id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 0
258k
|
---|---|---|---|
5987 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5987 | Báo đốm | Báo đốm (danh pháp khoa học: "Panthera onca") là một trong năm loài lớn nhất của Họ Mèo bên cạnh sư tử, hổ, báo hoa mai và báo tuyết, và loài duy nhất trong số năm loài này có nguồn gốc từ khu vực châu Mỹ. Phạm vi hiện tại của báo đốm kéo dài từ Tây Nam Hoa Kỳ và Mexico ở Bắc Mỹ, qua phần lớn Trung Mỹ, và phía nam đến Paraguay và miền bắc Argentina ở Nam Mỹ. Mặc dù có những cá thể riêng biệt hiện đang sống ở phía tây Hoa Kỳ, loài này phần lớn đã bị tuyệt chủng khỏi Hoa Kỳ kể từ đầu thế kỷ 20. Chúng được liệt kê là loài sắp bị đe dọa trong Sách Đỏ IUCN; và số lượng của chúng đang giảm dần. Các mối đe dọa bao gồm bị mất và phân mảnh môi trường sống. Báo đốm còn là loài mèo lớn nhất châu Mỹ, và là loài có kích thước lớn thứ ba trong Họ Mèo (chỉ sau hổ và sư tử), chúng là loài mèo có lực cắn mạnh nhất và có phương pháp tấn công vào đầu nạn nhân thay vì cổ họng.
Mặc dù báo đốm có ngoại hình gần giống như báo hoa mai (leopard) và có quan hệ họ hàng gần với loài này, chúng cũng rất giỏi leo trèo, nhưng có các tập tính gần với hổ hơn (nhất là tập tính thích nước). Sự khác biệt dễ nhận thấy giữa báo đốm và báo hoa mai ở chỗ là chúng có kích thước lớn hơn và chắc nịch hơn, ngoài ra các khoanh đốm của báo đốm to hơn và bên trong khoanh đốm có các chấm đen vì vậy mới gọi là báo "đốm", chúng cũng có cặp chân ngắn và lùn hơn, đuôi ngắn hơn so với loài báo hoa mai vốn có thân hình dong dỏng cao và đuôi dài hơn, các khoanh đốm của báo hoa mai chụm lại giống như hình bông hoa mai.
Báo đốm sống trên một loạt các địa hình có rừng và những nơi có không gian mở, nhưng môi trường sống ưa thích của chúng là rừng lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới, đầm lầy và các khu vực nhiều cây cối. Báo đốm thích bơi lội và phần lớn là loài săn mồi đơn độc, tấn công mục tiêu theo kiểu tận dụng cơ hội, rình rập và phục kích, là động vật đứng đầu chuỗi thức ăn ở nơi mà chúng sinh sống. Là một loài chủ chốt, chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định hệ sinh thái và điều chỉnh quần thể con mồi.
Trong khi thương mại quốc tế về báo đốm hoặc các bộ phận cơ thể của chúng bị cấm khai thác, những cá thể vẫn thường xuyên bị giết, đặc biệt là trong các cuộc xung đột với chủ trang trại và nông dân ở Nam Mỹ. Mặc dù số lượng có giảm, phạm vi của chúng vẫn còn lớn. Với sự phân bố lịch sử của chúng, loài báo đốm đã nổi bật trong thần thoại của nhiều nền văn hóa bản địa Mỹ, bao gồm cả những văn minh Maya và Aztec.
Trong tiếng Anh, từ '"jaguar"' được cho là có nguồn gốc từ tiếng Tupian (một ngôn ngữ Nam Mỹ) "yaguara", có nghĩa là "thú săn mồi". Từ này được nhập vào tiếng Anh có lẽ thông qua ngôn ngữ thương mại của người Amazon Tupinambá, thông qua tiếng Bồ Đào Nha "jaguar".. Tên nguyên thủy và có gốc hoàn toàn bản xứ của loài này là "yaguareté", nghĩa là "thú dữ tợn thực sự", với hậu tố -"eté" có nghĩa là "thực sự". Kỳ lạ thay là từ "jaguar" có nghĩa là "chó" trong tiếng Guarani (một ngôn ngữ Nam Mỹ nữa đã giúp tạo nên tên loài này). "Jaguar" cũng là tước hiệu của hoàng tử hay công chúa hay của vua đang cai trị của người Maya chẳng hạn như của bộ tộc Lenca.
Trong tiếng Tây Ban Nha của Mexico, biệt danh của nó là "el tigre": Người Tây Ban Nha thế kỷ 16 không có từ bản địa trong ngôn ngữ của họ cho loài báo đốm, nhỏ hơn một con sư tử, nhưng lớn hơn một con báo, cũng chưa từng gặp nó ở Cựu Thế giới, và được đặt tên như vậy nó theo sau con hổ, vì sự hung dữ của nó đã được biết đến với chúng thông qua các tác phẩm La Mã và văn học nổi tiếng trong thời Phục hưng.
Onca là onça của Bồ Đào Nha, với cây tuyết tùng rơi vì lý do đánh máy, được tìm thấy trong tiếng Anh là ounce cho báo tuyết, Panthera uncia. Nó bắt nguồn từ tiếng Latin lyncea lynx, với chữ L nhầm lẫn với bài viết xác định (tiếng Ý lonza, tiếng Pháp cổ)
Do hoa văn trên người nó tương đối giống loài báo hoa mai, thể hình gần giống loài hổ, và rất nhiều người châu Mỹ chưa từng nhìn thấy hổ và báo hoa mai chính cống, nên đã gọi nó là "Hổ châu Mỹ" ("Amerikanischer Tiger") hoặc "Báo châu Mỹ". Hai cái tên này được sử dụng đến tận ngày nay. Ở Mỹ, chúng cũng thường được gọi là hổ châu Mỹ để phân biệt với những con báo Mỹ nhỏ hơn hoặc báo sư tử, mà cũng đã được tìm thấy ở Louisiana vào thời điểm đó.
Báo đốm là thành viên Tân Thế giới duy nhất còn tồn tại của chi Panthera. Kết quả phân tích DNA cho thấy sư tử, hổ, báo hoa mai, báo đốm, báo tuyết và báo gấm có chung một tổ tiên, và nhóm này có từ sáu đến mười triệu năm tuổi; hồ sơ hóa thạch chỉ ra sự xuất hiện của Panthera chỉ hai đến 3,8 triệu năm trước. Panthera được cho là đã phát triển ở châu Á. Loài báo đốm được cho là đã chuyển hướng từ một tổ tiên chung của loài Panthera ít nhất 1,5 triệu năm trước và đã xâm nhập vào lục địa Mỹ ở Pleistocene sớm qua Beringia, cây cầu trên đất liền từng bắc qua eo biển Bering. Kết quả phân tích DNA ti thể của báo đốm cho thấy dòng dõi của loài đã tiến hóa từ 280.000 đến 510.000 năm trước.
Các nghiên cứu phát sinh gen nói chung đã chỉ ra rằng báo đốm (Neofelis nebulosa) là cơ sở cho nhóm này. Vị trí của các loài còn lại khác nhau giữa các nghiên cứu và có hiệu quả chưa được giải quyết.
Dựa trên bằng chứng hình thái học, nhà động vật học người Anh Reginald Innes Pocock kết luận rằng loài báo đốm có liên quan chặt chẽ nhất với báo hoa.
Tuy nhiên, bằng chứng DNA là không thuyết phục và vị trí của báo đốm so với các loài khác thay đổi giữa các nghiên cứu. Hóa thạch của các loài Panthera đã tuyệt chủng, như báo đốm châu Âu (Panthera gombaszoegensis) và sư tử Bắc Mỹ (Panthera atrox), cho thấy đặc điểm của cả sư tử và báo đốm.
Năm 1758, Carl Linnaeus đã mô tả con báo đốm trong tác phẩm Systema Naturae và đặt cho nó cái tên khoa học "Felis onca". Trong thế kỷ 19 và 20, một số mẫu vật báo đốm đã hình thành cơ sở cho các mô tả phân loài. Năm 1939, Reginald Innes Pocock đã công nhận tám phân loài dựa trên nguồn gốc địa lý và hình thái hộp sọ của các mẫu vật này. Pocock đã không có quyền truy cập vào các mẫu vật động vật học đủ để đánh giá phê bình tình trạng phân loài của chúng, nhưng bày tỏ nghi ngờ về tình trạng của một số loài. Sau này xem xét công việc của mình đề nghị chỉ có ba phân loài nên được công nhận. Mô tả của P. o. palustris dựa trên hộp sọ hóa thạch. Tác giả của các loài động vật có vú trên thế giới liệt kê chín phân loài và cả P. o. palustris hoặc P. o. paraguensis riêng biệt.
Kết quả nghiên cứu hình thái và di truyền học cho thấy một biến thể phía nam clinal giữa các quần thể, nhưng không có bằng chứng cho sự khác biệt phân loài. Một nghiên cứu chi tiết hơn sau đó đã xác nhận cấu trúc số lượng dự đoán trong quần thể báo đốm ở Colombia.
Những người đánh giá Sách Đỏ IUCN cho các loài và thành viên của Nhóm Chuyên gia thú họ Mèo không công nhận bất kỳ phân loài báo đốm nào là hợp lệ. Bảng dưới đây dựa trên phân loại trước đây của các loài được cung cấp trong các loài động vật có vú trên thế giới.
Báo đốm là một loài động vật nhỏ gọn và cơ bắp. Đây là loài mèo lớn nhất có nguồn gốc từ châu Mỹ và lớn thứ ba trên thế giới, chỉ sau kích thước của hổ và sư tử. Bộ lông của nó thường có màu vàng hung, nhưng có màu từ nâu đỏ, đối với hầu hết cơ thể. Vùng bụng có màu trắng. Bộ lông được phủ bằng những khoanh đốm để ngụy trang dưới ánh sáng mờ ảo của môi trường sống trong rừng. Các đốm và hình dạng của chúng khác nhau giữa các loài báo đốm riêng lẻ: khoanh đốm có thể bao gồm một hoặc một vài hoa thị. Các đốm trên đầu và cổ nói chung là khá lớn, cũng như các đốm trên đuôi, nơi chúng có thể hợp nhất để tạo thành một dải. Báo đốm rừng thường tối hơn và nhỏ hơn đáng kể so với những con ở khu vực mở, có thể là do số lượng nhỏ con mồi ăn cỏ lớn trong khu vực rừng.
Kích thước và trọng lượng của chúng thay đổi đáng kể: trọng lượng thường nằm trong khoảng 56-96 kg (123-212 lb). Những con đực to lớn đặc biệt đã được ghi nhận có trọng lượng lên tới 158 kg (348 lb). Con cái nhỏ nhất nặng khoảng 36 kg (79 lb). Con cái thường nhỏ hơn 10-20% so với con đực. Chiều dài, từ mũi đến cuối đuôi, thay đổi từ 1,12 đến 1,85 m (3,7 đến 6,1 ft). Báo đốm có đuôi ngắn nhất trong số loài con mèo lớn, dài 45 đến 75 cm (18 đến 30 in). Chân cũng ngắn, nhưng rắn chắc và mạnh mẽ, ngắn hơn đáng kể khi so sánh với một con hổ nhỏ hoặc sư tử trong một phạm vi trọng lượng tương tự. Báo đốm đứng cao 63 đến 76 cm (25 đến 30 in) tính từ vai.
Sự thay đổi kích thước hơn nữa đã được quan sát giữa các khu vực và môi trường sống, với kích thước có xu hướng tăng dần từ Bắc xuống Nam. Báo đốm Mexico trong Khu dự trữ sinh quyển Chamela-Cuixmala trên bờ biển Thái Bình Dương chỉ nặng khoảng 50 kg (110 lb), có kích thước tương đương một con báo sư tử. Báo đốm Nam Mỹ ở Venezuela hoặc Brazil lớn hơn nhiều với trọng lượng trung bình khoảng 95 kg (209 lb) ở con đực và khoảng 56-78 kg (123-172 lb) ở con cái.
Một cấu trúc chân tay ngắn và chắc nịch làm cho báo đốm trở nên cừ khôi trong việc leo trèo, bò và bơi. Đầu chắc và bộ hàm cực kỳ mạnh mẽ, nó có lực cắn mạnh nhất trong các loài họ mèo, hơn cả hổ và sư tử. Một con báo đốm nặng 100 kg (220 lb) có thể cắn với lực 503,6 kgf (1.110 lbf) ở răng nanh và 705,8 kgf (1.556 lbf) ở rãnh răng cưa. Điều này cho phép nó xuyên thủng da của các loài bò sát và mai rùa. Một nghiên cứu so sánh về lực cắn được điều chỉnh theo kích thước cơ thể đã xếp nó là thú họ mèo hàng đầu, bên cạnh báo gấm và trước cả hổ và sư tử. Đã có một báo cáo rằng "một con báo đốm có thể kéo một con bò 800 lb (360 kg) 25 ft (7.6 m) trong hàm của nó và nghiền nát cả những khúc xương nặng nhất".
Mặc dù báo đốm gần giống với báo hoa, nhưng nó thường rắn chắc và nặng hơn, và hai loài động vật có thể được phân biệt bằng các khoanh đốm của chúng: các khoanh đốm trên bộ lông của báo đốm lớn hơn, số lượng ít hơn, thường tối hơn và có các đường dày hơn và các đốm nhỏ ở giữa mà báo hoa mai thiếu. Báo đốm cũng có đầu tròn hơn và chân ngắn hơn so với báo hoa.
Nếu báo bị nhiễm hắc tố thì nó có thể sinh ra các báo con hoàn toàn đen (mặc dù khi nhìn gần vẫn thấy các đốm). Các con này được gọi là báo đen, nhưng đây không phải là một loài riêng biệt. Hình thái màu đen ít phổ biến hơn hình thái đốm, ước tính xảy ra ở khoảng 6% số lượng báo đốm Nam Mỹ. Ở vùng Sierra Madre Occidental của Mexico, con báo đốm có lông đen đầu tiên được ghi nhận vào năm 2004. Báo đốm đen cũng được chụp ảnh ở Khu bảo tồn sinh học Alberto Manuel Brenes của Costa Rica, trên vùng núi của Cordillera de Talamanca, trong Vườn quốc gia Barbilla và ở phía đông Panama.
Một số bằng chứng chỉ ra rằng các alen hắc tố chiếm ưu thế và được hỗ trợ bởi chọn lọc tự nhiên. Các hình thức màu đen có thể là một ví dụ về lợi thế dị hợp tử; trong điều kiện nuôi nhốt chưa được kết luận về điều này. Báo đốm hắc tố (hay báo đốm "đen") xuất hiện chủ yếu ở các vùng của Nam Mỹ, và hầu như không được biết đến trong các quần thể hoang dã cư trú ở khu vực cận nhiệt đới và ôn đới của Bắc Mỹ; chúng chưa bao giờ được ghi nhận ở phía bắc Isthmus of Tehugeepec của Mexico.
Các cá thể bạch tạng cực hiếm, đôi khi được gọi là báo đốm trắng, cũng xảy ra giữa các loài báo đốm, như với những con mèo lớn khác. Như thường lệ với nhiễm bạch tố trong tự nhiên, lựa chọn giữ tần số gần với tốc độ đột biến.
Hiện tại, phạm vi của loài báo đốm kéo dài từ Mexico qua Trung Mỹ đến Nam Mỹ, bao gồm phần lớn vùng rừng mưa Amazon của Brazil. Các quốc gia nằm trong phạm vi này là Argentina, Belize, Bolivia, Colombia, Costa Rica (đặc biệt trên Bán đảo Osa), Ecuador, Guiana thuộc Pháp, Guatemala, Guyana, Honduras, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru, Suriname, Hoa Kỳ và Venezuela. Nó hiện đã tuyệt chủng cục bộ ở El Salvador và Uruguay.
Báo đốm đã là một con mèo Mỹ kể từ khi đi qua cầu Beringia trong thế Pleistocene; tổ tiên ban đầu của chúng là "Panthera onca augusta", nó lớn hơn những con báo đương đại. Nó xuất hiện trong Khu bảo tồn Động vật hoang dã Cockscomb rộng 400 km² ở Belize, Khu dự trữ sinh quyển Sian Ka'an có diện tích 5.300 km² ở Mexico, vườn quốc gia Manu rộng khoảng 15.000 km² ở Peru, Công viên quốc gia Xingu rộng khoảng 26.000 km² ở Brazil và nhiều khu bảo tồn khác trên khắp phạm vi của nó ở Brazil.
Việc đưa Hoa Kỳ vào danh sách dựa trên những lần nhìn thấy thường xuyên ở phía tây nam, đặc biệt là ở Arizona, New Mexico và Texas. . Có những bức vẽ bằng đá được tạo bởi Hopi, Anasazi và Pueblo trên khắp các vùng sa mạc và chaparral. Có những ghi chép về con thú được bán với tấm da của nó ở vùng lân cận San Antonio, Texas với giá 18 đô la vào giữa thế kỷ 19 và có những ghi chép từ trước khi California là một tiểu bang phù hợp với những mô tả về con báo này.
Vào đầu thế kỷ 20, phạm vi của loài báo đốm kéo dài đến tận phía bắc như Grand Canyon và có thể cả Colorado, và xa về phía tây như Monterey ở Bắc California. Báo đốm là một loài được bảo vệ ở Hoa Kỳ theo Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng, đã ngăn chặn việc bắn con vật để lấy da của nó. Da của báo đốm cũng bị chính phủ Hoa Kỳ coi là hàng lậu bất hợp pháp và mặt khác, người Mỹ đã ngừng mặc áo khoác lông làm từ xương chậu của báo khi công dân nhận thức được hoàn cảnh quốc tế của chúng. Thật không may, việc ngừng săn bắn đã đến quá muộn để cứu quần thể báo đốm khỏi bị suy giảm và không có chú báo con nào được sinh ra ở phía bên kia biên giới México - Hoa Kỳ trong nhiều thế hệ.
Vào năm 1996 và từ năm 2004 trở đi, các hướng dẫn viên săn bắn và các quan chức động vật hoang dã ở Arizona đã chụp ảnh và ghi lại những con báo đốm ở phía nam của bang. Từ năm 2004 đến 2007, hai hoặc ba con báo đốm đã được báo cáo bởi các nhà nghiên cứu xung quanh Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Buenos Aires ở miền nam Arizona. Một trong số chúng, được gọi là 'Macho B', đã được chụp ảnh trước đó vào năm 1996 trong khu vực. Để bất kỳ quần thể báo đốm nào ở Mỹ phát triển mạnh, việc bảo vệ chúng khỏi bị săn giết, một số lượng con mồi dồi dào và kết nối với quần thể ở Mexico là điều cần thiết. Vào tháng 2 năm 2009, một con báo đốm nặng 53,5 kg (118 lb) đã bị bắt, thu thanh và phát hành tại một khu vực phía tây nam của thành phố Tucson, Arizona; đây là phía bắc xa hơn so với dự kiến trước đây và đại diện cho một dấu hiệu có thể có một quần thể báo đốm sinh sản vĩnh viễn ở phía nam Arizona. Con vật sau đó được xác nhận là cùng một cá thể đực ('Macho B') được chụp vào năm 2004. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2009, Macho B đã bị bắt lại và tiêu hủy sau khi nó được phát hiện đang bị suy thận; Con vật được cho là 16 tuổi, già hơn bất kỳ con báo đốm hoang dã nào được biết đến.
Hoàn thành bức tường biên giới Hoa Kỳ-Mexico như đề xuất hiện tại sẽ làm giảm khả năng sống sót của bất kỳ cá thể nào đang sống tại Hoa Kỳ, bằng cách giảm dòng gen với quần thể Mexico và ngăn chặn sự mở rộng về phía bắc của loài này. Phạm vi lịch sử của loài này bao gồm phần lớn nửa phía nam của Hoa Kỳ, và ở phía nam mở rộng ra xa hơn nhiều về phía Nam và bao phủ hầu hết lục địa Nam Mỹ. Tổng cộng, phạm vi phía bắc của nó đã rút xuống 1.000 km (620 mi) về phía nam và phạm vi phía nam bị rút đi 2.000 km (1.200 mi) về phía bắc. Hóa thạch kỷ băng hà của loài báo đốm, có niên đại từ 40.000 đến 11.500 năm trước, đã được phát hiện ở Hoa Kỳ, bao gồm một số tại một địa điểm quan trọng ở phía bắc như Missouri. Bằng chứng hóa thạch cho thấy những con báo đốm nặng tới 190 kg (420 lb), lớn hơn nhiều so với mức trung bình đương thời của chúng.
Môi trường sống của mèo thường bao gồm các khu rừng mưa nhiệt đới ở Trung và Nam Mỹ, vùng đất ngập nước mở, ngập nước theo mùa và địa hình đồng cỏ khô. Trong số những môi trường sống này, báo đốm rất thích sống trong rừng rậm; báo đã mất phạm vi phân bố nhanh nhất ở những vùng có môi trường khô hơn, như pampas ở Argentina, đồng cỏ khô cằn ở Mexico và tây nam Hoa Kỳ. Báo đốm trải rộng trên các khu rừng rụng lá nhiệt đới, cận nhiệt đới và khô (bao gồm, trong lịch sử, rừng sồi ở Hoa Kỳ). Báo đốm thích sống gần sông, đầm lầy và trong rừng nhiệt đới dày đặc với độ phủ dày để rình rập con mồi. Báo đốm đã được tìm thấy ở độ cao tới 3.800 m, nhưng chúng thường tránh sống ở những khu rừng trên núi và không được tìm thấy ở cao nguyên trung tâm Mexico hoặc Andes. Loài báo đốm ưa thích môi trường sống thường là đầm lầy và khu vực nhiều cây cối, nhưng báo đốm cũng sống trong các bụi rậm và sa mạc. Sự phổ biến rộng rãi của báo đốm Mỹ không có nghĩa là chúng không phải đối diện họa diệt chủng trong tương lai gần. Ở một số khu vực, số lượng của chúng này đang bị suy giảm, chủ yếu là do bị mất nơi sống, đặc biệt là trong các rừng mưa nhiệt đới và những khu vực có đồng cỏ bị chuyển thành đất gieo trồng.
Báo đốm trưởng thành là một loài động vật ăn thịt đầu bảng, có nghĩa là nó tồn tại ở đầu chuỗi thức ăn và không bị săn bắt trong tự nhiên. Báo đốm cũng được gọi là một loài chủ chốt, vì nó được giả định, thông qua việc kiểm soát mức độ số lượng của con mồi như động vật có vú ăn cỏ và ăn hạt, chúng sẽ duy trì tính toàn vẹn cấu trúc của hệ thống rừng. Tuy nhiên, việc xác định chính xác những loài có ảnh hưởng như loài báo đốm đối với hệ sinh thái là khó khăn, bởi vì dữ liệu phải được so sánh từ các khu vực mà loài này vắng mặt cũng như môi trường sống hiện tại của nó, trong khi kiểm soát tác động của hoạt động của con người. Người ta chấp nhận rằng các loài con mồi cỡ trung bình trải qua sự gia tăng số lượng trong trường hợp không có các loài săn mồi chủ chốt, và điều này đã được đưa ra giả thuyết là có tác động tiêu cực xếp tầng. Tuy nhiên, công việc thực địa đã cho thấy điều này có thể là biến thiên tự nhiên và sự gia tăng số lượng có thể không được duy trì. Do đó, giả thuyết động vật ăn thịt chủ chốt không được tất cả các nhà khoa học chấp nhận.
Báo đốm cũng có ảnh hưởng đến các loài săn mồi khác. Báo đốm và báo sư tử, là loài mèo lớn khác của Nam Mỹ, nhưng là lớn nhất ở Trung hoặc Bắc Mỹ, thường là đối xứng (các loài liên quan có chung lãnh thổ chồng chéo) và thường được nghiên cứu cùng nhau. Báo đốm có xu hướng bắt con mồi lớn hơn, thường trên 22 kg (49 lb) và báo sư tử lại nhỏ hơn, thường từ 2 đến 22 kg (4,4 đến 48,5 lb), làm giảm kích thước của chúng sau này. Tình huống này có thể là lợi thế cho báo đốm. Chúng săn được những con mồi lớn, bao gồm khả năng bắt được con mồi nhỏ hơn, có thể mang lại lợi thế cho loài báo đốm trong cảnh quan thay đổi của con người; trong khi cả hai được phân loại là loài bị đe dọa, báo sư tử có phân bố dòng lớn hơn đáng kể. Tùy thuộc vào sự sẵn có của con mồi, báo sư tử và báo đốm thậm chí có thể chia sẻ nguồn thức ăn của chúng.
Con cái đạt đến độ chín về tình dục ở khoảng hai tuổi và con đực ở ba hoặc bốn tuổi. Báo đốm có thể giao phối suốt năm trong tự nhiên, với sự sinh nở tăng lên khi con mồi dồi dào. Nghiên cứu về báo đốm đực nuôi nhốt ủng hộ giả thuyết giao phối quanh năm, không có sự thay đổi theo mùa trong đặc điểm tinh dịch và chất lượng xuất tinh; thành công trong sinh sản thấp cũng đã được quan sát thấy trong điều kiện nuôi nhốt.
Độ dài thế hệ của báo đốm là 9,8 năm..
Động dục ở con cái là 6-17 ngày trong chu kỳ 37 ngày và con cái sẽ thu hút con đực với các dấu hiệu mùi hương nước tiểu và tăng khả năng phát âm. Cả hai giới sẽ có phạm vi rộng hơn bình thường trong thời gian "tán tỉnh". Các cặp tách biệt sau khi giao phối và con cái sẽ đảm nhận tất cả việc nuôi con non. Thời gian mang thai kéo dài 91-111 ngày; con cái có thể sinh ra tới bốn con, và phổ biến nhất là hai con. Báo cái sẽ không tha thứ cho sự hiện diện của con đực sau khi sinh con, để tránh nguy cơ con đực giết những con báo con; hành vi này cũng được tìm thấy ở loài hổ. Vào năm 2001, một con báo đốm đực đã giết chết và ăn thịt một phần hai con trong vườn quốc gia Emas. Thử nghiệm quan hệ cha con DNA của các mẫu máu cho thấy rằng con đực giết chết và ăn 2 con non này là cha con. Hai trường hợp giết con non đã được ghi nhận ở phía bắc Pantanal vào năm 2013.
Báo con lúc mới sinh ra chưa thể mở mắt, chúng đạt được thị lực sau hai tuần. Đàn con được cai sữa lúc ba tháng, nhưng vẫn ở lại nơi trú ẩn trong sáu tháng trước khi rời đi để cùng mẹ đi săn. Chúng sẽ tiếp tục ở với mẹ mình trong một đến hai năm trước khi rời đi để thiết lập một lãnh thổ cho riêng mình. Những con đực đầu tiên là những cá thể đi trước, chen lấn với những đồng loại lớn tuổi hơn cho đến khi chúng thành công trong việc tìm một lãnh thổ riêng, lãnh thổ này có thể đạt tới 25–150 km², phụ thuộc vào mức độ tập trung của các con mồi. Tuổi thọ điển hình trong tự nhiên được ước tính vào khoảng 12-15 năm; trong điều kiện nuôi nhốt, báo đốm có thể sống tới 23 năm, khiến nó nằm trong số những con mèo sống lâu nhất.
Giống như hầu hết các loài thú họ mèo, báo đốm sống đơn độc ngoại trừ những con báo mẹ sống với con của mình. Cá thể trưởng thành thường chỉ gặp nhau để tán tỉnh và giao phối (mặc dù xã hội hóa không giới hạn đã được quan sát theo giai thoại) và tự mình tạo ra các lãnh thổ rộng lớn. Các lãnh thổ của con cái, có kích thước từ 25 đến 40 km2, có thể chồng lên nhau, nhưng các cá thể thường tránh nhau. Phạm vi con đực chiếm diện tích gấp đôi, thay đổi kích thước với sự sẵn có của không gian và không chồng chéo. Lãnh thổ của một con đực có thể chứa những con cái khác. Báo đốm sử dụng các vết cào, nước tiểu và phân để đánh dấu lãnh thổ của nó.
Giống như những con mèo lớn khác, báo đốm có khả năng gầm và làm như vậy để cảnh báo các đối thủ cạnh tranh lãnh thổ và giao phối; những cuộc tấn công dữ dội giữa các cá thể đã được quan sát trong tự nhiên. Tiếng gầm của chúng thường giống như tiếng ho lặp đi lặp lại, và chúng cũng có thể phát ra tiếng kêu và tiếng càu nhàu. Chiến đấu giao phối giữa những con đực xảy ra, nhưng rất hiếm, và hành vi tránh xâm lược đã được quan sát thấy trong tự nhiên. Khi nó xảy ra, xung đột thường xảy ra trên lãnh thổ: phạm vi của một con đực có thể bao gồm cả hai hoặc ba con cái và nó sẽ không chịu đựng được sự xâm nhập của những con đực trưởng thành khác.
Báo đốm thường được mô tả là loài ăn đêm, nhưng cụ thể hơn là "crepuscular" (hoạt động cao điểm vào khoảng bình minh và hoàng hôn). Cả hai giới tính đều săn mồi lúc này, nhưng con đực đi xa hơn mỗi ngày so với con cái, phù hợp với lãnh thổ rộng lớn hơn của chúng. Báo đốm có thể săn mồi vào ban ngày nếu con mồi có sẵn và là một loài mèo tương đối năng động, tiêu tốn tới 50-60 phần trăm thời gian hoạt động. Bản chất khó nắm bắt của loài báo đốm và không thể tiếp cận được phần lớn môi trường sống ưa thích của nó khiến nó trở thành một loài động vật khó quan sát, chứ đừng nói đến việc nghiên cứu.
Giống như tất cả các con mèo, báo đốm là một động vật ăn thịt bắt buộc, chỉ ăn thịt. Báo đốm Mỹ là những kẻ săn mồi cô độc, chúng không đi săn với những con báo khác ngoài mùa sinh sản. Chúng là một thợ săn cơ hội và chế độ ăn uống của nó rất đa dạng, bao gồm ít nhất 87 loài. Quai hàm đặc biệt khỏe cho phép báo đốm phát triển phương pháp giết con mồi khác với các loài khác thuộc họ nhà mèo: nó cắn trực tiếp qua hộp sọ của con mồi giữa hai tai để đưa một vết cắn chí mạng vào não. Loài báo đốm có thể săn hầu như bất kỳ động vật có xương sống trên cạn hoặc ven sông nào được tìm thấy ở Trung hoặc Nam Mỹ, ngoại trừ những con cá sấu lớn như cá sấu caiman đen. Báo đốm là loài bơi lội tốt và sẽ lặn dưới nước để bắt rùa và cá thường xuyên. Vết cắn mạnh giúp chúng cắn xuyên mai rùa "Podocnemis unifilis" và rùa chân vàng "Chelonoidis denticulatus". Báo đốm là một loài nói chung về chế độ ăn uống đa dạng hơn so với anh em của chúng ở Cựu Thế giới: vùng nhiệt đới châu Mỹ có sự đa dạng cao về động vật nhỏ nhưng số lượng tương đối thấp và sự đa dạng của loài động vật móng guốc lớn mà chi này ưa thích. Chúng thường xuyên ăn thịt caimans trưởng thành, ngoại trừ caimans đen, hươu, chuột lang nước, lợn vòi, lợn lòi Pecari, chó, cáo xám Nam Mỹ, và đôi khi cả trăn anaconda. Tuy nhiên, nó săn được bất kỳ loài động vật nhỏ nào có sẵn, bao gồm ếch, chuột, chim (chủ yếu là các loài sống trên mặt đất như cracidae), cá, lười, khỉ và rùa. Một nghiên cứu được thực hiện tại Khu bảo tồn động vật hoang dã lưu vực Cockscomb ở Belize đã tiết lộ rằng chế độ ăn của báo đốm ở đó bao gồm chủ yếu là Tatu và paca. Một số loài báo đốm cũng săn gia súc cũng như thú nuôi trong gia đình. El Jefe, một trong số ít những con báo đốm được báo cáo ở Hoa Kỳ, cũng đã được phát hiện đã giết và ăn thịt gấu đen Bắc Mỹ, do suy ra từ những sợi lông được tìm thấy trong phân của nó và xác chết được tiêu thụ một phần của một con gấu đen với những vết đâm đặc biệt vào hộp sọ của nó do báo đốm để lại. Điều này chỉ ra rằng báo đốm có thể đã từng săn gấu đen khi loài này vẫn còn tồn tại trong khu vực. Gấu mặt ngắn Andes cũng được biết là thường tránh báo đốm, vì chúng đôi khi có thể được chọn là đối tượng săn mồi của báo.
Có bằng chứng cho thấy báo đốm trong tự nhiên đã tiêu thụ rễ của thực vật Banisteriopsis caapi.
Mặc dù báo đốm thường sử dụng phương thức cắn vào cổ họng và làm nghẹt thở sâu cho nạn nhân điển hình ở chi Panthera, đôi khi chúng sử dụng một phương pháp giết mồi khác hoàn toàn so với họ hàng của chúng: chúng dùng hàm đâm thẳng qua xương thái dương của hộp sọ giữa 2 tai của con mồi (đặc biệt là chuột lang nước) bằng răng nanh, và xuyên não. Đây có thể là một sự thích ứng để "bẻ khóa" mai rùa; Sau sự tuyệt chủng của Pleistocen muộn, các loài bò sát có mai cứng như rùa sẽ tạo thành một nguồn thức ăn dồi dào cho loài báo đốm. Những cú cắn vào hộp sọ được sử dụng với động vật có vú nói riêng; với các loài bò sát như caiman, báo đốm có thể nhảy lên lưng con mồi và cắt đốt sống cổ, làm bất động mục tiêu. Khi tấn công rùa biển, bao gồm cả rùa da nặng trung bình khoảng 385 kg (849 lb), khi chúng cố gắng làm tổ trên các bãi biển, báo đốm sẽ cắn vào đầu, thường làm đứt đầu con mồi, trước khi kéo nó ra để ăn. Được biết, trong khi săn ngựa, một con báo đốm có thể nhảy lên lưng chúng, đặt một chân lên mõm và một chân khác sau gáy và sau đó vặn, trật khớp cổ. Người dân địa phương đã báo cáo rằng khi săn một cặp ngựa đi với nhau, báo đốm sẽ giết một con ngựa và sau đó kéo nó trong khi con ngựa còn lại vẫn còn sống bị kéo đi. Với những con mồi như những con chó nhỏ hơn, một cú tát với vuốt sắc vào hộp sọ có thể đủ để giết chết nó.
Báo đốm là một kẻ săn mồi rình rập hơn là một kẻ săn mồi rượt đuổi. Chúng có thể chạy nhanh tới 70 km/h nhưng không bền, nên chúng thường kiên trì rình mồi và ít khi tham gia vào các cuộc đua dài hơi. Báo đốm sẽ đi chậm xuống ở những con đường trong rừng, lắng nghe và rình rập con mồi trước khi lao tới hoặc phục kích. Báo đốm thường tấn công từ bụi rậm và thường là từ điểm mù của mục tiêu với một cú đẩy nhanh; Khả năng phục kích của loài này được coi là gần như vô song trong vương quốc động vật. Cuộc phục kích có thể bao gồm nhảy xuống nước nếu con mồi đang ở dưới nước, vì một con báo đốm khá có khả năng giết mồi khi bơi; sức mạnh của nó có thể kiểm chứng từ một ghi nhận về một cái xác to của một con bò cái được nó kéo lên từ nước lên một cái cây để tránh nước lũ.
Khi giết chết con mồi, con báo đốm sẽ kéo xác đến một chỗ an toàn hoặc nơi kín đáo khác. Nó bắt đầu ăn ở cổ và ngực, thay vì ở giữa. Tim và phổi được tiêu thụ, tiếp theo là vai. Nhu cầu thức ăn hàng ngày của một con báo nặng 34 kg (75 lb), ở mức cực thấp của phạm vi trọng lượng của loài, được ước tính là 1,4 kg (3,1 lb). Đối với cá thể nuôi nhốt trong phạm vi 50–60 kg (110-130 lb), ăn hơn 2 kg (4,4 lb) thịt mỗi ngày được khuyến nghị. Trong tự nhiên, tiêu thụ tự nhiên là thất thường hơn; báo đốm tiêu tốn năng lượng đáng kể trong việc bắt và giết con mồi, và chúng có thể tiêu thụ tới 25 kg (55 lb) thịt trong một lần cho ăn, sau đó có thể nhịn ăn vài ngày.
Không giống như tất cả các loài trong chi Panthera khác, báo đốm rất hiếm khi tấn công con người. Tuy nhiên, các cuộc tấn công của báo đốm dường như đang gia tăng với sự xâm lấn ngày càng tăng của con người vào môi trường sống của chúng và giảm số lượng con mồi. Đôi khi báo đốm trong điều kiện nuôi nhốt tấn công những người bảo vệ vườn thú. Ngoài ra, có vẻ như các cuộc tấn công vào con người đã phổ biến hơn trong quá khứ, ít nhất là sau khi những người chinh phục đến châu Mỹ, đến mức loài báo đốm có tiếng tăm đáng sợ ở châu Mỹ, gần giống với sư tử và hổ ở Cựu Thế giới. Tuy nhiên, ngay cả trong thời đại đó, con mồi chính của báo đốm là chuột lang nước chứ không phải con người và Charles Darwin đã báo cáo một câu nói của người thổ dân châu Mỹ bản địa rằng mọi người sẽ không phải sợ báo đốm quá nhiều, miễn là chuột lang nước rất phong phú.
Ghi chép chính thức đầu tiên về một con báo đốm giết người ở Brazil là vào tháng 6 năm 2008.
Hai đứa trẻ bị báo đốm tấn công ở Guyana.
Báo đốm là loài ít có khả năng giết và ăn thịt người nhất trong số các loài mèo lớn, và phần lớn các cuộc tấn công xảy ra khi nó bị dồn vào thế bí hoặc bị thương.
Số lượng báo đốm đang giảm nhanh chóng. Loài này được liệt kê là sắp bị đe dọa trong Sách đỏ IUCN. Việc mất các phần trong phạm vi của nó, bao gồm việc tuyệt chủng khỏi các khu vực phía bắc lịch sử và sự phân mảnh ngày càng tăng của phạm vi còn lại, đã góp phần vào tình trạng này. Sự sụt giảm đặc biệt đáng kể đã xảy ra vào những năm 1960, khi hơn 15.000 con báo đốm bị giết để lấy da ở vùng Amazon thuộc Brazil hàng năm; Công ước về buôn bán quốc tế các loài có nguy cơ tuyệt chủng năm 1973 đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong thương mại da. Công việc chi tiết được thực hiện dưới sự bảo trợ của Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã cho thấy loài này đã mất 37% trong phạm vi lịch sử của nó, với tình trạng chưa được biết đến trong thêm 18% phạm vi toàn cầu. Đáng khích lệ hơn, xác suất sống sót lâu dài được coi là cao ở 70% phạm vi còn lại của nó, đặc biệt là trong lưu vực sông Amazon và Gran Chaco và Pantanal liền kề.
Những rủi ro lớn đối với loài báo đốm bao gồm phá rừng trên môi trường sống của nó, tăng sự cạnh tranh về thức ăn với con người, đặc biệt là trong môi trường khô và không sinh sản, săn trộm, bão ở khu vực phía bắc của phạm vi và hành vi của những người chăn nuôi sẽ thường giết con báo nơi nó ăn thịt gia súc. Khi thích nghi với con mồi, báo đốm đã được chứng minh là chọn gia súc như một phần lớn trong khẩu phần ăn của nó; Trong khi giải phóng mặt bằng để chăn thả là một vấn đề đối với loài này, quần thể báo đốm có thể đã tăng lên khi đàn gia súc lần đầu tiên được đưa vào Nam Mỹ, vì các cá thể báo đã tận dụng cơ sở con mồi mới. Sự sẵn sàng săn vật nuôi này của chúng đã khiến các chủ trang trại thuê những người săn báo đốm toàn thời gian.
Da của những con mèo hoang dã và các động vật có vú khác đã được đánh giá cao bởi ngành buôn bán lông thú trong nhiều thập kỷ. Từ đầu thế kỷ 20 những con báo đốm đã bị săn bắn với số lượng lớn, nhưng việc thu hoạch quá mức và hủy hoại môi trường sống đã làm giảm tính sẵn có và khiến các thợ săn và thương nhân chuyển dần sang các loài nhỏ hơn vào những năm 1960. Thương mại quốc tế của da báo đốm có sự bùng nổ lớn nhất giữa cuối Thế chiến thứ hai và đầu năm 1970, do nền kinh tế đang phát triển và thiếu các quy định. Từ năm 1967 trở đi, các quy định được đưa ra bởi luật pháp quốc gia và các thỏa thuận quốc tế đã làm giảm thương mại quốc tế được báo cáo từ mức cao tới 13000 da vào năm 1967, qua 7000 da vào năm 1969, cho đến khi nó trở nên không đáng kể sau năm 1976, mặc dù buôn bán và buôn lậu bất hợp pháp vẫn tiếp tục là một vấn đề. Trong giai đoạn này, các nhà xuất khẩu lớn nhất là Brazil và Paraguay, và các nhà nhập khẩu lớn nhất là Mỹ và Đức.
Báo đốm được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước I, có nghĩa là tất cả các giao dịch quốc tế về báo đốm hoặc các bộ phận cơ thể của chúng đều bị cấm. Săn bắn báo đốm bị cấm ở Argentina, Brazil, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Honduras, Nicaragua, Panama, Paraguay, Suriname, Hoa Kỳ và Venezuela. Săn bắn báo đốm bị hạn chế ở Guatemala và Peru. Săn bắn giải trí vẫn được phép ở Bolivia và nó không được bảo vệ ở Ecuador hoặc Guyana.
Bảo tồn báo đốm rất phức tạp vì phạm vi rộng lớn của loài này trải rộng trên 18 quốc gia với các chính sách và quy định khác nhau. Các khu vực cụ thể có tầm quan trọng cao đối với bảo tồn báo đốm, cái gọi là "Đơn vị bảo tồn báo đốm" (JCU) đã được xác định vào năm 2000. Đây là những khu vực rộng lớn có ít nhất 50 con báo đốm. Mỗi đơn vị được đánh giá và đánh giá trên cơ sở kích thước, khả năng kết nối, chất lượng môi trường sống cho cả loài báo đốm và con mồi và tình trạng quần thể báo đốm. Theo cách đó, 51 đơn vị bảo tồn báo đốm được xác định ở 36 khu vực địa lý là khu vực ưu tiên để bảo tồn báo đốm bao gồm:
Các nghiên cứu gần đây nhấn mạnh rằng để duy trì sự trao đổi mạnh mẽ giữa nhóm gen báo đốm cần thiết cho việc duy trì loài, điều quan trọng là môi trường sống của báo đốm phải được kết nối với nhau. Để tạo điều kiện cho điều này, một dự án mới, Paseo del Jaguar, đã được thành lập để kết nối một số điểm nóng của báo đốm.
Năm 1986, Khu bảo tồn Động vật hoang dã lưu vực Cockscomb được thành lập ở Belize là khu vực được bảo vệ đầu tiên trên thế giới để bảo tồn loài báo đốm..
Do không thể tiếp cận được phần lớn phạm vi của loài, đặc biệt là trung tâm Amazon, việc ước tính số lượng báo đốm là khó khăn. Các nhà nghiên cứu thường tập trung vào các sinh vật đặc biệt, do đó phân tích toàn loài là rất ít. Vào năm 1991, 600-1.000 (tổng số cao nhất) được ước tính đang sống ở Belize. Một năm trước đó, 125-180 con báo đốm được ước tính sống ở Khu dự trữ sinh quyển Calakmul 4.000 km2 (2400-mi2) của Mexico, với 350 cá thể khác ở bang Chiapas. Khu dự trữ sinh quyển Maya liền kề ở Guatemala, với diện tích 15.000 km2 (9.000 mi2), có thể có 465 động vật hoang dã. Công việc sử dụng từ xa GPS vào năm 2003 và 2004 đã tìm thấy mật độ chỉ sáu đến bảy con báo đốm trên 100 km2 ở khu vực Pantanal quan trọng, so với 10 đến 11 bằng phương pháp truyền thống; điều này cho thấy các phương pháp lấy mẫu được sử dụng rộng rãi có thể làm tăng số lượng báo thực tế.
Trong việc thiết lập các khu bảo tồn, các nỗ lực nói chung cũng phải tập trung vào các khu vực xung quanh, vì báo đốm không có khả năng giới hạn trong một khu bảo tồn, đặc biệt là nếu số lượng đang tăng. Thái độ của con người trong các khu vực xung quanh khu bảo tồn và luật pháp và các quy định để ngăn chặn nạn săn trộm là rất cần thiết để làm cho các khu vực bảo tồn có hiệu quả.
Để ước tính kích thước quần thể trong các khu vực cụ thể và theo dõi từng con báo đốm, bẫy camera và thiết bị theo dõi động vật hoang dã từ xa được sử dụng rộng rãi, và phân có thể được tìm kiếm với sự trợ giúp của chó dò để nghiên cứu sức khỏe và chế độ ăn của báo đốm. Những nỗ lực bảo tồn hiện nay thường tập trung vào việc giáo dục chủ trang trại và thúc đẩy du lịch sinh thái. Báo đốm thường được định nghĩa là một loài bảo trợ - phạm vi nơi trú ẩn và yêu cầu môi trường sống của nó đủ rộng để nếu được bảo vệ, nhiều loài khác trong phạm vi nhỏ hơn cũng sẽ được bảo vệ. Các loài bảo trợ đóng vai trò là "liên kết di động" ở quy mô cảnh quan, trong trường hợp của báo đốm thông qua việc săn mồi. Do đó, các tổ chức bảo tồn có thể tập trung vào việc cung cấp môi trường sống kết nối khả thi cho loài báo đốm, với kiến thức mà các loài khác cũng sẽ được hưởng lợi.
Thiết lập du lịch sinh thái đang được sử dụng để tạo ra sự quan tâm của công chúng đối với các động vật có sức lôi cuốn như báo đốm, đồng thời tạo ra doanh thu có thể được sử dụng trong các nỗ lực bảo tồn. Các cuộc kiểm toán được thực hiện ở châu Phi đã chỉ ra rằng du lịch sinh thái đã giúp bảo tồn mèo châu Phi. Cũng như mèo lớn châu Phi, mối quan tâm chính trong du lịch sinh thái báo đốm là không gian sinh sống đáng kể mà loài này yêu cầu, vì vậy nếu du lịch sinh thái được sử dụng để hỗ trợ bảo tồn báo đốm, một số cân nhắc cần được giữ nguyên như thế nào về hệ sinh thái hiện tại sẽ được giữ nguyên, hoặc làm thế nào các hệ sinh thái mới đủ lớn để hỗ trợ cho một quần thể báo đốm đang phát triển sẽ được đưa vào sử dụng.
Con mèo duy nhất còn tồn tại ở Bắc Mỹ gầm lên, con báo đốm được Thomas Jefferson ghi lại là một động vật của châu Mỹ vào năm 1799. Báo đốm vẫn thỉnh thoảng được nhìn thấy ở Arizona và New Mexico, chẳng hạn như El Jefe, thúc đẩy hành động bảo tồn của nó bởi các nhà chức trách. Ví dụ, vào ngày 20 tháng 8 năm 2012, USFWS đã đề xuất dành 838.232 mẫu Anh ở Arizona và New Mexico - một khu vực rộng hơn đảo Rhode - là môi trường sống quan trọng của loài báo đốm.
