text
stringlengths
1
377k
THƯ KIẾM ÂN CỪU LỤC KimDung www.dtv-ebook.com Chương 1 Phù Dung Châm Năng Giáo Lý Mộng Ngọc - Bạch Long Kiếm Hạ Sát Tiêu Văn Kỳ Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liên mong tiến bệ rồng, Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao... Mấy câu thơ này mở đầu cuốn “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm làm nổi bật lên cái chí khí của khách nam nhi coi thường cái chết nơi chốn sa trường để trả nợ núi sông. Thanh gươm yên ngựa là phận sự của “đấng mày râu” đáp lời sông núi... Một cụ già đã 60, tinh thần quắc thước, khí vũ hiên ngang ngồi trên lưng ngựa cảm khái ngâm nga. Tiếng cụ vang dội lên sang sảng, không ai ngờ đó là thanh âm của một cụ già râu tóc bạc phơ giữa một buổi chiều tà bóng xế. Mải nhìn xem bốn phía, cụ bỗng giựt mình sực nhớ ra bóng chiều đã phủ trên ngọn cỏ, tàn cây. Con đường ra quan ải còn xa biền biệt. Ngoại trừ đại đội quân mã và gia nhân quyến thuộc của cụ ra, lâu lâu mới thấy có vài ba bầy quạ lạnh lùng kéo đàn bay về ổ cũ kêu lên những tiếng thê lương. Lắng tai không còn nghe tiếng vó ngựa nhịp nhàng vang trên đường gồ ghề khúc khuỷu, cụ già vội vã giơ roi quất nhẹ vào hông con chiến mã. Con vật sãi bốn vó đều đặn như bay rút lẹ khoảng đường trước mặt để bắt theo cho kịp mé trước tách xa rời. Cụ già bận lo nghĩ việc nước rối beng đến nỗi quên nhớ rằng mình tuổi hạt đã cao, sức lực đã kém. Bóng chiều đã dần đưa con đường tranh đấu củ cụ đến lúc gối mỏi, chân chồn... Nên cụ rơi bị lại đàng sau một mình mà không hay biết.
Lúc ấy, bên Trung Hoa thuộc nhà Thanh, vào đời vua Càn Long thứ 23. Bên Việt Nam nhằm triều Tây Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ. Trời vào giữa tiết thu lạnh lẽo. Cụ già vừa kể trên chính là Lý Khả Tú vừa được phong chức An Biên tướng quân. Lý tướng quân mang trong mình hai giòng máu, cha Trung Hoa, mẹ Việt Nam, nên khác hẳn với các danh nhân thời ấy. Ông có hai tổ quốc phải phụng thờ. Phong tục của người Trung Hoa chỉ xem trọng bên nội mà khinh bên ngoại. Nhưng Lý Khả Tú không nghĩ vậy. Ông cho rằng bổn phận làm người phải xem trọng cả hai bên nội, ngoại như nhau. Vả lại, Lý tướng quân có ở Việt Nam mấy năm nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng Việt Nam được vài phần. Ông thích văn chương Việt Nam nên những áng văn chương tuyệt tác của Việt Nam đều thuộc lòng. Nhờ công lao giữ vững được biên cương lại hòa hiếu được với vua Quang Trung ở Việt Nam nên Lý Khả Tú được Thanh đế Càn Long phong cho hầu tước, đổi ra trấn nhiệm tỉnh Triết Giang. Lý Khả Tú không xa lạ gì với việc xông pha trận mạc. Sau lần đánh dẹp được bộ lạc Hồi nổi dậy, ông ta vang danh, dội như cồn. Khi được lệnh đổi đi Triết Giang, Lý Khả Tú cho gia quyến đi sau, có quân, có tướng đi “tiền hô hậu ủng”, còn ông ta thì chọn một toán quân khinh kỵ đi trưóc. Công danh lừng lẫy. Tiền bạc đầy kho... Châu báu ngọc ngà tích trữ không biết bao nhiêu mà kể! Chỉ hiềm một nỗi là Lý Khả Tú hiếm hoi, không có con trai mà chỉ sinh được một mụn con gái duy nhất. Ông đặt cho nàng một cái tên rất đẹp là Lý Mộng Ngọc. Nàng sinh ở Cương Tây. Lúc ấy, cha nàng chỉ mới làm Phó tướng quân. Mẹ nàng nằm chiêm bao thấy nuốt vào bụng một viên ngọc, cho là điềm tốt nên mới lấy đó để đặt tên cho con gái. Lý Khả Tú hết lòng thương yêu, nâng niu, quý con gái mình có thể nói là hơn tất cả các thứ trân châu bảo ngọc trên trần gian này.
Lý Mộng Ngọc năm ấy vừa được mười chín cái xuân xanh. Nàng xinh đẹp chẳng khác gì một Tố Nữ trong tranh, duyên dáng như một đóa hoa Tường Vi mới nở, có phong độ “gần tiên khác tục”. Là con một võ tướng nhưng trông nàng chẳng chút nào gọi là võ biền cả. Thấy con gái càng lớn càng xinh đẹp. Lý Khả Tú lại càng cưng chiều, thậm chí chẳng bao giờ la rầy quở trách điều gì bao giờ, luôn luôn chiều theo ý muốn của nàng. Nói về dung mạo, Lý Mộng Ngọc giống mẹ như khuôn đúc, nhưng nói về tính tình thì lại giống cha như rập in. Bất cứ lúc nào cha nàng ra giáo trường cỡi ngựa bắn cung, thao luyện võ nghệ là luôn luôn có nàng theo sát một bên. Thấy con ưa thích cõ nghệ, đôi khi Lý Khả Tú cũng cao hứng chỉ dạy cho ít đường đao, mấy ngón thương gia truyền, đồng thời còn bảo các tùy tướng dưới trước ông ta chỉ dạy cho nàng bất cứ ngón nào nàng thích học hay muốn học. Được chủ soái “ban” cho hân hạnh đó, các bộ tướng và đám tùy tùng dĩ nhiên ai lại chẳng không hết lòng? Ai nấy đều đem hết tuyệt kỹ của mình ra tận tình chỉ bảo con gái chủ tướng mình. Nhờ vậy, đến năm 13 tuổi, Lý Mộng Ngọc đã tinh thông võ nghệ. Một thân gái nàng địch nổi cả chục người trai tráng là chuyện thường, không có gì cho ai phải ngạc nhiên cả. Tại võ trường, Lý Khả Tú đã chứng kiến không biết bao nhiêu lần con gái mình khi tỉ thí đánh rớt kiếm, đao, thương của các thuộc tướng. Mỗi lần thế, ông ta chỉ làm bộ rầy la các tướng kém cỏi, nhưng trong thâm tâm lại hết sức vui mừng là họ đã tận tâm tận lực chỉ dạy cho con gái mình đến nơi đến chốn để đến nỗi chính bản thân họ phải bại dưới tay một thiếu nữ bé nhỏ, con của chủ tướng mình. Lý Khả Tú thường rất lấy làm đắc ý, nhưng lại nghĩ thầm rằng: - “Có một đứa con gái tài giỏi như thế này thật là phúc đức ông bà để lại. Chỉ tiếc là nó không phải con trai!”
Bắt đầu năm Lý Mộng Ngọc được 14 tuổi, bỗng nhiên không ai còn thấy Lý Mộng Ngọc thức dậy sớm ra võ trường luyện tập như thường khi nữa. Lý Khả Tú cho là con gái đã lớn rồi nên chẳng còn muốn nàng trà trộn trong hàng tướng sĩ của mình nữa. Nhưng Lý Mộng Ngọc cũng không lấy thế làm buồn. Trong mấy năm khổ luyện, Lý Mộng Ngọc đã có được công phu thượng thừa. Sư phụ của nàng là Lục Phỉ Thanh, một bậc tiền bối trong phái Võ Đang, tài nghệ nhất nhì trong chốn võ lâm. Sở dĩ Lý Mộng Ngọc được Lục Phỉ Thanh nhận làm đệ tử và truyền cho những môn võ tuyệt kỹ là do một sự tình cờ rất lạ lùng... Năm Càn Long thứ 18, Lý Khả Tú có rước được một vị đồ nho với mục đích dạy con gái mình ít chữ nghĩa vì từ nhỏ cô nàng chỉ ham côn quyền mà chẳng chút màng gì đến bút nghiên. Vị đồ nho này tài cao học rộng, tên là Lục Phỉ Thanh. Ngày thường, Lục Phỉ Thanh và Lý Mộng Ngọc “sư đệ tương kính”, thầy trò rất tương đắc, quý mến thương yêu nhau lắm.
Một hôm vào mùa hè nóng bức oi ả, Lý Mộng Ngọc đang ngủ trưa bỗng giật mình tỉnh giấc liền qua thư phòng Lục Phỉ Thanh để nghe giảng, học ít kinh điển. Nàng lắng tai nghe thì thấy bên trong rất im lìm, không có lấy một tiếng động nhỏ. Sợ thầy còn đang ngủ trưa nên Lý Mộng Ngọc không dám vào thẳng thư phòng, e có điều bất tiện. Nàng đến gần cửa sổ, lấy cây trâm bằng vàng trên đầu chọc thủng một lỗ nhìn vào. Chẳng ngờ sau khi nhìn rõ được bên trong, nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vô cùng. Lục Phỉ Thanh ngồi thiền trên ghế, miệng mỉm cười, tay đưa lên giữa thinh không khẽ búng một cái. Trên tấm bảng treo sát vào tường có tiếng “vo ve” nho nhỏ từ đâu đưa lại. Lý Mộng Ngọc cứ theo tiếng kêu đó mà trố mắt chăm chỉ nhìn thật kỹ thì thấy trên tấm bảng đối diện với cái ghế của Lục lão sư đương ngồi có mấy chục con ruồi sắp hàng chỉnh tề. Nàng rất lấy làm lạ vì mấy chục con ruồi ấy một khi bay đậu vào tấm bảng ấy thì như bị dính liền vào đó, không động đậy gì được cả. Kỳ lạ hơn nữa là chúng như xếp hàng ngay ngắn giống như lúc nàng trông thấy quân sĩ bày trận thế hay duyệt binh tại võ trường. Mà hình như trên lưng mỗi con ruồi đều có găm một cọng kim châm nhỏ như sợi tóc vậy. Loại kim châm nhỏ bé này nếu đứng xa hơn một chút ắt không thể nào trông thấy được. Chỉ vì lúc ấy vào giờ Mùi giữa trưa, nhờ ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ rọi ngay vào tấm bảng ấy nên những kim châm mới lấp lóe phản chiếu lại, và nhờ vậy cho nên Lý Mộng Ngọc mới nhìn thấy được. Bầy ruồi vẫn cất tiếng “o o” trên bảng. Lại thấy Lục Phỉ Thanh búng tay thêm một cái, một con ruồi khác đang bay lập tức dính liền vào bảng, nhập bọn và chịu chung số phận như những con kia. Tánh trẻ con của Lý Mộng Ngọc bừng dậy mãnh liệt. Nàng cho “trò chơi” này thích thú cô cùng. Không còn nhẫn nại đứng rình lén bên song cửa sổ nữa, Lý Mộng Ngọc xô mạnh cánh cửa, bước vào trong nói lớn: - Lục lão sư! Thầy hãy dạy cho con phép đó nhé!
- Lục lão sư! Thầy hãy dạy cho con phép đó nhé! Lục Phỉ Thanh ẩn tánh mai danh ở Hiệp Tây mấy năm nay không muốn ai phát giác hành tung bí mật của mình. Chỉ vì bầy ruồi ác ôn quá đông tác quái trong thư phòng làm cho ông không sao nghỉ trưa được nên bất đắc dĩ phải dùng ngón “Phù Dung kim châm tuyệt kỹ” để trừ hết đám ruồi. Tưởng công việc ấy “thần không hay quỷ không biết”, cho rằng hôm sau ông sẽ được an nhàn trong giấc trưa mà không bị một con ruồi nào quấy rầy nữa. Ngờ đâu đứa nữ đệ tử ranh mãnh của ông ta vô tình đến rình ngoài cửa thành thử bí mật bị lộ ra. Tuy vậy, Lục Phỉ Thanh vẫn giữ nét mặt tự nhiên, nói lảng sang chuyện khác. - Con đã thức dậy rồi đó à? Bữa nay thầy sẽ giảng cho con nghe chuyện Tín Lăng Quân trong Sử Ký Tư mã Thiên. Lý Mộng Ngọc nũng nịu thưa: - Không! Thầy dạy trò chơi đó cho con trước đi rồi hãy dạy sách vở sau. Con thích cái trò chơi ấy lắm. Lục Phỉ Thanh giả ngơ ngẩn nói: - Nào có trò chơi gì đâu! Lý Mộng Ngọc mới nói: - Cái phép bắt ruồi của thầy ấy mà. Nàng vừa nói vừa xách một cái ghế đẩu đem lại đặt sát chỗ vách có tấm bảng rồi tung mình nhảy lên đứng trên đó xem xét hết sức tỉ mỉ. Sau đó, nàng lấy tay rút từng cọng kim châm trên lưng mỗi con ruồi đem xuống, dùng giấy trắng lau sạch sẽ hết mấy cọng kim châm đó kỹ lưỡng rồi mới trả lại cho Lục Phỉ Thanh. Nàng làm thế cũng giống như trưng bằng cớ rõ rệt để sư phụ không còn chối cãi được nữa, tất phải dạy cho nàng thôi. Tuổi của Lý Mộng Ngọc thì chắc chắn chưa phải là lớn. Nhưng nàng cũng không phải là nhỏ. Dù học được võ nghệ cao siêu, văn
chương uyên bác, nhưng vẫn giữ được tính trẻ con hồn nhiên. Hễ thấy có gì vui, hay hay thì trước sau phải muốn học cho kỳ được. Trước sự “vòi vĩnh” của Mộng Ngọc, Lục Phỉ Thanh cảm thấy bằng lòng thì không được mà từ chối thì không xong nên chỉ còn im lặng làm thinh ra chiều đắn đo suy nghĩ. Lục Phỉ Thanh là người cơ mưu. Xưa nay dù gặp việc khó khăn thế nào cũng giải quyết được hết. Suốt 15 năm trời, cuộc đời của ông ta trải qua không biết bao nhiêu là sóng to gió lớn nhưng ông đều vượt qua được hết. Thế mà hôm nay, đứng trước lời yêu cầu tầm thường của đứa học trò mến yêu ranh mãnh, ông ta lại đành chịu bó tay! Trầm ngâm giây lát, Lục Phỉ Thanh bảo: - Con muốn học phép ấy lắm sao? Tốt, sáng sớm ngày mai thầy sẽ dạy cho. Con cứ ra ngoài chơi để thầy nghỉ mệt một lát vì thầy thấy trong mình khó thở. Có điều là thầy phải dặn trước với con là không được đem chuyện thầy bắt ruồi ra nói với bất cứ một ai. Nếu có thêm một người nữa biết thì thầy không dạy đâu đó nghe! Lý Mộng Ngọc vui mừng hớn hở nên hứa với Lục Phỉ Thanh ngay, không do dự. Nguyên Lục Phỉ Thanh vốn là một tay đại hiệp của phái Võ Đang. Buổi tráng niên, ông thường đi làm việc nghĩa hiệp khắp mấy tỉnh tại vùng Giang Nam và Giang Bắc, tên tuổi lừng lẫy trong giới giang hồ. Trước đây, Lục Phỉ Thanh là một nhân vật trung kiên cự phách của đảng Đồ Long, một tổ chức bí mật chống đối lại triều đình Mãn Thanh. Vào thời vua Ung Chính, thanh thế của đảng Đồ Long rất lớn mạnh, triều đình tưởng là không thể nào diệt trừ nổi. Sau thời Ung Chính đến thời Càn Long. Nhờ thi hành chính sách đàn áp thẳng tay gọi là “Thiết Uyển Trấn Yểm”, đảng Đồ Long dần dần tan rã. Các nhân vật lãnh tụ đầu não của đảng thì lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn lánh nạn tản mác đi khắp nơi. Lục Phỉ Thanh may mắn chạy thoát được cạm bẫy của vua Càn Long bủa giăng chặt chẽ ra tận ngoài biên cương.
Quan binh Mãn Thanh biết họ Lục là một thủ lãnh nguy hiểm không thể bỏ lơ được nên phái người truy nã Lục Phỉ Thanh gắt gao cùng nơi khắp chốn. Lục Phỉ Thanh là người hết sức cẩn thận lại nhiều cơ mưu, và thêm vào đó lại có võ công tuyệt đỉnh nên mới tránh được đại nạn. Tuy vậy, triều đình Mãn Thanh chẳng lúc nào không lưu tâm đến con người này. Lục Phỉ Thanh cho rằng người đi lánh nạn có ba chỗ tạm gọi là an thân hơn cả. Chỗ an thân hơn hết là trốn trong triều. Chỗ an thân kế đến là trốn trong chợ. Và sau cùng, chỗ an thân thứ ba là trốn trong làng mạc, đồng quê. Với ý định như vậy, Lục Phỉ Thanh lần hồi trở về nộ địa tìm đến dinh Lý Khả Tú là một vị quan có uy tín, có thế lực vào bậc nhất của triều đình đẻ giả làm một vị đồ nho dạy thi văn từ phú cho ái nữ của Lý tướng quân là Lý Mộng Ngọc, lại ăn ở ngay trong công phủ, tư dinh của một vị đại tướng quân nên chẳng sợ ai nghi ngờ dọ dẫm chi cả. Những người của triểu đình phái đi truy tầm tróc nã Lục Phỉ Thanh luôn luôn chia nhau tìm kiếm ông ta trong những đám lục lâm, trong các chùa chiền, trong các tiêu cục, trong các võ trường và luôn cả trong chốn võ lâm. Chẳng ai ngờ rằng con người lợi hại ấy lại là một cụ đồ nho áo dài, khăn đen, móng tay lượt thượt, đôi mắt leo heo, miệng ngâm vẽ nhịp, có vẻ yếu ớt như trói gà không chặt, đang sống một cuộc đời bình thản trong phủ của một vị tướng quân được triều đình sủng ái! Người khâm phạm có một bản lãnh võ nghệ trác tuyệt như thế chẳng cần trốn lánh đâu xa, hàng ngay ra vào ngay trước mặt quan quyền, và suốt mấy năm nay qua mặt hết được bọn tay sai đắc lực của vua Càn Long. Lục Phỉ Thanh còn hai người anh em đồng môn là đại sư huynh Mã Chân và tam sư đệ Trương Siêu Trọng. Lục Phỉ Thanh đứng hàng
thứ hai. Mã Chân là Chưởng môn nhân phái Võ Đang, thích cảnh thiên nhiên mây ngàn hạc nội nên không mấy chú ý đến thế sự, luôn cả việc của môn phái. Trương Siêu Trọng tuổi trẻ, đầy nghị lực nên lúc thọ giáo được sư phụ tâng tiu, mến chuộng hơn cả hai sư huynh. Bao nhiêu tuyệt kỹ của phái Võ Đang, sư phụ đều đem truyền hết lại cho người đệ tử thứ ba này. Còn Lục Phỉ Thanh thì chẳng những học được tất cả những thế võ bí truyền của môn phái để trở thành một nhân vật siêu quần, lại còn là một tay văn chương xuất chúng, ngâm thơ Liễu Như, vịnh phú Đào Yêu, học lực và kiến thức uyên bác vô cùng. Ngoài ra, con người của ông ta còn hết sức lịch lãm về mọi mặt. Có lẽ đó là nhờ vào kinh nghiệm xông xáo trên giang hồ suốt mấy chục năm trời. Trong thời gian hành hiệp, Lục Phỉ Thanh còn thâu thập được không biết bao nhiêu là tuyệt kỹ võ công của những môn phái khác: “Vô Cực huyền công quyền”, “Phù Dung châm pháp” và “Nhu Vân kiếm”. Ba môn này khét tiếng, được gọi là “Giang Hồ Tam Tuyệt Kỹ”. Còn nói bề ba cao đồ của phái Võ Đang thì chí hướng họ khác hẳn nhau. Mã Chân chỉ thích tiêu dao mây nước, kết bạn hạt tùng. Lục Phỉ Thanh thích hành hiệp trượng nghĩa, đem tài sức giúp đời, giúp người cô thế chống lại bạo tàn. Còn Trương Siêu Trọng thì nặng nợ công danh, ràng buộc phú quý, đành đem “tấm thân bảy thước ngang tàng” luồn cúi quyền uy, được phong quan Tam phẩm. Năm trước, Lục Phỉ Thanh với Trương Siêu Trọng đã dùng gươm vạch đất tuyệt giao với nhau. Hai người ân nghĩa đều cắt đứt hết, chẳng ai nhìn ai nữa, trái lại còn xem nhau như thù địch, không đội trời chung... Nhắc lại Lý Mộng Ngọc, hôm ấy được Lục lão sư hứa dạy cho “trò chơi” ấy thì rất hân hoan, kín miệng không nói cho ai biết cả. Sáng hôm sau, Lý Mộng Ngọc thức dậy thật sớm đến thư phòng của sư phụ. Đẩy cửa vào trong thì thấy vắng tênh, không có một ai, chỉ thấy trên bàn viết của thầy có dán một tờ giấy. Đó là một bức thư. Mộng Ngọc cầm lên đọc: Mộng Ngọc con,
Mộng Ngọc con, Thầy vẫn biết con là một đứa học trò giỏi sử đao gươm, bút múa như phụng, nghe tiếng đàn hiểu được đường tơ. Tâm con thật “linh”, tánh con thật “mẫn”, thật là người hiếm có vậy. Thầy có được một đứa học trò như con tưởng không có gì vui mừng và hãnh diện hơn. Chỉ tiếc là con có chí lớn mà thầy thì tài mọn nên suốt ba năm lãnh nhận trách nhiệm dạy dỗ con, thầy rất lấy làm xấu hổ vì không đem đến được cho con những điều học nào hữu ích được cả. Tình thầy trò chúng ta đến đây đã hết. Mong rằng sau này còn có cơ hội tái ngộ. Trước khi từ giã con, thầy lấy tình sư đệ bấy lâu nay có mấy lời khuyên, và mong con ghi nhớ lấy. Theo sự nhận xét của thầy thì về mặt võ nghệ con có thừa, nhưng còn về phần đoan nghi thì con chưa đủ. Lời xưa có nói: “Sự thông minh không đủ đem đến hạnh phúc cho mình. Người được “thân an mạng toàn” phải trau giồi đức hạnh. Thôi, thầy chỉ có bấy nhiêu hàng đó muốn nói. Thầy, Lục Cao Chỉ Lục Cao Chỉ là tên giả mà Lục Phỉ Thanh dùng để ẩn tích mai danh. Đang lúc Lý Mộng Ngọc bùi ngùi đọc mấy hàng chữ của sư phụ để lại, còn phân vân chưa hiểu thế nào thì thình lình nghe có tiếng cửa phòng mở một cái “rột”. Một người hớt ha hớt hãi chạy vào. Mà người ấy chẳng phải ai xa lạ khác hơn mà chính là Lục Phỉ Thanh, thầy đồ dạy học nàng. Lý Mộng Ngọc nhìn thấy sư phụ mình mặt mày xanh lét, máu nhuộm đầy mình vừa chạy vào đã sụm chân ngã xỉu xuống đất. Mộng Ngọc vội vàng chạy đến dìu Lục Phỉ Thanh ngồi lên ghế.
