dưới nước cũng phổ biến vào giai đoạn hè.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Ontario là một tỉnh bang của Canada. Thác Niagara nổi tiếng thế giới và Ottawa, thủ đô của Canada, nằm trong địa phận tỉnh bang này. Phía đông Ontario giáp với Québec, tây giáp với Manitoba, bắc giáp với vịnh Hudson và vịnh James, nam giáp với sông St. Lawrence và Ngũ Đại Hồ, tạo thành biên giới với các bang New York, Pennsylvania, Ohio, Michigan, Indiana, Illinois, Wisconsin và Minnesota của Hoa Kỳ. Là tỉnh bang lớn thứ hai của Canada, Ontario có diện tích gần 1,1 triệu km², trên nửa triệu ao hồ, và 60.000 km sông ngòi. Tính toàn bộ, Ontario lớn hơn hai nước Pháp và Tây Ban Nha gộp lại và có dân số trên 10 triệu người. Ở thủ phủ Toronto có nhiều hoạt động kinh tế và văn hoá. Ví dụ, tháp CN ("CN tower") là công trình kiến trúc đứng riêng cao nhất thế giới cho đến năm 2007. Tên Ontario thường được cho là bắt nguồn từ tiếng Iroquois, "Skanadario", có nghĩa là "Dòng nước đẹp". Ontario – Tỉnh bang sầm uất, phát triển, sôi động nhất Canada và Bắc Mỹ về kinh tế với các thành phố lớn như Toronto và Ottawa… Theo số liệu thống kê năm 2012, GDP của Canada đạt 1.819.967 triệu CAD. Trong đó, Ontario đóng góp 674.485 triệu CAD. Ontario đã tạo ra 37% GDP của cả nước và là nơi có gần 50% dân số làm việc trong các ngành công nghệ cao, dịch vụ tài chính và công nghiệp tri thức khác. Nằm trong khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ với 460 triệu người và tạo ra sức mua 18 tỉ đô. Trong năm 2011, trao đổi thương mại giữa Canada – Mỹ đạt hơn 1,4 tỉ CAD, trong đó thương mại giữa Ontario – Mỹ chiếm khoảng 716 triệu đô CAD. Ontario – nơi có Toronto (trung tâm tài chính quốc gia), thủ đô lập pháp Ottawa đã tiếp đón hơn 1.100 các công ty đa quốc gia trong các lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bất động sản trên toàn thế giới. Toronto là một trung tâm quốc tế lớn cho các doanh nghiệp và được coi là thủ đô tài chính của Canada. Nơi đây tập trung các công ty dịch vụ hàng đầu như: Citco, CIBC Mellon, Commonwealth, Harmonic, IFDS, RBC Investor Services, SGGG, and State Street. Với hơn 245.000 người làm việc trong lĩnh vực này, Toronto là trung tâm tài chính lớn thứ 3 ở Bắc Mỹ sau New York và Chicago. Lao động trong ngành dịch vụ tài chính tại Toronto chiếm 64% của Ontario và 31% của Canada Từ nguyên.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Tỉnh bang được đặt tên theo hồ Ontario, một thuật ngữ được cho là có nguồn gốc từ tiếng Iroquois:"Skanadario", có nghĩa là "Dòng nước đẹp".Hoặc cũng có thể là "Ontari: io" nghĩa là "Chiếc hồ vĩ đại" Địa lý. Tỉnh bao gồm ba vùng địa lý chính: Mặc dù không có địa hình đồi núi nào trong tỉnh nhưng có nhiều vùng đất cao, đặc biệt là trong vùng Canadian Shield đi qua tỉnh này từ tây bắc đến đông nam và cũng ở trên Niagara Escarpment băng qua phía nam. Điểm cao nhất là Ishpatina Ridge ở 693 mét (2,274 ft) trên mực nước biển nằm ở Temagami, Đông Bắc Ontario. Ở phía Nam, độ cao trên 500 m (1.640 ft) được vượt qua gần Collingwood, trên Dãy núi Blue ở vùng Dundalk Highlands và trong những ngọn đồi gần sông Madawaska ở Hạt Renfrew. Vùng rừng Carolinian bao phủ hầu hết vùng tây nam của tỉnh. Thung lũng Great Lakes và Thung lũng Saint Lawrence ở phía nam là một phần của vùng sinh thái rừng vùng thấp ở Great Lakes ở vùng Đông Great Lakes, nơi rừng hiện nay đã được thay thế bằng nông nghiệp, công nghiệp và phát triển đô thị. Một đặc điểm địa lý nổi tiếng là Niagara Falls, một phần của Niagara Escarpment. Saint Lawrence Seaway cho phép chuyển hướng đến và đi từ Đại Tây Dương như xa đất liền Vịnh Thunder ở Northwestern Ontario. Bắc Ontario chiếm khoảng 87% diện tích bề mặt của tỉnh; Ngược lại phía Nam Ontario có 94 phần trăm dân số. Point Pelee là một bán đảo của hồ Erie ở tây nam Ontario (gần Windsor và Detroit, Michigan), đó là phạm vi cực nam của đại lục Canada. Đảo Pelee và đảo Middle ở Hồ Erie mở rộng ra xa hơn. Tất cả đều nằm ở phía nam của 42 ° N  - hơi xa Nam so với biên giới phía bắc của California. Khí hậu. Khí hậu của Ontario thay đổi tùy theo mùa và địa điểm.  Nó bị ảnh hưởng bởi ba nguồn không khí: lạnh, khô, không khí Bắc cực từ phía bắc (yếu tố chi phối trong những tháng mùa đông, và kéo dài hơn một năm ở phía bắc Ontario); Không khí cực đoan ở vùng cực Bắc Thái Bình Dương đi qua từ vùng Prairies Phía Tây Canada / Đồng bằng Bắc Mỹ; Và không khí ấm áp, ẩm ướt từ Vịnh Mexico và Đại Tây Dương.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Ảnh hưởng của các khối không khí chính đối với nhiệt độ và lượng mưa phụ thuộc chủ yếu vào vĩ độ, gần với các phần nước lớn và ở một mức độ nhỏ, giảm nhẹ địa hình.  Nói chung, hầu hết các môi trường của Ontario được phân loại là ẩm lục địa.  Ontario có ba vùng khí hậu chính. Vùng Hồ Great Lakes xung quanh ảnh hưởng lớn đến vùng khí hậu nam Ontario.  Trong những tháng mùa thu và mùa đông, nhiệt lưu trữ từ các hồ được giải phóng, điều tiết khí hậu gần bờ hồ.  Điều này cho phép một số phần của miền nam Ontario mùa đông êm dịu hơn các khu vực trung lục địa ở các vĩ độ thấp hơn. Các bộ phận của Tây Nam Ontario (thường là phía nam của một tuyến từ Sarnia-Toronto) có khí hậu lục địa ẩm ướt trung bình, tương tự như các bang Trung Đại Tây Dương nội địa và phần Hồ Great Lakes của vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Vùng có mùa nóng nắng nóng, ẩm ướt và mùa đông lạnh. Lượng mưa hàng năm dao động từ 750-1.000 mm (30-39 inch) và được phân bố tốt quanh năm. Hầu hết khu vực này nằm ở vùng lee of the Great Lakes, làm cho tuyết dồi dào ở một số khu vực. Vào tháng 12 năm 2010, băng tuyết lập kỷ lục mới khi nó bị trúng tuyết hơn một mét trong vòng 48 giờ.  Vùng khí hậu tiếp theo là vùng Trung và Đông Ontario có khí hậu lục địa ẩm ướt vừa phải (Köppen "Dfb" ). Vùng này có mùa hè nóng và đôi khi nóng với mùa đông lạnh hơn, mùa đông dài hơn, lượng tuyết rơi dồi dào (thậm chí ở các khu vực không nằm trong băng tuyết) và lượng mưa hàng năm tương tự như phần còn lại của Nam Ontario.  Ở phía đông bắc Ontario, kéo dài về phía nam như Hồ Kirkland, vùng nước lạnh của vịnh Hudson làm giảm nhiệt độ vào mùa hè, làm cho nó mát hơn các vị trí khác ở các vĩ độ tương tự. Điều này cũng đúng ở bờ phía Bắc của Hồ Superior, làm mát không khí ẩm nóng từ phía nam, dẫn đến nhiệt độ mùa hè mát mẻ hơn.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Dọc theo bờ phía đông của Hồ Superior và Hồ Huron nhiệt độ mùa đông hơi được kiểm duyệt nhưng đi kèm với tuyết có tuyết rơi thường xuyên nặngCác ô vuông làm tăng tổng lượng tuyết rơi theo mùa lên tới 3 m (10 ft) ở một số nơi. Những khu vực này có lượng mưa hàng năm cao hơn trong một số trường hợp trên 100 cm (39 inch). Phần phía bắc của Ontario - chủ yếu ở phía bắc 50 ° N - có khí hậu cận kề (Köppen "Dfc" ) với mùa đông lạnh kéo dài, mùa đông ngắn, mát đến mùa hè ấm áp với những thay đổi nhiệt độ có thể xảy ra trong mọi mùa. Không có các dãy núi lớn ngăn chặn không khí Arctic chìm, nhiệt độ -40 °C (-40 °F) không phải là hiếm; Tuyết rơi vẫn còn trên mặt đất đôi khi hơn nửa năm. Sự tích tụ tuyết rơi có thể cao ở một số khu vực. Lượng mưa nói chung ít hơn 70 cm (28 in) và đỉnh vào những tháng hè dưới dạng mưa rào hoặc giông bão.  Cơn sấm sét nghiêm trọng vào mùa hè. London, nằm ở phía Nam (Tây Nam Ontario ) , có những đợt sét đánh mỗi năm ở Canada, trung bình 34 ngày mỗi năm có dông bão. Trong một năm điển hình, Ontario trung bình đã xác định được 11 trận lốc xoáy. Tuy nhiên, trong 4 năm qua, đã có hơn 20 trận lốc xoáy mỗi năm, với tần số cao nhất xảy ra tại khu vực Windsor-Essex - Chatham Kent, mặc dù ít có tính phá hoại (đa số giữa F0 đến F2 trên thang Fujita). Ontario đã có 29 trận lốc xoáy kỷ lục vào năm 2006 và 2009. Những tàn dư đôi khi gây ra mưa lớn và gió ở phía nam, nhưng hiếm khi gây tử vong. Một ngoại lệ đáng chú ý là cơn bão Hazel tấn công miền Nam Ontario tập trung vào Toronto vào tháng 10 năm 1954. Lịch sử. Đất đai không được phân chia hợp pháp thành các đơn vị hành chính cho đến khi một hiệp định kết thúc với người thổ dân chuyển nhượng đất đai. Năm 1788, trong khi một phần của tỉnh Quebec, phía nam Ontario được chia thành bốn quận: Hesse, Lunenburg, Mecklenburg và Nassau. Năm 1792, bốn huyện được đổi tên thành: Hesse trở thành khu vực phía Tây, Lunenburg trở thành quận phía đông, Mecklenburg trở thành quận Midland, và Nassau trở thành Quận chủ. Quận đã được tạo ra trong huyện.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Quận đã được tạo ra trong huyện. Đến năm 1798, có tám huyện: Đông, Nhà, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, và phương Tây. Đến năm 1826, có mười một quận: Bathurst, Eastern, Gore, Home, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, Ottawa và Tây. Vào năm 1838, có hai mươi huyện: Bathurst, Brock, Colbourne, Dalhousie, Đông, Gore, Home, Huron, Johnstown, London, Midland, Newcastle, Niagara, Ottawa, Prince Edward, Simcoe, Talbot, Victoria, Wellington và Western. Năm 1849, các huyện phía nam Ontario đã được bãi bỏ bởi các tỉnh của Canada, và quận chính phủ đã tiếp quản một số trách nhiệm, thành phố. Tỉnh Ca-na-đa cũng bắt đầu tạo ra các "quận" ở vùng Ontario đông dân với việc thành lập quận Algoma và quận Nipissing vào năm 1858. Biên giới của Ontario, tên mới của nó vào năm 1867, được mở rộng tạm thời ở phía bắc và phía tây. Khi tỉnh Ca-na-đa được thành lập, biên giới của nó không hoàn toàn rõ ràng, và Ontario tuyên bố cuối cùng đã đến được cả dãy núi Rocky và Bắc Băng Dương. Với việc mua lại Rupert's Land của Canada, Ontario đã quan tâm đến việc xác định rõ ràng biên giới, đặc biệt là vì một số khu vực mới mà nó quan tâm đang phát triển nhanh chóng. Sau khi chính phủ liên bang yêu cầu Ontario thanh toán cho việc xây dựng ở khu vực tranh chấp mới, tỉnh đã yêu cầu xây dựng các giới hạn của nó, và ranh giới của nó đã được chuyển lên phía bắc đến cực bắc 51.  Các ranh giới phía bắc và phía tây của Ontario đã bị tranh chấp sau khi Liên minh Calci. Quyền của Ontario đối với Tây Bắc Ontario được Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư pháp quyết định năm 1884 và được xác nhận bởi "Đạo luật Canada (Ontario Roundary), 1889" của Quốc hội Vương quốc Anh. Đến năm 1899, có bảy huyện phía bắc: Algoma, Manitoulin, Muskoka, Nipissing, Parry Sound, Sông Rainy và Thunder Bay. Bốn quận khác của miền Bắc được tạo ra từ năm 1907 đến năm 1912: Cochrane, Kenora, Sudbury và Timiskaming.  Liên hệ với Châu Âu  Trước sự xuất hiện của người châu Âu, khu vực này đã có người ở Algonquian (Ojibwa, Cree và Algonquin) ở phần phía bắc / tây, và Iroquois và Wyandot (Huron) nhiều hơn ở phía nam / đông.  Trong thế kỷ 17, Algonquians và Hurons đã chiến đấu trong Chiến tranh Beaver chống lại Iroquois.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Nhà thám hiểm người Pháp Étienne Brûlé khám phá một phần của khu vực vào năm 1610-12.  Nhà thám hiểm người Anh Henry Hudson đã đi thuyền vào vịnh Hudson vào năm 1611 và tuyên bố khu vực này cho nước Anh. Samuel de Champlain đến Hồ Huron năm 1615, và các nhà truyền giáo Pháp bắt đầu thiết lập các bệ dọc theo Great Lakes. Sự giải quyết của người Pháp đã bị cản trở bởi cuộc chiến của họ với Iroquois, người đã liên minh với người Anh.  Từ năm 1634 đến năm 1640, Huron bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm ở châu Âu, như bệnh sởi và đậu mùa, mà họ không có miễn dịch.  Năm 1700, Iroquois đã rời khỏi Ontario và Mississaugas của Ojibwa đã định cư trên bờ phía bắc của Hồ Ontario. Anh thành lập các trụ sở thương mại trên Vịnh Hudson vào cuối thế kỷ 17 và bắt đầu một cuộc đấu tranh cho sự thống trị của Ontario. Các năm 1763 Hiệp ước Paris kết thúc chiến tranh bảy năm bằng cách trao gần như tất cả các tài sản Mỹ Bắc của Pháp (New France) để Anh. Khu vực này được nối vào Quebec năm 1774.  Các khu định cư châu Âu đầu tiên là vào năm 1782-1784 khi 5.000 người trung thành Mỹ bước vào Ontario bây giờ là sau cuộc Cách mạng Hoa Kỳ.  Các Vương quốc Anh cấp cho họ 200 mẫu Anh (81 ha) đất và các mặt hàng khác mà để xây dựng lại cuộc sống của họ.Người Anh cũng thiết lập các đặt chỗ ở Ontario cho nhữngngườiMohawks đã chiến đấu cho người Anh và đã mất đất ở bang New York. Iroquois khác đã được tái định cư năm 1784 tạikhu bảo tồnSix Nations ở phía tây của hồ Ontario. Dân số của Canada ở phía tây của hợp lưu sông St Lawrence-Ottawa tăng lên đáng kể trong thời gian này, một thực tế được thừa nhận theo Đạo luật Hiến pháp năm 1791, tách Quebec thành Canadas: Thượng Canada phía tây nam của hợp lưu sông St Lawrence-Ottawa, Và Hạ Canada phía đông của nó. John Graves Simcoe được bổ nhiệm làm Thống đốc Trung cấp đầu tiên của Canada năm 1793.  Thượng Canada. Quân Mỹ trong Chiến tranh năm 1812 đã xâm chiếm Thượng Canada qua sông Niagara và sông Detroit, nhưng đã bị đánh bại và đẩy lùi bởi các lực lượng fencibles và militias của Anh, Canada và các chiến binh của First Nations.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Tuy nhiên, cuối cùng người Mỹ đã giành quyền kiểm soát Lake Erie và Lake Ontario. Trong Trận chiến York năm 1813, quân đội Hoa Kỳ chiếm thành phố York. Người Mỹ cướp phá thị trấn và đốt tòa nhà Nghị viện trong thời gian chiếm đóng ngắn. Sau Chiến tranh năm 1812, sự ổn định tương đối cho phép số lượng người nhập cư gia tăng từ châu Âu hơn là từ Hoa Kỳ. Cũng như trường hợp trong những thập kỷ trước, sự chuyển đổi nhập cư này đã được khuyến khích bởi các nhà lãnh đạo thuộc địa. Mặc dù đất đai có giá cả phải chăng và thường là đất đai tự do, nhiều người mới đến, chủ yếu là từ Anh và Ireland, đã tìm thấy cuộc sống biên giới với khí hậu khắc nghiệt khó khăn và một số người có phương tiện cuối cùng trở về nhà hoặc đi về phía nam. Tuy nhiên, tăng trưởng dân số vượt xa số người di cư trong những thập kỷ tiếp theo. Đó là một xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhưng các dự án kênh và một mạng lưới các tuyến đường ván mới thúc đẩy thương mại lớn hơn trong vùng thuộc địa và với Hoa Kỳ, qua đó cải thiện mối quan hệ trước đây bị hư hỏng theo thời gian. Trong khi đó, nhiều đường thủy của Ontario hỗ trợ du lịch và vận chuyển vào nội thất và cung cấp nước cho phát triển. Khi dân số tăng lên, ngành công nghiệp và mạng lưới giao thông cũng vậy, do đó đã dẫn tới sự phát triển hơn nữa. Vào cuối thế kỷ này, Ontario đã thắng với Quebec như là nhà lãnh đạo quốc gia về tăng trưởng dân số, công nghiệp, nghệ thuật và truyền thông.  Tình trạng bất ổn ở vùng thuộc địa bắt đầu châm ngòi với gia đình quý tộc Gia đình, người điều hành trong khi lợi ích kinh tế từ các nguồn lực của khu vực, và những người không cho phép các cơ quan bầu cử được quyền lực. Sự oán giận này thúc đẩy lý tưởng cộng hòa và gieo hạt giống cho chủ nghĩa dân tộc Canada. Theo đó, cuộc nổi dậy ủng hộ chính phủ có trách nhiệm tăng ở cả hai khu vực; Louis-Joseph Papineau dẫn đầu Cuộc nổi dậy ở Hạ Canada và William Lyon Mackenzie dẫn đầu Cuộc nổi dậy ở Upper Canada. Canada Tây.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Canada Tây. Mặc dù cả hai cuộc nổi dậy đã được đưa ra ngắn gọn, chính phủ Anh đã gửi Lord Durham để điều tra nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn. Ông đề nghị Chính phủ Tự trị được cấp và Hạ và Upper Canada được tái tham gia trong một nỗ lực để thuần thục người Canada gốc Pháp. Theo đó, hai thuộc địa đã được sáp nhập vào tỉnh của Canada theo "Đạo luật Liên minh 1840" , với thủ đô tại Kingston và Upper Canada được gọi là Canada Tây. Chính quyền nghị việnĐược ban hành vào năm 1848. Có những đợt sóng nhập cư vào những năm 1840, và dân số của Canada Tây tăng hơn gấp đôi vào năm 1851 trong thập kỷ trước. Kết quả là lần đầu tiên số lượng người nói tiếng Anh của Canada West vượt qua nhóm người nói tiếng Pháp ở Canada East, nghiêng về sự cân bằng quyền lực đại diện. Sự bùng phát kinh tế vào những năm 1850 trùng với việc mở rộng đường sắt trên khắp tỉnh, tiếp tục tăng sức mạnh kinh tế của Trung Canada. Với việc bãi bỏ Luật về Ngô và thỏa thuận có đi có lại với Hoa Kỳ, nhiều ngành công nghiệp khác nhau như gỗ, khai thác mỏ, trồng trọt và rượu chưng cất có lợi rất lớn. Một sự bất đồng chính trị giữa các nhà lập pháp Pháp và tiếng Anh, cũng như sự sợ hãi của sự xâm lược từ Hoa Kỳ trong và ngay sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, dẫn đầu tầng lớp chính trị để tổ chức một loạt các hội nghị vào những năm 1860 nhằm tạo ra một liên bang rộng lớn hơn Công đoàn của tất cả các thuộc địa Bắc Mỹ của Anh. Các "Bắc Mỹ Đạo luật Anh" mất hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1867, thành lập Dominion của Canada, ban đầu với bốn tỉnh: Nova Scotia, New Brunswick, Quebec và Ontario. Tỉnh của Canada được chia thành Ontario và Quebec để mỗi nhóm ngôn ngữ sẽ có một tỉnh riêng. Cả Quebec và Ontario đều được yêu cầu theo mục 93 của Đạo luật Bắc Mỹ của AnhĐể bảo vệ quyền và lợi ích giáo dục hiện có của người Tin lành và người thiểu số Ca-tô. Do đó, các trường Công giáo riêng biệt và bảng giáo dục được phép ở Ontario. Tuy nhiên, cả hai tỉnh đều không có yêu cầu về hiến pháp để bảo vệ người thiểu số nói tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Toronto đã chính thức được thành lập như là thủ phủ của tỉnh Ontario. Tỉnh.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Tỉnh. Sau khi thành lập như một tỉnh, Ontario đã tiến hành khẳng định quyền lực kinh tế và lập pháp của mình. Vào năm 1872, luật sư Oliver Mowat trở thành Thủ tướng của Ontario và giữ chức vụ thủ tướng cho đến năm 1896. Ông đã chiến đấu vì quyền của tỉnh, làm suy yếu quyền lực của chính phủ liên bang trong các vấn đề của tỉnh, thường là thông qua những lời kêu gọi tranh luận tốt với Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Tư hữu. Những trận đánh của ông với chính phủ liên bang đã phân cấp rất nhiều Canada, cho phép các tỉnh có quyền lực hơn John A. MacdonaldĐã dự định. Ông đã củng cố và mở rộng các cơ sở giáo dục và tỉnh của Ontario, tạo ra các khu vực ở Bắc Ontario, và đã chiến đấu để đảm bảo rằng những khu vực của Tây Bắc Ontario không phải là một phần của Upper Canada (vùng rộng lớn phía bắc và phía tây của lưu vực Hồ Superior-Hudson Bay, các quận của Keewatin) sẽ trở thành một phần của Ontario, một chiến thắng thể hiện trong "(Boundary) Đạo luật Canada Ontario, 1889" . Ông cũng đã chủ trì sự xuất hiện của tỉnh này thành nhà máy kinh tế của Canada. Mowat là người tạo ra cái gọi là "Empire Ontario" . Bắt đầu với Chính sách Quốc gia Sir John A. Macdonald (1879) và việc xây dựng tuyến đường sắt Thái Bình Dương của Canada (1875-1885) thông qua miền Bắc Ontario và vùng Cananda đến British Columbia, Ontario sản xuất và công nghiệp phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, dân số tăng chậm lại sau khi một cuộc suy thoái trầm trọng xảy ra vào năm 1893, do đó làm chậm tăng trưởng mạnh nhưng chỉ trong vài năm. Nhiều người nhập cư mới đến và những người khác di chuyển về phía tây dọc theo tuyến đường sắt tới các tỉnh Prairie và British Columbia, thường xuyên định cư phía Bắc Ontario. Khai thác khoáng sản đã tăng nhanh vào cuối thế kỷ 19, dẫn đến sự gia tăng các trung tâm khai thác quan trọng ở phía đông bắc, như Sudbury, Cobalt và Timmins. Tỉnh đã khai thác nguồn nước để sản xuất thủy điện và thành lập Ủy ban Nhà nước về Điện thủy điện của Ontario, sau đó là Ontario Hydro. Sự sẵn có của điện năng giá rẻ tiếp tục tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành công nghiệp. Công ty Ford Motor của Canada được thành lập vào năm 1904. General Motors Canada được thành lập vào năm 1918.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