Vào thời kỳ tiền Colombo ở Trung và Nam Mỹ, báo đốm là biểu tượng của sức mạnh và quyền lực. Trong số các nền văn hóa Andes, một giáo phái báo đốm được phổ biến bởi văn minh Chavín đầu tiên đã được chấp nhận trên hầu hết những gì ngày nay là Peru vào năm 900 trước Công nguyên. Văn minh Moche sau này của miền bắc Peru đã sử dụng báo đốm như một biểu tượng quyền lực trong nhiều đồ gốm của họ. Trong tôn giáo của Muisca, người sinh sống ở vùng Altiplano Cundiboyacense mát mẻ ở Andes thuộc Colombia, báo đốm được coi là một con vật linh thiêng và trong các nghi lễ tôn giáo của họ, người dân mặc áo da báo. Da được giao dịch với các dân tộc vùng thấp của vùng nhiệt đới Llanos Orientales. Tên của zipa Nemequene được bắt nguồn từ các từ Muysccubun nymy và quyne, có nghĩa là "lực lượng của báo đốm".
Ở Trung bộ châu Mỹ, văn minh Olmec, một nền văn minh sớm và có ảnh hưởng của vùng Bờ biển vùng Vịnh gần như cùng thời với Chavín hồi đã phát triển một mô típ "tượng trưng" khác nhau của các tác phẩm điêu khắc và tượng nhỏ thể hiện loài báo đốm cách điệu hoặc con người có đặc điểm của loài báo đốm. Trong nền văn minh Maya sau này, báo đốm được cho là tạo điều kiện liên lạc giữa người sống và người chết và để bảo vệ gia đình hoàng gia. Người Maya coi những con mèo mạnh mẽ này là bạn đồng hành của chúng trong thế giới tâm linh, và một số nhà cai trị Maya đã mang những cái tên kết hợp từ tiếng Maya cho báo đốm (b'alam trong nhiều ngôn ngữ của người Maya). Balam (Jaguar) vẫn là họ chung của Maya, và đó cũng là tên của Chilam Balam, một tác giả huyền thoại được cho là Maya thế kỷ 17 và 18 đã bảo vệ nhiều kiến thức quan trọng. Nền văn minh Aztec đã chia sẻ hình ảnh này của báo đốm với tư cách là đại diện của người cai trị và là một chiến binh. Người Aztec đã thành lập một lớp chiến binh ưu tú được gọi là Hiệp sĩ báo đốm. Trong thần thoại Aztec, báo đốm được coi là động vật vật tổ của vị thần mạnh mẽ Tezcatlipoca.
Báo đốm và tên của nó được sử dụng rộng rãi như một biểu tượng trong văn hóa đương đại. Nó là động vật quốc gia của Guyana, và được đặc trưng trong huy hiệu của nó. Lá cờ của Sở Amazonas, một phần của Colombia, có hình bóng con báo đốm đen đang lao về phía một thợ săn. Con báo đốm cũng xuất hiện trong tiền giấy của Brasil. Báo đốm cũng là một vật cố định phổ biến trong thần thoại của nhiều nền văn hóa bản địa đương đại ở Nam Mỹ, thường được miêu tả là sinh vật mang lại cho con người sức mạnh của lửa.
Tên tiếng Anh "jaguar" của báo đốm được sử dụng rộng rãi như một tên sản phẩm, nổi bật nhất cho một thương hiệu xe hơi sang trọng của Anh. Tên này đã được thông qua bởi nhượng quyền thương mại thể thao, bao gồm cả Jaguars của NFL và câu lạc bộ bóng đá Mexico Chiapas F.C. Huy chương của liên đoàn quốc gia Argentina trong liên đoàn bóng bầu dục có một con báo đốm; tuy nhiên, vì một lỗi của nhà báo, đội tuyển quốc gia của đất nước có biệt danh là Los Pumas. Theo tinh thần của văn hóa Maya cổ đại, Thế vận hội Mùa hè 1968 tại thành phố Mexico đã thông qua một con báo đốm đỏ là linh vật Olympic chính thức đầu tiên.
|
5990 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5990 | Đất xấu | Đất xấu (tiếng Anh: "badlands") là một dạng địa hình khô cằn nhiều đất sét lẫn đá bị gió và nước bào mòn nghiêm trọng. Ở những vùng đất như thế này, mặt đất bị cắt xẻ dữ dội tạo nên vô vàn các hẻm đá, mô đất, để lộ các cấu trúc bên trong rất rõ. Những cấu trúc địa lý như thế này thường được thấy ở Bắc Mỹ, Mông Cổ, thậm chí ở trên Mặt Trăng và sao Hỏa.
Thông thường vùng "Đất xấu" thường có những quang cảnh rất ngoạn mục từ những lớp đất đá có màu xám của than, màu sáng của đất sét, cho đến màu đỏ của xỉ núi lửa. Do các lớp đất bồi trên bề mặt bị xói mòn và thực vật cũng khó có thể phát triển ở đây nên người ta dễ dàng tìm ra những hóa thạch còn khá nguyên vẹn.
Một trong những vùng Đất xấu nổi tiếng nhất là ở tiểu bang Bắc Dakota và Nam Dakota, Hoa Kỳ. Tại nơi đây, người ta thiết lập những công viên quốc gia rất nổi tiếng, đó là vườn quốc gia Theodore Roosevelt (Bắc Dakota) và vườn quốc gia Badlands (Nam Dakota).
|
5994 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5994 | Tuyệt chủng | Trong sinh học và hệ sinh thái, tuyệt chủng là sự kết thúc tồn tại của một nhóm sinh vật theo đơn vị phân loại, thông thường là một loài.
Một loài hoặc phân loài bị coi là tuyệt chủng khi có những bằng chứng chắc chắn rằng cá thể cuối cùng đã chết. "Thời điểm tuyệt chủng" thường được coi là cái chết của cá thể cuối cùng của nhóm hay loài đó, mặc dù khả năng sinh sản và phục hồi có thể đã bị mất trước thời điểm đó. Bởi vì phạm vi tiềm năng của một loài có thể là rất lớn, nên việc xác định thời điểm tuyệt chủng là rất khó, và thường được thực hiện theo phương cách "truy ngược về quá khứ". Khó khăn này dẫn đến hiện tượng "Lazarus taxon", một loài đã tuyệt chủng đột ngột "xuất hiện trở lại" (thường là trong các hóa thạch) sau một thời gian vắng mặt rõ ràng.
Trong hệ sinh thái hiện thời thì "tuyệt chủng" là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy định trong Sách đỏ IUCN.
Hầu hết động vật từng sống trên Trái Đất ngày nay đã bị tuyệt chủng. Chúng ta chỉ biết chúng qua mẫu hoá thạch xương hoặc vỏ của chúng. Nếu chúng vừa tuyệt chủng gần đây thì ta có thể biết đến qua các bức tranh, phim ảnh cũ. Những loài tuyệt chủng mà công chúng biết tới phổ biến là voi ma mút, khủng long, hổ răng kiếm, bọ ba thùy...
Động vật trở nên tuyệt chủng theo nhiều cách.
Tuyệt chủng giả là trường hợp tiến hoá diễn ra trong toàn bộ loài, dẫn đến phát sinh một loài sinh học mới, và không có hậu duệ nào mang thuần các tính trạng của loài cũ. Các loài cũ không tồn tại trong thời kỳ tiếp theo, nhưng con cháu của chúng vẫn đang tồn tại dưới hình dạng một loài mới. Ví dụ theo dòng thời gian, loài vượn người đã dần dần thay đổi và tiến hóa thành loài người hiện đại; loài vượn người hiện nay đã tuyệt chủng nhưng là "tuyệt chủng giả", vì con cháu của họ là loài người vẫn đang tồn tại.
Tuyệt chủng giả là dạng khó khăn để chứng minh, trừ khi có chuỗi bằng chứng liên quan đủ mạnh về loài đang sống và thành viên của loài tổ tiên tồn tại trước đó.
Cách thứ 2 là động vật tuyệt chủng là 1 loài đơn độc bị biến mất do môi trường sống thay đổi. Ví dụ nhiều loài có chế độ ăn quá đặc biệt có thể dễ bị tuyệt chủng hơn so với các loài ăn tạp. Ví dụ như gấu trúc chỉ ăn măng non thì dễ tuyệt chủng hơn chuột có thể ăn bất cứ thứ gì.
Cách sống đặc biệt cũng có thể gây nên sự tuyệt chủng. Voi mamút và loài tê giác lông mịn sống trong môi trường thời tiết lạnh của thời kỳ Băng hà. Khi băng tan dần, khí hậu ấm hơn, khiến chúng chết dần.
Sự mất cân bằng trong quan hệ thiên địch, đặc biệt là quan hệ chuỗi thức ăn, có thể dẫn đến tuyệt chủng của loài kém cạnh tranh trong chuỗi đó. Ví dụ như sự săn bắt của chó hoang do loài người mang tới đã làm tuyệt chủng nhiều loài thú có túi bản địa ở châu Úc.
Cùng tuyệt chủng là biểu hiện của sự liên kết của các sinh vật trong hệ sinh thái phức tạp. Sự tuyệt chủng hay tiến hóa của loài này có thể dẫn đến tuyệt chủng của loài khác, chủ yếu do sự đảo lộn nguồn cung cấp thức ăn hay môi trường tồn tại. Những sinh vật bị tuyệt chủng theo có thể là:
Tuyệt chủng hàng loạt là khi có hàng trăm loài tuyệt chủng ở khắp mọi nơi. Lịch sử sinh giới đã có nhiều sự kiện tuyệt chủng hàng loạt. Đợt tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ nổi tiếng nhất, là tuyệt chủng của các khủng long xảy ra cách đây khoảng 65 triệu năm, được gọi là "sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen". Các nhà khoa học đang tìm nguyên nhân, và đưa ra giả thuyết chính là do thiên thạch va vào Trái Đất, đã gây ra thay đổi khí hậu tức thì, cùng với bụi khói và chất độc, làm tổn hại hệ thực vật vốn là thức ăn ở đầu chuỗi của hệ động vật.
Với sự xuất hiện và phát triển không ngừng của văn minh loài người việc tuyệt chủng trên đất đang diễn ra ngày càng phức tạp và nghiêm trọng hơn. Từ những việc như săn bắt, hái lượm đến việc đốt rừng và ngày nay là nền công nghiệp gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu - con người đã đẩy nhanh quá trình tuyệt chủng trên toàn thế giới và làm suy giảm nghiêm trọng hệ động thực vật. Mặc dù trong tương lai, con người có thể bị tuyệt chủng bởi tác động bên ngoài khác, nhưng chính việc làm biến đổi khí hậu của con người đang khiến chúng ta có nguy cơ tuyệt chủng nhanh hơn bao giờ hết.
Ví dụ rõ nhất là sự tuyệt chủng của "chó sói Tasmania", còn gọi là hổ Tasmania ở châu Úc. Chúng bị người châu Âu nhập cư tiêu diệt. Con sói Tasmania cuối cùng chết trong một vườn thú ở Tasmania vào năm 1936, mặc dù sau đó có nói đến sự phát hiện thêm một số cá thể sói hoang dã. Vào nửa cuối thế kỷ XX thì không ai bắt gặp chúng nữa.
Sự tuyệt chủng của chó sói Tasmania do con người gây ra, là tiền đề dẫn đến các giả thuyết về sự tuyệt chủng của các loài thú lớn khác do bị người tiền sử săn bắt quá mức:
Chuột núi Lào hoặc kha-nyou (tên khoa học: "Laonastes aenigmamus", tức là "chuột đá Lào") là loài gặm nhấm sống ở miền Khammouan của Lào. Loài này được miêu tả lần đầu tiên năm 2005 trong một bài báo của Paulina Jenkins và một số người khác, họ nghĩ rằng động vật này có tính chất khác biệt với các loài gặm nhấm đang sống đến độ cần phải đặt nó vào một họ mới, gọi là "Laonastidae".
Tuy nhiên năm 2006, Mary Dawson và một số người khác bác bỏ cách phân loại của loài chuột này. Họ cho rằng nó thuộc về họ hóa thạch cổ, Diatomyidae, trước đây tưởng bị tuyệt chủng 11 triệu năm trước. Do đó, loài này tiêu biểu cho đơn vị phân loại Lazarus. Con này giống với con chuột lớn có lông đen và đuôi dày rậm lông. Nó có sọ rất lạ với đặc điểm khác với các thú vật khác đang sống.
Tại Việt Nam chúng cũng đã được tìm thấy ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình.
"Protanguilla palau" là loài cá chình duy nhất hiện nay đã biết trong chi "Protanguilla", và chi này cũng là chi duy nhất đã biết trong họ Protanguillidae, được xem là "hóa thạch sống" vì những đặc tính nguyên thủy của nó. Các cá thể của loài cá chình này được phát hiện khi đang bơi vào tháng 3 năm 2010 trong một hang động nước sâu tại một rạn san hô viền bờ ngoài khơi Palau, nam Thái Bình Dương.
|
5998 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5998 | Từ học | Từ học (tiếng Anh: "magnetism") là một ngành khoa học thuộc Vật lý học nghiên cứu về hiện tượng hút và đẩy của các chất và hợp chất gây ra bởi từ tính của chúng. Mặc dù tất cả các chất và hợp chất đều bị ảnh hưởng của từ trường tạo ra bởi một nam châm với một mức độ nào đó nhưng một số trong chúng có phản ứng rất dễ nhận thấy là sắt, thép, oxide sắt. Những chất và hợp chất có từ tính đặc biệt là đối tượng của từ học dùng để chế tạo những sản phẩm phục vụ con người được gọi là vật liệu từ.
Từ tính gây ra bởi "lực từ", lực từ là một dạng lực điện từ, một trong những lực cơ bản của tự nhiên, nó được sinh ra do chuyển động của các hạt có điện tích. Phương trình Maxwell cho biết nguồn gốc và mối liên hệ của các từ trường và điện trường gây ra lực từ. Mối quan hệ giữa lực từ và lực điện rất mật thiết, môn khoa học nghiên cứu về vấn đề này được gọi là điện từ học.
Vì từ trường được tạo ra khi có chuyển động của các điện tích nên nếu ta có một dây điện có dòng điện formula_1 chạy qua thì nó sẽ tạo ra một cảm ứng từ formula_2 xung quanh. Cảm ứng từ là một đại lượng véc tơ, chiều của nó phụ thuộc vào chiều chuyển động của dòng điện và được xác định bằng quy tắc bàn tay phải. Bây giờ nếu ta thay dây điện trên bằng một ống dây điện thì cảm ứng từ tạo ra trong lòng ống dây đó cũng được xác định bằng quy tắc trên. Nếu xung quanh cuộn dây là chân không thì chúng ta định nghĩa từ trường formula_3 như sau: formula_4, với formula_5 là từ thẩm chân không.
Như vậy thì véc tơ từ trường formula_3 chỉ phụ thuộc vào dòng điện formula_7 và hình dạng của dây chứ không phụ thuộc vào môi trường bên trong ống dây.
Bây giờ trong lòng ống dây không phải là chân không mà là một vật nào đó thì sự có mặt của vật đó sẽ làm thay đổi cảm ứng từ trong ống dây. Cảm ứng từ này tỷ lệ với từ trường với hệ số tỷ lệ được gọi là từ thẩm formula_8 thì cảm ứng từ trong lòng vật đó là:
Ta định nghĩa formula_10 là véc tơ từ độ xuất hiện bên trong vật
Người ta còn định nghĩa:
Từ cảm của vật liệu là một đại lượng đặc trưng cho sự cảm ứng của vật liệu dưới tác động của từ trường ngoài. Người ta dựa vào đại lượng này để phân chia các vật liệu thành năm loại như sau:
Chuyển động của các điện tử trong nguyên tử tạo nên các đám mây điện tích. Chính chuyển động quỹ đạo đó là một trong những nguyên nhân gây ra từ tính của nguyên tử làm cho nguyên tử có một mô men từ. Một nguyên nhân khác là spin, có thể được hình dung thô thiển như sự tự quay của điện tử, mặc dù về bản chất, spin là một khái niệm chỉ có trong cơ học lượng tử. Như vậy từ tính của nguyên tử có hai nguồn gốc: spin và quỹ đạo, mô men từ tương ứng với hai nguồn gốc này được gọi là "mô men từ spin" và "mô men từ quỹ đạo".
Nghịch từ là một hiện tượng cố hữu của vật chất, tồn tại ở mọi loại vật liệu theo quy tắc chung về cảm ứng điện từ. Khi có mặt của từ trường ngoài, các điện tử sẽ hưởng ứng với từ trường bằng cách tạo ra "một mô men từ cảm ứng". Mô men từ này có xu hướng chống lại từ trường ngoài, nó tỷ lệ nhưng ngược hướng với từ trường áp dụng. Đó chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghịch từ trong một số chất.
Một cách tổng quát, tính chất của các vật liệu từ tuân theo các quy luật về vi từ học mà ở đó tính chất từ bị quy định bởi cấu trúc từ học vi mô và cấu trúc này được quy định bởi sự cực tiểu hóa năng lượng vi từ, có thể quy thành 5 dạng năng lượng:
Từ học là một ngành được ứng dụng trong cuộc sống con người từ rất sớm mà đầu tiên là ở Trung Hoa và Hy Lạp cổ đại. Ở Hy Lạp, lịch sử ghi nhận những đối thoại về từ học giữa Aristotle và Thales từ những năm 625 đến 545 trước công nguyên song song với việc sử dụng nam châm vĩnh cửu (là những đá thiên nhiên) cho một số mục đích khác nhau Ở phương Đông, Trung Hoa là nơi sớm nhất sử dụng các đá nam châm làm kim chỉ nam để chỉ phương Nam-Bắc từ thời đại của Chu Công (thời đại nhà Chu, 1122 - 256 trước Công nguyên), và cuốn sách chính thức ghi lại việc sử dụng các đá nam châm là cuốn "Quỷ Cốc tử" (thầy dạy của Tôn Tẫn) vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.
Alexander Neckham là người châu Âu đầu tiên mô tả về la bàn và việc sử dụng la bàn cho việc định hướng vào năm 1187. Vào năm 1269, Peter Peregrinus de Maricourt viết cuốn "Epistola de magnete", được coi là một trong những luận thuyết đầu tiên về nam châm và la bàn. Năm 1282, các tính chất của các nam châm và la bàn khô được thảo luận bởi Al-Ashraf, một nhà vật lý, thiên văn, địa lý người Yemeni .
Cuốn sách khảo cứu chi tiết đầu tiên về các hiện tượng là cuốn "De Magnete, Magneticisque Corporibus, et de Magno Magnete Tellure" ("On the Magnet and Magnetic Bodies, and on the Great Magnet the Earth") của William Gilbert xuất bản năm 1600 ở Anh Quốc. Cuốn sách thảo luận về nhiều thí nghiệm điện từ do ông xây dựng, đồng thời giả thiết về từ trường của Trái Đất, nguyên nhân gây ra sự định hướng Nam-Bắc của các la bàn.
Tương tác giữa dòng điện và từ trường lần đầu tiên được phát hiện và mô tả bởi Hans Christian Oersted, một giáo sư Đại học Copenhagen (Đan Mạch). Ông đã phát hiện ra việc kim la bàn bị lệch hướng khi đặt gần một dây dẫn mang dòng điện. Thí nghiệm này được coi là bước ngoặt trong lịch sử ngành từ học, và được đặt tên là "Thí nghiệm Oersted". Sau Oersted, hàng loạt các nhà khoa học đã tiến hành các thí nghiệm và các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa điện và từ trường như André-Marie Ampère, Carl Friedrich Gauss, Michael Faraday dẫn đến việc hình thành những kiến thức cơ bản về từ học cũng như từ trường.
James Clerk Maxwell đã tổng hợp các lý thuyết về từ trường, điện trường, và quang học để phát triển thành lý thuyết tổng quát về trường điện từ. Vào năm 1905, Albert Einstein đã sử dụng những định luật này để xây dựng lý thuyết tương đối hẹp.
Thế kỷ 20 cũng là thế kỷ mà từ học được phát triển mạnh mẽ từ việc tạo ra các vật liệu từ đa chức năng, xây dựng các lý thuyết vi mô về hiện tượng từ dựa trên các lý thuyết của cơ học lượng tử và vật lý chất rắn như lý thuyết vi từ học, lý thuyết về đômen từ, vách đômen, vật liệu sắt từ, tương tác trao đổi, phản sắt từ... Đi kèm với nó là sự phát triển của nhiều kỹ thuật chụp ảnh cấu trúc từ và đo đạc các tính chất từ của vật liệu. Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, ngành mới spintronics ra đời dựa trên những thành tựu của từ học và điện tử học.
Những thành tựu về từ học cuối thế kỷ 20, đã dẫn đến việc hình thành một lĩnh vực mới gọi là spintronics, ngành nghiên cứu tạo ra các linh kiện điện tử mới khai thác cả thuộc tính spin cũng như điện tích của điện tử, thay thế các linh kiện điện tử truyền thống đã lỗi thời. Sự hấp dẫn của spintronics cũng dấn đến việc thúc đẩy việc nghiên cứu về từ học để tìm hiểu về bản chất từ tính, đồng thời nghiên cứu tạo ra nhiều vật liệu từ đặc biệt ứng dụng trong các linh kiện từ tính.
Mục tiêu quan trọng của spintronics là hiểu về cơ chế tương tác giữa spin của các hạt và môi trường chất rắn, từ đó có thể điều khiển cả về mật độ cũng như sự chuyển vận ("transportation") của dòng spin trong vật liệu. Những câu hỏi lớn được đặt ra cho ngành spintronics là:
Spintronics hứa hẹn là một thế hệ linh kiện mới trong thế kỷ 21 với mục tiêu tăng tốc độ xử lý, giảm năng lượng hao tốn và giá thành mà từ học là một nền tảng của spintronics.
|
5999 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5999 | Tuyệt chủng trong tự nhiên | Tuyệt chủng trong tự nhiên ("Extinct in the Wild, EW") hoặc "tuyệt chủng ngoài thiên nhiên, tuyệt chủng trong môi trường hoang dã" là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy định trong Sách đỏ IUCN. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi không ghi nhận được cá thể nào qua các cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh cảnh đã biết và hoặc sinh cảnh dự đoán, vào những thời gian thích hợp (theo ngày, mùa năm) xuyên suốt vùng phân bố lịch sử của loài. Các khảo sát nên vượt khung thời gian thích hợp cho vòng sống và dạng sống của đơn vị phân loại đó. Các cá thể của loài này có thể chỉ còn được tìm thấy với số lượng rất ít trong sinh cảnh nhân tạo và phụ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc của con người (còn tồn tại rất ít trong môi trường nuôi nhốt).
Các loài đã tuyệt chủng trong tự nhiên có thể kể đến: bạch dương szaferi của Ba Lan, côca echinodendron của Cuba, đại kích mayurnathanii ở Ấn Độ, xoài casturi và xoài rubropetala ở Indonesia, bàng acuminata ở Brasil, cá "Stenodus leucichthys"...Hổ Hoa Nam
Một số loài bị xem là tuyệt chủng trong thiên nhiên:
|
6000 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6000 | Loài cực kỳ nguy cấp | Loài cực kỳ nguy cấp, hay Loài rất nguy cấp (tiếng Anh: "Critically Endangered", viết tắt "CR"), là những loài được phân loại bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phải đối mặt với nguy cơ cao về tuyệt chủng trong tự nhiên. Tính đến năm 2021, có 8.404 loài được coi là Cực kỳ nguy cấp trong tổng số 120.372 loài hiện được đánh giá bởi IUCN.
Sách Đỏ của IUCN cung cấp cho công chúng thông tin về tình trạng bảo tồn của các loài động vật, nấm và thực vật. Nó chia các loài khác nhau thành bảy danh mục bảo tồn khác nhau dựa trên phạm vi môi trường sống, quy mô quần thể, môi trường sống, các mối đe dọa, v.v. Mỗi danh mục đại diện cho một mức độ nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu khác nhau. Các loài được coi là Cực kỳ nguy cấp được xếp vào danh mục "bị đe dọa".
Vì Sách đỏ IUCN không xem xét một loài là tuyệt chủng trong tự nhiên cho đến khi có các cuộc điều tra mở rộng nên nhiều loài có khả năng là tuyệt chủng vẫn nằm trong danh sách loài Cực kỳ nguy cấp. IUCN duy trì danh sách "có thể đã tuyệt chủng" CR (PE) và "có thể đã tuyệt chủng trong tự nhiên" CR (PEW) theo cách đánh giá của BirdLife International để phân loại đơn vị phân loại.
Để được xác định là loài Cực kỳ nguy cấp trong Sách Đỏ, một loài phải đáp ứng "bất kỳ" tiêu chí nào sau đây (A – E) ("3G/10Y" biểu thị ba thế hệ hoặc mười năm — tùy theo thời gian nào dài hơn — trên tối đa 100 năm; "MI" biểu thị cá thể trưởng thành):
Cuộc khủng hoảng tuyệt chủng hiện nay đang chứng kiến tốc độ tuyệt chủng diễn ra với tốc độ nhanh hơn tốc độ tuyệt chủng tự nhiên. Nguyên nhân phần lớn được ghi nhận là do tác động của con người đối với biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học. Điều này cùng với các lực lượng tự nhiên có thể tạo ra căng thẳng cho các loài hoặc khiến một quần thể động vật bị tuyệt chủng.
Một trong những lý do quan trọng nhất khiến động vật và thực vật trở nên rất nguy cấp là do mất môi trường sống. Các loài dựa vào môi trường sống của chúng để có các nguồn tài nguyên cần thiết cho sự tồn tại của mình. Nếu môi trường sống bị phá hủy, quần thể sẽ bị suy giảm về số lượng. Các nguyên nhân gây mất môi trường sống bao gồm ô nhiễm, đô thị hóa và nông nghiệp. Một lý do khác khiến động thực vật trở nên nguy cấp là do sự du nhập của các loài xâm lấn. Các loài xâm lấn cạnh tranh với sinh vật bản địa bằng cách xâm nhập và khai thác một môi trường sống mới để lấy tài nguyên thiên nhiên, cuối cùng chiếm lấy môi trường sống đó. Điều này có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài bản địa hoặc khiến chúng trở nên nguy cấp. Thực vật và động vật cũng có thể bị tuyệt chủng do dịch bệnh. Việc mang bệnh vào một môi trường sống mới có thể khiến bệnh lây lan giữa các loài bản địa. Do không quen hoặc có ít đề kháng với bệnh, các loài bản địa có thể chết đi.
|
6004 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6004 | CE | CE là chữ viết tắt có thể có các ý nghĩa sau:
Ce có thể có ý nghĩa:
ce có thể có ý nghĩa:
CE Comformance de Europe:
|
6008 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6008 | Từ tính | Từ tính (tiếng Anh: "magnetic property") là một tính chất của vật liệu hưởng ứng dưới sự tác động của một từ trường. Từ tính có nguồn gốc từ lực từ, lực này luôn đi liền với lực điện nên thường được gọi là lực điện từ. Lực điện từ là một trong bốn lực cơ bản của tự nhiên. Sự liên hệ giữa lực từ, lực điện, và nguồn gốc của chúng được cho bởi hệ phương trình Maxwell. Lực điện từ sinh ra khi các hạt tích điện chuyển động ví như các điện tử chuyển động trong dòng điện, hoặc trên quan điểm lượng tử thì lực điện từ gây ra bởi chuyển động quỹ đạo và spin của điện tử trong nguyên tử.
Từ tính có thể phân ra làm các loại: sắt từ, phản sắt từ, ferri từ, thuận từ, nghịch từ. Thông thường khi ta nói một vật liệu có từ tính, tức là ám chỉ vật liệu có tính sắt từ, phản sắt từ hoặc ferri từ.
|
6014 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6014 | Báo hoa mai | Báo hoa mai ("Panthera pardus"), thường gọi tắt là báo hoa, (tiếng Anh: Leopard) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi "Panthera" sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ 1 đến gần 2 mét, cân nặng từ 30 đến 90 kg. Con cái thông thường có kích thước bằng khoảng 2/3 con đực. Tuy thân hình tương đối nhỏ so với các loại mèo lớn khác nhưng báo hoa mai là những kẻ săn mồi nguy hiểm đáng sợ. Khả năng rình mò huyền thoại và có thể ăn được bất cứ động vật nào từ có kích cỡ từ bọ hung trở lên đã làm cho chúng trở thành loài Họ Mèo sinh tồn thành công nhất.
Tên thường gọi của báo hoa mai theo tiếng Anh là "leopard" (/ ˈlɛpərd /) là một sự kết hợp trong tiếng Hy Lạp của λέωλέω leōn ("sư tử") và posς pardos ("con báo đực"). Cái tên này phản ánh sự thật rằng trong thời cổ đại, người ta cho rằng báo hoa mai là con lai của sư tử và báo đốm, và trong một số ngôn ngữ nước ngoài từ "leopard" có nguồn gốc từ đây; "leo" là tên Latinh của "sư tử", và "pard" là thuật ngữ cũ có nghĩa "báo". Từ Hy Lạp này có liên quan đến tiếng Phạn ा ABLE ु pṛdāku ("con rắn", "con hổ" hoặc "con báo"), và có lẽ bắt nguồn từ một ngôn ngữ Địa Trung Hải, như tiếng Ai Cập. Tên này được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 13. Trên thực tế, "báo" có thể là một vài loài trong họ Mèo có gen tạo ra màu đen hơn là màu nâu vàng, vì thế tạo ra lớp lông đen thuần, ngược lại với những con có màu đốm thông thường. "Báo", trong một nghĩa khác, đơn giản là những con báo hoa mai lông sẫm (hoặc là dạng màu sẫm của các loài mèo khổng lồ khác). Các tên địa phương khác cho báo hoa mai bao gồm graupanther, panther và một số tên khu vực như "tendwa" ở Ấn Độ. Thuật ngữ "con báo đen" dùng để chỉ những con báo có gen hắc tố. Một thuật ngữ cho con báo được sử dụng trong tiếng Anh cổ và sau này, nhưng bây giờ rất không phổ biến, là "pard".
Tên khoa học của báo hoa mai là "Panthera pardus". Tên chung Panthera có nguồn gốc từ tiếng Latin thông qua tiếng Hy Lạp πάάθηρ (pánthēr). Thuật ngữ "panther", được sử dụng lần đầu tiên được ghi lại từ thế kỷ 13, thường dùng để chỉ báo hoa mai và ít thường xuyên hơn là báo sư tử và báo đốm Mỹ. Nguồn gốc thay thế được đề xuất cho Panthera bao gồm một từ ngữ tộc Ấn-Iran có nghĩa là "trắng-vàng" hoặc "nhạt". Trong tiếng Phạn, từ này có thể được bắt nguồn từ पाण ड pāṇḍara ("con hổ"), từ đó xuất phát từ पुण डडडṇḍṇḍṇḍṇḍṇḍṇḍ. Tên cụ thể pardus có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (pardos) ("con báo đực").
Kể từ khi Carl Linnaeus xuất bản mô tả của ông về một con báo trong tác phẩm "Systema Naturae" năm 1758, có đến 27 phân loài báo được các nhà tự nhiên học mô tả sau đó từ năm 1794 đến năm 1956. Từ năm 1996, theo phân tích DNA ty thể được thực hiện vào thập kỷ 1990, chỉ có tám phân loài được xem là hợp lệ. Sau đó phân tích chỉ ra một phân loài hợp lệ thứ chín, báo Ả Rập. Do hạn chế lấy mẫu báo châu Phi, con số này có thể đánh giá không đúng mức.
Trước khi có những thay đổi do con người tạo ra trong mấy trăm năm trở lại đây, báo hoa mai đã từng là loài mèo phân bổ rộng nhất, hơn cả mèo nhà: Chúng được tìm thấy ở mọi nơi thuộc châu Phi (ngoại trừ sa mạc Sahara), cũng như ở Tiểu Á và Trung Đông, Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc, Siberia, phần lớn đất liền của khu vực Đông Nam Á, các đảo Java, Zanzibar và Sri Lanka. Chín phân loài được IUCN thừa nhận là:.Báo hoa mai là một điều ngạc nhiên trong số các thú ăn thịt loại to. Ước tính có khoảng 50.000 báo hoa mai ở khu vực hạ Sahara của châu Phi. Vì khả năng ngụy trang và thói quen lén lút của chúng, chúng có thể đến rất gần với các khu định cư của con người mà không bị phát hiện. Tuy nhiên sự phá hủy môi trường sống và việc săn trộm đã làm cho một vài nòi báo hoa mai đứng trước nguy cơ diệt chủng, ví dụ, báo hoa mai Amur, báo hoa mai Anatolia, báo hoa mai Barbary, báo hoa mai Hoa Bắc hay báo hoa mai nam Ả Rập.
Một phân tích hình thái đặc tính hộp sọ báo đưa đến hai phân loài hợp lệ thêm:
Quần thể báo châu Phi dưới đây từng được xem là phân loài cho đến năm 1996:
Phân loài báo nhỏ nhất là báo Ả Rập. Con cái trưởng thành nặng ít nhất . Phân loài lớn, trong đó con đực nặng đến , là báo Sri Lanka và báo Ba Tư. Khu vực sinh sống của phân loài báo lớn thiếu vắng hổ và sư tử, báo hoa ở phía trên cùng của chuỗi thức ăn không hạn chế cạnh tranh từ con mồi lớn.
Màu da của báo đốm thay đổi theo khí hậu và môi trường sống từ vàng nhạt đến nâu vàng hoặc vàng. Phần lớn báo hoa mai có màu nâu hay nâu vàng nhạt với các đốm đen, nhưng lớp lông của chúng thì rất đa dạng. Các đốm có xu hướng nhỏ hơn về phía đầu, lớn hơn và có tâm nhạt ở phía thân. Báo đốm sống trong rừng có màu lông tối hơn những cá thể trong môi trường sống khô cằn. Các đốm mờ dần về phía dưới bụng trắng và phần bên trong và phần dưới của chân. Những mảng đốm nổi bật nhất là ở mặt sau, sườn và thân sau. Đốm có hình tròn trong quần thể báo hoa mai Đông Phi, và có xu hướng vuông ở Nam Phi và lớn hơn trong quần thể báo châu Á. Bộ lông có xu hướng có tông màu xám ở vùng khí hậu lạnh hơn và có màu vàng đậm hơn trong môi trường sống của rừng mưa nhiệt đới.
Đuôi chóp màu trắng của nó dài khoảng 60–100 cm (24–39 in), bên dưới màu trắng và có những đốm tạo thành các dải không hoàn chỉnh về phía đuôi. Lông của chúng thường mềm và dày, đáng chú ý là ở bụng mềm hơn ở lưng. Chúng có xu hướng phát triển dài hơn ở vùng khí hậu lạnh hơn. Những sợi lông bảo hộ sẽ bảo vệ những sợi lông cơ bản là ngắn (3-4 milimet (0,12-0,16 in)) ở mặt và đầu, và tăng chiều dài về phía sườn và bụng lên khoảng 25–30 mm (0,98-1,18 in). Những cá thể vị thành niên có bộ lông xù và xuất hiện màu tối do các đốm được sắp xếp dày đặc.
Những con báo hoa mai có bộ lông đen cũng được gọi là báo đen. Pseudomelanism (chủ nghĩa phong phú) cũng xảy ra ở báo. Hắc tố trong báo hoa mai được di truyền như một đặc điểm tương đối lặn đối với dạng đốm. Giao phối trong báo đen tạo ra kích thước lứa nhỏ hơn đáng kể so với được tạo ra bởi các cặp thông thường.
Báo đen phổ biến trong rừng mưa xích đạo của bán đảo Mã Lai và rừng mưa nhiệt đới trên sườn của một số ngọn núi châu Phi như núi Kenya. Từ tháng 1 năm 1996 đến tháng 3 năm 2009, báo hoa mai Đông Dương được chụp ảnh tại 16 địa điểm trên bán đảo Mã Lai trong nỗ lực lấy mẫu của hơn 1000 đêm bẫy máy ảnh. Trong số 445 bức ảnh của báo hoa mai, có 410 bức đến từ các địa điểm nghiên cứu ở phía nam eo đất Kra, nơi hình thái phi hắc tố không bao giờ được chụp ảnh. Dữ liệu này cho thấy sự cố định gần của các alen tối trong khu vực. Thời gian dự kiến cho sự cố định của alen lặn này do sự trôi dạt di truyền một mình dao động từ khoảng 1.100 năm đến khoảng 100.000 năm. Pseudomelanism cũng đã được báo cáo ở báo.
Báo hoa mai có lông màu đỏ rất hiếm khi được báo cáo. Hình thức này được gọi là báo 'dâu tây' do màu sắc của nó, gây ra bởi một điều kiện di truyền ít được hiểu là gây ra sự sản xuất quá mức của các sắc tố màu đỏ hoặc sự sản xuất của các sắc tố đen. Một đánh giá các tài liệu cho thấy rằng có năm hồ sơ lịch sử từ Ấn Độ, và bảy hồ sơ nữa trong hai thập kỷ qua từ Nam Phi, với bức ảnh đầu tiên được chụp tại Khu bảo tồn Madikwe của Nam Phi.
Thông thường, những con "mèo khổng lồ" này hay bị nhầm lẫn với nhau, những con "mèo đốm" này là một ví dụ cụ thể. Báo gấm, Báo đốm Mỹ, báo đốm châu Phi (báo săn) và báo hoa mai thường hay bị nhầm với nhau.
Báo gấm có thể được phân biệt bằng các "đám mây" khuếch tán so với các đốm nhỏ hơn và khác biệt của báo hoa mai, chân dài hơn và đuôi mỏng hơn.
Báo hoa mai có thể dễ dàng phân biệt với họ hàng gần là báo đốm Mỹ nếu người ta biết nhìn vào những điểm cần thiết. Phần lớn báo hoa mai không có đốm trong các hoa thị mà báo đốm Mỹ luôn luôn có. Hơn nữa, báo đốm Mỹ có miếng đệm chân lớn hơn và tròn hơn và hộp sọ lớn hơn. Báo hoa mai Amur và báo hoa mai Hoa Bắc thỉnh thoảng là ngoại lệ. Báo hoa mai nhỏ hơn và ít rắn chắc hơn báo đốm Mỹ, mặc dù chúng chắc nịch hơn báo gêpa. Bên cạnh những biểu hiện bề ngoài thì báo hoa mai và báo đốm Mỹ còn khác nhau về thói quen sinh sống. Báo đốm Mỹ, đã quen với cuộc sống trong các rừng mưa nhiệt đới, thích sống gần nước, trong khi báo hoa mai thông thường là tránh ẩm ướt, và là sống trên cây nhiều hơn.
Báo săn, mặc dù sống lẫn trong khu vực sinh sống của báo hoa mai, cũng rất dễ phân biệt. Báo hoa mai nặng hơn, rắn chắc hơn, có đầu to (theo tỷ lệ với cơ thể), và có các hoa thị hơn là các đốm. Hơn nữa, báo hoa mai thiếu những vệt rách trên khuôn mặt đặc trưng của báo săn.
Báo hoa mai có hình dạng lưỡng hình giới tính, con đực to và nặng hơn con cái. Ngoại hình của chúng khá cơ bắp, với các chi tương đối ngắn và một cái đầu rộng. Con đực tính từ vai cao khoảng 60–70 cm (24–28 in), trong khi con cái cao 57–64 cm (22–25 in). Chiều dài đầu và thân thường từ 90 đến 190 cm (35 đến 75 in). Trong khi con đực nặng từ 37–90 kg (82-198 lb) thì con cái nặng từ 28–60 kg (62-132 lb). Các phép đo này thay đổi theo địa lý.
Thông thường, báo đốm có kích thước lớn hơn ở những khu vực chúng đứng đầu chuỗi thức ăn, không bị hạn chế cạnh tranh từ những kẻ săn mồi lớn hơn như sư tử và hổ. Tuy nhiên, theo Alfred Edward Pease, báo hoa mai ở Bắc Phi có kích thước tương đương sư tử. Có một báo cáo vào năm 1913 về một con báo đốm Algeria có kích thước khoảng 8 ft 10 in (269 cm), trước khi bị lột da. Để so sánh, sư tử đực thường dài khoảng 170–298 cm (5 ft 7–9 ft 9 in).
Trọng lượng tối đa của một con báo hoa mai là khoảng 96 kg (212 lb), được ghi nhận ở Nam Phi. Nó được ghép với một con báo Ấn Độ bị giết ở Himachal Pradesh vào năm 2016 với chiều dài là 262 cm (8 ft 7 in).
Báo hoa mai có sự phân bố lớn nhất trong số tất cả các loài mèo hoang dã, xuất hiện rộng rãi ở châu Phi cũng như miền đông và miền nam châu Á, mặc dù quần thể đã cho thấy một xu hướng giảm dần, và bị chia cắt bên ngoài châu Phi Hạ Sahara. Ở châu Phi Hạ Sahara, loài này vẫn còn rất nhiều và thậm chí phát triển mạnh trong môi trường sống nơi những con mèo lớn khác đã biến mất, mặc dù có nhiều khả năng xảy ra xung đột giữa người và báo do báo thường tấn công gia súc. Các quần thể ở Bắc Phi có thể đã bị tuyệt chủng. Dữ liệu về phân phối của chúng ở châu Á không nhất quán. Quần thể ở Tây Nam Á và Trung Á rất nhỏ và phân mảnh; ở phía đông bắc, chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Ở tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và Trung Quốc, báo hoa mai vẫn còn tương đối phong phú. Trong số các loài họ mèo nói chung, số lượng của chúng lớn hơn các loài Panthera khác, những loài mà hầu như tất cả đều phải đối mặt với các mối quan tâm bảo tồn cấp tính hơn.
Mặc dù số lượng lớn của chúng, loài thú săn đêm và sống trên cây này rất khó nhìn thấy trong tự nhiên. Có thể là khu vực có nhiều nhất là vườn quốc gia Yala ở Sri Lanka, ở đó có mật độ báo hoa mai hoang cao nhất thế giới, nhưng thậm chí ngay cả ở đây thì việc nhìn thấy chúng không phải lúc nào cũng có.
Báo hoa mai có khả năng thích nghi đặc biệt, mặc dù môi trường sống của chúng chủ yếu gắn với những đồng cỏ xavan và rừng nhiệt đới. Các quần thể thường phát triển mạnh ở bất cứ nơi nào trong phạm vi của loài nơi đồng cỏ, rừng thưa và rừng ven sông hầu như không bị xáo trộn. Ở Viễn Đông Nga, chúng sống trong các khu rừng lá kim ôn đới nơi nhiệt độ mùa đông xuống thấp tới −25 °C (−13 °F). Chúng cũng thích nghi rất tốt trong một số khu rừng nhiệt đới ẩm nhất thế giới và cả rìa sa mạc nửa khô cằn.
Báo hoa mai ở phía tây và Trung Á tránh các sa mạc và các khu vực có tuyết phủ dài và các khu vực gần trung tâm đô thị. Ở Ấn Độ, quần thể báo đôi khi sống khá gần các khu định cư của con người và thậm chí ở các khu vực bán phát triển. Mặc dù đôi khi thích nghi với sự xáo trộn của con người, báo hoa mai đòi hỏi quần thể con mồi dồi dào và lớp phủ thực vật thích hợp để săn mồi để tồn tại kéo dài và do đó hiếm khi nán lại ở các khu vực phát triển mạnh quá lâu. Do tài sống lén lút siêu hạng của báo hoa mai, mọi người thường không biết rằng những con mèo lớn này đang sống gần nơi ở của họ.
Báo hoa mai hoạt động chủ yếu từ hoàng hôn đến bình minh và nghỉ ngơi hầu hết thời gian trong ngày và trong một số giờ vào ban đêm trong bụi cây, giữa các tảng đá hoặc trên cành cây. Báo hoa mai đã được quan sát thấy đã đi bộ từ 1–25 km (0,62-15.53 mi) trên phạm vi của chúng vào ban đêm; chúng thậm chí có thể đi lang thang tới 75 km (47 dặm) nếu bị làm phiền. Ở một số vùng, chúng là loài ăn đêm. Trong các khu rừng phía tây châu Phi, chúng đã được quan sát thấy phần lớn là đi săn vào ban ngày nhưng là trong lúc chạng vạng, khi con mồi của chúng đã hoạt động; mô hình hoạt động khác nhau giữa các mùa.
Báo hoa mai được biết đến với khả năng leo trèo tốt và được quan sát thấy thường nghỉ ngơi trên cành cây vào ban ngày, kéo lê những con mồi mà chúng săn được và mang lên đó, và giấu ở ngọn cây. Chúng là những tay bơi lội cự phách, mặc dù không thích bơi lội như một số loài mèo lớn khác, chẳng hạn như hổ. Chúng rất nhanh nhẹn và thường chạy với tốc độ hơn 58 km/h (36 dặm/giờ), mặc dù có thể chạy với tốc độ tối đa lên đến 90 km/h nếu địa hình thuận lợi. Chúng nhảy xa hơn 6 m (20 ft) theo chiều ngang và nhảy cao tới 3 m (9,8 ft) theo chiều dọc.
Báo hoa mai sống đơn độc trong lãnh thổ của mình. Những cá thể trưởng thành chỉ liên kết trong mùa giao phối. Con cái tiếp tục sống với con của nó ngay cả sau khi cai sữa, và đã được quan sát thấy việc chia sẻ con mồi với báo con khi chúng không thể bắt được bất kỳ con mồi nào. Trong vườn quốc gia Kruger, hầu hết báo hoa mai có xu hướng giữ cách nhau 1 km (0,62 mi). Con đực đôi khi tương tác với các đối tác và đàn con của chúng, và đặc biệt điều này có thể kéo dài đến hai thế hệ. Các cuộc chạm trán hung hăng rất hiếm, thường giới hạn trong việc bảo vệ các vùng lãnh thổ khỏi những kẻ xâm nhập. Trong một khu bảo tồn ở Nam Phi, một con báo đực bị thương trong trận chiến lãnh thổ với một cá thể khác để tranh giành một con mồi đã chết. Một vài trường hợp ăn thịt đồng loại đã được báo cáo.
Báo hoa mai giao tiếp với nhau trên cỏ cao bằng những đốm trắng trên tai và đuôi. Chúng tạo ra một số tiếng kêu, bao gồm tiếng gầm gừ, tiếng meo meo và tiếng rít. Chuỗi gầm của báo bao gồm chủ yếu là tiếng lách cách và còn được gọi là "cưa", được mô tả giống như âm thanh của gỗ xẻ. Đàn con được biết gọi mẹ bằng âm thanh urr-urr.
Con đực chiếm lãnh thổ thường chồng lấn với một vài lãnh thổ nhỏ hơn của con cái, có lẽ là một chiến lược để tăng cường khả năng tiếp cận với con cái. Ở Bờ Biển Ngà, phạm vi lãnh thổ của con cái hoàn toàn bị bao quanh bởi lãnh thổ của những con báo đực. Con cái sống với đàn con trong các lãnh thổ chồng chéo lên nhau, có lẽ là do sự liên kết giữa mẹ và con của chúng. Có thể có một vài lãnh thổ biến động khác, thuộc về các cá thể trẻ. Không rõ liệu các lãnh thổ của con đực có chồng chéo nhiều như con cái hay không. Các cá thể thường cố gắng xua đuổi những kẻ xâm nhập cùng giới tính.