- Thầy ơi thầy! Sao vậy thầy? Lục Phỉ Thanh ngưng thần định trí một hồi lâu rồi mới thều thào: - Con đừng làm kinh động. Đừng nói chi hết, cứ để yên cho thầy. Dứt lời, Lục Phỉ Thanh nhắm nghiền đôi mắt lại, không nói thêm nửa lời. Lý Mộng Ngọc tuy là con nhà võ quen múa đao múa kiếm thế mà trước cảnh tượng này cũng không khỏi kinh hãi. Nành tuân theo lời thầy đóng kín cửa phòng, im lặng đứng bên Lục Phỉ Thanh mà không dám gọi. Được một lúc khá lâu, Lục Phỉ Thanh lên tiếng nói với Lý Mộng Ngọc: - Mộng Ngọc! Ta với con tình nghĩa sư đồ trong ba năm thật là thâm trọng. Hôm nay, thầy nghĩ duyên phần đã hết nên định từ biệt con để ra đi. Không ngờ sự cớ đưa đẩy làm thầy phải quay về đây lại. Thầy có một vấn đề nguy hiểm đến tánh mạng. Chẳng hay con có thể vì thầy mà dấu kín đừng cho ai biết việc này không? Nói xong, Lục Phỉ Thanh mở to đôi mắt sáng quắc ra nhìn thẳng vào mặt Lý Mộng Ngọc như có ý dò hỏi. Lý Mộng Ngọc khảng khái đáp: - Thưa thầy, có việc gì xin thầy cứ bảo. Con xin hứa chắc chắn là không trái ý thầy. Lục Phỉ Thanh nói: - Con thưa với lệnh trên là thầy đang có bệnh, cho thầy được tĩnh dưỡng trong vòng nửa tháng. Mộng Ngọc bằng lòng ngay. Ngưng một giây lát, Lục Phỉ Thanh giục nàng: - Thôi, con đi đi! Chờ Mộng Ngọc đi rồi, Lục Phỉ Thanh mới thò tay vào lưng móc gói thuốc ra rịt lên vết thương nơi cánh tay trái mình rồi dùng vải trắng băng lại. Ông ta khạc một cái, nhổ ra một cục máu bầm. Số là chiều hôm trước khi bị Lý Mộng Ngọc nhìn trộm ông ta dùng “Phù Dung kim châm” bắt ruồi và yêu cầu được học phép ấy, Lục
Phỉ Thanh thấy tung tích đã bại lộ nên cảm thấy không thể nấn ná ở địa phương này được nữa. Vì vậy, ông ta bèn viết thư cáo biệt để lại cho Mộng Ngọc trước khi đi. Lục Phỉ Thanh là người lịch duyệt nhiều, thấy trong dinh Lý Khả Tú đông người mà đứa nữ đệ tử lại là một kẻ thông minh tuyệt đỉnh. Mà xưa nay, những người thông minh lại hay bị chính cái thông minh đó làm hỏng nhiều việc. Do đó, trong thư ông mới dặn dò Mông Ngọc nên rèn đức hạnh mà đừng ỷ y quá vào sự thông minh. Lục Phỉ Thanh chẳng có gì quý báu ngoài mấy bộ quần áo và một thanh Bach Long kiếm dấu bên hông cùng với một gói hành lý mang trên vai, chuẩn bị đến canh hai thì lẻn đi thẳng một nước. Dù sau đó ai có biết ông ta là ai đi nữa bóng chim tăm cá, mây nước mịt mù, biết đâu mà tìm cho ra. Sắp đặt xong xuôi, ông ngồi bằng trên ghế mắt nhắm nghiền lại dưỡng thần. Xa xa, tiếng trống điểm canh khoan nhạt đưa lọt vào tai. Lục Phỉ Thanh biết thời khắc đã qua giờ Tỵ liền khêu sáng ngọn đền lên thì thình lình ngoài cửa sổ một giọng cười quái gở vang lên, theo gió bay vào. Đề phòng bất trắc, Lục Phỉ Thanh đưa tay quạt tắt ngọn đèn, mang khăn gói lên vai, rút Bạch Long kiếm ra cầm sẵn. Bên ngoài cửa sổ, một giọng nói rổn rảng phá tan bầu không khí yên lặng của đêm khuya: - Lão già họ Lục ơi! Lão đừng tưởng trốn vào cửa tướng đóng tuồng gõ đầu trẻ mà không ai biết đâu nhé! Thôi, đừng hòng trốn tránh nữa! Nếu khôn hồn thì hãy đưa tay chịu trói để ta giải về kinh mà chịu tội với triều đình! Lục Phỉ Thanh biết đã gặp cường địch, chỉ còn cách tìm đường đối phó thôi chứ không mong gì được hắn bỏ qua. Kẻ đó dĩ nhiên
không phải kẻ võ nghệ tầm thường, mà cũng không phải chỉ có một mình hắn thôi. Chắc chắn kẻ đó cùng mấy tên đồng đảng đang phục sẵn bên ngoài, lấy khỏi đợi mệt, lấy đông lấn ít. Nếu ở mãi trong phòng thì mười phần nguy cả mười. Nếu cứ xông bừa ra mà quyết chiến thì khó lòng thoát thân được. Phải đợi lúc xuất kỳ bất ý vọt ra ngoài cửa sổ đánh trí mạng một mất một còn thì may ra còn thủ thắng được. Cố dè dặt hết sức không gây nên một tiếng động nho nhỏ nào, Lục Phỉ Thanh bất thình lình dùng thế “Bích Hổ Du Tường” đánh vào song cửa sổ thật mạnh. Chỉ nghe “rắc rắc” mấy tiếng, song cửa sổ bị gẫy tiện, Lục Phỉ Thanh vận khí tung mình ra khỏi cửa sổ, bay bổng lên nóc nhà như một con chim én. Kẻ địch ẩn núp bên ngoài như đang chờ sẵn nên từ đâu phi thân lại tung một quyền đánh vào mặt Lục Phỉ Thanh, miệng quát lớn: - Tài thật! Giỏi thật! Lục Phỉ Thanh nghiêng mình tránh khỏi, nói lớn: - Người anh em đừng vội! Để ta xuống cho mà đánh. Lục Phỉ Thanh lại dùng khinh công nhắm hướng ngoài thành vụt bay như tên. Phía sau, ba cái bóng đen vùn vụt đuổi theo. Lục Phỉ Thanh chạy một hơi thật xa, có đến sáu, bảy dặm đường. Ba cái bóng đen đuổi theo thục mạng, miệng không ngớt kêu la: - Lão già họ Lục sao hèn nhát đến thế? Một người có tên tuổi trên giang hồ mà phải tháo thân chạy trối chết thế hả? Lục Phỉ Thanh biết ba bóng đen đó toàn là những nhân vật hữn danh trên giang hồ nên chẳng dám khinh thường. Nhưng thật ra, ông ta cũng không đến độ phải khiếp sợ mà chạy dài. Ông ta biết dù chạy đến đâu, cường địch cũng không chịu bỏ qua. Trước sau cũng phải giải quyết một cách sống chết mà thôi. Chẳng qua là thấy giải quyết trong thành thật bất tiện vì nơi đây quan quân triều đình rất đông, và chắc chắn ba người này cùng phe với họ. Cho nên Lục Phỉ Thanh mới cố dẫn dụ địch ra khỏi thành đến một chỗ hoang vắng để phân cao hạ thì tiện bề hơn nhiều.
Dẫn dụ đám người ấy đuổi theo có ba điều lợi cho Lục Phỉ Thanh. Thứ nhất là đến một điểm lạ thì địch nhân khó lòng mà có được viện binh đến kịp thời. Thứ hai, nếu đường đường chính chính đương đầu thì mới có thể rõ được võ nghệ của họ đến trình độ nào; nếu nhắm đánh thắng được thì quyết chiến, bằng không sẽ tìm cách trốn thoát. Thứ ba, nếu phe đối nghịch có bao nhiêu vây cánh ở chung quanh đây tất nhiên sẽ xuất đầu lộ diện ra tất cả thì càng tiện cho mình lo liệu mà tính kế. Hơn nữa, ra một chỗ vằng vẻ rộng rãi thì không còn phải sợ bị đánh lén trong bóng tối cũng như không phải lo bị trúng ám khí bất tử. Tha hồ cho kẻ địch mắng chửi khích bác, ông ta tiếp tục dùng thuật phi hành mà chạy thêm mười dặm nữa. Đến một đỉnh đồi, Lục Phỉ Thanh bèn dừng gót lại, nhìn trước xem sau, quan sát tỉ mỉ. Đám người phía sau cũng đã đuổi đến nơi. Lục Phỉ Thanh đã đứng đợi sẵn, chuẩn bị tinh thần, biến từ thế “bị động” sang thế “chủ động”. Bình tĩng và tự tin, ông ta tra thanh Bach Long kiếm vào vỏ. Ba bóng đen thấy Lục Phỉ Thanh dừng lại, uy vũ hiên ngang thì sinh lòng ngờ vực chưa dám liều lĩnh xông lại gần. Họ chia nhau ra đứng ba phía, một trước, hai sau, theo hình chữ “Đinh”. Dưói ánh trăng tỏa rạng, Lục Phỉ Thanh cố nhìn cho rõ xem những nguời đang đứng trước mặt mình là ai. Ngưòi đứng đầu là một hán tử tuổi độ chừng trên dưới 50, thân hình vừa lùn vừa ốm; lông mày đen rậm như một đường mực gạch ngang qua; râu hoách lên như đuôi chim én dài không quá một tấc, nhưng dũng khí có vẻ rất là mạnh bạo. Hai người đứng sau thì một người cao ngỏng cao nghều như cây tre, còn người kia thì vừa mập lại vừa tròn. Người đứng phía trước bỗng phá lên cười một tràng rồi buông lên những lời có vẻ như chua chát.
- Lục anh hùng! Từ dạo cách xa không có gì lạ chứ? Chẳng hay ngươi còn nhận ra kẻ hèn hạ từng bị bại dưới tay ngươi chăng? Ngươi chưa quên Tiêu Văn Kỳ đấy chứ? Lục Phỉ Thanh nghe nói chợt nhớ lại. Thì ra hắn là nhân vật thứ ba trong nhóm “Quảng Đông lục ma”. Cách đây hơn mười năm, có một lần Lục Phỉ Thanh và Tiêu Văn Kỳ chỉ vì xích mích với nhau vài câu nói mà sinh ra ẩu đả tại Trực Lệ. Lục Phỉ Thanh vì không nỡ giết hắn nên chỉ đánh cảnh cáo một quyền rất nhẹ chứ nếu thẳng tay thì có đến mười cái mạng hắn cũng chẳng còn. Tiêu Văn Kỳ không biết ơn thì chớ còn đem lòng thù oán, cho là bị Lục Phỉ Thanh làm nhục nên bao năm qua “nằm gai nếm mật” để chờ có cơ hội “trả thù”. Bao nhiêu năm không tìm được tung tích Lục Phỉ Thanh nên hắn vẫn ân hận mãi. Lần này, Tiêu Văn Kỳ vâng lệnh quan phủ đi Thiên Sơn Bắc Lộ để thi hành một mệnh lệnh tối cần. Chẳng dè trong cuộc hành trình, hắn nghe được rõ được tung tích bí mật của Lục Phỉ Thanh. Hắn bèn đến dinh Tổng đốc Hiệp Cam xin “mượn” hai cao thủ để giúp hắn bắt kẻ “khâm phạm triều đình”. Ỷ thế quan Tổng đốc nên Tiêu Văn Kỳ không cần thông tri với quan phủ sở tại nhờ đưa thư đến tư dinh của Lý Khả Tú để bắt Lục Phỉ Thanh. Với hai trợ thủ cộng vào với tài nghệ của hắn, Tiêu Văn Kỳ tin tưởng sẽ làm được một công hai chuyện: vừa lập công được với triều đình và vừa trả được tư thù. Tiêu Văn Kỳ ngày đêm khổ công rèn luyện võ nghệ đến mức mà hắn cho là “tuyệt đỉnh công phu”. Nhất là hắn lại ỷ vào một môn vũ khí gọi là Thiết Cầm Sát mà hắn luyện đến mức lô hỏa tuyệt thanh. Tiêu Văn Kỳ có thể sử dụng Thiết Cầm Sát như ý muốn, có thể phóng trúng địch thủ rồi thu gọn lại trong vòng bàn tay dễ dàng... Nghe mấy câu chua chát của Tiêu Văn Kỳ, Lục Phỉ Thanh vẫn điềm tĩnh, nghĩ thầm: - Thì ra con quỷ Tiêu Văn Kỳ muốn trở lại báo ta! Nhưng ông ta vẫn vòng tay, cúi đầu thi lễ đáp: - Thì ra là Tiêu Văn Kỳ tam ca đây mà! Hơn mười năm không gặp nên thờ ơ chẳng nhận ngay ra được, dám mong tam ca thứ lỗi cho.
Còn hai vị kia cao danh quý tánh là gì, mong tam ca giới thiệu cho biết với. Tiêu Văn Kỳ phá lên cười nghe rất tự đắc, chỉ người lùn mập bảo: - Người này là nghĩa đệ của tôi tên La Tín mà người ta thường gọi là Thiết Bối La Hán. Chính là y đó! Quay qua người cao lểnh khểnh, Tiêu Văn Kỳ lại nói: - Còn vị này là hào kiệt nức danh hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam thường xưng là Ngọc Phán Quan Hạ Nhân Long đó. Ba anh em chúng tôi thân với nhau chẳng khác gì Lưu, Quan, Trương thuở trước. Cả La Tín và Hạ Nhân Long đều day sang phía Lục Phỉ Thanh vòng tay cúi đầu nói: - Lâu nay vẫn thường hâm mộ đại danh của lão anh hùng. Nay được gặp thật là hân hạnh! Lục Phỉ Thanh cũng từ tốn đáp lễ lại mà nói: - Kẻ già nua này lánh mình trong chỗ tối tăm vắng vẻ có ngờ đâu lại được ba vị hạ cố đến tìm. Thật là ngoài sự ước vọng của tôi. Chẳng hay hôm nay gặp nhau đây quý vị có lời nào dạy bảo? Tiêu Văn Kỳ lạnh lùng đáp: - Lục lão anh hùng à! Mười lăm năm trước đây kẻ hèn mọn này may mắn được người “thưởng” cho một đấm nên mang “ơn”, nhớ mãi không dám quên. Đáng ra, tự xét tài nghệ của mình còn non nớt thì nên nuốt hận mà bỏ đi là hơn. Chỉ vì trời sinh ra Tiêu Văn Kỳ này lại
sinh luôn cho một cái đầu cường ngạnh và một bộ óc cố chấp nên một khi nếm phải cái mùi chua cay nào thì lại quyết phải trả cho xong chứ không thể xóa nhòa được. Ngày đó mạng tôi chưa tuyệt nên tôi mới có cơ hội gặp lại Lục lão anh hùng hôm nay. Âu cũng là trời muốn tôi đáp lại cái đấm của Lục lão anh hùng khi còn tại thế gian này để khỏi phải giải quyết khi gặp “ngài” dưới âm phủ! Từ hôm được biết tài nghệ thua kém ngài quá nhiều để đến nỗi phải chịu một quyền ở Trực Lệ thì tôi khổ công luyện tập mao quyền ngày đêm không dám lơ đãng nên có thể nói là đến mức tuyệt đỉnh công phu, tam chiêu lưỡng thức rồi. Tự nghĩ có được cái bản lãnh ấy họa chăng mới liều lĩnh khi khắp ngũ nhạc tam sơn để tìm ngài. Chim trời cá nước tưởng không biết tìm nhau ở nơi “hải giác thiên nhai” nào cho gặp đặng thỏa lòng mong đợi. May mắn sao đêm nay không hẹn mà lại gặp nên dám mong ngài dạy cho phen nữa. Đó là việc riêng của tôi đối với ngài. Thưa Lục lão anh hùng! Tên tuổi ngài vang rền trong thiên hạ, mà lại là người khâm phạm trọng yếu nhất của triều đình. Bản án của ngài được chu tri khắp nước, bất luận người nào có hưởng lộc triều đình, có trong thuỷ thổ quốc vương cũng đều có trách nhiệm thi hành bản án ấy. Đêm nay gặp ngài ở đây, ba anh em chúng tôi có bổ phận mời ngài đến dinh quan Tổng đốc Hiệp Cam. Nếu ngài không đi, chúng tôi buộc lòng phải bắt sống hoặc giết chết chứ không thể để cho ngài thoát thân. Đó là việc công. Những lời trên đây tôi thành thật thưa để Lục lão anh hùng biết đặng tự liệu. Lục Phỉ Thanh cũng đã biết trước là đêm nay chỉ còn cách dùng võ lực quyết sống chết để giải quyết chứ không còn đường nào hơn. Tiêu Văn Kỳ tự phụ tài nghệ hắn giờ cao siêu đủ sức hạ được Lục Phỉ Thanh lại còn thêm hai cao thủ ủng hộ hắn nữa nên câu nói của hắn bề ngoài nghe có vẻ khiêm tốn lễ phép mà bên trong lại khiêu khích bắt buộc Lục Phỉ Thanh phải giao thủ với hắn chớ không cho tẩu thoát.
Suốt mười năm qua, Lục Phỉ Thanh chỉ dành thì giờ vào việc dưỡng khí luyện thần nên tâm đã tịnh, và bản tính háo thắng cũng không còn như lúc còn thanh niên. Vì vậy, Lục Phỉ Thanh hướng về phía Tiêu Văn Kỳ vòng tay nói: - Thưa Tiêu tam gia. Tôi với các hạ không còn ở cái tuổi tranh đua hơn kém như hồi trẻ nữa. Ngày ấy, tôi quả có đắc tội với tam gia ở Trực Lệ. Vậy hôm nay ở đây tôi xin quỳ gối nhận tội với các hạ. Nếu được tam gia bỏ qua thì thật là hân hạnh cho già này lắm. Dứt lời, Lục Phỉ Thanh vòng tay vái dài Tiêu Văn Kỳ một cái. Chẳng dè gã cao lểnh khểnh Ngọc Phán Quan Hạ Nhân Long thét lên một tiếng mắng xối xả vào mặt Lục Phỉ Thanh rằng: - Đừng mong khỏi chết mà hòng toan hạ mình làm chuyện hèn hạ như thế! Thế mà cũng tự nhận là khách giang hồ! Lục Phỉ Thanh không ngờ củ chỉ hòa giải của mình lại bị Hạ Nhân Long hiểu lầm, cho là ông sợ chết lạy lục xin xỏ. Lục Phỉ Thanh nhảy dội ra sau nghiêm nét mặt chỉ vào Hạ Nhân Long quát lớn: - Ta là Lục Phỉ Thanh! Tên tuổi của ta trong giới giang hồ chẳng mấy ai không biết! Suốt mấy mươi năm hành hiệp ta đã gặp không biết bao nhiêu là cao thủ có bản lãnh cao cường mà nào đã chịu thua ai, và chưa hề bị ai khinh khi nửa tiếng. Thế mà hôm nay ta không tưởng có kẻ dám chạm đến danh dự của ta. Day qua Tiêu Văn Kỳ, Lục Phỉ Thanh vẫn giữ thái độ ôn hòa nói: - Tiêu tam gia! Vừa rồi các hạ đem việc “tư” của các hạ và việc công của triều đình ra nói rõ cho tôi nghe, dạy tôi lo liệu lấy. Tôi sẵn sàng theo ý ngài mà nói rõ ra đây. Chuyện mười mấy năm trước sở dĩ xảy ra như thế là do ở cái tuổi thanh niên háo thắng mà ra. Giờ các hạ nhắc lại tôi không khỏi cười thầm, hổ thẹn. Nhưng nếu các hạ muốn nhắc lại chuyện con nít để trả cái mà các hạ cho là “nhục”, là “thù” thì tôi cũng sẵn sàng đáp lễ chứ chẳng dám khước từ. Còn cái việc mà ngài gọi là “công” đó thì tôi đây Lục Phỉ Thanh chẳng thể vâng
theo lời dạy của ngài được. Tôi làm thủ lãnh một đảng phái chống lại triều đình Mãn Thanh là vì tôi không thể ngồi im nhìn thấy giang san Trung Quốc bị dày đạp dưới gót giày của kẻ xâm lăng, giống nòi Hán tộc bị làm tôi đòi lầm than trong bàn tay ác nghiệt của kẻ thống trị. Việc của chúng tôi làm, nhân dân Trung Quốc đều cho là chính nghĩa. Chỉ trừ những tên chim mồi chó săn cho triều đình Mã Thanh mới gọi tôi là khâm phạm, mới âm mưu tìm bắt tôi mà dâng nạp cho kẻ thù chung ấy thôi. Các hạ và hai tên tháp tùng đó nếu giỏi thì cứ bắt sống hay giết chết tôi đi đặng đem nộp cho quan trên mà lãnh thưởng nhưng đừng mong tôi tự ý đến nạp mình hay đưa tay chịu trói! Lời nói như búa bổ vài đầu của Lục Phỉ Thanh làm cho bọn Tiêu Văn Kỳ đang tự đắc cũng phải chột dạ. Cách đây không lâu, ba người bọn họ cứ tưởng Lục Phỉ Thanh kinh khiếp trước bản lãnh của ba người. Tiêu Văn Kỳ chưa biết trả lời thế nào thì Lục Phỉ Thanh lạu nói tiếp: - Có khó gì đâu mà phải do dự cho mất hết ngày giờ? Muốn giải quyết bằng vũ lực thì cứ việc bắt đầu đi thôi. Một trong ba người ra đây đấu với tôi, hoặc cả ba hợp sức cùng xông ra một lượt cũng được vậy! Có lẽ người hăng hái nhất trong ba vị là Hạ Nhân Long. Tôi rất muốn được thấy rõ tài nghệ và đảm lược của Ngọc Phán Quan. Gã lùn mập là La Tín thấy vậy nói lớn: - Đừng cậy tài làm phách! Bộ ngươi tưởng ai cũng sợ ngươi sao? Rồi xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, y từ phía sau lưng Tiêu Văn Kỳ nhảy bổ tới như một con cóc đánh một quyền chớp nhoáng nghe “vù” một tiếng vào ngay giữa mặt Lục Phỉ Thanh. Trước một đòn hung ác đánh bất ngờ, Lục Phỉ Thanh chẳng chút nao núng. Ông chờ cho nắm tay của La Tín vừa đến ngay giữa mặt liền lách sơ qua làm cho hắn hụt đòn. Sau đó Lục Phỉ Thanh lẹ làng như điện xẹt tay trái đánh một cái trúng ngay mạch môn nha của “gã lùn mập” khiến hắn phải lùi ra sau ba bước.
Lục Phỉ Thanh không thèm tiến lên, chỉ đứng yên một chỗ. La Tín định thần lại được liền dùng Ngũ Hành quyền là võ bí truyền của hắn ra để tấn công Lục Phỉ Thanh. Đường quyền của La Tín thật mạnh như vũ bão chứ không phải tầm thường. Trong khi đó, Tiêu Văn Kỳ và Hạ Nhân Long đứng lui ra một bên để nhìn xem cuộc tranh phong vô cùng quyết liệt của hai đại cao thủ. Tiêu Văn Kỳ để ý và quan sát tuyệt kỹ của Lục Phỉ Thanh rất tỉ mỉ để rút tỉa ưu khuyết điểm, rất có lợi cho hắn một khi cùng Lục Phỉ Thanh so tài. Năm xưa, Tiêu Văn Kỳ bị trúng phải “Vô Cực huyền công” của Lục Phỉ Thanh chỉ bản lãnh của hắn chưa luyện đến mức tuyệt diệu công phu. Giờ đây, bản lãnh của Tiêu Văn Kỳ đã khác hẳn. Nếu so với ngày trước thì thật là khác nhau quá xa. Thêm vào đó, ngón diệu thủ Thiết Cầm Sát của hắn cũng đã luyện đến mức tột đỉnh chứ không còn tập tễnh như thuở trước. Tiêu Văn Kỳ tính toán rất sâu xa. Yđịnh bụng dùng La Tín và Hạ Nhân Long để tiêu hao bớt công lực của Lục Phỉ Thanh rồi sau cùng hắn sẽ dùng tuyệt kỹ công phu của môn Thiết Cầm Sát ra chấm dứt trận đấu bằng cái chết của kẻ thù hoặc làm cho kẻ thù bị trọng thương theo ý của hắn. Còn Hạ Nhân Long thì nghĩ rằng Lục Phỉ Thanh là một tên khâm phạm triều đình. Nếu bắt sống được hay giết chết cắt lấy thủ cấp đem về nạp lên quan Tổng đốc Hiệp Cam thì đường công danh sẽ mở ra cho hắn nhiều bước tiến đến đường tham vọng. Trong khi Lục Phỉ Thanh và La Tín giao phong với nhau vô cùng sôi nổi, thì Tiêu Văn Kỳ cùng Hạ Nhân Long vẫn tụ thế bàng quang đứng nhìn. Mỗi người ôm một hoài bão riêng tư trong lòng. La Tín dùng Ngũ Hành quyền đánh toàn những thế công, quyền tung ra tới tấp. Một ngón vừa tung ra thì một ngón khác tiếp theo
liền, không để một sơ hở nào cho địch thủ khai thác. La Tín đánh theo Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, với ngũ hành “tương sinh tương khắc” đâu đó chặt chẽ vững vàng. Ngũ Hành quyền là một môn võ rất lợi hại của ngoại gia công phu, nếu đối phương bị đánh trúng thì vô phương bảo toàn tánh mạng. Nhưng mặc cho La Tín muốn đánh cách nào thì đánh, Lục Phỉ Thanh vẫn giữ vững được thế thủ. Không quyền nào của La Tín chạm được vào người ông ta. La Tín hết sức nóng ruột bèn dùng đường quyền lợi hại nhất trong Ngũ Hành quyền là “Tý quyền”, thuộc mạn Kim, quyết hạ cho bằng được Lục Phỉ Thanh. Tý quyền vừa buông ra, La Tín lại bồi tiếp thêm một ngọn Tỏa Quyền. Tỏa Quyền thuộc mạng Thủy, còn gọi là Trường quyền hay Xung Thiên Bào, tức là đánh lên đỉnh đầu địch thủ. Lục Phỉ Thanh vẫn bình tĩnh chống đỡ chứ chưa phản công. Trong nháy mắt, hai bên đã trao đổi hơn 10 hiệp. La Tín bỗng cố nhử dùng ngón Bàng quyền làm hư chiêu đánh sang bên trái, nhưng chuẩn bị chiêu Hoành Quyền đánh bên mặt, nhưng bóng Lục Phỉ Thanh chợt như biến mất ở nơi đâu! La Tín vừa xoay người lại thì vửa vặn một quyền trong tay Lục Phỉ Thanh đang đánh tới. La Tín toan bắt lấy cườm tay của Lục Phỉ Thanh vì hắn tin tưởng vào sức mạnh của hắn dư sức áp đảo được “sức già” của đối phương. Nhưng Lục Phỉ Thanh chỉ hươi tay áo, khẽ phất một cái, nắm tay của La Tín bị đẩy lùi ra sau. Trong lúc gấp rút, La Tín liền dùng cả hai tay chộp tới, nắm cứng lấy tay của Lục Phỉ Thanh lại. Lục Phỉ Thanh để yên cho La Tín nắm rồi bất thình lình giựt về một cái khiến y một phen kinh hãi thiếu chút nữa là “chúi nhủi”. La Tín sợ quá, buông tay Lục Phỉ Thanh ra, nhưng bất ngờ tung ra một quyền từ tay trái đánh thẳng vào người ông ta. La Tín tin chắc Lục Phỉ Thanh sẽ dùng tay mặt để gạt quyền, và sau đó gã sẽ dùng một chiêu “Cầm Nã Thủ” bóp cứng vai trái Lục Phỉ Thanh.