General Motors Canada được thành lập vào năm 1918. Ngành công nghiệp ô tô đã trở thành ngành công nghiệp sinh lợi nhất cho nền kinh tế Ontario trong thế kỷ 20. Vào tháng 7 năm 1912, chính quyền Bảo thủ của Sir James Whitney đã ban hành Quy định 17 làm hạn chế đáng kể việc học tiếng Pháp đối với người thiểu số nói tiếng Pháp của tỉnh. Người Pháp gốc Canada đã phản ứng giận dữ, nhà báo Henri Bourassa đã tố cáo "Prussians of Ontario". Các quy định cuối cùng đã được bãi bỏ vào năm 1927. Bị ảnh hưởng bởi các sự kiện ở Hoa Kỳ, chính phủ của Sir William Hearst giới thiệu việc cấm uống rượu vào năm 1916 với sự vượt qua của Đạo luật Temperance Ontario. Tuy nhiên, người dân có thể chưng cất và duy trì nguồn cung cá nhân của họ, và các nhà sản xuất rượu có thể tiếp tục chưng cất và xuất khẩu để bán, cho phép ngành công nghiệp đã có thể tăng cường hơn nữa. Ontario đã trở thành một căn cứ buôn lậu ma túy bất hợp pháp và là nhà cung cấp lớn nhất vào Hoa Kỳ, điều này hoàn toàn bị cấm. Việc cấm ở Ontario đã chấm dứt vào năm 1927 với việc thành lập Ban Kiểm soát rượu của Ontario dưới sự quản lý của chính phủ Howard Ferguson. Việc bán và tiêu thụ rượu, rượu vang và bia vẫn bị kiểm soát bởi một số luật cực đoan nhất ở Bắc Mỹ để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về cộng đồng và doanh thu từ độc quyền bán lẻ rượu được duy trì. Tháng 4 năm 2007, Thành viên Ontario của tỉnh Kim Craitor cho rằng các nhà sản xuất bia địa phương nên có thể bán bia của họ tại các cửa hàng góc địa phương; Tuy nhiên, chuyển động nhanh chóng bị Premier Dalton McGuinty bác bỏ. Giai đoạn sau Thế chiến II là một trong những sự thịnh vượng đặc biệt và tăng trưởng. Ontario là người nhận đa số di dân đến Canada, phần lớn là những người nhập cư từ Châu Âu bị chiến tranh tàn phá vào những năm 1950 và 1960 và sau những thay đổi trong luật nhập cư của liên bang, một làn sóng khổng lồ những người không phải châu Âu kể từ những năm 1970. Từ một tỉnh thuộc tỉnh sắc tộc Anh quốc, Ontario đã nhanh chóng trở nên văn hoá rất đa dạng.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Quebec, đặc biệt sau cuộc bầu cử "Parti Québécois" năm 1976, đã góp phần thúc đẩy nhiều doanh nghiệp và người nói tiếng Anh ra khỏi Quebec đến Ontario, và kết quả là Toronto vượt qua Montreal như là thành phố lớn nhất và trung tâm kinh tế của Canada. [ ' ] Điều kiện kinh tế suy thoái ở các tỉnh Maritime cũng dẫn đến tình trạng dân số của các tỉnh này trong thế kỷ 20, với việc di cư quá mức vào Ontario. [ ' ] Ngôn ngữ chính thức của Ontario là tiếng Anh.  Nhiều dịch vụ ngôn ngữ tiếng Pháp có sẵn theo Đạo luật Dịch vụ Ngôn ngữ Pháp năm 1990 trong các khu vực được chỉ định, nơi có nhiều người nói tiếng Pháp. Kinh tế. Nền kinh tế ở Ontario rất đa dạng. Ontario có nền kinh tế lớn nhất ở Canada. Mặc dù sản xuất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ontario, chiếm 12,6% GDP của tỉnh, nhưng lĩnh vực dịch vụ lại chiếm phần lớn, khoảng 77,9%, của nền kinh tế. Ontario là tỉnh đông dân nhất của Canada, với dân số khoảng 14,19 triệu thường trú nhân vào năm 2017. Đây là tỉnh sản xuất hàng đầu của Canada, chiếm 46% GDP sản xuất năm 2017. Lạm phát CPI của tỉnh trong năm 2018 đã được xác nhận là 2,2%, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,6% vào tháng 1 năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp này dựa trên 447.400 người thất nghiệp ở Ontario. Năm 2017, các mặt hàng xuất khẩu quốc tế chính của Ontario là xe có động cơ và phụ tùng (35,3%), thiết bị cơ khí (10,1%), kim loại quý và đá (9,8%), máy móc điện (3,9%) và sản phẩm nhựa (3,6%). Nhập khẩu quốc tế chính của Ontario là linh kiện và phụ tùng xe có động cơ (22,6%), thiết bị cơ khí (14,4%), máy móc điện (11,4%), sản phẩm nhựa (3,9%) và dược phẩm (3,4%). Ontario là tỉnh bang hàng đầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) ở Bắc Mỹ vào năm 2013, với 7,23 tỷ đô la. Con số này chiếm hơn một phần mười tổng số vốn FDI vào Bắc Mỹ. Đây cũng là bang đứng thứ 4 về vốn FDI ra nước ngoài, đạt 7,74 tỷ USD. Tính đến năm 2017, Ontario là tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai ở Canada, đầu tiên là Alberta. Các con sông của Ontario làm cho nó giàu năng lượng thủy điện.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Trong năm 2009, Ontario Power Generation tạo ra 70% điện của tỉnh, trong đó 51% là hạt nhân, 39% là thủy điện và 10% là nhiên liệu hóa thạch.  Đến năm 2025, điện hạt nhân dự kiến ​​sẽ cung cấp 42%, trong khi sản xuất nguồn nhiên liệu hóa thạch dự kiến ​​sẽ giảm nhẹ trong 20 năm tới. Phần lớn sản lượng điện mới xuất hiện trực tuyến trong vài năm qua là các loại khí tự nhiên hoặc khí tự nhiên kết hợp. Tuy nhiên, OPG không chịu trách nhiệm về việc truyền tải điện, dưới sự kiểm soát của Hydro One. Mặc dù có nhiều lựa chọn quyền lực khác nhau, các vấn đề liên quan đến tiêu thụ ngày càng tăng, thiếu hiệu suất năng lượng và các lò phản ứng hạt nhân cũ, Ontario đã buộc phải mua điện từ các nước láng giềng Quebec và Michigan để bổ sung nhu cầu năng lượng của họ trong thời gian tiêu thụ cao điểm. Tỷ lệ nội địa cơ bản của Ontario trong năm 2010 là 11,17 cent / kWh; Ngược lại. Quebec là 6,81.  Vào tháng 12 năm 2013, chính phủ dự kiến ​​mức tăng 42% vào năm 2018, và 68% vào năm 2033.  Tỷ lệ công nghiệp dự kiến ​​sẽ tăng 33% vào năm 2018, và 55% vào năm 2033.  Một sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên, liên kết giao thông tuyệt vời để các khu trung tâm Mỹ và nội địa Great Lakes làm cận với đại dương có thể qua tàu container, tất cả đều góp phần làm cho sản xuất hiệu trưởng ngành công nghiệp của tỉnh, phát hiện chủ yếu ở khu vực Golden Horseshoe, đó là Khu vực công nghiệp hóa lớn nhất ở Canada, phía nam của khu vực là một phần của Bắc Rust Belt Bắc Mỹ. Các sản phẩm quan trọng bao gồm xe có động cơ, sắt, thép, thực phẩm, thiết bị điện, máy móc, hóa chất và giấy. Ontario đã vượt qua Michigan trong sản xuất ôtô, lắp ráp 2.696 triệu xe trong năm 2004. Ontario có nhà máy Chrysler ở Windsor và Bramalea, hai nhà máy GM ở Oshawa và một ở Ingersoll, một nhà máy lắp ráp Honda tại Alliston, các nhà máy Ford ở Oakville và St. Thomas và Toyota Lắp ráp tại Cambridge và Woodstock. Năm 2005, General Motors tuyên bố sa thải nhân viên tại các cơ sở sản xuất ở Bắc Mỹ, trong đó có hai nhà máy GM lớn ở Oshawa và một cơ sở đào tạo lái xe tại St.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
CatharinesDẫn đến 8.000 việc làm bị mất ở Ontario một mình. Năm 2006, Ford Motor Company tuyên bố từ 25,000 đến 30,000 người sa thải cho đến năm 2012; Ontario đã được cứu thoát tồi tệ nhất, nhưng mất việc đã được công bố cho các cơ sở St Thomas và nhà máy Casting Windsor. Tuy nhiên, tổn thất này sẽ được bù đắp bởi việc công bố gần đây của Ford về một cơ sở sản xuất xe hybrid được dự kiến ​​sẽ bắt đầu sản xuất vào năm 2007 tại nhà máy Oakville và việc tái giới thiệu Camaro của GM sẽ được sản xuất tại Oshawa. Vào ngày 4 tháng 12 năm 2008, Toyota đã công bố việc khai trương nhà máy RAV4 tại Woodstock, vàHonda cũng có kế hoạch bổ sung thêm một nhà máy động cơ tại nhà máy tại Alliston. Mặc dù các nhà máy mới này được đưa vào sử dụng trực tuyến nhưng Ontario vẫn chưa hồi phục hoàn toàn sau những đợt sa thải hàng loạt gây ra bởi cuộc suy thoái toàn cầu; Tỷ lệ thất nghiệp của họ là 7,3% vào tháng 5 năm 2013,  so với 8,7% trong tháng 1 năm 2010  và khoảng 6% trong năm 2007. Tháng 9 năm 2013, chính phủ Ontario đã cam kết 70,9 triệu CAD cho nhà máy Ford ở Oakville, Chính phủ liên bang đã cam kết 71,1 triệu CAD, để đảm bảo 2.800 việc làm. Tỉnh này đã mất 300.000 việc làm trong thập kỷ từ năm 2003, và Ngân hàng Canada ghi nhận rằng "trong khi các ngành công nghiệp năng lượng và khai thác mỏ đã được hưởng lợi từ các phong trào này, áp lực lên ngành chế tạo đã tăng lên, vì nhiều công ty trong ngành này đã Đối phó với cạnh tranh ngày càng tăng từ các nền kinh tế có chi phí thấp như Trung Quốc ".  Ngành công nghiệp thép của Ontario đã từng tập trung vào Hamilton. Cảng Hamilton, có thể được xem như là một trong những cầu QEW Skyway cầu, là một đất công nghiệp đất hoang; Thép Mỹ thuộc sở hữu Stelco công bố vào mùa thu năm 2013 rằng họ sẽ đóng cửa vào năm 2014, với sự mất mát của 875 việc làm. Động thái này cho thấy một nhà sản xuất công suất 2 triệu tấn / năm sẽ bị đóng cửa trong khi Canada nhập khẩu 8 triệu tấn thép vào năm trước.  Algoma Steel vẫn duy trì một nhà máy ở Sault Ste Marie. Toronto, thủ phủ của Ontario, là trung tâm dịch vụ tài chính và ngành ngân hàng của Canada.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Các thành phố lân cận là nơi phân phối sản phẩm, các trung tâm công nghệ thông tin và các ngành sản xuất khác nhau. Chính phủ liên bang của Canada là công ty lớn nhất trong khu vực thủ đô, trong đó tập trung vào các thành phố biên giới của Ottawa Ontario và Quebec Gatineau.  Ngành công nghệ thông tin rất quan trọng, đặc biệt là ở khu "vực phía Bắc Thung lũng Silicon" của Ottawa, cũng như khu vực Waterloo, nơi có trụ sở chính của Research in Motion (các nhà phát triển của điện thoại thông minh BlackBerry). BlackBerry một lần cung cấp hơn 19 phần trăm các công việc ở địa phương và sử dụng hơn 13% của toàn bộ người dân địa phương [ " ] trước khi nó được cung cấp 9.500 sa thải trong năm 2013. OpenText và ATS Automation Systems Tooling của Cambridge làm cho ngôi nhà của mình ở khu vực này quá. Mike Lazaridis, Một trong những người sáng lập của RIM, được thành lập vào năm 1999 Viện Perimeter, sau đó vào năm 2002 Viện về Máy tính lượng tử, sau đó trong năm 2013 Quantum Valley Investments, để cày một phần lợi ích của RIM trở lại nghiên cứu và phát triển.  Vào năm 2014, đoạn đường cao tốc 401 giữa Toronto và Waterloo đã trở thành hành lang đổi mới lớn thứ hai thế giới sau thung lũng Silicon của California, sử dụng gần 280.000 nhân viên công nghệ từ khắp nơi trên thế giới và chứa trên 60% ngành công nghệ cao của Canada.  Hamilton là thành phố sản xuất thép lớn nhất ở Canada theo sát bởi Sault Ste. Marie, và Sarnia là trung tâm sản xuất hóa dầu. Xây dựng đã sử dụng hơn 6,5% lực lượng lao động của tỉnh vào tháng 6 năm 2011.  Ngành khai thác mỏ và lâm sản, đặc biệt là bột giấy và giấy, là yếu tố sống còn cho nền kinh tế của Bắc Ontario. Đã có tranh cãi về trữ lượng khoáng sản của Ring of Fire, và liệu tỉnh có đủ tiền để chi 2,25 tỷ đô la Canada trên đường từ Đường cao tốc Trans-Canada gần Kenora đến tiền gửi, hiện tại trị giá 60 tỷ đô la Canada.  Du lịch đóng góp rất lớn vào nền kinh tế của miền trung Ontario, đạt đỉnh điểm trong những tháng hè vì sự phong phú của nước ngọt giải trí và hoang dã được tìm thấy ở đó gần với các trung tâm đô thị lớn. Vào các thời điểm khác trong năm, săn bắn, trượt tuyết và xe trượt tuyết rất phổ biến.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Vùng này có một số màn hình hiển thị màu sắc rực rỡ nhất ở bất kỳ đâu trên lục địa, và các chuyến tham quan hướng tới du khách nước ngoài được tổ chức để xem chúng. Du lịch cũng đóng vai trò quan trọng trong các thành phố biên giới với các sòng bạc lớn, trong số đó là Windsor, Cornwall, Sarnia và Niagara Falls, nơi thu hút hàng triệu du khách quốc tế và Mỹ.  Nông nghiệp. Một khi ngành công nghiệp chiếm ưu thế, nông nghiệp chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số. Tuy nhiên, phần lớn diện tích đất ở nam Ontario được giao cho nông nghiệp. Như bảng dưới đây cho thấy, trong khi số lượng trang trại cá nhân giảm đều và quy mô tổng thể của họ đã giảm với tốc độ thấp hơn, cơ giới hóa nhiều hơn đã hỗ trợ tăng cung để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của một nền dân số ngày càng tăng; Điều này cũng đồng nghĩa với sự gia tăng dần trong tổng số đất sử dụng cho trồng cây. Các loại trang trại thông thường được báo cáo trong cuộc Tổng điều tra năm 2001 bao gồm các loại trang trại cho gia súc, hạt nhỏ và sữa. Ngành trồng nho và trồng nho chủ yếu nằm trên Bán đảo Niagara và dọc theo Hồ Erie, nơi có các trang trại thuốc lá. Thị trường rau cải phát triển trong đất phong phú của Hà Lan Marsh gần Newmarket. Khu vực gần Windsor cũng rất phì nhiêu. Nhà máy Heinz ở Leamington được mua lại vào mùa thu năm 2013 của Warren Buffett và một đối tác của Brazil, sau đó đã đưa 740 người ra khỏi công việc.  Các khoản trợ cấp của chính phủ đã được theo sau một thời gian ngắn; Premier Kathleen WynneĐã cung cấp 200.000 đô la Canada để giảm đòn, và hứa hẹn rằng một nhà chế biến thực phẩm khác sẽ sớm được tìm thấy.  Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, Kellogg tuyên bố sa thải cho hơn 509 công nhân tại một nhà máy sản xuất ngũ cốc ở London.  Kellogg có kế hoạch chuyển vị trí sang Thái Lan.  Khu vực được định nghĩa là Vành ngô chứa nhiều khu vực phía tây nam của tỉnh, mở rộng đến tận phía Bắc gần Goderich, nhưng ngô và đậu nành được trồng ở khu vực phía nam của tỉnh.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Vườn Apple là một cảnh quan phổ biến dọc theo bờ biển phía nam của vịnh Nottawasaga (một phần của vịnh Georgian) gần Collingwood và dọc theo bờ phía bắc của Hồ Ontario gần Cobourg. Sản xuất thuốc lá, tập trung tại Quận Norfolk, đã giảm, cho phép tăng các cây trồng thay thế như cây phỉ và nhân sâm. Nguồn gốc của Ontario của Massey Ferguson, một lần là một trong những trang trại lớn nhất thực hiệncác nhà sản xuất trên thế giới, cho thấy tầm quan trọng khu vực nông một lần [ " ] phải nền kinh tế Canada. Việc cung cấp đất nông nghiệp hạn chế của miền Nam Ontario sẽ không còn sản xuất nữa với tốc độ gia tăng. Việc mở rộng đô thị và các trường hợp mất đất nông nghiệp góp phần làm mất hàng ngàn mẫu đất sản xuất nông nghiệp tại Ontario mỗi năm. Hơn 2.000 trang trại và 150.000 mẫu Anh (61.000 ha) đất nông nghiệp trong GTA đã bị mất đi trong hai thập kỷ giữa năm 1976 và năm 1996. Sự mất mát này chiếm khoảng 18% diện tích đất nông nghiệp của Ontario được chuyển sang mục đích đô thị., Việc gia tăng các khoản trợ cấp nông thôn sẽ tạo ra sự can thiệp lớn hơn cho sản xuất nông nghiệp. Năng lượng. Đạo luật về Năng lượng Xanh và Kinh tế Xanh, 2009 (GEA), có cách tiếp cận hai mặt để thương mại hóa năng lượng tái tạo: Dự thảo dự kiến ​​chỉ định một Người hướng dẫn năng lượng tái tạo để cung cấp hỗ trợ "một cửa sổ" và hỗ trợ cho các nhà phát triển dự án để tạo điều kiện cho việc phê duyệt dự án.  Quy trình phê duyệt cho các dự án truyền tải cũng sẽ được sắp xếp hợp lý và (lần đầu tiên ở Ontario) dự luật sẽ ban hành các tiêu chuẩn cho các dự án năng lượng tái tạo. Chủ nhà sẽ được hưởng ưu đãi để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo quy mô nhỏ như các khoản vay thấp hoặc không có lãi để trang trải cho chi phí vốn của các cơ sở sản xuất năng lượng tái tạo như các tấm pin mặt trời.  Ontario là nơi có Thác Niagara, cung cấp một lượng điện lớn cho tỉnh. Các Generating Station Bruce hạt nhân, lớn nhất điện hạt nhân nhà máy trên thế giới, cũng là ở Ontario và sử dụng 8 lò phản ứng CANDU để tạo ra điện cho tỉnh. Chính phủ, luật pháp và chính trị.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Chính phủ, luật pháp và chính trị. Các "Luật Bắc Mỹ Anh 1867" phần 69 quy định "Sẽ có một cơ quan lập pháp cho Ontario gồm Thống đốc Trung úy và One House, theo kiểu các Hội đồng lập pháp của Ontario." Hội đồng có 107 ghế đại diện cho các cuộc chạy đua được bầu trong hệ thống đầu tiên trên toàn tỉnh. Tòa nhà lập pháp tại Queen's Park là nơi của chính phủ. Theo hệ thống Westminster, lãnh đạo đảng nắm giữ nhiều ghế trong hội đồng được gọi là "Thủ hiến và Chủ tịch Hội đồng" (Đạo luật của Hội đồng Điều hành RSO 1990). Thủ tướng Chính phủ chọn nội các hoặc Hội đồng điều hành có các thành viên được coi là Bộ trưởng của Vương quốc Anh. Mặc dù "Đạo luật Lập pháp của Hội đồng Lập pháp (RSO 1990)" đề cập đến các thành viên của hội đồng ", các nhà lập pháp hiện nay được gọi là MPPs (Thành viên của Nghị viện tỉnh) bằng tiếng Anh và "députés de l'Assemblée lập pháp" bằng tiếng Pháp, nhưng họ cũng được gọi là MLAs (Các thành viên của Hội đồng Lập pháp), và cả hai đều có thể chấp nhận được. Tiêu đề của Thủ tướng chính phủ Ontario, đúng bằng tiếng Pháp ( "le Premier ministre" ), được cho phép bằng tiếng Anh nhưng bây giờ thường tránh dùng danh hiệu "Premier" để tránh nhầm lẫn với Thủ tướng Canada. Luật. Ontario đã phát triển, từ nguồn gốc của nó ở Thượng Canada, vào một thẩm quyền hiện đại. Các chức danh cũ của các luật sư trưởng, Tổng Chưởng lý và Tổng luật sư, vẫn còn được sử dụng. Cả hai đều chịu trách nhiệm về Lập pháp. Tổng chưởng lý soạn thảo luật pháp và chịu trách nhiệm về việc truy tố hình sự và quản lý công lý, trong khi Tổng luật sư chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và các dịch vụ cảnh sát của tỉnh. Chính trị. Ontario có nhiều đảng chính trị chạy đua vào cuộc bầu cử. Ba đảng chính là Đảng Tự do của Trung ương Đảng, Đảng Bảo thủ Tiến bộ Tiến bộ ở Ontario, và Đảng Dân chủ Mới của Ontario (NDP). Mỗi bên trong ba đảng đã nhận được uỷ nhiệm đa số trong một cuộc bầu cử cấp tỉnh từ năm 1990. Ontario được lãnh đạo bởi chính phủ đa số Premier Kathleen Wynne, một người tự do.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Kể từ khi giành được quyền lực của cựu Premier Dalton McGuinty vào năm 2003, Ontario Liberals đã được tái đắc cử ba lần: trong năm 2007, 2011, và 2014 cuộc tổng tuyển cử. Trong cuộc bầu cử liên bang năm 2011 ở Ontario, Đảng Bảo thủ đã được bầu vào 73 lần cai nghiện, NDP ở 22 và Liberals trong 11. Đảng Xanh đã không giành được ghế ở Ontario, nhưng Bruce Hyer (Dân biểu của Thunder Bay-Superior Bắc) đã vượt qua Sàn từ NDP và ngồi như một thành viên Đảng Xanh từ năm 2013 cho đến khi Nghị viện chấm dứt cuộc bầu cử liên bang năm 2015. Giáo dục. Hệ sau trung học phổ thông tại Ontario có 22 trường đại học công lập, 24 trường cao đẳng công lập (21 trường cao đẳng nghệ thuật ứng dụng và công nghệ (CAATs) và ba viện công nghệ và học tập nâng cao (ITALs)), 17 trường đại học tôn giáo được tài trợ bởi tư nhân, và hơn 500 trường cao đẳng nghề tư thục. Hệ thống cấp tiểu học và trung học cơ sở gồm: 31 trường dạy theo chương trình tiếng anh công lập, 29 trường dạy chương trình tiếng anh công giáo, 4 trường dạy tchuowng trình tiếng Pháp công lập và 8 trường tiếng Pháp công giáo. Tại Canada, việc xây dựng môi trường giáo dục hoàn thoàn thuộc vào thẩm quyền của tỉnh bang. Liên bang chỉ theo dõi chứ không  sau sát vào quá trình xây dựng môi trường và hệ thống giáo dục tại tỉnh bang. Tại mỗi tỉnh bang sẽ tồn tại các trường dành cho người dân tộc Ấn, đây là trường hợp duy nhất được liên bang tài trợ. Các trường tiểu học và trung học công lập do Bộ Giáo dục Ontario quản lý, trong khi các trường cao đẳng và đại học do Bộ Đào tạo, Cao đẳng và Đại học Ontario quản lý. Các Bộ trưởng tương ứng hiện tại của mỗi người là Stephen Lecce và Ross Romano. Các hiến pháp CanadaCung cấp cho mỗi tỉnh có trách nhiệm giáo dục đại học và không có bộ giáo dục đại học liên bang tương ứng. Trong chủ nghĩa liên bang của Canada phân chia trách nhiệm và quyền hạn thuế giữa các chính phủ Ontario và Canada tạo ra nhu cầu hợp tác để tài trợ và cung cấp giáo dục đại học cho sinh viên. Mỗi hệ thống giáo dục đại học nhằm mục đích cải thiện sự tham gia, tiếp cận, và tính lưu động cho học sinh.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Có hai tổ chức trung ương hỗ trợ quá trình nộp đơn vào các trường đại học và cao đẳng Ontario: Trung tâm Ứng dụng các trường đại học Ontario và Dịch vụ Ứng dụng Cao đẳng Ontario.  Mặc dù các dịch vụ ứng dụng được tập trung, các thủ tục tuyển chọn và lựa chọn khác nhau và là tầm nhìn của mỗi tổ chức độc lập. Nhập học vào các cơ sở giáo dục sau trung học tại Ontario có thể rất cạnh tranh. Sau khi nhập học, sinh viên có thể tham gia với đại diện sinh viên trong khu vực với các Liên đoàn Canada Học Sinh, các Canada Liên minh các Hội Sinh viên, các Đại học Student Alliance Ontario, hoặc thông qua Liên minh Sinh viên Trường Cao đẳng ở Ontari Giao thông vận tải. Các tuyến đường vận chuyển ở Ontario phát triển từ đường thủy đầu và đường đi của First Nations theo sau bởi các nhà thám hiểm châu Âu. Ontario có hai tuyến đường đông-tây lớn, bắt đầu từ Montreal ở tỉnh lân cận của Quebec. Tuyến đường phía bắc, là một tuyến thương mại lông thú lớn, di chuyển về phía tây từ Montreal dọc theo sông Ottawa, sau đó tiếp tục hướng tây bắc về phía Manitoba. Các thành phố lớn trên hoặc gần tuyến bao gồm Ottawa, Vịnh Bắc, Sudbury, Sault Ste. Marie, và Thunder Bay. Tuyến phía nam, được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng trong các khu định cư do Cơ quan Trung thành Thống nhất Hoa Kỳ và những người nhập cư châu Âu khác, Đi theo hướng tây nam từ Montreal dọc theo Sông St. Lawrence, Hồ Ontario và Hồ Erie trước khi vào Hoa Kỳ ở Michigan. Các thành phố lớn trên hoặc gần tuyến bao gồm Kingston, Belleville, Peterborough, Oshawa, Toronto, Mississauga, Kitchener-Waterloo, Hamilton, London, Sarnia và Windsor. Tuyến đường này cũng được người nhập cư sử dụng rộng rãi đến vùng Trung Tây Hoa Kỳ đặc biệt vào cuối thế kỷ 19. Đường cao tốc 400-Series tạo thành mạng lưới xe buýt chính ở phía nam của tỉnh, nối liền với nhiều cửa khẩu biên giới với Hoa Kỳ, nhất là Đường hầm Detroit-Windsor và Cầu Ambassador và Cầu Nước Xanh (qua Quốc lộ 402). Một số đường cao tốc chính dọc theo tuyến đường phía nam là Quốc lộ 401, Quốc lộ 417 và Quốc lộ 400,  trong khi các đường cao tốc tỉnh và đường nội bộ khác kết nối với phần còn lại của tỉnh.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Các Saint Lawrence Seaway, mà mở rộng trên hầu hết các phần phía nam của tỉnh và kết nối với Đại Tây Dương, là chính vận chuyển nước đường cho hàng hóa, đặc biệt là quặng sắt và ngũ cốc. Trong quá khứ, Hồ Great Lakes và Sông St. Lawrence cũng là một tuyến vận tải hành khách lớn, nhưng trong nửa thế kỷ vừa qua hành khách đã bị giảm xuống các dịch vụ phà và tham quan du lịch trên biển. Qua Đường sắt hoạt động dịch vụ vận tải hành khách liên vùng trên Hành lang Windsor-Quebec, cùng với "The Canadian" , một tuyến đường sắt xuyên lục địa từ Nam Ontario đến Vancouver, và tàu Sudbury-White River. Ngoài ra, tuyến đường sắt Amtrak nối Ontario với các thành phố New York chính gồm Buffalo, Albany và Thành phố New York. Ontario Northland cung cấp dịch vụ đường sắt đến các điểm đến phía bắc như Moosonee gần Vịnh James, kết nối chúng với phía nam. Đường sắt vận chuyển hàng hóa bị chi phối bởi các sáng lập xuyên quốc gia Đường sắt Quốc gia Canada và đường sắt CP các công ty, mà trong năm 1990 bán nhiều tuyến đường sắt ngắn từ mạng lưới rộng lớn của họ cho các công ty tư nhân hoạt động chủ yếu ở phía nam. Tuyến đường sắt đi lại khu vực bị giới hạn bởi GO Transit thuộc tỉnh, và phục vụ mạng lưới xe lửa bao gồm khu vực Golden Horseshoe. Các Transit Ủy ban Toronto hoạt động duy nhất của tỉnh tàu điện ngầm và xe điện hệ thống, một trong những bận rộn nhất ở Bắc Mỹ. OC Transpo hoạt động, ngoài dịch vụ xe buýt, tuyến đường sắt nhẹ duy nhất của Ontario, O-Train ở Ottawa. Một tuyến tàu điện ngầm đường sắt gọi là Confederation Line đang được xây dựng tại Ottawa. Nó sẽ có 13 trạm trên 12,5 km (7,8 dặm) và một phần của nó sẽ chạy dưới Downtown của thành phố và có ba trạm ngầm. Ngoài ra, hệ thống đường sắt nhẹ Ion và xe buýt tốc độ cao đang được xây dựng trong khu vực Waterloo của tỉnh. Các sân bay quan trọng trong tỉnh bao gồm Sân bay Quốc tế Toronto Pearson, là sân bay bận nhộn nhịp nhất ở Canada, đón hơn 41 triệu hành khách vào năm 2015.  Sân bay Quốc tế Ottawa Macdonald-Cartier là sân bay lớn thứ hai của Ontario.