Một nghiên cứu về báo hoa mai ở các trang trại ở Namibia cho thấy kích thước của các vùng lãnh thổ không bị ảnh hưởng đáng kể bởi giới tính, mô hình mưa hoặc mùa; kết luận rằng khả năng sẵn có của con mồi trong một khu vực càng cao, mật độ dân số của báo và kích thước lãnh thổ càng nhỏ, nhưng các vùng lãnh thổ có xu hướng mở rộng nếu có sự can thiệp của con người (đáng chú ý là cao trong khu vực nghiên cứu). Kích thước lãnh thổ thay đổi theo địa lý và tùy thuộc vào môi trường sống và sự sẵn có của con mồi. Ở Serengeti, chúng có kích thước nhỏ từ 33-38 km2 (13-15 dặm) đối với con đực và 14-16 km2 (5,4-6,2 dặm vuông) đối với con cái, và lớn tới 451 km2 (174 dặm vuông) đối với con đực và 188 km2 (73 dặm vuông) đối với con cái ở đông bắc Namibia. Chúng thậm chí còn lớn hơn ở các khu vực khô cằn và nhiều đồi núi. Các lãnh thổ được ghi nhận tại vườn quốc gia Bardia của Nepal, 48 km2 (19 dặm vuông) đối với con đực và 5-7 km2 (1,9-2,7 dặm vuông) đối với con cái, nhỏ hơn so với những gì thường thấy ở châu Phi.
Tùy thuộc vào khu vực, báo hoa mai có thể giao phối quanh năm. Ở Mãn Châu và Siberia, chúng giao phối trong tháng 1 và tháng 2. Chu kỳ động dục kéo dài khoảng 46 ngày và con cái thường động đực trong 6-7 ngày. Thời gian mang thai kéo dài trong 90 đến 105 ngày. Đàn con thường được sinh ra trong một lứa 2-4 con. Tỷ lệ tử vong của con non được ước tính là 41-50% trong năm đầu tiên.
Con cái sinh ra trong một hang động, kẽ hở giữa những tảng đá, cây rỗng hoặc bụi cây để làm hang. Đàn con được sinh ra với đôi mắt còn nhắm, chỉ mở sau bốn đến chín ngày sau khi sinh. Bộ lông của con non có xu hướng dài và dày hơn so với con trưởng thành. Xương chậu của chúng cũng có màu xám hơn với các đốm ít xác định hơn. Khoảng ba tháng tuổi, báo con bắt đầu theo mẹ đi săn. Khi được một tuổi, chúng có thể tự lo cho mình, nhưng vẫn ở với mẹ trong 18-24 tháng.
Tuổi thọ trung bình điển hình của báo hoa mai là từ 12 đến 17 năm. Con báo hoa mai được ghi nhận sống lâu nhất là một con cái tên Roxanne sống trong điều kiện nuôi nhốt tại Khu bảo tồn Động vật hoang dã McCarthy ở The Acreage, Palm Beach County, Florida. Nó qua đời ngày 8 tháng 8 năm 2014 ở tuổi 24, 2 tháng và 13 ngày. Điều này đã được xác nhận bởi Kỷ lục Guinness thế giới. Trước đây, con báo được ghi nhận thọ nhất là một con cái tên là Bertie sống trong điều kiện nuôi nhốt tại Sở thú Warsaw. Nó qua đời vào tháng 12 năm 2010 ở tuổi 24. Con báo đực già nhất được ghi nhận làà 9,3 năm.kiojoihohuig
Báo hoa mai phụ thuộc chủ yếu vào các giác quan nhạy bén của nó là thính giác và thị giác để săn mồi. Lối sống và thức ăn của chúng khác với các loài mèo khổng lồ khác. Chúng có khả năng săn trên cây cũng như trên mặt đất. Chúng chủ yếu đi săn vào ban đêm ở hầu hết các khu vực. Trong các khu rừng phía tây châu Phi và Vườn quốc gia Tsavo, báo hoa mai cũng được quan sát thấy đi săn mồi vào ban ngày.
Báo hoa mai là loài động vật ăn thịt có thể săn bắt nhiều chủng loại con mồi hơn bất kỳ các loài mèo lớn nào khác với kĩ năng săn mồi điêu luyện, chúng có thể ăn từ những động vật nhỏ như côn trùng, động vật gặm nhấm, cá đến những con thú thậm chí to lớn hơn chúng. Báo hoa mai nhìn chung thích săn những con mồi cỡ trung bình với khối lượng cơ thể dao động từ 10–40 kg (22-88 lb). Các con mồi trong phạm vi trọng lượng này có xu hướng tồn tại trong môi trường sống dày đặc và hình thành các đàn nhỏ. Những con mồi thích các khu vực mở và phát triển các bản năng tự vệ đáng kể ít được báo ưa thích hơn. Hơn 100 con mồi khác nhau đã được ghi lại. Những con báo hoa mai ở châu Phi thường săn linh dương Impala, linh dương Thomson, linh dương hoẵng, linh dương Steenbok, linh dương bụi rậm, lợn nanh sừng châu Phi, cheo cheo nước, linh dương đầu bò xanh, linh dương Sitatunga, linh dương lùn Bates, lợn đất, linh dương Nyala, và linh dương vằn Kudu; trong khi nai, hươu đốm, mang, linh dương bốn sừng, dê núi sừng ngắn Nilgiri và thậm chí là cả bò tót và lợn rừng là con mồi của chúng ở châu Á. Tài leo cây giúp báo hoa săn được cả những loài linh trưởng bao gồm khỉ Colobus đen trắng, Cercopithecus, voọc, và ít thường xuyên hơn là khỉ đột và khỉ đầu chó. Các động vật có vú nhỏ được săn bắt bao gồm chó rừng lưng đen, cáo Cape, cầy hương châu Phi, thỏ đồng, nhím, Procavia capensis. Những con mồi lớn như một con hươu cao cổ nặng 550 kg (1.210 lb) có thể bị báo hoa mai săn đuổi nếu những con thú ăn thịt lớn hơn như sư tử hoặc hổ vắng mặt. Con mồi lớn nhất bị giết bởi một con báo hoa mai được cho là một con nai Taurotragus đực nặng 900 kg (2.000 lb).
Báo hoa mai rình rập con mồi một cách kiên trì và cố gắng tiếp cận càng gần càng tốt, thường là trong phạm vi 5 m (16 ft) đến mục tiêu, và cuối cùng vồ lấy nó và giết chết nó bằng cách làm cho nghẹt thở. Nó giết chết con mồi nhỏ bằng một vết cắn sau gáy, nhưng khi giết con vật lớn thì chúng sẽ cắn vào cổ họng hoặc bóp cổ con mồi. Nó có thể bắt con mồi lớn nhờ hộp sọ khổng lồ và cơ hàm mạnh mẽ, và do đó đủ mạnh để kéo cái xác nặng hơn chính nó lên cây; người ta từng thấy nó có thể tha con mồi nặng gấp ba lần nó lên cây, một cá thể đã được nhìn thấy đã lôi một con hươu cao cổ trẻ, nặng gần 125 kg (276 lb), cao 5,7 m (19 ft) lên một cái cây. Con mồi được lưu trữ cách nhau tối đa 2 km (6.600 ft). Con mồi nhỏ thường được báo ăn hết ngay lập tức, trong khi con mồi lớn hơn bị kéo lê hơn vài trăm mét và được giấu an toàn trong cây, bụi rậm hoặc thậm chí là hang động để tiêu thụ dần sau đó. Cách thức con mồi được giấu phụ thuộc vào địa hình địa phương và sở thích cá nhân; trong khi cây được ưa thích ở vườn quốc gia Kruger, bụi cây được ưa thích ở địa hình đồng bằng của Kalahari.
Các phân tích về loài báo hoa mai ở vườn quốc gia Taï tiết lộ rằng các loài linh trưởng trừ tinh tinh và vượn gấu là con mồi chính của báo trong ngày. Trong một khu rừng bảo tồn ở miền nam Ấn Độ, các loài được săn lùng bởi báo hoa mai, sói đỏ và linh cẩu vằn chồng chéo đáng kể.
Một nghiên cứu tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọa Long ở miền nam Trung Quốc đã chứng minh sự thay đổi trong chế độ ăn của báo theo thời gian; trong suốt bảy năm, lớp phủ thực vật đã giảm đi và báo hoa mai chuyển cơ hội từ con mồi chủ yếu hươu mũ lông sang tấn công Tông Dúi và con mồi nhỏ hơn khác. Một nghiên cứu ước tính tỷ lệ tiêu thụ trung bình hàng ngày ở mức 3,5 kg (7,7 lb) đối với con đực và 2,8 kg (6,2 lb) đối với con cái. Một nghiên cứu ở miền nam Kalahari cho thấy báo hoa mai đáp ứng nhu cầu nước của chúng bằng chất dịch cơ thể của con mồi và thực vật mọng nước; chúng uống nước hai đến ba ngày một lần và ăn không thường xuyên trên các loại cây giàu ẩm như dưa chuột gembok (Acanthosicyos naudinianus), dưa hấu (Citrullus lanatus) và cỏ chua Kalahari (Schmidtia kalahariensis). Một vài trường hợp ăn thịt đồng loại đã được báo cáo.
Những trường hợp báo hoa mai ăn thịt những con gấu con ở châu Á đã được báo cáo. Những con gấu trúc lớn chưa trưởng thành có trọng lượng lên tới 50 kg (110 lb) cũng có thể dễ bị tấn công bởi báo. Báo hoa mai thậm chí săn cả chó nên những người nuôi chó trong những vùng có báo hoa mai thường khôn ngoan giữ chúng trong các cũi để đảm bảo an toàn cho chúng vì báo hoa mai được biết như là những kẻ thèm thịt chó và sẵn sàng liều lĩnh xông vào nhà dân để giết chó nuôi.
Báo hoa mai phải tranh giành thức ăn và nơi trú ẩn với các loài săn mồi lớn khác như hổ, sư tử, báo săn, linh cẩu đốm, linh cẩu vằn, linh cẩu nâu, tới năm loài gấu khác nhau và cả chó hoang châu Phi và châu Á. Những con vật này có thể đánh cắp con mồi của báo, giết chết con non hoặc thậm chí giết cả những con báo trưởng thành. Báo hoa mai cùng tồn tại bên cạnh những kẻ săn mồi lớn khác bằng cách săn lùng nhiều loại con mồi khác nhau và cố gắng tránh các khu vực mà các loài thú ăn thịt lớn thường lui tới. Báo hoa mai cũng có thể chủ động rút lui lên cây trước sự tấn công trực tiếp từ các loài thú ăn thịt lớn khác nhưng báo cũng có thể giết hoặc săn mồi các đối thủ cạnh tranh như chó rừng lưng đen, mèo rừng, mèo hoang châu Phi và những con non sư tử, báo săn, linh cẩu và chó hoang.
Trong nhiều khu vực sinh sống của chúng ở châu Phi, chúng phải tranh đấu với những loài thú ăn thịt khác như linh cẩu đốm và sư tử để giành con mồi, và không phải là điều bất thường đối với chúng khi chúng bị các con mãnh thú kia xua đuổi khỏi con mồi mà nó vừa kiếm được. Vì thế chúng thông thường sẽ tha con mồi vào chỗ tương đối an toàn ở trên cây vì nếu ăn ở trên mặt đất chúng rất dễ bị các loài mãnh thú khác như sư tử, linh cẩu cướp mất mồi.
Phân biệt con mồi xảy ra khi báo hoa mai chia sẻ phạm vi của chúng với hổ. Báo có xu hướng bắt con mồi nhỏ hơn, thường dưới 75 kg (165 lb), ở những nơi có hổ. Ở những khu vực mà báo là đối trọng với hổ, sự chung sống được báo cáo không phải là quy tắc chung, với quần thể báo thường ít hơn ở những nơi có rất nhiều hổ. Mật độ trung bình của báo giảm đáng kể (từ 9,76 xuống còn 2,07 cá thể trên 100 km2) khi mật độ trung bình của hổ tăng (từ 3,31 cá thể / 100km2 lên 5,81 cá thể / 100km2) từ năm 2004-2005 đến 2007-2008 tại vườn quốc gia Rajaji ở Ấn Độ theo sự di dời của các nông dân ra khỏi vườn quốc gia. Do ban đầu, hai loài có sự chồng chéo về chế độ ăn uống cao, và sự gia tăng số lượng hổ khiến quần thể báo giảm mạnh và thay đổi chế độ ăn của báo sang con mồi nhỏ (từ 9% đến 36%) và con mồi sống trong nhà (từ 6,8 % đến 31,8%).
Trong vườn quốc gia Chitwan của Nepal, hổ Bengal cùng tồn tại với báo Ấn Độ vì có nguồn con mồi lớn, một tỷ lệ lớn con mồi có kích thước nhỏ hơn và thảm thực vật dày đặc tồn tại. Tại đây, báo đã giết chết con mồi có trọng lượng từ dưới 25 kg (55 lb) đến 100 kg (220 lb) với hầu hết các cuộc săn trong phạm vi 25–50 kg (55-110 lb); hổ đã giết chết nhiều con mồi hơn trong phạm vi khối lượng 50–100 kg (110-220 lb). Cũng có sự khác biệt về sở thích của môi trường sống vi mô của cá thể hổ và báo sau hơn năm tháng (tháng 12 đến tháng 4); hổ sử dụng đường và (trừ tháng hai) các khu vực có rừng thường xuyên hơn, trong khi báo sử dụng các khu vực rừng đã bị đốt cháy gần đây và các khu vực mở thường xuyên hơn. Thông thường khi một con hổ bắt đầu giết mồi tại các địa điểm mà loài báo thường lui tới, báo hoa mai sẽ không còn đến và kiếm ăn ở đó nữa.
Trong các khu rừng nhiệt đới của vườn quốc gia Nagarhole của Ấn Độ, những con hổ đã chọn con mồi nặng hơn 176 kg (388 lb), trong khi báo chọn con mồi trong phạm vi 30–175 kg (66-386 lb). Trong các khu rừng nhiệt đới, không phải lúc nào chúng cũng tránh được những con mèo lớn hơn bằng cách săn mồi vào những thời điểm khác nhau. Với con mồi tương đối phong phú và sự khác biệt về kích thước của con mồi được chọn, hổ và báo dường như cùng tồn tại thành công mà không loại trừ cạnh tranh hoặc phân cấp thống trị giữa các loài có thể phổ biến hơn đối với sự tồn tại của báo với sư tử trong môi trường hoang dã. Ở những khu vực có quần thể hổ cao, chẳng hạn như ở khu vực trung tâm của vườn quốc gia Kanha của Ấn Độ, báo không phải là cư dân thường trú, mà chỉ là tạm thời. Chúng phổ biến gần các ngôi làng ở ngoại vi của vườn quốc gia và bên ngoài vườn quốc gia.
Vào giữa thế kỷ 20, báo hoa mai Đông Bắc Á không xuất hiện hoặc rất hiếm khi gặp ở vùng Primorye thuộc vùng Viễn Đông của Nga tại những nơi mà hổ Siberia hay lang thang. Các cuộc khảo sát được thực hiện vào đầu thế kỷ 21 cho thấy phạm vi của cả hai loài chồng chéo trong khu vực này, đặc biệt là ở các khu vực được bảo vệ nơi mật độ thú móng guốc cao và sự tác động của con người thấp.
Thỉnh thoảng, cá sấu sông Nile săn báo ở mọi lứa tuổi. Một con báo lớn đã bị một con cá sấu lớn bắt và tiêu thụ trong khi cố gắng đi săn dọc theo một con sông trong vườn quốc gia Kruger. Cá sấu Mugger được báo cáo đã giết một con báo trưởng thành ở Ấn Độ. Sư tử đôi khi thành công trong việc trèo cây và cướp con mồi của báo. Báo cũng được biết là giết hoặc ăn thịt những con sư tử con. Ở hoang mạc Kalahari, báo hoa mai thường xuyên bị linh cẩu nâu cướp mồi, nếu con báo không thể kéo con mồi lên một cái cây thành công. Những con linh cẩu nâu đơn lẻ đã được quan sát thấy đang rượt và đuổi những con báo đực để cướp mồi của chúng. Những con trăn mốc được báo cáo là đã tấn công và ăn thịt báo khi một con báo trưởng thành đã được phục hồi từ dạ dày của một con trăn dài 5,5 m (18 ft).
Hai trường hợp báo hoa mai giết báo săn đã được báo cáo vào năm 2014. Ở một số khu vực ở Châu Phi, những đàn lớn của loài khỉ đầu chó lớn (bản thân chúng cũng có khả năng là con mồi của báo) sẽ giết và đôi khi ăn thịt báo nếu phát hiện ra chúng. George Schaller viết rằng ông đã nhìn thấy xác của một con báo và khỉ đột, và cả hai đều có vết thương.
Báo hoa mai đã được con người biết đến trong suốt lịch sử, và đặc trưng trong nghệ thuật, thần thoại và văn hóa dân gian của nhiều quốc gia nơi chúng từng sinh sống trong lịch sử, như Hy Lạp cổ đại, Ba Tư và La Mã, cũng như một số nơi chúng chưa từng tồn tại trong nhiều thiên niên kỷ, chẳng hạn như nước Anh. Việc sử dụng hình tượng con báo hoa mai ngày nay như một biểu tượng cho thể thao hoặc huy hiệu học bị hạn chế hơn nhiều ở Châu Phi.
Trong thời vương quốc Benin, con báo thường được hiện diện trên các bản khắc và điêu khắc và được sử dụng để tượng trưng cho sức mạnh của nhà vua hoặc "oba" kể từ khi con báo được coi là vị vua của rừng rậm. Báo hoa mai cũng được nuôi giữ và trình diễn như linh vật, vật tổ và vật hiến tế cho các vị thần. Là kết quả của mối gắn kết của chúng với các vị vua ở châu Phi, những tấm da báo thường được xem là biểu tượng của cấp bậc quý tộc, các thủ lĩnh sử dụng nó như một phần của vương giả truyền thống.
Trong huy hiệu, ký hiệu con báo thường xuất hiện nhất trong các nhóm ba nhưng nó lại không thể hiện các đốm mà lại thể hiện một chiếc bờm khiến nó trông gần giống với con sư tử và hai con này thường được sử dụng thay thế cho nhau. Các mô tả tự nhiên hiện đại hơn (giống như con báo) xuất hiện trên huy hiệu của một số quốc gia châu Phi bao gồm Benin, Malawi, Somalia, Cộng hòa Dân chủ Congo và Gabon, sử dụng như một con báo đen. Báo hoa mai thuần hóa cũng đã được ghi nhận một số con báo đã được giữ trong một bầy thú được vua John thành lập tại Tháp Luân Đôn vào thế kỷ 13; khoảng năm 1235, ba trong số những con vật này đã được Hoàng đế La Mã thần thánh Frederick II trao cho Henry III.
Trong các khu vực được bảo vệ của một số quốc gia, các chương trình du lịch động vật hoang dã và mạo hiểm safari cung cấp cơ hội quan sát và tiếp cận báo hoa mai trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Mặc dù các cơ sở xa xỉ có thể tự hào rằng thực tế có thể nhìn thấy động vật hoang dã ở cự ly gần hàng ngày, nhưng sự ngụy trang và xu hướng của con báo để che giấu và rình rập con mồi thường khiến cho chúng trở nên hiếm thấy. Trong vườn quốc gia Yala của Sri Lanka, báo hoa mai đã được du khách xếp hạng là một trong những loài động vật ít nhìn thấy nhất trong công viên mặc dù quần thể của chúng tập trung cao độ trong khu bảo tồn.
Ở Nam Phi, safaris được cung cấp trong nhiều khu bảo tồn thiên nhiên như Khu bảo tồn Sabi. Ở Sri Lanka, các tour du lịch động vật hoang dã có sẵn trong Công viên Quốc gia Yala và Wilpattu. Ở Ấn Độ, safaris được cung cấp tại các công viên quốc gia Madhya Pradesh và Uttarakhand cũng như ở quận Pali phía tây Rajasthan.
Hầu hết những con báo hoa mai sẽ chủ động tránh người, nhưng con người đôi khi có thể bị chúng nhắm làm con mồi. Hầu hết những con báo khỏe mạnh thích con mồi hoang dã hơn con người, nhưng những cá thể bị thương, ốm yếu hoặc khan hiếm con mồi thường xuyên có thể săn con người và dần quen với điều đó sau vài lần ăn thịt người. Mặc dù có kích thước thường nhỏ hơn một chút so với con người, một con báo trưởng thành vẫn mạnh mẽ hơn nhiều và đủ khả năng giết chết người dễ dàng như những loài mãnh thú khác. Báo hoa mai với biệt tài lén lút lẩn trốn rất khó để con người kiểm soát và khống chế chúng, dẫn đến hầu như không ai biết loài dã thú này có thể sinh sống gần môi trường sống của con người. Báo hoa mai rất khá hung hãn khi săn người, chúng thậm chí xông vào các ngôi làng, phá cửa để tìm người trong nhà, táo tợn hơn cả sư tử và hổ và còn được gọi là "Quỷ đốm".
Ở Ấn Độ, do môi trường sống thu hẹp, báo hoa mai thường xuyên đi lạc vào những khu dân cư và tấn công người. Có ghi nhận những ngôi làng hẻo lánh trên dãy Himalaya ở Ấn Độ, khi một con báo ranh mãnh sát hại 12 người trong 2 năm qua, điều đặc biệt là con báo chỉ tấn công những người say rượu, lảo đảo bước về nhà trong bóng tối sau khi tàn cuộc nhậu. Sự ranh mãnh của con vật reo rắc nỗi kinh hoàng đối với người dân trong khu vực. Hai trường hợp cực đoan đã xảy ra ở Ấn Độ: con báo đầu tiên là "Báo hoa mai ở Rudraprayag" được cho là giết chết hơn 125 người và "Báo Panar" được cho là giết 400 người sau khi bị thương bởi những kẻ săn trộm và vì thế không còn khả năng săn các con mồi bình thường. Cả hai con này cuối cùng đã bị giết chết bởi nhà săn thú khổng lồ và nhà bảo tồn nổi tiếng Jim Corbett.
Tác giả và thợ săn nổi tiếng Kenneth Anderson đã có kinh nghiệm đầu tay với nhiều con báo ăn thịt người, và mô tả chúng còn đáng sợ hơn nhiều so với hổ: "Mặc dù các ví dụ về những loài động vật như vậy là tương đối hiếm, nhưng khi điều đó xảy ra, nó đã mô tả con báo như một động cơ hủy diệt khá ngang ngửa với người anh em họ hàng lớn hơn nhiều của nó, con hổ. Vì kích thước nhỏ hơn, chúng có thể giấu mình ở những nơi không thể có hổ, nhu cầu về nước của chúng ít hơn rất nhiều, và trong sự quỷ quyệt và táo bạo thực sự, cùng với ý thức tự bảo vệ và biến mất một cách lén lút khi gặp nguy hiểm, hai loài này không hề bằng nhau." và "Có một điều gì đó rất đáng sợ trong tiếng gầm gừ giận dữ của một con báo đang rượt đuổi, và tôi đã thấy một đàn voi đang trung thành với một con hổ, quay lại và giẫm đạp một con báo đang đuổi theo.".
|
6018 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6018 | Vật liệu | Vật liệu (tiếng Anh: "Materials") là chất hoặc hợp chất được con người dùng để làm ra những sản phẩm khác. Vật liệu là đầu vào trong một quá trình sản xuất hoặc chế tạo. Trong công nghiệp, vật liệu là những sản phẩm chưa hoàn thiện và thường được dùng để làm ra các sản phẩm cao cấp hơn.
|
6024 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6024 | Điện ảnh | Điện ảnh là một loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh kết hợp âm thanh, đôi khi là một số hình thức kích thích giác quan khác; được lưu trữ trên một số dạng thiết bị ghi hình để phổ biến tới công chúng qua các phương tiện kỹ thuật khác nhau: chiếu rạp, truyền hình, web / stream, video, băng, đĩa, máy chiếu...
Trong tiếng Việt, điện ảnh đôi khi còn được gọi là Xi-nê, xuất phát từ ""cinéma"" (điện ảnh trong tiếng Pháp) vốn là từ rút gọn của ""cinématographe"". "Cinématographe" cũng là tên chiếc máy ghi hình đầu tiên do Léon Bouly tạo ra.
Xét trên phương diện nghệ thuật, Điện ảnh cũng là một trong những loại hình nằm trong 7 loại hình nghệ thuật cơ bản và được gọi là nghệ thuật thứ bảy. 6 nghệ thuật trước đó theo phân loại của Hegel là kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, thi ca và nhảy múa.
Việt Nam có một thời gian dài ảnh hưởng của văn hóa Pháp, nên đã vay mượn khá nhiều từ ngữ, trong đó có từ ""film"" trở thành ""phim"". Theo , film là thành phẩm hình ảnh động hoặc âm thanh của điện ảnh, họ chia thể loại và Việt Nam sử dụng theo như: Film d'amour - Phim tình cảm, Film documentaire - Phim tài liệu ...v.v Vốn từ vựng tiếng Việt không đủ cho các định nghĩa mới nên thường sử dụng thêm từ "phim" kèm với định dạng và thể loại điện ảnh trong khi tiếng Anh không cần đến vì được phân biệt rõ ràng theo tên gọi như: phim truyền hình - tv-serie; phim ngắn tập - minniserie; phim dài tập -serial; phim tài liệu - docmentary, phim điện ảnh - movie (Phim và điện ảnh là một)...
Trước đây trong tiếng Việt, dựa vào hình thức phổ biến hay phát hành mà các phim điện ảnh được gọi là "phim nhựa" hoặc "phim chiếu bóng", để phân biệt với phim video; nhưng theo sự phát triển của kỹ thuật thì cách gọi này không còn phù hợp nữa, vì một bộ phim có thể được chiếu trên nhiều thiết bị khác nhau.
Hiện nay, Phim điện ảnh là những bộ phim được sản xuất để chiếu chủ yếu tại các rạp phim, với công nghệ mới các bộ phim có thể được ghi lại bằng phim phim nhựa hoặc thiết bị kỹ thuật số. Phim điện ảnh được chia theo nhiều thể loại, sau thời gian phát hành ngoài rạp, phim sẽ được phổ biến dưới nhiều hình thức: truyền hình, dịch vụ trực tuyến hay các sản phẩm vật lý : VHS, DVD, Bluray...
Điện ảnh ra đời nhờ rất nhiều những tìm tòi và phát triển kỹ thuật vào nửa cuối thế kỷ 19 tập trung vào việc ghi lại hình ảnh chuyển động, đó là những phát minh của Louis Le Prince, Eadweard James Muybridge, Étienne-Jules Marey hay Thomas Edison. Tuy vậy, các nhà sử học thường coi ngày khai sinh ra nghệ thuật điện ảnh là ngày 28 tháng 12 năm 1895, khi buổi chiếu phim chuyển động và có thu tiền đầu tiên được anh em Auguste và Louis Lumière tổ chức tại "Salon Indien" (Phòng Ấn Độ) nằm dưới tầng hầm của quán cà phê "Grand Café" ở Paris, Pháp. Những khách vào xem buổi chiếu này phải trả 1 franc để xem chừng 10 đoạn phim ngắn dài 1 phút. Đoạn phim đầu tiên trong số này được Anh em Lumière ("lumière" trong tiếng Pháp có nghĩa là ánh sáng) quay vào khoảng tháng 8 năm 1894 tại tầng trệt căn hộ của họ ở đường "Saint Victor" (Lyon), nay đã được đổi tên thành đường "Premier Film" (Bộ phim đầu tiên) để ghi danh sự kiện. Được biết tới nhiều nhất trong buổi chiếu này là đoạn phim "La Sortie de l'usine Lumière à Lyon" ("Buổi tan ca của nhà máy Lumière ở Lyon"), được quay vào mùa hè năm 1895, ghi lại cảnh các công nhân rời khỏi nhà máy của nhà Lumière ở Lyon. Do đây chỉ là những đoạn phim ghi lại cảnh sinh hoạt thường ngày nên theo tiêu chuẩn ngày nay thì nó gần với các bộ phim tài liệu hơn là phim điện ảnh.
Sự ra đời của "cinématographe" nhanh chóng được công chúng đón nhận nhiệt tình. Ngay lập tức điện ảnh được thương mại hóa và công nghiệp điện ảnh ra đời. Mặc dù từ ngày 11 tháng 1 năm 1888, Louis Le Prince đã đăng ký bằng sáng chế về chiếc máy quay hoàn chỉnh có thể ghi lại những hình ảnh chuyển động, nhưng trong cuộc chiến thương mại đầu tiên liên quan đến điện ảnh, Thomas Edison mới là người chiến thắng và hầu như việc sản xuất máy quay đều nằm dưới nhãn hiệu "Trust Edison" cho đến tận năm 1918.
Không chỉ dừng lại ở việc ghi lại chính xác các hình ảnh thực tế, các nhà làm phim bắt đầu tạo ra các kĩ xảo điện ảnh cho các bộ phim của mình, một trong những kĩ xảo đáng nhớ nhất là hình ảnh Mặt Trăng có khuôn mặt người trong bộ phim "Le Voyage dans la lune" ("Cuộc du hành lên Mặt Trăng") do Georges Méliès thực hiện năm 1902.
Vào thập niên 1910, đạo diễn Hoa Kỳ D.W.Griffith đã đưa điện ảnh tiến thêm một bước mới khi chuẩn hóa các thuật ngữ điện ảnh và các công đoạn làm phim cũng như cho ra đời bộ phim mang tính cách mạng về kỹ thuật dàn dựng và kịch bản "The Birth of a Nation".
Những năm 1920 là giai đoạn hoạt động tích cực của các nhà điện ảnh thuộc trường phái Tiên phong ("avant-garde"), những người khai sinh ra điện ảnh thể nghiệm ("cinéma expérimental") như Fernand Léger, Man Ray, Germaine Dulac, Walter Ruttmann và nhiều người khác. Cho đến cuối thập niên 1920, kỹ thuật thu âm đồng bộ chưa ra đời, vì vậy các bộ phim công chiếu đều không có âm thanh mà phải sử dụng các nghệ sĩ tạo âm thanh và tiếng động ngay tại nơi công chiếu. Những bộ phim như vậy được gọi là phim câm, để dẫn dắt câu chuyện hoặc miêu tả các đoạn hội thoại người ta phải sử dụng các bảng chữ (tiếng Anh: "intertitle") xen vào giữa các cảnh phim. Để hiện thực hóa việc đồng bộ âm thanh và hình ảnh cho các bộ phim, người ta đã cố gắng áp dụng các kĩ thuật khác nhau, và bộ phim hoàn chỉnh "có tiếng" đầu tiên đã ra đời năm 1927, đó là bộ phim "The Jazz Singer".
Thập niên 1930 được đánh dấu bằng các bộ phim tuyên truyền của Đức Quốc xã trong đó phải kể tới "Olympia (phim 1938)" được đạo diễn Leni Riefenstahl thực hiện để quảng bá cho Thế vận hội mùa hè 1936 tổ chức tại Berlin cũng như tuyên truyền hình ảnh của một nước Đức hùng mạnh. Bộ phim này đã mang đến những bước đột phá mới cho nghệ thuật điện ảnh như các góc quay lạ, quay cận cảnh và dựng phim. Cũng chính Leni Riefenstahl vào năm 1936 đã thực hiện bộ phim nổi tiếng "Triumph des Willens", một tác phẩm nhằm gây dựng hình ảnh cho Adolf Hitler và các lãnh đạo Đức Quốc xã, "Triumph des Willens" được coi là bộ phim tuyên truyền xuất sắc nhất trong lịch sử điện ảnh.
Sau âm thanh, bước tiến lớn thứ hai về kỹ thuật điện ảnh là các bộ phim màu. Những bộ phim màu đầu tiên xuất hiện từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng phải đợi đến thập niên 1950 các bộ phim màu mới bắt đầu phổ biến khi điện ảnh phải cạnh tranh với một phương tiện giải trí khác đang phát triển rất mạnh là truyền hình (vốn vẫn chỉ có hình ảnh đen trắng cho đến giữa thập niên 1960). Sau chiến tranh cũng là giai đoạn phát triển của nghệ thuật điện ảnh hiện đại với rất nhiều trào lưu điện ảnh khác nhau như chủ nghĩa Hiện thực mới ("neorealism") của điện ảnh Ý với các đại diện tiêu biểu là Roberto Rossellini, Vittorio De Sica, trào lưu Làn sóng mới ("Nouvelle Vague") của điện ảnh Pháp với François Truffaut, Jean-Luc Godard, cũng phải kể đến thế hệ đạo diễn mới của Hollywood, thế hệ "New Hollywood" với các đạo diễn nổi tiếng như John Cassavetes.
Năm 1965, với sự ra đời của loại máy quay phổ thông super 8 do hãng Kodak sản xuất, nền điện ảnh của các nghệ sĩ nghiệp dư ra đời. Những bộ phim được thực hiện nghiệp dư này được gọi là các bộ phim loại Z ("Z movie", bắt nguồn từ tên gọi các bộ phim loại B – "B movie" kinh phí thấp của Hollywood), phim loại Z cũng được các đạo diễn nổi tiếng sử dụng như một cách thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình, trong số các đạo diễn đó có những người là trụ cột của điện ảnh Mỹ như Ed Wood hay Roger Corman (người đã phát hiện và đưa Francis Ford Coppola, Martin Scorsese hay Peter Jackson trở thành các đạo diễn nổi tiếng).
Bước tiến mới nhất của điện ảnh vào cuối thế kỷ 20 là sự áp dụng kỹ thuật số vào điện ảnh, từ việc sử dụng các máy quay kỹ thuật số thay cho các máy quay phim truyền thống, cho đến việc dàn dựng các kỹ xảo điện ảnh và âm thanh trên máy tính. Việc lưu trữ phim cũng chuyển sang sử dụng ổ cứng máy tính thay cho các cuộn phim như trước kia. Phim có hình ảnh lập thể 3D cũng bắt đầu xuất hiện.
Có rất nhiều cơ sở để phân loại phim, đơn giản như phân loại theo quốc gia sản xuất, theo đạo diễn, theo diễn viên, tiêu đề... Nhưng thông thường người ta phân loại theo thể loại phim, dòng phim, độ dài và kỹ thuật thực hiện.
Đây là cách phân loại ban đầu của các bộ phim, khi đó phim được phân loại theo chiều dài của cuộn phim được trình chiếu. Có thể phân biệt các bộ phim thành:
Điện ảnh cũng có thể được phân loại theo các thể loại tùy theo ý đồ nghệ thuật của biên kịch và đạo diễn khi thực hiện phim. Một bộ phim có thể được đặt vào nhiều thể loai khác nhau tùy theo cách phân tích, ví dụ như phim khoa học giả tưởng, phim hài, phim kinh dị, phim hình sự, phim chiến tranh, phim ca nhạc, phim trinh thám, phim hành động, phim thần thoại... Một ví dụ là bộ phim nổi tiếng "Sự im lặng của bầy cừu" ("The Silence of the Lambs", đoạt 5 Giải Oscar quan trọng nhất năm 1991) có thể coi là một phim kinh dị hoặc một phim hình sự.
Thể loại phim cũng có thể dựa trên tư tưởng nghệ thuật của các bộ phim. Theo đó ta có phim thuộc trào lưu Làn sóng mới ("Nouvelle Vague") của điện ảnh Pháp, phim theo chủ nghĩa Hiện thực mới ("neorealism") của điện ảnh Ý..
Một bộ phim có thể phân loại theo kỹ thuật thực hiện.
Phân loại phim của Việt Nam
"theo thông tư 12/2015/TT-BVHTTDL:"
Lạ P: Cấm phổ biến tới các đối tượng khán giả dưới 13 tuổi, gồm các phim với nội dung, ngôn từ gây ảnh hưởng đến tâm lý ư duy, đạo đ của trẻ dưới 13 tuổi.C 13
Phân loại phim theo Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ (MPAA)
"đây là bảng phân loại phổ biến và được biết nhiều nhất trên thế giới vì phạm vi ảnh hưởng của các bộ phim Hollywood."
Việc thực hiện một bộ phim tùy thuộc rất nhiều vào thể loại phim, dòng phim, ý đồ nghệ thuật hoặc thương mại của biên kịch, đạo diễn và nhà sản xuất. Tuy vậy quá trình làm phim cũng có thể chia làm năm công đoạn chính:
Các công đoạn kể trên được thực hiện bởi một đội ngũ làm phim bao gồm các vị trí chính sau:
Phê bình điện ảnh là quá trình phân tích và đánh giá chất lượng các sản phẩm điện ảnh. Công việc này thường do các nhà phê bình phim chuyên nghiệp hoặc các nhà báo chuyên về điện ảnh thực hiện. Các bài phê bình có thể được giới thiệu trên báo, tạp chí hoặc các phương tiện truyền thông khác sau khi các nhà phê bình và nhà báo xem buổi chiếu thử. Ý kiến phê bình các bộ phim mới sẽ có ảnh hưởng lớn tới thị hiếu của công chúng. Thông thường các bộ phim được giới phê bình ca ngợi sẽ thu hút nhiều khán giả hoặc ngược lại. Tuy nhiên điều này không phải bao giờ cũng đúng, đôi khi các bài phê bình lại có tác dụng ngược lại, người xem có thể lại hào hứng mua vé các bộ phim bị giới phê bình chỉ trích kịch liệt hoặc hờ hững với những bộ phim nghệ thuật được giới phê bình ca ngợi.
Một cách đánh giá chất lượng phim khác là thông qua các giải thưởng điện ảnh và liên hoan phim.
Giải thưởng điện ảnh được trao bởi các hội nghề nghiệp liên quan đến điện ảnh (thường là Viện hàn lâm nghệ thuật điện ảnh hoặc Hội Điện ảnh) bằng việc bỏ phiếu kín để chọn ra những người xứng đáng. Giải thưởng điện ảnh nổi tiếng nhất thế giới có lẽ là Giải Oscar được trao bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh ("Academy of Motion Picture Arts and Sciences", viết tắt là "AMPAS") (Hoa Kỳ). Ngoài ra hầu như các nền điện ảnh phát triển đều có giải thưởng điện ảnh khá uy tín, ví dụ ở Pháp là Giải César, ở Hồng Kông là Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông.
Bên cạnh các giải thưởng điện ảnh, một số tổ chức còn đứng ra mở các liên hoan phim, trong đó các bộ phim mới được chiếu giới thiệu và một ban giám khảo được lập ra để đánh giá các tác phẩm dự giải. Trong số các liên hoan phim phải kể tới Liên hoan phim Cannes (Pháp), Liên hoan phim Berlin (Đức), Liên hoan phim Venezia (Ý) và Liên hoan phim Sundance (Mỹ).
Ngay sau khi ra đời, việc thực hiện và trình chiếu các bộ phim đã trở thành một lĩnh vực giải trí mang lại rất nhiều lợi nhuận. Anh em nhà Lumière khi khai sinh ra nền điện ảnh hiện đại cũng đã đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp điện ảnh khi tiến hành thu tiền khán giả vào xem những bộ phim đầu tiên của hai người ở "Grand Café". Các hãng phim cũng được thành lập ngày một nhiều còn các diễn viên điện ảnh thì nhanh chóng trở thành các ngôi sao với rất nhiều người hâm mộ. Năm 1917, vua hề Charlie Chaplin đã được ký hợp đồng với mức lương kỷ lục thời đó là 1 triệu USD một năm.
Hiện nay cũng giống như nhiều lĩnh vực khác, Hoa Kỳ là quốc gia có nền công nghiệp điện ảnh phát triển nhất với kinh đô của nó ở Hollywood thuộc tiểu bang California. Một bộ phim Hollywood có thể được đầu tư tới 200 triệu USD để rồi thu về gần 2 tỷ USD như "Titanic". Tuy nhiên khu vực sản xuất nhiều phim nhất phải kể tới Mumbai, kinh đô Bollywood của Ấn Độ.
Hiện nay Hollywood có 5 hãng phim lớn, nơi cho ra đời hầu hết các bộ phim kinh phí lớn của điện ảnh Mỹ. Đó là các hãng:
Ở Hollywood cũng còn một số hãng phim độc lập như Lionsgate Films, Metro-Goldwyn-Mayer Pictures hay Amblin Entertainment của Steven Spielberg.
Ở các thị trường phim lớn khác, các hãng phim thường có quy mô nhỏ hớn và các bộ phim vì thế cũng có kinh phí đầu tư thấp hơn nhiều so với các tác phẩm của Hollywood. Ở Pháp có thể kể tới Canal+, Pathé hoặc Gaumont (hãng phim lâu đời nhất thế giới còn hoạt động). Còn hai hãng lớn ở Hồng Kông là Thiệu Thị và Gia Hòa. Ở Ấn Độ cũng có một nền công nghiệp điện ảnh phát triển với tên gọi Bollywood.
Trong giai đoạn đầu, sau khi được sản xuất, các bộ phim thường được chiếu trong các rạp hát (để tiện cho việc bố trí dàn nhạc công tạo âm thanh cho phim). Rạp chiếu phim thực sự đầu tien được xây dựng tại Pittsburgh thuộc tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ năm 1905. Chỉ vài năm sau đó, hàng nghìn rạp chiếu tương tự được ra đời từ việc cải tạo lại các rạp hát có sẵn. Những rạp loại này tại Mỹ thường được gọi là một "nickelodeon", xuất phát từ việc vé vào xem thường có giá 1 "nickel" (tương đương 5 xu).
Hiện nay khi mua vé vào rạp khán giả thường chỉ xem một phim, nhưng trước thập niên 1970, thường một buổi chiếu bao gồm hai phim, một phim chất lượng và kinh phí cao (phim loại A – "A movie") và một phim chất lượng thấp hơn (phim loại B – "B movie"). Thay thế cho các phim loại B, hiện nay người ta sẽ chiếu các đoạn quảng cáo ngắn hoặc các đoạn giới thiệu ("trailer") về các phim sắp phát hành.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các rạp chiếu phải cạnh tranh quyết liệt với truyền hình vốn dễ dàng đưa các bộ phim đến số lượng công chúng lớn hơn nhiều. Sự phát triển các phương tiện lưu trữ thông tin như băng từ VHS, CD và DVD cũng làm nhiều người không đến rạp để thưởng thức phim mới mà họ mua hoặc thuê các CD, DVD phim này về nhà. Mới đây nhất, Internet đã trở thành công cụ trao đổi phim ảnh (cả hợp pháp và bất hợp pháp) cực kì tiện lợi khiến cho các rạp chiếu phim ngày càng gặp nhiều đối thủ trên lĩnh vực thu hút khán giả. Theo một nghiên cứu năm 2000 của ngân hàng ABN AMRO thì chỉ có 26% thu nhập của các hãng phim Hollywood đến từ tiền bán vé xem ở rạp, 46% đến từ việc bán và cho thuê băng đĩa và 28% đến từ truyền hình.
|
6030 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6030 | Báo đen | Báo đen hay hắc báo hay còn gọi là beo là một dạng biến dị di truyền xảy ra đối với một vài loài mèo lớn. Các cá thể này có màu đen do mang đột biến gen liên quan đến quá trình chuyển hóa melanin. Biến dị này sẽ có thể đem lại một vài ưu thế chọn lọc cho các cá thể sinh sống trong những khu vực có mật độ rừng dày dặc, mức chiếu sáng rất thấp. Đây không phải là một loài riêng vì không có sự cách ly giao phối với các nhóm khác. Trong một lứa của cặp báo bố mẹ bình thường có thể sinh ra các cá thể mang và không mang đột biến. Biến dị này phổ biến ở báo đốm ("Panthera onca") và báo hoa mai ("Panthera pardus").
|
6033 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6033 | Báo sư tử | Báo sư tử ("Puma concolor") hay báo cuga (tiếng Anh: Cougar) là một loài mèo lớn trong Họ Mèo phân bố ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Phạm vi của nó kéo dài từ Yukon ở Canada đến miền nam Andes ở Nam Mỹ, và loài được phân bó rộng nhất trong số các động vật có vú lớn sống trên cạn ở Tây bán cầu. Đây là một loài thích nghi, nói chung, có thể xuất hiện ở hầu hết các loại môi trường sống của châu Mỹ. Do phạm vi sinh sống rộng, chúng còn có nhiều tên như puma, sư tử núi, hổ đỏ và catamount. Ở Mỹ, "báo" được dùng để chỉ tới báo sư tử, mặc dù thuật ngữ "báo đen" thông thường là chỉ tới các biến thể nhiễm hắc tố của báo hoa mai hay báo đốm Mỹ thay vì báo sư tử.
Nói chung, báo sư tử có họ hàng gần với báo hoa mai hơn là sư tử. Có một sự biến đổi đáng kể về màu sắc và kích thước của các con báo sư tử trong khu vực sinh sống của chúng. Chúng là loài họ mèo nặng thứ hai ở Tân Thế giới sau báo đốm Mỹ. Với lối sống khá kín đáo và phần lớn là đơn độc, báo sư tử chủ yếu hoạt động về đêm và lúc chạng vạng, mặc dù chúng cũng được nhìn thấy vào ban ngày. Báo sư tử có liên quan chặt chẽ hơn với những con mèo nhỏ hơn, bao gồm cả mèo nhà (phân họ Felinae), so với bất kỳ loài nào thuộc phân họ Báo, trong đó chỉ có loài báo đốm còn tồn tại ở châu Mỹ.
Báo sư tử là một kẻ săn mồi mai phục nhiều loại con mồi. Nguồn thức ăn chính là các động vật móng guốc, đặc biệt là hươu. Chúng cũng săn các loài động vật nhỏ như côn trùng và các loài gặm nhấm. Loài mèo này thích môi trường sống với lớp bụi rậm dày đặc và các khu vực nhiều đá để rình rập, nhưng cũng có thể sống ở các khu vực mở. Báo sư tử có lãnh thổ và tồn tại với mật độ quần thể thấp. Kích thước lãnh thổ riêng lẻ phụ thuộc vào địa hình, thảm thực vật và sự phong phú của con mồi. Mặc dù có kích thước lớn, chúng không phải lúc nào cũng là động vật ăn thịt đầu bảng trong phạm vi của mình do thường phải nhường lại con mồi đã săn được cho những con báo đốm đơn độc, gấu đen Bắc Mỹ và gấu xám Bắc Mỹ, cá sấu mõm ngắn Mỹ (chủ yếu là loài săn báo Florida) và cho những nhóm sói xám. Chúng sống ẩn dật và chủ yếu là tránh người. Các cuộc tấn công gây tử vong cho con người là rất hiếm, nhưng gần đây đang gia tăng ở Bắc Mỹ khi ngày càng có nhiều người vào các vùng lãnh thổ và xây dựng các khu phát triển như trang trại trong lãnh thổ đã thành lập của chúng.