Mọi chuyện xảy ra đúng như sự tiên liệu của La Tín. Khi Lục Phỉ Thanh đưa tay mặt lên gạt hư quyền, La Tín hí hửng đưa tay chộp ngay lấy bả vai của Lục Phỉ Thanh. Chẳng ngờ khi vừa chộp trúng bả vai của Lục Phỉ Thanh thì chẳng hiểu sao, cả một khối thịt tròn của La Tín như bị một sức mạnh phi thường từ đâu dồn tới. Chỉ nghe “bùng” một tiếng, La Tín bị văng ra xa ngoài ba trượng, tá hỏa tam tinh nằm hôn mê dưới đất. Thì ra Lục Phỉ Thanh đã luyện được tuyệt kỹ nội gia công phu là “Chiêm YThập Bát Trật”. Một khi đã luyện được môn này đến mức tinh thông thì cả thân thể gần như được một kình lực nội công trong người bảo vệ. Địch thủ nếu đụng đến người, hay cho dù là chỉ trạm phớt qua y phục thôi thì cũng sẽ lập tức bị đánh vằng trở lại. Nếu nhẹ thì phải té nhủi xuống bị thương, mà nặng ắt phải lăn xuống mà chết ngay. Tuyệt kỹ này Lục Phỉ Thanh được một đại danh cao thủ trong giới võ lâm là Thiên Trật Trương truyền lại cho. Cái hay của ngón nghề này là mượn sức người để đánh người. Địch thủ nếu dùng sức ít thì chỉ bị thương nhẹ, nhưng nếu dùng sức nhiều thì sẽ bị thương nặng và có thể bị nguy hiểm đến tánh mạng nữa. La Tín vì dùng sức nhiều nên bị sức phản kình dội lại cũng dữ. Cũng may y là một cao thủ với nội công khá cao nên dù bị ngã nhưng không đến nỗi bị thương nặng. Tuy vậy y cũng tởn thần, và hoang mang không hiểu tại sao. Tiêu Văn Kỳ tức quá, lông mày dựng ngược lên, hét lớn: - La hiền đệ mau đứng dậy đi! La Tín lồm cồm ngồi dậy, vừa đau đớn, vừa xấu hổ. Hạ Nhân Long chẳng nói chẳng rằng, dùng thế “Song Long Thương Châu” nhắm Lục Phỉ Thanh đánh tới. Nhưng y chợt cảm thấy quyền của y như đánh vào khoảng không, mà bóng Lục Phỉ Thanh không thấy đâu cả. Rồi Hạ Nhân Long thấy trên cánh tay hắn như bị ai đánh xuống một cái nhẹ và sau lưng có tiếng ai nói:
- Ngươi hãy chịu khó về mà luyện võ công thêm mười năm nữa! Hạ Nhân Long giật mình quay lại, nhưng vẫn không thấy Lục Phỉ Thanh đâu cả. Đang định trở mình thì bỗng nhiên “chát chát” hai tiếng, y cảm thấy hai bên má đau nhức vô cùng, và trước mắt rõ ràng là một bầy đom đóm đang bay ngang qua. Tiếng Lục Phỉ Thanh nói như chọc vào ráy tai của t: - Mày là thằng con nít vô lễ! Hôm nay ta dạy cho một bài học để ráng mà nhớ cho kỹ trong lòng. Luận về tài nghệ thì võ công của Hạ Nhân Long còn cao hơn La Tín một bậc. Nhưng chẳng qua là vì hắn giở thái độ trịch thượng, ăn nói ngạo nghễ cho nên Lục Phỉ Thanh chẳng chút nhân nhượng, cố tình hạ nhục hắn cho bõ ghét. Thấy Hạ Nhân Long bị hạ nhục, Tiêu Văn Kỳ vừa kinh hãi vừa tức giận. Y phóng một cái như tên bắn đến trước mặt Lục Phỉ Thanh. Thân hắn chưa tới nơi thì hơi gió từ quyền của hắn đã đánh tới trước rồi. Lục Phỉ Thanh thừa hiểu Tiêu Văn Kỳ là nhân vật đứng hàng thứ ba trong “Quảng Đông lục ma”, võ nghệ cao cường, bản lãnh tuyệt vời không phải như La Tín với Hạ Nhân Long nên không dám coi thường, vội dùng ngay thế “Vô Cực huyền công Quyền” để ứng phó lại. Hạ Nhân Long trông thấy hai cao thủ giao đấu với nhau vô cùng ác liệt thì tự lượng sức mình, biết không thể giúp gì cho Tiêu Văn Kỳ được đành đứng ngoài xem, chờ có cơ hội tốt mới có thể ra tay được. Tiêu Văn Kỳ bắt đầu đem Thiết Cầm Sát ra sử dụng. Hắn đánh ra rồi thâu vào lẹ như chớp nhoáng, chỉ mong trúng vào được người Lục Phỉ Thanh thì dù cho không chết cũng phải biến thành tàn phế. Ngón Thiết Cầm Sát này Tiêu Văn Kỳ được chân truyền từ họ Hàn ở Lạc Dương cho nên tất cả những chiêu thức bí hiểm đều thu thập được hết. Tiêu Văn Kỳ phóng ra một chiêu gọi là “Mao Huy Ngũ Huyền” nhắm Lục Phỉ Thanh quét “vụt” một cái. Đòn của hắn trông nhẹ hều như một luồn gió không có chút sức mạnh nào, nhưng chính vì đó mới thật là lợi hại, hư hư thật thật, cương ẩn trong nhu. Quyền này là ngón sở trường của hai phái võ “Thiết Sa chưởng” và “Ưng Trảo công” hợp lại chế biến ra.
Lục Phỉ Thanh thấy công phu của Tiêu Văn Kỳ quả đã đến mức cao thâm tuyệt đình thì cũng phải khen thầm, rồi buột miệng kêu lên: - Hay lắm! Dứt lời, Lục Phỉ Thanh dùng thế “Hổ Tung Bộ”, nhẹ nhàng tiến lên một bước đến sát bên cánh tay phải của Tiêu Văn Kỳ. Một quyền lợi hại từ tay mặt Lục Phỉ Thanh phóng ra, Tiêu Văn Kỳ vừa né mình tránh khỏi, vừa dùng Thiết Cầm Sát che chở cho phía trên mặt. Sau đó y dùng hai ngón tay điểm một thế “Đao Thương Tề Minh” vào người Lục Phỉ Thanh. Lục Phỉ Thanh rùn mình xuống, dùng “Ấn Chưởng quyền” đánh mạnh một cái trúng Tiêu Văn Kỳ làm rách toẹt vạt áo của hắn trước bụng. Nhưng Lục Phỉ Thanh vốn lòng lành, thấy không nỡ hủy hoại mười mấy năm luyện tập công phu của hắn, lại càng không nỡ hủy hoại cuộc đời hắn trong một trận đánh nên đòn ấy ông ta chỉ dùng có năm thành công lực mà thôi. Lục Phỉ Thanh tưởng như thế cũng đủ cho Tiêu Văn Kỳ tự thẹn mà kéo đồng đảng đi khỏi để ông ta được thong thả tìm nơi yên ổn mai danh ẩn tích. Không ngờ lòng nhân từ của Lục Phỉ Thanh lại là cái họa sát thân! Tiêu Văn Kỳ thừa hiểu đối phương tha mạng hắn, nhưng đã không mang ơn thì thôi, hắn còn thừa thế dùng thế đánh thẳng tới trong lúc Lục Phỉ Thanh thu quyền về, để hở các chỗ yếu trên thân. Lục Phỉ Thanh không ngờ hắn lấy oán trả ân, cả kinh vừa định né tránh thì thình lình, Tiêu Văn Kỳ tay kia dùng thế “Lưu Truyền Hạ Sơn”, chĩa năm ngón tay như năm lưỡi dao đâm mạnh vào mặt Lục Phỉ Thanh.
Vì không kịp đề phòng, Lục Phỉ Thanh bị độc thủ của Thiết Cầm Sát đánh trúng hai cái vào chỗ nhược. Tuy nhiên, Lục Phỉ Thanh là cao thủ bậc nhất của Võ Đang phái nên dù thất thế nhưng tinh thần không bấn loạn. Hai tay ông chắp lại, dùng để hộ vệ các huyệt đạo trên người, và tránh được ba chiêu kế tiếp của Tiêu Văn Kỳ. Lục Phỉ Thanh thối lui ba bước, không nói một tiếng nào, điều thần vận khí ngầm điều trị. Ông ta biết là khi bị trọng thương thì nếu để hỉ nộ ái ố phát ra ắt nguy đến tánh mạng. Tiêu Văn Kỳ được nước nên thừa thắng xông lên, không để cho Lục Phỉ Thanh có cơ hội nghỉ ngơi dưỡng sức. Hắn giở hết những độc chiêu của Thiết Cầm Sát ra quyết giết cho bằng được đối phương. Lục Phỉ Thanh nín thở, nhịn đau, rút Bạch Long kiếm ra chém nhầu ba nhát. Tiêu Văn Kỳ kinh hãi, lách mình ra sau, miện la lớn: - Anh em mau xông cả vào! Đừng để chậm trễ, không thì tôi chết mất! Hạ Nhân Long lẳng lặng rút thanh Ngô Câu kiếm phân ra trên dưới hai đường hươi lên vùn vụt, một nhát đâm ngay yết hầu, còn một nhát móc ngay sườn Lục Phỉ Thanh, khí thế mạnh bạo, mười phần hiểm ác. Tuy gọi là kiếm nhưng kỳ thực Ngô Câu kiếm là một cặp song câu, vừa sử dụng được như kiếm, vừa sử dụng được như câu; đâm chém thì theo kiếm pháp, còn móc, giật, nghéo, mổ thì theo câu pháp, tiện lợi cả hai bề. Tóm lại, Ngô Câu kiếm có thể sử dụng được như song kiếm, song câu, hay một kiếm một câu. Song câu không được liệt vào hàng 18 món binh khí chánh tông. Nhưng nó là một món vũ khí giết người lọi hại, lại khó luyện nên người làm tướng ít dùng. Chỉ có những tay giang hồ hành hiệp bản lãnh cao siêu mới có thể rèn luyện và sử dụng nó đúng mức mà thôi. Song câu vừa công được, vừa thủ được. Nhưng người sử dụng nó nếu không luyện đến mức tinh vi rất có thể bị nó phản lại làm nguy hiểm đến tánh mạng. Lúc luyện tập nếu sơ ý cũng có thể bị thương như không. Khi song câu tung ra thì phải lập tức thu lại ngay, vì nếu chậm tay bị đối thủ phản công lại thì có nước chết không kịp ngáp!
Lục Phỉ Thanh thấy Hạ Nhân Long hai tay sử dụng song câu, mà mình lại đang bị trọng thương thì không dám khinh địch liền dùng ngay thế “Hạnh Hoa Xuân Vũ” trong Nhu Vân kiếm thuật, là một lối kiếm pháp có thể vừa công vừa thủ. Hạ Nhân Long vừa đỡ được chiêu “Hạnh Hoa Xuân Vũ” thì Lục Phỉ Thanh lại đánh tiếp một đòn “Tam Hoàn Âm Nguyệt” làm cho y rối loạn tâm thầm. Cặp Ngô Câu kiếm của hắn bị lép vế hẳn, không còn lợi hại như lúc đầu nữa. Từ thế công, Hạ Nhân Long bị dồn vào thế thủ. La Tín đứng ngoài biết Hạ Nhân Long không phải là đối thủ của Lục Phỉ Thanh bèn rút cây “Thất Thiết Cương Tiên” to lớn nhảy vào trợ lực. Lục Phỉ Thanh biết mình trong thế “mệt đấu khoẻ” nên không muốn dùng sức đối chọi với La Tín. Thay vì dùng Bạch Long kiếm chọi thẳng với cây roi sắt to lớn, ông ta xoay lưỡi kiếm, nhắm mấy ngón tay của La Tín mà chém. La Tín la lên một tiếng “Ối!” rồi buông cây “Thất Thiết Cương Tiên” xuống đất rồi nhảy ra khỏi vòng chiến. Tiêu Văn Kỳ thừa cơ bất ý lanh lẹ đánh ra một đòn mạnh mẽ sau lưng nơi bả vai của Lục Phỉ Thanh. Năm trước, Tiêu Văn Kỳ đến Lạc Dương thụ giáo với họ Hàn. Ngoài chưởng pháp, họ Hàn còn dùng một thứ gang rất tinh khiết gọi là tinh cương chế tại ra một món vũ khí gọi là Thiết Cầm Sát. Hàn gia vốn nổi tiếng về môn “Thiết Cầm Sát”, truyền đến người con gái thứ năm là Hàn Ngũ Nương thì không còn ở chốn phồn hoa đô hội nữa mà lên chốn thâm sơn để cố luyện cho tuyệt kỹ mình ngày môt thêm tinh vi.
Thứ vũ khí này hai đầu thì nhọn, hai bên thì sắc; khi công thì chẳng khác gì cây “khai sơn đại phủ”, khi thủ thì giống như một cái khiên. Trong ruột, Thiết Cầm Sát trống rỗng như như lòng một ống đồng chứa được 12 cây đinh nhọn y hệt như mũi tên gõi là “Cầm Sát đinh”. Một vũ khí có đến ba cái lợi hại như vậy thì đủ hiểu nguy cơ thế nào cho người phải đối phó cùng nó. Tiêu Văn Kỳ được họ Hàn truyền dạy cho cả chưởng pháp lẫn Thiết Cầm Sát. Cây Thiết Cầm Sát của hắn là vật mà con gái nhà họ Hàn chỉ dùng để tập luyện nên y thường bị giới giang hồ chê bai ố ngạo. Tiêu Văn Kỳ rất lấy làm khó chịu. Do đó, y mới dùng tinh cương đập thành một cây thiết bài để cầm tay cho oai. So với Thiết Cầm Sát của họ Hàn thì có khác đôi chút, nhưng cách sử dụng thì không sai biệt tí nào. Lục Phỉ Thanh nghe sau lưng có tiếng gió liền nhảy qua một bên. Thế là Thiết Bài của Tiêu Văn Kỳ đã đánh trật. Lục Phỉ Thanh kế đến xoay mình hớt cho Tiêu Văn Kỳ một nhát kiếm lẹ như sao xẹt. Tiêu Văn Kỳ lấy Thiết bài ra chống đỡ, nhưng bị Nhu Vân kiếm của Lục Phỉ Thanh chém tơi bời như mưa tuôn, lá rụng. Theo định luật thường thì bất luận là sử dụng quyền hay vũ khí, hễ một khi đánh ra một chiêu thì tay hoặc khí giới phải thu về rồi mới có thể đánh tiếp chiêu thứ hai được. Nhưng Nhu Vân kiếm là một môn tuyệt kỹ hiếm có. Một khi đã rèn luyện tinh thông thì sau khi xuất chiêu, mặc cho đối phương né tránh hay đón đỡ cách nào, vẫn có thể chém tiếp nhiều nhát kế tiếp nữa. Lối đánh đó thường làm hoa mắt đối phương. Nội lo mà chống đỡ cũng đã mệt rồi chứ đừng nói là phản công. Hạ Nhân Long và La Tín thấy Tiêu Văn Kỳ bị Lục Phỉ Thanh dùng Bạch Long kiếm đàn áp liên miên, tay chân luống cuống hết cả, tình trạng hết sức khốn đốn. Hai người láy mắt bảo nhau rồi chia hai phía tả hữu xông vào trợ chiến, đánh rất hăng. Một cây Thiết bài, Một cây Thất Tiết Cương Tiên và một cặp Ngô Câu kiếm vây chặt Lục Phỉ Thanh vào giữa.
Lục Phỉ Thanh sau khi bất cẩn trúng phải độc thủ của Tiêu Văn Kỳ, giờ lại phải luôn tay chống đỡ với ba người nên sức lực có kém đi, và vết thương bắt đầu hành hạ thật khó chịu. Lục Phỉ Thanh biết nội thương đã bắt đầu bộc phát. Nếu kéo dài cuộc đấu thì rất có thể đưa tánh mạng mình đến chỗ hiểm nghèo. Nhu Vân kiếm tuy lợi hại nhưng thật khó một lúc mà hạ được cả ba tên cường địch. Còn như đánh vẹt một mạng để dùng thuật phi hành mà tẩu thoát thì không phải là thượng sách. Ông ta đang bị thương, chân khí suy giảm rất nhiều. Do đó thuật phi hành sẽ chậm đi nhiều. Nếu bị hai tên đuồi theo thì thật khó lòng mà thoát khỏi. Thật sự lúc này ba người chỉ cần cầm cự ngang ngửa với Lục Phỉ Thanh mà thôi vì chúng biết trận đấu càng kéo dài thì phần thắng sẽ về chúng. Lục Phỉ Thanh vừa đánh cầm chừng, vừa than thầm: - Không ngờ Lục Phỉ Thanh hôm nay phải chết dưới tay ba con chuột như thế nào, hỡi ôi! Nhưng rồi ông ta lại nghĩ: - Quân tử phục thù, mười năm chưa muộn. Việc gì mà ta phải liều lĩnh với chúng chứ! Hãy tìm kế thoát thân rồi sau này sẽ tìm đám “Quảng Đông lục ma” thanh toán món nợ này sau có hơn không. Nghĩ đoạn, lòng Lục Phỉ Thanh lắng dịu lại, không còn nghĩ đến chuyện đấu trí mạng nữa. Ông ta định thần lại để vết thương không vì xúc động mà phát ra. Thanh Bạch Long kiếm bỗng từ thế công xoay sang thế thủ, dùng để hộ thân chứ không còn đâm chém loạn xạ nữa. Thấy thế, bọn Tiêu Văn Kỳ mừng thầm vì tưởng lầm là Lục Phỉ Thanh đã kiệt sức, chỉ còn sức thủ mà không còn sức công nữa. La Tín la lớn:
- Hắn kiệt lực rồi! Tiêu tam ca, đừng cho hắn nghỉ tay. Cứ dồn hắn vào giữa mà đánh thì không giết được hắn cũng có thể bắt sống được. Tiêu Văn Kỳ đáp: - La hiền đệ! Anh nhường cái đầu hắn cho em đó. Hãy chặt lấy đem về cho triều đình mà lập công. Mạng hắn sắp tận rồi! Ha Nhân Long cũng xen lời, nói: - Kiếm thuật hắn còn lợi hại lắm, chưa thể giết hắn ngay được. Chúng ta hợp nhau lại làm nhục hắn một phen cho hả giận đã. Kìa, hai tay hắn bủn rủn cả rồi! Cả ba vui mừng reo hò rồi cùng tiếp tục hợp sức tấn công Lục Phỉ Thanh tới tấp, tưởng như cá đã vào rọ, chỉ cần tháo gỡ đem về nhà mà làm thịt thôi. Lục Phỉ Thanh không chút giận dữ trước những lời của bọn Tiêu Văn Kỳ. Ông bình tĩnh sử dụng Bạch Long kiếm, đem những đường gươm tuyệt diệu trong Nhu Vân kiếm thuật ra ứng phó. Lục Phỉ Thanh quát lên một tiếng, nhắm La Tín chém liền hai nhát ngang phía cổ. La Tín hoảng hốt lùi ra sau mấy bước, để hở ra một khoảng trống giữa vòng vây. Lục Phỉ Thanh không bỏ lỡ cơ hội, liền dùng ngay thế “Mãn Thiên Hoa Vũ”. Kiếm quang xẹt qua xẹt lại, tả hữu, trên dưới, trước sau, như bão táp mưa sa. Tiêu Văn Kỳ và Hạ Nhân Long cả kinh tránh né liên hồi. Lục Phỉ Thanh liền tung người một cái đã ra được khỏi vòng vây. La Tín thất thanh kêu lên: - Không xong! Tên giặc già này toan chạy trốn. Đừng cho nó trốn thoát! Dứt lời, y bèn rượt theo Lục Phỉ Thanh. Mé sau, Tiêu Văn Kỳ và Hạ Nhân Long cũng nhập bọn. Thấy dùng khinh công khó theo kịp nổi Lục Phỉ Thanh, Tiêu Văn Kỳ liền cầm Thiết bài nhắm về phía Lục Phỉ Thanh bắn ra ba mũi “Cầm Sát đinh”. Lục Phỉ Thanh vốn đã đề phòng ám toán nên chỉ nghe tiếng gió là đã biết ngay. Ông ta dùng kiếm gạt được hai mũi đinh đồng thời tung mình lên để tránh mũi thứ ba. Tiêu Văn Kỳ lại phóng thêm ba mũi “Cầm Sát đinh” ra ba phía, mục đích không để cho Lục Phỉ Thanh dùng khinh công tẩu thoát được nữa. Thấy cả ba mặt đếu có ám khí phóng tới, Lục Phỉ Thanh liền đứng nguyên tại chỗ lấy tay bắt từng cái một.
Lục Phỉ Thanh biết ám khí “Cầm Sát đinh” này của Tiêu Văn Kỳ rất lợi hại, không thể để cho nó ghim vào thân thể được. Vì người trúng phải “Cầm Sát đinh” rồi thì có rút được ra thì da thịt mình cũng bị dính vào đó mà theo ra. Nhưng nếu cứ để yên như vậy thì chỉ sau một thời gian ngắn ngủi là phải chết. Những môn phái chính tông như Thiếu Lâm và Võ Đang không bao giờ dùng ám khí để đánh với bất cứ ai, và gần như cấm hẳn môn đồ không được học hay sử dụng nó. Vì bôn tẩu giang hồ đã nhiều nên kiến thức Lục Phỉ Thanh rất rộng, biết rõ từng loại ám khí cũng như sự lợi hại của nó. Chính ông ta cũng biết sử dụng một số ám khí, nhưng không bao giờ thèm dùng đến, vì cho rằng dùng ám khí là do ở sự khiếp nhược đối phương, không dám tự tin vào võ công để quyết đấu. Vì vậy, dù lâm vào đường cùng, Lục Phỉ Thanh vẫn không nghi đến việc dùng ám khí để trả đũa. Đứng bắt ám khí một hồi, Lục Phỉ Thanh thấy không có lợi nên bèn đợi lúc thuận tiện, dùng khinh công mà tẩu thoát. Xuống được dưới chân đồi, Lục Phỉ Thanh mới hơi yên tâm vì biết bọn Tiêu Văn Kỳ không dễ gì theo kịp được mình. Nhưng rủi thay, chưa kịp nghỉ chân được bao lâu thì nội thương của ông ta lại tái phát.
Lục Phỉ Thanh cảm thấy hết sức đau đớn từ trong bụng mà ra, mắt thì hoa cả lên, mặt mày xay xẩm. Bọn Tiêu Văn Kỳ lúc đó đã đuổi đến nơi. Thấy Lục Phỉ Thanh đứng không muốn vững thì biết ngay ông ta đang bị nội thương hoành hành. Cả ba cùng vui mừng hớn hở, lại vây chặt lấy Lục Phỉ Thanh mà tấn công ồ ạt, mạnh bạo hơn nữa. Lục Phỉ Thanh gắng gượng, chống cự với ba người hơn mười hiệp nữa. Vì dùng sức quá nhiều ở cánh tay mặt nên bên hông mặt chợt đau nhói lên, Lục Phỉ Thanh liền chuyển kiếm sang tay trái nhắm Tiêu Văn Kỳ tấn công mãnh liệt. Tiêu Văn Kỳ bị kiếm thuật lạ lùng của Lục Phỉ Thanh tấn công bất thình lình thì hoảng hốt thối lui ra sau mấy bước. Thừa cơ hội tốt đó, Lục Phỉ Thanh dùng tay mặt phóng ra một chiêu “Bạch Hồng Quán Nhật” nhắm ngay Hạ Nhân Long chém bổ xuống. Hạ Nhân Long vội vã tránh sang bên trái, lại bị ngọn kiếm của Lục Phỉ Thanh chém phớt qua một thế rất hiểm ác. Hạ Nhân Long lại né sang bên phải thì mặt chạm phải những tia hào quang của bảo kiếm làm chói mắt. Ngọc Phán Quan cả sợ, không còn cách nào tránh đòn cho dịp được nữa. Tánh mạng y chẳng khác nào như sợi chỉ treo chuông, mười phần nguy hiểm cả mười. Nhưng y trí óc y cũng khá linh mẫn. Trong lúc cấp bách, y chợt nghĩ ra được một cách là nằm dài trên mặt đất loan song câu đón đỡ. Lục Phỉ Thanh toan đánh bạt song câu của Hạ Nhân Long thì nghe hơi gió phớt qua đàng sau gáy. Thì ra La Tín dùng cây Cương tiên sử dụng thế “Thái Sơn Yểm Đinh” đánh sả xuống vai Lục Phỉ Thanh một cái hết sức mạnh mẽ. Lục Phỉ Thanh hai gót chân trụ vững, rùn mình nhảy vọt tới như một lằn tên, thuận tay điểm trúng vào “Huyết Môn huyệt” của La Tín. Cây Cương tiên của La Tín đã lỡ đà, tuy hắn biết là không thể nào đánh trúng được Lục Phỉ Thanh được nữa nhưng không cách nào thu về kịp. “Chát” một tiếng, cây Cương tiên đập đúng ngay tảng đá phía dưới đến tóe lửa. Rồi “ối” một tiếng, cả thân thể La Tín sau đó mềm nhũn ra, không còn cử động được nữa vì huyệt đạo của hắn đã bị Lục Phỉ Thanh điểm trúng.