Ontario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=843
Toronto / Pearson và Ottawa / Macdonald-Cartier tạo thành hai trong số ba điểm trong các tuyến không lưu của Canada (điểm thứ ba là Sân bay Quốc tế Montréal-Pierre Elliott Trudeau). Hầu hết các thành phố ở Ontario đều có các sân bay trong khu vực, nhiều sân bay có các chuyến bay từ Air Canada Jazz hoặc các hãng hàng không và các hãng hàng không nhỏ hơn - các chuyến bay từ các thành phố cỡ trung như Thunder Bay, Sault Ste. Marie, Sudbury, North Bay, Timmins, Windsor, London và Kingston trực tiếp đưa vào các sân bay lớn ở Toronto và Ottawa. Bearskin Airlines cũng điều hành các chuyến bay dọc theo tuyến phía đông-tây bắc, kết nối Ottawa, Vịnh Bắc, Sudbury, Sault Ste. Marie, Kitchener và Thunder Bay trực tiếp. Các thành phố và khu định cư bị cô lập ở các khu vực phía Bắc của tỉnh phụ thuộc hoàn toàn vào dịch vụ vận chuyển hàng không, hàng không, và thậm chí cả dịch vụ cứu thương (MEDIVAC) vì phần lớn khu vực phía Bắc của tỉnh không thể đi bằng đường bộ hoặc đường sắt.
Manitoba
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=844
Manitoba là một trong ba tỉnh bang nằm ở trung tâm của Canada, có cùng biên giới với Ontario, Saskatchewan và Nunavut, phía bắc giáp vịnh Hudson và phía nam giáp hai bang Minnesota và Bắc Dakota của Hoa Kỳ. Hầu hết dân Manitoba có nguồn gốc Anh. Nhưng nhiều thay đổi trong mô hình nhập cư và di trú đã biến tỉnh này là nơi mà không có một sắc tộc nào nổi bật về số lượng. Có trên 700 tổ chức ở tỉnh này hỗ trợ cho công dân mới và dân nhập cư. Khoảng 60% trong số một triệu người dân Manitoba sinh sống ở thành phố chính Winnipeg, thủ phủ của tỉnh bang này. Thành phố lớn thứ hai là Brandon, ở phía tây nam Manitoba. Tên Manitoba có thể đến từ tiếng Cree "manitou bou" có nghĩa là "Eo biển hẹp của Thần linh Vĩ đại". Manitoba cũng là quê hương của Vườn Hoà bình Quốc tế - khu vườn lớn nhất thế giới dành tặng cho hoà bình thế giới.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Newfoundland và Labrador(), ) là tỉnh cực đông của Canada. Tỉnh này thuộc khu vực Đại Tây Dương của Canada, gồm đảo Newfoundland và phần lãnh thổ Labrador tại đại lục, tổng diện tích là . Năm 2013, dân số tỉnh ước tính là 526.702. Xấp xỉ 92% dân số toàn tỉnh cư trú trên đảo Newfoundland (cùng các đảo nhỏ xung quanh), trong đó hơn một nửa cư trú tại bán đảo Avalon. Đây là tỉnh đồng nhất số một về ngôn ngữ tại Canada, với 97,6% cư dân tường trình tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ của họ trong điều tra nhân khẩu năm 2006. Tỉnh lỵ và thành phố lớn nhất của Newfoundland và Labrador là St. John's, là khu vực đô thị thống kê lớn thứ 20 tại Canada, và là nơi cư trú của gần 40% cư dân trong tỉnh. Tại St. John's có trụ sở của chính phủ, nghị viện và tòa án tối cao cấp tỉnh. Lãnh thổ Newfoundland và Labrador ngày nay từng là một thuộc địa và một quốc gia tự trị của Anh Quốc, gia nhập và trở thành một tỉnh của Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949 với tên gọi "Newfoundland". Ngày 6 tháng 12 năm 2001, một sửa đổi Hiến pháp Canada được tiến hành để chuyển tên chính thức của tỉnh thành "Newfoundland và Labrador". Tuy nhiên, người Canada nói chung vẫn gọi tỉnh bằng tên Newfoundland. Từ nguyên. Tên "Newfoundland" ("đất mới khám phá") bắt nguồn từ tiếng Anh "New Found Land" (dịch từ "Terra Nova" trong tiếng Bồ Đào Nha, vẫn được phản ánh trong tên tiếng Pháp của tỉnh là "Terre-Neuve"). Nguồn gốc của "Labrador" được cho là từ João Fernandes Lavrador, một nhà hàng hải người Bồ Đào Nha và là người đầu tiên khám phá khu vực. Lịch sử. Tiền thuộc địa. Sự cư trú của con người tại Newfoundland và Labrador có thể truy nguyên từ khoảng 9.000 năm. Các dân tộc cổ đại hàng hải là các thợ săn thú biển tại khu vực cận Bắc cực. HỌ thịnh vượng từ khoảng 7.000 TCN đến 1.500 TCN dọc theo Duyên hải Đại Tây Dương của Bắc Mỹ. Các khu dân cư của họ gồm các nhà dài và nhà thuyền tạm thời hoặc theo mùa. Họ tham gia mậu dịch đường trường, sử dụng chert trắng làm phương thức thanh toán, đó là một loại đá được khai thác từ miền bắc Labrador đến Maine. Nhánh phía nam của các dân tộc này xác lập tại bán đảo phía bắc của Newfoundland vào khoảng 5.000 năm trước. Thời kỳ cổ đại hàng hải được biết đến nhiều nhất từ một địa điểm an táng tại Port au Choix.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Các dân tộc cổ đại hàng hải dần bị thay thế bằng những người thuộc văn hóa Dorset (Eskimo cổ đại muộn), họ cũng chiếm cứ Port au Choix. Số lượng các di chỉ của họ phát hiện được tại Newfoundland biểu thị rằng họ có thể là nhóm thổ dân đông nhất sống tại đây. Họ thịnh vượng từ khoảng 2000 TCN đến 1.200 năm trước. Nhiều trong số các di chỉ của họ nằm tại các mũi đất và đảo phụ thuộc. Họ có khuynh hướng hải dương hơn so với các dân tộc trước đó, và đã phát triển các xe trượt tuyết và thuyền tương tự như kayak. Họ có thể đốt mỡ hải cẩu trong đèn làm bằng steatit. Văn hóa Dorset (800 TCN – 1500) thích nghi cao độ để cư trú trong một khí hậu rất lạnh, và phần lớn thực phẩm của họ đến từ săn bắt các thú biển thông qua các lỗ trên băng. Người Inuit hầu hết được phát hiện tại Labrador, họ là hậu duệ của thứ mà các nhà nhân loại học gọi là văn hóa Thule, họ nổi lên từ miền tây Alaska vào khoảng năm 1000 và bành trướng về phía đông, đến Labrador vào khoảng 1300–1500. Các nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa Dorset không có chó, các vũ khí lớn và các công nghệ khác nên xã hội Inuit đang phát triển có được một lợi thế. Các cư dân cuối cùng tổ chức bản thân thành các nhóm nhỏ gồm một số gia đình, nhóm tiếp thành các bộ tộc với các thủ lĩnh. Người Innu là các cư dân của một khu vực mà họ gọi là "Nitassinan", bao gồm phần lớn miền đông bắc Québec và Labrador ngày nay. Các hoạt động sinh kế trong lịch sử tập trung vào săn bắn và bắt tuần lộc, hươu nai và thú nhỏ. Các thị tộc duyên hải cũng tiến hành nông nghiệp, đánh cá và sử dụng siro phong. Người Innu tham gia chiến tranh bộ tộc dọc theo duyên hải của Labrador với các nhóm Inuit vốn có dân số đáng kể. Người Míkmaq ở miền nam của Newfoundland dành hầu hết thời gian của họ trên bờ biển để thu hoạch hải sản; trong mùa đông họ sẽ chuyển vào nội lục để săn bắn trong rừng. Theo thời gian, người Mi'kmaq và Innu phân lãnh thổ của họ thành các khu vực truyền thống, mỗi khu vực được quản lý độc lập và có một tù trưởng khu vực và một hội đồng. Các thành viên hội đồng là tù trưởng của các nhóm cư dân, trưởng lão, các lãnh đạo cộng đồng đáng kính khác. Tiép xúc với người châu Âu.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Tiép xúc với người châu Âu. Ghi chép cổ nhất được xác nhận về tiếp xúc của người châu Âu có niên đại từ một nghìn năm trước, theo mô tả trong các saga Iceland của người Viking (Norse). Năm 1001, saga đề cập đến việc Leif Ericson đổ bộ tại ba nơi ở phía tây, hai nơi đầu là Helluland (có thể là đảo Baffin) và Markland (có thể là Labrador). Địa điểm đổ bộ thứ ba là Vinland (có thể là Newfoundland). Bằng chứng khảo cổ học của một khu dân cư Norse được phát hiện tại L'Anse aux Meadows, Newfoundland, nó được UNESCO liệt vào danh sách di sản thế giới vào năm 1978. Năm 1496, John Cabot được Quốc vương Anh Henry VII ban đặc quyền đi thám hiểm và đến ngày 24 tháng 6 năm 1497 ông ta đổ bộ lên mũi Bonavista. Năm 1499 và 1500, các thủy thủ người Bồ Đào Nha João Fernandes Lavrador và Pêro de Barcelos khám phá và lập bản đồ bờ biển, họ của người trước được thể hiện bằng "Labrador" trên các bản đồ địa hình trong thời kỳ này. Dựa theo Hiệp ước Tordesillas, Quân chủ Bồ Đào Nha yêu sách về quyền lãnh thổ tại khu vực mà John Cabot đến vào năm 1497 và 1498. Sau đó, vào năm 1501 và 1502 anh em Corte-Real khám phá Newfoundland và Labrador, yêu sách chúng là bộ phận của Đế quốc Bồ Đào Nha. Năm 1506, Quốc vương Emmanuel I của Bồ Đào Nha đặt thuế đối với hoạt động đánh cá tuyết tại vùng biển Newfoundland. João Álvares Fagundes và Pêro de Barcelos thiết lập các tiền đồn đánh cá theo mùa tại Newfoundland và Nova Scotia vào khoảng năm 1521, và các khu định cư cổ hơn của Bồ Đào Nha có thể đã tồn tại. Humphrey Gilbert theo lệnh Nữ vương Anh Elizabeth I, đã đổ bộ tại St John's vào tháng 8 năm 1583, và chính thức nắm quyền sở hữu đảo. Thuộc địa Newfoundland. Năm 1583, Newfoundland trở thành thuộc địa đầu tiên của Anh tại Bắc Mỹ và là một trong các thuộc địa thường xuyên đầu tiên của Anh tại Tân thế giới khi Humphrey Gilbert yêu sách lãnh thổ cho Nữ vương Elizabeth. Mặc dù các tàu đánh cá của Anh đã liên tục đến Newfoundland từ sau hành trình thứ hai của Cabot vào năm 1498 và các trạm đánh cá theo mùa đã tồn tại trong một thế kỷ trước.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Do cũng có các tàu và trại của người Basque, người Pháp và người Bồ Đào Nha, áp lực bảo vệ đảo khỏi bị ngoại quốc kiểm soát khiến cho Anh bổ nhiệm các thống đốc để thiết lập các khu định cư thuộc địa trên đảo từ năm 1610 đến năm 1728. Thống đốc đầu tiên được trao quyền lực đối với toàn đảo Newfoundland là David Kirke vào năm 1638. Các nhà thám hiểm sớm nhận ra rằng vùng biển quanh Newfoundland là nơi đánh cá tốt nhất tại Bắc Đại Tây Dương. Đến năm 1620, 300 tàu đánh cá hoạt động tại Grand Bank, với khoảng 10.000 thủy thủ; nhiều người tiếp tục đến từ Basque, Normandie, hoặc Bretagne. Họ phơi khô và ướp muối cá tuyết trên bờ biển và bán chúng đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong thập niên 1620, George Calvert đầu tư nhiều vào bến tàu, kho hàng, và trạm đánh bắt cá song thất bại về tài chính. Các cuộc tập kích của người Pháp làm tổn hại đến hoạt động kinh doanh, và do thời tiết khắc nghiệt, ông chuyển chú ý của mình đến thuộc địa khác tại Maryland. Sau khi Calvert rời đi, các doanh nhân nhỏ như David Kirke sử dụng hạ tầng một cách có lợi, Kirke trở thành thống đốc vào năm 1639. Mậu dịch tam giác với New England, Tây Ấn, và châu Âu biến Newfoundland thành nơi có vai trò quan trọng về kinh tế. Đến thập niên 1670, thuộc địa có 1700 cư dân thường xuyên và có thêm 4500 người khác trong các tháng mùa hè. Các ngư dân Basque đánh bắt cá tuyết ngoài khơi Newfoundland từ khi bắt đầu thế kỷ 16, họ lập ra bến cảng Plaisance (nay là Placentia), ngư dân Pháp cũng bắt đầu sử dụng bến cảng này. Đến năm 1655, Pháp bổ nhiệm một thống đốc tại Plaisance, bắt đầu thời kỳ Pháp chính thức thuộc địa hóa Newfoundland cũng như một thời kỳ chiến tranh và bất ổn giữa Anh và Pháp. Các cuộc tấn công của người Anh vào Placentia kích thích trả thù của nhà thám hiểm người Tân Pháp Pierre Le Moyne d'Iberville, trong Chiến tranh Quốc vương William vào thập niên 1690 ông phá hủy gần như toàn bộ mọi khu định cư của Anh trên đảo. Dân chúng trong thuộc địa Anh bị giết, bị bắt đòi tiền chuộc, hoặc bị trục xuất đến Anh.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Pháp để mất quyền kiểm soát chính trị đối với khu vực sau bao vây Port Royal năm 1710, sau đó người Mí'kmaq giao chiến với người Anh trong Chiến tranh Dummer (1722–1725), Chiến tranh Quốc vương George (1744–1748), Chiến tranh Cha Le Loutre (1749–1755) và Chiến tranh giữa Anh với Pháp và người Da đỏ (1754–1763). Thời kỳ Pháp thuộc địa hóa kéo dài cho đến Hiệp ước Utrecht vào năm 1713, một nội dung trong đó là Pháp nhượng yêu sách chủ quyền đối với Newfoundland cho Anh. Sau đó, cư dân Pháp tại Plaisance chuyển đến Île Royale (nay là đảo Cape Breton), là bộ phận của Acadia đương thời vẫn do Pháp quản lý. Trong Chiến tranh Bảy năm (1756–63), quyền kiểm soát Newfoundland lại một trở thành một nguồn chính của xung đột giữa Anh, Pháp và Tây Ban Nha, ba quốc gia đều yêu cầu được chia sẻ ngành đánh cá có giá trị lớn tại đây. Chiến thắng trên toàn cầu của Anh khiến William Pitt khẳng định rằng không quốc gia nào ngoài Anh có thể tiếp cận Newfoundland. Trận Signal Hill diễn ra tại Newfoundland vào năm 1762, khi một đạo quân Pháp đổ bộ và nỗ lực chiếm đảo, song bị người Anh đẩy lui. Theo Hiệp ước Utrecht (1713), ngư dân Pháp có quyền cập bờ và xử lý cá tuyết trên "French Shore" tại bờ biển phía tây của đảo. Họ có một căn cứ thường trực tại quần đảo St. Pierre và Miquelon lân cận; người Pháp từ bỏ quyền lợi của họ vào năm 1904. Năm 1783, Anh ký Hiệp định Paris với Hoa Kỳ và theo đó trao cho ngư dân Hoa Kỳ các quyền lợi tương tự dọc theo bờ biển của Newfoundland. Các quyền lợi này được tái xác nhận bằng các hiệp ước vào năm 1818, 1854 và 1871 và được trọng tài xác nhận vào năm 1910. Năm 1854, Chính phủ Anh cho lập chính phủ chịu trách nhiệm của Newfoundland. Năm 1855, Philip Francis Little, một cư dân bản địa của Đảo Prince Edward, giành chiến thắng đa số trong nghị viện trước Hugh Hoyles và những người Bảo thủ, thành lập chính phủ đầu tiên, tồn tại từ năm 1855 đến năm 1858. Newfoundland bác bỏ liên bang hóa với Canada trong tổng tuyển cử năm 1869. Thủ tướng Canada John Thompson tiến rất gần đến dàn xếp Newfoundland gia nhập liên bang vào năm 1892. Từ thế kỷ 20. Newfoundland duy trì là một thuộc địa cho đến khi đạt được vị thế quốc gia tự trị vào năm 1907.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Một quốc gia tự trị là bộ phận của Đế quốc Anh hoặc Thịnh vượng chung Anh, và Quốc gia tự trị Newfoundland tương đối tự trị khỏi quyền quản lý của Anh. Trung đoàn Newfoundland số 1 chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngày 1 tháng 7 năm 1916, Quân đội Đức tiêu diệt gần như toàn bộ trung đoàn tại Beaumont Hamel trong ngày đầu tiên của trận Somme. Trung đoàn phục vụ một cách xuất chúng trong các trận chiến kế tiếp, giành được tiền tố "hoàng gia". Mặc dù nhân dân hãnh diện về thành tích của trung đoàn, song nợ chiến tranh của Quốc gia tự trị Newfoundland bắt nguồn từ trung đoàn và chi phí duy trì một tuyến đường sắt xuyên đảo dẫn đến gia tăng nợ chính phủ thời hậu chiến, cuối cùng dẫn đến không thể chống đỡ nổi. Kể từ đầu thập niên 1800, Newfoundland và Québec (hay Hạ Canada) đã có tranh chấp biên giới về khu vực Labrador. Tuy nhiên, vào năm 1927, Chính phủ Anh quyết định rằng khu vực mà nay tên là Labrador được cọi như bộ phận của Quốc gia tự trị Newfoundland. Do gánh nặng nợ cao, thu nhập giảm thiểu, giá cá sụt giảm, cơ quan lập pháp Newfoundland tự bỏ phiếu ngưng tồn tại vào năm 1933, để đổi lấy các đảm bảo cho vay từ Quân chủ và một hứa hẹn sẽ được tái lập. Ngày 16 tháng 2 năm 1934, Hội đồng Chính phủ tuyên thệ, kết thúc 79 năm chính phủ chịu trách nhiệm. Hội đồng gồm bảy cá nhân do Chính phủ Anh bổ nhiệm. Trong vòng 15 năm không có cuộc bầu cử nào diễn ra, và không triệu tập cơ quan lập pháp. Năm 1940, Winston Churchill và Franklin D. Roosevelt chấp thuận cho các khu trục hạm của Hoa Kỳ được tiếp cận với các căn cứ hải quân của Anh tại Đại Tây Dương, bao gồm cả Newfoundland. Kết quả là lãnh thổ đột nhiên thịnh vượng khi tiền của Hoa Kỳ tràn đến đảo, một nơi mà thời gian gần đó có 25% cư dân dựa vào cứu trợ. Khoảng 20.000 người làm việc xây dựng các căn cứ quân sự. Chính phủ địa phương và Anh thuyết phục Hoa Kỳ giữ mức lương thấp để không tiêu diệt lực lượng lao động cho ngư nghiệp, lâm nghiệp và các ngành kinh tế địa phương khác, song chi phí sinh hoạt tăng 58% từ năm 1938 đến năm 1945.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Sự thịnh vượng trở lại cùng Chiến tranh thế giới thứ hai, điều này kích thích kết thúc Hội đồng, và phục hồi chính phủ chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Chính phủ Anh thiết lập Hội nghị Quốc gia vào năm 1946, phản ánh các nỗ lực về quyền tự quyết trong các dân tộc châu Âu sau Thế chiến. Hội nghị gồm các đại biểu trên toàn lãnh thổ, chính thức được giao nhiệm vụ cố vấn về tương lai của Newfoundland. Chủ tịch của Hội nghị là Cyril J. Fox, và nó có 45 thành viên được bầu từ khắp lãnh thổ. Joey Smallwood tiến hành một số vận động để khảo sát gia nhập Canada bằng cách cử một phái đoàn đến Ottawa. Động thái đầu tiên thất bại, song Hội nghị sau đó quyết định cử các phái đoàn đến cả London và Ottawa để tìm giải pháp thay thế. Tháng 1 năm 1948, Hội nghị Quốc gia bỏ phiếu chống lại việc đưa liên bang hóa ra trưng cầu dân ý; tuy nhiên kết quả này bị người Anh bác bỏ và trưng cầu dân ý diễn ra sau đó. Hầu hết các sử gia đồng thuận rằng Chính phủ Anh nhiệt tình mong muốn liên bang hóa bằng lá phiếu và họ chắc chắn nó sẽ như vậy. Cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên diễn ra vào ngày 3 tháng 6 năm 1948; 44,5% cử tri bỏ phiếu cho chính phủ chịu trách nhiệm, 41,1% bỏ phiếu cho liên bang hóa với Canada, trong khi 14,3% bỏ phiếu cho Hội đồng Chính phủ. Do không có lựa chọn nào giành được quá 50%, một cuộc trưng cầu dân ý thứ nhì được tổ chức vào ngày 22 tháng 7 năm 1948 với chỉ hai lựa chọn. Kết quả chính thức của cuộc trưng cầu dân ý này là 52,3% bỏ phiếu cho liên bang hóa với Canada và 47,7% bỏ phiếu cho chính phủ trách nhiệm (độc lập). Sau trưng cầu, một phái đoàn gồm bảy người được thống đốc của Anh chọn đến đàm phán với Canada nhân danh Newfoundland. Sau khi sáu trong số bảy thành viên của phái đoàn ký kết, Chính phủ Anh thông qua Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh 1949 qua Quốc hội. Newfoundland chính thức gia nhập Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949. Theo các văn kiện trong kho lưu trữ của Anh và Canada xuất hiện trong thập niên 1980, rõ ràng rằng cả Canada và Anh đều muốn Newfoundland gia nhập Canada.