Săn bắn ráo riết sau khi châu Âu xâm chiếm châu Mỹ và sự phát triển liên tục của con người vào môi trường sống của loài báo sư tử đã khiến cho quần thể giảm ở hầu hết các khu vực trong phạm vi lịch sử của nó. Đặc biệt, báo sư tử Bắc Mỹ được coi là đã bị tuyệt chủng cục bộ ở miền đông Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 20, ngoại trừ tiểu quần thể báo Florida bị cô lập. Những con đực thoáng qua đã được xác định ở Minnesota, Missouri, Iowa, Michigan, Indiana, và Illinois (nơi một con báo bị bắn ở giới hạn thành phố Chicago), và trong ít nhất một trường hợp, chúng được quan sát thấy ở phía đông như dãy núi Adirondack ở ngoại ô bang New York và ven bờ biển Connecticut. Các báo cáo về loài báo sư tử phương Đông vẫn xuất hiện thường xuyên ở Đông Hoa Kỳ, mặc dù nó đã được tuyên bố tuyệt chủng vào năm 2011. Tuy nhiên, nhiều người đã suy đoán và tin rằng báo sư tử phương Tây đang tái tổ hợp phạm vi trước đây của báo sư tử phương Đông ở Đông Bắc Hoa Kỳ, và ngày càng có nhiều bằng chứng ủng hộ một số lượng nhỏ báo sư tử phương Tây đang phát triển ở các bang Đông và Đông Bắc, chủ yếu là các báo sư tử di cư từ Trung Tây Hoa Kỳ, mặc dù cũng có thể từ Canada. Vào tháng 4 năm 1997, một người theo dõi có kinh nghiệm tên là John McCarter đã tìm thấy xác chết của một con hải ly với đống phân gần đó trong Hồ chứa Quabbin ở Massachusetts. Phân đã được thử nghiệm tích cực như là từ một con sư tử núi. Vào tháng 3 năm 2011, Steve Ward, một người đi rừng DCR ở bang Massachusetts, đã chụp ảnh các dấu vết trong Hồ chứa Quabbin. Các dấu vết được cho là do cùng một con sư tử núi được nhìn thấy ở Minnesota, Michigan, ngoại ô New York và Connecticut, trước khi bị một chiếc SUV đâm chết ở Connecticut trên đường cao tốc cùng năm. Con vật được cho là có nguồn gốc từ Black Hills ở Nam Dakota. Sư tử núi được ghi nhận tốt ở bang Wisconsin, với một số lần nhìn thấy được xác nhận với bằng chứng hình ảnh và video gần đây là vào ngày 13 tháng 8 năm 2019, với nhiều lần nhìn thấy khác vào đầu năm đó và trong năm trước của năm 2018.
Từ "cougar" được mượn từ "çuçuarana" trong tiếng Bồ Đào Nha, thông qua tiếng Pháp; ban đầu nó bắt nguồn từ ngôn ngữ Tupi. Một hình thức hiện tại ở Brazil là "suçuarana". Vào thế kỷ 17, Georg Marcgrave đã đặt tên cho nó là "cuguacu ara". Kết xuất của Marcgrave được sao chép vào năm 1648 bởi cộng sự Willem Piso. "Cuguacu ara" sau đó được John Ray nhận nuôi năm 1693. Năm 1774, Georges-Louis Leclerc, Bá tước của Buffon đã chuyển đổi "cuguacu ara" thành "cuguar", sau này được sửa đổi thành "cougar" trong tiếng Anh.
Puma là tên phổ biến của nó được sử dụng ở các quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha - các nước Mỹ Latinh, ở nhiều nước châu Âu cũng như ở Hoa Kỳ. Việc sử dụng 'puma' đầu tiên trong tiếng Anh có từ năm 1777, được giới thiệu từ tiếng Tây Ban Nha và trước nhóm ngôn ngữ Quechua của Peru vào thế kỷ 16, trong đó có nghĩa là "hùng mạnh".
Ở Hoa Kỳ và Canada, nó còn được gọi là sư tử núi. Sư tử núi là một cái tên được sử dụng đầu tiên bằng văn bản vào năm 1858. Các tên khác bao gồm "panther", "painter" và "catamount". Những nhà thám hiểm Tây Ban Nha đầu tiên của châu Mỹ gọi nó là "gato monte" có nghĩa là con mèo của núi và 'leon' có nghĩa là sư tử.
Báo sư tử giữ kỷ lục Guinness cho con vật có số lượng tên nhiều nhất, chỉ riêng với hơn 40 tiếng Anh.
"Báo Florida" là một nòi hiếm của báo sư tử sống gần đầm lầy miền nam Florida ở Mỹ, đặc biệt là ở Everglades. Hiện tại ở Florida đang có những cố gắng lớn để duy trì và bảo vệ quần thể còn lại của loài báo địa phương, do số lượng của chúng là rất ít.
"Felis concolor" là danh pháp hai phần được Carl Linnaeus đề xuất vào năm 1771 cho một con mèo có đuôi dài từ Brasilia. Nó được đặt trong chi Báo sư tử bởi William Jardine vào năm 1834. Chi này là một phần của họ Mèo. Báo sư tử có liên quan chặt chẽ nhất với loài báo đốm Mỹ, cũng như loài báo săn ở châu Phi và Tây Á.
Theo mô tả khoa học đầu tiên của Linnaeus về báo sư tử, 32 mẫu vật động vật học của chúng đã được mô tả và đề xuất như là phân loài cho đến cuối những năm 1980. Phân tích di truyền của DNA ty thể cho thấy nhiều trong số này quá giống nhau ở cấp độ phân tử để được công nhận là khác biệt, nhưng chỉ có sáu nhóm tồn tại. Các mẫu con báo Florida cho thấy một biến thể kính hiển vi thấp, có thể là do giao phối cận huyết. Sau nghiên cứu này, các tác giả của các loài động vật có vú trên thế giới đã công nhận sáu phân loài sau đây vào năm 2005:
Năm 2006, báo đốm Florida vẫn được gọi là một phân loài riêng biệt P. c. coryi trong công trình nghiên cứu.
Kể từ năm 2017, Lực lượng đặc nhiệm phân loại mèo của Nhóm chuyên gia mèo chỉ công nhận hai phân loài là hợp lệ:
Họ Mèo được cho là có nguồn gốc từ châu Á khoảng 11 triệu năm trước. Nghiên cứu phân loại trên felids vẫn là một phần, và phần lớn những gì được biết về lịch sử tiến hóa của chúng dựa trên phân tích DNA ty thể. Khoảng tin cậy đáng kể tồn tại với ngày đề xuất. Trong nghiên cứu bộ gen mới nhất của Felidae, tổ tiên chung của Chi Gấm, Chi Linh miêu, Chi Báo sư tử, Chi Mèo báo và Chi Mèo đã di cư qua Beringia vào châu Mỹ từ 8,0 đến 8,5 triệu năm trước (Mya). Các dòng dõi sau đó chuyển hướng theo thứ tự đó. Các felids Bắc Mỹ sau đó đã xâm chiếm Nam Mỹ 2-4 triệu năm trước như một phần của Giao lộ vĩ đại của Mỹ, sau khi hình thành eo đất Panama, nhưng mối quan hệ không được giải quyết. Dòng dõi báo săn được đề xuất bởi một số nghiên cứu đã tách khỏi dòng dõi báo sư tử ở châu Mỹ (xem báo săn châu Mỹ) và di cư trở lại châu Á và châu Phi, trong khi nghiên cứu khác cho thấy loài báo đã chuyển hướng ở Cựu Thế giới. Một mức độ tương tự di truyền cao đã được tìm thấy trong các quần thể báo sư tử Bắc Mỹ, cho thấy chúng đều là hậu duệ khá gần đây của một nhóm tổ tiên nhỏ. Culver et al. đề xuất quần thể P. concolor gốc ở Bắc Mỹ đã bị tuyệt chủng trong sự kiện tuyệt chủng kỷ Đệ Tứ khoảng 10.000 năm trước, khi các động vật có vú lớn khác, như hổ răng kiếm, cũng biến mất. Bắc Mỹ sau đó được phục hồi bởi một nhóm các báo sư tử Nam Mỹ.
Loài báo đốm, được biết đến như là họ hàng gần nhất của loài báo sư tử, trước đây được đặt trong cùng một chi, chi Báo sư tử. Bây giờ nó thường được đặt trong chi mèo cây châu Mỹ.
Một mảnh phân hóa thạch được xác định là từ một loài báo sư tử đã được khai quật ở tỉnh Catamarca của Argentina và có niên đại từ 17002-16573 năm tuổi. Nó chứa trứng Toxascaris leonina. Phát hiện này chỉ ra rằng báo sư tử và ký sinh trùng tồn tại ở Nam Mỹ kể từ ít nhất là kỷ Pleistocen muộn.
Trước khi có sự khai thác của con người vào châu Mỹ, báo sư tử phân bổ dọc theo châu Mỹ. Thậm chí ngày nay chúng vẫn còn là loài phân bổ rộng nhất trong số các loài động vật trên cạn của Tân thế giới, chiếm 110 độ tính theo vĩ độ, từ miền bắc British Columbia (ở Canada) tới nam Andes (ở cả hai phần thuộc Chile và Argentina).
Việc săn bắn đã gần như làm tuyệt chủng ở Mỹ, nhưng báo sư tử đã trở lại một cách đầy ấn tượng, với số lượng ước tính khoảng 30.000 cá thể ở miền tây nước Mỹ. Tại Canada, báo sư tử được tìm thấy ở miền tây các đồng cỏ ở Alberta và British Columbia.
Báo sư tử đang mở rộng lãnh địa của chúng tới miền đông, dọc theo các lạch và bờ sông, và đã đến tới Missouri và Michigan. Người ta cho rằng chúng sẽ mở rộng lãnh địa này tới toàn bộ miền đông và nam nước Mỹ trong thời gian tới. Có một số các báo cáo về sự tồn tại của báo cu ga miền đông còn sót lại ở New Brunswick và đồng bằng Gaspé ở Quebec.
Vì sự đô thị hóa trong những khu tiếp giáp đô thị-đất hoang nên báo sư tử thông thường hay va chạm với con người, đặc biệt ở những khu với quần thể lớn của nai, con mồi tự nhiên của chúng. Chúng cũng đi săn các con vật nuôi như chó hay mèo, và gia súc, nhưng chúng lại không phải là nguồn thức ăn của con người.
Ước tính có khoảng 4.000 đến 6.000 báo sư tử ở California và khoảng 4.500 đến 5.000 ở Colorado.
Báo sư tử có màu nâu với tai và đuôi màu đen. Chúng có thể chạy với vận tốc 50 km/h (30 mph), nhảy xa 6 m (20 ft) từ vị trí đứng, nhảy cao 2,5 m (8 ft), và thông thường cân nặng tới 70 kg (150 lb). Sức mạnh của cú cắn của chúng mạnh hơn của chó nhà. Vuốt của chúng có thể co giãn và có 4 ngón. Con đực trưởng thành dài hơn 2,5 m (từ mũi đến đuôi), và cân nặng 70 kg. Trong một số trường hợp, con đực có thể nặng tới 90 kg (200 lb). Con cái trưởng thành dài tới 2 m (7 ft) và cân nặng 35 kg (75 lb). Con non có các đốm màu đen-nâu và vòng trên đuôi. Chúng sống tới 10 năm trong tự nhiên và 25 năm hay hơn nữa trong điều kiện bị giam cầm.
Báo sư tử sống gần xích đạo là có kích thước nhỏ nhất, và kích thước của chúng tăng lên trong các quần thể gần hai cực.
Báo sư tử thông thường săn các loài thú có vú lớn, như nai, nai anxét, nhưng cũng ăn thịt các loài thú nhỏ như hải ly, nhím hay chuột, nếu bị đói. Chúng đi săn đơn lẻ và phục kích con mồi, thông thường là từ phía sau. Chúng giết chết con mồi bằng cú cắn vào gáy để làm gãy cổ đối phương. Xác con mồi thông thường sau đó bị cất giấu hoặc che phủ một phần để bảo vệ chúng trong vài ngày, trong khi báo sư tử đi lang thang và sẽ quay lại để ăn tiếp khi đói. Con đực trưởng thành thường chiếm tới 250 km² (100 dặm²) lãnh thổ; con cái trưởng thành trung bình là 50 – 150 km² (20 - 60 dặm²); tuy nhiên diện tích này có thể dao động từ 25 km² (10 dặm²) tới 1.000 km² (370 dặm²).
Dựa theo một báo cáo vào ngày 11 tháng 10 năm 2017 của Mark Elbrok -nhà khoa học đứng đầu của Puma Program tại Panthera : "["cougars] is a secretive animal with a complex social system completely built on reciprocity."" Theo báo cáo, Elbrok chỉ muốn biết rằng thức ăn của những con báo sư tử tại Hệ sinh thái Yellowstonelà gì, và việc phát hiện một cấu trúc xã hội hoàn toàn là một sự tình cờ. Đầu năm 2012, Elbrok khi xem lại các camera đã phát hiện được cảnh một con báo cái đang tiến gần tới xác chết một con nai sừng xám đã bị giết bởi một con báo cái khác. Hai con vật thể hiện những hành vi thù địch, nhưng cuối cùng, con báo đực cái kia đã nhường lại thức ăn cho kẻ mới đến. Và, sự chia sẻ này không phải là một sự tình cờ; hai con báo đã đồng hành cùng nhau trong suốt một ngày rưỡi. Và, dựa trên sự thu thập các mẫu gen, hai con báo này không hề có sự liên hệ về mặt di truyền. Có thể nói. camera của Elbrok đã ghi lại tình bạn đầu tiên được phát hiện trong khoa hoạc giữa hai con báo.
Video này có thể được xem ở đây, do lí do bản quyền nên trang web của National Geographic sẽ được dẫn trực tiếp: https://www.nationalgeographic.com/news/2017/10/pumas-mountain-lions-cougars-society-social-cats-animals/
Elbrok tưởng rằng việc hai con báo gặp nhau như trên là một điều cực kì hiếm, nhưng từ 2012 đến 2015, các camera của Elbrok đã ghi lại hơn 118 sự tương tác giữa hai con báo khác nhau, và hơn 60% những lần bắt gặp này đều xảy ra ở "kill sites-."hiện trường săn mồi.
Con đực có thể giao phối với vài con cái. Báo sư tử cái thông thường đẻ 3 hay bốn con trong hang ở những vùng núi đá. Nếu một con đực xâm chiếm được lãnh thổ của một con đực khác, nó có thể giết chết các con non của các báo cái trong vùng đó để chúng nhanh chóng có thể quay trở lại thời kỳ động dục.
Tấn công lên con người thì rất ít, nhưng có thể xảy ra - đặc biệt khi con người xâm lấn các vùng đất hoang và tác động tới nguồn thức ăn của chúng. Đã có khoảng 100 vụ tấn công của báo sư tử đối với con người ở Mỹ và Canada trong giai đoạn từ năm 1890 đến tháng 1 năm 2004, với 16 người tử vong; các con số cho California là 14 vụ và 6 người chết. Sự tấn công của báo sư tử lên con người và vật nuôi gắn với các khu vực dân cư nằm ở các khu vực pha trộn đất đô thị-đất hoang như khu vực Boulder, Colorado là nơi có các con mồi truyền thống của báo sư tử, như nai tai la ("Odocoileus hermionus") đã quen sống gần khu vực dân cư và các vật nuôi. Báo sư tử trong những hoàn cảnh đó có thể không sợ con người và chó nữa và coi đây cũng là con mồi của chúng.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2004 báo sư tử đã giết và ăn một phần xác một người đi xe đạp trên núi ở công viên Whiting Ranch Wilderness thuộc quận Cam, California; và được coi là tấn công lên một người khác ngày hôm sau tại công viên này, nhưng người này đã được cứu thoát bởi một người đi xe đạp khác. Sau đó con báo sư tử đực trẻ này đã bị bắn hạ gần khu vực đó trong cùng ngày.
Các lời khuyên an toàn này được đưa ra bởi "California Department of Fish and Game" và biên soạn lại cho "Orange County Register" bởi M. Doss:
|
6034 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6034 | Phim băng đĩa | Phim băng đĩa là phim điện ảnh hay phim nhựa được chuyển qua băng hoặc đĩa VCD hay DVD để phát hành rộng rãi ngoài hệ thống các rạp xinê.
Phim băng đĩa còn là loại phim được ghi hình quay phim lên vật liệu băng video hoặc đĩa kỹ thuật số, sau đó nhân bản, phổ biến qua băng hoặc đĩa hình.
|
6040 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6040 | Báo gấm | Báo gấm ("Neofelis nebulosa") hay báo mây, (tiếng Anh: Clouded Leopard) là một loài mèo cỡ trung bình trong Họ Mèo, toàn thân dài 60 tới 110 cm (2' - 3'6") và cân nặng khoảng 11 – 20 kg (25 lbs 4oz - 44 lbs). Lông chúng màu nâu hay hung, điểm "hoa" elip lớn, hình dạng không đều, gờ màu sẫm trông giống như đám mây, vì thế tên khoa học và một số tiếng nước ngoài đều nhắc tới "mây". Chúng phân bố từ chân đồi Himalaya qua đất liền Đông Nam Á vào miền nam Trung Quốc. Kể từ năm 2008, chúng được liệt kê là "dễ bị tổn thương" trong sách đỏ IUCN. Tổng số lượng cá thể trưởng thành nghi ngờ là ít hơn 10.000, với xu hướng đang giảm về số lượng.
Chúng cũng được gọi là báo gấm đất liền để phân biệt với loài báo gấm Sunda ("N. diardi") trên đảo Borneo và Sumatra. Báo gấm là biểu tượng của bang Meghalaya ở Ấn Độ.
Báo gấm có thân hình săn chắc và cân đối, có răng nanh thuộc loại nanh dài nhất trong số các loài mèo hiện còn tồn tại. Điều này dẫn đến giả thuyết là chúng săn bắt những động vật có vú lớn sống trên mặt đất. Mặc dù tập tính của loài báo trong thiên nhiên vẫn chưa rõ, báo mây chủ yếu săn bắt các loài động vật có vú sống trên cây, cụ thể là vượn, khỉ đuôi lợn hay khỉ Proboscis, phụ thêm vào là các động vật có vú khác như nai, nhím hay chim chóc và gia súc.
Vì nguồn thức ăn chủ yếu là các động vật sống trên cây, báo gấm giỏi leo trèo. Với bốn chân ngắn và khỏe, lòng bàn chân rộng với đủ móng vuốt sắc đều nhau, tài leo cây của báo mây khó ai bì. Để giữ thăng bằng khi trên tàn cây cao, báo mây có cái đuôi với chiều dài xấp xỉ bằng cả thân. Đáng ngạc nhiên là chúng có thể di chuyển khi treo mình lộn ngược đầu xuống, phía dưới các cành cây và các thân cây nghiêng.
Chúng sống ở các khu vực miền nam Trung Quốc, phía đông dãy Himalaya cho đến tận khu vực Đông Nam Á cũng như quần đảo Indonesia. Người ta cho rằng chúng đã bị tuyệt chủng ở Đài Loan. Các khu vực sinh sống ưa thích là các cánh rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới với cao độ lên tới 2.000 mét (6.500 ft), tuy nhiên đôi khi người ta cũng nhìn thấy chúng ven các đầm lầy có đước mọc hay đồng cỏ. Hiện có 4 nòi khác nhau được thông báo là có trong các khu vực khác nhau:
Báo gấm sống trên cây, và có sự nhanh nhẹn giống như sóc tương tự như mèo rừng Nam Mỹ. Trước đây, báo gấm còn sống phổ biến ở nhiều nước thuộc châu Á, giờ đây trong điều kiện bị giam cầm, báo gấm có thói quen treo mình bằng hai chân sau và cái đuôi dài đu đưa để giữ cân bằng, treo ngược đầu xuống trên thân cây, giờ còn rất ít. Người ta biết rất ít về tập tính của chúng trong tự nhiên, nhưng giả thiết rằng chúng là những con thú sống chủ yếu trên cây và thích săn mồi theo cách chộp con mồi bằng cách nhảy từ trên cây xuống.
Nơi cư trú của chúng cũng không được biết nhiều vì bản chất bí mật của chúng. Vì không có chứng cứ về thói quen tạo bầy đàn như sư tử, người ta cho rằng chúng sống cô độc. Có lẽ chúng chỉ tiếp cận với những con báo gấm khác khi tham gia vào các hoạt động sinh sản hay nuôi con nhỏ. Trước đây, người ta cho rằng chúng chỉ hoạt động về đêm, nhưng hiện nay người ta đã thấy chúng đi lại kể cả ban ngày.
Báo gấm cái đẻ một lần từ 1 tới năm con non sau khi mang thai khoảng 85 đến 93 ngày. Các con non yếu ớt và chưa mở mắt, giống như con non của các loài mèo khác. Không giống như con đã trưởng thành, các đốm của con non có màu sẫm. Sau khi sinh khoảng 10 ngày, chúng có thể nhìn được và hoạt động được sau khoảng 5 tuần, có thể sau khoảng 10 tháng tuổi thì chúng trở thành các cá thể độc lập. Báo gấm đạt đến độ tuổi sinh sản sau 2 năm và con cái có thể mang thai mỗi năm một lần. Báo gấm bị giam cầm có thể sống tới 17 năm: trong tự nhiên, chúng có thể có tuổi thọ thấp hơn. Các thông số này cho hy vọng rằng báo gấm có thể tăng trưởng về mặt số lượng nếu có sự quản lý tốt.
Mặc cho các thông số trên, trong giai đoạn đầu của chương trình sinh sản trong điều kiện giam cầm đã thu được thành tựu nhỏ nhoi, chủ yếu là do con cái hay bị những con đực hung dữ giết chết. Tuy nhiên, kinh nghiệm của những người nuôi báo gấm cho thấy các cặp báo gấm được cho gần gũi trong giai đoạn sớm thì đạt được kết quả khả quan trong giao phối.
Vì rất khó xác định nơi cư trú của báo gấm, các ước tính tin cậy về số lượng báo gấm là không có. Nơi cư trú bị thu hẹp chủ yếu là do sự tàn phá rừng nặng nề cũng như việc săn bắn để làm thuốc theo y học cổ truyền. Điều này làm suy giảm số lượng báo gấm.
CITES, tức "Hiệp ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã đang gặp nguy hiểm", đưa báo gấm vào các loài của phụ lục I. Điều này có nghĩa là báo gấm nằm trong số các loài đang gặp nguy hiểm nhất. Hiệp ước cấm buôn bán quốc tế các loài thuộc phụ lục I, trừ những trường hợp đơn lẻ như nghiên cứu khoa học. Nước Mỹ cũng đưa báo gấm vào trong "Chứng thư các loài đang gặp nguy hiểm", nhằm ngăn chặn việc buôn bán báo gấm hay các bộ phận cơ thể chúng. Trong các quốc gia có báo gấm sinh sống thì việc săn báo gấm cũng bị cấm, nhưng các biện pháp này có lẽ chưa đem lại hiệu quả đáng kể.
|
6043 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6043 | München | München (; ; ) là thủ phủ của tiểu bang Bayern, là thành phố lớn thứ ba của Đức sau Berlin và Hamburg và là một trong những trung tâm kinh tế, giao thông và văn hóa quan trọng nhất của Cộng hòa Liên bang Đức.
München được nhắc đến trong các văn kiện lần đầu tiên vào năm 1158 khi Heinrich Sư tử ("Heinrich der Löwe") cho xây một cầu mới qua sông Isar gần các đảo sông Isar vào khoảng chỗ cầu Ludwig ("Ludwigsbrücke") ngày nay và phá hủy chiếc cầu đang tồn tại của Giám mục Freising gần Unterföhring nhằm để thu thuế qua việc buôn bán muối. Nhờ chiếc cầu này và qua đó là việc buôn bán muối, München nhận được quyền họp chợ, quyền phát hành tiền và quyền thu thuế do hoàng đế Friedrich I Barbarossa ban cho.
Mặc dầu trở thành nơi cư ngụ của hoàng đế từ năm 1328, München chỉ bắt đầu vươn lên trở thành thành phố lớn 450 năm sau đó. Vào cuối thế kỷ thứ 18 München bắt đầu phát triển nhanh chóng và từ năm 1806 tốc độ phát triển càng được gia tăng khi München trở thành thủ đô của Vương quốc Bayern. Nếu như thành phố München chỉ có 24.000 người vào năm 1700 thì sau đó dân số cứ tăng lên gấp đôi 30 năm một lần, năm 1871 đã có 170.000 người và năm 1933 đã có 840.000 người cư ngụ ở München.
Dưới quyền của vua Ludwig I München trở thành một thành phố nghệ thuật nổi tiếng. Leo von Klenze và Friedrich von Gärtner đã thiết kế nhiều công trình như đường Ludwig ("Ludwigstraße"), Quảng trường hoàng gia ("Königsplatz") và dinh thự cú vua.
Vào thời của Hoàng tử nhiếp chính Luitpold von Bayern München đã trải qua một giai đoạn phát triển nhanh chóng cả về nghệ thuật lẫn về kinh tế. Ngoài những công trình khác, đường Hoàng tử nhiếp chính ("Prinzregentstraße") và nhà hát Hoàng tử nhiếp chính ("Prinzregenttheater") cùng được xây dựng trong thời gian này. Vào lúc giao thời giữa hai thế kỷ, khu vực Schwabing đã trở thành khu phố của các nhà nghệ thuật, nơi lui tới của nhiều nhà văn và họa sĩ. Tên của tờ báo nghệ thuật ở München "Die Jugend" ("Thời thanh niên"), phát hành lần đầu tiên vào năm 1896, đã trở thành tên cho thời kỳ Tân nghệ thuật trong tiếng Đức ("Jugendstil", tiếng Pháp: "l'art nouveau").
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cuộc Cách mạng cộng sản cũng thất bại ở München (xem: Cộng hòa hội đồng München) và trong những năm sau đó München đã dần dần trở thành "thủ đô" của phong trào Hitler. Thành phố München cũng như đa số các thành phố lớn của Đức đã phải trả giá cho việc này bằng các tàn phá rộng lớn qua các lần oanh tạc trên diện tích rộng của quân đội Đồng minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Sau khi được tái xây dựng chủ yếu theo quang cảnh đô thị trong lịch sử, thành phố München từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã phát triển trở thành một trung tâm của công nghệ cao và ngoài ra còn là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty thuộc các ngành truyền thông, bảo hiểm và ngân hàng. Ngành du lịch cũng phát triển mạnh trong thành phố vốn có nhiều viện bảo tàng quan trọng và nhiều thắng cảnh này. Năm 1972 München là thành phố chủ nhà của Thế vận hội mùa Hè lần thứ 20, đã bị làm lu mờ bởi cuộc ám sát của nhóm khủng bố người Palestine. (xem: Thảm sát München)
München là đô thị lớn cuối cùng ở cực Nam nước Đức.
Điểm cao nhất của thành phố là đồi Warnberg (thuộc khu vực Solln) cao 579m trên mực nước biển, điểm thấp nhất cao 482m trên mực nước biển nằm trong khu Feldmoching của thành phố.
Sông Isar chảy xuyên qua thành phố dài 13,7 km từ Tây Nam đến Đông Bắc. Các đảo nổi tiếng nằm trên sông là Museuminsel với Viện bảo tàng Đức và đảo Prater ngay bên cạnh. Có nhiều hồ lớn nằm ở ngoài ngoại ô như hồ Ammer, Wörthsee hay Starnberger See. Các dòng sông khác là sông Würm bắt nguồn từ Starnberger See chảy xuyên qua phía Tây của München và nhiều kênh rạch như Eisbach hay như Auer Mühlbach là kênh đầu tiên từ Isar chảy qua Vườn bách thú München ở Hellabrunn. Phần lớn các kênh rạch được đào dọc theo sông Isar, một số chảy xuyên qua khu trung tâm thành phố. Ngày nay phần lớn các kênh rạch ở trung tâm được dẫn chảy ngầm bằng ống nước, một số được san lấp từ khi xây dựng các đường tàu điện ngầm và tàu lửa thành phố ("S-Bahn"). Các hồ trong thành phố München bao gồm hồ Kleinhesselohe trong vườn Anh, hồ trong khu vực Olympia và các hồ Lerchenauer See, Fasaneriesee, Feldmochinger See toàn bộ đều nằm về phía Bắc của München.
Tổng diện tích của München là 31.041ha, trong đó 44% là nhà và các diện tích phụ thuộc, 16,9% là diện tích nông nghiệp, 16,5% là diện tích giao thông, 14,7% là các diện tích dùng để nghỉ ngơi, 4,4% là rừng, 1,2% diện tích nước và 2,2% dùng cho các mục đích khác. Ranh giới thành phố dài 117,4 km. Chiều dài nhất của thành phố từ Bắc đến Nam là 20,9 km, từ Đông sang Tây là 26,8 km.
Thành phố München nằm trong vùng tiếp giáp giữa khí hậu Đại Tây Dương ẩm và khí hậu lục địa khô. Các yếu tố khác có ảnh hưởng đến thời tiết là núi Anpơ ("Alpen") chia cắt thời tiết ở Trung Âu và sông Donau chia cắt thời tiết trong vùng. Vì vị thế này mà thời tiết ở München hay thay đổi. Gió từ phía Nam mang đến luồng không khí ấm và khô quanh năm, đem lại tầm nhìn xa rất tốt thấy rõ cả núi Anpơ của vùng Bayern. Nhiệt độ chính thức cao nhất từ trước đến nay do Cục thời tiết Đức đo được là 37,2 độ Celcius vào tháng 7 năm 1983. Với vị trí nằm trong tiểu bang Bayern có nhiều giông tố nhất, München cũng đã chịu đựng nhiều cơn giông bão dữ dội. Đáng nhất là cơn mưa đá vào ngày 12 tháng 7 năm 1984 đã gây thiệt hại đến 1,5 tỉ Euro. Vì gần núi Anpơ, München là thành phố lớn có nhiều tuyết nhất của Đức.
Là thủ phủ của tiểu bang, München là nơi đặt trụ sở của Hội đồng tiểu bang và của chính phủ tiểu bang Bayern. Ngoài ra, thành phố München còn là trụ sở của khu ("Regierungsbezirk") Oberbayern, của tỉnh Oberbayern và của huyện München. Các đảng trung lập và khuynh tả có truyền thống chiếm ưu thế ở München, một việc tương đối hiếm ở Bayern. Từ tháng 5 năm 2014, München được điều hành bởi đại thị trưởng Dieter Reiter (SPD), thay thế cho Christian Ude (SPD) mà nắm chức này trong 20 năm. Thị trưởng thứ 2 là Josef Schmid (CSU), nữ thị trưởng thứ 3 Christine Strobl (SPD). Từ 1996 cho tới 2014 Hội đồng thành phố München được lãnh đạo bởi một liên minh của SPD, Liên minh 90/Đảng Xanh (Đức) và Danh sách Hồng ("Rosa Liste"), bây giờ bị thay thế bởi liên minh 2 đảng lớn.
München nổi tiếng trên thế giới vì bộ sưu tầm nghệ thuật cổ điển xưa. Các viện bảo tàng như Alte Pinakothek, Neue Pinakothek, Pinakothek der Moderne và Lenbachhaus đều là các viện bảo tàng nghệ thuật có tiếng nhất trên thế giới. Với hơn một triệu khách tham quan hằng năm, Viện bảo tàng Đức ("Deutsches Museum"), có những triển lãm kỹ thuật độc nhất, là một trong những viện bảo tàng có khách tham quan nhiều nhất ở châu Âu. Các cơ sở văn hóa khác như Viện bảo tàng quốc gia về dân tộc học München ("Völkerkundemuseum"), Viện bảo tàng quốc gia tiền sử München, Viện bảo tàng thành phố München đều là những cơ sở văn hóa nổi tiếng nhất ở Đức. Ngoài ra trong trung tâm thành phố còn có Đoàn opera quốc gia Bayern, Đoàn kịch quốc gia Bayern có sân khấu biểu diễn chính là Nhà hát hoàng gia ("Residenztheater"), Đoàn hát múa München là một trong những đoàn hát múa dẫn đầu trong vùng nói tiếng Đức. Các sự kiện văn hóa nổi tiếng bao gồm Đại hội opera München, Liên hoan phim München. Lễ hội tháng Mười nổi tiếng của München ("Oktoberfest") ở Theresienwiese là lễ hội lớn nhất loại này, được khách du lịch toàn thế giới đến tham dự.
Quảng trường Đức Mẹ ("Marienplatz") được coi là trung tâm của München nằm giữa Tòa đô chính Mới ("Neue Rathaus") và Tòa đô chính Cũ ("Alte Rathaus"), ngay trong trung tâm của khu phố cổ. Nhà thờ Đức Bà với hai tháp có hình dáng đặc biệt, biểu tượng của thành phố, cũng ở gần đó. Từ chỗ này có thể dễ dàng đi đến rất nhiều nơi đáng tham quan thí dụ như Cung điện München, quán bia nổi tiếng Hofbräuhaus am Platzl và chợ Viktualien.
Đường Maximilian, được xây trong thế kỷ thứ 19 để làm đường duyệt binh, bắt đầu từ phía Nam của Cung điện München, trước Nhà hát opera. Đường này chạy dài từ khu phố cổ qua sông Isar đi đến tòa nhà Maximilianeum, hiện nay là trụ sở của Quốc hội tiểu bang Bayern. Ngày nay đường này là một con đường mua sắm sang trọng.
Quảng trường Odeon nằm về phía Bắc của trung tâm thành phố, ngay trước Cung điện München, có Hội trường tướng quân ("Feldherrnhalle" – tiếng Anh: "Hall of the Field Lords") và nhà thờ dòng Theatine nổi tiếng theo được xây dựng theo lối kiến trúc Baroque và bên trong được trang hoàng theo kiểu Rococo tráng lệ. Con đường lộng lẫy thứ hai của München, đường Ludwig/đường Leopold, bắt đầu từ đây đi về phía Bắc, qua Đại học Ludwig Maximilian München, Khải Hoàn Môn München ("Siegestor"), xuyên qua khu Schwabing ra ngoài thành phố.
Một quảng trường nổi tiếng khác mằm về phía Tây Bắc của khu phố cổ là Quảng trường vua ("Königsplatz") với Viện bảo tàng Glyptothek, Cổng thờ propylaea và Viện bảo tàng cổ đại quốc gia.
Cách xa trung tâm thành phố một ít về phía Tây là lâu đài Nymphenburg có kết hợp độc đáo giữa công viên và dinh cơ và đã là dinh thự mùa hè của dòng họ Wittelsbach.
Ở phía Bắc thành phố là công viên Olympia được xây dựng cho Thế vận hội mùa hè 1972. Quang cảnh kiến trúc đáng xem bao gồm sân vận động Olympia, hồ bơi và hội trường Olympia nổi tiếng thế giới vì kiến trúc mái hình lều táo bạo hòa hợp với phong cảnh đồi chung quanh. Tháp Olympia cao 291m khánh thành năm 1968 cũng được xây dựng tại đây.
Nổi tiếng thế giới là Vườn Anh ("Englische Garten", tiếng Anh: "English Garden") chạy dài từ trung tâm München đến ranh giới phía Bắc của thành phố và với diện tích 3,7km2 còn lớn hơn cả Central Park của New York. Công viên Olympia ("Olympiapark") cũng là một công viên lớn, ngoài nhiều hồ ra từ đồi Olympia còn có thể nhìn toàn cảnh thành phố rất đẹp. Bên cạnh đó còn có rất nhiều công viên khác như Westpark hay công viên của lâu đài Nymphenburg.
Dọc theo sông Isar là các công viên tự nhiên nhỏ, một phần được tái tự nhiên hóa nhân dịp triển lãm vườn của liên bang năm 2005. Có thể chạy bộ hay đi xe đạp xuyên qua thành phố từ Bắc đến Nam dọc theo sông Isar mà lúc nào cũng ở trong màu xanh của tự nhiên.
Món xúc xích Weißwurst được chế ra vào năm 1857 tại München và có lẽ là món đặc biệt nổi tiếng nhất. Ngoài ra còn có thể kể tới chả Leberkäs, bánh mì kẹp chả Leberkässemmel, bánh mì Brezn, bánh chiên Ausgezogene (ein rundes Schmalzgebäck) và nước uống Münchner Bier.
Sân bay quốc tế München Franz Josef Strauss, khánh thành năm 1992, ở Erdinger Moss cách München 29 km, với 24 triệu hành khách năm 2003 là phi trường lớn thứ hai của Đức và lớn thứ tám của châu Âu. Sau quyết định của Lufthansa thiết lập München trở thành đầu mối giao thông thứ hai bên cạnh Frankfurt am Main, phi trường ngày càng được liên kết với các đường bay quốc tế tốt hơn. Do số lượng hành khách tăng nhanh chóng một nhà đón khách mới được xây dựng thêm và đã khánh thành vào năm 2003. Tiểu bang München có kế hoạch nối liền phi trường và München bằng tàu chạy trên đệm từ trường Transrapid nhưng đang bị tranh cãi và cũng bị đa số trong Hội đồng thành phố München phủ quyết. Một liên kết giao thông như vậy sẽ có thể giảm thời gian đi đến phi trường xuống còn khoảng 9 phút.
Về đường sắt, München cũng được nối tiếp tốt vào mạng lưới đường sắt quốc tế. Mạng lưới xa lộ từ và đến München dày đặc bao gồm các đường xa lộ A8 Stuttgart-Salzburg, A9 Nürnberg-München với lối rẽ A93 đi Regensburg, A92 Landshut-Deggendorf, A94 (đang xây dựng) đi Passau, A95 đi Garmisch-Partenkirchen và A96 đi Memmingen-Lindau (Bodensee). Đường xa lộ vành đai A99 bao bọc gần như toàn bộ München.
Trong giao thông công cộng München S-Bahn phục vụ 10 tuyến S-Bahn; các tuyến chính đều chạy qua một đường hầm trong trung tâm thành phố. Để có thể chạy thường xuyên hơn, một đường hầm song song đang được dự định xây.
Công ty giao thông München ("Münchener Verkehrsgesellschaft") có 7 tuyến tàu điện ngầm U-Bahn, 11 tuyến tàu điện (Tram) và 66 tuyến đường xe buýt. 45% của các tuyến đường xe buýt khác được các công ty tư nhân vận hành. Tất cả các hệ thống giao thông công cộng đều có một giá chung do Hiệp hội giao thông München quy định. Với 95 km chiều dài, mạng lưới tàu điện ngầm của München là mạng dài thứ ba của Đức (với 86 km dưới mặt đất còn là dài thứ hai), số lượng hành khách hằng ngày là 960.000 người.
Các ngành kinh tế quan trọng ở München là du lịch, ô tô và chế tạo máy, kỹ thuật điện và công nghiệp phần mềm. München cũng là một trung tâm tài chính và bảo hiểm quan trọng của Đức. Ngoài ra thành phố là một vị trí quan trọng của công nghệ sinh học, tập trung ở "Martinsried" thuộc về làng Planegg lân cận. Sau New York, München là nơi có nhiều trụ sở của các nhà xuất bản nhất thế giới. Vào khoảng 250 nhà xuất bản đặt trụ sở chính ở đây. Công nghiệp phim và truyền hình cũng phát triển mạnh ở München và vùng phụ cận.
Nhiều công ty lớn có trụ sở chính ở München. Đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhiều công ty đã dời trụ sở chính từ Berlin và Đông Đức về München. Một số công ty lớn ở München: Allianz, BMW, EADS, EPCOS, Infineon, HypoVereinsbank, MAN, Münchener Rückversicherungs AG, Siemens.
Các công sở liên bang và các đoàn thể, hiệp hội được biết đến nhiều ở München bao gồm:
|
6045 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6045 | Tổng đài IP | Tổng đài điện thoại nội bộ dùng giao thức Internet hay Tổng đài IP (tiếng Anh: "Internet Protocol Private Branch eXchange", viết tắt là IP PBX hay IPBX) là một mạng điện thoại riêng dùng giao thức Internet ("Internet protocol") để thực hiện các cuộc gọi điện thoại ra bên ngoài, thường áp dụng trong phạm vi một công ty, nhà hàng, hay bệnh viện. Dữ liệu giọng nói được truyền bằng các gói dữ liệu qua Internet thay vì mạng điện thoại thông thường.
Phần lớn các tổng đài IP đều sử dụng phần mềm để điều khiển và thao tác. Nên chi phí rẻ hơn và thao tác dễ dàng, có thể mở rộng nhiều các tính năng mới.
Một hệ thống tổng đài IP gồm có:
"Conference call" (đàm thoại hội nghị)- Đàm thoại nhiều người được thiết lập cho phép người nhận cuộc gọi tham gia đàm thoại xuyên suốt cuộc gọi đó hoặc có thể được thiết lập để người nhận cuộc gọi chỉ được phép nghe mà không được nói. Có thể cho phép gọi, thêm người khác vào. Giảm bớt thời gian khi muốn truyền đạt cùng một nội dung tới nhiều người.
|
6052 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6052 | Richard Feynman | Richard Phillips Feynman (; 11 tháng 5 năm 1918 – 15 tháng 2 năm 1988) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ được biết đến với công trình về phương pháp tích phân đường trong cơ học lượng tử, lý thuyết điện động lực học lượng tử và về tính siêu lỏng của heli lỏng, cũng như trong vật lý hạt với đề xuất của ông về mô hình parton. Cho những đóng góp của ông đối với sự phát triển của điện động lực học lượng tử, Feynman, cùng với Julian Schwinger và Shin'ichirō Tomonaga, nhận giải Nobel Vật lý năm 1965.
Feynman phát triển cách biểu diễn bằng hình ảnh được sử dụng rộng rãi cho các biểu thức toán học miêu tả hành xử của các hạt hạ nguyên tử, mà sau này được biết đến với tên gọi biểu đồ Feynman. Trong cuộc đời của ông, Feynman đã trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới. Trong cuộc bầu chọn năm 1999 của tạp chí Anh quốc "Physics World" về 130 nhà vật lý xuất sắc trên thế giới, ông được xếp hạng vào một trong mười nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại.
Ông từng hỗ trợ phát triển bom nguyên tử trong chiến tranh thế giới thứ hai và được công chúng biết đến trong thập niên 1980 như là thành viên của Ủy ban Rogers, ủy ban khảo sát thảm họa tàu con thoi "Challenger". Cùng với các nghiên cứu vật lý lý thuyết, Feynman còn được coi là người tiên phong trong lĩnh vực tính toán lượng tử và có tầm nhìn dự đoán sự phát triển của công nghệ nano. Ông giữ chức danh giáo sư Richard C. Tolman về vật lý lý thuyết tại Học viện Công nghệ California.
Feynman còn là một nhà diễn giải tài ba trong phổ biến kiến thức vật lý thông qua các cuốn sách và bài giảng, bao gồm các bài giảng năm 1959 về công nghệ nano từ trên xuống dưới "There's Plenty of Room at the Bottom" và bộ sách ba tập về vật lý lý thuyết, "The Feynman Lectures on Physics". Feynman cũng được biết đến thông qua cuốn sách tự thuật do chính ông viết "Surely You're Joking, Mr. Feynman!" và "What Do You Care What Other People Think?" và các cuốn viết về ông như "Tuva or Bust!" bởi Ralph Leighton và "Genius: The Life and Science of Richard Feynman" bởi James Gleick.
Richard Phillips Feynman sinh ngày 11 tháng 5 năm 1918 ở Queens, thành phố New York, con của Lucille (nhũ danh Phillips), một người nội trợ, và Melville Arthur Feynman, một người kinh doanh, đến từ Minsk, Belarus, khi đó thuộc Đế quốc Nga. Cả hai đều là người Do Thái gốc Litva. Họ là những người không theo đạo, và lúc còn trẻ, Feynman tự miêu tả ông như là "người công khai theo đức tin vô thần". Nhiều năm sau, trong lá thư gửi đến Tina Levitan, khi từ chối trả lời thông tin cho cuốn sách viết về những người Do Thái đoạt giải Nobel của cô, ông viết rằng, "Đặt lựa chọn, để phê chuẩn các yếu tố đặc biệt đến từ một số di truyền được cho là của người Do Thái là để mở cửa cho tất cả các loại vô nghĩa về lý thuyết chủng tộc", và viết thêm, "lúc 13 tuổi tôi đã không chỉ chuyển sang quan điểm tôn giáo khác, nhưng tôi cũng ngừng tin rằng người Do Thái theo một cách nào đó 'là những người được chọn'". Gần cuối đời, trong một lần thăm Trung tâm thần học Do Thái ở Mỹ (Jewish Theological Seminary of America), lần đầu tiên ông bắt gặp cuốn Talmud và ấn tượng bởi cuốn sách tuyệt vời chứa đựng những lý luận từ thời cổ.
Giống như Albert Einstein và Edward Teller, Feynman là một người chậm nói, và cho tới sinh nhật thứ ba ông vẫn chưa nói ra một từ nào. Khi lớn lên ông vẫn giữ giọng Brooklyn. Giọng địa phương này đủ đậm để cảm nhận thấy sự màu mè hoặc cường điệu – nhiều đến mức mà những người bạn của ông gồm Wolfgang Pauli và Hans Bethe từng bình luận rằng Feynman nói như một "kẻ vô công rồi nghề". Chàng thanh niên Feynman bị ảnh hưởng lớn bởi bố của mình, người đặt cho ông các câu hỏi thử thách về tư tưởng chính thống, và người luôn sẵn sàng dạy Feynman những thứ mới. Từ người mẹ, ông nhận được khiếu hài hước mà sau này ông luôn thể hiện trong quãng đời của mình. Từ lúc còn nhỏ, ông đã biểu hiện tài năng về thiết bị kỹ thuật, khi luôn có một phòng thí nghiệm trong nhà và ông say mê sửa chữa đài vô tuyến. Đến lúc đi học, ông tạo ra hệ thống báo chống đột nhập trong những ngày bố mẹ ông đi xa.
Khi Richard năm tuổi, mẹ ông sinh một người em trai, đặt tên Henry Philips, mà qua đời bốn tuần sau đó vào ngày 25 tháng 2 năm 1924. Bốn năm sau, em gái của Richard là Joan chào đời và gia đình chuyển đến Far Rockaway, Queens. Mặc dù cách nhau chín tuổi, Joan và Richard không những là hai anh em thân thiết, mà còn có chung sự tò mò về thế giới tự nhiên. Tuy vậy mẹ của họ nghĩ rằng phụ nữ không có khả năng tư duy để theo đuổi những thứ như thế. Bà không đồng ý mong muốn của Joan đi theo ngành thiên văn học, nhưng Richard đã động viên em gái mình. Joan cuối cùng trở thành nhà thiên văn vật lý nghiên cứu về tương tác của gió Mặt Trời với Trái Đất.
Feynman tham dự học trường phổ thông Far Rockaway ở quận Queens, cũng là nơi mà hai người đoạt giải Nobel sau này Burton Richter và Baruch Samuel Blumberg theo học. Vừa bắt đầu học phổ thông, Feynman nhanh chóng quan tâm tới lớp toán cao cấp. Ở bài kiểm tra IQ của ông do trường tổ chức cho kết quả IQ đạt 125—là một giá trị cao, nhưng "chỉ kha khá" theo như nhà viết tiểu sử James Gleick. Em gái ông Joan làm tốt hơn, do vậy bà từng cho rằng mình là người thông minh hơn. Vài năm sau ông từ chối tham gia tổ chức Quốc tế Mensa, khi lấy lý do rằng chỉ số IQ của ông quá thấp. Nhà vật lý Steve Hsu nói về bài kiểm tra:
Khi Feynman 15 tuổi, ông tự học lượng giác, đại số cao cấp, chuỗi vô hạn, hình học giải tích, và cả phép tính tích phân và vi phân. Trước khi vào đại học, ông còn thử và tìm tòi các chủ đề toán học như đạo hàm bán nguyên (half-derivative) khi sử dụng chính các định nghĩa của riêng ông. Ông tự nghĩ ra ký hiệu cho các hàm số lôgarit, sin, cosin và tang khiến cho chúng không trông giống như nhân ba biến với nhau, và cho đạo hàm, để tránh sự triệt tiêu tùy tiện của d's. Là thành viên của Hội danh dự Arista, trong năm cuối phổ thông ông giành chiến thắng trong Cuộc thi giải toán của đại học New York. Thói quen mang tính cá nhân của ông thỉnh thoảng gây ngạc nhiên đối với những người có tư duy truyền thống hơn; ví dụ, một trong các câu hỏi của ông khi học về giải phẫu mèo, là "Thầy có bản đồ con mèo không?" (nhắc đến một sơ đồ giải phẫu).