Tiêu Văn Kỳ dốc toàn lực, phóng ra thêm ba cây “Thiết Cầm đinh” bay vù tới sau lưng Lục Phỉ Thanh. Thấy không thể tránh né kịp, Lục Phỉ Thanh chụp ngay La Tín làm bia đỡ. Một tiếng rú phát lên rùng rợn, cả ba cây ám khí đã ghim sâu vào bụng La Tín chết không kịp ngáp. Thấy ám khí của mình không hại được kẻ địch mà lại giết oan đồng bọn, Tiêu Văn Kỳ lửa giận phừng phừng, cầm cây Thiết bài đánh đông chém tây, khí thế vô cùng hiểm ác. Lúc ấy Hạ Nhân Long cũng vừa mới vùng dậy được. Lục Phỉ Thanh nghĩ rằng trừ khử được tên nào càng sớm càng hay nên tay trái hươi thanh Bạch Long kiếm chém vụt một đường. Hạ Nhân Long hoảng sợ, lùi lại một bước. Tiêu Văn Kỳ xông tới dùng Thiết bài bổ vào Lục Phỉ Thanh, buộc ông ta phải quay mình tránh né. Nhờ vậy, Hạ Nhân Long mới thoát được nguy hiểm. Ybèn nhảy vào trợ chiến với Tiêu Văn Kỳ. Mặc dù tránh được Thiết bài của Tiêu Văn Kỳ, nhưng vết thương trong người Lục Phỉ Thanh lại bị động, càng lúc càng đau đớn nên tiềm lực chiến đấu của ông ta vì thế mà giảm đi, không còn được hăng như trước nữa. Tiêu Văn Kỳ thấy vậy mừng rỡ, nỗ lực đánh rấn lên, giở hết những đòn tuyệt kỹ ra quyết hạ địch. Cây Thiết bài trên dưới, tả hữu, liên tiếp tấn công Lục Phỉ Thanh không ngừng. Đột nhiên, Tiêu Văn Kỳ từ đâu nhìn thấy thanh Bạch Long kiếm của Lục Phỉ Thanh như một lằn sét trên cao chém xuống. Thấy Tiêu Văn Kỳ thất thế, Hạ Nhân Long bèn đưa cây Ngô Câu kiếm ra đỡ cản lại. Chằng ngờ sau đó Lục Phỉ Thanh bất ngờ dùng trọng thủ pháp túc công lực, một chân đá và một tay đánh rớt cả cặp Ngô Câu kiếm của Ngọc Phán Quan xuống đất. Còn thanh Bạch Long kiếm vì không
bị ngăn trở nữa nên cứ thế mà nhắm ngay bụng Hạ Nhân Long đâm tới. Hết đường tránh né, Hạ Nhân Long bị đâm một nhát từ bụng xuyên qua lưng, ngã lăn ra chết trên vũng máu. Hạ sát xong Hạ Nhân Long, Lục Phỉ Thanh quay mình lại đối phó luôn với Tiêu Văn Kỳ. Thiết bài của Tiêu Văn Kỳ đánh ra chưa kịp thâu lại thì hắn nghe khắp người đau đớn nhức nhối không làm sao chịu nổi. Đôi mắt Tiêu Văn Kỳ hoa lên, trông thấy phía trước đen thui như mực, chẳng còn phân biệt được gì nữa... Có thể nói là Lục Phỉ Thanh đã đến đường cùng nên đâm ra liều lĩnh và bất chấp hậu quả. Đang lúc đánh với Tiêu Văn Kỳ và Hạ Nhân Long thì bị vết thương hành hạ đau đớn khôn tả. Biết không thể kéo dài thêm được nữa, Lục Phỉ Thanh nghiến răng, vận nội công chịu đựng một Thiết bài của Tiêu Văn Kỳ đánh vào bả vai mình để có thì giờ phóng kiếm giết Hạ Nhân Long trước. Kết liễu tánh mạng Hạ Nhân Long xong, Lục Phỉ Thanh liền dùng năm ngọn Phù Dung châm nhắm thẳng Tiêu Văn Kỳ bắn ra một lượt. Vốn dĩ Tiêu Văn Kỳ đứng cách Lục Phỉ Thanh không xa mà kỹ thuật dụng châm của Lục Phỉ Thanh lại nhanh như chớp, đồng thời kim châm lại nhỏ như sợi tóc thì làm sao Tiêu Văn Kỳ tránh cho khỏi! Vừa hí hửng đánh trúng được Lục Phỉ Thanh một Thiết bài chưa kịp thâu về thì đôi mắt Tiêu Văn Kỳ bị năm ngọn Phù Dung châm ghim vào. Lục Phỉ Thanh giận Tiêu Văn Kỳ lòng dạ độc ác nên mới hạ độc thủ đến mức đó, chứ xưa nay, ông chưa hề sử dụng ám khí với bất cứ ai, dù là kẻ thù. Tiêu Văn Kỳ sau khi trúng châm mù cả đôi mắt thì đau đớn, đứng trơ ra như một thây ma chết. Lục Phỉ Thanh sấn tới, hai tay dùng một thế “Câu Tiên quyền” kết liễu mạng sống của y để trừ hậu hoạn. Sau bao năm ẩn tích, Lục Phỉ Thanh chỉ trong một đêm vì phải hạ sát ba kẻ tử thù đã phải thi triển hết tất cả bình sinh tuyệt kỹ, từ quyền cước nội công, phép điểm huyệt cho đến kiếm pháp, thậm chí cả ám khí nữa!
Vẫn biết là hạ sát Tiêu Văn Kỳ thì mối thâm thù với “Quảng Đông lục ma” sẽ càng ngày càng kết chặt thêm. Nhưng nếu không hạ độc thủ thì không cách nào được toàn tánh mạng đêm nay được. Đó là một sự bất đắc dĩ mà thôi! Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ, nếu để xác Tiêu Văn Kỳ lại sẽ có nhiều bất tiện nên phải cố làm sao tìm cách nào để phi tang... Rừng khuya vắng vẻ. Gió thổi lành lạnh... Ánh trăng mờ trong vầng mây đen lố dạng rọi vào ba tử thi đẫm máu trên ngọn cỏ điểm sương. Tiếng chim kêu về đêm nghe càng buồn thảm. Lục Phỉ Thanh tuy là một người có bản lãnh cao siêu, khí khái can trường, nhưng không hiểu sao vẫn cảm thấy ghê rợn thế nào! Lục Phỉ Thanh cởi chiếc áo trong người ra, lấy tay xoa nhẹ trên vết thương ở bả vai bên trái rồi đứng thẳn người lên, dùng phép hô hấp hít thở không khí để bồi nguyên lực trở lại. Sau đó, ông ta mới lau sạch thanh Bạch Long kiếm rồi tra lại vào vỏ. Vốn là người tinh tế, Lục Phỉ Thanh thu hồi năm ngọn Phù Dung kim châm trong đôi mắt của Tiêu Văn Kỳ cất kỹ rồi mới đào lỗ chôn ba tử thi kỹ lưỡng xuống dưới chân gò hoang rồi sau đó mới khỏa bằng. Làm xong từng ấy việc, Lục Phỉ Thanh nghe trong người mệt mỏi yếu đuối vô cùng. Khắp mình mẩy ông ta lại vấy đầy máu me tanh tưởi, hôi hám. Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ nếu cứ như vậy mà đi ngoài đường sá thì không cách nào khỏi bị tình nghi, và bắt buộc nhà chức trách sẽ phải theo dõi. Suy nghĩ thật chín chắn, Lục Phỉ Thanh thấy không còn cách nào hơn là trở về lại tư dinh của Lý Khả Tú để tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo thì mới có thể đi đâu thì đi. Ý định của Lục Phỉ Thanh là vậy. Chẳng ngờ hôm ấy Lý Mộng Ngọc dậy sớm hơn thường ngày và đến thư phòng của Lục Phỉ Thanh nên thành thử mọi chuyện đều bại lộ, không còn theo như dự tính được nữa...
Sau khi Lý Mộng Ngọc vâng lời ra khỏi thư phòng, Lục Phỉ Thanh nằm trên giường nghe vết thương đau nhức không chịu nổi, nằm hôn mê đi lúc nào không biết... Lục Phỉ Thanh đang mơ mơ màng màng thì thấy có bóng người đứng sát bên giường mình rồi tai nghe như có tiếng ai gọi nhỏ: - Lão sư! Lão sư mau tỉnh lại! Lục Phỉ Thanh cố gắng mở hai mi mắt nặng nề ra thì thấy người đó không phải ai xa lạ mà chính là đứa nữ đệ tử yêu quý bấy lâu nay là Lý Mộng Ngọc... Trong hai tháng trời kế tiếp được nghỉ dạy, chỉ nằm yên một chỗ mà dưỡng bệnh lại nhờ có nội công phi phàm nên Lục Phi Thanh lần hồi bình phục lại được rất nhiều. Thêm vào đó, nhờ có Lý Mộng Ngọc xin với cha tìm thầy giỏi đến săn sóc, mua đủ các loại thuốc tốt để điều trị nên nội thương của Lục Phỉ Thanh không còn điều gì phải lo ngại nữa. Suốt hai tháng trời, giờ khắc nào Lý Mộng Ngọc cũng đều có mặt ngay bên cạnh Lục Phỉ Thanh săn sóc tận tình, chăm lo hết dạ. Người bình thường sẽ cho đó là cái tình thầy trò gắn bó nên Lý Mộng Ngọc ân cần lo cho trọn đạo, nhưng nào biết trong thâm tâm Lý Mộng Ngọc còn có những ý nghĩ khác hơn. Từ hôm chính mắt được trông thấy ngón tuyệt kỹ của Lục Phỉ Thanh dùng Phù Dung châm bắn chết những con ruồi trên bảng, Lý Mộng Ngọc bắt đầu để ý. Qua ngày thứ hai, nàng lại càng thắc mắc thêm về hành tung kỳ bí của sư phụ nàng hơn nữa. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng “thông minh vốn sẵn tính trời” nên Lý Mộng Ngọc có được kiến thức để suy luận. Nàng tin chắc Lục Phỉ Thanh không phải chỉ là một cụ đồ già ngâm thơ vịnh phú mà là một nhân vật có nhiều bản lãnh phi thường. Nghĩ như vậy cho nên Lý Mộng Ngọc mới hết lòng săn sóc cho Lục Phỉ Thanh trong những ngày bệnh hoạn với hy vọng học được nơi ông ta bản lãnh chân truyền sau này. Sau khi lành vết thương, bình phục lại sức khỏe, Lục Phỉ Thanh nhớ ơn và cảm kích thịnh tình của Lý Mộng Ngọc đã tận tình chăm sóc cho mình trong cơn hoạn nạn. Lý Mộng Ngọc cũng giữ kín những điều mắt thấy tai nghe về Lục Phỉ Thanh mà chẳng bao giờ rỉ hơi ra cho một ai để ý.
Một hôm, thấy Lục Phỉ Thanh hoàn toàn khỏe khoắn lại, Lý Mộng Ngọc gợi ý hỏi: - Thưa thầy, chẳng hay bao giờ thầy bắt đầu dạy dỗ con lại? Thầy sẽ tiếp tục giảng về Sử Ký cho con hay giảng về điều gì khác hơn? Lục Phỉ Thanh trầm ngâm một lúc rồi đáp: - Sáng sớm ngày mai thầy sẽ bắt đầu. Sáng sớm hôm sau, khi bình minh vừa ló dạng, Lục Phỉ Thanh đã gọi đứa thư đồng dậy, sai ra phố mua mua giấy mực cần dùng. Đứa thư đồng đi rồi, Lục Phỉ Thanh mới gọi Lý Mộng Ngọc đến gần mình mà nói rằng: - Mộng Ngọc! Con là một đứa trẻ rất thông minh nên mới đoán được thầy là một nhân vật thế nào. Tuy vậy, hành tung của thầy ra sao con cũng không làm sao hoàn toàn hiểu biết được đâu. Lần này thầy gắp đại nạn được con hết lòng chăm lo săn sóc, thật đến người thân thích thuộc cũng không làm sao hơn được. Thầy thật cảm động vô cùng. Lần đầu khi để thư lại, thầy quyết ra đi không còn trở lại đây nữa. Và khi quay về lần thứ hai, trong thâm tâm thầy cũng định sẽ lại ra đi tiếp. Thế nhưng bây giờ thì thầy không thể bỏ con mà đi được nữa. Như vậy con đủ hiểu lòng thầy đối với con, trìu mến con đến thế nào rồi. Cho dù thầy không nói, chắc con cũng tự tìm hiểu được. Thầy cũng chẳng giấu diếm con nữa. Hôm nay thầy đem ngón tuyệt kỹ về kim châm ra truyền lại cho con. Con có bằng lòng không? Được nghe những lời chân thật tha thiết thốt ra từ đáy lòng của vị sư phụ, Lý Mộng Ngọc vui mừng không biết tả sao cho xiết. Nàng
quỳ xuống trước mặt Lục Phỉ Thanh lạy thầy ba lạy, làm lễ nhập môn. Lục Phỉ Thanh nhìn đứa học trò cưng nở một nụ cười sung sướng. Sau đó ông ta nghiêm sắc mặt nói với Mộng Ngọc: - Thầy biết rõ tính tình con cứng rắn lắm. Nếu đem võ công của môn phái thầy mà dạy cho con e có điều bất lợi. Do đó mà suốt bao lâu nay dạy con học đạo lý văn chương chẳng lúc nào thầy tỏ cho con biết là thầy có bản lãnh cả. Không tỏ cho con biết là không có ý định truyền võ nghệ của môn phái thầy lại cho con. Đến giờ phút này, cảm lòng thành khẩn của con, lại nhận xét thêm về tư chất của con, thầy vẫn còn phân vân chưa quyết. Có vài lần thầy định gọi con đến để truyền dạy nhưng rồi lại thôi! Chỉ vì... Nói đến đây, Lục Phỉ Thanh trầm ngâm suy nghĩ giây lâu mà không tiếp tục được lời nào. Lý Mộng Ngọc thấy vậy càng hồi hộp trong lòng nên đánh bạo thưa rằng: - Thưa thầy. Con nhất định tuân theo lời thầy dạy bảo, quyết chẳng bao giờ làm sai. Lục Phỉ Thanh nói: - Việc của lệnh trên làm thật thầy không tán thành tí nào cả! Một ngày nào, khi con khôn lớn, biết phân biệt phải trái, chánh tà, thầy sẽ chỉ bảo sau. Hôm nay con đã đã lạy thầy làm lễ bái sư chịu làm đệ tử thì trước nhất con phải nghiêm giữ những giới điều trong môn phái của thầy. Con có bằng lòng như vậy chăng? Lý Mộng Ngọc thưa: - Những lời của lão sư dạy bảo, con xin ghi lòng tạc dạ, không bao giờ dám làm tái ý, nghĩa là không dám vi bội lời thầy. Lục Phỉ Thanh gật đầu, nói: - Trước hết thầy cho con biết là nếu sau này con dùng võ công tuyệt đỉnh của thầy truyền dạy mà giúp Kiệt làm dữ thì tình thầy trò của chúng ta không còn nữa. Và khi đó, chính thầy sẽ phải đi lấy đầu của con đó. Lời nói Lục Phỉ Thanh hết sức nghiêm nghị, Lý Mộng Ngọc sợ sệt, chẳng dám hó hé, chỉ biết cúi đầu vâng dạ. Sau đó, Lục Phỉ Thanh tỉ mỉ từng ly từng tí ân cần chỉ dạy cho Lý Mộng Ngọc cách điều thần luyện khí, dạy cách thức để làm sao
luyện cho được cơ bản của 10 ngón tuyệt kỹ là “Thập Hà Cẩm”, 37 thế trường quyền. Trưóc tiên dạy cách luyện sức, sau dạy cách luyện quyền để khi tuôn ra có sức mạnh như ngăn sông đóa núi được. Kế tiếp, Lục Phỉ Thanh lại dạy ngón “Vô Cực huyền công” khi xuất chiêu tựa như phun lửa. Ngoài ra, ông còn dạy Lý Mộng Ngọc các phương pháp luyện mắt, luyện tai, phóng đạn buông tên bằn hai tay cùng những cơ bản dùng ám khí lợi hại. Chỉ trong hai năm, một phần nhờ vào sự thông minh của Lý Mộng Ngọc; một phần nhờ Lục Phỉ Thanh tận tình chỉ dạy có phương pháp; sự tiến bộ thật là phi thường, nhanh chóng trông thấy rõ rệt, chẳng khác gì một con thiên lý mã ngày đi ngàn dặm, học một biết thêmmười. Lục Phỉ Thanh thấy Lý Mộng Ngọc đã thông minh lại chăm chỉ luyện tập nên tiếp tục đem sở học bình sinh của mình mà truyền dạy mà không tiếc. Hai năm nữa trôi qua, Lục Phỉ Thanh mới đem “Nhu Vân kiếm thuật” và “Phù Dung kim châm” ra dạy cho Lý Mộng Ngọc. Sau 5 năm khổ luyện, Lý Mộng Ngọc đã rành hết mọi thứ, từ Kim châm cho đến Kiếm thuật; Khinh công, Quyền cước..., môn nào cũng đến mức cao siêu huyền diệu, chỉ có một điều là chưa đạt được đến mức Lôi hỏa của tuyệt kỹ công phu mà thôi. Và cũng vì lẽ chỉ học trong nhà, chưa có dịp ra ngoài thi thố võ công nên “kinh nghiệm chiến trường” Lý Mộng Ngọc chưa có được. Bản tính nàng lại cẩn thận và kín đáo nên không để những điều dạy dỗ của Lục Phỉ Thanh lọt ra ngoài.
Cứ mỗi ngày vào giờ ấn định, Lý Mộng Ngọc một mình ra vườn hoa sau tập luyện võ nghệ. Từ nhỏ Lý Mộng Ngọc đã ham đánh quyền múa kiếm nên khi thấy nàng tập luyện, không một ai để ý hay nghi ngờ điều gì. Và sau 5 năm trời đó, cha nàng là Lý Khả Tú được tiếp tục thăng quan đều đặn, và giờ đây được triều đình gia phong chức “Đại tướng quân An Biên Hầu”, danh tiếng vang dội khắp gần xa. Năm Càn Long thứ 23, nhờ lập được nhiều chiến công hiển hách, Lý Khả Tú được bổ nhiệm trấn thủ tỉnh Triết Giang. Ngày lâm hành, tự lãnh đám khinh kỵ đi trước đến nhiệm lý. Tất cả gia quyến cùng gia sản, Lý Khả Tú cho quân sĩ đi hộ vệ ở đàng sau. Lý Mộng Ngọc vốn sinh trưởng tại vùng biên ải. Đây là lần đầu tiên được dịp ra ngoài chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn cảnh núi xanh sông biếc, cả một giải giang san cẩm tú của vùng Giang Nam nên lòng rất lấy làm thích thú. Còn Lục Phỉ Thanh vì lánh nạn nên phải xa lìa nội địa lâu ngày. Giờ đây có dịp trở lại chốn làng cũ quê xưa sau bao năm cách biệt nên lòng cảm thấy khoan khoái vô ngần. Nhưng nghĩ đến cảnh “sơn hà đổi chủ”, trong lòng Lục Phỉ Thanh cũng không khỏi bùi ngùi. Ngựa ông ta cỡi lọt lại đàng sau lúc nào mà cũng không hay. Lục Phỉ Thanh cùng với bọn gia đinh chở đồ tế nhuyễn của Lý Khả Tú trên mấy chục cỗ xe ngựa ì ạch trên lộ trường. Lý thái thái, mẹ của Lý Khả Tú ngồi trong một chiếc kiệu có bốn người khiêng, còn Lý Mộng Ngọc thì lại cỡi ngựa sải bay dặm thỏ. Đáng lý ra các cô khuê nữ phải ngồi trong kiệu mới phải chứ lẽ nào lại đi cỡi ngựa rong cương? Chỉ vì Lý Mộng Ngọc từ nhỏ đã háo võ nên lúc nào nàng cũng dạn dĩ, hăng say hoạt động như các đấng mày râu. Lần này nàng lại mặc y phục cải nam trang nên chỉ trừ người thân, không ai biết nàng là một “thiên kim tiểu thư”, con của một vị tướng quân quyền uy dang vọng. Tính tình Lý Mộng Ngọc lại giống hệt như thanh niên, từ cách đi đứng, nói cười tự nhiên nên khi khoác vào y phục của phái nam thì trông chẳng khác gì một “trang phong lưu anh tuấn”.
Lý thái thái ngồi trong kiệu nhìn thấy đứa cháu nội gái lầm lẫm uy nghi khẽ nhếch một nụ cười đắc ý, để mặc cho y thị tự do không cần câu thúc. Lý Khả Tú chọn một vài tên lính tâm phúc giao cho một viên Tham tướng để hộ vệ gia quyến. Viên Tham tướng này tên là Tăng Đồ Nam, tuổi ngoài 40, môi son, mày nhỏ, râu ngắn, mặt vuông hình chữ điền, tinh thần tráng vượng, thể cách hùng vĩ, chuyên sử dụng một cây thương gọi là “Lục Hợp Thương”. Tăng Đồ Nam võ nghệ cao cường, đa mưu túc trí, lại cẩn thận tinh tế nên Lý Khả Tú rất tín dụng trong những công việc khó khăn nặng nhọc. Có thể nói, Tăng Đồ Nam luôn làm tròn bổn phận được giao phó, ít khi nào lầm lẫn hay thất bại. Khi đoàn xe đến một hòn núi cao thì trời cũng đã sẫm tối. Bọn xa phu biết độ chừng 10 dặm nữa thì đến sông Tháp Bảo. Bên cạnh đó là một thị trấn lớn ở ngoại biên. Đến đó, đoàn xe sẽ tạm nghỉ lại qua đêm. Mọi người đang bàn tán thì Lục Phỉ Thanh bỗng nghe như phía trước có tiếng chân ngựa phi như bay. Để ý trông ra xa thì quả thấy có cát bụi tung mịt mù. Chỉ trong khoảnh khắc, hai con bạch mã, “tám vó” dong duổi như tên bay tới. Vừa liếc mắt lên thì hai con ngựa ấy như bay vụt qua trước mặt. Trên lưng ngựa, một kỵ mạ nằm mọp xuống yên, ra roi quất nhẹ, rời xa dần đoàn xe của Lý Khả Tú. Lục Phỉ Thanh nép vào bên đường, mắt thoáng nhận ra hai kỵ mã là một người cao và một người lùn. Người cao mày dài, mũi to, sắc diện trắng nõn như thoa phấn. Còn người lùn thì khí vũ rất hiên ngang. Cả hai người cỡi ngựa rất tài tình, có thể liệt được vào hạng “đệ nhất”!
Lục Phỉ Thanh từ đàng sau ra roi giục ngựa chồm tới phía trước để rược cho kịp Lý Mộng Ngọc và lớn tiếng gọi nàng: - Mộng Ngọc! Con có nhìn rõ được hình dung hai kỵ mã mới đi ngang qua không? Lý Mộng Ngọc đáp: - Thưa thầy, con trông không được rõ lắm. Phải chăng họ là người trong giới lục lâm? Sự nhận xét của Lý Mộng Ngọc không đúng vì nàng chưa từng đi lại trên chốn giang hồ. Cứ căn cứ vào cách cỡi ngựa của hai người cũng có thể biết được họ là khổ công luyện tập đến cỡ nào. Bọn cường đồ đạo tặc tất không làm như thế được. Lục Phỉ Thanh nói: - Thầy không thể nói rõ họ là hạng người nào được, nhưng cứ xem vào biểu nghi của họ thì chắc chắn đó là những giang hồ cao thủ, võ công đầy mình chứ không phải là phường lục lâm thảo khấu hướng mã tầm thường đâu! Lý Mộng Ngọc ngạc nhiên hỏi: - Sao thầy biết được võ công của hai người ấy? Lục Phỉ Thanh đáp: - Chỉ cần xem thuật cỡi ngựa của họ là hiểu ngay võ công họ không phải tầm thường. Có khó gì đâu? Đoàn xe của gia quyến Lý Khả Tú gần đến sông Tháp Bảo thình lình nghe tiếng vó ngựa dấy lên. Rồi lại thêm hai con tuấn mã nữa từ xa bay vụt tới lẹ như tên bắn. Lục Phỉ Thanh càng lúc càng lấy làm lạ, nói thầm: - “Lạ quá! Họ đi đâu thế này? Thật kỳ lạ hết sức!” Trời nắng gắt cả ngày, không một đám mây râm. Đoàn xa mã đi trên con đường hoang vu vắng vẻ, hai bên là rừng rậm, không một bóng nhà. Nhìn ra trước mặt là sông Tháp Bảo thấy có bóng người từ thị trấn đi ra. Lục Phỉ Thanh lại nghĩ thầm: - “Nếu không có việc gì gấp rút thì không ai đi đâu giờ này vì như thế tất nhiên phải về ban đêm.” Đi thêm một quãng nữa thì tới ngả vào sông Tháp Bảo. Người trong các quán, các tửu lâu đua nhau cho người ra đón khách rước vào. Tham tướng Tăng Đồ Nam lãnh trách nhiệm lo lắng cho đoàn xa kiệu của gia quyến Lý Khả Tú, chọn một quán tọ rất rộng rãi khoảng khoát ghé vào. Lục Phỉ Thanh và Lý Mộng Ngọc cũng vừa tới nơi, gò cương hạ mã. Quán trọ thật là bề thế, cửa vào thật là lớn, có treo một tấm bảng viết bốn đại tự: “An Thông khách sạn”.
viết bốn đại tự: “An Thông khách sạn”. Trong quán trọ có ba bốn tiểu nhị vui vẻ chạy ra phụ giúp đem hành lý của khách vào bên trong. Vì đoàn người là gia quyến của quan quyền nên từ chủ quán sấp xuống, ai nấy đều sốt sắng lo tiếp đón thật chu đáo, còn hơn cả thượng khách lúc bình thường. Lục Phỉ Thanh chỉ có một thân một mình nên chiếm riêng một phòng nhỏ cho tiện. Đối diện là gian phòng lớn của Lý Mộng Ngọc cùng với bà nộ là Lý thái thái và mẹ là Lý phu nhân. Lục Phỉ Thanh gọi cơm ăn qua loa thì trời đã nhá nhem tối. Người giúp việc trong lữ quán bèn đốt đèn lên cho sáng. Đi đường xa mệt mỏi, Lục Phỉ Thanh chỉ muốn nằm xuống đánh một giấc cho khỏe. Vừa định đi nghỉ dưỡng sức thì tai lại thấy tiếng vó ngựa “lộp cộp” từ xa phi tới nghe rõ mồn một giữa đêm thanh vắng. Lục Phỉ Thanh thấy vậy tự nói thầm: - “Giờ này mà có người phi ngựa đến hẳn là có việc gì khẩn cấp chứ không phải chơi!” Ông nhớ lại lúc đi đường liên tiếp gặp bốn nhân vật với kỵ thuật tài tình giục ngựa phi nước đại, mà ông chắc rằng người nào người
nấy đều có bản lãnh cao siêu. Lúc đó ông đã lấy làm lạ. Giờ đây lại còn cảm thấy lạ hơn nữa. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, đến trước lữ quán thì ngừng hẳn. Kế đến là tiếng mở cửa và tiếng của người giúp việc trong lữ quán. - Quý vị đi đường xa thật nhọc nhằn. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng trà ngon, rượu thơm đâu ra đó. Xin mời quý vị cứ việc ăn uống thật no say. Một giọng nói “ồ ồ” đáp lại: - Ngươi lấy lúa cỏ cho ngựa ta ăn đầy đủ nhé. Ta ăn cơm xong lập tức phải lên đường ngay! Lục Phỉ Thanh trong bụng lo lắng nghĩ rằng: - Vì lẽ gì mà cứ từng tốp hai người một nhắm hướng An Tây mà đến. Chỉ nhìn lối cỡi ngựa của họ ta cũng biết toàn là những cao thủ có bản lãnh hơn người. Ta từng ở quan ải nhiều năm thật nhưng chưa lần nào thấy việc lạ như hôm nay. Lục Phỉ Thanh bèn nhẹ gót bước ra khỏi phòng, lần qua ba gian phòng khác thì thấy có một gian phòng phía sau lữ quán. Đột nhiên, một giọng nói “ồ ồ” vang lên, nghe cho kỹ thì đúng của người lúc nãy dặn người giúp việc của lữ quán cho ngựa ăn cỏ lúa. - Triệu tam ca! Thiếu đà chủ tuổi còn trẻ măng như vậy thì không biết trong đám anh em có chịu phục mà tuân theo mệnh lệnh của người không? Lục Phỉ Thanh nghe qua câu này vội vã nín hơi, rón rén lại gần cửa sổ hé mắt nhìn vào bên trong. Xưa nay, ông vốn không có thói đi rình trộm, nghe chuyện của người khác, việc gì ông ta cũng đường đường chính chính minh bạch, rất ghét điều ám muội. Nhưng lần này gặp nhiều việc quái lạ làm cho ông ta phải hồ nghi. Hiện Lục Phỉ Thanh đang mang một cái án nặng nề. Kẻ thù thì luôn rình rập tứ phía chờ cơ hội bắt sống hoặc giết chết ông để lập công. Vì thế nên Lục Phỉ Thanh không thể nằm yên trong phòng mình được. Ông phải đi dọ thám đặng biết rõ tình hình để liệu mà đề phòng. Nép mình sau cánh cửa sổ, Lục Phỉ Thanh nghe có tiếng người đáp lại người có giọng “ồ ồ” ban nãy.