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Một số người cáo buộc rằng đó là một âm mưu để đưa Newfoundland tham gia liên bang, nhằm đổi lấy miễn nợ chiến tranh của Anh và vì các lý do khác, song hầu hết sử gia nghiên cứu các văn kiện chính phủ thì kết luận rằng dù Anh bố trí lựa chọn liên bang hóa trong trưng cầu dân ý, thì nhân dân Newfoundland tự thực hiện quyết định cuối cùng mặc dù với kết quả sít sao. Sau khi các Tên lửa liên lục địa thay thế các đe dọa về máy bay ném bom vào cuối thập niên 1950, các căn cứ không quân của Hoa Kỳ đóng cửa vào đầu thập niên 1960 và Căn cứ hải quân Argentia cũng đóng cửa vào thập niên 1980. Trong thập niên 1960, tỉnh phát triển nhà máy thủy điện Churchill Falls nhằm bán điện sang Hoa Kỳ. Một thỏa thuận với Québec được ký kết nhằm đảm bảo truyền điện năng qua lãnh thổ Québec, thỏa thuận kéo dài 75 năm này khiến người Newfoundland hiện cho rằng không công bằng với tỉnh do chỉ thu được lợi ích thấp và không thay đổi được từ điện năng. Đến năm 1990, khu vực Québec-Labrador trở thành một nguồn cung quặng sắt quan trọng cho Hoa Kỳ. Khi Newfoundland gia nhập Canada vào năm 1949, tỉnh từ bỏ quyền tài phán đối với ngư nghiệp cho Ottawa; Tòa án Tối cao phán quyết vào năm 1983 rằng chính phủ liên bang cũng có quyền tài phán với khoan dầu ngoài khơi. Từ sau năm 1945, kinh tế ngư nghiệp trong tỉnh chuyển đổi từ chủ yếu thâm dụng lao động ven bờ, hộ gia đình, sản xuất cá ướp muối sang một ngành công nghiệp hóa chịu sự chi phối tối cao của các công ty cá đông lạnh. Các công ty này cần ít nhân công hơn, do vậy khoảng 300 làng cá, hoặc cảng ngoài, bị các cư dân bỏ hoang từ năm 1954 đến năm 1975 trong một chương trình được chính phủ Canada tài trợ mang tên Tái định cư. Một số khu vực mất 20% dân số, và số lượng tuyển sinh vào trường học còn giảm cao hơn. Trong thập niên 1960, khoảng 2 tỷ pound cá tuyết được khai thác mỗi năm từ Grand Bank ngoài khơi Newfoundland, là nguồn cá lớn nhất thế giới. Sau đó, thảm họa xảy ra khi cá tuyết phương bắc thực tế không còn nữa, chúng giảm còn 1% sinh khối đẻ trứng lịch sử của mình. Năm 1992, đánh bắt cá tuyết bị chính phủ Canada đóng cửa; sinh kế của 19.000 người lao động bị mất sau 500 năm giữ vai trò là một ngành kinh tế chủ đạo. Địa lý.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Địa lý. Newfoundland và Labrador là tỉnh cực đông của Canada, nằm tại góc đông bắc của Bắc Mỹ. Eo biển Belle Isle phân tách tỉnh thành hai khu vực địa lý, Labrador là một lãnh thổ lớn liên kết với đại lục Canada, còn Newfoundland là một đảo tại Đại Tây Dương. Tỉnh cũng có hơn 7.000 đảo nhỏ. Newfoundland có hình dạng giống như một tam giác, mỗi cạnh dài khoảng , và có diện tích là . Newfoundland và các đảo nhỏ có liên kết với nó có tổng diện tích là . Newfoundland có vĩ độ giữa 46°36′B và 51°38′B. Phần phía tây của Labrador giáp với tỉnh Québec, đường biên giới cũng là đường phân thủy của bán đảo Labrador. Các khu vực thoát nước thông qua các sông chảy vào Đại Tây Dương là bộ phận của Labrador, phần còn lại thuộc về Québec. Mũi cực bắc của Labrador có vĩ độ 60°22′B, có một đoạn biên giới ngắn với Nunavut. Diện tích của Labrador (gồm các đảo nhỏ có liên kết) là . Tổng cộng, Newfoundland và Labrador chiếm 4,06% diện tích của Canada. Labrador là bộ phận cực đông của khiên Canada, một khu vực rộng lớn gồm đá biến chất cổ bao trùm phần lớn miền đông bắc của Bắc Mỹ. Các mảng kiến tạo va chạm hình thành phần lớn địa chất của Newfoundland. Vườn quốc gia Gros Morne có danh tiếng do là một ví dụ nổi bật về kiến tạo học, và do vậy được xếp là một di sản thế giới. Dãy Long Range trên duyên hải phía tây của Newfoundland là phần mở rộng cực đông bắc của dãy Appalachian. Newfoundland và Labrador có nhiều vùng khí hậu khác nhau do khoảng cách bắc-nam của tỉnh (46°36′B đến 60°22′B), gió tây thịnh hành, các hải lưu lạnh và các yếu tố địa phương như núi và đường bờ biển. Newfoundland và Labrador có nhiều kiểu khí hậu và thời tiết. Một trong các nguyên nhân chính của sự đa dạng này là địa lý của tỉnh. Phần đảo Newfoundland trải dài 5 vĩ độ, tương tự như Ngũ Đại Hồ. Tỉnh được phân thành sáu kiểu khí hậu, song theo cách phân chia rộng hơn thì Newfoundland có một á hình mùa hè mát của khí hậu lục địa ẩm, chịu tác động lớn của hải dương do không nơi nào trên đảo cách biển quá 100 km. Miền bắc Labrador được phân loại là có một khí hậu lãnh nguyên vùng cực, miền nam Labrador có một khí hậu cận Bắc cực.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Nhiệt độ bề mặt biển bên phía Đại Tây Dương đạt trung bình mùa hạ là tại ven bờ và tại xa bờ trong khi trung bình mùa đông là tại ven bờ và tại xa bờ. Hải dương khiến nhiệt độ vào mùa đông hơi cao hơn và nhiệt độ mùa hạ thấp hơn một chút so với các địa điểm tại nội lục. Khí hậu hải dương khiến thời tiết biến hóa hơn, giáng thủy phong phú dưới nhiều dạng, độ ẩm cao hơn, tầm nhìn thấp hơn, mây nhiều hơn, ít nắng hơn, và gió mạnh hơn so với một khí hậu lục địa. Nhân khẩu. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, Newfoundland và Labrador có dân số 514.536, hơn một nửa trong số đó cứ trú tại bán đảo Avalon của đảo Newfoundland, là nơi có thủ phủ và điểm định cư lịch sử ban đầu. Kể từ năm 2006, dân số trong tỉnh bắt đầu tăng lần đầu tiên kể từ đầu thập niên 1990. Theo điều tra nhân khẩu năm 2006, dân số tỉnh giảm 1,5% so với mức năm 2001, với 505.469. Tuy nhiên, theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số tỉnh tăng 1,8% trong 5 năm. Dân số Newfoundland và Labrador từ năm 1951 "Nguồn: Cơ quan Thống kê Canada' Các khu tự quản lớn nhất theo dân số Ngôn ngữ theo dân số Giáo phái tôn giáo lớn nhất xét theo số lượng tín đồ theo điều tra năm 2011 là Giáo hội Công giáo La Mã, với 35,8% dân số toàn tỉnh (181.590 thành viên). Các giáo phái Tin Lành lớn chiếm 57,3% dân số, các nhóm lớn nhất trong đó là Giáo hội Anh giáo Canada với 25,1% tổng dân số (127.255 thành viên), Giáo hội Liên hiệp Canada với 15,5% (78.380 thành viên), và các giáo hội Ngũ Tuần với 6,5% (33.195 thành viên). Những người không phải là tín đồ Ki-tô giáo chiếm 6,8% dân số, đa số trong đó trả lời rằng rằng họ không nhập đạo nào (6,2% tổng dân số). Theo điều tra nhân khẩu Canada năm 2001, dân tộc lớn nhất tại Newfoundland và Labrador là người Anh (39,4%), tiếp theo là người Ireland (19,7%), người Scotland (6,0%), người Pháp (5,5%), và người Da đỏ (3,2%). Kinh tế. Kinh tế Newfoundland và Labrador trải qua đình trệ trong nhiều năm sau sự sụp đổ của đánh bắt cá tuyết hồi đầu thập niên 1990, tỉnh phải chịu tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục và dân số giảm khoảng 60.000.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Do bùng nổ trong lĩnh vực năng lượng và tài nguyên, kinh tế tỉnh có chuyển biến lớn khi bước sang thế kỷ 21. Tỷ lệ thất nghiệp giảm, dân số ổn định và tăng trưởng vừa phải. Tỉnh đạt mức thặng dư kỷ lục, giải thoát khỏi tình trạng một tỉnh "không có gì". Các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP, đặc biệt là dịch vụ tài chính, chăm sóc y tế và hành chính công. Các ngành kinh tế quan trọng khác là khai mỏ, sản xuất dầu và chế tạo. Tổng lực lượng lao động của tỉnh vào năm 2010 là 263.800 người. GDP của tỉnh trong năm 2013 là 35,832 tỷ CAD. Khai mỏ tại Labrador, với khai thác quặng sắt tại Wabush/Labrador City, và khai thác niken tại Voisey's Bay, đạt sản lượng tổng cộng là 3,3 tỷ CAD giá trị quặng vào năm 2010. Một mỏ tại Duck Pond bắt đầu sản xuất đồng, kẽm, bạc và vàng vào năm 2007. Khai mỏ chiếm 3,5% GDP của tỉnh trong năm 2006. Tỉnh sản xuất 55% tổng lượng quặng sắt của Canada (2008). Sản xuất dầu từ các giàn khoan ngoài khơi tại Hibernia, White Rosevà Terra Nova thuộc Grand Banks đạt , đóng góp trên 15% GDP của tỉnh vào năm 2006. Tổng sản lượng từ mỏ Hibernia từ năm 1997 đến năm 2006 là với giá trị được ước tính là 36 tỷ CAD. Dự trữ còn lại được ước tính là khoảng tính đến 31 tháng 12 năm 2006. Thăm dò trữ lượng mới đang tiếp tục. Ngư nghiệp vẫn là một bộ phận quan trọng trong kinh tế tỉnh, tạo công việc cho khoảng 20.000 người và đóng góp trên 440 triệu CAD cho GDP. Ngành này gồm có thu hoạch các loại cá như cá tuyết, cá êfin, cá bơn lưỡi ngựa, cá trích, các thu với 150.000 tấn thiếu (165.000 tấn) với giá trị 130 triệu USD vào năm 2006. Các loài giáp xác như cua, tôm và nghêu đạt sản lượng 195.000 tấn thiếu (215.000 tấn) với giá trị 316 triệu USD trong cùng năm. Giá trị sản xuất từ săn hải cẩu là 55 triệu CAD. Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế mới trong tỉnh, vào năm 2006 ngành này sản xuất trên 10.000 tonne cá hồi Đại Tây Dương, trai và cá hồi vân với giá trị trên 50 triệu CAD. Nông nghiệp tại Newfoundland hạn chế tại các khu vực phía nam của St. John's, Cormack, Wooddale, các khu vực gần Musgravetown và tại thung lũng Codroy.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Khoai tây, cải củ Thụy Điển, cải củ turnip, cà rốt và cải bắp được trồng để đáp ứng nhu cầu địa phương. Nuôi gia cầm lấy thịt và trứng cũng tồn tại. Việt quất xanh, "Vaccinium vitis-idaea" và "Rubus chamaemorus" dại được thu hoạch thương mại và sử dụng trong làm mứt và rượu vang. Sản xuất bơ sữa là một bộ phận lớn khác trong nông nghiệp tỉnh Du lịch cũng đóng góp đáng kể cho kinh tế tỉnh, vào năm 2006 có gần 500.000 du khách từ nơi khác đến Newfoundland và Labrador, chi tiêu ước tính 366 triệu CAD. Du lịch phổ biến nhất trong các tháng từ 6-9. Chính phủ và chính trị. Newfoundland và Labrador có một chính phủ nghị viện nằm trong cấu trúc của chế độ quân chủ lập hiến; chế độ quân chủ tại Newfoundland và Labrador là cơ sở cho các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Quân chủ của tỉnh là Charles III, ông cũng là nguyên thủ của 15 quốc gia khác, mỗi một trong 9 tỉnh khác của Canada, và của liên bang Canada. Người đại diện cho Quốc vương là Tỉnh đốc Newfoundland và Labrador, tiến hành hầu hết các trách nhiệm quân chủ tại Newfoundland và Labrador. Quân chủ và tỉnh đốc bị hạn chế trong tham dự trực tiếp vào bất kỳ lĩnh vực quản trị nào; trong thực tế quyền lực hành pháp của họ do Hội đồng Hành pháp điều khiển, đây là một ủy ban gồm các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước một Nghị viện đơn viện và được tuyển cử, đứng đầu là Thủ tướng Newfoundland và Labrador. Nhằm đảo bảo sự ổn định của chính phủ, tỉnh đốc thông thường bổ nhiệm thủ tướng là cá nhân đang lãnh đạo chính đảng có thể tin tưởng giành đa số ghế trong Nghị viện. Lãnh đạo đảng có số ghế đông thứ nhì thường trở thành lãnh đạo phe đối lập và nằm trong một hệ thống nghị viện đối địch nhằm duy trì kiểm tra đối với chính phủ. Mỗi một trong số 48 đại biểu của Nghị viện được bầu theo phương thức đa số đơn giản tại một khu vực bầu cử. Tổng tuyển cử cần phải do Tỉnh đốc yêu cầu vào ngày Thứ ba thứ hai trong tháng 10 bốn năm sau bầu cử trước đó, hoặc có thể yêu cầu theo khuyến nghị của thủ tướng khi chính phủ thất bại trong bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Theo truyền thống, chính trị trong tỉnh chịu sự chi phối của Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ Cấp tiến, tuy nhiên trong bầu cử cấp tỉnh vào năm 2011 Đảng Tân Dân chủ xếp thứ hai về phiếu bầu phổ thông, sau Đảng Bảo thủ Cấp tiến. Văn hóa. Di sản âm nhạc dân gian Newfoundland và Labrador dựa trên các truyền thống Ireland, Anh và Scotland vốn được đưa đến từ nhiều thế kỷ trước. Mặc dù cũng chịu ảnh hưởng từ nhạc Celtic tương tự như Nova Scotia và Đảo Hoàng tử Edward, Newfoundland và Labrador mang tính Ireland hơn là Scotland và có nhiều yếu tố dung nạp từ âm nhạc Anh và Pháp hơn các tỉnh này. Phần lớn âm nhạc khu vực tập trung vào truyền thống hàng hải sống động tại đây, và có các bài hò biển và các bài hát đi thuyền khác. Một số nhạc sĩ truyền thống hiện đại là Great Big Sea, The Ennis Sisters, Shanneyganock, Sharecroppers, Ron Hynes, và The Navigators. Newfoundland và Labrador có một văn hóa thể thao phần nào khác biệt so với phần còn lại của Canada, một phần là do có lịch sử kéo dài tách biệt với phần còn lại của Canada và nằm dưới quyền cai trị của Anh. Tuy nhiên, khúc côn cầu trên băng vẫn phổ biến, đội tuyển St. John's IceCaps thi đấu chuyên nghiệp tại Trung tâm Mile One tại St. John's, và giải khúc côn cầu cấp cao Newfoundland có các đội tuyển từ khắp đảo. Từ khi đội tuyển St. John's Fog Devils rời đi vào năm 2008, Newfoundland và Labrador là tỉnh duy nhất tại Canada không có một đội tuyển nào tại Giải khúc côn cầu Canada. Bóng đá và rugby liên hiệp đều phổ biến hơn tại Newfoundland và Labrador so với phần còn lại của Canada nói chung. Thi đấu bóng đá được tổ chức tại sân vận động King George V Park có 10.000 ghế, đây là sân vận động quốc gia của Newfoundland trong thời kỳ quốc gia tự trị. Sân vận động Swilers Rugby Park là nơi thi đấu của đội tuyển rugby liên hiệp Swilers RFC. Các cơ sở hạ tầng thể thao khác tại Newfoundland và Labrador còn có sân thi đấu trong nhà Pepsi Centre tại Corner Brook; sân Shamrock Field tại St. John's là nơi tổ chức sự kiện thể thao Gael quốc gia của Canada; và St. Patrick's Park tại St. John's là nơi thi đấu bóng chày. Giao thông. Trong nội tỉnh, Bộ Giao thông và Công trình Newfoundland và Labrador vận hành hoặc tài trợ cho 15 tuyến ô tô, phà chở khách và chở hàng liên kết các cộng đồng khác nhau dọc theo đường bờ biển của tỉnh.
Newfoundland và Labrador
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=845
Một dịch vụ phà hành khách và chở tàu hỏa vượt eo biển Belle Isle liên kết đảo Newfoundland với khu vực Labrador tại đại lục. Phà "MV Apollo" đi từ St. Barbe, Newfoundland thuộc bán đảo Great Northern đến đô thị cảng Blanc-Sablon của Québec song giáp với biên giới tỉnh và nằm bên đô thị L'Anse-au-Clair, Labrador. "MV Sir Robert Bond" từng cung cấp dịch vụ phà theo mùa giữa Lewisporte trên đảo Newfoundland và các đô thị Cartwright và Happy Valley-Goose Bay tại Labrador, song không còn hoạt động từ khi hoàn thành xa lộ Xuyên Labrador vào năm 2010, cho phép tiếp cận từ Blanc-Sablon thuộc Québec đến các bộ phận chủ yếu của Labrador. Một vài phà nhỏ hơn liên kết một số đô thị duyên hải và cộng đồng đảo ngoài khơi quanh đảo chính Newfoundland và đến bờ biển của Labrador xa về phía bắc đến Nain. Dịch vụ phà liên tỉnh do Marine Atlantic cung cấp, đây là một công ty quốc doanh của liên bang hoạt động phà từ North Sydney, Nova Scotia đến các đô thị Port aux Basques và Argentia tại bờ biển phía nam của đảo Newfoundland. Sân bay quốc tế St. John's và sân bay quốc tế Gander là hai sân bay duy nhất phục vụ tỉnh, chúng thuộc hệ thống sân bay quốc gia Canada. Sân bay quốc tế St. John's phục vụ gần 1,2 triệu hành khách trong năm 2008 và là sân bay nhộn nhịp thứ 11 tại Canada.
New Brunswick
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=847
New Brunswick (tiếng Pháp: "Nouveau-Brunswick"; ) là một tỉnh bang ven biển ở vùng miền đông của Canada với vốn di sản văn hoá hấp dẫn và phong phú. Nó giáp với Nova Scotia, Québec, và tiểu bang Maine của Hoa Kỳ. Có hình dáng gần giống hình chữ nhật, nó rộng khoảng 322 km từ bắc xuống nam và 242 km từ đông sang tây. New Brunswick giáp với mặt nước gần như ba phía, bao gồm vịnh St. Lawrence, eo biển Northumberland và vịnh Fundy. Vịnh Fundy nằm ở cuối phía đông của tỉnh, có mức thủy triều lên tới 54 feet (khoảng 49,40 m), lớn nhất thế giới. Dân số New Brunswick khoảng 723.900 người, 35% nói tiếng Pháp, phần lớn là cộng đồng Acadia. 50,000 người sống tại New Brunswick. Acadia ban đầu là thuộc địa của Pháp vào những năm 1500. Thành phố. New Brunswick có tám thành phố được hợp thành chính thức, danh sách ở dưới theo dân số trở xuống: "Xem Danh sách cộng đồng thuộc New Brunswick."