Feynman nộp đơn vào đại học Columbia nhưng không được chấp nhận vì giới hạn số lượng dành cho các sinh viên Do Thái học trong trường. Buộc thay đổi, ông tham dự học viện Công nghệ Massachusetts, nơi ông gia nhập hội sinh viên Phi Beta Delta. Mặc dù ban đầu ông chọn khoa toán, nhưng về sau ông chuyển sang khoa kỹ thuật điện, do lúc này ông coi toán học quá trừu tượng. Nhận thấy ông "đã đi quá xa," ông lại chuyển sang khoa vật lý, mà ông tự cho là "ở đâu đó giữa hai ngành đã chọn." Khi đang là sinh viên, ông đăng hai bài báo trên tạp chí "Physical Review". Một bài, viết chung với Manuel Vallarta, tiêu đề "The Scattering of Cosmic Rays by the Stars of a Galaxy" (Sự tán xạ các tia vũ trụ bởi các sao trong một thiên hà).
Bài kia là luận văn của ông, về "Các lực trong các phân tử" ("Forces in Molecules"), dựa trên ý tưởng của John C. Slater, người về sau bị ấn tượng bởi nội dung luận văn xuất bản thành một bài báo. Ngày nay nó được biết đến là định lý Hellmann–Feynman.
Năm 1939, Feynman nhận bằng cử nhân (bachelor's degree), và được xếp vào Thành viên Putnam (Putnam Fellow, 5 người có điểm số cao nhất ở cuộc thi trong năm). Ông đạt số điểm tuyệt đối trong kỳ thi tuyển chọn vào đại học Princeton ở môn vật lý—một thành tích chưa từng có—và điểm số cao trong toán học, nhưng đạt điểm kém trong môn lịch sử và tiếng Anh. Trưởng khoa vật lý tại đây, Henry D. Smyth, có một đề cập khác, bèn viết thư hỏi Philip M. Morse: "Có phải Feynman là người Do Thái? Chúng tôi không có quy tắc cụ thể hạn chế người Do Thái nhưng vẫn phải giữ số lượng người Do Thái ở mức nhỏ hợp lý bởi vì gặp khó khăn trong việc phân công họ." Morse thừa nhận rằng Feynman quả thực là người Do Thái, nhưng cam đoan với Smyth rằng " tuy vậy gương mặt và thói quen của Feynman không có dấu hiệu nào cho thấy cả".
Những người tham dự buổi hội thảo chuyên đề đầu tiên của Feynman, nội dung về phiên bản cổ điển của lý thuyết vật hấp thụ Wheeler-Feynman (Wheeler-Feynman absorber theory), bao gồm Albert Einstein, Wolfgang Pauli, và John von Neumann. Pauli đã đưa ra lời bình luận tiên đoán rằng lý thuyết sẽ rất khó để có thể lượng tử hóa, và Einstein nói một nhà nghiên cứu có thể thử áp dụng phương pháp này cho trường hấp dẫn trong thuyết tương đối tổng quát, mà về lâu sau này Sir Fred Hoyle và Jayant Narlikar đã thực hiện trong thuyết hấp dẫn Hoyle–Narlikar. Feynman nhận bằng PhD từ đại học Princeton năm 1942; người hướng dẫn luận án tiến sĩ là John Archibald Wheeler. Luận án của ông áp dụng nguyên lý tác dụng dừng để giải quyết các vấn đề trong cơ học lượng tử, lấy cảm hứng từ việc mong muốn thực hiện lượng tử hóa lý thuyết vật hấp thụ Wheeler–Feynman trong điện động lực học, đặt công trình nền tảng cho phương pháp tích phân đường và biểu đồ Feynman sau này, luận án có tiêu đề "The Principle of Least Action in Quantum Mechanics". Một nhận thức quan trọng ở luận án đó là ông coi positron hành xử như electron chuyển động ngược thời gian. James Gleick viết:
Một trong các yêu cầu của học bổng dành cho Feynman ở trường Princeton là ông không được lấy vợ trong thời gian nghiên cứu; nhưng ông vẫn tiếp tục hẹn hò người yêu từ phổ thông, Arline Greenbaum, và đi đến quyết định sẽ cưới cô một khi ông nhận bằng Ph.D. mặc dù lúc đó ông biết rằng cô bị ốm nặng bởi bệnh lao. Căn bệnh này không có cách chữa lúc bấy giờ, và bác sĩ dự đoán cô không thể sống thêm nhiều hơn hai năm nữa. Ngày 29 tháng 6 năm 1942, hai người lên phà đi đến đảo Staten, nơi họ tổ chức cưới ở phòng đăng ký kết hôn của thành phố. Buổi lễ không có sự tham dự của người thân hay bạn bè mà chỉ có hai người lạ chứng kiến. Feynman chỉ có thể hôn vào má Arline. Sau buổi lễ ông đưa cô đến bệnh viện Deborah, nơi ông thăm cô vào các ngày cuối tuần.
Năm 1941, khi ấy chiến tranh thế giới lần thứ hai đang lan rộng khắp châu Âu nhưng Hoa Kỳ vẫn đứng ngoài cuộc chiến, Feynman đã dành thời gian mùa hè để nghiên cứu về bài toán đường đạn tại nhà máy sản xuất pháo Frankford ở Pennsylvania. Sau vụ tấn công Trân Châu cảng đã buộc Hoa Kỳ nhảy vào tham chiến, Feynman được nhà vật lý Robert R. Wilson mời vào tham gia nhóm của ông, mà họ đang nghiên cứu cách làm giàu urani để sử dụng trong bom nguyên tử, thuộc chương trình bí mật sau này được biết đến là Dự án Manhattan. Đội của Wilson ở Princeton đang làm việc trên thiết bị tách đồng vị (isotron), sử dụng lực điện từ để tách urani-235 từ urani-238. Phương pháp của đội khá khác lạ so với phương pháp sử dụng dạng khối phổ kế (calutron) mà đang được đội của người thầy hướng dẫn trước đây của Wilson, Ernest O. Lawrence, nghiêu cứu tại phòng thí nghiệm Bức xạ thuộc đại học California. Trên lý thuyết, máy isotron hoạt động hiệu quả nhiều lần hơn máy calutron, nhưng Feynman và Paul Olum gặp phải thách thức khi xác định cỗ máy có thực tế hay không. Cuối cùng, theo lời khuyên của Lawrence, dự án máy tách đồng vị đã phải chấm dứt.
Ở thời điểm này, vào đầu 1943, Robert Oppenheimer đã thành lập phòng thí nghiệm Los Alamos, một phòng thí nghiệm bí mật nằm trên một đỉnh núi phẳng (mesa) trong New Mexico nơi bom nguyên tử được thiết kế và chế tạo. Đã có một lời đề nghị gửi đến nhóm Princeton với mong muốn họ tái triển khai tại đây. "Giống như một đội những người lính chuyên nghiệp," Wilson nhớ lại, "chúng tôi ký tên, và cả tập thể tiến đến Los Alamos." Như nhiều nhà vật lý trẻ khác, Feynman sớm bị lôi cuốn vào sức ảnh hưởng mạnh mẽ và đầy thuyết phục từ Oppenheimer, người từ nơi xa ở Chicago đã thực hiện cuộc gọi đến Feynman để thông báo rằng ông đã tìm thấy một trung tâm điều dưỡng ở Albuquerque, New Mexico, dành cho Arline. Họ là một trong những người đầu tiên đi đến New Mexico, rời đi trên chuyến tàu ngày 28 tháng 3 năm 1943. Công ty đường sắt đã hỗ trợ Arline một chiếc ghế xe lăn, và Feynman trả thêm phí thuê thêm một phòng riêng cho cô trên tàu.
Tại Los Alamos, Feynman được phân về Đơn vị lý thuyết (T) của Hans Bethe, và gây ấn tượng trước Bethe đủ để họ chọn ông làm một trong các trưởng nhóm. Ông và Bethe phát triển công thức Bethe–Feynman nhằm tính toán năng lượng tỏa ra từ một quả bom phân hạch, mà dựa trên nghiên cứu trước đó của Robert Serber. Là một nhà vật lý cấp nhỏ, ông không là trung tâm của dự án. Ông quản lý nhóm tính toán gồm những chuyên viên thực hiện phép tính (human computer) trong Đơn vị lý thuyết. Cùng với Stanley Frankel và Nicholas Metropolis, ông hỗ trợ thành lập lên một hệ thống sử dụng thẻ bấm lỗ của IBM dành cho việc tính toán. Ông phát minh ra một phương pháp mới tính lôgarit mà về sau ông sử dụng trên các máy tính song song (Connection Machine). Các công việc khác tại Los Alamos bao gồm tính các phương trình neutron cho lò "Water Boiler", một lò phản ửng hạt nhân loại nhỏ dùng để đo mức độ vật liệu phân hạch đã đạt tới giá trị tới hạn đến đâu.
Khi hoàn thành công việc, Feynman được cử đến các Hạng mục kỹ thuật Clinton (Clinton Engineer Works) ở Oak Ridge, Tennessee, nơi Dự án Manhattan đặt các cơ sở làm giàu urani. Ông giúp các kỹ sư tại đây hiệu chỉnh các thủ tục đảm bảo an toàn cho lưu trữ vật liệu giúp tránh khỏi tai nạn vật liệu vượt tới hạn, đặc biệt khi vật liệu đã làm giàu được tiếp xúc với nước, mà hoạt động như là chất làm chậm neutron. Ông thúc đẩy phân loại và xếp hạng bài giảng vật lý hạt nhân cho phép phát hiện ra các nguy hiểm. Ông giải thích rằng trong khi bất kỳ lượng urani chưa được làm giàu có thể lưu giữ một cách an toàn, thì vật liệu đã làm giàu urani phải được để một cách cẩn thận. Ông phát triển một loạt các khuyến nghị an toàn đối với nhiều vật liệu được làm giàu ở các cấp khác nhau. Ông từng nói rằng nếu mọi người ở Oak Ridge gây ra bất kỳ một khó khăn nào cho các đề xuất của ông, ông liền thông báo với họ rằng Los Alamos "sẽ không chịu trách nhiệm cho sự an toàn của họ".
Trở lại Los Alamos, Feynman được giao trách nhiệm của nhóm chịu trách nhiệm nghiên cứu lý thuyết và tính toán về đề xuất bom hydrit urani, mà cuối cùng được chứng minh là không khả thi. Nhà vật lý Niels Bohr đã nhằm tìm tới ông để thảo luận trực tiếp các vấn đề liên quan. Về sau ông đã tìm ra lý do cho điều này: hầu hết các nhà vật lý khác quá nể phục Bohr để có thể thảo luận thoải mái với ông. Feynman không bị những ức chế như thế, đã mạnh mẽ chỉ ra bất cứ điều gì ông coi là thiếu sót trong suy nghĩ của Bohr. Ông nói rằng ông cũng giành nhiều sự tôn trọng đối với Bohr như bao người khác, nhưng một khi ai đó muốn ông nói về vật lý, ông trở lên quá tập trung và quên đi những chi tiết nhỏ trong giao tiếp. Có lẽ vì điều này, Bohr không bao giờ nồng nhiệt với Feynman.
Vì tính bí mật cao của công việc, phòng thí nghiệm Los Alamos là một nơi biệt lập. Feynman có những lần giải trí bằng cách khảo sát các tổ hợp khóa của tủ và hộc ngăn kéo nơi để những giấy tờ bí mật. Ông tìm thấy rằng mọi người thường có xu hướng để ngăn tủ không khóa, hoặc để mã khóa theo như mặc định của nhà sản xuất, hoặc viết các tổ hợp dễ thử, hay sử dụng các tổ hợp dễ đoán như dùng ngày tháng. Feynman đã chơi đùa các đồng nghiệp của ông. Trong một lần ông tìm thấy tổ hợp mã khóa tủ tài liệu bằng cách thử các con số mà ông nghĩ rằng các nhà vật lý sẽ sử dụng (nó là tổ hợp số 27–18–28 dựa theo cơ số lôgarit tự nhiên, "e" = 2,71828...), và phát hiện thấy ba hộc tài liệu nơi các đồng nghiệp để các ghi chú nghiên cứu về bom nguyên tử đều sử dụng cùng một tổ hợp mã khóa. Ông đã để lại hàng loạt các ghi chú trong hộc tài liệu như là trò trơi khăm, mà ban đầu làm hoảng sợ đồng nghiệp của ông, Frederic de Hoffmann, khi nghĩ rằng một gián điệp ngầm hoặc một kẻ phá hoại nào đó đã tiếp cận được các bí mật về bom nguyên tử.
Lương của Feynman là $380 một tháng, chỉ bằng khoảng một nửa số tiền ông cần để trang trải cuộc sống khiêm tốn và cho các đơn thuốc của Arline. Phần còn lại lấy từ tiền tiết kiệm $3.300 của cô. Vào cuối tuần, Feynman thường lái xe từ Albuquerque đến gặp người vợ ốm yếu của ông bằng một xe mượn từ người bạn của ông Klaus Fuchs. Khi được hỏi ở Los Alamos ai có khả năng là gián điệp nhất, Fuchs đã đặt nghi ngờ ở Feynman, với các lần bẻ khóa và thường di chuyển đến Albuquerque, là đối tượng khả nghi nhất. Khi Fuchs thừa nhận làm gián điệp cho Liên Xô vào năm 1950, quan điểm này đã được nhìn dưới một ánh sáng khác. FBI đã thu thập tập hồ sơ lớn về Feynman.
Feynman đang làm việc trong phòng tính toán thì ông nhận được tin Arline đang hấp hối. Ông liền mượn xe của Fuchs và lái đến Albuquerque nơi ông ngồi cạnh cô trong hàng giờ cho đến khi cô qua đời vào ngày 16 tháng 6 năm 1945. Ông đã chìm đắm vào các công việc trong dự án và có mặt tại hôm vụ thử hạt nhân Trinity. Feynman tự nhận là người duy nhất chứng kiến vụ nổ mà không mang theo kính đen bảo vệ mắt hay mặt nạ của thợ hàn, với giải thích rằng ông quan sát một cách an toàn qua kính chắn gió của xe tải, khi nó có thể cản phần lớn bức xạ tử ngoại nguy hiểm. Lúc chứng kiến vụ nổ, Feynman nhanh chóng cúi xuống sàn xe tải bởi vì độ sáng cực lớn đến từ vụ nổ, mà ông miêu tả tạm thời nhìn thấy dư ảnh "điểm tím" của sự kiện.
Feynman chính thức giữ vị trí phó giáo sư (assistant professor) vật lý tại đại học Wisconsin–Madison, nhưng không được trả lương trong thời gian ông rời đi tham gia vào dự án Manhattan. Năm 1945, ông nhận được thư từ hiệu trưởng Mark Ingraham của trường College of Letters and Science đề nghị ông quay trở lại trường để giảng dạy trong niên khóa tiếp theo. Vị trí chính thức của ông không được gia hạn khi ông không cam kết quay trở lại. Trong một buổi nói chuyện vài năm sau đó, Feynman nói một cách châm biếm rằng, "Thật tuyệt khi quay trở lại một trường đại học duy nhất từng có lý do hợp lý cho tôi nghỉ."
Ngay từ ngày 30 tháng 10 năm 1943, Bethe đã viết thư đến trưởng khoa vật lý của trường ông công tác, đại học Cornell, nhằm đưa ra khuyến nghị rằng nên mời Feynman về công tác. Ngày 28 tháng 2 năm 1944, lời đề nghị này đã được Robert Bacher, cũng từ Cornell và là một trong những nhà khoa học cao cấp tại Los Alamos, chấp nhận. Dựa trên điều này, trường Cornell đã chính thức gửi lời mời vào tháng 8 năm 1944 mà Feynman đã chấp nhận. Oppenheimer cũng từng hi vọng gọi Feynman về công tác tại đại học California, nhưng trưởng khoa vật lý ở đây, Raymond T. Birge, lại không sẵn lòng mời gọi. Cuối cùng, ông đưa ra một lời đề nghị đến Feynman trong tháng 5 năm 1945, nhưng Feynman đã từ chối. Trường Cornell đã đáp ứng yêu cầu của ông, với mức lương đề nghị $3.900 trong mỗi năm. Feynman là một trong những trưởng nhóm đầu tiên ở phòng thí nghiệm Los Alamos Laboratory rời đi, ông đến Ithaca, New York, tháng 10 năm 1945.
Vì Feynman không còn làm việc cho phòng thí nghiệm Los Alamos, ông không còn được miễn nghĩa vụ tòng quân và bị Lục quân gọi tham gia vào cuối năm 1946. Tuy nhiên, ông đã không phải tham gia, bởi vì các câu trả lời của ông trong bài kiểm tra tâm lý bị hiểu nhầm là ông có trạng thái thần kinh không bình thường, và Lục quân xếp ông vào diện miễn trừ 4-F dựa trên sức khỏe tâm lý.
Bố của Feynman đột ngột qua đời vào 8 tháng 10 năm 1946, và Feynman đã trải qua sự suy sụp tinh thần. Ngày 17 tháng 10 năm 1946, ông viết một lá thư đến Arline, thể hiện tình yêu sâu sắc và nỗi đau buồn của ông. Lá thư được niêm phong và chỉ được mở sau khi ông qua đời. "Xin tha lỗi vì lá thư không được gửi đi," trong lời kết của lá thư, "bởi anh không biết địa chỉ mới của em." Không thể tập trung vào các vấn đề nghiên cứu, Feynman bắt đầu giải quyết các vấn đề trong vật lý, không phải vì thực tiễn, mà để tự thỏa mãn bản thân. Một trong những vấn đề là phân tích vật lý của vật thể xoay tròn, như một cái đĩa xoay chương động khi nó chuyển động trong không khí, ông lấy cảm hứng vấn đề từ một tai nạn trong quán cà phê ở Cornell khi người bồi bàn ném một đĩa thức ăn lên không trung. Ông cũng đọc các tác phẩm của Sir William Rowan Hamilton về quaternion, và đã thử áp dụng khái niệm này trong thuyết tương đối tính của electron nhưng không thành công. Các nghiên cứu của ông trong giai đoạn này, mà sử dụng các phương trình quay để biểu diễn nhiều vật thể quay với tốc độ khác nhau, mà cuối cùng trở thành một công cụ quan trọng cho công trình mang lại giải Nobel Vật lý sau này, bởi ông đang trong tâm trạng buồn chán và chuyển sự chú ý của mình đến những vấn đề ít có tác động thực tiễn ngay lập tức, ông đã ngạc nhiên khi nhận được lời mời về làm giáo sư tại các trường nổi tiếng, bao gồm viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton, đại học California tại Los Angeles, và đại học California tại Berkeley.
Feynman không phải là nhà vật lý lý thuyết duy nhất nhận thất bại trong những năm đầu hậu thế chiến. Thuyết điện động lực học lượng tử (QED) đang gặp phải vấn đề các tích phân cho kết quả vô hạn trong lý thuyết nhiễu loạn (perturbation theory). Rõ ràng có những khiếm khuyết toán học trong thuyết QED, mà Feynman và Wheeler đã cố gắng nghiên cứu vượt qua không thành công. "Các nhà lý thuyết", như ghi chú bởi Murray Gell-Mann, "đang trong sự hổ thẹn." Trong tháng 6 năm 1947, các nhà vật lý hàng đầu Hoa Kỳ đã tham dự hội thảo trên đảo Shelter. Đối với Feynman, đây là "hội nghị lớn đầu tiên với những nhà vật lý lớn ... Tôi chưa từng tham dự hội nghị như thế này trong thời bình." Các vấn đề đang gây tai họa trong điện động lực học lượng tử được đem ra thảo luận, nhưng các nhà lý thuyết bị lu mờ hoàn toàn bởi thành tựu đạt được từ các nhà vật lý thực nghiệm, với báo cáo của họ về khám phá hiệu ứng dịch chuyển Lamb, kết quả đo dị thường ở mômen từ của electron, và giả thuyết hai meson của Robert Marshak.
Bethe dẫn đầu nghiên cứu từ các kết quả của Hans Kramers, và ông đưa ra mô hình tái chuẩn hóa cho phương trình lượng tử phi tương đối tính đối với hiệu ứng dịch chuyển Lamb. Bước tiếp theo là đưa ra phiên bản tương đối tính. Feynman nghĩ rằng ông có thể làm được điều này, nhưng khi phương pháp của ông quay trở lại mô hình của Bethe, nó lại cho kết quả phân kỳ. Feynman nghiên cứu cẩn thận vấn đề một lần nữa, áp dụng hình thức luận tích phân đường mà ông đã từng sử dụng trong luận án tiến sỹ. Giống như Bethe, ông đã làm tích phân cho kết quả hữu hạn bằng áp dụng số hạng hấp thụ. Phương pháp cũng thu về trường hợp hạn chế là phiên bản của Bethe. Feynman trình bày công trình của ông trước các nhà vật lý lý thuyết tại hội nghị Pocono năm 1948. Đối với ông nó đã diễn ra không suôn sẻ cho lắm. Julian Schwinger đã thực hiện buổi thuyết trình dài về nghiên cứu của ông trong điện động lực học lượng tử, và Feynman khi ấy đưa ra cách tiếp cận của ông, tiêu đề buổi thuyết trình "Alternative Formulation of Quantum Electrodynamics" (Một mô hình khác của điện động lực học lượng tử). Sự không quen với sơ đồ Feynman, mà được sử dụng lần đầu tiên, đã làm khó hiểu người ngồi nghe. Feynman gặp phải thất bại khi không thuyết phục được mọi người, và Paul Dirac, Edward Teller và Niels Bohr tất cả đều có ý kiến phản bác.
Đối với Freeman Dyson, ít nhất có một điều là rõ ràng: Shin'ichirō Tomonaga, Schwinger và Feynman đã hiểu cái mà họ đang nói ngay cả khi người khác chưa hiểu, nhưng họ chưa đăng bất kỳ bài báo nào. Ông bị thuyết phục rằng cách tiếp cận của Feynman dễ hiểu hơn, và cuối cùng giúp thuyết phục Oppenheimer rằng đây là một mô hình đáng được xem xét. Dyson công bố bài báo năm 1949, trong đó ông bổ sung thêm các quy tắc mới vào phương pháp của Feynman đã thảo luận để tìm cách áp dụng tái chuẩn hóa. Feynman cũng bị thúc giục để đăng ý tưởng của ông trên tạp chí "Physical Review" trong một loạt các bài báo trong ba năm liền. Bài báo năm 1948 tiêu đề "A Relativistic Cut-Off for Classical Electrodynamics" của ông cố gắng giải thích điều mà ông đã không vượt qua được tại hội nghị Pocono. Bài báo năm 1949 tiêu đề "The Theory of Positrons" tập trung vào phương trình Schrödinger và phương trình Dirac, và giới thiệu khái niệm mà ngày nay gọi là hàm truyền Feynman (Feynman propagator). Cuối cùng, trong bài báo tiêu đề "Mathematical Formulation of the Quantum Theory of Electromagnetic Interaction" năm 1950 và bài "An Operator Calculus Having Applications in Quantum Electrodynamics" năm 1951, ông đã phát triển cơ sở toán học cho những ý tưởng của mình, suy luận ra các công thức trước đây và thêm những công thức mới.
Trong khi các bài báo viết bởi những nhà vật lý khác ban đầu trích dẫn đến công trình của Schwinger, các bài báo trích dẫn Feynman và áp dụng biểu đồ Feynman bắt đầu xuất hiện từ năm 1950, và sớm trở lên phổ biến. Các sinh viên học và cách sử dụng công cụ mạnh mới mà Feynman đã tạo ra. Thậm chí có những chương trình máy tính được viết để tính toán sơ đồ Feynman, cung cấp một công cự mạnh chưa từng có trước đây. Người ta có thể viết những chương trình như vậy bởi vì biểu đồ Feynman chứa đựng một ngôn ngữ hình thức với một ngữ pháp hình thức. Marc Kac đưa ra chứng minh hình thức cho tổng các lộ trình lịch sử, chỉ ra rằng phương trình vi phân riêng phần parabol có thể biểu diễn lại bằng tổng của các lộ trình với lịch sử khác (tức là, một toán tử kỳ vọng), như ngày nay được biết đến là công thức Feynman–Kac, với sử dụng nó để mở rộng bên ngoài vật lý có nhiều ứng dụng cho các quá trình ngẫu nhiên. Đối với Schwinger, biểu đồ Feynman "có nội dung giáo dục, không dành cho vật lý."
Năm 1949, Feynman trở thành người không nhà ở Cornell. Ông không bao giờ ở cố định ở một ngôi nhà hay căn hộ nào, mà sống trong nhà khách hoặc ký túc xá sinh viên, hoặc với những người bạn đã lập gia đình "cho đến tận khi những thỏa thuận trở thành vi phạm bởi tình dục." Ông thích hẹn hò với các sinh viên, thuê gái gọi, và ngủ với vợ của các bạn. Ông không thích thời tiết mùa đông lạnh ở Ithaca, và khao khát một khí hậu ấm hơn. Trên tất cả, ở Cornell, ông luôn luôn ở dưới bóng của Hans Bethe. Khi Feynman nhìn lại, ông cũng thích ở nhà Telluride, nơi ông sống trong một thời gian dài lúc làm việc ở Cornell. Trong một cuộc phỏng vấn, ông miêu tả nhà như là "một nhóm các thanh niên đã được lựa chọn đặc biệt bởi vì học bổng của họ, bởi vì sự thông minh của họ hay bởi bất cứ điều gì khác, được miễn phí tiền ăn và tiền nhà trọ, bởi vì các bộ não của họ." Ông thích các tiện nghi của ngôi nhà và "tại đây tôi đã nghiên cứu các công trình cơ bản" mà nhờ đó ông giành giải Nobel Vật lý.
Feynman dành vài tuần ở Rio de Janeiro vào tháng 7 năm 1949, và quay trở lại cùng một phụ nữ tên Clotilde đến từ Copacabana mà sống cùng ông ở Ithaca trong một thời gian. Cũng như thời tiết lạnh ở Ithaca, lúc đó cũng có chiến tranh lạnh. Liên Xô thử bom nguyên tử lần đầu tiên vào năm 1949, tạo ra một làn sóng chống những người cộng sản. Fuchs bị bắt vì phát hiện làm điệp viên cho Liên Xô vào năm 1950, và FBI đã truy vấn Bethe về lòng trung thành của Feynman. Nhà vật lý David Bohm bị bắt vào ngày 4 tháng 12 năm 1950, và nhập cư vào Brazil tháng 10 năm 1951. Một bạn gái bảo với Feynman rằng ông nên xem xét chuyển đến Nam Mỹ. Ông có một năm nghỉ phép nghiên cứu giai đoạn 1951–52, và đã lựa chọn đến Brazil, nơi ông thực hiện các bài giảng ở trung tâm nghiên cứu vật lý Brazil (Centro Brasileiro de Pesquisas Físicas). Ở Brazil, Feynman đã bị ấn tượng bởi thể loại âm nhạc "samba", và học cách chơi dụng cụ gõ kim loại, "frigideira". Ông là một người chơi nghiệp dư say mê trống bongo và thường chơi chúng trong dàn nhạc. Ở Rio ông kết bạn cùng Bohm, nhưng Bohm đã không thuyết phục được Feynman quan tâm nghiên cứu các ý tưởng của Bohm về vật lý.
Feynman đã không trở lại Cornell. Bacher, người từng đóng vai trò mang Feynman đến Cornell, đã khuyến khích ông đến học viện Công nghệ California (Caltech). Một phần trong thỏa thuận đó là ông có thể sử dụng năm đầu tiên trong thời gian nghỉ phép ở Brazil. Ông đã bị Mary Louise Bell đến từ Neodesha, Kansas làm say mê. Hai người gặp gỡ trong một quán căng tin ở Cornell, nơi cô nghiên cứu lịch sử nghệ thuật và dệt may Mexico. Về sau cô theo ông đến Caltech, nơi ông thực hiện một bài giảng. Trong khi ông ở Brazil, cô dạy các lớp về lịch sử đồ nội thất và thiết kế nội thất tại đại học Bang Michigan (Michigan State University). Ông cầu hôn cô qua thư gửi từ Rio de Janeiro, và họ tổ chức lễ cưới ở Boise, Idaho vào ngày 28 tháng 6 năm 1952, một thời gian ngắn ngay sau khi ông trở lại. Hai người thường xảy ra cãi vã và cô cảm thấy sợ tính khí bạo lực của ông. Quan điểm chính trị của họ cũng khác nhau; mặc dù ông đăng ký và bỏ phiếu cho đảng Cộng hòa, cô lại càng bảo thủ hơn, và ý kiến của cô trong cuộc điều trần an ninh Oppenheimer năm 1954 ("không có lửa thì làm sao có khói") gây xúc phạm ông. Hai người ly thân vào ngày 20 tháng 5 năm 1956. Một buổi hòa giải ly dị diễn ra vào ngày 19 tháng 6 năm 1956, trong bầu không khí của sự "cực kỳ thô bạo". Hai người chính thức ly dị vào ngày 5 tháng 5 năm 1958.
Trong bối cảnh khủng hoảng Sputnik năm 1957, mối quan tâm của chính phủ Hoa Kỳ về khoa học đã nổi lên trong một thời gian. Feynman được xem xét giữ một ghế trong Hội đồng tư vấn khoa học của Tổng thống (President's Science Advisory Committee), nhưng đã không được bổ nhiệm. Ở thời điểm này FBI đã phỏng vấn một phụ nữ có quan hệ với Feynman, có thể là Mary Lou, người đã viết một báo cáo gửi đến J. Edgar Hoover vào ngày 8 tháng 8 năm 1958:
Tuy thế chính phủ đã gửi Feynman đến Geneva cho hội nghị Nguyên tử cho Hòa bình tháng 9 năm 1958. Trên bờ hồ Genève, ông gặp Gweneth Howarth, người đến từ Ripponden, Yorkshire, và làm việc ở Thụy Sĩ "để sống qua ngày". Cuộc sống tình yêu của Feynman trở lên hỗn loạn kể từ lúc ông ly dị; bạn gái trước của ông đã bỏ đi và mang theo huy chương của giải thưởng Albert Einstein và, theo thông báo của một người bạn gái trước đó, mà đã giả vờ là đã có bầu và đe dọa ông trả tiền để phá thai, sau đó dùng tiền để mua đồ đạc. Khi Feynman tìm thấy Howarth mà công việc chỉ được trả $25 một tháng, ông đề nghị đưa cho cô $20 một tuần để sống cùng với ông. Kiểu cư xử này là bất hợp pháp và không được xem xét kỹ lưỡng; Feynman nhờ một người bạn, Matthew Sands, đóng vai trò làm người tài trợ cho cô.
Howarth cho biết cô đã có hai người bạn trai, nhưng đã chọn Feynman theo như đề nghị của ông, và chuyển đến Altadena, California tháng 6 năm 1959. Có lúc cô lại hẹn hò với một người đàn ông khác nhưng cuối cùng Feynman đã cầu hôn cô vào đầu năm 1960. Họ tổ chức lễ cưới vào ngày 24 tháng 9 năm 1960, tại khách sạn Huntington ở Pasadena. Hai người có với nhau một cậu con trai, Carl, sinh năm 1962, và một con gái nuôi Michelle vào năm 1968. Bên cạnh nhà của họ ở Altadena, họ có một ngôi nhà bên bờ biển ở Baja California, mua từ tiền thưởng của giải Nobel mà Feynman nhận được.
Feynman đã từng thử cần sa và ketamin trong buồng tắm muối của John Lilly, như một cách để nghiên cứu sự vô thức. Ông từ bỏ rượu khi ông bắt đầu có dấu hiệu lơ đãng, một dấu hiệu sớm của chứng nghiện rượu, vì ông không muốn làm bất cứ một thứ gì ảnh hưởng đến não của ông. Mặc dù tò mò về sự ảo giác, ông đã từ chối làm thí nghiệm với thuốc LSD.
Ở Caltech, Feynman khảo cứu vật lý của tính siêu chảy của heli lỏng siêu lạnh, hiện tượng mà heli thể hiện mất hoàn toàn độ nhớt khi chảy. Feynman cung cấp một cách giải thích bằng cơ học lượng tử cho lý thuyết siêu chảy của nhà vật lý Liên Xô Lev Landau. Năm 1941, Feynman chỉ ra các biên độ trong lý thuyết trường lượng tử có thể tính được bằng cách sử dụng tích phân đường mà tính tổng với các hệ số phù hợp đóng góp từ mọi lộ trình lịch sử khả dĩ của một hệ. Áp dụng phương trình Schrödinger đối với câu hỏi chứng minh rằng tính siêu chảy là thể hiện cho hiệu ứng lượng tử quan sát được ở cấp vĩ mô. Điều này đã hỗ trợ cho cách giải thích hiệu ứng siêu dẫn, nhưng lời giải đã vượt quá khả năng của Feynman. Hiện tượng siêu dẫn nhiệt độ thấp cuối cùng đã được giải thích bằng lý thuyết BCS, đề xuất bởi John Bardeen, Leon Neil Cooper, và John Robert Schrieffer vào năm 1957.
Cùng với Murray Gell-Mann, Feynman đã phát triển mô hình cho phân rã yếu, khi chỉ ra rằng dòng cặp trong quá trình là sự tổ hợp của các dòng véc tơ và dòng trục (một ví dụ của phân rã yếu là sự phân rã của neutron thành một electron, một proton, và một phản neutrino). Mặc dù E. C. George Sudarshan và Robert Marshak đã phát triển lý thuyết gần như đồng thời, đóng góp của Feynman với Murray Gell-Mann được coi là kinh điển bởi vì tương tác yếu gần như được miêu tả gọn gàng bằng dòng véc tơ và dòng trục. Do vậy lý thuyết đã kết hợp được lý thuyết phân rã beta của Enrico Fermi bằng cách giải thích sự vi phạm tính chẵn lẻ.
Từ biểu đồ của ông cho một vài hạt tương tác trong không thời gian, Feynman có thể mô hình mọi quá trình vật lý hạt cơ bản theo số hạng của spin của các hạt và phạm vi tác dụng của các tương tác cơ bản. Feynman đã thử giải thích tương tác mạnh chi phối hiệu ứng tán xạ nucleon bằng mô hình parton. Mô hình parton nổi lên như là mô hình bổ sung cho mô hình quark do Gell-Mann phát triển. Hai mô hình này ít có mối liên hệ với nhau; Gell-Mann đã chế giễu mô hình parton của Feynman chỉ là "đống giấy bỏ vào hòm". Giữa thập niên 1960, các nhà vật lý tin rằng quark chỉ là một khái niệm để giữ cho các số đối xứng và bảo toàn, chứ không phải là những hạt thực thể; quan sát thống kê các hạt omega trừ, nếu nó được giải thích như là tổ hợp của ba quark lạ, khi ấy được coi là không thể nếu quark tồn tại thực sự.
Các thí nghiệm tán xạ phi đàn hồi sâu tại phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia SLAC thực hiện vào cuối thập niên 1960 cho thấy các nucleon (proton và neutron) chứa các hạt điểm gây ra sự tán xạ electron. Một cách tự nhiên các nhà vật lý hạt đã đồng nhất các hạt điểm này với các quark, nhưng mô hình parton của Feynman đã thử giải thích các dữ liệu thực nghiệm theo cách mà không cần phải đưa ra thêm các giải thiết mới. Ví dụ, dữ liệu cho thấy khoảng 45% động lượng năng lượng mang bởi các hạt trung hòa điện trong nucleon. Các hạt trung hòa điện này hiện nay được phát hiện ra chính là các gluon là những hạt tải lực tương tác giữa các quark, và số lượng tử màu (nhận ba giá trị) đã giải thích thành công vấn đề hạt omega trừ. Feynman đã không tranh luận hay phản đối mô hình quark; ví dụ, khi hạt quark thứ năm được phát hiện vào 1977, Feynman ngay lập tức chỉ ra cho các sinh viên của ông rằng khám phá này hàm ý sự tồn tại của hạt quark thứ sáu, mà nó được phát hiện gần một thập kỷ sau khi ông qua đời.
Sau sự thành công với điện động lực học lượng tử, Feynman chuyển sang lý thuyết hấp dẫn lượng tử. Bằng cách áp dụng phép tương tự với photon, mà có spin 1, ông khảo sát các hệ quả của trường hạt lượng tử tự do không có khối lượng với spin 2 và áp dụng cho phương trình trường Einstein của thuyết tương đối tổng quát, nhưng không đạt được nhiều kết quả. Công cụ tính toán mà Feynman đã khám phá cho hấp dẫn, "bóng ma" (ghosts), là "những hạt" bên trong các biểu đồ của ông mà có mối liên hệ "không đúng" giữa spin và thống kê, đã được chứng minh là một công cụ vô giá trong việc giải thích hành xử của hạt lượng tử của các lý thuyết Yang–Mills, ví dụ, cho sắc động lực học lượng tử và lý thuyết điện-yếu. Ông đã tham gia nghiên cứu tất cả bốn lực cơ bản trong tự nhiên: lực điện từ, lực yếu, lực mạnh và lực hấp dẫn. John và Mary Gribbin viết trong cuốn sách của họ về Feynman: "Chưa có ai khác có những đóng góp ảnh hưởng trong quá trình nghiên cứu tất cả bốn tương tác cơ bản".
Một phần như là cách để đưa công chúng quan tâm đến những tiến trình trong vật lý, Feynman treo giải thưởng $1.000 cho những ai giải được hai thử thách ông đặt ra trong công nghệ nano; mà William McLellan và Tom Newman đã giành được giải thưởng. Ông cũng là một trong những nhà khoa học đầu tiên nêu ra khả năng hiện thực hóa máy tính lượng tử. Trong các năm 1984–1986, ông đã phát triển phương pháp biến phân cho phép tính xấp xỉ tích phân đường, mà dẫn đến một công cụ mạnh cho phép biến đổi các khai triển nhiễu loạn phân kỳ thành khai triển hệ số cặp-mạnh (strong-coupling) hội tụ (lý thuyết nhiễu loạn biến phân) và, hệ quả là, trở thành phương pháp xác định có độ chính xác nhất cho giá trị lũy thừa tới hạn (critical exponent, trong chuyển pha) như được đo qua các thí nghiệm bằng vệ tinh.
Đầu thập niên 1960, Feynman đồng ý yêu cầu "làm mới" nội dung và chương trình giảng dạy cho sinh viên ở Caltech. Sau ba năm dành cho nhiệm vụ này, ông đã thực hiện một chuỗi các bài giảng mà sau này đặt tên là "The Feynman Lectures on Physics" (Các bài giảng về vật lý của Feynman). Ông muốn ở trang bìa của tập sách là hình ảnh của một cái trống rắc một ít bột lên mặt để cho thấy các chế độ rung của trống. Vì hình ảnh này có vẻ có mối liên hệ với ma túy và nhạc rock and roll, nhà xuất bản đã chuyển trang bìa thành độc màu đỏ, và họ thêm vào một bức tranh ông đang chơi trống ở trang lời nói đầu. Cuốn "The Feynman Lectures on Physics" khiến hai nhà vật lý và đồng tác giả Robert B. Leighton và Matthew Sands đã phải giành vài năm để biên tập và chuyển các băng ghi âm và video giảng bài của Feynman thành tập sách và hình minh họa. Mặc dù tập sách không được các trường đại học khác sử dụng làm giáo trình chính thức, bộ sách vẫn có doanh số bán cao bởi vì nội dung cuốn sách mang lại sự hiểu biết sâu sắc về vật lý. Nhiều bài giảng và các buổi nói chuyện của ông sau này cũng được chuyển thành các cuốn sách, bao gồm "The Character of Physical Law" (Tính chất các định luật vật lý), "" (QED: Lý thuyết kỳ lạ về ánh sáng và vật chất), "Statistical Mechanics" (Cơ học thống kê), "Lectures on Gravitation" (Bài giảng về hấp dẫn), và "Feynman Lectures on Computation" (Các bài giảng của Feynman về tính toán).
Feynman từng viết về kinh nghiệm giảng dạy vật lý cho sinh viên của ông khi ở Brazil. Thói quen nghiên cứu của sinh viên cùng các cuốn sách tiếng Bồ Đào Nha rất thiếu các tình huống hoặc các ứng dụng giúp minh họa cho các thông tin mà cuốn sách nói tới, theo như ý kiến của Feynman, các sinh viên nhìn chung đang không được học vật lý. Cuối năm đó, Feynman được mời thực hiện một bài giảng nói về kinh nghiệm giảng dạy của ông, ông đã đồng ý nhưng nói rằng ông sẽ nói một cách miễn cưỡng và ông đã làm như vậy.
Ông chống lại lối học thuộc lòng hoặc ghi nhớ thụ động (unthinking memorization) và các phương pháp giảng dạy tập trung vào hình thức hơn là chức năng. "Suy nghĩ rõ ràng" và "trình bày rõ ràng" là những yêu cầu tiên quyết cho mối quan tâm của ông. Thật là nguy hiểm khi ai đó tiếp cận ông nhưng chưa chuẩn bị kỹ càng trong khi ông là người có tính nhớ dai những ai ngốc nghếch và tỏ ra giả vờ. Năm 1964, ông phục vụ Ủy bản giáo dục bang California (California State Curriculum Commission), chịu trách nhiệm phê chuẩn những cuốn sách sẽ được sử dụng trong các trường học ở California. Ông đã không ngạc nhiên với cái mà ông đã tìm thấy. Nhiều sách giáo khoa về toán chứa đựng nội dung về các chủ đề mà chỉ được sử dụng bởi các nhà toán học thuần túy như một phần trong "Toán học mới" ("New Math"). Các học sinh phổ thông được dạy về tập hợp, nhưng:
Tháng 4 năm 1966, Feynman thực hiện một diễn văn tại Hội giáo viên khoa học quốc gia (National Science Teachers Association), trong đó ông gợi ý cách sinh viên có thể được dạy để suy nghĩ như những nhà khoa học, có tư duy mở, tò mò, và đặc biệt là có tính nghi ngờ. Trong bài giảng, ông đưa ra định nghĩa về khoa học, trong đó ông nói nó đến từ một vài giai đoạn. Sự tiến hóa của sự sống thông minh trên Trái Đất—các sinh vật như mèo có thể đùa nghịch và học từ các trải nghiệm. Sự tiến hóa của con người, mà việc sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt kiến thức từ một người sang những người khác, do đó kiến thức không bị mất đi khi một cá nhân nào qua đời. Thật không may, các kiến thức không đúng cũng được truyền lại giống như các kiến thức đúng, do đó cần có thêm những bước khác để sàng lọc. Galileo và những người khác bắt đầu nghi ngờ về sự thật mà những kinh nghiệm được truyền lại và họ bắt đầu thực hiện khảo sát "ngay từ đầu" ("ab initio"), từ thực nghiệm, tình huống đúng thực sự là gì—và đây chính là khoa học.
Năm 1974, Feynman phát biểu tại lễ tốt nghiệp của Caltech với chủ đề "cargo cult science", về những thứ có vẻ giống khoa học, nhưng chỉ là giả khoa học do thiếu "một loại chính trực của khoa học, một nguyên lý của tư duy khoa học tương ứng với một loại trung thực hoàn toàn" trên một phần của nhà khoa học. Ông hướng dẫn các sinh viên tốt nghiệp rằng "nguyên lý đầu tiên đó là các bạn không được tự lừa gạt chính mình—và dễ dãi nhất để lừa phỉnh chính là bạn. Do vậy bạn phải rất cẩn thận về điều đó. Sau khi bạn không lừa gạt chính mình, sẽ không dễ để lừa gạt các nhà khoa học khác. Bạn chỉ cần phải trung thực theo cách thông thường sau đó."
Feynman là thầy hướng dẫn luận án tiến sỹ cho 31 sinh viên.
Trong thập niên 1960, Feynman bắt đầu nghĩ về viết tự thuật, và ông đã cho phép các nhà lịch sử đến gặp và phỏng vấn ông. Trong thập niên 1980, làm việc cùng Ralph Leighton (con trai của Robert Leighton), ông đã ghi lại các chương trong băng thu âm do Ralph chuyển biên. Cuốn sách được xuất bản năm 1985 tiêu đề "Surely You're Joking, Mr. Feynman!" và trở thành một trong cuốn sách bán chạy nhất. Việc xuất bản cuốn sách mang đến một làn sóng mới phản đối quan điểm của Feynman về phụ nữ. Đã có những cáo buộc ông phân biệt đối xử theo giới tính vào năm 1968, và một lần nữa vào năm 1972. Nhưng lại hoàn toàn khác đối với trường hợp của Jenijoy La Belle, người trở thành nữ giáo sư đầu tiên được thuê đến Caltech vào năm 1969, đã bị từ chối bổ nhiệm vào năm 1974. Bà đã chuẩn bị hồ sơ nộp lên Hội đồng bình đẳng cơ hội việc làm (Equal Employment Opportunity Commission) để chống lại Caltech vào năm 1977, với cáo buộc thêm rằng bà được trả lương ít hơn so với đồng nghiệp nam giới. La Belle cuối cùng được bổ nhiệm vào năm 1979. Nhiều đồng nghiệp của Feynman lúc đó đã ngạc nhiên khi ông đứng ủng hộ về phía bà. Ông đã trở lên biết đến La Belle và cũng như thích và khâm phục bà.
Gell-Mann đã bị bác bỏ bởi các lập luận của Feynman trong cuốn sách Gell-Mann viết về tương tác yếu, và đe dọa sẽ kiện, khiến cho nhà xuất bản phải thêm vào những hiệu đính trong lần xuất bản sau. Sự đối đầu này chỉ là một trong những lần khiêu khích kéo dài hàng thập kỷ giữa hai nhà khoa học với các suy nghĩ xấu về nhau. Gell-Mann thường biểu hiện sự thất vọng mỗi lúc Feynman nhận được sự chú ý; ông nhận xét: "[Feynman] là một nhà khoa học lớn, nhưng ông đã giành nỗ lực lớn khi tạo ra các giai thoại về bản thân ông." Ông lưu ý rằng tính lập dị của Feynman bao gồm không đánh răng hàng ngày, mà ông đã khuyên những người khác không nên làm trên truyền hình quốc gia, mặc dù bác sĩ nha khoa chỉ cho ông thấy các nghiên cứu khoa học ủng hộ cho thói quen này.