- Không khuất phục rồi cũng phải khuất phục! Lão nhân gia đã đã di mệnh như thế thì bất kể Thiếu đà chủ là ai, có ra làm sao đi chăng nữa, anh em chúng ta cũng phải đem hết lòng dạ sắt son ra phò trợ, bảo vệ người ấy. Giọng nói người này rõ ràng và quả quyết, chứa đựng một ý chí can trường. Chỉ nghe qua giọng nói, Lục Phỉ Thanh biết đây là một người có nội công thâm tuyệt. Biết hai người bên trong đang nói chuyện toàn là những nhân vật cừ khôi nên Lục Phỉ Thanh không dám xé giấy dán ngoài cửa sổ mà lẻn vào, chỉ kiên nhẫn tiếp tục lắng tai nghe trộm. Giọng nói “ồ ồ” khi nãy lại vang lên. - Hãy khoan nói đến việc anh em có chịu khuất phục hay không. Chỉ nội việc Thiếu đà chủ có chịu xuất sơn đảm nhận trách nhiệm hay không cũng đã khó khăn lắm rồi! Tiếng người kia trả lời: - Lần này toàn thể các vị Chánh, Phó hương chủ gồm Nội Tam đường, Ngoại Tam đường đều cỡi ngựa đến tiếp rước thì dầu muốn dầu không, Thiếu đà chủ khó mà từ chối được! Lục Phỉ Thanh bỗng rùng mình, tim đập mạnh, vì giọng nói người này nghe rất quen thuộc với ông ta. Nếu ông ta không lầm thì người này là một người bạn cũ tên gọi Triệu Bán Sơn, trước kia cùng ở trong Đồ Long bang với Lục Phỉ Thanh. Về niên kỷ, Triệu Bán Sơn kém Lục Phỉ Thanh 10 tuổi, nhưng nếu so về võ nghệ thì tài sức tương đương, chưa biết ai hơn ai kém. Lục Phỉ Thanh là nhị cao đồ của phái Võ Đang, còn Triệu Bán Sơn là đệ nhất cao đồ của phái Thái Cực ở Ôn Châu, sư phụ họ Vương, là bậc tiền bối trong giới võ lâm cao thủ.
Lúc còn ở Đồ Long bang, cả hai đã từng thi thố võ nghệ với nhau và đều khâm phục công phu tuyệt đỉnh của nhau. Từ lúc xa nhau cho đến nay cũng đã gần 20 năm. Tính ra, Triệu Bán Sơn cũng đã gần 50 rồi. Sau khi Đồ Long bang tan rã, kẻ ngược người xuôi, kẻ còn người mất, Lục Phỉ Thanh không hay tin tức Triệu Bán Sơn ra làm sao. Bầt ngờ hôm nay gặp lại cố nhân nơi quan ải, và chỉ còn cách nhau có một cái cửa sổ mà thôi. Gặp lại bạn cũ, Lục Phỉ Thanh vui mừng hớn hở, định bụng lên tiếng cho Triệu Bán Sơn biết đẻ họp mặt đàm tâm, phỉ tình hoài vọng. Thình lình trong phòng của Triệu Bán Sơn đèn đuốc vụt tắt tối mò rồi một mũi phi tiêu từ tay áo của Triệu Bán Sơn bay ra ngoài song cửa sổ lẹ không tưởng tượng được. Mũi phi tiêu ấy không nhắm vào Lục Phỉ Thanh. Một bóng người từ đâu lách mình sang một bên, thuận tay bắt gọn mũi phi tiêu. Người này toan la lớn nhưng Lục Phỉ Thanh đã phóng đến bên cạnh lấy tay bịt miệng, khẽ rỉ vào tai rằng: - Đừng con! Đừng lên tiếng! Có thầy đến đây, không sao! Người bắt mũi phi tiêu ấy không ai khác hơn, chính là Lý Mộng Ngọc. Lục Phỉ Thanh nắm tay người nữ đệ tử, dùng thuật “Xà Hành Hổ Phục”, lẹ làng lách ra xa cánh cửa nơi vừa xảy ra tấn kịch vừa rồi. Đưa Lý Mộng Ngọc về thẳng phòng riêng, Lục Phỉ Thanh dưới ánh sáng của ngọn đèn trông rõ Lý Mộng Ngọc mặ y phục dạ hành của đàn ông. Lục Phỉ Thanh không biết Lý Mộng Ngọc đã sắm đồ này từ bao giờ mà đêm nay lại đem ra dùng. Lục Phỉ Thanh toan răn trách vài lời nhưng khi nhìn vào lớp y phục dạ hành kia của đứa đồ đệ cưng thì không khỏi phì cười và nói: - Mộng Ngọc! Sao con dám đương đầu với người trong phòng kia? Con có biết người ấy là nhân vật thế nào không? Bị thầy chất vấn, Lý Mộng Ngọc đành cúi đầu ngậm miệng mà không biết trả lời làm sao. Ngơ ngẩn một hồi, Mộng Ngọc mới miễn cưỡng lên tiếng: - Không hiểu vì sao mà người ấy lại vô cớ phóng lén phi tiêu định hại con như thế?
- Không hiểu vì sao mà người ấy lại vô cớ phóng lén phi tiêu định hại con như thế? Đến phòng riêng của người ta rình rập là điều đại kỵ trong giới giang hồ. Lý Mộng Ngọc không biết tự trách mình điều này lại còn lên tiếng trách người. Lục Phỉ Thanh biết nàng chưa đủ kinh nghiệm giang hồ nên tìm lời khuyên bảo: - Hai người ấy không phải là người tầm thường, hay là người trong giới lục lâm đâu nhé! Cả hai đều là hào kiệt của một bang hội nào đó. Trong hai người đó, thầy biết được một. Luận về võ công thì người này không thua kém thầy chút nào. Bọn họ có việc gấp rút nên đi cả ngày lẫn đem mà không nghỉ. Nói cho con biết, người ấy không có ý hại con đâu, mà chỉ cảnh cáo con đấy thôi. Giả sử ông ta mà có ác ý thì làm sao con còn có cơ hội đứng đây với thầy bây giờ? Nhớ lần sau đừng bao giờ rình rập hay xen vào chuyện của người ta nhé. Thôi, con đi nghỉ đi! Lục Phỉ Thanh chợt nghe có tiếng mở cửa rồi tiếng vó ngựa chứng tỏ hai người quá gấp rút, đã lên đường đi mất rồi. Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ nếu lúc ấy mà tìm cách nhìn lại bạn cũ e rằng không khỏi bị bạn đem lòng ngờ vực. Sau khi đắn đo hơn thiệt, Lục Phỉ Thanh quyết định không nen đuổi theo mà gọi lại làm gì. Sáng hôm sau, đoàn kiệu xa lại tiếp tục lên đường. Ra khỏi Tháp Bảo độ chừng 30 dặm, Lý Mộng Ngọc nói với Lục Phỉ Thanh: - Thưa lão sư! Trước mặt chúng ta dường như lại có người đi tới nữa. Quả nhiên lúc đó có một cặp ngựa hồng đi song song, phi như bay tới. Vì hôm qua xảy ra quá nhiều việc lạ nên Lục Phỉ Thanh và Lý Mộng Ngọc không hẹn mà rằng, người nào cũng chú ý đến những người cỡi ngựa phi qua. Cặp ngựa này giống nhau như đúc, con nào trông cũng cao lớn mạnh mẽ, phi phàm. Càng lẹ hơn nữa là hai người ngồi trên ngựa. Cả hai người cũng giống nhau hệt như khuôn đúc,
như hai giọt nước. Cả hai ở vào khoảng 40 tuổi trở lại. Người nào cũng cao nhòng và ốm nhom. mặt vàng khè, mắt sâu hoẵm. Hiển nhiên là một cặp song sinh, là hai anh em sinh đôi. Khi đi ngang qua đoàn xe kiệu, cả hai người đều quắc mắt nhìn Lý Mộng Ngọc với ánh mắt kỳ dị. Lý Mộng Ngọc không chút sợ hãi, nhìn thẳng đăm đăm vào mặt họ. Cả hai người cũng chẳng thèm đếm xỉa gì tới, thúc vào hông ngựa, phi về hướng Tây. Lý Mộng Ngọc cười nói: - Tạo vật thật trớ trêu, sinh ra hai con quỷ giống nhau y như đúc! Nghe Lý Mộng Ngọc nói, Lục Phỉ Thanh sinh lòng ngờ vực nhìn theo bóng hai người trên ngựa, giống hệt như hai cần câu cắm trên lưng ngựa. Tự nhiên Lục Phỉ Thanh nhớ ra điều gì nói với Lý Mộng Ngọc: - Hai người ấy chắc chắn là Tây Xuyên Song Hiệp chứ chẳng là ai khác hơn. Trong giới giang hồ gọi là Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường vì đó là hai anh em song sinh họ Thường. Lý Mộng Ngọc cả cười nói: - Họ cũng tếu, biệt danh cũng ngộ! Có lẽ người ta muốn đem hai anh em ấy mà so sánh với quỷ vô thường chăng? Lục Phỉ Thanh nói: - Con không được thố tháp, nói càn nói bướng như vậy! Hai người ấy không phải hạng tầm thường đâu. Bản lãnh của họ rất cao siêu. Họ với thầy từng quen biết nhau. Thầy thường nghe thiên hạ nói rằng anh em họ Thường lúc nào cũng khắng khít như cặp bài trùng không khác gì Mạnh Lương với Tiêu Tăng. Hai anh em nhà ấy không người nào chịu cưới vợ, đi đến đâu cũng làm điều nghĩa hiệp, trượng nghĩa khinh tài có sức mạnh “muôn người khôn địch”, lại có võ nghệ tuyệt luân, rất được người đời kính phục gọi là “Tây Xuyên song hiệp”. Để phân biệt anh với em, một người lấy danh hiệu là Hắc Vô Thường, còn một người là Bạch Vô Thường. Lý Mộng Ngọc hỏi: - Hai anh em giống nhau như đúc sao lại gọi là Hắc với Bạch? Lục Phỉ Thanh nói: - Theo thầy được biết thì hai anh em họ Thường giống nhau gần như hoản toàn, chỉ có một điểm khác nhau duy nhất là người anh có
một nốt ruồi đen trong tròng mắt, còn người em thì không. Do đó, tên người anh được đặt là Thường Hích Chi, còn người em là Thường Bá Chi. Cả hai là đệ tử của Huệ Lữ đạo nhân thuộc phái Thanh Thành. Huệ Lữ chết rồi thì trong giang hồ không còn ai hơn được anh em họ Thường về môn Hắc Sa chưởng. Anh em họ Thường được chân truyền ngón ấy và luyện đến mức tuyệt kỹ, và cả hai nổi danh là “Xuyên Giang Hiệp Đạo”. Tuy mang tiếng là trộm nhưng cả hai nổi tiếng là “giúp người hiền diệt kẻ ác” thành thử mới được biệt danh là “Tây Xuyên song hiệp”. Lý Mộng Ngọc lại thắc mắc: - Cả hai người ấy cùng ra quan ải lần này chắc là có công việc gì tối quan trọng phải không thầy? Lục Phỉ Thanh nói: - Thầy chưa biết rõ được, nhưng chắc là phải như vậy rồi vì khi nào cả hai người ấy đi đến đâu thì nơi đó chắc chắn phải có chuyện “kinh thiên động địa” thôi! Lý Mộng Ngọc nói: - Nếu anh em họ Thường mà tìm chúng ta quấy rối thì chắc cây Bạch Long kiếm của thầy không thể nhường họ được!
Tuy Lý Mộng Ngọc nói ngoài miệng là Tây Xuyên Song Hiệp sẽ được nếm mùi Bạch Long kiếm của sư phụ Lục Phỉ Thanh nàng, nhưng trong thâm tâm lại đắc ý, muốn nói rằng anh em họ Thường sẽ được thưởng thức đường kiếm tuyệt luân của nàng vậy. Lục Phỉ Thanh nói: - Hai anh em ấy chẳng bao giờ tách giao đấu riêng rẽ cả, luôn luôn đoàn kết làm một khối, hợp sức cùng đánh. Dù là đánh với một người hay một chục người đi chăng nữa, họ vẫn chỉ làm như vậy. Lý Mộng Người cười khan một hồi nói: - Chắc sư phụ của hai anh em họ Thường lúc truyền võ nghệ cũng truyền bằng phương pháp đặc biệt là hai người phải đánh làm sao cho an rập bốn tay tung ra một lượt. Được xem họ đánh quyền chắc vui mắt lắm, tưởng tượn như giá gạo chày tư, hai người mà bốn chày, lên xuống nhịp nhàng rùm rụp! Thầy trò đang nói chuyện vui vẻ thì phía trước vó ngựa lại vang lên nữa. Lần này cũng lại hai người ngồi trên lưng hai con tuấn mã, một ngưòi là đại sĩ, còn một là người phàm trần. Vĩ đạo sĩ đeo một thanh kiếm dài ở sau lưng, da mặt xanh xao, trông như người bệnh lâu ngày, hơn nữa chỉ có một cánh tay mặt mà thôi. Cánh tay trái của đạo sĩ có lẽ bị đứt nên chỉ trông thấy có tay áo phủ kín từ vai trở xuống, giắt kín vào sợi dây lưng dưới rốn để khỏi bị gió thổi phất phơ như tàu lá chuối. Người thứ hai là một chàng có bướu trên cổ, giống hệt con lạc đà. Người thì tướng mạo xấu xí không còn chỗ nào nói được nhưng y phục thì đẹp đẽ hết chỗ chê, không thể nào tả được. Thấy thế, tánh trẻ thơ của Lý Mộng Ngọc lại nổi dậy. Rồi không cần đắn đo suy nghĩ lợi hại, nàng cười rộ lên, còn nói lớn tiếng: - Sư phụ à! Thầy trông thử anh chàng có bướu kia mới thật buồn cười làm sao ấy! Lục Phỉ Thanh đang định cản lại nhưng không còn kịp nữa, lời của Lý Mộng Ngọc đã thốt ra khỏi miệng rồi! Người có bướu nghe được câu nói của Lý Mộng Ngọc thì mặt sa sầm lại, tức giận hầm hầm, hai mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Lý
Mộng Ngọc. Ngựa của hắn vừa phi ngang qua, hắn liền đưa cánh tay dài định nắm đuôi con ngựa của Lý Mộng Ngọc giật một cái. Hình như vị đạo sĩ đã liệu biết trước được ý định của ngưòi có bướu khi sắc giận hiện ra trên nét mặt của y nên đã có chủ ý. Ông ta liền dùng roi ngựa gạt phăng đuôi ngựa của Lý Mộng Ngọc tránh khỏi bàn tay của người có bướu nói: - Chương thập đệ! Anh khuyên em đừng sinh sự với ai làm gì! Cứ bỏ qua đi là hơn! Trong khoảnh khắc bàn tay người có bướu nắm hụt đuôi ngựa của Lý Mộng Ngọc thì hai con tuấn mã chở họ cũng đã phi qua mặt Lý Mộng Ngọc như tên bay ra xa. Khi Lục Phỉ Thanh và Lý Mộng Ngọc quay đầu ngó theo thì bóng hai người kia đã mờ dần trong cát bụi. Rồi chẳng hiểu vì sao hai con tuấn mã của họ quay đầu trở lại phi nước đại như điện xẹt, chớp giăng. Người có bướu cỡi ngựa phi trước, Lục Phỉ Thanh ngó thấy thân pháp của y lanh lẹ vô cùng. Dùng ngón kỵ thuật “Đảo Tải Kim Chung”, người có bướu nghiêng vai tung mình lên một cái theo thế “Tôn Ngộ Không Cân Đấu Vân”, y đã trân trân đứng vững trên mặt đất. Gót vừa chấm lộ, người có bướu gật đầu ba cái đã đến sát mình ngựa Lý Mộng Ngọc. Lý Mộng Ngọc thúc ngựa chạy như bay, đồng thời rút thanh bảo kiếm ra sẵn sàng nghênh chiến. Nhưng người có bướu không tấn công Lý Mộng Ngọc mà chỉ thò tay trái ra chụp mạnh vào đuôi con ngựa Lý Mộng Ngọc mà thôi. Con vật đang sải bốn vó phi như giông thình lình bị nắm đuôi giật ngược lại thì hoảng sợ hí vang lên.
Người có bướu vẫn đứng nguyên chỗ cũ không hề nhúc nhích. Sức mạnh của hắn như thần, không hề bị sức lôi kéo của con ngựa Lý Mộng Ngọc làm cho xê dịch đi tí nào. Hắn đưa tay phải ra chặt nhẹ vào mông ngựa, cái đưôi của con vật bị tiện đứt chẳng khác nào như bị ai dùng dao sắc mà xén đi vậy. Lý Mộng Ngọc bị người có bướu phá cho một vố tức muốn khóc òa lên được vì từ xưa đến nay nàng chưa bị ai khinh khi, làm nhục đến như vậy! Nàng vốn tự đắc, cho rằng võ nghệ của mình chỉ trừ sư phụ ra, trong thiên hạ không ai sánh kịp. Lý Mộng Ngọc ức quá mà không biết làm gì bèn la lớn lên: - Thầy ơi! Con làm sao bây giờ! Lục Phỉ Thanh chứng kiến tất cả tấn kịch vừa xảy ra, mặt buồn dàu dàu, nghĩ mà giận Lý Mộng Ngọc cậy tài sinh sự để chuốc lấy nhục nhã vào thân. Ông định bụng sẽ mắng cho đứa học trò cứng đầu của mình một phen đích đáng nhưng khi nhìn thấy mắt Lý Mộng Ngọc ngấn lệ, nét hoa ủ dột u sầu mày liễu thì lòng lại thấy thương xót, không nỡ, và cũng không còn giận nàng nữa. Lục Phỉ Thanh nói vài lời an ủi, rồi chỉ dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào mà răn dạy. Đang khi ấy, bỗng dưng từ phía trước vọng lại những tiếng reo hò ầm ĩ không ngừng, tương tự như những câu “truyền rao”. - Bọn ta phái võ Duy Dương! Phái võ Duy Dương! Âm thanh vang lại mỗi lúc mỗi gần... --------------------------------------------------------------------------- Truyện còn có tên Hồng Hoa Kiếm
THƯ KIẾM ÂN CỪU LỤC KimDung www.dtv-ebook.com Chương 2 Hồng Hoa Hội Quyết Tôn Thiếu Đà Chủ - Tiêu Thanh Đồng Thề Đoạt Khả Lan Kinh Lý Mộng Ngọc nghe tiếng truyền rao ấy mười phần kỳ quái. Nàng không hiểu chuyện gì, hốt hoảng hỏi Lục Phỉ Thanh: - Sư phụ à! Đó là cái gì vậy? Con nghe lạ quá! Lục Phỉ Thanh đáp: - Đó là tiếng truyền rao của những kẻ hướng đạo cho một tiêu cục. Mỗi tiêu cục đều có những kẻ đi trước truyền tin như vậy, nhằm
mục đích báo trước cho các đảng lục lâm đừng đánh bậy mà lầm, đồng thời cũng là để rao cùng bạn đồng đạo rõ nếu cần thì ủng hộ. Tiêu cục phụ trách việc chuyên chở, bảo vệ hàng hóa, vàng bạc, hay tất cả những thứ gì quý giá mà người mướn giao phó cho đến nơi đến chốn an toàn và “giao hàng tận tay”. Làm nghề bảo tiêu này thì phải có bảy phần cảm tình với giới lục lâm và đồng đạo giang hồ, còn ba phần còn lại phải có bản lãnh tuyệt vời cao siêu vì đôi khi không còn đường thương thuyết thì chỉ còn cách phải giải quyết bằng quyền cước hay đao kiếm mà thôi. Người thủ lãnh của một tiêu cục phải là một người có uy danh lừng lẫy trên chốn giang hồ; phải có sự giao du rộng rãi, phải độ lượng khoan dung; phải nắm vững hết được tình hình trong các vùng lân cận, từng nẻo giao thông, từng địa hình địa vật; và phải có nhiều người bản lãnh cao cường dưới trướng. Nếu không có đủ những điều kiện cốt yếu ấy mà, ở tiêu cục càn bừa thì sẽ bị cướp hết hàng bảo tiêu, hại chết người và không chừng còn tự hại lấy bản thân mình nữa. Tiêu cục mỗi lần lãnh hàng bảo tiêu cho ai thì được hưởng hoa hồng lớn lắm. Có như vậy mới đủ chi cho các sở phí nặng nề. Mỗi lần nghe truyền ra như thế, các đảng lục lâm cũng như các giang hồ đồng đạo đều hiểu rõ tiêu cục đó từ đâu đến, thủ lãnh là ai rồi. Trường hợp các đám lục lâm có ý định cướp tiêu mà nghe những tiếng rao này thì họ sẽ cho cả đoàn bảo tiêu đi qua nếu quen với tiêu đầu hoặc tự lượng sức mình không thể cướp nổi. Nếu thấy lạ, họ sẽ đuổi những tên truyền rao đó trở lại mà không cho qua. Sau đó người của tiêu cục phải tìm cách dàn xếp. Nếu chủ trương ôn hòa, nghĩa là được đám lục lâm sợ sệt hay thông cảm, hoặc giả phải chi cho họ một ít tiền tài gọi là “mãi lộ” thì mọi chuyện sẽ êm đẹp, không có gì xảy ra. Nhưng nếu giải quyết bằng lời không xong thì tiêu cục chỉ còn một đường cuối cùng là chiến đấu đến tận cùng để vượt đường đi qua mà thôi. Có nhiều trường hợp tiêu cục chiến thắng nhưng cũng có nhiều khi “tiêu mất người chết”.
Lý Mộng Ngọc thầm cảm tạ thầy đã dạy cho nàng ít nhiều kiến thức để mở rộng thêm tầm mắt cho nàng. Nhưng tánh hiếu động của Mộng Ngọc lại nổi dậy mặc dầu mới bị một vố khóc sưót mướt, mắt chưa ráo lệ. Nàng cười thầm trong bụng nghĩ: - “Hay là mình thử cản đám người bảo tiêu này chơi cho vui. Chúng nào biết mình là ai đâu mà sợ.” Tuy nghĩ vậy nhưng còn sợ thầy không cho, với lại chưa biết đám bảo tiêu đó bản lãnh, thế lực ra sao nên Lý Mộng Ngọc hòi dò Lục Phỉ Thanh: - Sư phụ! Tiêu cục này do ai lãnh đạo vậy?