British Columbia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=848
British Columbia (BC; , C.-B.; ) là tỉnh bang cực tây của Canada, một trong những vùng có nhiều núi nhất Bắc Mỹ, tiếp giáp biên giới với các tiểu bang Montana, Idaho, Washington của Hoa Kỳ ở phía nam và một đoạn biên giới ngắn với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Lịch sử. Trước thế kỷ 19 tất cả đất đai của British Columbia (kể cả đảo Vancouver) và một phần của tiểu bang Washington của Hoa Kỳ là đất thuộc Công ty Vịnh Hudson (công ty trao đổi lông thú vật với dân bản xứ). Vào giữa thế kỷ 19 phần đất phía bắc vĩ tuyến 49 rơi vào tay Đế quốc Anh và được chia ra làm hai thuộc địa: British Columbia (nằm trong lục địa) và Vancouver (nằm ngay trên đảo Vancouver). Đến năm 1866 hai thuộc địa này sáp nhập với nhau thành British Columbia và 5 năm sau British Columbia được gia nhập vào Liên bang Canada. Do đó British Columbia vẫn giữ tên để giữ truyền thống Anh vì British Columbia có nghĩa là "Columbia thuộc Anh". Vì ở cạnh biển, British Columbia được xem là cửa ngõ để đến Thái Bình Dương và Á Châu. Về phía đông của B.C. là tỉnh bang Alberta, về phía bắc là hai lãnh thổ tự trị Yukon và các Lãnh thổ Tây Bắc, về phía tây-bắc là tiểu bang Alaska, về phía nam là các tiểu bang Washington, Idaho và Montana của Hoa Kỳ. British Columbia tận hưởng một khí hậu tương đối ôn hoà do dòng nước biển Gulf Stream mang nước ấm từ Xích đạo lên, hoa thường thường nở vào đầu tháng 2. Nằm giữa Thái Bình Dương và dãy Rocky là những vùng địa lý hoàn toàn khác nhau của B.C.: từ núi đá nhọn và cao hơn 2.000 m đến các thung lũng ấm áp vừa đủ để trồng nho làm rượu, từ những con sông hùng vĩ uốn mình giữa các ngọn núi dẫn nước của băng đá ra biển đến vô số các vịnh dọc theo bờ biển được tạo ra khi sóng đập vào bờ đá. British Columbia liên tục thu hút các dân định cư, trong cũng như ngoài nước: Hàng năm khoảng 40.000 người định cư ở đây, và dân số của B.C. hiện nay (2005) vào khoảng 4,22 triệu người. Thành phố Vancouver là hải cảng lớn nhất bên bờ biển Thái Bình Dương của Bắc Mỹ và cũng là nơi tập trung của trên 1,5 triệu người, trở thành thành phố lớn thứ ba của Canada (sau Toronto và Montréal). Vancouver có một cộng đồng người Hoa lớn thứ hai ở Bắc Mỹ (sau San Francisco). Ngoài ra còn có trên 60.000 cư dân gốc Ấn Độ và trên 16.000 gốc Nhật Bản.
British Columbia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=848
Nằm ở đầu phía nam của đảo Vancouver, chỉ 85 dặm về hướng tây bắc của Seattle, là thủ phủ Victoria. Hơn 300.000 dân của thủ phủ này hưởng một khí hậu cận Địa Trung Hải với thời tiết ôn hoà quanh năm. Chính phủ và ngành du lịch là hai nền kinh tế chính ở Victoria. Tự nhiên. Có 14 khu vực công viên và khu bảo tồn trong tỉnh, có 141 dự trữ sinh học, 35 công viên biển cấp tỉnh, 7 khu di sản cấp tỉnh, 6 địa chỉ lịch sử cấp quốc gia, 4 Vườn quốc gia và 3 Khu bảo tồn Vườn quốc gia. 12.5% () của British Columbia đang được coi là khu vực cần được bảo vệ nằm trong 14 khu vực công viên. British Columbia có 7 Vườn quốc gia: British Columbia cũng có mạng lưới rộng các công viên cấp tỉnh, điều hành bởi B.C. Parks thuộc Bộ Môi trường. Hệ thống công viên cấp tỉnh của British Columbia là hệ thống công viên lớn thứ hai của Canada (lớn nhât là Hệ thống Vườn quốc gia Canada). Một cấp công viên khác là công viên cấp vùng, duy trì và điều hành bởi các huyện.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Vancouver hoặc Ôn Ca Hoa (phát âm tiếng Anh: hay ), gọi chính thức là Thành phố Vancouver (), là một đô thị hải cảng duyên hải thuộc tỉnh British Columbia, Canada và là thành phố lớn nhất tỉnh. Theo kết quả điều tra nhân khẩu năm 2011, Vancouver có 603.502 dân cư và là đô thị tự trị đông dân thứ tám toàn Canada. Khu vực Đại Vancouver có khoảng 2,4 triệu cư dân, là khu vực đô thị đông dân thứ ba toàn Canada và đông dân nhất tại phía Tây Canada. Vancouver nằm trong số các thành phố đa dạng nhất về dân tộc và ngôn ngữ tại Canada; 52% cư dân của thành phố có ngôn ngữ thứ nhất không phải là tiếng Anh. Vancouver được liệt kê vào hạng Beta trong thước đó thành phố toàn cầu. Thành phố Vancouver có diện tích đất liền khoảng 114 km², mật độ dân số đạt 5.249 người/km². Vancouver là khu đô thi có mật đô dân số cao nhất Canada với hơn 250,000 dân và đứng thứ tư sau các thành phố khác ở Bắc Mỹ như thành phố New York, San Francisco và Mexico City. Khu định cư ban đầu trong khu vực thành phố mang tên Gastown, phát triển quanh nhà máy cưa gỗ Hastings Mill và một quán rượu gần đó, cả hai đều hình thành vào năm 1867. Từ doanh nghiệp ban đầu đó, các cửa hàng và một số khách sạn dần xuất hiện ở ven biển phía Tây. Khu định cư được mở rộng thành thị trấn Granville, được đổi tên thành "Vancouver" và được hợp nhất thành một thành phố vào năm 1886. Năm 1887, đường sắt xuyên lục địa kéo dài đến thành phố để tận dụng lợi thế có hải cảng tự nhiên lớn của thành phố, cảng này nhanh chóng trở thành một mắt xích quan trọng trong một tuyến mậu dịch giữa phương Đông, phía Đông Canada, và Luân Đôn. Vào năm 2014, cảng Đô thị Vancouver vượt New York trở thành cảng biển bận rộn thứ ba Bắc Mỹ và là cảng biển bận rộn thứ 27 thế giới, bận rộn nhất Canada và đa dạng nhất Bắc Mỹ. Mặc dù lâm nghiệp vẫn là ngành kinh tế lớn nhất, song Vancouver nổi tiếng khi là một trung tâm đô thị được thiên nhiên bao quanh, khiến cho du lịch là ngành kinh tế lớn thứ hai. Các xưởng lớn về sản xuất phim tại Vancouver và Burnaby đã biến khu vực đô thị Vancouver trở thành một trong những trung tâm lớn nhất về sản xuất phim tại Bắc Mỹ.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Vancouver liên tục được vinh danh là một trong năm thành phố toàn cầu hàng đầu về tính dễ sống và chất lượng sinh hoạt, và Economist Intelligence Unit công nhận Vancouver là thành phố đầu tiên để xếp hạng trong bảng xếp hạng tốp 10 thành phố dễ sinh hoạt nhất trong 5 năm liên tục. Vancouver liên tục nhiều sự kiện và hội nghị quốc tế, bao gồm Đại hội Thể thao Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung năm 1954, Triển lãm Thế giới năm 1986 và Đại hội Thể thao Trị an viên (World Police and Fire Games) vào năm 1989 và 2009. Thế vận hội Mùa đông 2010 được tổ chức tại Vancouver và khu nghỉ dưỡng Whistler nằm 125 km về phía Bắc thành phố. Vào năm 2014, sau 30 năm có trụ sở tại California, Sự kiện thường niên TED chính thức chọn Vancouver làm trụ sở vĩnh viễn. Một số trận đấu của Giải bóng đá nữ thế giới FIFA 2015 được diễn ra tại Vancouver, bao gồm trận chung kết tại sân vận động BC Place. Lịch sử. Các di tích khảo cổ học cho biết về sự hiện diện của người nguyên trú tại khu vực Vancouver từ 8.000 đến 10.000 năm trước. Thành phố nằm tại các lãnh thổ xưa kia thuộc các dân tộc Squamish, Musqueam, và Tseil-Waututh (Burrard) thuộc nhóm Salish Duyên hải. Họ có các làng tại nhiều nơi thuộc Vancouver ngày nay, như Stanley Park, False Creek, Kitsilano, Point Grey và gần cửa sông Fraser. Năm 1791, sĩ quan Tây Ban Nha José María Narváez trở thành người châu Âu đầu tiên thám hiểm vùng bờ biển của Point Grey và nhiều phần thuộc vịnh Burrard hiện nay, song một tác giả cho rằng thuyền trưởng người Anh Francis Drake có thể đi đến khu vực vào năm 1579. Thành phố được đặt tên theo George Vancouver, ông là người thám hiểm nội cảng của vịnh Burrard vào năm 1792 và đặt tên Anh cho nhiều địa điểm. Nhà thám hiểm và thương nhân Công ty Tây Bắc Simon Fraser và thủy thủ đoàn của ông trở thành những người châu Âu đầu tiên được biết đến là đặt chân lên địa điểm là thành phố hiện nay. Năm 1808, họ du hành từ phía đông, xuôi dòng sông Fraser, có lẽ đi xa đến Point Grey. Cơn sốt vàng Fraser năm 1858 đưa trên 25.000 nam giới, chủ yếu là từ California, đến New Westminster ở lân cận Vancouver, trên đường đến hẻm núi Fraser, họ bỏ qua nơi mà sẽ trở thành Vancouver.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Vancouver nằm trong số các thành phố trẻ nhất tại British Columbia; khu định cư đầu tiên của người châu Âu tại nơi mà nay là Vancouver hình thành vào năm 1862 tại McLeery's Farm ven sông Fraser, ngay phía đông của làng cổ Musqueam tại nơi mà nay là Marpole. Một xưởng cưa được dựng nên tại Moodyville (nay là Thành phố North Vancouver) vào năm 1863, khởi đầu cho mối liên hệ lâu dài của thành phố với ngành khai thác gỗ. Các xưởng thuộc sở hữu của Thuyền trưởng Edward Stamp nhanh chóng xuất hiện sau đó trên bờ nam của vịnh. Edward Stamp khởi đầu nghề khai thác gỗ tại khu vực Port Alberni, ông ban đầu cố gắng vận hành một xưởng tại Brockton Point, song các khó khăn do dòng chảy và đá ngầm buộc ông phải chuyển hoạt động đến một điểm gần chân của Gore Street vào năm 1867. Xưởng này được gọi là xưởng Hastings, và trở thành trung tâm của khu vực xung quanh mà về sau hình thành Vancouver. Vai trò trung tâm của xưởng trong thành phố bị suy yếu sau khi đường sắt Thái Bình Dương Canada (CPR) lan đến vào thập niên 1880. Tuy thế, xưởng này vẫn có vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương cho đến khi đóng cửa vào thập niên 1920. Khu định cư được gọi là Gastown phát triển nhanh chóng quanh quán rượu tạm thời đầu tiên, vốn mang tên là "Gassy" và do Jack Deighton thiết lập vào năm 1867 ở bên rìa bất động sản của xưởng Hastings. Năm 1870, chính phủ thuộc địa khảo sát khu định cư và đặt ra một thị trấn hành chính, đổi tên thành "Granville" nhằm vinh danh Bộ trưởng Thuộc địa Anh Quốc đương nhiệm là Granville Leveson-Gower. Với có cảng tự nhiên, đến năm 1884 thì thị trấn được lựa chọn làm ga cuối của Đường sắt Thái Bình Dương Canada, gây thất vọng cho các đô thị khác là Port Moody, New Westminster và Victoria trong cuộc đua tranh để được đặt ga cuối. Một tuyến đường sắt nằm trong số các khích lệ để British Columbia gia nhập liên bang vào năm 1871, song vụ bê bối Thái Bình Dương và những tranh cãi về việc sử dụng lao động Trung Quốc đã trì hoãn việc xây dựng cho đến thập niên 1880. Thành phố Vancouver được hợp nhất vào ngày 6 tháng 4 năm 1886, đoàn tàu xuyên lục địa đầu tiên đến thành phố trong cùng năm. Chủ tịch hãng Đường sắt Thái Bình Dương Canada là William Van Horne đến Port Moody để thành lập ga đầu cuối của tuyến đường sắt theo phó thác của Henry John Cambie, và đặt tên Vancouver cho thành phố để vinh danh George Vancouver.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Đại hỏa hoạn Vancouver xảy ra vào ngày 13 tháng 6 năm 1886, kết quả là toàn bộ thành phố bị thiêu rụi. Cục cứu hỏa Vancouver được thành lập vào năm đó, và thành phố được tái thiết một cách nhanh chóng. Vancouver biến đổi từ một khu định vư với 1.000 dân vào năm 1881 thành một đô thị 20.000 dân vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ, và đạt 100.000 dân vào năm 1911. Trong cơn sốt vàng Klondike năm 1898, các thương nhân Vancouver cung ứng trang bị cho những người thăm dò. Một trong số các thương nhân đó là Charles Woodward, ông mở cửa hàng bách hóa Woodward's đầu tiên tại Abbott và Cordova Streets vào năm 1892, cùng với các cửa hàng bách hóa Spencer's và vịnh Hudson tạo thành trung tâm của ngành bán lẻ của thành phố trong hàng thập niên. Kinh tế của Vancouver ban đầu nằm dưới quyền chi phối của các công ty lớn như Đường sắt Thái Bình Dương Canada, công ty thúc đẩy hoạt động kinh tế và khiến cho thành phố trẻ phát triển nhanh chóng; trong thực tế thì Đường sắt Thái Bình Dương Canada là hãng sở hữu bất động sản và phát triển nhà ở chính trong thành phố. Một số ngành chế tạo có sự phát triển, bao gồm việc thành lập nhà máy tinh chế đường British Columbia vào năm 1890, song các nguồn tài nguyên tự nhiên trở thành nền tảng đối với kinh tế Vancouver. Lĩnh vực tài nguyên ban đầu dựa trên khai thác gỗ và sau đó dựa vào hoạt động xuất khẩu thông qua các hải cảng, tại đó giao thông thương nghiệp cấu thành khu vực kinh tế lớn nhất tại Vancouver vào thập niên 1930. Đi kèm với tình trạng các hãng lớn chi phối kinh tế thành phố là một phong trào lao động thường hiếu chiến. Vụ bãi công đồng loạt lớn đầu tiên diễn ra vào năm 1903 khi các công nhân đường sắt bãi công phản đối Đường sắt Thái Bình Dương Canada để công đoàn được công nhận. Lãnh đạo công nhân là Frank Rogers bị cảnh sát của Đường sắt Thái Bình Dương Canada sát hại, trở thành liệt sĩ đầu tiên của phong trào tại British Columbia. Tình trạng căng thẳng trong công nghiệp gia tăng trên khắp tỉnh British Columbia dẫn đến tổng đình công đầu tiên tại Canada vào năm 1918, diễn ra tại mỏ than Cumberland trên đảo Vancouver. Sau một thời gian tạm lắng trong thập niên 1920, làn sóng bãi công đạt đỉnh vào năm 1935 khi những người thất nghiệp tràn ngập thành phố để phản đối điều kiện trong các trại cứu tế do quân đội điều hành tại các khu vực xa xôi trên khắp tỉnh.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Sau hai tháng căng thẳng với hoạt động kháng nghị diễn ra thường nhật và có tính phá hoại, những người bãi công trại cứu tế quyết định thể hiện sự bất bình của họ với chính phủ liên bang và lên tàu đến Ottawa, song hành động kháng nghị của họ bị đàn áp bằng vũ lực. Các công nhân bị bắt gần Mission và bị giam giữ trong các trại lao động trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Các phong trào xã hội khác, phong trào nữ quyền lần thứ nhất, cải cách đạo đức và hạn chế rượu cũng là diễn ra trong tiến trình phát triển của Vancouver. Mary Ellen Smith là một nữ giới Vancouver theo chủ nghĩa nữ giới tham chính và cấm rượu, năm 1918 bà trở thành nữ giới đầu tiên được bầu vào một nghị viện tỉnh tại Canada. Luật cấm đồ uống có cồn bắt đầu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và kéo dài cho đến năm 1921, khi đó chính phủ tỉnh thiết lập quyền kiểm soát đối với mua bán đồ uống có cồn, thực tiễn này vẫn tồn tại đến nay. Luật cấm ma túy đầu tiên của Canada xảy ra sau một cuộc điều tra của Bộ trưởng Lao động liên bang đương nhiệm là William Lyon Mackenzie King. William Lyon Mackenzie King được phái đến để điều tra về các tuyên bố thiệt hại sau khi Liên minh Bài Á (AEL) dẫn đầu một vụ náo loạn suốt phố người Hoa và phố người Nhật. Hai nguyên đơn là những người sản xuất ma túy, và sau khi điều tra sâu hơn, William Lyon Mackenzie King phát hiện ra các nữ giới da trắng được tường trình là thường lui tới các ổ ma túy, cũng như nam giới Trung Hoa. Một đạo luật liên bang nhanh chóng được thông qua dựa trên các khám phá này, theo đó cấm việc sản xuất, mua bán, và nhập khẩu ma túy vì các mục đích phi dược dụng. Các vụ náo loạn, và sự hình thành của Liên minh Bài Á, cũng là những dấu hiệu của sự sợ hãi và nghi kị ngày càng tăng đối với người Nhật sống tại Vancouver và khắp tỉnh. Những sợ hãi này tăng mạnh khi Nhật Bản tiến công Trân Chân Cảng, dẫn đến việc tất cả người Canada gốc Nhật sống trong thành phố và tỉnh rút cuộc bị giam giữ hoặc trục xuất. Sau chiến tranh, người người Canada gốc Nhật này không được phép trở lại các thành phố như Vancouver, khiến cho các khu vực như phố Nhật đột ngột không còn là khu vực của dân tộc Nhật do các cộng đồng không bao giờ khôi phục. Sau khi hợp nhất với Point Grey và Nam Vancouver, ranh giới của Vancouver giữ nguyên cho đến nay.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Không lâu sau, Vancouver trở thành đô thị lớn thứ ba tại Canada. Ngày 1 tháng 1 năm 1929, dân số Vancouver mở rộng là 228.193. Địa lý. Vancouver nằm trên bán đảo Burrard, giữa vịnh Burrard ở phía bắc và sông Fraser ở phía nam. Eo biển Georgia nằm ở phía tây của thành phố, được đảo Vancouver che chắn khỏi Thái Bình Dương. Thành phố có diện tích , gồm cả vùng đất bằng phẳng và đồi núi, nằm trong múi giờ Thái Bình Dương (UTC−8) và khu vực kinh tế Hàng hải Thái Bình Dương của Canada. Cho đến khi thành phố mang tên hiện này vào năm 1885, "Vancouver" được dùng để chỉ đảo Vancouver, và hiện nay vẫn còn quan niệm sai lệch phổ biến rằng thành phố nằm trên đảo. Vancouver có một trong số các công viên đô thị lớn nhất tại Bắc Mỹ, đó là công viên Stanley với diện tích . Dãy núi North Shore chi phối cảnh quan thành phố, viễn cảnh thơ mộng trong ngày quang đãng gồm có núi lửa Baker phủ tuyết thuộc bang Washington của Hoa Kỳ ở phía đông nam, đảo Vancouver qua eo biển Georgia ở phía tây và tây nam, và đảo Bowen ở phía tây bắc. Sinh thái học. Hệ thực vật ban đầu tại khu vực Vancouver là rừng mưa ôn đới, gồm có các loài thông với các nhóm cây phong và tống quán sủ nằm rải rác, và các khu vực đầm lầy rộng lớn. Các loài thông là một đặc trưng của vùng duyên hải British Columbia, hỗn hợp với các loài "Pseudotsuga menziesii", "Thuja plicata" và "Tsuga heterophylla". Khu vực được cho là có các cây lớn nhất của những loài này tại vùng Duyên hải British Columbia. Các cây lớn nhất trong rừng nguyên sinh của Vancouver mọc tại khu vực Gastown, đây là nơi hoạt động khai thác gỗ đầu tiên diễn ra, và trên sườn phía nam của lạch False và vịnh English, đặc biệt là quanh bãi biển Jericho. Rừng trong công viên Stanley bị đốn từ thập niên 1860 đến thập niên 1880, và tại đây vẫn có thể thấy bằng chứng về các kỹ thuật khai thác gỗ kiểu cũ như khía hình V ván nhún. Nhiều loài và cây được trồng khắp Vancouver và Lower Mainland được đưa đến từ những phần khác của lục địa và nhiều nơi khắp Thái Bình Dương. Các thí dụ gồm có "Araucaria araucana", phong Nhật Bản, và các giống ngoại lai có hoa như mộc lan, đỗ quyên. Một số loài được đưa đến từ những nơi có khí hậu khắc nghiệt hơn tại Đông bộ Canada hoặc châu Âu đã phát triển đến kích thước rất lớn tại Vancouver.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Loài phong "Acer glabrum" cũng có thể đạt tới một kích thước to lớn. Nhiều đường phố trong thành phố có các hàng anh đào Nhật Bản có hoa do chính phủ Nhật Bản tặng từ thập niên 1930 về sau. Thời kỳ nở hoa của chúng kéo dài trong vài tuần vào đầu mùa xuân mỗi năm, lễ hội hoa anh đào Vancouver được tổ chức vào dịp đó. Các phố khác có các loài dẻ có hoa, dẻ ngựa và các cây bóng mát làm cảnh khác. Khí hậu. Vancouver là một trong số những thành phố ấm nhất tại Canada. Khí hậu Vancouver là ôn hòa theo tiêu chuẩn Canada và thường được phân loại là hải dương hoặc bờ tây hải dương, mà theo phân loại khí hậu Köppen sẽ là "Cfb". Tuy nhiên, trong những tháng mùa hè, nhiệt độ vùng nội địa cao hơn đáng kể, khiến Vancouver có nhiệt độ trung bình tối cao mùa hạ mát nhất trong toàn bộ các khu vực đô thị lớn của Canada. Trong các tháng mùa hạ, thời tiết đặc trưng là khô, trung bình chỉ một phần năm số ngày trong tháng 7 và tháng 8 là có mưa. Ngược lại, gần một nửa số ngày từ tháng 11 đến tháng 3 xuất hiện giáng thủy. Vancouver cũng là một trong số các thành phố ẩm nhất Canada, tuy nhiên lượng giáng thủy thay đổi trong suốt khu vực đô thị. Lượng giáng thủy hàng năm đo được tại Cảng hàng không quốc tế Vancouver tại Richmond trung bình là , so với tại khu vực trung tâm và tại Bắc Vancouver. Nhiệt độ trung bình cực độ hàng ngày là trong tháng 7 và tháng 8, mức cao nhất hiếm khi vượt . Nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được tại cảng hàng không là , thiết lập vào ngày 30 tháng 7 năm 2009, và nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được trong ranh giới thành phố Vancouver là , xảy ra lần đầu vào ngày 31 tháng 7 năm 1965, một lần nữa vào ngày 8 tháng 8 năm 1981, và ngày 29 tháng 5 năm 1983. Trung bình hàng năm, Vancouver xuất hiện tuyết rơi trong 11 ngày, với ba ngày nhận được hoặc nhiều hơn. Lượng tuyết rơi trung bình hàng năm là nhưng thường không còn lại trên mặt đất trong thời gian dài. Đại Vancouver có mùa đông ôn hòa đứng thứ tư trong số những thành phố của Canada, sau ba thành phố trên đảo Vancouver là Victoria, Nanaimo và Duncan. Mùa sinh trưởng của Vancouver trung bình là 237 ngày, kéo dài từ 18 tháng 3 đến 10 tháng 11. Quy hoạch đô thị. Năm 2011, Vancouver là thành phố có mật độ dân số dày đặc nhất tại Canada.