Feynman đóng vai trò quan trọng ở Ủy ban Rogers của Tổng thống, hội đồng chịu trách nhiệm điều tra thảm họa "Challenger". Trong một buổi điều trần trên truyền hình, Feynman đã chứng tỏ rằng vật liệu dùng cho vành O (O-ring) của tàu con thoi đã trở lên ít đàn hồi hơn trong thời tiết lạnh bằng cách kẹp một mẫu và nhúng nó vào cốc nước lạnh trước ống kính máy quay truyền hình. Cuối cùng ủy ban xác định nguyên nhân của thảm họa là chủ yếu do vành O không được bọc đúng cách để bảo vệ dưới thời tiết lạnh bất thường tại Cape Canaveral.
Feynman đã dành một nửa cuối cuốn sách của ông "What Do You Care What Other People Think?" để nói về trải nghiệm lúc ông là thành viên trong ủy ban Rogers, tản mát từ những quy ước bình thường của ông về những giai thoại ngắn gọn, nhẹ nhàng để cung cấp một câu chuyện mở rộng và đúng mức. Tường thuật của Feynman tiết lộ sự phối hợp không chặt chẽ giữa các kỹ sư với các nhà điều hành của NASA thể hiện hơn nhiều so với dự định của ông. Phỏng vấn của ông với các quản lý cấp cao của NASA cho thấy họ có những hiểu sai đáng chú ý về những khái niệm cơ bản. Ví dụ, các quản lý NASA khẳng định rằng xác suất xảy ra lỗi ở tàu con thoi là 1 trong 100.000, nhưng Feynman đã khám phá ra chính các kỹ sư của NASA lại ước tính nguy cơ xảy ra thảm họa là 1 trong 200. Ông kết luận rằng sự ước tính của bộ phận quản lý của NASA về độ tin cậy của tàu con thoi là không thực tế, và ông đặc biệt tức giận khi NASA đã sử dụng nó để mời cô giáo Christa McAuliffe tham gia chương trình Người giáo viên trong không gian (Teacher in Space). Ông cảnh báo trong phụ lục của ông ở báo cáo cho ủy ban (mà chỉ được thêm vào khi ông đe dọa không ký vào báo cáo), "Đối với một công nghệ thành công, thực tế phải được ưu tiên hơn quan hệ công chúng, vì tự nhiên không thể bị đánh lừa."
Sự công nhận của công chúng đầu tiên về các nghiên cứu của Feynman đó là vào năm 1954, khi Lewis Strauss, chủ tịch của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ (AEC) thông báo ông đã được trao Giải thưởng Albert Einstein, cùng số tiền $15.000 và một huy chương vàng. Bởi vì các hành động của Strauss trong việc tước bỏ đặc quyền an ninh đối với Oppenheimer, Feynman đã miễn cưỡng nhận giải thưởng, nhưng Isidor Isaac Rabi cảnh báo ông: "Anh không nên bao giờ biến sự hào phóng của một người thành thanh gươm chống lại họ. Bất kỳ một đức tính nào mà anh ta có, ngay cả khi anh ta có nhiều khuyết điểm, không nên được sử dụng làm công cụ chống lại anh ta." Sau đó ông được trao Giải thưởng Ernest Orlando Lawrence của AEC năm 1962. Schwinger, Tomonaga và Feynman cùng nhận giải Nobel Vật lý năm 1965 "cho nghiên cứu cơ bản của học về điện động lực học lượng tử, với những hệ quả sâu sắc cho vật lý hạt cơ bản". Ông được bầu chọn thành viên ngoại quốc của Hiệp hội Hoàng gia năm 1965, được trao huy chương Oersted năm 1972, và Huân chương Khoa học Quốc gia năm 1979. Ông được bầu chọn làm thành viên Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, nhưng cuối cùng đã rút lui và tên của ông không còn được lưu trong danh sách của viện.
Năm 1978, Feynman phải nhờ đến các điều trị y học vì các lần đau mạc bụng và được chẩn đoán mắc các khối u ác tính ở tế bào mỡ (liposarcoma), một dạng ung thư hiếm gặp. Ông đã phải trải qua lần phẫu thuật để cắt bỏ khối u có kích thước bằng quá bóng đá mà nó đã chèn ép lên thận và lá lách. Các lần phẫu thuật tiếp theo thực hiện vào tháng 10 năm 1986 và tháng 10 năm 1987. Ông tiếp tục vào viện điều trị vào ngày 3 tháng 2 năm 1988. Một biến chứng của viêm loét dạ dày tá tràng khiến ông bị suy thận, và ông từ chối việc lọc thẩm tách mà có thể giúp ông kéo dài sự sống thêm vài tháng. Bên cạnh người vợ Gweneth, con gái Joan, và người họ hàng Frances Lewine, ông qua đời ngày 15 tháng 2 năm 1988. Lời cuối cùng ông nói: "Tôi ghét phải chết hai lần. Nó thật là chán."
Khi Feynman gần qua đời, có lần ông nói chuyện với Danny Hillis và ông đã hỏi Danny tại sao lại trông buồn thế. Hillis trả lời rằng ông nghĩ Feynman sẽ sớm qua đời. Feynman đáp lại đôi lúc điều này cũng gây phiền muộn cho ông, nhưng nói thêm là "khi anh trở lên già như tôi, và đã kể rất nhiều câu chuyện cho nhiều người, ngay cả khi anh chết đi thì anh vẫn không hoàn toàn biến mất".
Gần cuối đời, Feynman đã cố thực hiện chuyến thăm đến vùng đất Tuva thuộc Nga, một giấc mơ bị cản trở bởi các vấn đề của Chiến tranh Lạnh và lá thư chấp thuận từ chính phủ Liên Xô cho phép chuyến đi đã không đến được tay ông tới tận ngày sau khi ông qua đời. Con gái ông Michelle sau đó đã thực hiện chuyến đi này. Ông yên nghỉ tại nghĩa trang Mountain View và lăng đặt tại Altadena.
Các khía cạnh của cuộc sống của Feynman đã được tái hiện trong nhiều phương tiện truyền thông. Feynman được nam diễn viên Matthew Broderick thủ vai trong một bộ phim về cuộc đời ông năm 1996 tiêu đề "Infinity". Nam diễn viên Alan Alda đã ủy nhiệm nhà viết kịch Peter Parnell viết một vở kịch hai nhân vật nói về một ngày hư cấu trong cuộc đời của Feynman hai năm trước khi Feynman qua đời. Vở kịch "QED", ra mắt tại sân khấu Mark Taper Forum ở Los Angeles năm 2001 và sau đó được diễn tại nhà hát Vivian Beaumont ở Broadway, mà cả hai lần đều do Alda đóng vai Richard Feynman. Công ty Real Time Opera đã ra mắt vở opera "Feynman" tại festival âm nhạc Norfolk (Connecticut) trong tháng 6 năm 2005. Năm 2011, Feynman là chủ đề trong cuốn tiểu thuyết bằng hình ảnh (graphic novel) mang tên "Feynman", do Jim Ottaviani viết và minh họa bởi Leland Myrick. Năm 2013, vai trò của Feynman trong Ủy ban Rogers Commission được khắc họa trong bộ phim tài liệu của BBC "The Challenger" (chiếu ở Mỹ với tiêu đề "The Challenger Disaster"), do William Hurt đóng vai Feynman. Trong cuốn sách năm 2016, "Idea Makers: Personal Perspectives on the Lives & Ideas of Some Notable People", cuốn sách viết rằng một trong những điều mà Feynman thường nói là "tâm trí bình yên là một trong những thứ tiên quyết cho công việc sáng tạo." Feynman nghĩ rằng một người nên làm mọi thứ có thể để có thể đạt được sự bình yên trong tâm trí.
Feynman được kỷ niệm theo nhiều cách khác nhau. Ngày 4 tháng 5 năm 2005, Cơ quan Dịch vụ Bưu chính Hoa Kỳ (United States Postal Service) phát hành bộ tem "Các nhà khoa học Mỹ" bằng các tem tự dán giá 37 cent kỷ niệm các nhà khoa học Mỹ. Các nhà khoa học được nhắc đến là Richard Feynman, John von Neumann, Barbara McClintock, và Josiah Willard Gibbs. Con tem hình Feynman, có màu nâu đỏ, gồm một tấm hình Feynman, tám biểu đồ Feynman cùng như chi tiết nhỏ khác. Con tem do Victor Stabin thiết kế theo hướng nghệ thuật do Carl T. Herrman chỉ đạo. Tòa nhà chính của Trung tâm tính toán ở Fermilab mang tên "Trung tâm tính toán Feynman" để vinh danh ông. Một bức hình Richard Feynman đang giảng bài được chèn vào các biển quảng bá của Apple Inc. năm 1988 cho chiến dịch quảng cáo "Think Different" của họ. Nhân vật Sheldon Cooper trong chương trình hài kịch "The Big Bang Theory" là một fan hâm mộ Feynman mà thường bắt chước chơi trống bongo. Ngày 27 tháng 1 năm 2016, Bill Gates viết một bài báo nhan đề "The Best Teacher I Never Had" nói về tài năng của Feynman mà đã giúp Gates có cảm hứng tạo ra Dự án Tuva có mục đích đăng tải miễn phí các bài giảng Messenger (Messenger Lectures) của Feynman về Tính chất các định luật vật lý (The Character of Physical Law) dành cho công chúng. Năm 2015 Gates thực hiện một video giải thích tại sao ông nghĩ Feynman là một người đặc biệt. Video được thực hiện nhân dịp kỷ niệm 50 năm Feynman nhận giải Nobel năm 1965, đáp lại lời kêu gọi mọi người của Caltech biểu lộ những suy nghĩ về Feynman.
"The Feynman Lectures on Physics" is perhaps his most accessible work for anyone with an interest in physics, compiled from lectures to Caltech undergraduates in 1961–1964. As news of the lectures' lucidity grew, professional physicists and graduate students began to drop in to listen. Co-authors Robert B. Leighton và Matthew Sands, colleagues of Feynman, edited and illustrated them into book form. The work has endured and is useful to this day. They were edited and supplemented in 2005 with "Feynman's Tips on Physics: A Problem-Solving Supplement to the Feynman Lectures on Physics" by Michael Gottlieb and Ralph Leighton (Robert Leighton's son), with support from Kip Thorne and other physicists.
|
6067 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6067 | Số lượng tử | Số lượng tử thể hiện các trạng thái lượng tử rời rạc của một hệ trong cơ học lượng tử. Ví dụ về hệ cơ học lượng tử thông dụng là:
Bảng dưới đây liệt kê một số loại số lượng tử thông dụng:
Mỗi trạng thái của electron trong một nguyên tử đặc trưng bởi 3 số lượng tử: n, l, ml.
|
6075 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6075 | Bộ Ăn thịt | Bộ Ăn Thịt (Carnivora) là bộ bao gồm các loài động vật có vú nhau thai chuyên ăn thịt. Các thành viên của bộ này được chính thức gọi là động vật ăn thịt, mặc dù một số loài là ăn tạp, như gấu mèo và gấu, và khá nhiều loài như gấu trúc là động vật chuyên ăn cỏ. Các thành viên của Bộ Ăn Thịt có cấu trúc hộp sọ đặc trưng, và hàm răng bao gồm răng nanh và răng hàm có khả năng xé thịt. Từ 'ăn thịt' có nguồn gốc từ tiếng Latin carō (carn-) "thịt" và vorāre "nuốt chửng", thuật ngữ này được dùng để chỉ về bất kỳ sinh vật ăn thịt nào. Bộ Ăn thịt là bộ lớn thứ năm trong Lớp Thú có vú, và là một trong những bộ thành công nhất; nó bao gồm ít nhất 279 loài sống trên mọi vùng đất liền và nhiều môi trường sống khác nhau, từ các vùng cực lạnh đến các vùng siêu khô cằn của sa mạc Sahara đến vùng đại dương.
Các loài trong bộ này có một loạt dạng cơ thể khác nhau với hình dáng và kích cỡ tương phản nhau. Loài nhỏ nhất là triết bụng trắng ("Mustela nivalis") với chiều dài cơ thể khoảng 11 cm (4,3 in) và trọng lượng khoảng 25 g (0,88 oz). Loài lớn nhất là hải tượng phương nam ("Mirounga leonina"), với con đực trưởng thành nặng tới 5.000 kg (11.000 lb) và có kích thước lên tới 6,7 m (22 ft). Tất cả các loài thú ăn thịt đều có nguồn gốc từ một nhóm động vật có vú có quan hệ với loài tê tê ngày nay, đã xuất hiện ở Bắc Mỹ 6 triệu năm sau sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng-Cổ Cận. Những tổ tiên đầu tiên của thú ăn thịt giống như những con chồn nhỏ hoặc những động vật có vú giống loài chồn genet, sinh sống về đêm dưới mặt rừng hoặc trên cây, vì các nhóm động vật có vú khác như Mesonychia và Creodonta đã chiếm giữ những hốc đá. Tuy nhiên, bắt đầu từ thế Miocen, hầu hết (nếu không phải tất cả) các họ thú ăn thịt đã đa dạng hóa và chiếm lĩnh hốc này.
Các hệ phân loại cũ chia bộ này ra làm hai phân bộ, là Fissipedia (Chân ngón), bao gồm các họ của các động vật ăn thịt chủ yếu trên đất liền, và phân bộ Pinnipedia (Chân màng và Chân vây) bao gồm hải cẩu, sư tử biển và voi biển. Với các dữ liệu sinh học phân tử mới về quan hệ di truyền, hiện nay Bộ Ăn Thịt được chia làm 2 phân bộ: Phân bộ Dạng mèo (Feliformia), và Phân bộ Dạng chó (Caniformia) gồm cả các loài thuộc Phân bộ Chân màng (Pinnipedia). Các nghiên cứu phân tử gần đây cho rằng các loài sinh vật đặc hữu của Bộ Ăn Thịt ở Madagascar, bao gồm ba chi thuộc họ Viverridae và bốn chi cầy mangut thuộc Họ Herpestidae, tất cả đều là hậu duệ của một tổ tiên chung, và tạo thành một đơn vị phân loại duy nhất có quan hệ chị em với Họ Herpestidae. Đơn vị phân loại này hiện tại tách ra thành Họ Eupleridae (Họ Cầy Madagascar).
|
6082 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6082 | Nhân tế bào | Trong sinh học tế bào, nhân tế bào là một bào quan được bao bọc bởi màng tế bào tồn tại bên trong các tế bào nhân thực. Sinh vật nhân thực chỉ có một nhân. Tuy nhiên, hồng cầu của lớp thú không có nhân, và một số loại tế bào khác có nhiều nhân, ví dụ là tế bào hủy xương (osteoclast). Cấu trúc chính của nhân tế bào là màng nhân và ma trận nhân (bao gồm lưới lót màng nhân). Màng nhân là màng kép bao phủ toàn bộ nhân và tách biệt nó khỏi tế bào chất. Ma trận nhân là một mạng lưới bên trong nhân có chức năng hỗ trợ cấu trúc nhân giống như cách bộ xương tế bào hỗ trợ cấu trúc tế bào.
Nhân tế bào chứa hết bộ gen của sinh vật, ngoại trừ DNA ty thể, được cuộn lại thành nhiều chuỗi DNA bao gồm các phức hợp protein. Phức hợp protein có nhiều loại protein khác nhau, ví dụ histone, để cấu thành các nhiễm sắc thể. Gen trong các nhiễm sắc thể có cấu trúc đặc thù để thúc đẩy chức năng của tế bào. Nhân tế bào bảo quản độ ổn định của gen và quản lý các hoạt động của tế bào bằng cách điều chỉnh biểu hiện gen. Do đó, nhân tế bào được coi là trung tâm điều khiển của tế bào.
Bởi vì các phân tử lớn không thể đi xuyên qua màng nhân, lỗ nhân điều tiết cơ chế vận chuyển phân tử lớn ra vào nhân. Lỗ nhân thông qua cả hai màng nhân hình thành kênh ion để các phân tử lớn có thể thông qua bằng các protein vận chuyển, và các phân tử và ion nhỏ có thể di chuyển ra vào tự do. Dịch chuyển các phân tử lớn như protein và RNA ra vào nhân tế bào là điều cần thiết để biểu hiện gen và bảo quản nhiễm sắc thể.
Mặc dù bên trong nhân tế bào không được chia ra thành các gian, các chất bên trong không được đồng dạng. Nhiều nhân thể (nuclear bodies) khác nhau tồn tại; chúng được hình thành bằng các protein độc nhất, phân tử RNA, và một phần riêng biệt của nhiễm sắc thể. Bộ phận đặc trưng nhất của nhân tế bào là nhân con; nó có chức năng sản xuất ribosome. Sau khi được sản xuất ở trong nhân con, ribosome được vận chuyển ra tế bào chất để dịch mã mRNA.
Nhân tế bào chứa đựng gần hết toàn bộ DNA của tế bào. Nó được bao phủ bởi sợi trung gian và được bao bọc bởi màng nhân kép. Màng nhân bao phủ nhân tế bào, và bên trong có chứa chất nhân. Kích cỡ của nhân tùy thuộc vào kích thước của tế bào đó, thường thì nhân chiếm 8% tổng thể tích tế bào.
Nhân là bào quan lớn nhất trong tế bào động vật. Trong tế bào của lớp thú, đường kính trung bình của nhân là khoảng 6 micrometer (µm).
|
6095 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6095 | Trường điện từ | Điện từ trường (còn gọi là trường Maxwell) là một trong những trường của vật lý học. Nó là một dạng vật chất đặc trưng cho tương tác giữa các hạt mang điện. Trường điện từ cũng do các hạt mang điện sinh ra, và là trường thống nhất của điện trường và từ trường. Đặc trưng cho khả năng tương tác của trường điện từ là các đại lượng cường độ điện trường, độ điện dịch, cảm ứng từ và cường độ từ trường (thường được ký hiệu lần lượt là E, D, B và H).
Năm 1865, nhà vật lý người Anh James Clerk Maxwell đã kết hợp các định luật về điện và từ đã biết để tạo ra lý thuyết Maxwell. Lý thuyết này dựa trên sự tồn tại của các "trường", hiểu nôm na là môi trường truyền tác động từ nơi này đến nơi khác. Ông nhận thấy rằng các trường truyền nhiễu loạn điện và từ là các thực thể động: chúng có thể dao động và truyền trong không gian. Lý thuyết Maxwell có thể gộp lại vào hai phương trình mô tả động học của các trường này, gọi là các phương trình Maxwell. Dựa vào lý thuyết này, Maxwell đã đi đến một kết luận: tất cả các sóng điện từ đều truyền trong không gian (chân không) với một vận tốc không đổi bằng vận tốc ánh sáng.
Để mô tả trường điện từ, Maxwell đưa ra những phương trình cơ bản tạo thành hệ các phương trình Maxwell về trường điện từ.
Phương trình này diễn tả luận điểm thứ nhất của Maxwell về mối liên hệ giữa từ trường biến thiên và điện trường xoáy.
Dạng vi phân:
Dạng tích phân:
Phương trình này diễn tả luận điểm thứ hai của Maxwell, theo đó điện trường biến thiên cũng sinh ra từ trường như dòng điện dẫn.
Dạng vi phân:
Dạng tích phân:
Định lý này diễn tả tính không khép kín của các đường sức điện trường tĩnh, chúng luôn từ các điện tích dương đi ra và đi vào các điện tích âm.
Dạng vi phân:
Dạng tích phân:
Định lý này diễn tả tính khép kín của các đường sức từ, theo đó từ trường là trường không có nguồn.
Dạng vi phân:
Dạng tích phân:
Trong khoảng không gian có trường điện từ thì cũng có năng lượng định xứ, với mật độ "u" tính bằng:
Ở đây, E, D, B, H lần lượt là cường độ điện trường, độ điện dịch, cảm ứng từ và cường độ từ trường của điện từ trường. Như vậy trên thể tích "V", tổng năng lượng điện từ là:
Trong chân không, D = εE và B = μH với ε và μ lần lượt là hằng số điện môi chân không và hằng số từ thẩm chân không. Do đó, mật độ năng lượng điện từ trường trong chân không có thể rút gọn thành:
Trong môi trường điện môi lý tưởng D = εεE = εE và thuận từ hoặc nghịch từ lý tưởng B = μμH = μH. Do đó, mật độ năng lượng điện từ trường trong các môi trường này có thể rút gọn thành:
Trường điện từ được sinh ra bởi các điện tích chuyển động và đứng yên. Tính chất chuyển động hay đứng yên của các hạt mang điện hoàn toàn phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Do đó, các tính chất của trường điện từ phụ thuộc hệ quy chiếu trong đó ta đứng yên để quan sát chúng.
Một hạt mang điện tích "q" chuyển động với vận tốc v trong một điện từ trường, có cường độ điện trường E và cảm ứng từ B sẽ chịu lực tác dụng, F, gọi là lực Lorentz:
|
6096 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6096 | Bảo toàn năng lượng | Trong vật lý và hóa học, định luật bảo toàn năng lượng nói rằng tổng năng lượng của một hệ cô lập là không đổi; tức là nó được "bảo toàn" theo thời gian. Định luật này được đề xuất và thử nghiệm đầu tiên bởi Émilie du Châtelet. Ý nghĩa của nó là năng lượng không thể được tạo ra cũng như không thể bị phá hủy; thay vào đó, nó chỉ có thể được biến đổi từ dạng này sang dạng khác hoặc chuyển đổi từ vật này sang vật khác (hoặc cả hai). Ví dụ, năng lượng hóa học được chuyển đổi thành động năng khi một thanh thuốc nổ phát nổ. Nếu cộng thêm tất cả các dạng năng lượng được giải phóng trong vụ nổ, chẳng hạn như động năng và thế năng của các mảnh vỡ, cũng như nhiệt và âm thanh, người ta sẽ nhận được chính xác sự giảm năng lượng hóa học trong quá trình đốt cháy chất nổ. Theo vật lý cổ điển, bảo toàn năng lượng khác với bảo toàn khối lượng; tuy nhiên, thuyết tương đối đặc biệt cho thấy khối lượng có liên quan đến năng lượng, và ngược lại, bởi phương trình "E=mc", và khoa học hiện nay cho rằng toàn bộ năng-khối-lượng được bảo toàn. Về mặt lý thuyết, điều này ngụ ý rằng bất kỳ vật thể nào có khối lượng đều có thể tự chuyển đổi thành năng lượng thuần túy và ngược lại, mặc dù điều này được cho là chỉ có thể xảy ra trong điều kiện khắc nghiệt nhất của vật chất, như (đã) có khả năng tồn tại trong vũ trụ ngay sau Vụ Nổ lớn hoặc khi lỗ đen phát ra bức xạ Hawking.
Định luật bảo toàn năng lượng có thể được chứng minh chặt chẽ bằng định lý Noether như là hệ quả của sự đối xứng dịch thời gian liên tục; tức là, từ thực tế là các định luật vật lý không thay đổi theo thời gian.
Hệ quả của định luật bảo toàn năng lượng là một động cơ vĩnh cửu loại I không thể tồn tại, nghĩa là, không có hệ thống nào không có nguồn cung cấp năng lượng bên ngoài có thể cung cấp một lượng năng lượng vô hạn cho môi trường xung quanh. Đối với các hệ thống không có đối xứng dịch thời gian, có thể không xác định được "bảo toàn năng lượng". Các ví dụ bao gồm các không gian cong trong thuyết tương đối rộng hoặc tinh thể thời gian trong vật lý vật chất ngưng tụ.
Các nhà triết học cổ đại thời xa xưa như Thales xứ Miletus 550 TCN có nói về sự bảo toàn của một chất cơ bản nào đó mà từ nó mọi thứ được tạo ra. Tuy nhiên, không có lý do cụ thể để xác định lý thuyết của họ với những gì chúng ta biết ngày nay về "khối-năng lượng" (ví dụ, Thales nghĩ rằng chất đó là nước). Empedocles (490-430 TCN) đã viết rằng trong hệ thống phổ quát của mình, bao gồm bốn nguyên tố (đất, không khí, nước, lửa), "không có gì tự tạo ra hoặc bị diệt vong"; thay vào đó, các yếu tố này phải chịu sự sắp xếp lại liên tục. Epicurus ( 350 TCN) lại tin rằng mọi thứ trong vũ trụ bao gồm các đơn vị vật chất không thể chia cắt - tiền thân của 'nguyên tử' - và ông cũng có một số ý tưởng về sự cần thiết của bảo toàn, nói rằng "tổng số của sự vật vốn luôn là như nó đang là, và như vậy nó sẽ mãi là".
Năm 1605, Simon Stevinus đã có thể giải quyết một số vấn đề tĩnh học dựa trên nguyên tắc chuyển động vĩnh viễn là bất khả.
Năm 1639, Galileo đã công bố phân tích của mình về một số tình huống, bao gồm cả "con lắc bị gián đoạn" nổi tiếng, có thể được mô tả (theo ngôn ngữ hiện đại) là chuyển đổi thế năng thành động năng và ngược lại. Về cơ bản, ông chỉ ra rằng một vật chuyển động sẽ lên tới chiều cao bằng với chiều cao mà từ đó nó rơi xuống, và sử dụng quan sát này để suy ra ý tưởng về quán tính. Khía cạnh đáng chú ý của quan sát này là chiều cao mà một vật chuyển động có thể lên tới trên một bề mặt không ma sát không phụ thuộc vào hình dạng của bề mặt.
Năm 1669, Christiaan Huygens công bố luật va chạm của ông. Trong số các đại lượng ông liệt kê là bất biến trước và sau va chạm của các vật thể, có tổng của mô men tuyến tính cũng như tổng động năng của chúng. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa va chạm đàn hồi và không đàn hồi không được hiểu rõ tại thời điểm đó. Điều này dẫn đến tranh chấp giữa các nhà nghiên cứu sau này về việc đại lượng được bảo toàn nào là cơ bản hơn (trong hai đại lượng: động lượng và năng lượng). Trong "Horologium Oscillatorium", ông đã đưa ra một tuyên bố rõ ràng hơn nhiều về chiều cao của một cơ thể đang chuyển động, và kết nối ý tưởng này với sự bất khả thi của một chuyển động vĩnh viễn. Nghiên cứu của Huygens về động lực học của chuyển động con lắc dựa trên một nguyên tắc duy nhất: trọng tâm của một vật nặng không thể tự nâng lên.
Thực tế là động năng là vô hướng, không giống như động lượng tuyến tính là một vectơ, và do đó dễ dàng làm việc hơn đã không thoát khỏi sự chú ý của Gottfried Wilhelm Leibniz. Đó là Leibniz trong những năm 1676-1689, người đầu tiên đã thử một công thức toán học của loại năng lượng được kết nối với "chuyển động" (động năng). Sử dụng công Huygens' va chạm, Leibniz nhận thấy rằng trong nhiều hệ thống cơ khí (một số vật có khối lượng, "m" mỗi với vận tốc "v"
formula_1
được bảo toàn miễn là các vật không tương tác. Ông gọi số lượng này là "vis viva" hoặc "lực lượng sống" của hệ thống. Nguyên tắc này thể hiện một tuyên bố chính xác về sự bảo toàn gần đúng của động năng trong các tình huống không có ma sát. Nhiều nhà vật lý tại thời điểm đó, như Newton, cho rằng việc bảo toàn động lượng được duy trì ngay cả trong các hệ có ma sát, như được xác định bởi động lượng:
formula_2
là "vis viva" được bảo toàn. Sau đó, người ta đã chứng minh rằng cả hai đại lượng được bảo toàn đồng thời, với các điều kiện thích hợp như va chạm đàn hồi.
Năm 1687, Isaac Newton xuất bản cuốn "Principia" của ông, được viết xoay quanh khái niệm lực và động lượng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng nhận ra rằng các nguyên tắc được nêu trong cuốn sách, trong khi tốt cho khối lượng điểm, không đủ để giải quyết các chuyển động của vật thể rắn và lỏng. Một số nguyên tắc khác cũng được yêu cầu.
Định luật bảo toàn vis viva đã được phát biểu do bộ đôi cha con, Johann và Daniel Bernoulli. Người cha đã đưa ra nguyên tắc của công ảo như được sử dụng trong các thống kê trong toàn bộ năm 1715, trong khi người con dựa trên "Hydrodynamica", được xuất bản năm 1738, theo nguyên tắc bảo toàn duy nhất này. Nghiên cứu của Daniel về việc mất đi vis viva của dòng nước chảy đã khiến ông xây dựng nguyên tắc Bernoulli, liên quan đến sự mất mát tỷ lệ thuận với sự thay đổi của áp lực thủy động lực học. Daniel cũng hình thành khái niệm về công việc và hiệu quả cho máy thủy lực; và ông đã đưa ra một lý thuyết động học về chất khí và liên kết động năng của các phân tử khí với nhiệt độ của khí.
Sự tập trung vào vis viva của các nhà vật lý lục địa cuối cùng đã dẫn đến việc phát hiện ra các nguyên tắc điều khiển cơ học tĩnh, như nguyên lý D'Alembert, cơ học Lagrange và cơ học Hamilton.
Émilie du Châtelet (1706 - 1749) đã đề xuất và thử nghiệm giả thuyết bảo toàn tổng năng lượng, khác với động lượng. Lấy cảm hứng từ các lý thuyết của Gottfried Leibniz, cô đã lặp lại và công khai một thí nghiệm ban đầu được phát minh bởi Gravesande của Willem vào năm 1722, trong đó các quả bóng được thả từ các độ cao khác nhau vào một tấm đất sét mềm. Động năng của mỗi quả bóng - được biểu thị bằng số lượng vật chất bị dịch chuyển - được hiển thị tỷ lệ với bình phương vận tốc. Sự biến dạng của đất sét đã được tìm thấy tỷ lệ thuận với chiều cao mà từ đó các quả bóng được thả xuống, bằng với năng lượng tiềm năng ban đầu. Các công nhân trước đó, bao gồm Newton và Voltaire, đều tin rằng "năng lượng" (theo như họ hiểu khái niệm này) không khác biệt với động lượng và do đó tỷ lệ thuận với vận tốc. Theo cách hiểu này, sự biến dạng của đất sét phải tỷ lệ thuận với căn bậc hai của chiều cao mà từ đó các quả bóng được thả xuống. Trong vật lý cổ điển công thức đúng là formula_3, Ở đâu formula_4 là động năng của một vật, formula_5 khối lượng của nó và formula_6 tốc độ của nó. Trên cơ sở này, du Châtelet đề xuất rằng năng lượng phải luôn có cùng kích thước dưới mọi hình thức, điều cần thiết để có thể liên kết nó dưới các hình thức khác nhau (động học, thế năng, nhiệt lượng).
Các kỹ sư như John Smeaton, Peter Ewart, Carl Holtzmann, Gustave-Adolphe Hirn và Marc Seguin nhận ra rằng bảo toàn động lượng một mình là không đủ để tính toán thực tế và sử dụng nguyên lý của Leibniz. Nguyên tắc này cũng được một số nhà hóa học như William Hyde Wollaston chỉ ra. Các học giả như John Playfair đã nhanh chóng chỉ ra rằng động năng rõ ràng không được bảo toàn. Điều này là hiển nhiên đối với một phân tích hiện đại dựa trên định luật nhiệt động lực học thứ hai, nhưng trong thế kỷ 18 và 19, số phận của năng lượng bị mất vẫn chưa được biết.
Dần dần, người ta nghi ngờ rằng sức nóng chắc chắn được tạo ra bởi chuyển động dưới ma sát là một dạng khác của "vis viva". Năm 1783, Antoine Lavoisier và Pierre-Simon Laplace đã xem xét hai lý thuyết cạnh tranh của lý thuyết "vis viva" và caloric. Các quan sát về sự sinh nhiệt năm 1798 của Rumford trong quá trình nhàm chán của pháo đã tăng thêm trọng lượng cho quan điểm rằng chuyển động cơ học có thể được chuyển thành nhiệt và (quan trọng là) chuyển đổi là định lượng và có thể dự đoán được (cho phép hằng số chuyển đổi phổ quát giữa động năng và nhiệt). "Vis viva" sau đó bắt đầu được gọi là "năng lượng", sau khi thuật ngữ này lần đầu tiên được Thomas Young sử dụng theo nghĩa đó vào năm 1807.
Việc hiệu chỉnh lại "vis viva" thành
formula_7
có thể hiểu là chuyển đổi động năng sang công, phần lớn là kết quả của Gaspard-Gustave Coriolis và Jean-Victor Poncelet trong giai đoạn 1819-1839. Cái trước gọi là "quantité de travail" (số lượng công việc) và cái sau, "travail mécanique" (công việc cơ khí), và cả hai đều tập trung sử dụng nó trong tính toán kỹ thuật.
Trong một bài báo "Über die Natur der Wärme" (tiếng Đức "Về bản chất của nhiệt"), được xuất bản trên tờ "Zeitschrift für Physik" năm 1837, Karl Friedrich Mohr đã đưa ra một trong những tuyên bố chung đầu tiên về học thuyết bảo toàn năng lượng bằng từ ngữ: "ngoài 54 nguyên tố hóa học đã biết, chỉ có một tác nhân trong thế giới vật lý, và đây được gọi là "Kraft" [năng lượng hoặc công]. Nó có thể xuất hiện, tùy theo hoàn cảnh, như chuyển động, ái lực hóa học, sự gắn kết, điện, ánh sáng và từ tính; và từ bất kỳ một trong những hình thức này, nó có thể được chuyển đổi thành bất kỳ hình thức nào khác. "
Một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của nguyên lý bảo toàn hiện đại là trình diễn sự "tương đương cơ học của nhiệt". Lý thuyết nhiệt lượng duy trì rằng nhiệt không thể được tạo ra cũng như không bị phá hủy, trong khi bảo toàn năng lượng đòi hỏi nguyên tắc trái ngược là nhiệt và công cơ học có thể thay thế cho nhau.
Vào giữa thế kỷ thứ mười tám, Mikhail Lomonosov, một nhà khoa học người Nga, đã đưa ra giả thuyết về nhiệt động lực học của mình, đã bác bỏ ý tưởng về nhiệt lượng. Thông qua kết quả nghiên cứu thực nghiệm, Lomonosov đã đi đến kết luận rằng nhiệt không được truyền qua các hạt của chất lỏng nhiệt.
Năm 1798, Bá tước Rumford (Benjamin Thompson) đã thực hiện các phép đo nhiệt ma sát sinh ra trong các khẩu pháo và phát triển ý tưởng rằng nhiệt là một dạng của động năng; các phép đo của ông đã bác bỏ lý thuyết nhiệt lượng, nhưng không đủ chính xác để phản bác các nghi ngờ.
Nguyên lý tương đương cơ học lần đầu tiên được bác sĩ phẫu thuật người Đức Julius Robert von Mayer đưa ra dưới dạng hiện đại vào năm 1842. Mayer đã đưa ra kết luận này trong chuyến đi đến Đông Ấn Hà Lan, nơi ông thấy rằng máu của bệnh nhân của mình có màu đỏ thẫm hơn vì họ tiêu thụ ít oxy hơn và do đó ít năng lượng hơn để duy trì nhiệt độ cơ thể trong điều kiện khí hậu nóng hơn. Ông phát hiện ra rằng nhiệt và công cơ học là cả hai dạng năng lượng và vào năm 1845, sau khi nâng cao kiến thức về vật lý, ông đã xuất bản một chuyên khảo về mối quan hệ định lượng giữa chúng.
Trong khi đó, vào năm 1843, James Prescott Joule đã độc lập phát hiện ra sự tương đương cơ học trong một loạt các thí nghiệm. Trong nổi tiếng nhất, bây giờ được gọi là "bộ máy Joule", trọng lượng giảm dần gắn liền với một chuỗi đã khiến một mái chèo chìm trong nước xoay. Ông đã chỉ ra rằng năng lượng hấp dẫn bị mất bởi trọng lượng giảm dần bằng với năng lượng bên trong mà nước thu được thông qua ma sát với mái chèo.
Trong giai đoạn 1840-1843, công việc tương tự được thực hiện bởi kỹ sư Ludwig A. Cold, mặc dù nó ít được biết đến bên ngoài quê hương Đan Mạch của ông.
Khám phá của Joule và Mayer đều bị kháng cự và bỏ mặc nhưng khám phá của Joule cuối cùng đã thu hút được sự công nhận rộng rãi hơn.
Năm 1844, William Robert Grove đã đưa ra mối quan hệ giữa cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện và từ tính bằng cách coi tất cả chúng là biểu hiện của một "lực" ("năng lượng" theo thuật ngữ hiện đại). Năm 1846, Grove công bố lý thuyết của mình trong cuốn sách "Tương quan lực lượng vật lý". Năm 1847, dựa trên tác phẩm trước đó của Joule, Sadi Carnot và Émile Clapeyron, Hermann von Helmholtz đã đưa ra kết luận tương tự như Grove và công bố lý thuyết của mình trong cuốn sách "Über die Erhaltung der Kraft" ("On the Conservation of Force", 1847). Sự chấp nhận hiện đại nói chung của nguyên tắc tương đương cơ học bắt nguồn từ ấn phẩm này.
Năm 1850, William Rankine lần đầu tiên sử dụng cụm từ "định luật bảo toàn năng lượng" cho nguyên tắc này.
Năm 1877, Peter Guthrie Tait tuyên bố rằng nguyên tắc này bắt nguồn từ Isaac Newton, dựa trên một bài đọc sáng tạo về các mệnh đề 40 và 41 của "Philosophiae Naturalis Principia Mathematica". Điều này hiện được coi là một ví dụ về lịch sử Whig.
Vật chất bao gồm các nguyên tử và những gì tạo nên các nguyên tử. Vật chất có khối lượng "nội tại" hoặc "khối lượng nghỉ". Trong phạm vi hạn chế của kinh nghiệm được công nhận của thế kỷ XIX, người ta thấy rằng phần còn lại như vậy được bảo toàn. Lý thuyết tương đối đặc biệt năm 1905 của Einstein đã chỉ ra rằng khối lượng nghỉ tương ứng với một lượng "năng lượng nghỉ" tương đương. Điều này có nghĩa là "khối lượng nghỉ" có thể được chuyển đổi thành hoặc từ các dạng năng lượng (phi vật chất) tương đương, ví dụ như động năng, thế năng và năng lượng bức xạ điện từ. Khi điều này xảy ra, như được công nhận trong kinh nghiệm thế kỷ XX, khối lượng nghỉ không được bảo toàn, không giống như "tổng" khối lượng hoặc "tổng" năng lượng. Tất cả các dạng năng lượng đóng góp vào tổng khối lượng và tổng năng lượng.
Ví dụ, mỗi electron và positron đều có khối lượng nghỉ. Chúng có thể diệt vong cùng nhau, chuyển đổi năng lượng nghỉ kết hợp của chúng thành các photon có năng lượng bức xạ điện từ, nhưng không có khối lượng nghỉ. Nếu điều này xảy ra trong một hệ cô lập không giải phóng các photon hoặc năng lượng của chúng ra môi trường bên ngoài, thì tổng "khối lượng" cũng như tổng "năng lượng" của hệ sẽ không thay đổi. Năng lượng bức xạ điện từ được tạo ra đóng góp tương đương với quán tính (và bất kỳ trọng lượng nào) của hệ thống cũng như khối lượng còn lại của electron và positron trước khi chúng bị phá hủy. Tương tự như vậy, các dạng năng lượng phi vật chất có thể bị tiêu diệt thành vật chất, có khối lượng nghỉ.
Do đó, bảo toàn năng lượng ("tổng", bao gồm cả năng lượng vật chất hoặc năng lượng "nghỉ") và bảo toàn khối lượng (năng lượng "tổng", không chỉ năng lượng "nghỉ"), mỗi cái vẫn giữ như một định luật (tương đương). Trong thế kỷ 18, những điều này đã xuất hiện như hai định luật dường như khác biệt.
Phát hiện vào năm 1911 rằng các electron phát ra trong phân rã beta có liên tục chứ không phải là phổ rời rạc có vẻ mâu thuẫn với bảo toàn năng lượng, theo giả định hiện tại rằng phân rã beta là sự phát xạ đơn giản của electron từ hạt nhân. Vấn đề này cuối cùng đã được giải quyết vào năm 1933 bởi Enrico Fermi, người đã đề xuất mô tả chính xác về sự phân rã beta vì sự phát xạ của cả electron và antineutrino, mang theo năng lượng bị thiếu rõ ràng.
Đối với một hệ thống nhiệt động khép kín, định luật nhiệt động lực học đầu tiên có thể được nêu là:
formula_8 hoặc tương đương formula_9
trong đó formula_10 là lượng năng lượng được thêm vào hệ thống bằng một quá trình gia nhiệt, formula_11 là lượng năng lượng bị mất bởi hệ thống do công được thực hiện bởi hệ thống trên môi trường xung quanh và formula_12 là sự thay đổi năng lượng bên trong của hệ thống.
Các before trước các thuật ngữ nhiệt và công việc được sử dụng để chỉ ra rằng chúng mô tả sự gia tăng năng lượng sẽ được giải thích hơi khác so với formula_12 sự gia tăng của năng lượng bên trong (xem sự khác biệt không chính xác). Công việc và nhiệt liên quan đến các loại quy trình thêm hoặc bớt năng lượng vào hoặc từ một hệ thống, trong khi năng lượng bên trong formula_14 là một tính chất của một trạng thái cụ thể của hệ thống khi nó ở trạng thái cân bằng nhiệt động không thay đổi. Do đó, thuật ngữ "năng lượng nhiệt" cho formula_10 có nghĩa là "lượng năng lượng được thêm vào như là kết quả của việc sưởi ấm" thay vì đề cập đến một dạng năng lượng cụ thể. Tương tự như vậy, thuật ngữ "năng lượng làm việc" cho formula_11 có nghĩa là "lượng năng lượng bị mất là kết quả của công việc". Do đó, người ta có thể nói lượng năng lượng bên trong được sở hữu bởi một hệ thống nhiệt động mà người ta biết hiện đang ở một trạng thái nhất định, nhưng người ta không thể biết, chỉ từ kiến thức về trạng thái hiện tại, bao nhiêu năng lượng trong quá khứ đã chảy vào hoặc thoát ra hệ thống là kết quả của việc nó được làm nóng hoặc làm mát, cũng như kết quả của công việc được thực hiện trên hoặc bởi hệ thống.
Entropy là một chức năng của trạng thái của một hệ thống cho biết những hạn chế về khả năng chuyển đổi nhiệt sang công.
Đối với một hệ thống nén đơn giản, công việc được thực hiện bởi hệ thống có thể được viết thành:
formula_17
trong đó formula_18 là áp lực và formula_19 là một thay đổi nhỏ trong khối lượng của hệ thống, mỗi biến là các biến hệ thống. Trong trường hợp giả tưởng trong đó quá trình được lý tưởng hóa và vô cùng chậm, để được gọi là "bán tĩnh", và được coi là có thể đảo ngược, nhiệt được truyền từ một nguồn có nhiệt độ vô cùng cao hơn nhiệt độ hệ thống, sau đó năng lượng nhiệt có thể được viết thành
formula_20
Ở đâu formula_21 là nhiệt độ và formula_22 là một thay đổi nhỏ trong entropy của hệ thống. Nhiệt độ và entropy là các biến trạng thái của một hệ thống.
Nếu một hệ thống mở (trong đó khối lượng có thể được trao đổi với môi trường) có một số bức tường sao cho việc chuyển khối qua các bức tường cứng tách biệt với nhiệt và chuyển công việc, thì luật đầu tiên có thể được viết:
formula_23
trong đó formula_24 là khối lượng được thêm vào và formula_25 là năng lượng bên trong trên một đơn vị khối lượng của khối lượng được thêm vào, được đo trong môi trường xung quanh trước quá trình.
Việc bảo toàn năng lượng là một đặc điểm phổ biến trong nhiều lý thuyết vật lý. Từ quan điểm toán học, nó được hiểu là hệ quả của định lý Noether, được Emmy Noether phát triển vào năm 1915 và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1918. Định lý nêu mọi đối xứng liên tục của một lý thuyết vật lý có một đại lượng bảo toàn liên quan; nếu tính đối xứng của lý thuyết là bất biến theo thời gian thì đại lượng được bảo toàn được gọi là "năng lượng". Định luật bảo toàn năng lượng là hệ quả của sự đối xứng dịch chuyển của thời gian; bảo toàn năng lượng được ngụ ý bởi thực tế thực nghiệm rằng các định luật vật lý không thay đổi theo thời gian. Về mặt triết học, điều này có thể được tuyên bố là "không có gì phụ thuộc vào thời gian mỗi lần". Nói cách khác, nếu hệ thống vật lý bất biến dưới sự đối xứng liên tục của dịch thời gian thì năng lượng của nó (là đại lượng liên hợp chính tắc với thời gian) được bảo toàn. Ngược lại, các hệ thống không bất biến theo thời gian (ví dụ, các hệ thống có năng lượng tiềm năng phụ thuộc thời gian) không thể hiện sự bảo toàn năng lượng - trừ khi chúng ta xem xét chúng để trao đổi năng lượng với hệ thống khác, hệ thống bên ngoài để lý thuyết về hệ thống mở rộng trở thành bất biến thời gian một lần nữa. bảo toàn năng lượng cho các hệ hữu hạn có giá trị trong các lý thuyết vật lý như thuyết tương đối đặc biệt và lý thuyết lượng tử (bao gồm cả QED) trong không gian phẳng.
Với việc phát hiện ra thuyết tương đối đặc biệt của Henri Poincaré và Albert Einstein, năng lượng được đề xuất là một thành phần của một vectơ 4 động lượng năng lượng. Mỗi trong bốn thành phần (một năng lượng và ba động lượng) của vectơ này được bảo toàn riêng biệt theo thời gian, trong bất kỳ hệ kín nào, như được thấy từ bất kỳ hệ qui chiếu quán tính nào. Cũng được bảo toàn là chiều dài vectơ (chỉ tiêu Minkowski), là phần còn lại của các hạt đơn lẻ và khối lượng bất biến cho các hệ hạt (trong đó mô men và năng lượng được tính riêng trước khi độ dài được tính toán xem bài báo về khối lượng bất biến).
Năng lượng tương đối tính của một hạt lớn duy nhất chứa một thuật ngữ liên quan đến khối lượng nghỉ của nó bên cạnh động năng của chuyển động. Trong giới hạn của động năng bằng không (hoặc tương đương trong hệ qui chiếu nghỉ) của một hạt lớn, hoặc trong hệ qui chiếu tâm động lượng cho các vật hoặc hệ có động năng, tổng năng lượng của hạt hoặc vật (kể cả động năng nội tại của hệ) có liên quan đến khối lượng nghỉ của nó hoặc khối lượng bất biến của nó thông qua phương trình nổi tiếng formula_26.
Do đó, quy luật "bảo toàn năng lượng" theo thời gian trong thuyết tương đối đặc biệt tiếp tục được duy trì, miễn là hệ qui chiếu của người quan sát không thay đổi. Điều này áp dụng cho tổng năng lượng của các hệ thống, mặc dù các nhà quan sát khác nhau không đồng ý với giá trị năng lượng. Cũng được bảo toàn và bất biến đối với tất cả các nhà quan sát, là khối lượng bất biến, là khối lượng và năng lượng hệ thống tối thiểu mà bất kỳ người quan sát nào có thể nhìn thấy, và được xác định bởi mối quan hệ xung lượng năng lượng.