Lục Phỉ Thanh đáp: - Đó là Trấn Viễn tiêu cục, trụ sở chính nằm tại Bắc Kinh. Ngoài ra cũng còn những chi nhánh khác ở các nơi như Phụng Thiên, Tế Nam, Khai Phong, Thái Nguyên... Tổng tiêu đầu, tức là người cầm đầu tất cả trụ sở chính lẫn các chi nhánh tên là Vương Duy Dương mà giới giang hồ đặt cho danh hiệu là Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương. Đến nay, y đã gần 70 rồi nhưng vẫn còn oai phong lẫm liệt. Các đảng lục lâm hay các đồng đạo hễ nghe ra truyền “phái võ Duy Dương” thì không ai dám gây sự hay làm trở ngại điều gì. Nhờ vậy mà Trấn Viễn tiêu cục phồn thịnh vô cùng. Đáng lẽ ra, đến tuổi này Vương Duy Dương nên cáo lão về núi sống vui cùng “nước trí non nhân” chứ còn ham lợi lộc thêm chi nữa! Huốn hồ hơn 40 năm mở ra Trấn Viễn tiêu cục làm ăn, lão đã thâu của thiên hạ không biết bao nhiêu mà kể! Không hiểu sao lão còn chưa cho là đủ? Lý Mộng Ngọc hỏi: - Sư phụ, thầy có quen với Vương tổng tiêu đầu à? Lục Phỉ Thanh đáp: - Thầy từng tỉ thí với Vương Duy Dương về cả võ công lẫn kiếm thuật. Lão ta có môn tuyệt kỹ là Bát Quái chưởng và chuyên sử dụng một cây Bát Quái đao. Suốt bao năm trời tung hoành ngang dọc suốt miền Giang Bắc chưa tìm được địch thủ nào xứng tay. Do đó lão ta tự nhận và rất hãnh diện với danh hiệu “Uy Chấn Hà Sóc”. Lý Mộng Ngọc cao hứng hỏi thêm: - Lòng con thật hâm mộ vị lão anh hùng ấy. Sư phụ có thể dắt con đến ra mắt ông ta được chăng? Lục Phỉ Thanh lắc đầu nói: - Khó lắm! Vương Duy Dương chẳng bao giờ chịu gặp ai nếu không có điều gì mà lão cho là “tối cần”, hay không có điều gì lợi cho lão ta. Đối với đám hậu bối trẻ tuổi, lão ta lại càng không muốn tiếp! Càng nghe sư phụ chỉ dạy từng ly từng tí, Lý Mộng Ngọc càng nhận thấy giang hồ quả là phức tạp, mà bẳn thân mình chẳng khác nào người mù đi dò trong đêm tối. Nàng bỗng nảy sinh ra một mối nghi ngờ, tự nhủ thầm: - Mình không đánh cướp của người ta, nhưng biết đâu người ta lại đánh cướp tài sản của mình? Chi bằng cứ đề phòng trước vẫn hay hơn.
hơn. Nghĩ đoạn, Lý Mộng Ngọc giơ roi quất vào con ngựa nàng cỡi một cái, con vật chồm tới phi nước đại chạy thẳng lên bắt kịp, đi ngang với đoàn xa kiệu. Lý Mộng Ngọc chạy đến kiệu của Lý phu nhân hỏi thăm. Nhìn thấy ngựa của con gái đang cỡi, Lý phu nhân không sao nín được cười. Lý Mộng Ngọc ngạc nhiên không hiểu vì sao mẹ lại cười. Nàng hỏi thì mẹ nàng hỏi rằng: - Cái đuôi ngựa của con đâu rồi? Lý Mộng Ngọc nghe hỏi sững sờ bèn quay đầu lại ngó, và chợt nhớ ra đuôi con ngựa của mình bị người có bướu xén mất trở thành “ngựa cụt đuôi”. Nhưng hình như suy được điều, Lý Mộng Ngọc không khỏi kinh ngạc tự nhủ thầm: - Dùng bàn tay chặt gẫy cây thương hay cây mâu cũng chẳng có gì là lạ. Cái đuôi con ngựa mềm như thế mà hắn dùng tay “xén” được thì cũng lạ! Lý Mộng Ngọc lại kềm ngựa lại định chờ sư phụ Lục Phỉ Thanh đến để hỏi cho chắc ăn, nhưng nghĩ lại thêm mắc cở với thầy nên lại ra roi quất ngựa chạy lên nhập vào toán dẫn đầu đoàn xa kiệu. Vừa trông thấy Tham tướng Tăng Đồ Nam, nàng hỏi ngay:
- Tăng tham tướng! Chẳng hiểu sao con ngựa của tôi lại rụng mất cái đuôi trông xấu xí quá! Nhìn Lý Mộng Ngọc thở ra não nuột cùng với gương mặt buồn thỉu buồn thiu của nàng, Tăng Đồ Nam hiểu ngay ý của con gái chủ tướng mình muốn gì. Ông ta liền thưa: - Con chiến mã của tôi đây thuộc giống thần mã, vừa được chủ tướng cho để đỡ chân. Ác nghiệt thay, nó lại có tật sa tiền mà tôi chưa trị được! Nghe nói tiểu thư có tài cỡi ngựa giỏi lắm, vậy tôi sẵn sàng tạm đổi ngựa cho tiểu thư. Chẳng hay tiểu thư nghĩ sao? Lý Mộng Ngọc được Tăng Đồ Nam khen giỏi, lại sẵn sàng chịu đổi ngựa cho thì trong bụng mừng rỡ vô cùng. Nàng nói: - Tham tướng có lòng như vậy thì thật quý hóa thay. Con tuấn mã của tôi đây cũng thuộc loại ngựa quý hiếm có. Bất quá nó chỉ bị rụng mất cái đuôi nên hơi khó coi chút thôi! Hai người đổi ngự cho nhau xong, Tăng Đồ Nam phi ngựa chạy trước. Lý Mộng Ngọc ở đàng sau nhìn tới không nhịn được, phải ôm bụng mà cười. Tăng Đồ Nam quay lại nói: - Cỡi con ngựa không đuôi thấy chương chướng làm sao ấy! Thế nào tôi cũng phải tìm cách ráp cho nó một cái đuôi giả coi mới được. Đang khi ấy, tiếng rao truyền của Trấn Viễn tiêu cục mỗi lúc mỗi gần. Không đầy mấy khắc, một đoàn trên 20 cỗ xe tứ mã cùng đi tới một lượt, không biết chuyên chở gì mà trông rất nặng nề. Xe nào xe nấy đều phủ vải dầu kín mít. Lục Phỉ Thanh sợ trong đám này có người nhận ra mình nên xoay lưng day lại, kéo nón lá phủ xuống nửa mặt, khẽ liếc nhìn vào người tổng tiêu sư đang cỡi ngựa đi ngang qua. Ông ta cố giữ nét bình thản như một người khách đi đường, không để ý đến ai cả, chợt nghe tiếng một tiêu sư nói với đồng bọn rằng: - Tôi nghe Hàn đại ca nói lại thì Tiêu Văn Kỳ tam ca không biết mất tích nơi nào mà tìm không thấy đâu cả.
Lục Phỉ Thanh giật mình kinh hãi, quay đầu lại nhìn thử hình dáng người tiêu sư ấy. Hắn có một hàm râu bạc rậm rạp, đôi mắt sáng quắc như diều hâu, tướng mạo cực kỳ hung ác. Lục Phỉ Thanh cố ghì ngựa lại một vài giây để cho hắn vượt qua. Nhìn phía sau lưng, ông ta thấy hắn có mang trên vai một chiếc hầu bao màu hồng, bên hông hắn đeo một thứ binh khí rất kỳ quặc của một môn phái ngoại gia tên gọi Ngũ Hành luân. Lục Phỉ Thanh nghĩ thầm trong bụng: - “Hay là nhóm Quảng Đông lục ma gia nhập vào Trấn Viễn tiêu cục làm tiêu sư cả rồi cũng nên!” Nhóm Quảng Đông lục ma nổi tiếng là người nào cũng võ nghệ trác tuyệt. Con ma thứ năm là Diêm Khôi và con ma thứ sáu là Diêm Thế Chương cùng dùng một thứ binh khí giống nhau là Ngũ Hành luân. Bọn này vốn gốc từ thiếu lâm tách ra. Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ chuyến này mới ra ngoài có mấy ngày mà đã gặp không biết bao nhiêu là cao thủ võ lâm rồi. Nếu họ là đều là người của triều đình mật phái theo dõi mình thì thật là “lành ít dữ nhiều”. Càng nghĩ, Lục Phỉ Thanh càng lo. Càng lo, ông ta càng cẩn thận đề phòng và quan sát tinh tế hơn. Nhưng suy đi tính lại, rốt cuộc vẫn thấy không ổn. Lục Phỉ Thanh nghĩ thầm: - “Nếu chỉ có một mình ta thì có phải lẩn tránh thì thật không khó lắm, nhưng ngặt vì theo bên còn có một đứa học trò liếng thoắng, hay sinh sự không đâu. E rằng đại họa trước sau khó mà tránh được!” Nhưng rồi ông ta lại nghĩ: - “Mà chắc không phải bọn ấy theo dõi gì ta đâu. Chúng hẳn có việc cấp bách nào khác. Như Triệu Bán Sơn là bạn chí thiết của ta mà cũng có mặt trong đám cao thủ ấy thì lấy tình mà xét, chẳng lẽ lại giết hại ta sao?”
Lục Phỉ Thanh cho rằng giả điều suy luận sau cùng là hữu lý nhất nên cũng thấy có đôi phần hơi yên tâm. Lý Mộng Ngọc đang cỡi ngựa đi song song với Tăng Đồ Nam, thấy sư phụ đã đến gần liền cười nói ông: - Sư phụ à! Hôm nay sao chưa gặp ai cả? Chả bù với hôm qua, mở mắt ra là đụng đầu luôn một hơi năm cao thủ phi ngựa tiến về hướng Tây. Ngựa của họ phi nhanh đến độ bay luôn cái đuôi ngựa của Tăng tham tướng! Thầy xem có lạ không? Lục Phỉ Thanh cười nói: - Có như vậy con mới tỉnh ngộ được phần nào cũng như dằn bớt cái tính tự cao tự đại xuống. Dùng bàn tay mà chặt đứt đuôi ngựa như xén tóc thì bản lãnh người ấy đã đến mức siêu đẳng rồi. Nhưng bây giờ con nhắc lại năm người có bản lãnh hôm qua phi ngựa về hướng Tây thầy mới sực nhớ ra. Chỉ vì lộn hồn lộn vía mà thầy quên mất chuyện “thiên lý tiếp long đầu”! Lục Phỉ Thanh từng trải giang hồ rất nhiều nên thông thường mọi chuyện chỉ cần trông phớt qua là hiểu ngay. Chỉ vì ông ta mải lo tính cho việc riêng của mình nên không còn đầu óc nào để suy nghĩ đến việc khác. Lý Mộng Ngọc hỏi: - Sư phụ giải thích cho con nghe “thiên lý long đầu” là gì vậy? Con hoàn toàn không hiểu! Lục Phỉ Thanh từ từ cắt nghĩa: - Đó là một nghi lễ long trọng nhất của các bang hội trong giang hồ khi đón tiếp một nhân vật “tối quan trọng”, thường là một lãnh tụ, có thể là Chưởng môn nhân hay là Bang chủ, bảo chủ gì đó. Bình thường, đi đón rước một nhân vật được xem là quan trọng trong môn phái hay bang hội thôi đã phải huy động đến sáu người, theo thể thức một người nối đuôi một người mà đi, trước sau cho đủ sáu người. Nhưng nếu đón rước một người “tối quan trọng” thì con số đó tăng lên gấp đôi, phải từng cặp một nối tiếp nhau thay vì từng người một, cho đến khi đủ sáu cặp thì thôi. Chúng ta đã thấy tất cả năm cặp đi ngang qua rồi, thế nào cũng phải còn một cặp nữa. Và người nào chắc hẳn là một lãnh tụ của một môn phái hay một bang hội nào đó. Lý Mộng Ngọc hỏi tiếp: - Sư phụ có thể đoán được họ thuộc về môn phái hay bang hội nào không?
Lý Mộng Ngọc hỏi tiếp: - Sư phụ có thể đoán được họ thuộc về môn phái hay bang hội nào không? Lục Phỉ Thanh lắc đầu nói: - Thầy cũng chưa biết rõ được. Nhưng có điều con phải nghe lời thầy căn dặn là từ nay về sau nhất nhất không được chọc ghẹo bất cứ ai nữa mà rước họa vào thân như không đấy! Con đã nhìn thấy Tây Xuyên song hiệp và được chứng kiến bản lãnh của “người có bướu” thế nào rồi. Chứng tỏ đây là một môn phái hay là một bang hội lớn, rất có thế lực và có nhiều cao thủ võ nghệ tuyệt luân chứ không phải là một hội phái tầm thường đâu. Lý Mộng Ngọc cúi đầu không đáp, nhưng trong lòng không mấy gì vui. Lục Phỉ Thanh đang trông chờ một cặp nữa đi về hướng tây cho đủ sáu cặp theo nghi tiết “thiên lý long đầu” mà ông ta tiên đoán. Đột nhiên, tai Lục Phỉ Thanh nghe rõ ràng có tiếng vó ngựa đâu đâu nhưng mắt thì lại chẳng trông thấy gì. Ông ta nghĩ thầm: - Đằng trước chẳng trông thấy gì cả. Hay là tiếng vó ngựa vang lại từ phía sau? Lục Phỉ Thanh quay lại vẫn không thấy người hay ngựa ở đâu, nhưng lại có tiếng rổn rảng như là tiếng lục lạc từ cổ lạc đà thì đúng hơn. Chỉ trong chốc lát, phía sau cát bụi tung lên mịt mù, và Lục Phỉ Thanh trông rõ ràng là một đoàn người, hình như là một đám khách thương rất đông từ vùng sa mạc đi tới. Cả Lục Phỉ Thanh lẫn Lý Mộng Ngọc đều nới cương ngựa chậm lại từ từ chờ đợi, chẳng chút vội vã hay gấp rút.
Không bao lâu, đoàn khách thương đã đến gần. Đoài người gồm 14 con lạc đà và vài chục con ngựa. Người cỡi lạc đà là người Duy, một dân tộc thiểu số ở phí Bắc sa mạc Tây Bá Lợi Á. Người Duy mũi cao, mắt nâu, cằm rộng, râu nhiều rậm rạp, đầu vấn một giải khăn làm bằng vải trắng. Có lẽ họ từ xứ Hồi vào đây để buôn bán. Hồi còn ở ngoài biên cương, Lục Phỉ Thanh đã từng gặp khách thương người Duy nhiều lần rồi nên không lấy gì làm lạ và thấy chẳn có gì phải để ý. Nhưng bỗng nhiên trước mắt Lục Phỉ Thanh tỏa ra những tia sáng long lanh. Một thiếu nữ mặc áo vàng ngồi trên lưng một con bạch mã lông trắng như tuyết phi như bay, xẹt qua ngang hông Lục Phỉ Thanh như một mũi phi tiêu. Trông nàng như một dáng tiên nga, phục sức hoa lệ, khí vũ hiên ngang. Trên đầu nàng đội một cái mão. Trên mão có một cặp lông trĩ màu sắc huy hoàng cắm cao lên. Trông nàng thật là xinh đẹp, vừa thùy mị khả ái. Thật là một đóa kỳ hoa của vùng sa mạc. Lục Phỉ Thanh nhìn thiếu nữ với cặp mắt đầy ngưỡng mộ, thầm khen rằng không biết tại sao trong thiên hạ lại có được một người đẹp đến thế này. Còn Lý Mộng Ngọc khi trông thấy dung nhan kiều diễm của thiếu nữ người Duy ấy cũng phải bần thần trố mắt nhìn. Từ lúc sinh trưởng trong vùng biên ải phía Tây bắc cho đến lúc trưởng thành, nàng chưa từng được thấy qua một cô gái nào có vẻ đẹp mơ mộng, hồn nhiên với thân hình “quỳnh dao ngọc thụ” và trang sức dũng điệu đến thế. Trông nàng ta vừa như một tiên nữ lại vừa như một nữ hiệp. Lý Mộng Ngọc cũng vốn là một thiếu nữ trâm anh khuê các, dung nhan kiều lệ tuyệt vời mà còn phải thán phục, mười phần ganh tị sắc đẹp thì đủ hiểu thiếu nữ người Duy kia có sức quyến rũ đến thế nào! Dưới lớp “cải nam trang” thì Lý Mộng Ngọc trở thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú cho dẫu Tống Ngọc hay Phan An tái sinh cũng không thể sánh bằng.
Thiếu nữ người Duy đó trông chỉ vào khoảng độ 17 18 tuổi là cùng. Bên hông nàng đeo một con dao hơi cong cong trông thật là sắc bén, y phục một màu vàng, dệt bằng lông thiên nga, đầu đội cái mão thắt chỉ gấm vàng gọi là “kim ty tú mạo”. Hai cái lông phỉ thúy cắm trên mão khiến cho người ta tưởng tượng đến Phàn Lê Hoa trong “Tiết Đinh San Chinh Tây”. Nàng cỡi con bạch mã, yên cương làm toàn bằng bạc trắng chói ngời. Lý Mộng Ngọc cứ nhìn mà tấm tắc khen thầm mãi, nghĩ rằng dù người đẹp trong tranh cũng còn kém xa thiếu nữ người Duy này. Thiếu nữ người Duy thình lình bắt gặp đôi mắt một “chàng thanh niên phong lưu mỹ mạo” cứ nhìn mình chàm chặp một cách sỗ sàng khiếm lễ thì vừa thẹn, vừa tức giận. Nàng thúc ngựa vượt qua khỏi Lý Mộng Ngọc liếc mắt nhìn sang vẫn còn thấy cặp mắt say sưa của “chàng thanh niên” người Hán cứ dán chặt mãi vào mình không rời. Không dằn được cơn giận, thiếu nữ người Duy gọi lên một tiếng thật lớn: - Gia gia! Từ phía sau, một người đàn ông thân hình cao lớn, trông rất tráng kiện, mắt sáng, râu rậm thúc ngựa phóng lên. Thiếu nữ người Duy ra hiệu, người đàn ông ấy hiểu ý giục ngựa đến sát ngựa Lý Mộng Ngọc vỗ mạnh vào vai hỏi: - Người bạn trẻ kia! Tại sao lại có thái độ thiếu lịch sự đối với một người con gái lạ như thế? Lý Mộng Ngọc miệng như há hốc. Nhưng nàng quên rằng mình đang ăn mặc giả đàn ông giả nên đương nhiên cho rằng câu hỏi của người đàn ông nọ thật hết sức vô lý vì vẫn đinh ninh rằng mình với cô thiếu nữ người Duy kia đồng là phận “quần thoa” với nhau. Thông thường thì chỉ cần một người con trai mà ngắm nhìn một người con gái chằm chặp như thế thì có thể gọi là “luân lý bại hoại”
chứ chẳng cần phải có một mối quan hệ nào. Với người Hán cũng vậy, mà với người Duy cũng thế. Trong trường hợp này, giả sử như Lý Mộng Ngọc biết mình sơ xuất mà chịu xuống nước một tí xin lỗi, dùng lời khôn khéo mà giãi bày thì chắc cũng không đến nỗi nào. Nhưng đàng này Lý Mộng Ngọc đã quen với quan cách, chỉ biết quát nạt người khác chứ có bao giờ bị ai quát nạt hay hạch sách bao giờ. Thêm vào đó, nàng lại ỷ mình có một bản lãnh cao siêu về võ nghệ nên không xem người đàn ông kia ra gì. Lý Mộng Ngọc không thèm trả lời hay đếm xỉa tới, lại buôn tiếng cười mỉa mai, toan giục ngựa chạy thẳng. Người đàn ông giận đỏ cả mặt, râu tóc dụng ngược lên. Yđưa cánh tay gân guốc ra chụp một cái thật mạnh vào chùm lông đầu của con tuấn mã Lý Mộng Ngọc. Một chùm lông đầu của con ngựa sút hẳn ra, nằm gọn trong tay y. Sau đó, người đàn ông bèn trao chùm lông đó cho thiếu nữ người Duy. Con ngựa của Lý Mộng Ngọc sau khi bị bứt mất một chùm lông đầu thì đau quá nhảy dựng ngược lên, thiếu chút nữa là hất Lý Mộng Ngọc rơi xuống đất. Thiếu nữ người Duy tung chùm lông đầu của ngựa Lý Mộng Ngọc lên không trung lấy roi ngựa quất vào một cái, cả chùm lông bay tán loạn, rụng tơi tả như những sợi tơ. Lý Mộng Ngọc tức giận muốn điên tiết lên. Nàng rút ra một mũi cương tiêu nhắm hậu tâm thiếu nữ người Duy phóng một cái nhanh như điện xẹt. Vì quá tức giận nên Lý Mộng Ngọc không cần đắn đo gì cả nên mới hạ độc thủ như vậy. Mũi cương tiêu vừa ra khỏi tay, Lý Mộng Ngọc lập tức hối hận ngay vì biết tính mạng thiếu nữ người Duy có thể bị nguy hại vì ám khí của nàng. Nghĩ vậy, nàng bèn lalớn lên: - Cô nương, mau tránh mũi cương tiêu! Thiếu nữ nguời Duy như chẳn cần phải nhờ tới lời cảnh cáo của “chàng thanh niên người Hán” kia. Nàng bình tĩnh né sang bên mặt rồi thuận tay bắt lấy mũi cương tiêu của Lý Mộng Ngọc như lấy đồ chơi trong túi. Sau đó, thiếu nữ người Duy nhắm bụng Lý Mộng Ngọc phóng trả lại, miệng gọi lớn: - Ta trả ám khí lại cho đó! Cất đi!
- Ta trả ám khí lại cho đó! Cất đi! Đôi bên cách nhau chỉ chừng một trượng mà cây cương tiêu qua lại chỉ trong chớp nhoáng, mắt phàm không thể trông được. Lý Mộng Ngọc cũng lách người tránh khỏi và đưa tay bắt lại câu Cương tiêu của mình. Nàng kinh hãi, biết rằng bản lãnh thiến nữ người Duy kia không thua gì mình. Đoàn khách thương khi sa mạc sau khi được xem màn phóng tiêu ngoạn mục giữa thiếu nữ người của bên mình cùng “chàng thanh niên người Hán” thì vỗ tay hoa hô nhiệt liệt như vừa xem xong một trò biểu diễn chứ nào hay rằng cái trò “biểu diễn” đó có thể giết chết người như không. Người đàn ông mà thiếu nữ người Duy gọi là cha có vẻ buồn buồn, không được vui. Ông ta gọi thiếu nữ nói mấy câu bằng tiếng lóng thổ ngữ riêng của họ. Chỉ thấy nàng thiếu nữ thưa rằng: - Con xin vâng! Nói xong, không cần nhìn Lý Mộng Ngọc, thiếu nữ người Duy giơ roi quất nhẹ vào mông con bạch mã nàng cỡi một cái nhẹ. Bốn vó tung như bay lên khỏi mặt đất, chỉ trong giây lát cả người lẫn ngựa đều mất hút. Đoàn lạc đà và đoàng ngựa lục tục do người đàn ông cao lớn kia điều khiển lại tiếp tục lên đường. Tất cả lần lượt vượt qua kiệu của Lý thái thái rồi biến dần trong đám bụi mờ. Lục Phỉ Thanh dừng ngụa xem tấn kịch xảy ra từ đầu chí cuối xong mới cười nói với Lý Mộng Ngọc rằng: - Bây giờ chắc con hẳn đã tin lời thầy là “ngoài trời còn có trời, trên người còn có người” rồi chứ? Trong một ngày mà một con ngựa
của con bị xén mất đuôi, còn một con thì hói mất lông đầu. Đây là một bài học con phải ghi nhớ chớ đừng nên xao lãng. Thầy xem thiếu nữ người Duy đó trạc tuổi với con nhưng tài nghệ trội hơn con đó! Lý Mộng Ngọc cãi: - Con thấy thiếu nữ người Duy đó tài nghệ chưa có gì lấn được con. Con phóng Cương tiêu ả bắt được, nhưng khi ả phóng trả thì con cũng bắt được dễ dàng mà thôi. Bất quá là chỉ ngang nhau thôi. Vả lại, hai bên cũng chưa chính thức đụng độ bằng võ công chân chánh. Lục Phỉ Thanh chỉ cười: - Ừ! Có lẽ... rồi con sẽ biết! Đến chiều, đoàn xa kiệu cũng như đoàn quân hộ vệ gia quyến Lý Khả Tú đến Bồ Long Cát. Thị trấn này có một khách điếm rất lớn, với một tấm bảng đề là “Thông Đạt khách sạn”. Trước ngõ là một cây tiêu kỳ của Trấn Viễn tiêu cục đang bay phất phới. Vì đã được thông báo trước là sẽ có hai nhóm khách rất đông và sang trọng sẽ tới Bồ Long Cát nên chủ nhân khách sạn Thông Đạt đã sắp xết đầy đủ, đâu vào đó. Những phòng dành riêng cho đoàn Trấn Viễn tiêu cục hay những phòng nào chuẩn bị đón rước gia quyến cùng binh lính hộ vệ của Lý Khả Tú đều được phân biệt rõ ràng, có thứ tự đàng hoàng. Vì vậy, khi đến nơi, ai nấy đều được người của khách sạn đưa ngay vào phòng nghỉ ngơi, tắm rửa, ăn uống mà không cần phải mất công chọn lựa. Lục Phỉ Thanh tắm gội, thay đổi y phục xong thì thấy trên bàn đã có sẵn một bình trà thơm ngon, hương tỏa ngào ngạt và mấy cái chén nhỏ và một cái ly lớn do người hầu mang tới từ hồi nào. Lục Phỉ Thanh bèn rót ngay vào cái ly lớn, thay vì dùng chén nhỏ để thưởng thức từ từ hương vị thơm ngon của trà. Ông mang ly trà đến phòng khách tìm một góc im lặng ngồi một mình. Phòng này, chủ nhân dành chung cho tất cả khách quý của Thông Đạt khách sạn tự tiện đến nghỉ ngơi, nói chuyện khảo chứ không cho ai mướn riêng. Nhìn vào trong, Lục Phỉ Thanh thấy có mấy người đang ngồi tại hai cái bàn lớn đang ăn cơm.