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Quy hoạch đô thị tại Vancouver mang đặc trưng là nhà ở cao tầng và phát triển sử dụng hỗn hợp tại các trung tâm đô thị, một lựa chọn thay cho mở rộng. Trong hơn một thập niên, Vancouver được xếp hạng là một trong các thành phố dễ sống nhất trên thế giới. Năm 2010, Vancouver được xếp hạng có chất lượng sinh hoạt cao thứ 4 trong tất cả các thành phố trên Trái Đất. Ngược lại, theo Forbes thì trong năm 2007, Vancouver có thị trưởng bất động sản đắt đỏ thứ 6 trên thế giới, và cao thứ hai tại Bắc Mỹ sau Los Angeles. Vancouver cũng được xếp hạng nằm trong số các thành phố đắt đỏ nhất Canada về sinh hoạt. Forbes cũng xếp hạng Vancouver là thành phố sạch thứ mười trên thế giới trong năm 2007. Phương pháp giải quyết này bắt đầu vào cuối thập niên 1950, khi những nhà quy hoạch đô thị của thành phố bắt đầu khuyến khích việc xây dựng các tòa nhà ở cao tầng tại khu West End của Vancouver, đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt về không gian để bảo vệ tuyến tầm nhìn và không gian xanh. Sự thành công của các khu phố dày đặc song dễ sống này dẫn đến việc tái kiến thiết các điểm đô thị công nghiệp, như North False Creek và Coal Harbour, bắt đầu vào giữa thập niên 1980. Kết quả là một hạt nhân đô thị chật được quốc tế công nhận là "phát triển tiện nghi cao và 'dễ sống'". Nhân khẩu. Theo kết quả điều tra nhân khẩu năm 2011, Vancouver có trên 603.000 người, là thành phố lớn thứ tám tại Canada. Vancouver là thành phố lớn thứ tư tại Tây bộ Canada, sau Calgary, Edmonton và Winnipeg. Khu vực đô thị Đại Vancouver có trên 2,4 triệu cư dân, là khu vực đô thị đông dân thứ ba toàn quốc và đông dân nhất tại tây bộ Canada. Khu vực kinh tế Lower Mainland-Southwest có diện tích rộng hơn có dân số trên 2,93 triệu. Với mật độ dân số là 5.249 người/km², Thành phố Vancouver có mật độ dân cư dày đặc nhất trong các đô thị tự trị có trên 5.000 cư dân tại Canada. Vancouver được gọi là một "thành phố gồm các khu phố", mỗi khu phố lại có một sự riêng biệt về đặc trưng và dung hợp chủng tộc. Người có huyết thống Anh, Scotland, và Ireland về mặt lịch sử từng là những dân tộc lớn nhất trong thành phố, và các yếu tố của xã hội và văn hóa Anh Quốc vẫn có thể thấy được tại một số khu vực, đặc biệt là South Granville và Kerrisdale.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Người Đức là dân tộc gốc Âu lớn tiếp sau, họ là một lực lượng dẫn đầu trong xã hội và kinh tế của thành phố cho đến khi tình cảm bài Đức nổi lên do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914. Ngày nay, người Hoa là dân tộc rõ rệt lớn nhất trong thành phố, với một cộng đồng nói tiếng Hoa đa dạng với một vài ngôn ngữ như tiếng Quảng Đông và Quan thoại. Kể từ thập niên 1980, nhập cư đến Vancouver tăng lên đột ngột, khiến thành phố thêm đa dạng về dân tộc và ngôn ngữ; 52% có ngôn ngữ thứ nhất không phải là tiếng Anh (2006). Gần 30% dân cư trong thành phố có huyết thống Trung Hoa. Trong thập niên 1980, có một dòng người nhập cư từ Hồng Kông do dè chừng việc chuyển giao chủ quyền lãnh thổ này từ Anh Quốc cho Trung Quốc, cộng thêm một sự gia tăng người nhập cư từ Trung Quốc đại lục và những người nhập cư trước đó từ Đài Loan, Vancouver trở thành một trong những nơi tập trung cao nhất các cư dân người Hoa tại Bắc Mỹ. Vancouver là điểm đến phổ biến thứ nhì của người nhập cư tại Canada, đứng sau Toronto. Các dân tộc gốc Á có số lượng lớn khác tại Vancouver là người Nam Á (chủ yếu là người Punjab) thường được gọi là người Canada gốc Ấn (5,7%), người Philippines (5,0%), người Nhật Bản (1,7%), người Hàn Quốc (1,5%), cùng với các cộng đồng lớn của người Việt Nam, người Indonesia, và người Campuchia. Mặc dù lượng người Mỹ Latinh nhập cư đến Vancouver gia tăng trong thập niên 1980 và 1990, song tổng số người nhập cư gần đây tương đối thấp, và người châu Phi nhập cư cũng đình trệ (tương ứng là 3,6% và 3,3% tổng số người nhập cư). Dân số da đen tại Vancouver khá ít so với các thành phố lớn khác của Canada, họ chiếm 0,9% dân số thành phố. Khu phố Strathcona là hạt nhân của cộng đồng Do Thái trong thành phố. Hogan's Alley từng là nơi có một cộng đồng da đen đáng kể. Năm 1981, dưới 7% dân số thuộc một nhóm thiểu số rõ rệt. Đến năm 2008, tỷ lệ này tăng lên mức 51%. Trước khi xảy ra làn sóng người Hồng Kông tha hương, các dân tộc phi Anh Quốc lớn nhất trong thành phố là người Ireland và người Đức, tiếp đến là người Scandinavia, người Ý, người Ukraina và người Hoa. Từ giữa thập niên 1950 cho đến thập niên 1980, nhiều người Bồ Đào Nha nhập cư đến Vancouver và thành phố có dân số Bồ Đào Nha lớn thứ ba tại Canada vào năm 2001.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Các dân tộc Đông Âu, bao gồm cả người Nam Tư, người Nga, người Séc, người Ba Lan, người Romania và người Hungary bắt đầu nhập cư đến Vancouver sau khi Liên Xô tiếp quản Đông Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Số người Hy Lạp nhập cư gia tăng vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, hầu hết họ định cư tại khu vực Kitsilano. Vancouver cũng có một cộng đồng người nguyên trú đáng kể với khoảng 11.000 người. Kinh tế. Với vị trí nằm trong vành đai Thái Bình Dương, là điểm cuối cùng ở phía tây của các tuyến đường bộ và đường sắt xuyên lục địa của Canada, Vancouver là một trong các trung tâm công nghiệp lớn nhất toàn quốc. Cảng Metro Vancouver là cảng lớn nhất và đa dạng nhất của Canada, hàng năm có giao thương với trên 160 nền kinh tế. Vancouver cũng là trụ sở của các công ty lâm sản và khai mỏ. Trong những năm gần đây, Vancouver trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng đối với phát triển phần mềm, công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ, phát triển trò chơi điện tử, xưởng phim hoạt hình, một ngành sản xuất truyền hình sôi động và công nghiệp điện ảnh. Vị trí thuận lợi của Vancouver khiến nó trở thành một địa điểm du lịch lớn. Nhiều du khách đến để tham quan các công viên của thành phố, như công viên Stanley, công viên Queen Elizabeth, vườn thực vật VanDusen và những dãy núi, đại dương, rừng, và không gian xanh bao quanh thành phố. Mỗi năm có trên một triệu người qua Vancouver trên những tàu du lịch, thường là hướng về Alaska. Thành phố thông qua các chiến lược khác nhau nhằm giảm giá nhà, bao gồm nhà ở công cộng, hợp pháp hóa những phần thứ cấp, tăng mật độ và tăng trưởng thông minh. Tháng 4 năm 2010, trung bình nhà cấp hai tại Vancouver được bán với giá kỷ lục là 987.500 đô la, so với giá trung bình tại Canada là 365.141 đô la. Kể từ thập niên 1990, sự phát triển các tòa nhà cộng quản cao tầng tại bán đảo trung tâm được cung cấp tài chính một phần từ một dòng tư bản của những người Hồng Kông nhập cư do lo ngại việc chuyển giao lãnh thổ này cho Trung Quốc vào năm 1997. Những phát triển này tập trung tại các khu Yaletown và Coal Harbour và xung quanh nhiều ga của tuyến đường sắt SkyTrain đến phía đông của khu trung tâm. Việc thành phố được lựa chọn làm chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông năm 2010 cũng có tác động lớn đến phát triển kinh tế.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Lo ngại rằng vấn đề vô gia cư ngày càng tăng tại Vancouver có thể trầm trọng thêm vì Thế vận hội do những người sở hữu các khách sạn SRO, vốn là nhà của những cư dân thu nhập thấp nhất trong thành phố, sẽ cải tạo tài sản của họ để thu hút các cư dân và du khách có thu nhập cao hơn. Một sự kiện quốc tế quan trọng khác từng diễn ra tại Vancouver là Triển lãm thế giới 1986, triển lãm đón trên 20 triệu khách và thêm vào 3,7 tỷ đô la cho kinh tế Canada. Một số công trình phục vụ Triển lãm thế giới vẫn còn tồn tại, trong đó có hệ thống đường sắt công cộng SkyTrain và Canada Place. Chính phủ. Không giống như các đô thị tự trị khác tại British, Vancouver được hợp thành tổ chức theo "Hiến chương Vancouver". Hiến chương được thông qua vào năm 1953, thay thế cho "Đạo luật hợp nhất Vancouver, 1921" và trao cho thành phố thêm nhiều quyền hạn và khác biệt so với các cộng đồng khác vận hành theo "Đạo luật các đô thị tự trị" của tỉnh. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ dân sự nằm dưới quyền chi phối của Hiệp hội Phi đảng phái (NPA) trung-hữu, song cũng có một số gián đoạn đáng kể bởi phe trung-tả. Quản lý Vancouver là Hội đồng Thành phố Vancouver gồm 11 thành viên, một hội đồng trường học gồm 9 thành viên, một hội đồng công viên gồm 7 thành viên, tất cả đều phụng vụ các nhiệm kỳ ba năm. Bất chấp quy mô lớn, toàn bộ các cuộc tuyển cử đô thị tại Vancouver đều dựa theo nền tảng "at-large", tức bỏ phiếu cho đảng. Về mặt lịch sử, trong mọi cấp chính quyền, phần phía tây giàu có hơn của Vancouver bỏ phiếu cho phe bảo thủ hoặc tự do trong khi phần phía đông của thành phố bỏ phiếu cho phe cánh tả. Cục cảnh sát Vancouver có 1.174 thành viên tuyên thệ, ngân sách hoạt động năm 2005 là 149 triệu đô la. Trên 16% ngân sách của thành phố được chi cho sự bảo vệ của cảnh sát vào năm 2005. Các đơn vị của cục cảnh sát Vancouver gồm có cả một đội xe đạp, một đội hàng hải, và một đội khuyển cảnh. Cục cũng có một đội kị cảnh, chủ yếu để tuần tra công viên Stanley và thỉnh thoảng tại Downtown Eastside và West End, cũng như để kiểm soát đám đông. Năm 2008, Vancouver có tỷ lệ phạm tội cao thứ bảy trong số 27 vùng đô thị thống kê tại Canada. Chính phủ khu vực.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Chính phủ khu vực. Vancouver là một đô thị thành viên trong Cục Khu vực Vancouver, một chính quyền khu vực. Cục có tổng cộng 22 đô thị, một khu vực bẩu cử liên bang. Trong Nghị viện British Columbia, Vancouver được phân bổ 11 nghị viên đại diện. Trong Chúng nghị viện Canada, Vancouver có 5 nghị viên đại diện. Chính quyền của Khu vực đặt tại Burnaby. Mỗi đô thị có cơ quan quản lý nhà nước riêng. Cục khu vực (Metro Vancouver) quản lý quy hoạch tổng thể và giám sát các dịch vụ chung, như cung cấp nước sạch, vận hành hệ thống cống rãnh và xử lý chất thải rắn... Giáo dục. Hội đồng Giáo dục Vancouver tiếp nhận trên 110.000 học sinh trong các cơ sở bậc tiểu học, trung học, sau trung học, do vậy là học khu lớn thứ nhì trong tỉnh. Học khu quản lý khoảng 74 trường tiểu học, 17 trường bổ túc tiểu học, 18 trường trung học, 7 trung tâm giáo dục người thành niên, 2 trường thuộc mạng lưới học tập Vancouver, trong tất cả có 18 trường tiếng Pháp cho người phi bản ngữ, một trường song ngữ Quan thoại, một trường mỹ thuật, năng khiếu, và Montessori. Trên 46 trường độc lập đa dạng cũng đủ tư cách nhận một phần tài trợ của tỉnh và giáo dục khoảng 10% học sinh trong thành phố. Có năm đại học công lập trong khu vực Đại Vancouver, lớn nhất trong đó là Đại học British Columbia (UBC) và Đại học Simon Fraser (SFU), với tổng cộng 90.000 sinh viên đại học và sau đại học ghi danh năm 2008. UBC luôn được xếp trong số 40 đại học tốt nhất trên thế giới, và trong số 20 đại học công lập tốt nhất. SFU luôn được xếp hạng la đại học toàn diện hàng đầu tại Canada và nằm trong số 200 đại học tốt nhất trên thế giới. Sinh viên quốc tế và sinh viên nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai là nguồn tuyển sinh quan trọng của các thể chế công lập và tư thục tại Đại Vancouver. Trong năm học 2008–2009, 53% sinh viên thuộc Hội đồng giáo dục Vancouver nói một ngôn ngữ không phải là tiếng Anh tại nhà. Nghệ thuật và văn hóa. Nhà hát, sàn khiêu vũ và chiếu phim. Vancouver có ngành công nghiệp sản xuất phim rất lớn, nên được đặt tên là "Hollywood phương Bắc". Các địa điểm quay nổi tiếng như Hồ Buntzen Lake (phim The X-Files (TV series) Freddy vs. Jason, Pathfinder, Stephen King's It, Hot Rod), Heritage Woods, Đảo Bowen, bãi biển Britannia Beach, Tsawwassen (phim X-men) Thành phố anh em.
Vancouver
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=849
Vancouver là một trong những thành phố đầu tiên tại Canada tham gia một hiệp định thành phố anh em quốc tế. Các hiệp định đặc biệt về lợi ích văn hóa, xã hội và kinh tế là nguyên nhân xuất hiện các thành phố anh em này.
Alberta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Alberta () là một trong 13 tỉnh bang và lãnh thổ của Canada. Với dân số ước tính là 4.067.175 người theo cuộc điều tra dân số năm 2016, đây là tỉnh bang đông dân thứ tư của nước này, và là tỉnh bang đông dân nhất trong ba tỉnh bang thuộc vùng đồng cỏ (Canadian Prairies). Diện tích của Alberta khoảng . Alberta giáp với tỉnh bang British Columbia về phía Tây và Saskatchewan về phía Đông, Các Lãnh thổ Tây Bắc về phía Bắc, và tiểu bang Montana của Hoa Kỳ về phía Nam. Alberta là một trong ba tỉnh bang và lãnh thổ của Canada có biên giới với chỉ một tiểu bang Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong hai tỉnh bang không tiếp giáp biển của Canada. Thủ phủ của Alberta là Edmonton, nằm gần trung tâm địa lý của tỉnh bang; nó là trung tâm cung cấp và dịch vụ chính cho các công nghiệp tài nguyên của Canada như dầu mỏ và cát dầu. Khoảng về phía Nam của Edmonton là Calgary, thành phố đông dân nhất. Calgary và Edmonton là hai trung tâm cho hai khu đô thị của tỉnh bang, mỗi khu với hơn một triệu dân, trong khi tỉnh bang có 16 khu vực điều tra dân số. Người thổ dân đã sống ở khu vực mà ngày nay là Alberta hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến định cư. Alberta và Saskatchewan nguyên là hai khu vực của Các Lãnh thổ Tây Bắc, nhưng đã trở thành tỉnh bang vào ngày 1 tháng 9 năm 1905. Các khu vực kinh tế chính của Alberta gồm công nghiệp năng lượng và công nghệ sạch, nông nghiệp, và hóa học dầu mỏ. Công nghiệp dầu mỏ trở thành cột trụ của kinh tế Alberta từ năm 1947, khi người ta khám phá ra dầu ở Giếng dầu Leduc No. 1. Thủ hiến đương nhiệm của Alberta là Jason Kenney của Đảng Bảo thủ Thống nhất ("United Conservative Party"), đang chiếm giữ đa số ghế trong cơ quan lập pháp của tỉnh bang. Các địa điểm du lịch trong tỉnh bang gồm có: Banff, Canmore, Drumheller, Jasper, Sylvan Lake và Hồ Louise. Alberta sở hữu 6 di sản thế giới UNESCO: Vườn quốc gia Núi Rocky của Canada, Công viên Khủng long tỉnh Alberta, Vực bẫy trâu Head-Smashed-In, Công viên hòa bình quốc tế Waterton-Glacier, Vườn quốc gia Wood Buffalo, và Writing-on-Stone / Áísínai'pi. Tỉnh bang chủ yếu có khí hậu lục địa ẩm ướt, có nhiều thay đổi lớn trong năm; nhưng nhiệt độ trung bình theo mùa ít thay đổi hơn những khu vực xa hơn ở phía Đông, vì mùa đông được gió chinook sưởi ấm. Từ nguyên. Alberta được đặt tên theo Vương nữ Louise Caroline Alberta (1848–1939), con gái thứ tư của Victoria của Anh.
Alberta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Vương nữ Louise là phu nhân của John Campbell, Hầu tước Lorne, Toàn quyền Canada (1878–83). Hồ Louise và Đỉnh Alberta cũng được đặt tên theo bà. Tên gọi "Alberta" cũng là phiên bản nữ hóa của tên Latin Albert (so với phiên bản giống đực "Albertus" trong tiếng Latinh Trung cổ) và những từ cùng gốc trong các ngôn ngữ German, cũng đều có nguồn gốc từ tiếng German sơ khai "*Aþalaberhtaz" (chữ ghép từ "quý tộc" + "sáng/nổi tiếng"). Lịch sử. Những người thổ dân tiền da đỏ đã đến Alberta ít nhất 10.000 năm trước, vào cuối thời kỳ băng hà gần đây nhất. Họ được cho là đã di cư từ Siberia đến Alaska qua một cầu đất liền xuyên qua Eo biển Bering và sau đó có thể xuống phía Đông dãy núi Rocky để sinh sống tại châu Mỹ. Những người khác có thể đã di cư dọc theo bờ biển British Columbia rồi dần dần vào đất liền. Sau thời gian họ đã phân hóa thành nhiều bộ lạc khác nhau, trong đó có các bộ lạc người da đỏ ở đồng bằng ("Plain Indians") ở miền nam Alberta như Liên minh Blackfoot và người Cree Đồng bằng (sinh sống bằng cách săn bắt bò rừng), và những bộ lạc ở phía Bắc như người Cree Rừng và Chipewyan (sinh sống bằng săn bắt, lập bẫy, và câu cá). Sau khi người Anh đến Canada, khoảng một nửa tỉnh bang Alberta, phía Nam tiêu vực sông Athabasca, trở thành Lãnh thổ Rupert bao gồm tất cả đất trong lưu vực các sông ngòi chảy vào vịnh Hudson. Khu vực này được vua Charles II của Anh cấp cho Công ty Vịnh Hudson (HBC) năm 1670, và những công ty cạnh tranh buôn bán lông thú không được phép hoạt động tại đó. Sông Athabasca và những con sông phía Bắc không thuộc lãnh thổ của HBC vì chúng chảy vào Bắc Băng Dương thay vì vịnh Hudson, và chúng là nơi sống lý tưởng của một số loài có lông. Nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên trong khu vực Athabasca là Peter Pond, người đã nghe đến đoạn khuân vác Methye, nơi có thể di chuyển từ những sông phía Nam đến những sông phía Bắc Lãnh thổ Rupert. Những nhà buôn bán lông thú đã thành lập Công ty Tây Bắc (NWC) tại Montreal năm 1779 để cạnh tranh với HBC. NWC chiếm giữ khu vực phía Bắc lãnh thổ Alberta. Năm 1778, Peter Pond xây dựng Pháo đài Athabasca trên Lac la Biche. Roderick Mackenzie xây dựng Pháo đài Chipewyan trên hồ Athabasca 10 năm sau đó vào 1788.
Alberta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Người anh em họ của ông là Sir Alexander Mackenzie đã đi dọc theo sông Bắc Saskatchewan để đến điểm cực Bắc gần Edmonton, rồi đi bộ về hướng Bắc, đến sông Athabasca, rồi ông theo sông đến hồ Athabasca. Tại đây ông khám phá ra sông chảy mạnh mà ngày nay mang tên ông - sông Mackenzie mà ông đã đi theo đến nơi nó chảy vào Bắc Băng Dương. Trở về lại hồ Athabasca, ông đi ngược dòng sông Peace và cuối cùng đi đến Thái Bình Dương, như thế ông trở thành người châu Âu đầu tiên đi xuyên qua châu lục Bắc Mỹ ở phía Nam Mexico. Khu vực cực nam của Alberta từng là một phần lãnh thổ Pháp (rồi Tây Ban Nha) Louisiana, được bán cho Hoa Kỳ năm 1803; năm 1818, phần đất của Louisiana phía Bắc vĩ tuyến 49 Bắc được nhượng lại cho Đế quốc Anh. Mậu dịch lông thú được phát triển ở phía Bắc, nhưng những cuộc xung đột đẫm máu diễn ra giữa hai công ty đối thủ HBC và NWC, và nào năm 1821 chính quyền Anh đã ra lệnh cả hai phải sáp nhập để chấm dứt các cuộc xung đột. Công ty Vịnh Hudson hợp nhất đã thống lĩnh mậu dịch tại Alberta cho đến năm 1870, khi chính phủ Canada mới thành lập mua đứt Lãnh thổ Rupert. Miền Bắc Alberta vẫn nằm trong Lãnh thổ Miền Tây Bắc cho đến năm 1870, khi nó và Lãnh thổ Rupert trở thành Các Lãnh thổ Tây Bắc của Canada. Quận Alberta được thành lập trong bộ phận Các Lãnh thổ Tây Bắc năm 1882. Với số người định cư tăng trưởng, các dân biểu địa phương được cử vào cơ quan lập pháp lãnh thổ. Sau một thời gian dài vận động đòi tự trị, năm 1905 Quận Alberta được mở rộng và trở thành một tỉnh bang, và Alexander Cameron Rutherford được bầu làm thủ hiến đầu tiên. Chưa đến 10 năm sau, tỉnh bang mới đã phải đối diện với những thử thách đặc biệt do Thế chiến thứ nhất gây ra khi số người xung phong tham chiến đã để lại ít công nhân để duy trì dịch vụ và sản xuất. Hơn 50% bác sĩ Alberta đã tình nguyện tham chiến ở nước ngoài. Thế kỷ 21. Ngày 21 tháng 6 năm 2013, trong vụ Lũ lụt Alberta 2013, Alberta đã chịu nhiều trận mưa lớn, gây ra lũ lụt khắp miền Nam tỉnh bang dọc theo các sông và nhánh Bow, Elbow, Highwood và Oldman. 12 đô thị ở miền Nam Albert đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp địa phương vào ngày 21 tháng 6 khi mực nước dâng cao và người dân ở nhiều địa phương nhận lệnh di tản.
Alberta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Năm 2016, một vụ cháy rừng đã dẫn đến cuộc di tản vì cháy rừng lớn nhất lịch sử Alberta, trong đó hơn 80.000 người đã buộc phải di tản. Nhân khẩu. Cuộc điều tra dân số năm 2016 báo cáo Alberta có dân số 4.067.175 người ở tại 1.527.678 trong 1.654.129 tổng số đơn vị nhà cửa, tăng 11,6% so với dân số năm 2011 là 3.645.257. Với diện tích đất là , mật độ dân số ở đây là trong năm 2016. Statistics Canada ước tính tỉnh bang có dân số là 4.428.247 người trong quý 2 năm 2020. Từ năm 2000, dân số của Alberta đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng tương đối cao, chủ yếu là do nền kinh tế đang nảy nở. Giữa 2003 và 2004, tỉnh bang có tỷ lệ sinh đẻ cao (bằng các tỉnh bang lớn hơn như British Columbia), tỷ lệ nhập cư tương đối cao, và tỷ lệ nhập cư liên tỉnh cao so với các tỉnh bang khác. Năm 2016, Alberta tiếp tục là tỉnh bang có dân số trẻ nhất, với tuổi trung bình là 36,7 năm, so với tuổi trung bình toàn quốc là 41,2 năm. Cũng trong năm 2016, Alberta có tỷ lệ người cao tuổi thấp nhất (12,3%) trong các tỉnh bang và một trong những tỷ lệ trẻ em cao nhất (19,2%), góp phần vào dân số trẻ tuổi và tăng trưởng của Alberta. Khoảng 81% dân số sống trong các khu vực đô thị trong khi 19% sống ở khu vực nông thôn. Đường Hành lang Calgary–Edmonton là khu vực đô thị hóa nhất trong tỉnh bang và là một trong những khu vực đông dân nhất Canada. Nhiều thành thị Alberta cũng đã trải qua tỷ lệ tăng trưởng rất cao trong những năm gần đây. Dân số Alberta đã tăng trưởng từ 73.022 người trong năm 1901 đến 4.067.175 người năm 2016. Kinh tế. Nền kinh tế Alberta là một trong những nền kinh tế mạnh nhất thế giới, được hỗ trợ bởi một nền công nghiệp dầu mỏ đang tăng trưởng và ở một mức độ ít hơn là nông nghiệp và công nghệ. Năm 2013, GDP bình quân theo đầu người cao hơn so với Hoa Kỳ, Na Uy, hoặc Thụy Sĩ, và cao nhất trong tất cả các tỉnh bang nào khác tại Canada ở mức . Con số này là 56% cao hơn mức bình quân toàn quốc là và hơn gấp hai lần một số tỉnh bang giáp bờ Đại Tây Dương. Năm 2006, sự khác biệt với mức bình quân đầu người toàn quốc là lớn nhất cho bất cứ tỉnh bang nào trong lịch sử Canada.