Trong thuyết tương đối rộng, bảo toàn động lượng của năng lượng không được xác định rõ trừ một số trường hợp đặc biệt. Động lượng năng lượng thường được biểu thị với sự trợ giúp của một giả hành động lực căng thẳng. Tuy nhiên, vì các giả ngẫu nhiên không phải là tenxơ, chúng không biến đổi sạch giữa các hệ qui chiếu. Nếu số liệu đang xem xét là tĩnh (nghĩa là không thay đổi theo thời gian) hoặc bằng phẳng không có triệu chứng (nghĩa là ở một khoảng cách vô tận cách xa không thời gian trông trống rỗng), thì bảo toàn năng lượng không có những cạm bẫy lớn. Trong thực tế, một số số liệu như chỉ số Friedmann về Lemaîtreọt Robertsonifer Walker không thỏa mãn những hạn chế này và bảo toàn năng lượng không được xác định rõ. Lý thuyết tương đối rộng để lại câu hỏi liệu có sự bảo toàn năng lượng cho toàn bộ vũ trụ hay không.
|
6098 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6098 | Bức xạ phông vi sóng vũ trụ | Bức xạ phông vi sóng vũ trụ (hay bức xạ nền vũ trụ, bức xạ tàn dư vũ trụ) là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ (khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn). Phổ của nó có dạng giống phổ bức xạ của vật đen với đỉnh nằm trong dải bước sóng vi ba (trong khoảng vài milimét đến vài chục xentimét). Hầu hết các nhà vũ trụ học cho rằng bức xạ phông nền vũ trụ cùng với sự dịch chuyển đỏ là những bằng chứng tốt nhất chứng minh cho sự đúng đắn của mô hình Vụ Nổ Lớn của vũ trụ.
Lý thuyết vụ nổ lớn tiên đoán về sự tồn tại của bức xạ phông vi sóng vũ trụ được tạo thành từ các quang tử phát ra từ giai đoạn sinh hạt baryon. Vì vũ trụ thời kỳ sơ khai ở trạng thái cân bằng nhiệt động nên nhiệt độ của bức xạ và plasma bằng nhau cho đến khi plasma tái hợp. Trước khi nguyên tử được hình thành thì bức xạ bị hấp thụ và tái phát xạ đều trong một quá trình gọi là tán xạ Compton: vũ trụ vào giai đoạn sơ khai không trong suốt với ánh sáng. Tuy nhiên, quá trình nhiệt độ của vũ trụ bị giảm đi khi giãn nở làm cho nhiệt độ xuống thấp hơn 3.000 K, tại nhiệt độ này thì điện tử và hạt nhân kếp hợp với nhau để tạo ra nguyên tử và các plasma nguyên thủy bị biến thành khí trung hòa. Quá trình này được gọi là quá trình giải phóng quang tử. Một vũ trụ chỉ gồm các nguyên tử trung hòa cho phép bức xạ truyền qua mà không bị cản trở nhiều.
Vì tại các giai đoạn sớm, vũ trụ ở trong trạng thái cân bằng nhiệt động nên bức xạ từ thời điểm này có phổ phân bố giống như phổ phát xạ của một vật đen được truyền một cách tự do cho đến ngày nay sẽ bị dịch chuyển đỏ theo định luật Hubble. Bức xạ đó phải được giống nhau theo mọi hướng trong không gian.
Năm 1964, Arno Penzias và Robert Wilson đã phát hiện ra bức xạ phông vũ trụ khi họ tiến hành nghiên cứu một máy thu tín hiệu vi sóng ở phòng thí nghiệm Bell. Khám phá của họ đã khẳng định tiên đoán về bức xạ phông vũ trụ, một bức xạ đẳng hướng và đồng nhất phân bố giống như phổ phát xạ của vật đen có nhiệt độ khoảng 3 K. Penzias và Wilson được trao giải Nobel Vật lý nhờ khám phá này.
Năm 1989, Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ đã phóng Vệ tinh Thăm dò Phông Vũ trụ (COBE), các kết quả ban đầu quan sát được rất phù hợp với các tiên đoán của lý thuyết vụ nổ lớn liên quan đến bức xạ phông vũ trụ. COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư là 2,726 K và xác định được rằng bức xạ đó là đẳng hướng với độ chính xác 10. Vào những năm 1990, tính dị hướng của bức xạ phông vũ trụ được nghiên cứu rất chi tiết bằng rất nhiều các thí nghiệm và kết quả là về mặt hình học, vũ trụ là phẳng (xem hình dáng của vũ trụ).
Vào đầu năm 2003 các kết quả từ Vệ tinh Dị hướng Vi sóng Wilkinson (WMAP) được phóng và đã thu được các giá trị chính xác nhất về các thông số vũ trụ. Vệ tinh này cũng loại bỏ một số mô hình lạm phát vũ trụ đặc biệt nhưng nhìn chung thì các kết quả phù hợp với lý thuyết lạm phát.
|
6099 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6099 | Nguyên lý bất định | Nguyên lý bất định, gọi chính xác là Nguyên lý về tính bất xác định hay Nguyên lý về tính không chắc chắn (tiếng Anh: Uncertainty principle, tiếng Đức: Unschärferelation), là một nguyên lý quan trọng của cơ học lượng tử, do nhà vật lý lý thuyết người Đức Werner Heisenberg phát triển. Nguyên lý này phát biểu rằng: "Ta không bao giờ có thể xác định chính xác cả vị trí lẫn vận tốc (hay động lượng, hoặc xung lượng) của một hạt vào cùng một lúc. Nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại lượng kia càng kém chính xác."
Về mặt toán học, hạn chế đó được biểu hiện bằng bất đẳng thức sau:
Trong công thức trên, formula_2 là sai số của phép đo vị trí, formula_3 là sai số của phép đo động lượng và "h" là hằng số Planck.
Trị số của hằng số Planck "h" trong hệ đo lường quốc tế:
Sai số tương đối trên trị số này là 1,7×10, đưa đến sai số tuyệt đối là 1,1×10 J.s.
Trong tiếng Đức, nguyên lý này được gọi là "Unschärferelation", có nghĩa là "Mối quan hệ không sắc nét" hay "Mối quan hệ của tính mờ nhòe". Trong tiếng Anh thì nguyên lý này được gọi là "Uncertainty principle", tức "Nguyên lý về tính không chắc chắn". Nhưng trong tiếng Việt thì người ta lại hay gọi tóm gọn là "Nguyên lý bất định".
|
6101 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6101 | Chụp cộng hưởng từ | Chụp cộng hưởng từ (còn gọi nôm na là chụp em-rai theo viết tắt tiếng Anh MRI của Magnetic Resonance Imaging) là một phương pháp thu hình ảnh của các cơ quan trong cơ thể sống và quan sát lượng nước bên trong các cấu trúc của các cơ quan. Ảnh cộng hưởng từ hạt nhân dựa trên một hiện tượng vật lý là hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân.
Chụp cộng hưởng từ gọi đầy đủ là "chụp cộng hưởng từ hạt nhân" bắt đầu được dùng để chẩn đoán bệnh từ năm 1982. Hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân bắt đầu được 2 tác giả Bloch và Purcell phát hiện năm 1952. Sự khác nhau cơ bản giữa chụp cộng hưởng từ và chụp X quang là năng lượng dùng trong chụp X quang là năng lượng phóng xạ tia X còn trong chụp cộng hưởng từ là năng lượng vô tuyến điện.
Gồm 4 giai đoạn:
Hiện tượng sắp hàng hạt nhân kết thúc thì các hạt nhân hydrogen tức proton sẽ phóng thích năng lượng dùng để sắp hàng chúng để trở về vị trí ban đầu. Tốc độ phóng thích các phôton này dựa vào năng lượng được phóng thích. Thời gian cần thiết cho 63% vectơ khôi phục theo chiều dọc gọi là T1. Thời gian cần thiết để cho 63% vectơ khôi phục theo chiều ngang gọi là T2.
Khi các proton trở lại sắp hàng như cũ do ảnh hưởng từ trường bên ngoài chúng phóng thích năng lượng dưới dạng tín hiệu tần số vô tuyến. Cường độ phát ra từ một đơn vị khối lượng mô được thể hiện trên một thang màu từ trắng đến đen, trên đó màu trắng là cường độ tín hiệu cao, màu đen là không có tín hiệu. Cường độ tín hiệu của một loại mô phụ thuộc vào thời gian khôi phục lại từ tính T1 và T2, mật độ phôton của nó.
T1 tạo ra tín hiệu MRI mạnh và cho thấy hình ảnh các cấu trúc giải phẫu với T1 dịch não tuỷ, lớp vỏ xương, không khí và máu lưu thông với tốc độ cao tạo ra những tín hiệu không đáng kể và thể hiện màu sẫm. Chất trắng và chất xám biểu hiện bằng màu xám khác nhau và chất xám đậm hơn. Với T1 thì mô mỡ có màu sáng đó là lợi thế lớn nhất để ghi hình mô mỡ trong hốc mắt, ngoài màng cứng tuỷ xương và cột sống. Máu tụ mạn tính có hình ảnh tín hiệu cao và thể hiện ảnh màu trắng. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hàm lượng nước trong mô không lớn thì độ nhạy hình ảnh T1 không cao. Do đó không thể ghi hình được ở những tổn thương nhỏ không đè đẩy cấu trúc giải phẫu.
|
6103 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6103 | Dịch chuyển đỏ | Dịch chuyển đỏ là một hiện tượng vật lý, trong đó ánh sáng phát ra từ các vật thể đang chuyển động ra xa khỏi người quan sát sẽ đỏ hơn. Hiện tượng này là hệ quả của hiệu ứng Doppler, khi các vạch phổ trong phần ánh sáng biểu kiến chuyển dịch về phía phổ đỏ do tần số sóng điện từ (của ánh sáng, sóng vô tuyến...) của các thiên hà, quasar hay các thiên thể xa khác bị giảm xuống. Từ đó mà xuất hiện tên "chuyển dịch đỏ". Chuyển dịch đỏ càng lớn thì vật thể quan sát chuyển động ra xa khỏi người quan sát càng nhanh.
Nhờ vào dịch chuyển đỏ mà người ta phát hiện ra các thiên hà đang chuyển động ra xa nhau hay rộng hơn là sự giãn nở vũ trụ "Metagalaxy", xác định chuyển động riêng của các sao đối với Trái Đất. Thuyết tương đối rộng đã phán đoán vấn đề chuyển dịch đỏ khi các quang tử mất giảm năng lượng khi thoát ra khỏi trường hấp dẫn - sự truyền sóng vào trường yếu hơn.
Ngược lại với chuyển dịch đỏ là chuyển dịch xanh.
|
6104 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6104 | Dịch chuyển xanh | Dịch chuyển xanh là một hiện tượng vật lý, trong đó ánh sáng phát ra từ các vật thể đang chuyển động lại gần người quan sát sẽ xanh hơn. Hiện tượng này là hệ quả của hiệu ứng Doppler.
|
6105 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6105 | Ête (vật lý) | Ête là một khái niệm thuộc vật lý học đã từng được coi như là một môi trường vật chất không khối lượng lấp đầy toàn bộ không gian. Ý tưởng về môi trường như thế cần thiết để cho sóng điện từ có thể lan truyền đi được. Thí nghiệm Michelson-Morley đã bác bỏ giả thuyết về sự tồn tại của môi trường ête này.
Khi lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens được hình thành, nó giải thích được những hiện tượng như nhiễu xạ của ánh sáng. Tuy nhiên khi tìm hiểu sâu hơn về lý thuyết này, người ta cũng gặp phải những rắc rối không nhỏ, đó chính là môi trường truyền sóng. Để giải quyết vấn đề người ta đưa ra một môi trường giả định là ête. Cũng giống như môi trường không khí có thể truyền âm thanh thì ête cũng truyền ánh sáng giống như vậy. Tuy nhiên, vì ánh sáng (thuộc loại sóng ngang - theo Augustin-Jean Fresnel) khác với âm thanh (sóng dọc) nên ête sẽ là một môi trường đặc biệt, nó phải thấm qua mọi vật chất có trong vũ trụ để có thể truyền sóng ánh sáng, và cố định trong không gian. Đồng thời nó phải thật rắn, hơn cả sắt, bạch kim, và thậm chí rắn hơn cả kim cương. Một môi trường như vậy quả là khó hiểu và khó chấp nhận đối với khoa học.
Tuy nhiên, nó lại trở thành một lý thuyết được công nhận cùng với thuyết sóng ánh sáng trong suốt thế kỷ 19, lật đổ tư tưởng hạt ánh sáng của Isaac Newton mặc dù đây vẫn chưa được kiểm chứng. Và cách kiểm chứng duy nhất được James Clerk Maxwell đề nghị là đo ánh sáng theo hai chiều ngược nhau so với chiều di chuyển của Trái Đất và chứng minh rằng kết quả là khác nhau, suy ra Trái Đất đang chuyển động trong một môi trường cố định là ête. Nhưng không ai có thể làm được điều này.
Đến cuối thế kỷ 19, sau nhiều thế hệ đã đo vận tốc ánh sáng thì đến thí nghiệm Michelson-Morley (Albert Michelson là một người tin rằng ête tồn tại) thì kết quả lại là "âm tính". Michelson làm đi làm lại nhiều lần nhưng kết quả vẫn thế. Và tiếp theo là Albert Einstein với lý thuyết tương đối của mình, một lần nữa khẳng định ête là chuyển động, do đó khái niệm ête là hoàn toàn thừa thãi. Ête đã chính thức bị khai tử sau hơn một thế kỷ tồn tại.
|
6107 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6107 | Hiệu ứng Doppler | Hiệu ứng Doppler là một hiệu ứng vật lý, đặt tên theo Christian Andreas Doppler, trong đó tần số và bước sóng của các sóng âm, sóng điện từ hay các sóng nói chung bị thay đổi khi mà nguồn phát sóng chuyển động tương đối với người quan sát.
Đối với sóng chuyển động trong một môi trường (như sóng âm), nguồn sóng và người quan sát đều có thể chuyển động tương đối so với môi trường. Hiệu ứng Doppler lúc đó là sự tổng hợp của hai hiệu ứng riêng rẽ gây ra bởi hai chuyển động này.
Cụ thể, nếu nguồn di động trong môi trường phát ra sóng với tần số tại nguồn là "f", một người quan sát đứng yên trong môi trường sẽ nhận được tần số "f":
với "c" tốc độ lan truyền của sóng trong môi trường, "v" là thành phần vận tốc chuyển động của nguồn so với môi trường theo phương chỉ đến người quan sát (âm nếu đi về phía người quan sát, dương nếu ngược lại).
Tương tự, khi nguồn đứng im còn người quan sát chuyển động:
Đối với sóng điện từ (ví dụ ánh sáng), lan truyền mà không cần môi trường, hiệu ứng Doppler được tính toán dựa vào thuyết tương đối.
Trong hiệu ứng Doppler thật ra tần số của nguồn sóng không bị thay đổi. Để hiểu rõ nguyên nhân tạo ra hiệu ứng Doppler, sự thay đổi tần số, ta lấy ví dụ của hai người ném bóng. Người A ném bóng đến người B tại một khoảng cách nhất định. Giả sử vận tốc trái bóng không đổi và cứ mỗi phút người B nhận được x số bóng. Nếu người A từ từ tiến lại gần người B, người B sẽ nhận được nhiều bóng hơn mỗi phút vì khoảng cách của họ đã bị rút ngắn. Vậy chính số bước sóng bị thay đổi nên gây ra sự thay đổi tần số.
Một tiếng còi trên xe cấp cứu tiến đến ta sẽ có tần số cao hơn (chói hơn) khi xe đứng yên. Tần số này giảm dần (trầm hơn) khi xe vượt qua ta và nhỏ hơn bình thường khi xe chạy ra xa.
Nhà thiên văn học John Dobson giải thích hiện tượng trên: "lý do mà tiếng còi giảm là do xe không tông bạn".
Nói cách khác, nếu chiếc xe đi theo phương thẳng tới bạn, tần số sẽ vẫn giữ nguyên (vì thành phần vận tốc "v" theo phương chỉ tới bạn không đổi, cho đến khi chúng vượt qua bạn, thì lập tức chuyển sang tần số thấp hơn. Sự khác biệt giữa tần số cao lúc tiến đến so với tần số chuẩn của còi đúng bằng sự khác biệt giữa tần số thấp lúc ra xa so với tần số chuẩn. Khi chiếc xe không tông vào bạn mà chỉ qua mặt bạn, thành phần vận tốc theo phương chỉ tới bạn không giữ nguyên do phương này luôn thay đổi tùy thuộc vị trí của xe:
Trong đó "v" là thành phần vận tốc của xe theo phương chỉ tới bạn, "v" là tốc độ của xe và formula_8 là góc giữa hướng di chuyển của xe và hướng nối từ xe đến bạn.
Sử dụng cơ chế radar và hiệu ứng Doppler, phát ra một bước sóng radio có tần số xác định "f0" rồi thu nhận tần số sóng radio "f1" phản xạ ngược trở lại từ phương tiện giao thông đang di chuyển với vận tốc "u". Từ "f0" và "f1" ta sẽ tính ra được vận tốc của phương tiện giao thông đó.
|
6111 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6111 | Danh sách quốc gia không còn tồn tại | Danh sách này liệt kê các quốc gia không còn tồn tại hay được đổi tên, vì nhiều lý do khác nhau.
Các quốc gia sau đây đứng trước nguy cơ giải thể và chia thành những nước mới.
Các quốc gia sau đây đã giải thể và chia thành những nước mới.
Các tên nước sau đây đã thay đổi:
Không còn nữa
Lịch sử theo quốc gia
|
6112 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6112 | Gấu trúc lớn | Gấu trúc lớn ("Ailuropoda melanoleuca", nghĩa: "con vật chân mèo màu đen pha trắng", , "mèo gấu lớn", tiếng Anh: Giant Panda), cũng được gọi một cách đơn giản là gấu trúc, là một loài gấu nguồn gốc tại Trung Quốc. Nó dễ dàng được nhận ra bởi các mảnh màu đen, lớn xung quanh mắt, trên tai, và tứ chi nó. Tuy thuộc về bộ Carnivora (bộ Ăn Thịt), chế độ ăn của gấu trúc gồm hơn 99% tre, trúc. Gấu trúc trong tự nhiên thỉnh thoảng ăn cỏ dại, thậm chí ăn thịt chim, gậm nhấm xác thối. Trong tình trạng giam cầm, gấu trúc ăn mật ong, trứng cá, lá cây, bụi cam hoặc chuối cùng với các loại thức ăn đặc biệt khác.
Gấu trúc lớn sống ở một vài vùng núi ở trung tâm Trung Quốc, chủ yếu ở Tứ Xuyên, nhưng cũng xuất hiện ở Thiểm Tây và Cam Túc. Nông nghiệp, phá rừng đã đẩy gấu trúc khỏi các vùng đồng bằng chúng từng sinh sống.
Là một loài nguy cấp phụ thuộc bảo tồn. Một báo cáo 2007 cho thấy 239 cá thể gấu trúc sống trong điều kiện giam cầm ở Trung Quốc và 27 nước khác trên thế giới. Ước lượng số lượng hoang dã rất khác nhau; một ước tính cho thấy có khoảng 1.590 cá thể sống trong tự nhiên, trong khi một nghiên cứu năm 2006 thông qua phân tích DNA ước tính rằng con số này có thể cao đến 2000 đến 3000. Một số báo cáo cũng cho thấy rằng số lượng gấu trúc trong tự nhiên đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, IUCN không tin rằng đủ chắc chắn để chuyển loài này từ nguy cấp thành dễ thương tổn.
Trong tự nhiên, gấu trúc sống trên cạn và dành phân lớn thời gian để đi lang thang và ăn trong các rừng tre, trúc ở vùng đồi núi tỉnh Tứ Xuyên. Gấu trúc lớn thường sống đơn độc, và mỗi con trưởng thành có một vùng lãnh thổ được xác định, con cái trưởng thành sẽ không tha thứ cho con cái nào dám đi vào lãnh thổ của nó. Gấu trúc giao tiếp thông qua tiếng kêu và đánh dấu mùi như cào cây hoặc đánh dấu nước tiểu. Chúng cũng có thể leo lên và trốn trong các hốc cây, nhưng không làm tổ lâu dài. Vì lý do này, gấu trúc không ngủ đông, tương tự như động vật có vú cận nhiệt đới khác, và thay vào đó di chuyển đến vùng có nhiệt độ ấm hơn.
Các cuộc gặp gỡ xã hội xảy ra chủ yếu trong mùa sinh sản ngắn. Sau khi giao phối, con đực rời đi, để con cái một mình để đẻ.
Mặc dù gấu trúc được cho là ngoan ngoãn, nó được biết tới từng tấn công con người, có thể do bị chọc tức chứ không phải do thích gây sự.
Không có giải thích kết luận về nguồn gốc của từ "panda" được tìm thấy. Từ gần nhất là "ponya"' trong tiếng Nepal. Tới năm 1901, khi gấu trúc lớn được xác định một cách sai lầm có liên quan tới gấu trúc đỏ, gấu trúc lớn cũng được biết tới như "gấu đốm" ("Ailuropus melanoleucus") hay "gấu đa sắc". Theo hầu hết bách khoa, tên "gấu trúc" hay "gấu trúc thông thường" đến từ loài gấu trúc đỏ.
Theo các nhà sưu tập Trung Quốc, gấu trúc lớn có 20 tên gọi trong tiếng Trung Quốc, như huāxióng (花熊, Hán-Việt: hoa hùng, "gấu đốm") và zhúxióng (竹熊, Hán-Việt: trúc hùng, "gấu trúc"). Tên phổ biến nhất ở Trung Quốc hiện nay là dàxióngmāo (大熊猫, Hán-Việt: đại hùng miêu, "mèo gấu lớn"), hay chỉ đơn giản là xióngmāo (熊貓, Hán-Việt: hùng miêu, "mèo gấu").
Ở Đài Loan, tên phổ biến của gấu trúc là māoxióng (貓熊, Hán-Việt: miêu hùng, "gấu mèo"), mặc dù nhiều từ điển ở Đài Loan vẫn dùng "mèo gấu" như tên đúng.
Trong nhiều thế kỷ, việc phân loại gấu trúc lớn có nhiều tranh luận vì có có những đặc điểm của cả gấu và gấu mèo. Tuy nhiên, nghiên cứu phân tử cho thấy gấu trúc lớn là một loài gấu thật sự và là thành viên của họ Ursidae, mặc dù có tách biệt từ sớm với các loài gấu khác. Họ hàng gần nhất của gấu trúc là gấu mặt ngắn Andes ở Nam Mỹ. Gấu trúc lớn được xem là hóa thạch sống.
Mặc dù có cùng tên, cùng môi trường sống và chế độ ăn, cũng như "ngón cái giả" (để giúp chúng nắm chặt các thanh tre, trúc chúng ăn), gấu trúc lớn và gấu trúc đỏ chỉ có liên quan xa. Nghiên cứu phân tử cho thấy gấu trúc đỏ thuộc về họ Ailuridae, chứ không phải Ursidae.
Có hai phân loài của gấu trúc đã được công nhận trên cơ sở giải phẫu hộp sọ, mẫu màu lông và gen của quần thể (Wan và ctv., 2005).
|
6129 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6129 | Gấu lợn | Gấu lợn hay gấu lười (tên khoa học Melursus ursinus) là một loài gấu ăn đêm với lông rậm, sinh sống ở những cánh rừng đất thấp của Ấn Độ, Nepal, Bangladesh và Sri Lanka. Nó là loài duy nhất được phân loại thuộc chi Melursus.
Chúng có lớp lông dài có màu từ nâu vàng đến đen, có mõm trắng và mũi đen. Con đực lớn hơn con cái. Chúng dài khoảng 1,5-1,9 m, con đực có thể cao tới 1,8 m (6 ft) và cân nặng 80–140 kg (180-300 pound). Con cái nặng khoảng 55–95 kg, cao khoảng 0,6-0,9 m. Chúng chủ yếu ăn kiến và mối. Khi cần thiết chúng có thể ăn mật ong, hoa quả, ngũ cốc và thịt.
Kẻ thù chủ yếu của chúng là báo hoa mai, chó sói, hổ và con người. Con người săn bắt chúng chủ yếu là để lấy mật, là chất có giá trị của y học phương Đông. Gấu lợn đôi khi cũng được sử dụng vào mục đích giải trí như trong các rạp xiếc.
Gấu lợn không di chuyển chậm chạp như con lười, và chúng có thể chạy nhanh hơn con người một cách dễ dàng. Gấu lười có tên như vậy là do những bước đi bình thường của chúng trông giống như là sự lê chân ngoằn ngoèo. Trong điều kiện giam cầm, gấu lợn có thể sống tới 40 năm.
Gấu lợn có xu hướng rất ồn ào khi giao phối. Thông tin về tập tính sinh sản của gấu lợn là không thống nhất. Một số nghiên cứu cho rằng chúng chủ yếu giao phối trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 7, trong khi đó các nghiên cứu khác lại cho rằng chúng có thể giao phối và sinh con bất kỳ thời gian nào. Điều này có thể là do khu vực nghiên cứu.
Trong điều kiện bị giam cầm, một cặp gấu lợn chỉ giao phối trong khoảng từ 1 đến 2 ngày. Phần lớn gấu cái đẻ vào tháng 9 đến tháng 1. Thời kỳ mang thai kéo dài 6-7 tháng. Thông thường gấu mẹ sinh từ 1 đến hai con, hiếm khi thấy ba con. Gấu cái thông thường tìm hang hay ổ để đẻ.
Sau khi sinh (thông thường trong ổ), gấu lợn con là mù trong khoảng 3 tuần. Sau khoảng 4-5 tuần, gấu con rời ổ. Chúng sống với mẹ cho đến khi đạt độ tuổi trưởng thành vào khoảng 2-3 năm tuổi. Gấu con thường cưỡi trên lưng gấu mẹ. Gấu đực không tham gia vào việc chăm sóc con cái.
Ở Ấn Độ, thì có con gấu lợn Mysore, tương đối nhỏ nhưng rất hung tợn chỉ sống ở bán lục địa Ấn Độ. Vì những lý do chưa được biết tới, một con gấu lợn đã tấn công ít nhất 36 người, giết chết 12 người. Một số nạn nhân của nó bị ăn một phần và mặt bị xé rách từ sọ đầu. Những người sống sót cũng không tốt hơn, vì mắt và mũi đều bị mất. Con gấu sau bị Kenneth Anderson giết bằng một phát súng vào giữa ngực. Mới đây nhất là vụ gấu tấn công người ở Tamil Nadu (Ấn Độ) khi anh này vừa cứu con vật ra khỏi giếng. Hai nhân viên bảo vệ rừng dùng lưới cứu con gấu nhưng vừa lên khỏi mặt giếng, gấu lao vào cắn ân nhân.
|
6131 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6131 | Gấu chó | Gấu chó (danh pháp hai phần: Helarctos malayanus, từ đồng nghĩa: Ursus malayanus), được tìm thấy chủ yếu trong các rừng mưa nhiệt đới ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á; bao gồm Ấn Độ, Bangladesh, Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.
Gấu chó có chiều dài khoảng 1,2 m (4 ft), chiều cao khoảng 0,7 m -do đó chúng là loài nhỏ nhất của họ Gấu. Nó có đuôi ngắn, khoảng 3–7 cm (2 inch) và trung bình nặng không quá 65 kg (145 pao). Gấu chó đực nặng hơn một chút so với gấu cái.
Không giống như các loài gấu khác, lông của chúng ngắn và mượt. Điều này có lẽ là do môi trường sống của chúng là những vùng đất thấp nóng ẩm. Màu lông của chúng là đen sẫm hay nâu đen, ngoại trừ phần ngực có màu vàng-da cam nhạt có hình dạng giống như móng ngựa hoặc hình chữ U. Màu lông tương tự có thể tìm thấy xung quanh mõm và mắt.
Gấu chó có vuốt có dạng lưỡi liềm, tương đối nhẹ về khối lượng. Chúng có bàn chân to với gan bàn chân trần, có lẽ là để hỗ trợ việc leo trèo. Chân chúng hướng vào trong nên bước đi của chúng giống như đi vòng kiềng, nhưng chúng là những con vật leo trèo giỏi.
Chúng có tai ngắn và tròn, mõm ngắn.
Là một con vật ăn đêm là chủ yếu, gấu chó thích tắm nắng hay nghỉ ngơi về ban ngày trên các cành cây to cách mặt đất khoảng 2-7 mét. Vì chúng tiêu hao nhiều thời gian ở trên cây, gấu chó đôi khi làm tổn thất nặng nề cho các loại cây trồng. Chúng được coi là những kẻ phá hoại dừa và ca cao trong các đồn điền. Tập tính này là nguyên nhân làm giảm số lượng của quần thể gấu chó cũng giống như việc săn bắn để lấy lông và mật để sử dụng trong y học Trung Hoa.
Thức ăn của gấu chó dao động rất rộng và bao gồm các động vật có xương sống nhỏ như thằn lằn, chim, hay các loài động vật có vú khác, cũng như hoa quả, trứng, mối, ngọn non cây dừa, mật ong, quả mọng, chồi cây, côn trùng, rễ cây, quả của ca cao hay dừa. Hàm răng đầy sức mạnh của chúng có thể phá vỡ những quả dừa. Phần lớn thức ăn của gấu chó kiếm được là nhờ vào khứu giác của chúng vì mắt của chúng rất kém.
Chúng sống ở phía đông dãy Himalaya(Hy Mã Lạp Sơn) đến Tứ Xuyên ở Trung Quốc, cũng như trải rộng về phía nam tới Myanmar, một phần của bán đảo Đông Dương và Malaysia.
Vì gấu chó không ngủ đông, nên chúng có thể sinh đẻ quanh năm. Chúng thông thường đẻ hai con với trọng lượng khi sinh khoảng 280 - 340 g (10-12 aoxơ) mỗi con. Chu kỳ mang thai khoảng 96 ngày, nhưng chúng cho con bú khoảng 18 tháng. Gấu đạt đến độ tuổi trưởng thành sau khoảng 3-4 năm, và chúng sống đến 28 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
Có một phân loài gấu chó ("Helarctos malayanus euryspilus"), chỉ tìm thấy trên đảo Borneo.
Trong tiếng Malaysia tên của gấu chó là ‘basindo nan tenggil’, có thể dịch là ‘con vật thích ngồi trên cao’.
|
6133 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6133 | Gấu mặt ngắn Andes | Gấu mặt ngắn Andes (danh pháp hai phần: "Tremarctos ornatus"), còn được gọi là gấu Andes, có lông đen với màu be đặc trưng ngang trên mặt và phần trên của ngực. Con đực có thể nặng tới 130 kg, và con cái là 60 kg. Chúng sinh sống trong một vài khu vực của Nam Mỹ, bao gồm tây Venezuela, Ecuador, Peru, tây Bolivia và Panama. Nó là loài gấu duy nhất sống ở Nam Mỹ. Sau gấu trúc Trung Quốc chúng là loài gấu đang gặp nguy hiểm nhất trong số tất cả các loài gấu hiện nay còn trên thế giới, vì sự sống còn của chúng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng kỳ diệu của chúng để vượt qua những cây cao nhất của rừng rậm nhiệt đới của dãy Andes trong lưu vực sông Amazon.
Gấu mặt ngắn cư trú xung quanh lưu vực nhiệt đới thuộc dãy Andes ở cao độ chủ yếu từ 1.900 - 2.400 m, là khu vực dồi dào nước và cây cối để cung cấp các thức ăn cơ bản của chúng như rễ cây, lá, chồi non, quả mọng, và đôi khi là côn trùng, động vật gặm nhấm và xác chết thối. Chúng là những động vật ăn đêm và hoàng hôn, và chúng không phải là những con vật ngủ đông thực thụ (mặc dù chúng sẽ chui vào hang khi thời tiết khắc nghiệt). Là một loài gấu sống trên cây, nó sống chủ yếu trong các hang ổ gần với những tán lá dày dặc của rừng mưa nhiệt đới, hoặc đôi khi trong khu vực được vây bởi cây cối để tránh các loại kẻ thù.
Gấu con có khả năng bẩm sinh để leo trèo lên cây hay núi đá hoặc vách đá từ khi mới sinh do mẹ của chúng rất thất thường trong việc dạy con leo trèo tới những chỗ cao có nhiều thức ăn bổ dưỡng.
Mặc dù gấu có xu hướng sống cô độc để tránh cạnh tranh, nhưng chúng là loài không có lãnh thổ riêng.
Khi bắt gặp con người hay các con gấu khác, chúng sẽ phản ứng rất hiền lành nhưng cẩn trọng, trừ khi kẻ xâm phạm được coi như là đe dọa hay đó là con đang mang thai thì chúng là nguy hiểm. Con mẹ có thể tấn công những kẻ săn trộm với mức độ ác liệt, nhưng chưa có trường hợp tử vong nào được thông báo bởi các quốc gia Nam Mỹ.
Gấu mặt ngắn thích nghi với rừng mưa nhiệt đới do chúng rất sắc bén trong khứu giác và có mũi to để tìm thức ăn trong những kẽ đất nhỏ hay trong các tán lá trên cao. Chúng cũng có vuốt dài và sắc bén để đào rễ cây và nhổ bật chúng lên.
|
6135 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6135 | Heinz Fischer | Heinz Fischer (GColIH (; sinh ngày 9 tháng 10 năm 1938 ở Graz, Steiermark)) là Tổng thống Áo từ năm 2004 đến năm 2016. Ông là một thành viên của đảng Dân chủ Xã hội Áo (SPÖ). Ông nhậm chức ngày 8 tháng 7 năm 2004 và được bầu lại nhiệm kỳ thứ nhì và cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 2010. Fischer trước đây từng là Bộ trưởng Bộ Khoa học từ 1983 đến 1987 và là Chủ tịch của Hội đồng Quốc gia Áo 1990-2002. Một thành viên của Đảng Dân chủ Xã hội Áo (SPO), ông đã tạm ngưng tư cách đảng viên của ông trong suốt thời gian làm tổng thống.
Fischer sinh ra ở Graz, Styria, ở khu vực lúc đó trở thành Đức Nazi sau "Anschluss" tháng 3 năm 1938. Fischer the học trường trung học, tập trung vào lĩnh vực nhân đạo và dự kì thi "Matura" năm 1956. Ông học luật tại Đại học Wien, nhận học vị tiến sĩ vào năm 1961. Trong năm 1963 ở tuổi 25, Fischer, đã dành một năm hoạt động tình nguyện tại Kibbutz Sarid, phía bắc Israel. Ngoài làm một chính trị gia, Fischer cũng theo đuổi một sự nghiệp hàn lâm, và trở thành một Giáo sư Khoa học Chính trị Đại học Innsbruck vào năm 1993.
Tháng 1 năm 2004 Fischer tuyên bố rằng ông sẽ tranh cử tổng thống để kế nhiệm Thomas Klestil. Ông được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 2004 là ứng cử viên của Đảng Dân chủ Xã hội đối lập. Ông nhận được 52,4% số phiếu bầu để đánh bại Benita Ferrero-Waldner, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao trong liên minh cầm quyền bảo thủ dẫn đầu là Đảng của dân. Fischer tuyên thệ nhậm chức vào ngày 08 tháng 7 năm 2004 và đã nhậm chức từ hội đoàn của Chủ tịch Hội đồng quốc gia.
Tháng Tư 2010, Fischer đã được tái bầu làm Tổng thống Áo, giành thắng lợi một nhiệm kỳ tổng thống sáu năm thứ hai với gần 79% số phiếu cử tri đi bầu cử tri kỷ lục thấp chỉ 53,6%. Khoảng 1/3 của những người đủ điều kiện để bỏ phiếu bình chọn cho Fischer, khiến cho tờ nhất báo bảo thủ Die Presse mô tả cuộc bầu cử như là một "đa số tuyệt đối cho những người không bầu cử". Lý do cho các cử tri đi bầu thấp nằm trong các sự kiện mà thăm dò dư luận có dự đoán một chiến thắng an toàn cho Fischer (các Tổng thống Áo đang chạy cho một nhiệm kỳ thứ hai đã luôn luôn chiến thắng) và đảng lớn khác, ÖVP, đã không được đề cử một ứng cử viên của riêng mình, và đã không tán thành bất kỳ của ba ứng cử viên. Một số thành viên ÖVP nổi bật, không chính thức, nhưng trước dân chúng, thậm chí đề nghị bỏ phiếu 'vô hiệu', khoảng 7% số cử tri đã làm như thế.
|
6136 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6136 | Người Chăm | Người Chăm, người Chăm Pa hay người Degar-Champa (tiếng Chăm: "Urang Campa"; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, "Chónchèat Cham";; ), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời, người Cham..., là một sắc tộc thuộc nhóm chủng tộc "Austronesia" (người Nam Đảo) có nguồn gốc từ Đông Nam Á hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Từ thế kỷ 2 đến giữa thế kỷ 15, người Chăm cư trú tại Chăm Pa, một lãnh thổ tiếp giáp của các quốc gia độc lập ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Họ nói ngôn ngữ Chăm, thứ ngôn ngữ mà trước đây vẫn được người Chăm nói, và ngôn ngữ Tsat được dùng bởi con cháu người Utsul của họ trên đảo Hải Nam của Trung Quốc, hai ngôn ngữ Chamic từ ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo của ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm và người Mã Lai là những dân tộc Nam Đảo lớn duy nhất định cư ở lục địa Đông Nam Á thời kỳ đồ sắt trong số những cư dân Nam Á (Austroasiatic) cổ hơn.
Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, năm 2009 là 161.729 người, xếp thứ 14 về dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo phân loại của Joshua Project có hai nhánh là Chăm Tây với tổng dân số 331 ngàn cư trú ở Việt Nam, Campuchia và các nước khác, và Chăm Đông với tổng dân số 135 ngàn cư trú chủ yếu ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhóm Chăm H'roi cư trú ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Gia Lai với tổng dân số 45 ngàn người.
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia Chăm Pa độc lập trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Ở Việt Nam, người Chăm có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo như người Gia Rai, người Ê Đê, người Ra Glai và người Chu Ru. Bên ngoài Việt Nam, người Chăm có quan hệ gần gũi với người Mã Lai.
Trong một thời gian dài, theo nhà nghiên cứu Peter Bellwood cho rằng người Chăm đã băng qua đường biển vào thiên niên kỷ đầu tiên TCN từ Malaysia và Indonesia (Sumatra và Borneo), cuối cùng định cư ở miền trung Việt Nam hiện đại.
Do đó, người Chăm gốc có khả năng là người thừa kế của các nhà hàng hải Nam Đảo từ Nam Á, những người có hoạt động chính là thương mại, vận tải và có lẽ cả cướp biển. Không hề hình thành một chế độ dân tộc nào để lại dấu vết trong các nguồn tài liệu viết, họ đã đầu tư các cảng ở đầu các tuyến đường thương mại quan trọng nối Ấn Độ, Trung Quốc và các đảo của Indonesia, sau đó, vào thế kỷ 2, họ thành lập vương quốc Chăm Pa, rồi để Việt Nam dần dần chiếm lấy lãnh thổ.
Các mô hình, niên đại di cư vẫn còn được tranh luận và người ta cho rằng người Chăm, nhóm dân tộc Nam Đảo duy nhất có nguồn gốc từ Nam Á, đến Đông Nam Á bán đảo muộn hơn qua Borneo. Đông Nam Á lục địa đã được cư trú trên các tuyến đường bộ bởi các thành viên của ngữ hệ Nam Á, chẳng hạn như người Môn cổ khoảng 5.000 năm trước. Người Chăm là những người đi biển thành công của người Nam Đảo từ nhiều thế kỷ đã đông dân cư và sớm thống trị vùng biển Đông Nam Á. Những ghi chép sớm nhất được biết đến về sự hiện diện của người Chăm ở Đông Dương có từ thế kỷ 2 SCN. Các trung tâm dân cư xung quanh các cửa sông dọc theo bờ biển kiểm soát xuất nhập khẩu của lục địa Đông Nam Á, do đó thương mại hàng hải là bản chất của một nền kinh tế thịnh vượng.
Văn học dân gian Chăm bao gồm một huyền thoại sáng tạo, trong đó người sáng lập ra chính thể Chăm đầu tiên là Thiên Y A Na. Xuất thân từ một nông dân khiêm tốn ở đâu đó trên dãy núi Đại An, tỉnh Khánh Hòa, các linh hồn đã hỗ trợ bà khi bà đi du lịch Trung Quốc trên một khúc gỗ đàn hương trôi nổi, nơi bà kết hôn với một người đàn ông hoàng tộc và có hai người con. Cuối cùng, bà trở lại Chăm Pa để "làm nhiều việc thiện trong việc giúp đỡ người bệnh và người nghèo" và "một ngôi đền đã được dựng lên để vinh danh bà", ngày nay được biết đến là Tháp Po Nagar.
Người Chăm trang trí các ngôi đền của họ bằng những bức phù điêu bằng đá mô tả các vị thần như Garuda chiến đấu với Nāga (thế kỷ 12-13 SCN).
Giống như vô số các thực thể chính trị khác của Đông Nam Á, các chính quốc Champa đã trải qua quá trình Ấn hóa kể từ thời kỳ sơ khai do kết quả của nhiều thế kỷ tương tác kinh tế - xã hội được chấp nhận và giới thiệu các yếu tố văn hóa và thể chế của Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ 8 trở đi, người Hồi giáo từ các vùng như Gujarat bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trong thương mại và vận chuyển của Ấn Độ. Các ý tưởng Hồi giáo đã trở thành một phần của làn sóng trao đổi rộng lớn, đi trên con đường như Ấn Độ giáo và Phật giáo nhiều thế kỷ trước. Người Chăm đã tiếp thu những ý tưởng này vào thế kỷ 11. Có thể thấy điều này trong kiến trúc của các ngôi đền Chăm, có những điểm tương đồng với kiến trúc của các đền Angkor. Ad-Dimashqi viết vào năm 1325, "đất nước Champa ... là nơi sinh sống của người Hồi giáo và những người sùng bái thần tượng. Đạo Hồi đến đó vào thời Caliph Uthman ... và Ali, nhiều người Hồi giáo đã bị trục xuất bởi Umayyad và Hajjaj, bỏ trốn ở đó ".
Sách Đảo di chí lược (岛夷誌略) của Trung Quốc ghi lại rằng tại các cảng Chăm, phụ nữ Chăm thường kết hôn với các thương nhân Trung Quốc, những người thường xuyên quay lại với họ sau các chuyến đi buôn bán. Một thương nhân Trung Quốc từ Tuyền Châu, buôn bán rộng rãi với Chăm Pa và kết hôn với một công chúa người Chăm.
Thế kỷ 12, người Chăm đã chiến đấu với một loạt các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer ở phía tây. Năm 1177, người Chăm và đồng minh của họ mở cuộc tấn công từ Biển Hồ và đánh chiếm kinh đô Angkor của người Khmer. Tuy nhiên, vào năm 1181, họ đã bị đánh bại bởi vua Khmer Jayavarman VII.
Hồi giáo đến với Chăm Pa lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ 9, song, nó không trở nên quan trọng trong cộng đồng người Chăm cho đến sau thế kỷ 11.
Người Chăm di cư đến Sulu được gọi là Orang Dampuan. Chăm Pa và Sulu giao dịch thương mại với nhau, dẫn đến việc các thương gia người Chăm đến định cư ở Sulu, nơi họ được gọi là Orang Dampuan từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 13. Những Orang Dampuan đã bị tàn sát bởi những người Sulu Buranun bản địa ghen tị do sự giàu có của Orang Dampuan. Buranun sau đó bị Orang Dampuan tàn sát trả đũa. Thương mại hài hòa giữa Sulu và Orang Dampuan sau đó đã được khôi phục. Người Yakans là hậu duệ của Orang Dampuan sống ở Taguima, người đã đến Sulu từ Chăm Pa. Sulu tiếp nhận nền văn minh ở dạng Indic từ Orang Dampuan.
Một số người Chăm cũng vượt biển sang bán đảo Mã Lai và ngay từ thế kỷ 15, một thuộc địa của người Chăm đã được thành lập ở Malacca. Người Chăm chạm trán với Hồi giáo Sunni ở đó vì Vương quốc Hồi giáo Malacca đã chính thức là Hồi giáo từ năm 1414. Vua Chăm Pa sau đó trở thành đồng minh của Vương quốc Hồi giáo Johor; vào năm 1594, Champa đã gửi lực lượng quân sự của mình để chiến đấu cùng với Johor chống lại sự chiếm đóng Malacca của người Bồ Đào Nha. Giữa năm 1607 và 1676, một trong những vị vua Chăm Pa đã cải sang đạo Hồi và nó trở thành một đặc điểm nổi trội của xã hội Chăm. Người Chăm cũng sử dụng bảng chữ cái Jawi.
Các ghi chép lịch sử ở Indonesia cho thấy ảnh hưởng của Nữ hoàng Dwarawati, một công chúa Hồi giáo đến từ vương quốc Chăm Pa, đối với chồng của bà, Kertawijaya, vị vua thứ bảy của Đế chế Majapahit, đến nỗi hoàng gia của Đế chế Majapahit cuối cùng đã chuyển sang đạo Hồi, mà cuối cùng đã dẫn đến sự chuyển đổi sang Hồi giáo của toàn bộ khu vực. Ngôi mộ của công chúa Chăm Pa có thể được tìm thấy ở Trowulan, nơi đóng đô của Đế chế Majapahit. Trong Babad Tanah Jawii, người ta kể rằng vua Brawijaya V có một người vợ tên là Dewi Anarawati hay Dewi Dwarawat, một người con gái Hồi giáo của vua Chăm Pa. Người Chăm có quan hệ thương mại và văn hóa chặt chẽ với vương quốc hàng hải Srivijaya, và Majapahit sau đó ở Quần đảo Mã Lai.
Một nhân vật quan trọng khác của Chăm Pa trong lịch sử Hồi giáo ở Indonesia là Raden Rakhmathay hay Hoàng tử Rahma, người còn được gọi là Sunan Ampel, một trong những Wali Sanga (Chín vị thánh), người đã truyền bá đạo Hồi ở Java. Ông được xem như là tâm điểm của Wali Sanga, bởi vì một số người trong số họ thực sự là hậu duệ của ông và/hoặc học trò của ông. Cha của ông là Maulana Malik Ibrahimm còn được gọi là Ibrahim as-Samarkandy ("Ibrahim Asmarakandi" đối với tay người Java), và mẹ của ông là Dewi Candrawulan, một công chúa Chăm Pa cũng là em gái của Nữ hoàng Dwarawati. Sunan Ampel sinh ra ở Champa vào năm 1401 CN. Ông đến Java vào năm 1443 CN, để thăm dì là Hoàng hậu Dwarawati, một công chúa Chăm Pa, người đã kết hôn với Kertawijaya (Brawijaya V), vua của Đế chế Majapahit. Truyền thuyết địa phương nói rằng ông đã xây dựng Nhà thờ Hồi giáo vĩ đại của Demak (Masjid Agung Demak) vào năm 1479 CN, nhưng các truyền thuyết khác lại quy cho Sunan Kalijaga. Sunan Ampel qua đời ở Demak năm 1481 CN, nhưng được chôn cất tại Nhà thờ Hồi giáo Ampel ở Surabaya, Đông Java.