Lục Phỉ Thanh chợt nhận ra có hai người, mà một tên mang cái khăn gói màu hồng gặp trên lộ trình. Hắn vẫn mang khăn gói trên lưng, nhưng khí giới thì đã lấy ra khỏi người để trên bàn, cạnh hắn. Cà hai nét mặt dương dương tự đắc, nói năng tự do không giữ gìn như chẳng cần xem ai ra gì. Lục Phỉ Thanh hớp một ngụm trà, ngước mặt lên để ý nhìn sắc trời. Tai ông nghe thấy tiếng một tiêu sư cười nói huênh hoang: - Diêm ngũ gia, anh có dám chắc rằng bảo vật của anh sẽ đến nơi bình yên không? Nếu không gặp trở ngại mà đem được về kinh an toàn thì nhất định Thiên tướng quân sẽ thưởng cho anh một số bạc lớn, đồng thời sẽ thăng lên chức quan to để bù lại công lao khó nhọc. Tới chừng đó, anh sẽ sung sướng và được vinh dự biết bao! Lục Phỉ Thanh nói thầm trong bụn rằng: - À, thì ra hắn là nhân vật đứng thứ năm trong Quảng Đông lục ma tên gọi Diêm Thế Khôi. Hèn chi! Nghĩ vậy, ông ta liền chăm chú để ý nhìn kỹ xem thần sắc của hắn. Diêm Thế Khôi nói: - Một là thưởng tiền, hai là thưởng chức chứ có lẽ nào Triệu tướng quân lại rộng rãi đến thế được! Nhưng ý tôi thì không muốn cả hai thứ đó. Tôi muốn một điều khác kia... Diêm Thế Khôi chưa nói dứt câu thì có tiếng “ồ ồ” của một người nói ngắt lời: - Lạ thật! Cả hai điều sung sướng thế mà anh đều không muốn thì hỏi còn muốn cái giống gì đây? Lục Phỉ Thanh để ý nhìn xem người nào vừa thốt câu đó. Trông y chẳng khác nào một con quỷ đói, tướng mạo thật hung hãn. Lục Phỉ Thanh bụng bảo thầm:
- Nếu hắn được tuyển làm tiêu sư thì đương nhiên bản lãnh không phải tầm thường. Diêm Thế Khôi nghe câu ấy thì có vẻ không được vui, thở ra một hơi dài. Người tiêu sư thứ nhất bất chợt lên tiếng: - Đổng Triệu Hòa! Bộ anh tưởng chung quanh ta không có tai vách mạch rừng hay sao mà ăn nói tự do, bừa bãi như thế? Người tiêu sư có hình dung như quỷ đói, tức Đổng Triệu Hòa tính tình hết sức nóng nảy và lỗ mãng. Nghe đồng nghiệp trách như vậy thì không bằng lòng, cho rằng hắn ta coi thường tài lực mình và có ý bảo mình bất cẩn, lơ là với trách nhiệm. Nghĩ vậy, hắn liền lớn tiếng như muốn gào lên: - Tôi chẳng phải như những kẻ “miệng hùm gan sứa” kia đâu! Việc gì tôi làm thì quyết làm cho đến nơi đến chốn, dù chết cũng chẳng cần! Tôi không hề biết sợ ai và cũng không bao giờ lùi bước trước những gian nan hiểm nghèo! Nhưng khi Đổng Triệu Hòa vừa nói xong câu ấy thì Diêm Thế Khôi lại tưởng là hắn xỏ xiên coi thường mình nên mặt đỏ tía tai la hét inh ỏi: - Anh bảo ai là “miệng hùm gan sứa”? Anh ám chỉ ai vậy? Anh có dám bảo đảm là trách nhiệm của anh lãnh sẽ làm tròn được không? - Tôi không ám chỉ ai cả. Tôi chỉ nói chung chung mà thôi. Tóm lại, những kẻ chỉ có nói mà không làm được thì toàn thị là những thứ anh hùng rơm. Còn công việc của tôi thì dĩ nhiên tôi phải hoàn thành. Diêm Thế Khôi cười gằn: - Được vậy thì tốt lắm! Nếu anh đạt được kết quả như lời anh nói thì tôi sẽ phục anh sát đất! Lục Phỉ Thanh lắng tai nghe một hồi lâu nhưng vẫn không hiểu bọn chúng cãi nhau về chuyện gì. Đang định về lại phòng thì lại nghe tiếng Đổng Triệu Hòa nói: - Diêm ngũ gia này! Anh muốn cưòi tôi cứ cười, muốn chê cứ chê. Có điều tôi nói thật cho anh nghe là nếu cái bao vải hồng kia mà được khoác lên vai này thì chớ ai hòng mà cướp được nó! Có lo thì tự lo cho các anh thì hơn. Đừng để cho thanh danh hơn 30 năm của Trấn Viễn tiêu cục cùng với uy tín của Vương Duy Dương phải mai một đi! Diêm Thế Khôi cả giận nói:
Diêm Thế Khôi cả giận nói: - “Chú em” Đổng Triệu Hòa chớ có nói xàm! Chờ đến lúc Diêm ngũ gia ta đem bộ kinh này đến nơi an toàn sẽ cho chú em thấy thế nào là bản lãnh lợi hại. Diêm Thế Khôi là một nhân vật lừng danh trong Quảng Đông lục ma, chưa từng khiếp sợ ai hay để ai uy hiếp. Công việc của Trấn Viễn tiêu cục có lẽ nào lại hư hại dưới tay ta? Cái bao trên lưng ta gắn liền với tánh mạng ta, chú biết chưa? Lục Phỉ Thanh nghe nói những lời “mục hạ vô nhân” như thế thì liếc mắt nhìn sơ qua cái bao trên lưng hắn, thì thấy chẳng có gì là lớn lắm. Cứ nhìn bề ngoài mà xét thì chắc hẳn là bên trong không có chứa vật gì to lớn nặng nề cả. Đổng Triệu Hòa lại lên tiếng: - Oai danh lừng lẫy cũng như bản lãnh cao siêu của Quảng Đông lục ma, đúng như anh vừa nói, anh mà lại không biết? Chỉ hiềm một nỗi là nhân vật thứ ba không biết mất tích hay bị kẻ thù ám hại mà mãi đến nay vẫn không biết sống chết nơi nào, kẻ thù là ai tưởng đáng chua xót lắm thay. Nói ra anh đừng buồn, nhưng coi chừng giang hồ sẽ đổi danh hiệu của các anh lại là “Quảng Đông ngũ ma” đấy! Diêm Thế Khôi vỗ bàn một cái “rầm” làm cho chén dĩa nhảy tưng lên như khiêu vũ, lớn tiếng thét lên: - Chú mày đừng chọc tức ta chứ! Làm gì bọn ta không biết kẻ thù ám hại Tiêu tam ca là ai? - Là ai? Sao tôi nghe các anh đề cập đến tên họ một lần nào? - Còn ai vào đây? Chính là Hồng Hoa hội! Nhất định chỉ có Hồng Hoa hội!
Lục Phỉ Thanh sững sờ, bụng bảo thầm: - Quái lạ! Rõ ràng là mình giết chết Tiêu Văn Kỳ sao bọn chúng là quả quyết là Hồng Hoa hội? Mà Hồng Hoa hội là đảng phái nào? Sao trong từng ấy năm lưu lạc giang hồ mà mình được nghe đến tên bao giờ? Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh nhẹ chân bước ra khỏi phòng khách ra ngoài đến đến một thân cây cổ thụ đang đơm bông, dùng thuật khinh công vọt một cái lên trên ngồi ngay chân ba mà không gây nên tiếng động nào cả. Cây cổ thụ này ở sát phòng các tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục nên Lục Phỉ Thanh vừa nhìn thấy, vừa lắng tai nghe được dễ dàng hơn. Đổng Triệu Hòa tay bưng chung rượu tu vài ngụm rồi đặt xuống, khẽ vuốt chòm râu miệng tiếp tục nói khích: - Thật là đáng buồn thay cho tình nghĩa bạn bè quá đi! Tôi đây không phải là cốt nhục của Tiêu tam gia mà nói đến đây lòng dạ như đốt như thiêu. Giá tôi mà thề nguyền sinh tử với Tiêu tam gia hẳn sau bữa cơm này sẽ xách gươm đi tìm Hồng Hoa hội mà trả thù cho bằng được chứ không thể ngồi yên tại đây mà lo hết chuyện này đến chuyện kia. Diêm Thế Khôi bị Đổng Triệu Hòa trêu chọc đủ điều, dùng lời nói xa nói gần để “móc họng” thì lửa giận phừng phừng bốc lên, nhưng đành im lặng vì không biết cách nào mà trả lời. Bỗng một tiêu sư nói xen vào vừa để làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, vừa là để chữa bớt thẹn cho Diêm Thế Khôi: - Vị Tổng đà chủ của Hồng Hoa hội là Vu Vạn Đình chết hôm đầu tháng vừa rồi tại tại Vô Tích. Việc này trong giới giang hồ còn ai là chẳng hay biết? Vả lại vụ Tiêu tam gia bị ám hại không có bằng chứng cụ thể nào để buộc tội cho Hồng Hoa hội được. Thử hỏi, muốn làm cho ra chuyện thì bắt đầu ở đâu, cách nào? Nếu chúng ta đến chất vấn, Hồng Hoa hội phủ nhận, đòi đưa chứng cớ ra thì sao đây? Anh Đổng Triệu Hòa có biện pháp nào hay nhờ giúp chúng tôi ý kiến thử? Đổng Triệu Hòa bị người tiêu sư ấy bẻ cho mấy câu cứng họng, không còn dám huênh hoang lên mặt thầy đời nữa. Hằn đổi từ giọng chua cay sang giọng pha lửng mà rằng:
Hằn đổi từ giọng chua cay sang giọng pha lửng mà rằng: - Bọn Hồng Hoa hội chỉ có tài ỷ mạnh hiếp yếu, tất có ngày các anh sẽ ra tay trừng trị chúng thẳng tay, hà tất phải làm gấp rút làm chi cho mệt trí. Chỉ có một việc cần gấp hiện tại là các anh phải đem được bộ kinh về dâng cho Triệu tướng quân. Năm bộ kinh đã vào tay tướng quân rồi thì các anh muốn bao nhiêu vàng bạc trâu dê gì lại không được? Và lúc bấy giờ, cứ mượng thế lực của Triệu tướng quân mà bắt buộc Hồng Hoa hội làm điều gì mà chúng lại dám từ chối? Hoặc giả Diêm ngũ gia không muốn vậy thì xin Triệu tướng quân tặng cho một cô gái Hồi tuyệt đẹp mà vui với tuổi già cũng sướng chán! Trong khi Đổng Triệu Hòa đang cao giọng lớn tiếng pha trò với bọn tiêu sư một cách hiu hiu tự đắc thì bất ngờ tai hắn nghe một tiếng “vèo”, rồi một vật gì như đất bùn bay tới! Đổng Triệu Hòa chưa kịp cúi xuống thì cục bùn bay lọt vào trám miệng hắn lại như “thầy chùa ngậm xôi”. Đổng Triệu Hòa miệng ấm ứ không nói được tiếng nào. Hai người tiêu sư có mặt trong phòng ấy lập tức rút vũ khí, củng nhảy bổ một lượt ra ngoài sân. Diêm Thế Khôi cũng vội vã đứng dậy nhảy luôn ra sân phóng lên lưng ngựa cột sẵn tại đó, tay cầm cây Ngũ Hành luân chuẩn bị đối phó với những gì bất ngờ. Em ruột Diêm Thế Khôi là Diêm Thế Chương nghe tiếng động cũng chạy đến nơi kịp thời, theo anh hộ vệ. Cả hai anh em họ Diêm đều không lo gì hơn là gìn gìũ cái bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi nên chỉ đứng yên tại chỗ chứ không nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ thích khách nào đó, sợ trúng phải kế “Điệu Hổ Ly Sơn”. Đổng Triệu Hoa lúc đó đã nhổ được cục bùn từ trong miệng ra rồi bắt đầu chửi. Những tiếng nguyền rủa độc địa chẳng khác một trận
mưa chửi mà không có ao hồ nào mà chứa đựng cho hết nổi! Hắn gọi cả ba họ tám đời ông tằng ông tổ kẻ nào chơi ác cho hắn “ăn” vật “không mấy thơm tho” đó. Diêm Thế Khôi thấy bộ tịch Đổng Triệu Hòa thì vừa buồn cười, vừa thấy “đáng kiếp”, lại được cơ hội trả đũa nên phá lên cười nói: - Xưa nay chửi rủa có chết ai bao giờ đâu? Chỉ hao hơi tổn tiếng thì có! Nhưng cũng tại chú hay nói khoác nên kẻ kia mới trám bớt miệng chú lại đó! Đổng Triệu Hòa phần giận kẻ “chơi ác”, phần thì giận Diêm Thế Khôi thừa dịp “trả thù” lại mình lại càng chửi rủa bạo thêm nữa. Bỗng có hai tiêu sư từ ngoài cửa bước vào. Một người là Thái Vĩnh Minh sử dụng một cây nhuyễn tiên, còn một người là Tiền Chính Luân sử dụng một thanh đơn đao. Cả hai cùng thở hổn hển nói: - Kẻ gian trốn mất rồi, không làm sao tìm được vết tích nào! Tấn kịch vừa rồi dĩ nhiên đều lọt cả vào mắt Lục Phỉ Thanh. Mà là một màn “kịch sống” thật ngoạn mục từ đầu đến cuối. Lục Phỉ Thanh nhận thấy Đổng Triệu Hòa là một tên gian manh già mồm giỏi nịnh, chỉ thích nói dóc và nói bậy nên bị ăn cục bùn là đáng lắm. Ông ta đang cười thầm trong bụng lại thấy ở góc đường phía Đông có một bóng người đang ẩn núp. Người này mặc đồ dạ hành. Trời lại tối đen như mực nên giả sử không có cặp mắt dạ quang của người hiệp khách thì khó lòng mà nhận ra. Lại có một bóng người từ trên nóc nhà nhảy xuống đất nhẹ nhàng còn hơn chiếc lá rụng. Cái bóng này cứ nhắm hướng Đông mà phi tới vùn vụt như tên bắn. Lục Phỉ Thanh không còn nghi ngờ gì nữa, biết đích xác chính người này đã thảy cục bùn vào mồm Đổng Triệu Hòa. Không rõ đây là nhân vật như thế nào, ông ta dùng khinh công theo bén gót để xem cho rõ mặt. Trên tay Lục Phỉ Thanh vẫn còn cầm ly trà, vì lúc mới đến khách sạn chưa kịp uống trà thì đã phải vội vã chạy sang phòng khách dò xét động tịnh. Kế đó, hết chuyện này đến chuyện kia xảy ra nên ông chưa có dịp trở về phòng lần nào.
Suốt mấy mươi năm khổ luyện khinh công nên Lục Phỉ Thanh đã đạt đến mức “lô hỏa tuyệt thanh” nên ít có người nào sánh kịp. Ấy thế mà chạy mãi, Lục Phỉ Thanh vẫn không thể bắt kịp được bóng người phía trước. Chỉ trong chốc lát, bóng người đó đã mất hút. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai bóng đen đã rời xa khách sạn đến năm, sáu dặm đường. Lúc ấy, Lục Phỉ Thanh mới nhận được lờ mờ cái bóng đen phi thân trước mặt. Đó là một người nhỏ thó, lanh lẹ và ẻo lả tựa như là một thiếu nữ hơn là một thanh niên. Cứ nhìn mà xét thì lối khinh công của hai bóng đen ấy đã đến mức cao thâm tuyệt diệu. Và cứ thế, hai bóng đen kẻ trước người sau, như hai lằn tên xẹt bay mãi không ngừng. Khi vượt qua một triền núi thì phía trước hiện ra một cụm rừng già cây cối sum xuê, tối đen như mực chẳng còn phân biệt được đâu là đâu nữa. Thoáng một cái, cái bóng đen mảnh khảnh đàng trước đã chạy sâu vào trong khu rừng rậm ấy. Lục Phỉ Thanh vẫn không chịu bỏ cuộc, cứ một mạch theo đường rừng mà đuổi theo mặc dầu chẳng còn trông rõ được gì nữa hết. Vào trong bìa rừng được chừng một dặm thì cành khô lá rụng áng mất lối đi, không còn biết đi đường nào cho đúng hướng được nữa. Chân bước trên cành lá khô xào xạc, Lục Phỉ Thanh sợ rằng người phía trước nghe được âm thanh thì biết có người đang truy kích và sẽ sử dụng ám khí thì thật rất nguy hiểm. Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh tạm dừng gót mà cố tìm ra cách nào là thượng sách thì chỉ trong nháy mắt, không còn thấy tung tích của bóng đen trước mặt nữa. Trong giang hồ thường có câu khuyên răn đầy kinh nghiệm là “gặp rừng chớ vào”. Vả lại, đêm thì tối, rừng thì rậm, dầu có được cặp mắt dạ quang, có tài dạ hành của một cao thủ đi chăng nữa cũng khó mà tránh được kẻ thù khi chận ngạch thi hành ám toán.
Lục Phỉ Thanh là người tinh tế cẩn thận nên không dám đi sâu vào thêm nữa. Đang định thối lui trở về thì bỗng mây đen chợt tan đi, một vầng trăng sáng trong suốt từ trên không trung xuyên qua kẽ lá rọi xuống khắp rừng. Ngước mặt nhìn ra phía trước, Lục Phỉ Thanh trông rõ là bóng một cô gái áo vàng lại từ trong cụm rừng vùn vụt trở ra. Lục Phỉ Thanh chọn một lùm cây xanh rậm của một cây cổ thụ mà nhảy lên trốn để quan sát. Cách này rất hay vì ông ta có thể nhìn thấy rõ cả bốn bề mà không sợ bị ai phát giác được mình. Cách cây cổ thụ đang trú không xa lắm, Lục Phỉ Thanh trông thấy rõ ràng dưới ánh sáng của “chị Hằng Nga” có tới tám, chín cái màn làm bằng vải bố được căng ra. Thật là một chuyện hết sức lạ lùng khiến cho tánh hiếu kỳ của Lục Phỉ Thanh không thể nào làm ngơ được. Lục Phỉ Thanh định tâm nhất định phải tới nơi dọ thám một phen từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài! Có hai người đi qua đi lại, hình như là giữ nhiệm vụ canh gác. Chờ cho họ đi qua khỏi, Lục Phỉ Thanh dùng phép đề khí phóng một cái rơi xuống nhẹ nhàng sau lưng một con lạc đà đang đứng nhai cỏ bên ngoài màn vải. Người đứng gác vẫn điềm nhiên làm phận sự như không có gì xảy ra. Bởi vì Lục Phỉ Thanh võ nghệ tuyệt đỉnh, đảm lược phi thường nên mới dám có hành động phiêu lưu mạo hiểm thế này. Thấy ở lều này không nghe rõ được gì, Lục Phỉ Thanh phi thân vọt sang phía sau lưng tấm màn vải lớn ở ngay chính giữa. Xem xét đâu vào đó cẩn thận, Lục Phỉ Thanh nằm rạp mình dưới đất lắng tai nghe. Bên trong lều có những tiếng thốt lên với giọng nói thật lẹ và “líu lo”, nghe như là của người Duy. Tuy rằng Lục Phỉ Thanh từng sống ở quan ải lâu năm nhưng cũng không hiểu hết được ngôn ngữ của họ. Cố gắng lắng tai nghe thật kỹ, may ra chỉ hiểu được phân nửa câu chuyện họ bàn tán với nhau mà thôi.
Lục Phỉ Thanh khẽ giở một góc lều he hé lên vừa đủ cho cặp mắt nhìn vào được. Bên trong có hai ngọn đèn dầu đang cháy sáng. Ở trong lều, người này có thể nhìn rõ được mặt người kia không khó, nhưng nếu có kẻ ở bên ngoài vô tình đi ngang qua thì ắt bên trong không làm sao phát hiện ra được bởi bị tấm vải lều che khuất. Lục Phỉ Thanh để ý thấy chung quanh hai ngọn đèn có rất nhiều người ngồi xếp bằng thứ tự dưới đất, già có, trẻ có. Những người này chẳng phải ai khác lạ, mà chính là những người Duy mà Lục Phỉ Thanh đã gặp qua lúc ban ngày trước khi đến sông Bảo Tháp. Bỗng một giọng nói thanh tao dịu dàng chậm rãi ngân lên làm cho bầu không khí yên lặng thêm vẻ trang nghiêm. Lục Phỉ Thanh quay mặt ngó sang chỗ phát ra giọng nói ấy thì không khỏi kinh ngạc. Thì ra đó là “cô gái áo vàng”. Khi nàng vừa nói xong câu ấy liền ngừng lại một chút đưa mạnh cánh tay lên như thề cương quyết hoàn thành một sứ mạng nào đó. Kế đến, nàng đưa tay rút từ trong bao ra một ngọn đao cong cong trông thật là sắc bén, tỏa ra hào quang sáng chói, nhìn mà lạnh cả người. Cô gái áo vàng đưa bàn tay mặt ra, dùng lưỡi dao cứa đứt một vạch nhỏ ở một đầu ngón tay cho máu tươi nhỏ ròng ròng xuống vào ngay chính giữa một bình rượu có hình dạng giống hệt như một cái vú ngựa cái đang cần sữa hứng sẵn ở đó từ bao năm. Noi theo gương cô gái áo vàng, tất cả những người Duy có mặt trong lều đều rút dao đeo bên hông ra, rồi từng người một tự cứa vào ngón tay mình để nhỏ huyết vào bình rượu ấy. Sau khi tất cả mọi người làm xong nghi lễ “thích huyết”, cô gái áo vàng liền lớn tiếng gọi: - Gia gia! Tức thì một người Duy cao lớn, với dáng điệu hùng mạnh bưng bình rượu ấy giơ lên cao, long trọng nói một tràng tiếng Duy. Lục Phỉ Thanh không hiểu được ý nghĩa toàn câu, chỉ nghe rõ được mấy tiếng “Khả Lan kinh” và “cố hương yêu dấu”. Còn đang suy nghĩ cố tìm cách hiểu câu nói kia thì cô gái áo vàng lại tiếp lời cho người Duy cao lớn mà nàng gọi là “gia gia”, hay nói cho đúng hơn là
lập lại nguyên văn lời nói của ông ta. Giọng nói của nàng êm ái, nghe rất thanh tai nhưng không kém phần cảm khái lâm ly. Cũng như lần trước, Lục Phỉ Thanh nghe “tiếng được tiếng mất”, nhưng chuyến này ông hiểu được đây là một lời thề, đại ý là: “Nếu chúng ta không đoạt lại được “Khả Lan kinh của Thần Thánh lưư truyền cho dân tộc thì thà chết ở xứ người chứ không trở về quê hương yêu dấu nữa”. Cô gái áo vàng vừa thề xong tức thì tất cả những người Duy kia cũng lần lượt lên tiếng lập lại lời tuyên thệ đó. Ai nấy đều tỏ vẻ uất hận và cương quyết như sẵn sàng đem tánh mạng mình ra để hy sinh cho sứ mạng sắp thi hành của họ. Dưới ánh đèn mờ, Lục Phỉ Thanh trông rõ được vẻ mặt của từng người một. Người nào người nấy đều khí khái can trường, đầy nhiệt tâm nhiệt huyết trước trách nhiệm thiêng liêng. Sau phần tuyên thệ, bình rượu hình mã nhũ được hòa với máu rót ra làm ba chung, truyền tay từng người mà cùng nhau uống cho đến cạn. Sau đó họ cùng nhau bàn luận xôn xao, tất cả mọi người đều đóng góp ý kiến. Buổi họp hết sức trang trọng, chẳng khác gì một hội nghị thượng đỉnh của bộ “tổng tham mưu”. Đến lúc này, Lục Phỉ Thanh có thể kết luận rằng đám người Duy kia lần này vượt sa mạc vào quan ải không ngoài mục đích thi hành một công tác trọng yếu chứ không phải chỉ là buôn bán tầm thường mà thôi. Dân tộc họ có một bộ sách truyền quốc mà họ xem như vật vô giá thiêng liêng của Thần Thánh để lại. Đó là bộ Khả Lan kinh. Chẳng may, bộ sách ấy bị kẻ nào đó cướp đi mất nên họ thề nhất quyết phải theo đến nơi mà đoạt lại cho kỳ được, hoặc là chết. Lục Phỉ Thanh muốn biết rõ nhóm dân tộc người Duy ấy gốc gác thế nào nhưng vẫn chưa nghĩ ra được. Nguyên đám ngưòi Duy này vốn là dân trong bộ lạc du mục thuộc Thiên Sơn Bắc Lộ, dân số vào khoảng trên dưới 20 vạn. Thủ lãnh của họ là Tù trưởng Mộc Trác Luân, rất được dân chúng thương mến và kính phục. Mộc Trác Luân võ nghệ trác tuyệt mà nhân nghĩa cũng vang dội khắc gần xa.
Cô gái áo vàng là con gái lớn của Mộc Trác Luân tên gọi Tiêu Thanh Đồng, vốn là đệ tử yêu quý nhất của Thiên Sơn Kỳ Hiệp Trần Chánh Đức phu nhân, nhũ danh là Quan Minh Mai. Tiêu Thanh Đồng nhờ vậy mà học được những võ công tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn. Hai vợ chồng Trần Chánh Đức và Quan Minh Mai dù là người của phái Thiên Sơn nhưng thích cảnh an nhàn ẩn dật thành thử chỉ muốn sống riêng biệt, không qua lại với môn phái. Bất luận hành hiệp nơi đâu cũng chỉ có hai vợ chồng với nhau mà thôi. Giới giang hồ thường gọi hai người là “Thiên Sơn song ưng”. Hai người niên kỷ bằng nhau, ngoài 60. Vợ chồng Thiên Sơn Son Ưng rất thương yêu nhau, nhưng có điểm lạ kỳ là hễ gần thì xô xát, mà xa lại nhung nhớ. Tuổi hai người đã già mà tâm tính vẫn còn như lúc trẻ, không thay đổi chút nào. Các bằng hữu quen thuộc thường gọi đùa là “Hoan Hỉ Oán Gia”. Tiêu Thanh Đồng thấy vợ chồng sư phụ lúc nào cũng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” thì cố dùng đủ cách để hòa giải cho vui vẻ cả nhà nhưng kết quả vẫn không đi đến đâu nên lắm lúc nàng cũng đâm ra buồn lây. Tiêu Thanh Đồng thích mặc áo vàng, đội nón tơ có giắt cặp lông phí thủy nên giang hồ đặ cho nàng mỹ hiệu là “Phiêu Hiệu Nữ Lang”, còn giới võ lâm thuộc Thiên Sơn Nam Bắc phái thì gọi nàng với danh hiệu là “Túu Vũ Hoàng Khổ”. Người Duy thuộc bộ lạc Thiên Sơn này chuyên sống du mục nay đây mai đó. Dưới thời nhà Thanh, thế lực vua Càn Long lan rộng ra tới bộ lạc những người Hồi. Hết vùng này tới vùng nọ bị sát nhập vào Thanh trào. Các dân tộc thiểu số như họ như cô thế, luôn luôn bị uy hiếp. Quan lại nhà Thanh đi lại liên miên, hạch sách đủ điều làm cho nhân dân khổ sở đến ta thán. Mộc Trác Luân lúc đầu cũng muốn được yên thân nên đem vàng ngọc của cải ra đút lót cho quan lại nhà Thanh. Nhưng túi tham của
bọn quan tham ô thì lại không đáy. Dù cho bao nhiêu của cải tích trữ bao lâu đem nộp cho chúng cũng vẫn không đủ. Lúc nào chúng cũng có cớ để hạch sách. Sau cùng, của kho đã cạn, mà của dân thâu góp cũng kiệt quệ! Mộc Trác Luân phải cùng với dân chúng đi làm nghề buôn để sinh sống. Ngoại trừ con đường đó, người Duy chẳng còn cách gì khác hơn. Để giữ yên được đất đai, nhiều lần Mộc Trác Luân đặc phái sứ giả đem lễ vật đến YLê cầu xin quan cai trị nhà Mãn Thanh hãy thương tình dân chúng người Duy nghèo khổ giảm cho các sưu cao thuế nặng. Nhưng có đời nào triều đình lại chịu thế! Lời kêu xin của Mộc Trác Luân đã chẳng được hiệu quả gì mà còn khiến cho triều đình Mãn Thanh đâm ra nghi kỵ, sợ người Duy nổi dậy, kéo theo sự hưởng ứng của người Hồi. Quan cai trị là Triệu Huệ Trinh, biết dân tộc người Duy có một bộ sách của tổ tông nhiều đời để lại là “Khả Lan kinh” Bộ kinh thư này được thỉnh từ xứ Mạch Gia là nơi phát sinh ra Hồi giáo nên dân tộc người Duy thờ kính và vô cùng sùng bái. Bộ Khả Lan kinh được xem như là quốc bảo, chỉ có vị Tù trưởng mới có quyền cất giữ, đã trải qua được mấy chục đời... Biết được giá trị của bộ kinh này đối với dân tộc người Duy nên thừa lúc Mộc Trác Luân đem hết những kẻ thuộc hạ thân tín theo ông ta đi xứ xa buôn bán, Triệu Huệ Trinh mới sai một cao thủ lẻn sang bên ấy cướp lấy bộ Khả Lan kinh đem về cho hắn. Triệu Huệ Trinh nghĩ rằng một khi nắm được bộ kinh này trong tay thì không còn phải sợ người Duy nổi lên phản kháng lại triều đình nữa, tha hồ cho hắn mặc sức đòi hỏi bất cứ những gì, Mộc Trác Luân cũng phải riu ríu tuân theo. Cái bao vải màu hồng mà Diêm Thế Khôi mang trên vai không khi nào dám rời cho dù là lúc ăn hay lúc nghỉ chỉ vì trong đó có “bảo vật” mà Triệu Huệ Trinh đang cần là bộ Khả Lan kinh. Do đó mà Mộc Trác Luân với Tiêu Thanh Đồng và cả nhóm người Duy thề đem tánh mạng ra hy sinh để đoạt lại cho bằng được bộ kinh “truyền quốc” đó.