Alberta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=850
Theo điều tra dân số năm 2006, thu nhập gia đình trung vị sau khi trừ thuế ở Alberta là CAD$70.986 (so với CAD$60.270 toàn quốc). Năm 2014, Alberta có nền kinh tế lớn thứ nhì Canada, chỉ sau Ontario, với GDP cao hơn . GDP của tỉnh bang tính theo giá cả cơ bản đã tăng 4,6% năm 2017 lên đến CA$327.4 tỷ, là sự tăng trưởng cao nhất được ghi nhận tại Canada, và đã kết thúc hai năm liên tục giảm sút.
Nova Scotia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=851
Nova Scotia là một tỉnh bang thuộc vùng miền đông của Canada. Đây là một bán đảo nằm nhô ra ngoài Đại Tây Dương với một diện tích khoảng 55.000 km².Tính đến năm 2016, dân số là 923,598. Nova Scotia là tỉnh có mật độ dân số cao thứ hai ở Canada với 17,4 cư dân trên mỗi kilômét vuông (45 dặm vuông). Từ nguyên. "Nova Scotia" có nghĩa là "Scotland Mới" bằng tiếng Latin (mặc dù "Scotia" ban đầu là một tên La Mã cho Ireland) và là tên tiếng Anh được công nhận cho tỉnh. Ở tiếng Gaelic Scotland, tỉnh này được gọi là "Alba Nuadh", cũng có nghĩa là "New Scotland". Tỉnh này được đặt tên lần đầu tiên trong Hiến pháp Hoàng gia năm 1621, cho phép quyền định cư các vùng đất bao gồm Nova Scotia hiện đại, Đảo Cape Breton, đảo Prince Edward, New Brunswick và Bán đảo Gaspé cho Sir William Alexander vào năm 1632.  Địa lý. Nova Scotia là tỉnh nhỏ thứ hai của Canada trong khu vực sau đảo Prince Edward. Vùng đất liền của tỉnh là bán đảo Nova Scotia bao quanh bởi Đại Tây Dương, bao gồm nhiều vịnh và cửa sông. Không nơi nào ở Nova Scotia cách biển hơn 67 km (42 dặm). Đảo Cape Breton, một hòn đảo lớn ở phía đông bắc của đại lục Nova Scotia, cũng là một phần của tỉnh, cũng như Đảo Sable, một hòn đảo nhỏ nổi tiếng vì đắm tàu, cách chừng 175 km (110 dặm) Bờ biển phía nam của tỉnh. Nova Scotia có nhiều hình thành đá hóa thạch cổ. Những hình dạng đặc biệt phong phú trên bờ Vịnh Fundy. Blue Beach gần Hantsport, Joggins Fossil Cliffs, nằm trên bờ Vịnh Fundy, đã mang lại một lượng lớn các hóa thạch cổ carbon. Wasson's Bluff, gần thị trấn Parrsboro, đã mang lại cả hóa thạch tuổi Kỷ Đệ Tam và Jurassa. Tỉnh có 5.400 hồ.  Khí hậu. Nova Scotia nằm ở khu vực trung du. Kể từ khi tỉnh này bao phủ gần biển, khí hậu gần với biển hơn so với khí hậu lục địa. Mùa đông và mùa hè nhiệt độ cực đoan của khí hậu lục địa bị kiểm duyệt bởi đại dương. Tuy nhiên, mùa đông vẫn còn lạnh, đủ để được phân loại là lục địa - vẫn còn gần điểm đông hơn so với nội địa ở phía tây.
Nova Scotia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=851
Khí hậu Nova Scotia theo nhiều cách tương tự như bờ biển Baltic trung tâm ở Bắc Âu, chỉ có mưa và tuyết. Mặc dù Nova Scotia có khoảng mười lăm dãy núi phía Nam. Những khu vực không có bờ biển Đại Tây Dương trải qua những mùa hè ấm áp hơn thường thấy ở các khu vực nội địa, và mùa đông hạ thấp hơn một chút. Được mô tả trên tấm giấy phép xe của tỉnh dưới dạng Sân chơi Ocean của Canada, Nova Scotia được bao quanh bởi bốn vùng nước chính: Vịnh Saint Lawrence về phía bắc, Vịnh Fundy về phía tây, Vịnh Maine về phía tây nam, và Đại Tây Dương về phía đông.  Kinh tế. GDP bình quân đầu người của Nova Scotia trong năm 2010 là 38.475 đô la, thấp hơn đáng kể so với mức bình quân bình quân đầu người của quốc gia là 47.605 đô la và ít hơn một nửa của tỉnh giàu nhất Canada, Alberta. Tăng trưởng GDP đã tụt hậu so với phần còn lại của đất nước ít nhất là trong thập kỷ qua.  Nova Scotia của nền kinh tế dựa trên nguồn tài nguyên truyền thống đã đa dạng trong những thập kỷ gần đây. Sự nổi lên của Nova Scotia như là một thẩm quyền hữu hiệu ở Bắc Mỹ, theo lịch sử, là do sự sẵn có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các loài cá ngoài khơi Scotian Shelf. Ngành đánh cá là một trụ cột của nền kinh tế kể từ khi nó được phát triển như một phần của New France vào thế kỷ 17; Tuy nhiên, ngành đánh bắt cá bị suy giảm nghiêm trọng do đánh bắt cá quá mức vào cuối thế kỷ 20. Sự sụp đổ của các cổ phiếu cá tuyết và sự đóng cửa của ngành này đã làm mất khoảng 20.000 việc làm vào năm 1992. Các ngành khác trong tỉnh cũng bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong hai thập kỷ qua: khai thác than ở Cape Breton và phía bắc lục địa Nova Scotia gần như ngừng sản xuất, và một nhà máy thép lớn ở Sydney đã đóng cửa trong những năm 1990. Gần đây, giá trị cao của đồng đô la Canada so với đô la Mỹ đã ảnh hưởng đến ngành công nghiệp lâm nghiệp, dẫn đến việc đóng cửa nhà máy bột giấy và xay giấy ở gần Liverpool. Khai thác khoáng sản, đặc biệt là thạch cao và muối, và silica, than bùn và barit ít hơn cũng là một ngành quan trọng.
Nova Scotia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=851
Từ năm 1991, dầu và khí ngoài khơi đã trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế mặc dù sản xuất và doanh thu đang giảm. Nông nghiệp vẫn là một lĩnh vực quan trọng trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là ở các hung lũng Annapolis. Khu vực quốc phòng và hàng không vũ trụ của Nova Scotia tạo ra doanh thu khoảng 500 triệu đô la Mỹ và đóng góp khoảng 1,5 tỷ đô la cho nền kinh tế tỉnh mỗi năm. Ngô đang phát triển tại Grafton ở thung lũng Annapolis vào tháng 10 năm 2011 Cho đến nay, 40% tài sản quân sự của Canada cư trú tại Nova Scotia. Nova Scotia có thứ tư lớn nhấtngành công nghiệp phim ở Canada lưu trữ hơn 100 tác phẩm hàng năm, hơn một nửa trong số đó là các sản phẩm của nhà sản xuất phim và truyền hình quốc tế. Năm 2015, chính phủ Nova Scotia loại bỏ tín dụng thuế để sản xuất phim trong tỉnh, gây nguy hiểm cho ngành công nghiệp với hầu hết các khu vực pháp lý khác tiếp tục cung cấp tín dụng như vậy.  Ngành du lịch Nova Scotia bao gồm hơn 6.500 doanh nghiệp trực tiếp, hỗ trợ gần 40.000 việc làm. 200.000 hành khách tàu thủy từ khắp nơi trên thế giới chảy qua Cảng Halifax, Nova Scotia mỗi năm. Ngành này đóng góp khoảng 1,3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm cho nền kinh tế. Tỉnh cũng có sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin và truyền thông] (ICT) bao gồm hơn 500 công ty, và sử dụng khoảng 15.000 người. Năm 2006, khu vực sản xuất đã mang lại hơn 2,6 tỷ đô la cho GDP, sản lượng lớn nhất của bất kỳ ngành công nghiệp nào ở Nova Scotia. Michelin vẫn là nhà tuyển dụng duy nhất trong ngành này, vận hành ba nhà máy sản xuất trong tỉnh. Vào năm 2012, thu nhập gia đình trung bình ở Nova Scotia là 67.910 đô la Mỹ, thấp hơn mức trung bình toàn quốc là 74.540 đô la; ở Halifax con số tăng lên 80.490 đô la.  Tỉnh là nơi xuất khẩu cây thông Noel, tôm hùm, thạch cao và quả mọng hoang giã nhiều nhất thế giới. Giá trị xuất khẩu cá của tỉnh vượt quá 1 tỷ USD, và các sản phẩm cá được 90 quốc gia trên thế giới nhận. Tuy nhiên, nhập khẩu của tỉnh vượt xa xuất khẩu. Trong khi con số này gần như bằng nhau từ năm 1992 đến năm 2004, kể từ đó thâm hụt thương mại đã tăng lên.
Nova Scotia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=851
Năm 2012, xuất khẩu từ Nova Scotia chiếm 12,1% GDP của tỉnh, trong khi nhập khẩu là 22,6%.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Anh (, ) là một quốc gia cấu thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Quốc gia này có biên giới trên bộ với Scotland về phía bắc và với Wales về phía tây. Biển Ireland nằm về phía tây bắc và biển Celtic nằm về phía tây nam của Anh. Anh tách biệt khỏi châu Âu lục địa qua biển Bắc về phía đông và eo biển Manche về phía nam. Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh và chiếm khoảng 5/8 diện tích của đảo; ngoài ra còn có trên 100 đảo nhỏ. Người hiện đại cư trú lần đầu tiên tại khu vực Anh ngày nay trong giai đoạn đồ đá cũ muộn, song "England" có tên gọi bắt nguồn từ một bộ lạc German là Angle, bộ lạc này định cư trên đảo vào thế kỷ V-VI. Anh trở thành một quốc gia thống nhất vào thế kỷ X, và kể từ thời đại Khám phá quốc gia này có tác động đáng kể về văn hoá và tư pháp trên thế giới. Vương quốc Anh (bao gồm Wales từ năm 1535) kết thúc vị thế một quốc gia có chủ quyền riêng biệt vào ngày 1 tháng 5 năm 1707, khi các Đạo luật Liên minh có hiệu lực với kết quả là liên minh chính trị với Vương quốc Scotland để hình thành Vương quốc Anh liên hiệp. Tiếng Anh, giáo hội Anh giáo, và luật Anh (nền tảng của thông luật tại nhiều quốc gia) được phát triển tại Anh, và hệ thống chính phủ nghị viện của Anh được nhiều quốc gia khác áp dụng. Cách mạng công nghiệp bắt đầu tại Anh trong thế kỷ XVIII, chuyển đổi Anh trở thành quốc gia công nghiệp hoá đầu tiên trên thế giới. Địa hình của Anh chủ yếu là đồi thấp và đồng bằng, đặc biệt là tại miền trung và miền nam. Tuy nhiên, có các vùng cao tại miền bắc và tây nam. Thủ đô của Anh là Luân Đôn, thuộc khu vực đại đô thị lớn nhất tại Anh Quốc cũng như Liên minh châu Âu. Dân số Anh đạt trên 53 triệu người, chiếm 84% dân số Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Phần lớn dân cư tập trung tại quanh Luân Đôn, vùng Đông Nam, và các khu thành thị tại Midlands, Tây Bắc, Đông Bắc và Yorkshire, là những nơi phát triển thành các vùng công nghiệp lớn trong thế kỷ XIX. Nguồn gốc quốc hiệu. Tên gọi của Anh trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Bằng tiếng Trung, từ "England chia thành "En-g-land", phiên âm nó là 英格蘭 (pinyin: "Yīng gé lán", Hán-Việt: "Anh Cách Lan"), còn một cách khác là từ "English" bỏ "sh" thành "En-g-li" được phiên âm là 英吉利 (pinyin: "Yīng jí lì", Hán-Việt: "Anh Cát Lợi"). Gọi tắt cho cả hai đều là 英國 (pinyin: "Yīng guó", Hán-Việt: "Anh Quốc"). Hiện tại người Trung Quốc sử dụng "Anh Cách Lan" làm tên cho quốc gia này, còn "Anh Quốc" làm tên cho Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ai-len. Và người Việt đã bỏ chữ "Quốc" và "Cách Lan" Tên gọi "England" xuất xứ từ từ "Englaland" trong tiếng Anh cổ, có nghĩa "vùng đất của người Angle". Người Angle là một trong những bộ tộc German định cư tại Anh trong Thời đầu Trung Cổ. Người Angle tới từ bán đảo Angeln tại khu vực Vịnh Kiel thuộc Biển Baltic. Theo "Từ điển Oxford Anh", lần đầu tiên từ "England" được dùng để chỉ vùng phía nam hòn đảo Great Britain là năm 897, và cách đánh vần hiện đại của nó bắt đầu từ năm 1538. Sự đề cập sớm nhất tới cái tên được chứng nhận diễn ra ở thế kỷ thứ nhất trong tác phẩm của Tacitus, "Germania", trong đó từ tiếng Latin "Anglii" đã được sử dụng. Từ nguyên của chính cái tên bộ tộc bị các nhà học giả tranh cãi; đã có đề xuất rằng nó xuất phát từ hình dạng của bán đảo Angeln, một hình "có góc". Làm thế nào và tại sao thuật ngữ xuất xứ từ cái tên của một bộ tộc không nổi bật so với các bộ tộc khác, như người Sachsen, lại được sử dụng để chỉ toàn bộ quốc gia và người dân của nó vẫn chưa được biết, nhưng dường như nó liên quan tới phong tục gọi người German tại Anh là "Angli Saxones" hay Anh - Sachsen.. Một cái tên khác của nước Anh là Albion. Cái tên "Albion" ban đầu để chỉ toàn bộ hòn đảo Great Britain. Ghi chép đầu tiên về cái tên xuất hiện trong tác phẩm Corpus Aristotelicum của nhà triết học Aristotle của Hy Lạp cổ đại, một cách rõ ràng ở thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên "De Mundo": "Phía ngoài Các cột của Hercules là đại dương chảy quanh Trái Đất. Trong đó có hai hòn đảo rất lớn được gọi là Britannia; chúng là Albion và Ierne". Từ "Albion" (Ἀλβίων) hay "insula Albionum" có hai khả năng nguồn gốc.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Hoặc nó xuất phát từ từ tiếng Latin "albus" có nghĩa trắng, một sự đề cập tới các vách trắng Dover, là quang cảnh đầu tiên của Anh nhìn từ Lục địa châu Âu. Một nguồn gốc khá được cho là bởi cuốn sách cổ của thương gia "Massaliote Periplus", đề cập tới một "hòn đảo của người "Albiones"". "Albion" hiện được dùng thay cho Anh (England) theo một nghĩa thi vị hơn. Một cái tên lãng mạn khác của nước Anh là Loegria, liên quan tới "Lloegr" tiếng Wales, xuất xứ từ truyền thuyết trứ danh về vua Arthur. Lịch sử. Tiền sử và cổ đại. Bằng chứng sớm nhất được biết đến về việc loài người hiện diện tại khu vực nay là Anh thuộc về chủng "Homo antecessor", có niên đại khoảng 780.000 năm trước. Xương người nguyên thủy cổ nhất phát hiện được tại Anh có niên đại khoảng 500.000 năm trước. Người hiện đại được cho là cư trú tại khu vực vào giai đoạn đồ đá cũ muộn, song các khu định cư cố định chỉ hình thành trong vòng 6.000 năm qua. Sau kỷ băng hà cuối, chỉ còn lại các loài thú lớn như voi ma mút, bò rừng bison và tê giác lông mượt. Khoảng 11.000 năm trước, khi các phiến băng bắt đầu rút đi, con người lại cư trú trong khu vực; nghiên cứu di truyền gợi ý rằng họ đến từ phần phía bắc của bán đảo Iberia. Mực nước biển thấp hơn ngày nay và Anh nối liền với Ireland cùng lục địa Á-Âu. Đến khi mực nước biển dâng lên, Anh tách khỏi Ireland 10.000 năm trước và tách khỏi lục địa Á-Âu hai thiên niên kỷ sau đó. Văn hoá Beaker đến vào khoảng 2.500 TCN, mang đến các bình đựng đồ ăn và đồ uống làm từ đất sét, cũng như các bình được sử dụng để nấu chảy quặng đồng. Các công trình kỷ niệm đồ đá mới có quy mô lớn như Stonehenge và Avebury được xây dựng trong thời gian này. Thiếc và đồng là những khoáng sản phong phú trong khu vực, bằng cách nung chảy chúng với nhau cư dân thuộc văn hoá Beaker làm ra đồng điếu, và sau đó làm ra sắt từ quặng sắt. Luyện thép phát triển cho phép sản xuất ra cày tốt hơn, nông nghiệp tiến bộ, cũng như sản xuất vũ khí có tính hiệu quả hơn. Trong thời đại đồ sắt, văn hoá Celt đến Anh từ Trung Âu, văn hoá Celt lại bắt nguồn từ văn hoá Hallstatt và La Tène.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Tiếng Britton là ngôn ngữ nói trong giai đoạn này. Xã hội mang tính bộ lạc, theo "Geographia" của Ptolemy thì có khoảng 20 bộ lạc trong khu vực. Giống như các khu vực khác nằm bên rìa La Mã, đảo Anh tham gia liên kết mậu dịch với La Mã trong thời gian dài. Julius Caesar của La Mã hai lần nỗ lực xâm chiếm Anh vào năm 55 TCN nhưng thất bại, ông lập ra một quốc vương phụ thuộc từ bộ lạc Trinovantes. Người La Mã xâm chiếm đảo Anh vào năm 43, sau đó họ chinh phục phần lớn hòn đảo và khu vực được hợp nhất vào Đế quốc La Mã với vị thế tỉnh Britannia. Bộ lạc bản địa nổi tiếng nhất vì kháng cự La Mã là Catuvellauni dưới quyền Caratacus. Sau đó, có một cuộc khởi nghĩa dưới quyền Nữ vương Boudica của bộ lạc Iceni, song bà tự sát sau thất bại trong trận Watling Street. Trong thời kỳ này, văn hoá Hy Lạp-La Mã thịnh hành khi du nhập luật La Mã, kiến trúc La Mã, cống dẫn nước, rãnh thoát nước, nhiều mặt hàng nông nghiệp và lụa. Trong thế kỷ III, Hoàng đế Septimius Severus mất tại Eboracum (nay là York), đây cũng là nơi Constantinus xưng đế sau đó. Tồn tại tranh luận về việc Cơ Đốc giáo du nhập lần đầu; điều này không muộn hơn thế kỷ IV và có lẽ là sớm hơn nhiều. Theo Bede, Giáo hoàng Eleutherius phái những người truyền giáo từ Roma theo thỉnh cầu của tù trưởng Lucius của Anh vào năm 180, nhằm giải quyết các bất đồng như giữa nghi thức phương Đông và phương Tây. Tồn tại các liên kết truyền thống đến Glastonbury thể hiện Cơ Đốc giáo du nhập thông qua Joseph của Arimathea, trong khi những người khác cho rằng thông qua Lucius. Đến năm 410, trong giai đoạn La Mã suy thoái, quyền cai trị của La Mã kết thúc, các đơn vị quân đội La Mã triệt thoái khỏi đảo nhằm bảo vệ các biên giới tại châu Âu lục địa và tham gia nội chiến. Trung Cổ. Đảo Anh để ngỏ trước các cuộc xâm chiếm của người ngoại giáo, các chiến binh hàng hải đến từ miền tây-bắc của châu Âu lục địa, chủ yếu là người Saxon, Angle, Jute, và Frisia, họ tập kích các vùng bờ biển và bắt đầu định cư, ban đầu là tại phần phía đông.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Bước tiến của họ bị kiềm chế trong vài thập niên sau khi người Briton chiến thắng trong trận núi Badon, song sau đó lại tiếp tục và họ tràn qua các vùng đất thấp phì nhiêu trên đảo, thu hẹp khu vực do người Briton kiểm soát thành một nhóm các vùng đất tách rời riêng biệt, trên những vùng có địa hình gồ ghề tại phía tây vào cuối thế kỷ VI. Các văn bản đương đại mô tả về giai đoạn này cực kỳ hiếm, khiến nó bị mô tả là một Thời kỳ Tăm tối. Tính chất và mức độ tiến triển của quá trình người Anglo-Saxon định cư tại Anh do đó là đề tài có bất đồng lớn. Cơ Đốc giáo do La Mã chi phối nhìn chung là biến mất khỏi các lãnh thổ bị người Anglo-Saxon chinh phục, song được những người truyền giáo từ Roma đưa đến một lần nữa dưới quyền lãnh đạo của Augustine từ năm 597 trở đi. Trong giai đoạn định cư, khu vực do những người nhập cư German cai trị dường như bị phân mảnh thành nhiều lãnh thổ bộ lạc, song đến thế kỷ VII chúng tập hợp thành khoảng một chục vương quốc như Northumbria, Mercia, Wessex, East Anglia, Essex, Kent và Sussex. Trong các thế kỷ sau đó, quá trình thống nhất chính trị được tiếp tục. Trong thế kỷ VII, diễn ra một cuộc đấu tranh vì quyền bá chủ giữa Northumbria và Mercia, sang thế kỷ VIII thì Mercia chiếm ưu thế. Đầu thế kỷ IX, Wessex thay thế vị thế vương quốc quan trọng nhất của Mercia. Cũng trong thế kỷ IX, bộ lạc Dane cũng thuộc nhóm German leo thang tấn công với đỉnh điểm là chinh phục miền bắc và miền đông của Anh, lật đổ các vương quốc Northumbria, Mercia và East Anglia. Wessex dưới quyền Quốc vương Alfred là vương quốc duy nhất tại Anh còn tồn tại, và dưới thời những người kế vị của ông quốc gia này dần bành trướng sang các vương quốc nằm dưới luật của người Dane. Điều này dẫn đến thống nhất chính trị tại Anh, hoàn thành lần đầu tiên dưới thời Æthelstan vào năm 927 và được thiết lập dứt khoát sau các xung đột do Eadred tiến hành vào năm 953. Một làn sóng tấn công mới từ Scandinavia bắt đầu vào cuối thế kỷ X kết thúc khi Quốc vương Đan Mạch Sweyn Forkbeard chinh phục vương quốc thống nhất này vào năm 1013, con trai của ông là Cnut cũng đạt được thành tựu này vào năm 1016, biến Anh trở thành trung tâm của Đế quốc Biển Bắc đoản mệnh, bao gồm cả Đan Mạch và Na Uy.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Tuy nhiên, triều đại bản địa phục hồi khi Edward Xưng tội đăng cơ vào năm 1042. Tranh chấp về quyền kế vị Edward khiến người Norman chinh phục Anh vào năm 1066, đội quân này dưới quyền lãnh đạo của Công tước William xứ Normandy. Người Norman có nguồn gốc từ Scandinavia và định cư tại Normandy (nay thuộc miền bắc Pháp) vào cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ X. Cuộc chinh phục này khiến giới tinh hoa Anh gần như bị tước hoàn toàn quyền chiếm hữu, thay thế họ là một tầng lớp quý tộc mới nói tiếng Pháp, phát âm của họ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến tiếng Anh. Sau đó, Nhà Plantagenet từ Anjou kế thừa vương vị Anh dưới thời Henry II, đưa Anh vào Đế quốc Angevin đang chớm nở gồm cả các thái ấp của gia tộc được thừa kế tại Pháp như Aquitaine. Gia tộc này cai trị Anh trong ba thế kỷ, một số quân chủ được chú ý là Richard I, Edward I, Edward III và Henry V. Trong giai đoạn này diễn ra một số biến đổi về mậu dịch và tư pháp, như hiến chương "Magna Carta" được sử dụng để hạn chế quyền lực của quân chủ và bảo hộ các đặc quyền của người tự do. Đan sĩ Công giáo phát triển mạnh, giúp sản sinh các triết gia, các trường đại học Oxford và Cambridge được thành lập và được quân chủ bảo trợ. Thân vương quốc Wales trở thành một thái ấp của Nhà Plantagenet vào thế kỷ XIII và Lãnh địa Ireland được Giáo hoàng trao cho quân chủ của Anh. Trong thế kỷ XIV, Nhà Plantagenet và Nhà Valois đều yêu sách là bên kế thừa hợp pháp của Nhà Capet cùng với vương vị Pháp; hai thế lực này xung đột trong Chiến tranh Trăm Năm. Dịch bệnh Cái chết Đen bắt đầu tấn công Anh bắt đầu vào năm 1348, kết cục là một nửa cư dân Anh thiệt mạng. Từ năm 1453 đến năm 1487, nội chiến diễn ra giữa hai nhánh của vương tộc Plantagenet là nhánh York và nhánh Lancaster, cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Hoa Hồng. Kết cục là nhánh York mất hoàn toàn vương vị về tay một gia tộc quý tộc Wales là Tudor, đây là một dòng họ liên hệ với nhánh Lancaster và do Henry Tudor đứng đầu, lực lượng của ông gồm các lính đánh thuê Wales và Breton, họ giành thắng lợi trong trận Bosworth Field và trong trận này Quốc vương Richard III của nhánh York bị giết. Sơ kỳ cận đại.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Sơ kỳ cận đại. Trong giai đoạn Tudor, Phục Hưng lan đến Anh thông qua các triều thần người Ý, họ giới thiệu lại tranh luận nghệ thuật, giáo dục và học thuật từ thời cổ đại. Anh bắt đầu phát triển các kỹ năng hải quân, và việc thám hiểm phía tây được tăng cường. Henry VIII đoạn tuyệt hiệp thông với Giáo hội Công giáo do các vấn đề liên quan đến việc ông ly hôn, theo các đạo luật vào năm 1534 ông trở thành thủ lĩnh quân chủ của Giáo hội Anh. Khác với phần lớn châu Âu Tin Lành, nguồn gốc phân chia tôn giáo tại Anh mang tính chính trị nhiều hơn là thần học. Ông cũng hợp nhất về pháp lý lãnh thổ Wales của tổ tiên vào Vương quốc Anh theo các đạo luật năm 1535–1542. Diễn ra xung đột tôn giáo nội bộ trong thời kỳ trị vì của các con gái Henry là Mary I và Elizabeth I. Mary I đưa Anh quay trở lại Công giáo La Mã còn Elizabeth I lại khẳng định mạnh mẽ quyền tối cao của Anh giáo. Nhằm cạnh tranh với Tây Ban Nha, Anh có thuộc địa đầu tiên tại châu Mỹ vào năm 1585 khi nhà thám hiểm Walter Raleigh lập thuộc địa Roanoke tại vùng đất nay là bang Virginia của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuộc địa này là một thất bại. Công ty Đông Ấn Anh cạnh tranh với người Hà Lan và người Pháp tại phương Đông. Năm 1588, trong thời kỳ Elizabeth I, một hạm đội Anh dưới quyền Francis Drake đánh bại một hạm đội Tây Ban Nha đến xâm chiếm. Cấu trúc chính trị trên đảo Anh thay đổi vào năm 1603 khi Quốc vương Scotland James VI kế thừa vương vị Anh với hiệu là James I, lập ra một liên minh cá nhân giữa hai vương quốc từng kình địch trong thời gian dài về lợi ích. Do mâu thuẫn về lập trường chính trị, tôn giáo và xã hội, Nội chiến Anh bùng phát giữa những người ủng hộ Quốc hội và những người ủng hộ Quốc vương Charles I. Đây là một phần đan xen của Chiến tranh Ba Vương quốc với quy mô rộng hơn khi bao gồm cả Scotland và Ireland. Phái Quốc hội giành chiến thắng, Charles I bị hành quyết và vương quốc bị thay thế bằng thịnh vượng chung. Thủ lĩnh của phái Quốc hội là Oliver Cromwell tự xưng là Bảo Hộ Công vào năm 1653; một giai đoạn thống trị cá nhân diễn ra sau đó.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Sau khi Cromwell mất và con trai ông là Richard từ chức Bảo Hộ Công, Charles II được mời trở lại làm quân chủ vào năm 1660. Sau Cách mạng Vinh Quang năm 1688, Dự luật Quyền lợi 1689 xác định rằng Quốc vương và Quốc hội cùng cai trị, song thực quyền thuộc về Quốc hội. Theo các quy chế được đưa ra, pháp luật chỉ có thể do Quốc hội lập ra và Quốc vương không thể đình chỉ, Quốc vương cũng không thể áp thuế hoặc tổ chức một đội quân nếu không được Quốc hội phê chuẩn trước. Năm 1666, Luân Đôn xảy ra hoả hoạn lớn, thành phố bị tàn phá song được tái thiết một thời gian ngắn sau đó gồm nhiều toà nhà quan trọng do Christopher Wren thiết kế. Trong Quốc hội Anh, hai phái Tory và Whig xuất hiện. Phái Tory ban đầu ủng hộ Quốc vương James II theo Công giáo, song trong cách mạng năm 1688 một số người trong phái Tory cùng với phái Whig mời một thân vương người Hà Lan là William xứ Orange sang đánh bại James II và cuối cùng trở thành William III của Anh. Một số người Anh theo phong trào Jacobite và tiếp tục ủng hộ James II và các con trai của ông, đặc biệt là tại miền bắc. Sau khi các quốc hội của Anh và Scotland đồng thuận, hai quốc gia tham gia liên hiệp chính trị, lập ra Vương quốc Anh mới vào năm 1707. Nhằm dàn xếp liên hiệp, các thể chế như luật pháp và giáo hội quốc gia của hai bên vẫn tách biệt. Hậu kỳ cận đại và đương đại. Vương quốc Anh liên hiệp được thành lập, sản phẩm của Hội Hoàng gia và các sáng kiến khác của Anh kết hợp với Khai sáng Scotland để tạo nên các phát kiến trong khoa học và kỹ thuật. Anh phát triển cực lớn về mậu dịch hải ngoại với bảo hộ từ Hải quân Hoàng gia, mở đường để hình thành Đế quốc Anh. Trong nước, nó thúc đẩy cách mạng công nghiệp, là một giai đoạn biến đổi sâu sắc về kinh tế-xã hội và văn hoá tại Anh, kết quả là công nghiệp hoá nông nghiệp, sản xuất, kỹ thuật và khai mỏ, cũng như các hệ thống đường bộ, đường sắt và đường thủy mới và tiên phong nhằm thuận tiện để mở rộng phát triển. Kênh Bridgewater thuộc Tây Bắc Anh được khánh thành vào năm 1761, báo hiệu kỷ nguyên kênh đào tại Anh.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Năm 1825, tuyến đường sắt hành khách dùng đầu máy kéo hơi nước cố định đầu tiên trên thế giới được mở cửa cho công chúng, đó là đường sắt Stockton và Darlington. Trong cách mạng công nghiệp, nhiều người lao động chuyển từ nông thôn đến các khu vực công nghiệp đô thị mới để làm việc trong các nhà máy, chẳng hạn như Manchester và Birmingham, hai thành phố này từng lần lượt được gán là "thành phố kho hàng" và "công xưởng của thế giới". Anh vẫn tương đối ổn định trong suốt Cách mạng Pháp; William Pitt Trẻ là thủ tướng của Anh trong giai đoạn trị vì của George III. Trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, Napoléon lập kế hoạch xâm chiếm Anh từ phía đông nam, Tuy nhiên, kế hoạch thất bại khi quân của Napoleón bị người Anh đánh bại trên biển dưới quyền Horatio Nelson và trên bộ dưới quyền Arthur Wellesley. Các cuộc chiến Napoléon khích lệ khái niệm về tính Anh Quốc và dân tộc Anh Quốc thống nhất, chia sẻ với người Scots và người Wales. Luân Đôn trở thành khu vực đô thị lớn nhất và đông dân nhất thế giới trong thời kỳ Victoria, và mậu dịch trong Đế quốc Anh cũng như địa vị của quân đội và hải quân Anh có được thanh thế. Kích động chính trị từ các phần tử cấp tiến như phong trào Hiến chương và phong trào phụ nữ yêu cầu quyền bầu cử thúc đẩy các cải cách tư pháp và phổ thông đầu phiếu. Biến đổi quyền lực tại Đông-Trung Âu dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất; hàng trăm nghìn binh sĩ Anh thiệt mạng khi giao tranh bên phe Đồng Minh. Hai thập niên sau, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland lại ở bên phe Đồng Minh. Đến khi kết thúc Chiến tranh kỳ quặc, Winston Churchill trở thành thủ tướng thời chiến. Phát triển về công nghệ chiến tranh khiến nhiều thành thị bị tàn phá do Không quân Đức oanh tạc. Sau chiến tranh, Đế quốc Anh trải qua phi thực dân hoá nhanh chóng, đồng thời có các phát kiến nhanh chóng về kỹ thuật; ô tô trở thành phương tiện giao thông chủ yếu và phát triển của Frank Whittle về động cơ phản lực khiến di chuyển bằng hàng không phổ biến hơn. Mô hình cư trú thay đổi tại Anh do ô tô cá nhân, thiết lập Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) vào năm 1948.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
NHS của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cung cấp chăm sóc y tế công cộng miễn phí cho toàn bộ cư dân thường trú tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tại điểm cần thiết, kinh phí lấy từ thuế nói chung. Tổng hợp, các thay đổi này thúc đẩy cải cách về chính quyền địa phương tại Anh vào giữa thế kỷ XX. Từ thế kỷ XX, có phong trào di dân đáng kể đến Anh, hầu hết là từ các phần còn lại của quần đảo Anh, song cũng từ các quốc gia trong Thịnh vượng chung mà đặc biệt là tiểu lục địa Ấn Độ. Kể từ thập niên 1970, có một bước chuyển đổi lớn khỏi lĩnh vực chế tạo và gia tăng tầm quan trọng vào ngành dịch vụ. Với tư cách là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, khu vực gia nhập sáng kiến thị trường chung mang tên Cộng đồng Kinh tế châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu. Kể từ cuối thế kỷ XX, chính quyền Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chuyển hướng sang phân quyền quản trị tại Scotland, Wales và Bắc Ireland. Anh và Wales tiếp tục là một khu vực quyền hạn pháp lý tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Phân quyền kích thích việc nhấn mạnh nhiều vào bản sắc và chủ nghĩa ái quốc đặc trưng Anh hơn. Không có chính phủ Anh được phân quyền, song một nỗ lực nhằm lập ra một hệ thống tương tự trên cơ sở phân vùng bị cử tri bác bỏ thông qua trưng cầu dân ý. Chính trị. Với vị thế là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, hệ thống chính trị cơ bản tại Anh là quân chủ lập hiến và hệ thống nghị viện. Không tồn tại chính phủ riêng cho Anh kể từ năm 1707, khi Anh và Scotland liên hiệp thành Vương quốc Anh mới. Trước khi liên hiệp, Anh do quân chủ và quốc hội cai trị. Hiện nay, Anh nằm dưới quyền cai quản trực tiếp từ Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, dù cho các quốc gia khác trong Vương quốc liên hiệp có các chính phủ được phân quyền. Trong Hạ nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, trong tổng số 650 nghị viên có 532 nghị viên đại diện cho các khu vực bầu cử tại Anh.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Trong tổng tuyển cử năm 2017, Đảng Bảo thủ giành được nhiều ghế nhất.. Do Scotland, Wales và Bắc Ireland đều có cơ quan lập pháp riêng biệt và được phân quyền đối với các vấn đề địa phương, tồn tại tranh luận về cách thức cân bằng điều này tại Anh. Ban đầu có kế hoạch là các vùng của Anh sẽ được phân quyền, song sau khi cử tri Đông Bắc bác bỏ đề xuất này trong một cuộc trưng cầu dân ý, nó không được tiến hành. Một vấn đề lớn đó là câu hỏi West Lothian, theo đó các nghị viên từ Scotland và Wales có thể bỏ phiếu về pháp luật chỉ áp dụng cho Anh, trong khi các nghị viên từ Anh không có quyền tương đương đối với pháp luật về các vấn đề được phân quyền. Với bối cảnh Anh là quốc gia duy nhất trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland không miễn phí về điều trị ung thư, đơn thuốc, chăm sóc tại nhà cho người già và học phí đại học, khiến cho chủ nghĩa dân tộc Anh dần tăng lên. Hệ thống pháp luật Anh phát triển trong nhiều thế kỷ, là cơ sở của hệ thống tư pháp thông luật tồn tại trong hầu hết các quốc gia Thịnh vượng chung và Hoa Kỳ (trừ bang Louisiana). Mặc dù hiện là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, hệ thống tư pháp của Các toà án Anh và Wales vẫn tiếp tục với tư cách là hệ thống tư pháp độc lập với hệ thống tại Scotland. Bản chất tổng thể của luật Anh là nó hình thành bởi các thẩm phán trong các toà án, áp dụng cảm giác chung và kiến thức của họ về tiền lệ tư pháp đối với các sự việc. Đứng đầu hệ thống toà án là Các toà cấp cao của Anh và Wales, gồm có toà án phúc thẩm, toà án tư pháp cấp cao đối với các vụ án dân sự, và toà án hoàng gia đối với các vụ án hình sự. Toà án Tối cao Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là toà án cao nhất đối với các vụ án hình sự và dân sự tại Anh và Wales. Toà án này hình thành vào năm 2009 sau sửa đổi hiến pháp, tiếp quản các chức năng tư pháp của Thượng nghị viện. Hành chính. Phân vùng tại Anh gồm có bốn cấp, được kiểm soát thông qua nhiều kiểu thực thể hành chính, lập nên vì mục đích cai quản địa phương. Cấp chính quyền địa phương cao nhất là chín vùng của Anh: North East, North West, Yorkshire và Humber, East Midlands, West Midlands, East, South East, South West, và London.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Chúng được lập ra vào năm 1994, được chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland sử dụng để phân bổ một loạt các chính sách và chương trình địa phương, song không có các thể chế dân cử tại cấp này, ngoại trừ tại Luân Đôn, và các văn phòng chính quyền khu vực bị bãi bỏ vào năm 2011. Ranh giới các vùng vẫn được sử dụng để bầu các thành viên nghị viện châu Âu. Sau khi các quốc gia khác tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được phân quyền, có kế hoạch tổ chức trưng cầu dân ý tại các vùng của Anh về các cơ quan lập pháp địa phương được phân quyền. Cử tri Luân Đôn chấp thuận vào năm 1998: Hội đồng Luân Đôn được hình thành hai năm sau. Tuy nhiên, các cuộc trưng cầu dân ý khác bị đình chỉ sau khi cử tri North East bác bỏ đề xuất phân quyền vào năm 2004. Các hội đồng khu vực ngoài Luân Đôn bị bãi bỏ vào năm 2010, và chức năng của chúng được chuyển giao cho các cơ quan phát triển khu vực tương ứng và một hệ thống mới gồm các ban lãnh đạo chính quyền địa phương. Dưới cấp vùng, Anh được chia thành 48 hạt nghi lễ. Chúng chủ yếu được sử dụng làm khung tham chiếu địa lý và dần được phát triển từ thời Trung Cổ, có một số hình thành vào năm 1974. Mỗi hạt nghi lễ có một Lord Lieutenant (thống giám) và High Sheriff (hạt trưởng); các chức vụ này đại diện cho quân chủ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tại địa phương. Ngoại trừ Đại Luân Đôn và quần đảo Scilly, Anh còn được chia thành 83 hạt đô thị và phi đô thị; chúng tương ứng với các khu vực được sử dụng cho mục đích chính quyền địa phương. Anh có sáu hạt đô thị tại các khu vực đô thị hoá cao nhất, chúng không có hội đồng hạt. Trong các khu vực này, nhà cầm quyền chủ yếu là các hội đồng khu phố. 27 hạt phi đô thị có hội đồng hạt, và được chia thành các huyện, mỗi huyện có một hội đồng huyện. Chúng thường nằm tại các khu vực có tính nông thôn cao hơn. Các hạt phi đô thị còn lại gồm một huyện duy nhất và thường tương ứng với các thị trấn lớn hoặc hạt thưa dân; chúng được gọi là nhà cầm quyền nhất thể.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Đại Luân Đôn có mô hình chính quyền địa phương khác biệt, gồm 32 khu phố và Thành phố Luân Đôn Ở cấp thấp nhất, phần lớn Anh được chia thành các giáo khu dân sự có các hội đồng. Địa lý. Về mặt địa lý, Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh, chiếm hai phần ba diện tích của đảo, ngoài ra còn có các đảo ven bờ như đảo Wight và quần đảo Scilly. Anh có biên giới với hai quốc gia khác trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland: phía bắc giáp Scotland và phía tây giáp Wales. Anh là nơi gần lục địa châu Âu nhất tại đại lục Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Anh cách biệt Pháp qua eo biển Manche rộng 34 km, song hai quốc gia được liên kết thông qua đường hầm xuyên eo biển gần Folkestone. Anh cũng có đường bờ biển ven biển Ireland, biển Bắc và Đại Tây Dương. Các cảng Luân Đôn, Liverpool, và Newcastle lần lượt nằm trên các sông chịu ảnh hưởng của thủy triều là Thames, Mersey và Tyne. Severn là sông dài nhất chảy qua Anh, có tổng chiều dài là 350 km. Sông này chảy vào eo biển Bristol và được chú ý do nước triều có thể cao đến 2m. Tuy vậy, sông dài nhất chảy hoàn toàn trên lãnh thổ Anh là Thames với 346 km. Anh có nhiều hồ, lớn nhất trong số đó là Windermere thuộc khu Lake District. Dãy Pennines được mệnh danh là "xương sống của Anh", đây là dãy núi cổ nhất tại Anh và có nguồn gốc vào cuối thời Đại Cổ sinh cách nay khoảng 300 triệu năm trước. Cấu tạo địa chất của dãy này gồm có sa thạch, đá vôi, cũng như than đá và các loại khác. Tồn tại cảnh quan karst trong các khu vực canxit như một số nơi tại Yorkshire và Derbyshire. Cảnh quan Pennine là đất hoang vùng cao, bị chia cắt do các thung lũng phì nhiêu hình thành từ các sông trong vùng. Dãy núi có ba công viên quốc gia là Yorkshire Dales, Northumberland, và Peak District. Điểm cao nhất tại Anh là Scafell Pike cao 978 m tại Cumbria. Vùng đồi Cheviot trải dài trên biên giới Anh-Scotland. Các vùng đất thấp của Anh nằm về phía nam dãy Pennines, có các khu đồi gợn sóng xanh tươi như Cotswold, Chiltern, North Downs và South Downs, tại nơi gặp biển chúng hình thành các vách đá trắng như vách Dover. Bán đảo Tây Nam mang tính granit có các đồng hoang vùng cao như Dartmoor và Exmoor, và có khí hậu ôn hoà, chúng đều là các công viên quốc gia. Khí hậu.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Khí hậu. Anh có khí hậu đại dương ôn hoà, nhiệt độ không thấp hơn nhiều mức 0 °C vào mùa đông và không cao hơn nhiều mức 32 °C vào mùa hè. Thời tiết ẩm thấp tương đối thường xuyên và dễ thay đổi. Các tháng lạnh nhất là tháng 1 và 2, riêng vùng ven biển là tháng 2, còn tháng 7 thường là tháng ấm nhất. Các tháng có thời tiết êm dịu cho đến ấm là tháng 5-6 và 9-10. Các ảnh hưởng quan trọng đối với khí hậu Anh là việc quốc gia này nằm gần Đại Tây Dương, có vĩ độ cao và hơi ấm từ biển theo hải lưu Gulf Stream. Lượng mưa cao hơn tại miền tây, và nhiều nơi thuộc Lake District có lượng mưa lớn hơn các nơi khác trong nước. Từ khi thời tiết được quan trắc, nhiệt độ cao nhất theo báo cáo là 38,5 °C vào ngày 10 tháng 8 năm 2003 tại Brogdale thuộc Kent, trong khi nhiệt độ thấp nhất là -26,1 °C vào ngày 10 tháng 1 năm 1982 tại Edgmond, Shropshire. Các khu thành thị chính. Khu vực đô thị Đại Luân Đôn là khu vực đô thị lớn nhất tại Anh và là một trong các thành phố nhộn nhịp nhất thế giới. Luân Đôn là một thành phố toàn cầu và có dân số lớn hơn các quốc gia khác trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ngoài Anh. Các khu vực đô thị khác có quy mô và ảnh hưởng đáng kể có xu hướng nằm tại miền bắc hay miền trung của Anh. 50 khu dân cư được cấp vị thế thành phố tại Anh, còn trên toàn Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là 66. Nhiều thành phố tại Anh khá lớn, chẳng hạn như Birmingham, Sheffield, Manchester, Liverpool, Leeds, Newcastle, Bradford, Nottingham, song quy mô dân số không phải là điều kiện tiên quyết cho vị thế thành phố. Theo truyền thống, vị thế thành phố được trao cho các đô thị có nhà thờ chính toà của giáo phận, do đó tồn tại các thành phố nhỏ như Wells, Ely, Ripon, Truro và Chichester. Theo Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh, 10 khu vực đô thị lớn nhất, phát triển liền kề là: Kinh tế. Kinh tế Anh nằm vào hàng lớn nhất thế giới, có GDP bình quân là 22.907 bảng Anh vào năm 2009. Anh thường được nhìn nhận là một nền kinh tế thị trường hỗn hợp, áp dụng nhiều nguyên tắc thị trường tự do, song duy trì hạ tầng phúc lợi xã hội tiến bộ.
Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=853
Thuế tại Anh khá cạnh tranh nếu so với phần lớn các quốc gia châu Âu khác, năm 2014 mức thuế cá nhân cơ bản là 20%. Kinh tế Anh lớn nhất trong kinh tế Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Anh đứng đầu thế giới về các lĩnh vực hoá học và dược khoa cũng như trong các ngành công nghệ chủ chốt, đặc biệt là hàng không vũ trụ, công nghiệp vũ khí và chế tạo công nghiệp phần mềm. Sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn là sàn giao dịch chứng khoán chủ yếu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và lớn nhất tại châu Âu, đây là trung tâm tài chính của Anh và 100/500 công ty lớn nhất châu Âu có trụ sở tại Luân Đôn. Luân Đôn là trung tâm tài chính lớn nhất tại châu Âu, và là trung tâm tài chính lớn thứ nhất thế giới theo chỉ số GFCI vào năm 2016. Ngân hàng Anh được thành lập vào năm 1694, là ngân hàng trung ương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Ban đầu nó là một ngân hàng tư nhân phục vụ chính phủ Anh, song từ năm 1946 nó là một thể chế quốc hữu. Ngân hàng được độc quyền phát hành tiền tệ tại Anh và Wales, song không có quyền này tại Scotland hay Bắc Ireland. Chính phủ giao trách nhiệm cho Ủy ban Chính sách Tiền tệ của ngân hàng về quản lý chính sách tiền tệ của quốc gia và thiết lập mức lãi suất. Anh là một quốc gia công nghiệp hoá cao độ, song kể từ thập niên 1970 diễn ra suy thoái trong các ngành công nghiệp nặng và chế tạo truyền thống, gia tăng tập trung vào kinh tế định hướng dịch vụ. Du lịch trở thành một ngành công nghiệp quan trọng, thu hút hàng triệu du khách đến Anh mỗi năm. Xuất khẩu của Anh chủ yếu là dược phẩm, ô tô, dầu khai thác từ biển Bắc và Wytch Farm, động cơ máy bay và đồ uống có cồn. Hầu hết ngành công nghiệp hàng không vũ trụ trị giá 30 tỷ bảng của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland nằm tại Anh. Cơ hội thị trường toàn cầu của các nhà chế tạo hàng không vũ trụ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong hai thập niên tới ước tính đạt 3,5 nghìn tỷ bảng. Nông nghiệp Anh thâm canh và được cơ giới hoá cao độ, sản xuất 60% nhu cầu thực phẩm với chỉ 2% lực lượng lao động. Hai phần ba sản lượng thuộc lĩnh vực chăn nuôi, còn lại thuộc về trồng trọt. Giao thông.