Bấy giờ, Lục Phỉ Thanh hiểu rõ là mưu đồ của đám người Duy kia chẳng díng dấp gì đến việc riêng của mình nên không muốn để ý hay nghe thêm chuyện riêng của họ nữa nên dùng thuật đề khí mà đứng thẳng dậy một cách gọn ghẽ, nhẹ nhàng. Vừa lúc ấy, ông bỗng thấy tất cả mọi người trong lều đều rập xuống một cái, nằm im trên mặt đất cả thảy. Lục Phỉ Thanh hoang mang trong lòng, liền dùng thuật khinh công chạy ra khỏi chỗ núp. Chẳng ngờ chỉ trong nháy mắt Tiêu Thanh Đồng đã phát giác ra được là có người lén rình nghe rõ mọi chuyện nên ghé tai Mộc Trác Luân nói nhỏ: - Gia gia! Bên ngoài có kẻ lạ mặt. Dứt lời, nàng phi thân ra khỏi lều và thoáng thấy có một bóng người cứ theo đường rừng mà chạy thoăn thoắt như bay. Tiêu Thanh Đồng liền rút một ngọn Thiết Liên Tử nhắm theo cái bóng người ấy mà phóng đến “vèo” một tiếng. Lục Phỉ Thanh đang lúc chạy tháo thân chưa ra khỏi được rừng thì nghe sau lưng có tiếng gió thì biết ngay là có ám khí. Ông lách mình né sang một bên trong khi tay vẫn còn cầm ly trà. Mũi Thiết Liên Tử vừa phóng tới, Lục Phỉ Thanh lấy bàn tay gạt mộ cái làm mũi ám khí rớt ngay xuống đất. Nhưng tiếp theo đó, lại có thêm một mũi thứ hai phóng tới với tốc độ lẹ làng như tên bắn. Lục Phỉ Thanh dùng ly trà hứng một cái, mũi Thiết Liên Tử bắn xuyên qua ly, nhưng lạ thay không làm cho ly vỡ mà lại dính chặt vào đáy ly. Lục Phỉ Thanh thầm khen ngợi bản lãnh Tiêu Thanh Đồng. Ông không quay đầu nhìn lại mà cứ tiếp tục dùng khinh công bay thẳng một hơi về khách sạn.
Tại khách sạn, mọi người đã an giấc từ lâu. Bốn bề vắng ngắt. Đêm dài như vô tận, chìm đắm trong bóng tối. Một gã giúp việc trong khách sạn tay dụi mắt như vừa thức dậy miệng lè nhè hỏi: - Thưa, lão gia chưa đi nghỉ? Chắc vì đêm nay nóng nực nên lão gia đi hóng mát phải không? Lục Phỉ Thanh chỉ ậm ừ vài tiếng cho qua. Vào trong phòng ngủ, ông ta rút mũi Thiết Liên Tử ra khỏi đáy ly trà ra xem xét. Mũi ám khí được làm bằng một loại gang rất tốt gọi là “Tinh cao”. Trên mũi phi tiêu có khắc một hình lông cánh của một loài chim. Ngắm ngía một hồi, Lục Phỉ Thanh bèn cấy mũi Thiết Liên Tử ấy vào trong người... Sáng sớm hôm sau, đoàn bảo tiêu đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, sửa soạn lên đường tiếp tục cuộc hành trình. Mấy tên hướng đạo ở hàng đầu lớn tiếng truyền rao: - Bọn ta phái võ Duy Dương... Sau đó là cây tiêu kỳ có hình bát quái của Trấn Viễn tiêu cục theo gió bay phất phới dẫn lộ cho một hàng tiêu xa khởi hành. Lục Phỉ Thanh thấy các cỗ tiêu xa chở hàng hóa đi như bay, tương đối rất nhẹ nhàng, chứng tỏ là hàng hóa không chút nặng nề và hình như cũng không mấy gì được quan tâm đến cho lắm. Bình thường, nếu xe chở vàng bạc châu báu quý giá hay những hàng hóa nặng nề thì vết bánh xe sẽ in sâu xuống mặt đường và các tiêu sư cũng như các cao thủ hộ vệ sẽ rong ngựa bịt kín hai bên xe. Đằng này, vết bánh xe không in sâu xuống đường, và có khi cả mấy cỗ xe liên tiếp bỏ ngõ, không có ai cỡi ngựa đi kè để bảo vệ. Trái lại, các tiêu sư đều tập trung cả lại vào việc bảo vệ cho Diêm Thế Khôi. Chắc chắn một điều không thể lầm lẫn được là bảo vật phải nằm ngay chốn ấy, thậm chí ngay trên mình của Diêm Thế Khôi. Chẳng hạn như cái bao màu hồng khoác trên vai y... Đó mới chính là vật quan trọng đáng giữ gìn. Đoàn bảo tiêu của Trấn Viễn tiêu cục đi được khoảng nửa tiếng thì Tham tướng Tăng Đồ Nam cũng điều động chỉ huy quân lính bảo vệ đoàn xa kiệu của gia quyến Lý Khả Tú lên đường...
Quãng đường này toàn là đá đỏ lởm chởm đồng thời lại gặp những khúc nghiêng của triền núi nên không thể nào đi mau được. Tuy vậy, Tăng Đồ Nam vẫn phải thúc giục quân lính ráng cố gắng làm sao lên được đỉnh núi để xuống kịp chân núi bên kia trước khi mặt trời lặn vì sẽ gặp được tại đó ba khách điếm và ba đường đi. Đường đi trên núi hiểm hóc vô cùng. Càng lên cao, đường càng hẹp lại. Tăng Đồ Nam và Lý Mộng Ngọc phải theo sát kiệu của Lý thái thái và Lý phu nhân canh chừng, giữ gìn cẩn thận không dám lơ đễnh chút nào vì rủi nếu một tên kiệu phu lỡ sẩy tay sẩy chân tất nhiên sẽ làm đổ nguyên cả kiệu xuống vực thẳm, thân thể xương thịt người trong kiệu sẽ nát bấy như tương. Đến giờ Thân, đoàn xa kiệu đã tới đèo Ô Kim. Trước mặt là đoàn tiêu của Trấn Viễn tiêu cục. đang xuống ngựa ngồi nghỉ chân. Tăng Đồ Nam thấy vậy cũng cho đoàn xa kiệu của mình tạm dừng bước, nghỉ mệt trong giây lát. Đèo Ô Kim nằm ngay chính giữa hai ngọn núi cao chót vót, như giáp với mây trên trời nếu trông từ xa lại. Giữa hai núi có một con đường “độc đạo” chỉ có thể đi tới mãi mà không thể dừng chân lại nghỉ ngơi được vì đường đã dốc lại hẹp, chỉ vừa đủ cho một cỗ xe tứ mã qua lại mà thôi. Đã đến điểm này ắt phải đi thẳng một hơi lên trên đỉnh núi chứ không còn đường nào để lựa chọn cả! Lục Phỉ Thanh chậm rãi đi rẽ phía đàng sau, ý không muốn cho người của Trấn Viễn tiêu cục trong thấy mặt ông. Nghỉ ngơi được một lát, đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục bắt đầu lên đường, và đoàn xa kiệu của gia quyến Lý Khả Tú theo sau nối liền, cách không bao xa, chỉ vừa đủ khoảng cách theo đúng luật giang hồ để đoàn tiêu xa đi trước khỏi nghi kỵ là có ý này nọ. Xa xa trông hai đoàn giống hệt một con rồng đang vươn mình bò sát giữa một cái hố sâu thăm thẳm, vách đá dựng cao ngất. Cả người lẫn ngựa đều mệt toát mồ hôi, vừa leo dốc vừa thở. Những người lãnh trách nhiệm tải hàng hóa và đồ vật tương đối nặng lên
tiếng reo hò luôn để cổ võ cho nhau hầu quên đi cái nặng nhọc trước mắt. Lục Phỉ Thanh đi đàng sau chợt phát hiện bên hữu của đĩnh đèo chót vót có một bóng người dường như núp theo bóng cây để tiện bề rình rập chi đó. Cùng lúc đó, ông lại nghe có tiếng lục lạc của bầy lạc đà ngân lên và từ trên triền núi xuất hiện một đám người Duy cỡi ngựa phi như bay xuống. Cả đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục hoảng sợ kêu la thất thanh, bảo nhau phải làm sao ngăn cản được đám kỵ sĩ ấy, vì cái trớn đổ đèo thần tốc kia sẽ đẩy nguyên đoàn tiêu xa xuống vực thẳmtan xương! Đổng Triệu Hòa điếng hồn, la lên: - Thôi chết rồi! Thật vô phương chặn đứng lại kịp! Đám kỵ sĩ người Duy với kỵ thuật tài tình khéo léo lanh lẹ dị thường, cứ tiếp tục giục ngựa sải xuống với khí thế vô cùng dũng mãnh, chẳng khác chi sóng vỗ nước tràn. Đoàn kỵ sĩ, độ chừng chục người trở lại thình lình cất tiếng hát vang lên. Tiếng hát của họ lảnh hót ngân vào trong vách đá làm vang dội lại một thứ âm thanh nghe rất là kỳ quái, chẳng hiểu chi là chi! Cũng lúc ấy, hai bên chót của đỉnh đèo xuất hiện những bóng người, có lẽ là đã mai phục sẵn từ bao giờ đứng dậy như ma quỷ hiện hình cũng trổi giọng hát hòa nhịp với đám kỵ sĩ. Cả đoàn tiêu xa vừa lo sợ, vừa ngạc nhiên đến sửng sốt. Thình lình, trong đám người Duy kia phát ra một tiếng hồ tiêu. Có hai kỵ sĩ người Duy bỗng giục ngựa phi như bay, tách hẳn đoàn xông thẳng về phía Diêm Thế Khôi. Hai người đột nhiên tấn công vào kỵ sĩ đi phía sau bảo vệ cho Diêm Thế Khôi là Diêm Thế Chương, và bốn con lạc đà cùng tới một lượt vây chặt Diêm Thế Khôi vào giữa. Hai anh em họ Diêm trong Quảng Đông lục ma có nhiều kinh nghiệm trong những cuộc đương đầu với các cao thủ nên cho dù đứng trước tình trạng hiểm nghèo mà tinh thần không bị rối loạn. Hai người biết là đang bị ở thế bất lợi, không thể dùng số đông mà đối phó được với đám người đông đảo từ trên dốc đánh xuống như thác nước đổ. Cả Diêm Thế Khôi lẫn Diêm Thế Chương đều rút binh khí ra tự lực đối phó và tùy cơ ứng biến.
Bốn người Duy cỡi bốn con lạc đà bỗng đưa cao cây côn sắt rồi cùng nhau đánh bổ xuống đỉnh đầu Diêm Thế Khôi một lượt. Cây côn sắt của họ vốn không phải là vũ khí tầm thường. Mỗi cây phải nặng trên trăm cân, mà cả bốn người đều có sức mạnh ghê gớm cả. Đã ở trong thế kẹt mà chỗ đứng lại nhỏ hẹp nên không làm sao né tránh kịp chỉ còn cách nhắm mắt bưng tai mà chịu trận, chờ chết mà thôi. Toàn thân Diêm Thế Khôi luôn cả con ngựa hắn cỡi đều nát ra như cám, thịt xương, máu óc văng tung tóe, dính cả lên ngọn lá cành cây, đẫm tràn trên mặt lộ. Một bóng vàng trong đám người Duy cỡi ngựa phóng ra. Người đó chính là Tiêu Thanh Đồng chứ chẳng phải ai khác hơn. Nàng bước tới phía trước lanh lẹn nhảy từ trên yên xuống cẩn thận rút kiếm cắt giây buộc nơi cái bao vải màu hồng ở trên lưng Diêm Thế Khôi thì nghe sau lưng có một luồng gió tạt đến, một lưỡi kiếm nhắm vào nàng đâm thẳng tới. Tiêu Thanh Đồng chỉ chú trọng vào chiếc bao hồng thôi nên không có ý muốn giao chiến, nên nàng khẽ lách mình tránh khỏi mũi kiếm hiểm ác đó. Tay nàng cầm kiếm cố cắt nốt những đường giây còn lại dính liền cái bao hồng trên lưng Diêm Thế Khôi. Nhưng kẻ vừa đâm mũi kiếm kia quyết không để cho Tiêu Thanh Đồng có đủ thì giờ để cướp đi cái bao vải hồng mà bọn hắn đã liều mình bảo vệ, dùng tánh mạng Diêm Thế Khôi để giữ gìn cho nên Tiêu Thanh Đồng vừa tránh kịp được mũi kiếm thứ nhất thì mũi kiếm thứ nhì lại nhắm thẳn vào hông nàng mà đâm tới. Mũi kiếm này so với mũi trước thì có phần hiểm ác hơn nhiều.
Biết chẳng thể né tránh kịp được mũi kiếm này, Tiêu Thanh Đồng buộc lòng phải đưa lưỡi kiếm của nàng ra đón đỡ. Hai lưỡi kiếm va chạm vào nhau một cái thật mạnh đến lóe lửa, tạo nên một âm thanh hết sức ghê rợn. Biết địch thủ của nàng không phải tầm thường, Tiêu Thanh Đồng không dám chậm trễ, vội vã nhanh tay cắt bừa những mối giây cột bao vải hồng nhưng tai mắt luôn luôn đề phòng những biến cố chung quanh vì nếu sơ ý có thể mất mạng như chơi trong đường tơ kẽ tóc. Người kia lại chém ngay cườm tay nàng thêm một nhát kiếm nữa. Tiêu Thanh Đồng rút vội bàn tay trái của nàng lại tránh được lưỡi kiếm của đối phương dễ dàng mà còn lấy hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng xỉa vào đối phương cùng với mũi kiếm. Người kia chỉ khẽ lùi lại đã tránh được cả mũi kiếm và mũi xỉa bằng tay của nàng. Tiêu Thanh Đồng uất hận vô cùng. Nàng ngước mắt nhìn lên xem thử là ai đã ba lần làm cho nàng mất cơ hội đoạt lại cái bao hồng trên lưng Diêm Thế Khôi. Nàng lại càng lồng lộn lên khi thấy rõ kẻ đó chính là “chàng thanh niên tuấn tú” đã từng giở thói vô lễ với nàng lúc gặp nhau trên đường lộ. Tiêu Thanh Đồng không hiểu oan gia nào phá rối mà cứ khiến xui cho chàng thanh niên kia đeo theo cản trở công việc sắp thành công của nàng. Tiêu Thanh Đồng nộ khí xung thiên vung kiếm lên chém loạn xạ như bão táp mưa sa. “Chàng thanh niên” ấy cũng thi triển hết những thế kiếm bí hiểm tạo nên một trận ác đấu dữ dội như gió chạy cát bay. Tiêu Thanh Đồng vừa đấu vừa căm phẫn. Nếu không phải vì “chàng thanh niên” này xen vào công việc của nàng với đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục thì công tác của nàng đã hoàn thành, nhiệm vụ của nàng đã viên mãn. Vì chàng thanh niên ấy mà bao nhiêu công lao, bao nhiêu hy sinh của mồ hôi nước mắt của dân nàng há đành trôi theo giòng nước hay sao?
“Chàng thanh niên” ấy chẳng phải ai khác hơn là cô gái cải nam trang Lý Mộng Ngọc. Nàng đang ở đoàn xa kiệu theo hầu bà nội và mẹ bỗng nhiên thấy thấy đội lạc đà của người Duy bao vây đoàn xa tiêu của Trấn Viễn tiêu cục mà tấn công. Chẳng cần biết đắn đo lợi hại hay phân biệt điều phải trái ra sao lại tự phụ vào tài năng nên Lý Mộng Ngọc xông lên ngăn cản Tiêu Thanh Đồng với mục đích thử tài cao thấp. Chỉ vì nàng nghe sư phụ Lục Phỉ Thanh khen Tiêu Thanh Đồng võ nghệ giỏi hơn mình nên không phục, hễ gặp cơ hội là tìm cách giao đấu để làm thỏa mãn tự ái của mình ngay. Quả đúng như lời tiên đoán của Lục Phỉ Thanh, chính vì cái thông minh của Lý Mộng Ngọc đã khiến cho nàng lầm lạc! Những người ở bên triền núi chỉ trố mắt nhìn sang trận đấu thư hùng giữa Tiêu Thanh Đồng và Lý Mộng Ngọc. Tiêu Thanh Đồng đâm một hơi ba kiếm nhưng bị Lý Mộng Ngọc giải trừ được hết làm cho nàng đầu nóng tai ù, tức giận đến cực độ. Nàng dư hiểu là trong đám tiêu sư theo bảo vệ Diêm Thế Khôi kia có nhiều kẻ có bản lãnh cao siêu không dễ cho nàng thắng nổi. Nếu ra tay ở chỗ lớn ắt mười phần nhắm thất bại cả mười. Do đó Tiêu Thanh Đồng mới chọn đồi Ô Kim, là nơi hiểm yếu để thi hành kế hoạch, lấy lợi thế trên cao đánh xuống, rất hữu hiệu cho chiến thuật “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”. Chỉ một trận đánh có thể thành công được. Tới chừng đó, khi nhiệm vụ hoàn tất cả đoàng ca khúc khải hoàn trở về nơi tổ quốc thân yêu thì còn gì vui vẻ hân hoan hơn nữa.
Tiêu Thanh Đồng lần này thi hành kế hoạch nắm chắc phần thắng trong tay. Dù cho đối phương có đông người, võ nghệ có cao siêu đến bậc nào cũng không tài nào đối phó kịp. Mưu kế như Gia Cát, cơ trí như Châu Du, Tiêu Thanh Đồng đã dùng kỵ binh lũng kích Diêm Thế Khôi mười phần nguy kịch, bắt buộc đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục phải lọt vào kế hành quân của nàng, chỉ đứng ngoài mà ngó chứ không dám vào trợ chiến. Tiêu Thanh Đồng quả nhiên đã chận đứng được đám tiêu sư kia. Không ai dám liều mạng xông vào vì biết nếu làm thế thì chỉ uổng mạng như Diêm Thế Khôi hoặc nguy khốn như Diêm Thế Chương mà thôi. Thành công đã thấy trước mắt. Nào ngờ Lý Mộng Ngọc can thiệp vào! Tiêu Thanh Đồng có ngờ đâu là nàng bị cái thế “trợ Kiệt” là Lý
Mộng Ngọc dù cố ý hay vô tình đã đứng vào phe Trấn Viễn tiêu cục!... Tâm hồn của Tiêu Thanh Đồng chỉ có được một nửa trong trận đánh, còn một nửa kia cứ canh cánh nghĩ mãi về chiếc bao màu hồng trên lưng Diêm Thế Khôi đã chết. Cho nên càng đánh, nàng lại càng thấy kiếm pháp của Lý Mộng Ngọc kỳ diệu thật khó lòng mà đánh thắng để lấy được cái bao hồng. Tiêu Thanh Đồng toát cả mồ hôi ướt đẫm như tắm. Không thể ham đánh mãi, Tiêu Thanh Đồng đột nhiên phóng ra một thế kiếm gọi là “Tam Phân kiếm thuật” của phái Thiên Sơn, đánh Lý Mộng Ngọc lùi dần ra sau. Thế kiếm này là tuyệt kỹ của phái Thiên Sơn, không bao giờ truyền cho ai ngoại trừ một vài đệ tử thân tín như Tiêu Thanh Đồng. Lý Mộng Ngọc thấy kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng bỗng nhiên biến ảo vô cùng. Một đường kiếm biến thành ba, kiếm quan hết sức linh động. Có một điều là thế “Tam Phân kiếm thuật” này chỉ có công mà không có thủ. Bao nhiêu lợi hại đều tuôn ra hết, không dành lại cho mình một chiêu nào để phòng thân cả. Thấy Tiêu Thanh Đồng dùng thế “Băng Hà Đảo Tả” đâm tới vô cùng mạnh mẽ, Lý Mộng Ngọc bèn dùng chiêu “Nhất Trụ Hương” với ý định đánh bạt lưỡi kiếm địch thủ qua một bên. Nhưng chẳng ngờ chỉ còn cách nhau hai thước chiêu kiếm của Tiêu Thanh Đồng tức khắc lại biến thành thế “Thiên Lý Lưu Sa” gạt lưỡi kiếm của Lý Mộng Ngọc sang một bên rồi cứ thế thẳng đường đâm tới. Lý Mộng Ngọc kinh hãi vô cùng, vội vàng chuyển mũi kiếm trở về trước bụng để bảo vệ. Nhưng thật là kỳ quái, rõ ràng địch thủ đâm mũi kiếm ngay bụng Lý Mộng Ngọc với tất cả sức mạnh nhưng chưa tới đích thì đã chuyển ra thế “Phong Quyện Trường Thảo”, từ trên sa xuống như điện xẹt chém mạnh vào cánh trỏ tay trái của Lý Mộng Ngọc làm cho nàng luýnh quýnh chỉ còn nước liều nhảy ra sau một bước. Vừa tránh được lưỡi kiếm lợi hại ấy trong đường tơ kẽ tóc, chưa kịp hoàn hồn thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ra thế “Cử Hỏa Liệu Thiên” quay ngược mũi kiếm từ dưới lên trên nhanh như gió, chém sả vào vai trái Lý Mộng Ngọc.
Lý Mộng Ngọc vừa tránh khỏi được thì Tiêu Thanh Đồng lại ra thế “Tuyết Trung Kỳ Liên” chém tả chém hữu vùn vụt như tên lìa khỏi cung. Mặc dầu Tiêu Thanh Đồng không có ý làm tổn hại đến tánh mạng Lý Mộng Ngọc nhưng cũng ghép nàng vào tình trạng vô cùng khốn đốn. Cả hai giao đấu với nhau một lúc đã khá lâu, không biết là bao nhiêu hiệp. Lý Mộng Ngọc mệt lả cả người, mồ hôi đổ như tắm. Đó là Tiêu Thanh Đồng chỉ dùng có một phần trong “Tam Phân kiếm thuật” bí truyền của phái Thiên Sơn. Hễ Lý Mộng Ngọc đón đỡ được một thế kiếm thì Tiêu Thanh Đồng lại biến ngay ra chiêu khác. Nếu là người võ công tầm thường ở ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng là hai người giỡn chơi với nhau, nhưng sự thật đó là một trận đấu nguy hiểm vô cùng, tánh mạng lúc nào cũng như mành chỉ treo chuông. Tiêu Thanh Đồng cú vây chặt Lý Mộng Ngọc trong vòng kiếm pháp của mình mà không ngừng đâm chém. Mũi kiếm luôn luôn vung ra cách mình nàng chừng một thưóc rồi lại tấn công tới tấp khiến Lý Mộng Ngọc loạn cả mắt, ù cả tai, và tay chân thì bủn rủn, cứ lùi dần, luimãi... Kiếm pháp của Tiêu Thanh Đồng vô cùng biến ảo khiến cho Lý Mộng Ngọc không tài nào đoán được. Nếu không nhờ Nhu Vân kiếm của Lục Phỉ Thanh tận tình chỉ dạy cho để hộ thân trong lúc nguy kịch thì chưa biết tánh mạng nàng sẽ ra sao. Nhu Vân kiếm của Lý Mộng Ngọc thật ra cũng luyện được đến nơi đến chốn. Nhưng nàng quên mất một yếu tố quan trọng là người sử dụng kiếm thuật này phải tự tin, tâm phải vững để lấy “tĩnh” mà chế “động”. Nếu nhớ kỹ được điều ấy thì cho dù địch thủ có biến ra bao nhiêu thế kiếm kỳ lạ hay tuyệt diệu đi chăng nữa cũng không không thao túng được đối phương. Hiềm là Lý Mộng Ngọc mới bước chân vào giang hồ, chưa thật sự cùng ai giao đấu nên thiếu hẳn “kinh nghiệm chiến trường”. Vì vậy
README.md exists but content is empty. Use the Edit dataset card button to edit it.
Downloads last month
205
Edit dataset card