Sự bành trướng mạnh mẽ của người Việt vào năm 1720 dẫn đến sự thôn tính hoàn toàn của vương quốc Chăm Pa vốn đã bị suy yếu và cuối cùng vương quốc đã bị tan rã vào thế kỷ 19 bởi Hoàng đế Việt Nam Minh Mạng. Để đối phó, vị vua Hồi giáo cuối cùng của Chăm Pa là Pô Chiên đã tập hợp dân chúng trong nội địa và chạy trốn xuống phía nam Campuchia, trong khi những người dọc theo bờ biển di cư đến Trengganu, Malaysia. Một nhóm nhỏ chạy về phía bắc đến đảo Hải Nam của Trung Quốc, nơi ngày nay họ được gọi là người Utsul. Nhà vua và những người tị nạn ở Campuchia sống rải rác trong các cộng đồng trên lưu vực sông Mê Kông. Những người ở lại các tỉnh Nha Trang, Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết của miền Trung Việt Nam đã được hòa nhập vào chính thể Việt Nam. Các tỉnh của người Chăm dần bị chúa Nguyễn đánh chiếm.
Sau khi Việt Nam xâm lược và chinh phục Chăm Pa, Campuchia đã cung cấp nơi ẩn náu cho những người Chăm Hồi giáo trốn thoát khỏi sự tiêu diệt của Việt Nam.
Năm 1832, Hoàng đế Việt Nam là Minh Mạng sát nhập phần lãnh thổ cuối cùng của vương quốc Chăm Pa. Điều này dẫn đến việc thủ lĩnh Hồi giáo Chăm Katip Suma, người được đào tạo ở Kelantan, tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại người Việt. Người Việt sau đó được cho rằng đã cưỡng bức người Chăm theo đạo Hồi phải ăn thằn lằn và thịt lợn và người Chăm theo đạo Ấn Độ phải ăn thịt bò nhằm chống lại ý muốn trừng phạt của họ và đồng hóa họ với văn hóa Việt Nam.
Trước thế kỷ 7, có một vương quốc tên Lâm Ấp của người Chăm, tồn tại từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, Lâm Ấp có nhiều thay đổi, đặc biệt là liên tục xây tháp Ân giáo và dựng bia tiếng Phạn, lịch sử bắt đầu được rõ ràng. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campapura, Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc, Hoàn Vương Quốc và Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh trong thời vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đại là nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chiêm Thành).
Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Champa được phục hồi nhưng chia thành các tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832).
Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt vào thời vua Thánh Tông nhà Lê để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Chính Hòa thứ (1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Tuy nhiên, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc dĩ phải cầu hòa với người Champa và cho phép người Chăm phục hồi Thuận Thành trấn (Khu tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và Chăm Pa được ghi rõ trong "Nghị định Ngũ điều" vào năm Vĩnh Thạnh thứ 8 (1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau giải thể khu tự trị vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của vua Chăm Pa có Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ Gạch), một vị hoàng tử anh hùng, giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận ngày nay) phụ trách khu vực miền núi sau Cách mạng tháng Tám.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên ("Kiu-lien") chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và vùng Tây Nguyên, tỉnh Salavan và một số nơi của Lào. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ "Mahabarata" thuộc nhà Kuru. Riêng các vị chúa Panduranga thì thuộc dòng Pandu nên Champa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là hai quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ hai nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là hai quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Champa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm bị giết và 30.000 quân bị bắt làm tù binh. Sau đó, tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục tồn tại dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long trong bốn đạo: đạo Panrang (đạo Phan Rang tức tỉnh Ninh Thuận), đạo Kraong (đạo Long Hương hay đạo Liên Hương tức huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), đạo Parik (đạo Phan Rí tức huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) và đạo Pạjai (đạo Phố Hài, huyện Hàm Thuận Bắc - Hàm Thuận Nam - Hàm Tân và thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Đến thời vua Minh Mạng, trấn Thuận Thành đã bị xóa sổ và trở thành phủ Ninh Thuận.
Tương tự như quốc gia của người Việt ở phía Bắc, người Chăm có lịch sử tiếp xúc và định cư lâu đời ở quốc gia Chân Lạp của người Khmer ở phía Nam. Tại Chân Lạp, từ lâu đã có cộng đồng người gốc Mã Lai, Java sang sinh sống. Do tương đồng trong ngôn ngữ và tôn giáo, người Chăm từ lãnh thổ Chăm Pa đã cộng cư với người gốc Mã Lai ở Chân Lạp.
Năm 774, vương triều Sailendra ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc Chân Lạp, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. Đầu thế kỷ thứ 9, vua Khmer là Jayavarman II mới giải phóng được đất nước, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á là Đế quốc Khmer (802-1434).
Từ những năm 944 và 945, quân Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara của người Chăm. Năm 1080, quân đội Khmer lại tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa..
Năm 1170, vua Chăm là Jaya Indravarman đã tiến đánh Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm. Vua Khmer là Jayavarman VII đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Và tới năm 1203, quân Khmer chiếm được kinh đô Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Thất bại năm 1471 đã dẫn đến việc nhiều làn sóng người Chăm di cư sang Campuchia và các quốc gia khác như Malacca. Cộng đồng người Chăm và người Hồi giáo gốc Mã Lai, Java ở Campuchia nhờ đó mà gia tăng thế lực.
Năm 1594, chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca. Cùng lúc này, quân Ayutthaya một lần nữa đánh bại Chân Lạp, tàn phá kinh đô Lovek. Các thế lực người Chăm, Mã Lai, Java và ngoại quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan tranh nhau giành ảnh hưởng tại Campuchia. Nhiều nhóm người gốc Chăm Mã Lai còn ám sát cả các vua Chân Lạp.
Từ năm 1642, tại Campuchia, một vị vua tên Nặc Ông Chân đổi sang Hồi giáo và xưng là Sultan Ibrahim (1642-1659). Nặc Ông Chân tin dùng và ưu ái người Chăm Mã Lai, gây bất bình với người Khmer trong nước. Năm 1659, Nặc Ông Chân bị chúa Nguyễn đánh bại, một lượng lớn người Chăm và Mã Lai ở Chân Lạp bỏ chạy sang Ayutthaya tị nạn, tạo thành một cộng đồng người gốc Chăm Pa ở Xiêm. Năm 1672, vua Chân Lạp là Chey Chetta III lại bị một nhóm Chăm Mã Lai sát hại.
Năm 1692, chúa Nguyễn chinh phạt tiểu quốc Panduranga khiến một hoàng thân tên Po Chongchan (Po Choncăin) dẫn theo gia quyến và hơn 5.000 người Chăm bỏ sang Campuchia tị nạn. Những nhóm người này được Chính vương Chey Chettha IV cho định cư dọc xung quanh kinh đô Oudong, bên bờ sông Mê Kông. Người Chăm Mã Lai tiếp tục được triều đình Chân Lạp sử dụng làm quân binh hầu cận. Năm 1747, vua Chân Lạp là Chey Chettha VII (1709-1755) chống đối chúa Nguyễn và hay ức hiếp người Côn Man (người Chăm, Mã Lai). Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh đón hơn 5.000 trai gái dân Côn Man về trú dưới chân núi Bà Đinh (Bà Đen). Từ đây đã đánh dấu gia đoạn "hồi hương" của những nhóm người Chăm từ Chân Lạp về lại lãnh thổ Đàng Trong.
Vào năm 1796, một thủ lĩnh người Chăm từng sống ở Kedah tên Tuan Phaow (Đồng Phù, Toàn Phù) cùng một tù trưởng khác là Tăng Mã, thừa dịp chúa Nguyễn bận công kích nhà Tây Sơn, xách động một cuộc bạo loạn nhằm khôi phục quyền tự trị hoàn toàn cho Panduranga, nhưng cũng bị Po Saong Nyung Ceng dẹp tan. Có ý kiến cho rằng Tuan Phaow trốn chạy sang Campuchia với tên Tuon Set Asmit và được vua Ang Eng thu dùng, cho làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Tuan Phaow sau đó làm tới chức Tể tướng dưới triều vua Ang Chan II với tên gọi Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha). Năm 1820, Đồng Phù bị phát hiện thân phận và bị triều đình nhà Nguyễn xử tử. Tuy nhiên, xét theo Đại Nam thực lục và liệt truyện, Tuan Phaow có thể không phải là vị Tể tướng gốc Chăm tên Tôn La Ca Đồng Phù thời vua Ang Chan II. Việc xử tử Đồng Phù là do Ang Chan II nhờ triều Nguyễn bắt giúp để trị tội đại nghịch vô đạo với vua Chân Lạp.
Năm 1783, hai vị quan Chân Lạp là Ốc nha Nhum Rạch Bèn (Thượng thư bộ Hình) và "Ốc nha Cao La Hâm" Sưu (Suos) (Thượng thư bộ Thủy Hải quân, "Samdach" "Chau" "Phraya" "Kalahom") từ nước Xiêm trở về bắt và giết vị Chiêu Chùy (Tể tướng) thân Đàng Trong là Mô. Nhum Rạch Bèn sau đó lại mâu thuẫn và giết cả và Cao La Hâm Sưu. Hay tin Cao La Hâm Sưu bị giết, thủ lĩnh người Chăm Mã Lai (Đồ Bà, Java) là Toàn Sét Cháu Voi Vuốt (hoặc Doun Set từ tỉnh Tbong Khmum) khởi loạn, tiến đánh Oudong, Nam Vang. Doun Set sau đó tự xưng thủ lĩnh ở Oudong và sắp đặt quân gốc Chăm Malay chốt giữ Chroy Changva và Phnom Penh. Năm Giáp Dần (1784), Chao Phraya Abhaya Bhubet giết được Toàn Sét (Doun Set), viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà.
Năm 1793, phiên vương Thuận Thành trấn là Po Tisuntiraidapuran (Nam sử gọi là Nguyễn Văn Tá/阮文佐) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Một vị hoàng thân Chăm là Po Krei Brei (Nguyễn Văn Chiêu) đưa gia quyến bỏ sang tỉnh Tbong Khmum của Chân Lạp định cư. Lần này, người Chăm từ Việt Nam chạy sang Campuchia tị nạn rất đông. Po Krei Brei được cộng đồng Hồi giáo Tbong Khmum và Kampong Cham suy tôn là thủy tổ của mình.
Năm 1794, vua Chân Lạp là Ang Eng lên ngôi và sau đó tin dùng các nhóm lính người Chăm Mã Lai. Một người Mã Lai tên Tuon Set Asmit (Tuon Pha, Tuen Phaow) được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Tbong Khmum. Đến thời vua Ang Chan II, nhiều người gốc Chăm Mã Lai giữ chức cao trong triều đình Chân Lạp như Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù (Chauvea Talaha Tuon Pha) giữ chức Tể tướng, Samdech Chau Ponhea Tei (Tham đích Tây, Tham đích Châu Bôn Nha) nắm quân đội.
Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can-Po Chơn), vị vua cuối cùng của Chăm Pa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Chân Lạp Ang Chan II mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về tay các quan Trà Long và La Kiên. Người Chăm Mã Lai ở Chân Lạp được nhà Nguyễn tin dùng. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương cho sắp xếp quân đội để bảo hộ Chân Lạp, trong đó: lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên) xếp làm hai cơ An Man Nhất và An Man Nhị. Mỗi cơ mười đội, mỗi đội 50 người. Dùng người đầu mục là Hu Khiêm làm Suất cơ cơ An Man Nhất, Đỗ Cố làm Phó suất cơ, Tôn Ly làm Suất cơ cơ An Man Nhị, Hàn Ông làm Phó suất cơ. Sai họ chiêu tập cho đủ số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Tới năm 1835, khi lập Trấn Tây thành, nhà Nguyễn đặt quân Chăm Mã Lai làm ba cơ, Nhất, Nhị, Tam (dân Chàm 823 người làm cơ cơ An man Nhất và Nhị; dân Chà Và 223 người làm cơ An man Tam). Ba cơ An Man này của người Chăm Mã Lai được nhà Nguyễn khen ngợi "chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh". Khen thưởng Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm (Hu Khiêm), Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Tuy nhiên, việc ưu ái người Chăm Mã Lai của nhà Nguyễn cũng khiến họ bị người Khmer bản địa nghi kỵ, ganh gét và xua đuổi.
Cùng năm 1834, mùa đông, tháng 12, hơn 30 sách người Mán Chàm ở gần thành Quang Hoá thuộc Gia Định (nay là tỉnh Tây Ninh), tình nguyện xin phụ thuộc vào Đại Nam.
Từ năm 1847, quân Nguyễn rút khỏi Chân Lạp, vua Ang Dương lên nắm quyền ở Campuhia. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), người Chàm là Chàm Ôn, Chàm Núi trước đây bị thổ phỉ bắt hiếp xua dồn đi, nay mang gia quyến xin về châu Quang Hoá (nay là Tây Ninh) dựng nhà ở. Năm 1857, đầu mục người Chàm là Ả và Ôn ở hai xã Đông Tác, Tây Thành, phủ Tây Ninh thuộc Gia Định lại về lập ấp.
Năm 1858, một số cuộc nổi dậy nổ ra như người Khmer ở gần biên giới Tây Ninh và đặc biệt là người Chăm Mã Lai ở Tbuong Kmoum. Người Chăm Mã Lai nổi dậy dưới sự kêu gọi của các thủ lĩnh Tuon-Him (Tôn Hiên), Tuon-Su (Tôn Ca?) và Tuon-it (Tôn Ích). Hàng nghìn người Chăm Mã Lai chạy sang Châu Đốc tỵ nạn.
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mâu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 1.300.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 950.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam. Malaysia thực tế có trên 50.000 người, Thái Lan khoảng 4.000 người...
Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsul ở đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia. Trong thế kỷ XX, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Người Chăm ở Lào có hơn 800 hộ gia đình trong đó có 3000 người sống ở thủ đô Viêng-chăn, cộng đồng này di cư từ Campuchia do sự diệt chủng của Khơ-me Đỏ.
Trên lãnh thổ Việt Nam, năm 2019 có khoảng 178.948 người Chăm sinh sống, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh:
Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: "Chăm H'roi", "Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận", và "Chăm Nam Bộ".
Người Raglai được coi như một nhánh gần gũi của dân tộc Chăm. Họ cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và được công nhận là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Ngoài ra những dân tộc theo ngữ hệ Nam Đảo sinh sống tại cao nguyên Đêgar (Tây Nguyên) như Người Churu, Êđê và Gia Rai đều có liên hệ về mặt chủng tộc, lịch sử, văn hóa, kinh tế... mật thiết với người Chăm.
Tại Campuchia, người theo Hồi giáo (người Muslim) gọi là Khmer Islam và hầu hết họ là người Chăm. Năm 2008, Campuhia ước tính có khoảng 320.000 đến 700.000 Người Hồi giáo, chiếm khoảng 2,4 đến 5,2 dân số cả nước. Họ sinh sống tập trung tại các tỉnh Kampong Cham, Tbong Khmum, Kampong Chhnang và Phnom Penh. Người Muslim ở Campuchia có thể tạm chia làm ba nhóm là Chăm, Imam Sann và Chvea.
Một số cộng đồng Chăm sau khi sang Campuchia lại tiếp tục sang Malaysia và Thái Lan. Họ đều có nguồn gốc từ miền Trung Việt Nam, di cư khỏi vùng đất cũ của mình do sự Nam tiến của Đại Việt cách đây nhiều thế kỷ. Đa số họ theo Hồi giáo Sunni và có tiếp xúc chặt chẽ với người Malaysia và Indonesia do có cùng tôn giáo và ngôn ngữ cùng thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia.
Chămpa từng theo một dạng của Ấn giáo Tamil Shaivism, tới từ miền Nam Ấn Độ qua đường biển. Khi các thương gia Ả Rập, Ba Tư dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hoa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm.
Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có niên đại vào thế kỷ XI đã được phát hiện. Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung Hoa trong suốt thời kỳ nhà Đường (618–907), và các nhà buôn Ả Rập và Ba Tư trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ không phải với các dân tộc khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm theo Hồi giáo theo kiểu Ba Tư (chú trọng Ali như phái Shia) một cách truyền thống trong vùng Đông Dương.
Ngược lại đa số người Chăm ở Campuchia và Miền Tây Nam Bộ của Việt Nam, theo Hồi giáo phái Sunni, thực hiện các trụ cột như cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và thực hiện hành hương "hajj" đến thánh địa Mecca. Đại diện người Chăm Campuchia đã tham gia vào cuộc thi quốc tế ngâm thơ Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur. Các cộng đồng người Hồi giáo các phe Sunni Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo, và được đứng đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình Kaum Jumaat, duy trì một sự thích nghi thần học Hồi giáo phái Shia, theo đó họ cầu nguyện chỉ vào Thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Ở Việt Nam cũng có nhóm tương tự được gọi là adat Bini (Bà Ni, Ăwal, Triều Nguyễn gọi là Ni Tục). Một số thành viên của nhóm này có tham gia vào cộng đồng Chăm Hồi giáo Sunni và đang xảy ra sự chia rẽ, tranh cãi giữa Kaum Jumaat (Shia) và các phe Sunni tại Campuchia, Bini và các phe Sunni tại Việt Nam. Một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã sang các nước Hồi giáo theo các phe Sunni để nghiên cứu về Hồi giáo có xu hướng phải bắt chước cả tôn giáo lẫn phong tục Ả Rập, họ tin rằng người Chăm phải bỏ toàn bộ phong tục xưa và trở thành một người như Mã Lai, như Ả Rập.
Tại Tây Sumatra, người Minangkabau lưu truyền huyền thoại về võ sư Harimau Campo (hổ Champa). Harimau Campo cùng với các võ sư Ninik Datuak Suri Dirajo (từ Padang Panjang), Kambiang Utan (dê rừng Campuchia), Kuciang Siam (mèo Xiêm), Anjiang Mualim (chó Gujarat) là 5 tông phái chính của môn võ Pencak Silat.
Ở Việt Nam, có khoảng 60.000 người Chăm theo adat Cham (Bà Chăm, Ahiér, Triều Nguyễn gọi là Chiêm Tục). Mặc dù cả hai adat - adat Cham và adat Bini đều là adat có ảnh hưởng của Hồi giáo (1 phần) nhưng sự nhầm lẫn của người Pháp cho rẳng adat Cham là đạo Bà La Môn (Ấn giáo) đã dẫn đến quan niệm sai lầm khó sửa lại, là họ tự cho rằng mình là tín đồ Ấn giáo! Tất nhiên, ngày nay họ không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế. Các đền thờ vua được coi là các vị thần Ấn giáo hóa thân xưa được gọi là "Bimong" trong tiếng Chăm. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là "Po Adhia" hay "Po (đọc a-sá)", tiếp theo là "Po Tapáh" và thấp nhất là "Po Paséh".
Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính:
Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm và gần 31.000 người Bini. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Chăm và 11 làng Bini. Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người Chăm và khoảng 10.000 người Bini .
Tại tỉnh An Giang có 9 xã có người Chăm sinh sống, trong đó khoảng 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú và Châu Thành, gần như toàn bộ theo Hồi giáo Sunni. Người Chăm ở Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ cũng hầu hết theo đạo Hồi.
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỷ.
Vì có nét sinh hoạt văn hóa đặc biệt nên làng Chăm Đa Phước thuộc huyện An Phú cũng là địa điểm du lịch thu hút du khách đến xem kỹ thuật dệt thổ cẩm. Vải Chăm có mẫu mã đặc sắc khác hẳn những hàng dệt của sắc tộc khác. Cách thức dệt còn theo lối truyền thống trên khung cửi nhưng đến thế kỷ 21 thì nguyên liệu sợi và phẩm màu không còn sản xuất ở địa phương nữa mà là mua ở nơi khác mang về dệt.
Người Chăm thường sinh sống tập trung trong palei Cam (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Palei là người đóng vai trò rất quan trọng trong Palei. Luật tục Chăm ghi:
Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, người Chăm có hai quận riêng tự điều hành; có Trường Trung học Pô-Klong ‘dành riêng’ cho người Chăm để tiếp nối truyền thống giáo dục ông bà.
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm quy định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần sọc, ngoài quấn váy.
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quấn lên đầu, khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
|
6139 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6139 | Song đề tù nhân | Song đề tù nhân hay Thế tiến thoái lưỡng nan của người tù ("Prisoner's Dilemma") là một trò chơi có tổng không bằng không ("non-zero sum") trong lý thuyết trò chơi ("game theory"). Hình thể đơn giản nhất của trò chơi có hai người chơi (gọi là tù nhân), mỗi người đều muốn giành thuận lợi cho mình, bất chấp tình trạng của người kia. Kết quả của trò chơi này không tối ưu. Nếu hai người đều hợp tác với nhau thì kết quả sẽ tốt nhất, nhưng mỗi người đều có động cơ để đào ngũ. Vì thế trò này mới được gọi là song đề.
Một thể khác của trò chơi này, được gọi là Song đề tù nhân lặp lại ("Iterated Prisoner's Dilemma"), cho phép những người chơi lặp lại nhiều trận. Như thế, mỗi người chơi có cơ hội "trừng phạt" người kia nếu họ không hợp tác trong các trận trước. Kết quả của trò này là cả hai đều hợp tác vì động cơ để ăn gian bị mối đe dọa trừng phạt khống chế.
Song đề tù nhân cổ điển được kể như sau:
Trò chơi có thể được tóm tắt như sau:
Giả sử rằng cả hai tù nhân đều ích kỷ và đều muốn làm giảm tối thiểu thời gian tù tội của mình. Mỗi tù nhân có hai lựa chọn: hợp tác với kẻ đồng loã và giữ im lặng, hay phản bội và đổ tội. Kết quả của mỗi lựa chọn đều tuỳ thuộc vào lựa chọn của người kia. Tuy nhiên, không người nào biết được lựa chọn của người kia. Nếu họ có thể nói chuyện với nhau, họ cũng chưa chắc là tin tưởng nhau được.
Nếu người này tin rằng người kia sẽ giữ im lặng, lựa chọn tối ưu của hắn là đổ tội, vì thế hắn sẽ được thả tự do ngay trong khi người kia sẽ bị nằm tù 10 năm. Ngược lại, nếu hắn tin rằng người kia sẽ đổ tội, lựa chọn tối ưu cũng là đổ tội, vì nếu phản bội thì hắn sẽ bị tù chỉ 2 năm thay vì 10 năm nếu giữ im lặng. Tuy nhiên, nếu cả hai hợp tác với nhau và giữ im lặng, cả hai sẽ được thả tự do trong vòng 6 tháng.
Vì thế ta thấy mỗi người đều nên đổ tội. Bất kể lựa chọn của người kia, mỗi tù nhân đều được giảm thời gian tù nếu phản bội đối phương. Xui thay cho cả hai, vì kết quả là khi cả hai đều đổ tội thì đều bị tù lâu hơn là cùng giữ im lặng.
Nếu lý luận từ quan điểm tốt cho cả hai người, kết quả tốt nhất sẽ là hai người đều hợp tác với nhau, vì như thế thời gian ở tù tổng cộng của cả hai người chỉ là một năm. Bất cứ lựa chọn nào khác sẽ dẫn đến thời gian tù tội của hai người dài hơn. Vì mỗi người đều đi theo quyền lợi ích kỷ của mình, hai người bị lãnh án dài hơn.
Nếu mỗi người đều có cơ hội trừng phạt người kia khi họ phản bội, kết quả sẽ là sự hợp tác. Hình thể lặp lại của trò chơi này cho phép sự trừng phạt đó. Trong trò chơi đó, nếu một người gian lận người kia trong một lần nào, hắn có thể bị trừng phạt bằng cách người kia gian lận trong lần kế. Vì thế, trò chơi lặp lại tạo một cơ hội để mỗi người chơi trừng phạt người kia nếu hắn không hợp tác.
Ma trận thưởng phạt của song đề tù nhân có thể viết bằng nhiều cách, miễn là theo những nguyên lý sau đây:
trong này, T là động cơ đào ngũ ("temptation" - khi đào ngũ và người kia hợp tác); R là phần thưởng khi cả hai đều hợp tác ("reward"); P là sự trừng phạt khi cả hai đều đào ngũ ("punishment"); và S là phần bị lãnh khi hợp tác và người kia đào ngũ ("sucker's payoff").
(Các giá trị số phải được chọn để T + S < 2R để trò chơi được đáng kể).
Công thức trên bảo đảm rằng bất kỳ số nào được chọn, lựa chọn đào ngũ cũng lúc nào cũng tốt hơn bất chấp lựa chọn của người kia.
Theo nguyên lý này, chúng ta lấy được ma trận thưởng phạt chuẩn thường được nêu ra trong các bài viết về đề tài này. Trong cách trình bày này, số càng lớn thì kết quả càng tốt.
Trong thuật ngữ "thắng-thắng" ma trận sẽ giống như sau:
Trò chơi này nhìn vào thấy có lẽ khó có thật trong thực tế, nhưng thật sự có nhiều trường hợp trong giao thiệp giữa người với người hay với thiên nhiên có ma trận thưởng phạt tương đương. Vì thế, song đề tù nhân đáng được đề cập đến trong các môn khoa học xã hội như kinh tế học, chính trị và xã hội học, cũng như trong các môn sinh học như phong tục học và sinh học tiến hoá.
Trong khoa học chính trị, hiện tượng song đề tù nhân thường được dùng để minh hoạ vấn đề hai quốc gia đang tham gia trong một cuộc đua vũ khí. Cả hai đều lý luận rằng họ có hai lựa chọn, một là tăng tiền quân sự hay hai là thoả thuận giảm vũ khí. Nhưng không nước nào có thể chắc chắn rằng nước kia sẽ tuân theo thoả thuận; vì thế, cả hai đều bỏ tiền ra để tăng số vũ khí. Tuy hai nước đều hành động theo suy luận có lý, nhưng kết quả lại vô lý.
William Poundstone, trong một quyển sách về song đề tù nhân (xem tham khảo), đã miêu tả một tình cảnh ở New Zealand nơi các hộp báo không được khoá. Một người có thể lấy báo mà không cần trả tiền ("đào ngũ") nhưng rất ít người làm việc đó vì họ thấy rằng nếu mọi người đều "chôm" báo ("cả hai đào ngũ").
Cuối cùng, kết quả lý thuyết của song đề là lý do tại một số quốc gia không cho phép giao kèo bào chữa. Nhiều khi trường hợp y như song đề cổ điển được áp dụng: thường cả hai đều có động cơ để nhận tội và khai chống người kia, mặc dù mỗi người đều vô tội. Kết quả xấu nhất phải nói là khi một người có tội và một người vô tội: người vô tội sẽ không nhận tội, trong khi người có tội lại không nhận tội và vu khống người vô tội.
Nhiều hoàn cảnh song đề trong thực tế có nhiều người tham gia. Hoàn cảnh bi kịch của mảnh đất công ("tragedy of the commons"), tuy là ẩn dụ, có thể được xem là một hình thể nhiều người của song đề tù nhân: mỗi người trong làng đều có một lựa chọn để có lợi ích cá nhân hay tự kiềm chế. Kết quả khi nhiều người đào ngũ là một phần "thưởng" rất thấp (tượng trưng cho sự phá huỷ của "mảnh đất").
Song đề tù nhân có nhiều hình thể khác, với nhiều cách chơi khác và ma trận thưởng phạt khác nhau.
Trong quyển "The Evolution of Cooperation" (1984) ("Quá trình tiến hoá của sự hợp tác"), tác giả Robert Axelrod đã khảo sát một trường hợp mở rộng của song đề tù nhân mà ông gọi là "song đề tù nhân lặp lại" ("iterated prisoner's dilemma - IPD"). Trong trường hợp này, những người tham gia phải chọn một chiến thuật nhiều lần, và có thể nhớ được những lần trước. Ông đã mời nhiều nhà nghiên cứu từ khắp thế giới tạo ra những chiến thuật vi tính để đấu nhau trong một cuộc đấu IPD. Những chương trình được gửi về khác nhau rất nhiều về sự phức tạp của thuật toán, thái độ thù địch ban đầu, khả năng tha thứ, v.v.
Axelrod đã khám phá ra rằng khi các cuộc đấu này trải qua một thời gian dài với nhiều người chơi, mỗi người với một chiến thuật riêng, thì những chiến thuật "tham lam" thường có kết quả rất thấp khi so với những chiến thuật "vị tha" hơn. Ông đã dùng khám phá này để đưa ra một giải thích để bù một lỗ trong thuyết tiến hoá: trong chọn lọc tự nhiên chỉ có những động cơ ích kỷ, vậy sao lại tiến hoá đến những hành động vị tha?
Chiến thuật tốt nhất là ăn miếng trả miếng ("tit for tat") do ông Anatol Rapoport phát triển. Chiến thuật này là chiến thuật đơn giản nhất, chỉ dùng bốn hàng ngôn ngữ lập trình BASIC, nhưng lại thắng cuộc. Chiến thuật này là hợp tác trong lần đầu, và sau đó chỉ làm theo đối thủ trong trận trước. Một chiến thuật tốt hơn một tí là "ăn miếng trả miếng với tha thứ". Khi đối thủ đào ngũ, trong trận kế tiếp đôi khi vẫn hợp tác với một cơ hội nhỏ (1-5%). Việc này cho phép phục hồi nếu cả hai cứ đào ngũ. "Ăn miếng trả miếng với tha thứ" hoạt động tốt nhất khi trong trò chơi có thể bị mất liên lạc. Việc này có nghĩa là đôi khi đối thủ được thông báo sai về lựa chọn của mình: mình hợp tác nhưng đối thủ lại tưởng là mình đã đào ngũ.
Axelrod kết luận rằng "ăn miếng trả miếng" thành công vì hai lý do. Thứ nhất, nó "tử tế" ("nice"): nó hợp tác lúc đầu và chỉ đào ngũ để trả đũa khi đối thủ đào ngũ trước, cho nên nó không bao giờ bắt đầu một vòng tròn đào ngũ. Thứ nhì, nó có thể linh động, lúc nào cũng có thể phản ứng việc đào ngũ của đối thủ; nó trừng phạt người kia ngay sau khi họ đào ngũ, nhưng lập tức đối xử tử tế ngay khi họ bắt đầu hợp tác.
Nếu một IPD được lặp lại đúng N lần, và N được biết trước, thì một kết luận thú vị sẽ xảy ra. Trong trường hợp này thì chiến thuật hay nhất cũng sẽ là đào ngũ cho mỗi lần. Điều này có thể chứng minh được theo phương pháp quy nạp. Trong trận cuối, vì đối thủ không có cơ hội trừng trị mình được, lựa chọn tốt nhất sẽ là đào ngũ. Như thế, cả hai sẽ đào ngũ trong trận cuối. Nhưng theo lý đó thì mình cũng nên đào ngũ trong trần trước trận cuối, vì đối thủ sẽ đào ngũ trong trận cuối bất chấp mình làm gì. Và cứ suy luận như thế. Vì thế, nếu muốn cả hai đều hợp tác, cả hai đều không được biết khi nào trò chơi kết cuộc. Một giải pháp là làm số N một số ngẫu nhiên.
Có một loại trò chơi có tổng không bằng không nữa là trò chơi thách ("Chicken") được đặt tên theo một trò chơi đua xe. Hai chiếc xe chạy tiến gần đến nhau và đang đà đụng nhau - người đầu tiên đổi hướng xe để khỏi bị tung bị xem là kẻ nhát gan (""chicken""). Cả hai người có thể đổi hướng để tránh tai nạn (hợp tác) hay cứ tiến thẳng (đào ngũ). Trong trò chơi này, nếu đối thủ hợp tác thì ta nên đào ngũ - đây là kết quả tốt nhất. Nếu đối thủ đào ngũ, ta lại nên hợp tác. Trường hợp cả hai đều đào ngũ là trường hợp xấu nhất, nhưng trong song đề tù nhân kết quả xấu nhất là khi mình hợp tác trong khi người kia đào ngũ.
Một ma trận thưởng phạt sẽ giống như sau:
|
6140 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6140 | Khổng Tử | Khổng Phu Tử hay Khổng Tử (28 tháng 9 năm 551 TCN – 11 tháng 4 năm 479 TCN) là một triết gia và chính trị gia người Trung Quốc, sinh sống vào thời Xuân Thu. Theo truyền thống, ông được xem là nhà hiền triết Trung Quốc mẫu mực nhất. Những lời dạy và triết lý của Khổng Tử đã hình thành nền tảng văn hóa Á Đông, và ngày nay vẫn tiếp tục duy trì ảnh hướng khắp Trung Quốc cũng như các quốc gia Đông Á khác.Ông là một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc.
Hệ thống giáo lý triết học của Khổng Tử, Nho giáo, nhấn mạnh yếu tố đạo đức của mỗi cá nhân lẫn chính quyền, tính đúng đắn trong các mối quan hệ xã hội, sự công bằng, lòng nhân ái và tính chân thành. Đối với người Trung Quốc, Nho giáo là một phần lối sống và cơ cấu xã hội. Theo Nho giáo, mọi hành vi trong cuộc sống thường nhật đều thuộc phạm trù tôn giáo. Nho sinh theo học Khổng Tử đã cạnh tranh thành công với nhiều trường phái triết học Bách gia chư tử nhưng rồi lại bị đàn áp bởi các Pháp gia thời nhà Tần. Sau khi nhà Hán thành lập, tư tưởng Nho giáo mới lại được chính quyền phê chuẩn. Dưới thời nhà Đường và nhà Tống, Nho giáo phát triển thành hệ thống Lý học, thường được người phương Tây gọi là Tân Nho giáo.
Khổng Tử thường được ghi nhận là tác giả hoặc người biên tập của nhiều tài liệu Trung Quốc cổ điển, bao gồm toàn bộ Ngũ kinh. Tuy nhiên, giới học giả hiện đại rất thận trọng khi đưa ra khẳng định về đóng góp của Khổng Tử. Cách ngôn của Khổng Tử được học trò chép lại trong "Luận ngữ", nhưng đó là sau khi ông đã qua đời nhiều năm.
Bộ nguyên tắc mà Khổng Tử xây dựng có nhiều điểm tương đồng với truyền thống và tín ngưỡng Trung Quốc. Với những nguyên tắc về lòng hiếu thảo, Khổng Tử đề cao một gia đình trung hiếu, lòng tôn kính dành cho tổ tiên, sự tôn trọng mà con cái dành cho cha mẹ, vợ dành cho chồng, và tin rằng gia đình tốt đẹp là hạt nhân của một chính quyền lý tưởng. Nguyên tắc vàng mà Khổng Tử đề ra là: "Đừng làm điều gì mà bạn không muốn người khác làm cho mình."
Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu (), tự Trọng Ni (). Cách gọi "Khổng Tử" hay "Khổng Phu Tử" đều mang nghĩa là "thầy giáo Khổng", là một cách gọi tôn trọng. Khi dịch sách Trung Hoa sang ngôn ngữ Tây phương, các tu sĩ dòng Tên đã chuyển âm "Kǒng fūzǐ" (Khổng Phu Tử) thành "Confucius".
Thụy hiệu: "Bao thành tuyên Ni công" (褒成宣尼公; năm 1 triều Hán Bình Đế), "Văn Tuyên vương" (文宣王; năm 739 triều Đường Huyền Tông), "Đại thánh Văn Tuyên vương" (大聖文宣王, năm 1008 triều Tống Chân Tông), "Chí thánh tiên sư" (至聖先師; năm 1560 triều Minh Thế Tông), "Đại thành chí thánh Văn Tuyên vương Thánh sư" (大成至聖文宣王聖師; năm 1645 triều Thanh Thế Tổ).
Theo ghi chép trong gia phả họ Khổng, Khổng Tử thuộc dòng dõi quý tộc nước Tống, là hậu duệ của các quân chủ nhà Thương. Đầu thời nhà Chu, Chu công theo lệnh Chu Thành vương đã ban cho con trai cả của Đế Ất là Vi Tử Khải vùng đất Thương Khâu, lập ra nước Tống. Sau khi Vi Tử Khải qua đời, em trai là Vi Trọng lên nối ngôi. Vi Trọng chính là tổ tiên 14 đời của Khổng Tử.
Tổ tiên 6 đời của Khổng Tử vốn tên Tử Gia (), tự Khổng Phụ (), sử sách thường gọi là Khổng Phụ Gia (), là hậu duệ đời thứ 6 của Tử Cung, vị quân chủ thứ 5 của nước Tống. Khổng Phụ vốn là đại phu nước Tống thời Xuân Thu, từng làm đến chức Đại tư mã dưới triều Tống Thương công, được ban thái ấp ở Lật ấp. Cung đình xảy ra nội loạn, Khổng Phụ bị Thái tể Hoa Đốc giết chết, con trai lánh đến nước Lỗ. Về sau, cha Khổng Tử là Thúc Lương Hột (hay ) định cư tại Tưu ấp (nay là thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông), nhậm chức Đại phu Tưu ấp.
Người vợ cả đầu tiên của Thúc Lương Hột là Thi thị (), sinh cho Hột 9 người con gái. Vì quá mong con trai mà Thúc Lương Hột đã nạp một người thiếp và sinh được người con trai tên Mạnh Bì (), nhưng người con trai này lại có tật ở chân. Đến năm Thúc Lương Hột đã qua tuổi 70 thì cưới vợ lần thứ 3, Nhan thị lúc này mới 18 tuổi. Vì cuộc hôn nhân này không hợp với lẽ thường mà bị người đời xưng là "dã hợp". Về sau, Nhan thị sinh ra Khổng Tử. Theo Sử ký, Thúc Lương Hột và Nhan thị nhờ đến Ni Khâu mà sinh được Khổng Tử, vì vậy đã đặt tên con trai là "Khâu", lấy tự là "Ni".
Khổng Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa. Lên 2 tuổi ông mồ côi cha. Vì nhà nghèo nên khi còn trẻ ông phải làm nhiều nghề để mưu sinh. Ông từng làm công cho họ Quí, một dòng họ quý tộc lớn ở nước Lỗ, những việc như gạt thóc, chăn gia súc. Ông là người ham học. Năm 15 tuổi ông bắt đầu tập trung học về đạo, nghiên cứu lễ giáo và các môn học khác. Ông lấy vợ năm 19 tuổi, năm sau sinh con đầu lòng đặt tên là Lí, tự là Bá Ngư. Năm 22 tuổi ông bắt đầu dạy học.
Năm 30 tuổi, Khổng Tử được Lỗ Chiêu Công ban cho ông một cỗ xe song mã và một người hầu để đưa Khổng Tử và Nam Cung Quát đi Lạc Dương tham quan và khảo cứu luật lệ, thư tịch cổ. Sau đó ông về nước Lỗ. Từ đó, học trò xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng ông vào việc nước. Năm ông 35 tuổi, trong nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn. Ông theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Tề Cảnh Công mời ông tới để hỏi việc chính trị và rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho ông, nhưng quan Tướng quốc nước Tề là Án Anh ngăn cản không cho. Sáu năm sau, ông về Lỗ tiếp tục nghiên cứu và dạy học. Tổng số môn đệ của Khổng Tử có lúc lên tới 3.000 người, trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị hiền.
Năm 50 tuổi ông được vua Lỗ Định công mời làm Trung đô tế, năm sau được thăng chức Tư không rồi chức Đại tư khấu. Ông khuyên Lỗ Định công thu hồi binh quyền của ba dòng họ quý tộc nước Lỗ. Nước Tề thấy nước Lỗ mạnh lên, có ý lo ngại. Vua Tề theo kế, dâng vua Lỗ 80 thiếu nữ đẹp và 125 con ngựa tốt. Vua Lỗ sau khi nhận gái đẹp bỏ bê việc triều chính, có khi luôn 3 ngày không ra thiết triều, mọi việc đều giao cả cho quyền thần.
Năm 55 tuổi, Khổng Tử xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu. Ông đi khắp thiên hạ để truyền bá tư tưởng của mình nhưng giới cầm quyền các nước chư hầu thời bấy giờ chẳng ai muốn áp dụng đạo trị quốc của ông. Đương thời mọi người đều biết ông là người kiên định với lý tưởng của mình, là người biết chủ trương của mình không thực hiện nổi mà cứ cố làm. Năm 69 tuổi ông về Lỗ chuyên tâm viết sách. Ông mất năm 71 tuổi khi tâm nguyện chưa thành.
Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập thành 6 cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu về các vấn đề khác nhau như thi ca, nghi lễ, bói toán, sử học. Khổng Tử nói ""Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác. Ta tin tưởng và hâm mộ văn hóa cổ. Ta trộm ví mình như Lão Bành."" Bộ sách này có thể được xem là một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
|
6141 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6141 | Phật giáo Việt Nam | Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm tương đồng và khác biệt so với Phật giáo của các nước khác trên thế giới. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ đại nên mang nhiều nét của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là tôn giáo. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam, mang nhiều ảnh hưởng của hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Tuy nhiên, ở khu vực miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tông cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nhất là trong cộng đồng người Khmer Nam bộ. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2020, hiện có hơn 4,600,000 tín đồ Phật giáo , còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 1002 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Đầu công nguyên, Luy Lâu (Bắc Ninh) là thủ phủ của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các dấu tích của Phật giáo tại Việt Nam được ghi nhận qua các truyền thuyết như Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La ("Ksudra") trong khoảng các năm 168-189, Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ "Buddha" (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt" và "Bụt Đà", từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật giáo Nam truyền được địa phương hóa; Bụt được dân gian hóa coi như một vị thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV - V, do ảnh hưởng của Phật giáo từ Trung Hoa mà từ "Bụt" bị thay thế dần bởi từ "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến thời nhà Đinh - Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của phong trào chấn hưng Phật giáo của các nước, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu .
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Dưới đây là một số tông phái Phật giáo có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam:
Thiền tông được Bồ-đề-đạt-ma truyền sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Theo các nhà nghiên cứu Phật giáo, Thiền tông ngay sau đó không lâu cũng được truyền sang Việt Nam, với dấu ấn của dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi ("Vinitaruci"). Sư vốn là người Ấn Độ, qua Trung Quốc đắc pháp với Tam tổ Tăng Xán rồi đến Việt Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ.
Khi Lục tổ Huệ Năng phát dương rực rỡ Thiền tông Trung Quốc, nhưng đặc tính của nó cũng xuất hiện ở Việt Nam với các dòng Thiền Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời. Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Hoa, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông phóng thích cho hoằng đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền được đến 6 đời.
Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, ông xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc Thành phố Uông Bí, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái Tào Động dưới thời Trịnh-Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế dưới thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam).
Thiền tông Việt Nam đề cao cái "tâm": "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật. Trần Nhân Tông viết trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo:
""Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,"
"Cơ tắc xan hề khốn tắc miên."
"Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,"
"Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.""
Dịch:
""Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,"
"Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền."
"Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,"
"Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.""
Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu tâm dựa vào tha lực của Phật A Di Đà để đắc đạo. Dù vậy đương sự vẫn phải tự lực dốc lòng niệm Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni có lần thuyết giảng: ""Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi"" nên Tịnh độ tông cho là dù nghiệp nặng tới đâu việc thành tâm niệm Phật cũng sẽ là phương tiện giúp tín đồ sau khi mãn kiếp sẽ tới miền Cực lạc.
Theo Tịnh độ tông cõi Cực lạc là một nơi sinh linh không bị buộc vào vòng luân hồi. Nơi đó Phật A Di Đà (tiếng Phạn: "Amitabha") là giáo chủ. Phật tử có thể dùng công đức, làm việc thiện, đọc kinh, niệm Phật (nhất là tụng danh Phật A Di Đà), hồi hướng thiện tâm mà góp sức cứu sinh linh lớn nhỏ thì mai sau cũng sẽ đắc quả. Không như Thiền tông dựa vào tâm lực để giác ngộ, Tịnh Độ tông mở lối cho Phật tử vi giác qua công quả, có phần thực tế và giản dị hơn việc luyện trí tập thiền nên tông phái này rất phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy mà đi đến chùa nào cũng nghe câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy y đức Phật A Di Đà") và gần như chùa nào cũng lập tượng Phật A Di Đà để thờ.
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ ("Sarvastivada") và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi thức này là lễ Quán Đỉnh ("Abhiseka") do một vị sư cả ("guru" hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể bằng cách đọc chân âm ("mantra"), suy niệm đồ hình Mạn đà la ("mandala") và thực thi ấn quyết ("mudra") để đạt đến độ thăng hoa loại bỏ ý niệm nhị nguyên ("duality") để nhập vào Chân Như, vào cõi Không. Trạng thái đó được biểu tượng bằng Kim cương chử ("Vajra"). Để làm chủ được các nghi thức tác pháp của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa - "Vajrayana") thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa ("Prajnaparamita") của Long Thụ và Vô Trước. Giáo nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa Kim Cương thừa được gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa Tam Luận tông của Long Thụ, mà đặc biệt là tư tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thụ và Vô Trước. Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên thâm về Phật pháp mà nhiều vị rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý thức độc lập tự chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ thứ 10), Sùng Phạm (thế kỉ 12)... đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc đạo mà cả việc đời, việc ngoại giao. Đặc biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập "Tổng Trì Tam Muội" ("Dharani samadhi"), một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo ("Tantrism"), dùng chân âm kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư (Ninh Bình), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10 có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni ("Usnisavijaya dharani"), một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát hiện.
Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh...
Phật giáo Nam tông được truyền rất sớm vào Việt Nam do các tổ sư Ấn Độ truyền bá nhưng đến khi Đại thừa truyền vào từ Trung Quốc thì dần dần thay thế Phật giáo Nam truyền.
Hiện nay Phật giáo Nam tông phát triển mạnh ở miền nam chủ yếu là Phật tử đồng bào dân tộc Khmer. Mãi đến cuối những năm 1930, thì các sư Hộ Tông, Bửu Chơn, Thiện Luật... truyền bá Phật giáo Nam tông từ Campuchia. Hiện nay, Phật giáo Nam tông (Theravada) là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng, nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một tên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan... tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ, là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các Triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật giáo hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật, Bồ tát, La hán và các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng dung hợp hai truyền thống truyền thừa. Nhiều chùa mang hình thức Nam truyền (chỉ thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư đắp y vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh y vàng còn có áo nâu, áo lam.
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo bắc truyền tiếp nhận Đạo giáo. Rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích) truyền vào Việt Nam qua đường Bắc thuộc. Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.
Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
Nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam, làm cho Phật giáo Việt Nam có phần nữ tính hóa.
Các vị Phật Ấn Độ xuất hiện với thân nam, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Mẹ Quan Âm (Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị "thần" cứu giúp cho nhân dân, người miền biển còn gọi là Quan Âm Nam Hải (biển đông). Ngoài ra người Việt còn có những vị "Phật-Mẫu" riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
Đạo phật Khất sĩ Việt Nam là một tông phái Phật giáo nội sinh do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ 1944, lấy chí nguyện " Nối truyền Thích ca chính Pháp", sư đã dung hợp hai truyền thống Đại thừa phát triển mạnh và Nam truyền gần gũi với lời dạy gốc của Đức Phật. Đi trước phong trào chấn hưng phật giáo những đóng góp của sư có vai trò to lớn trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Bộ sách Chân lý đã đúc kết những nguyện vọng, tông chỉ, đường hướng hoằng đạo của ngài cho các đệ tử.
Bửu Sơn Kỳ Hương hay đạo Lành do Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh khai sáng vào năm 1849, là một giáo phái dựa vào sự tích Bồ tát Di Lặc hạ sinh để rao giảng về hội Long Hoa của Phật Di Lặc. Bửu Sơn Kỳ Hương đơn giản hóa các triết lý sâu xa của đạo Phật. Đạo đề cao tứ ân, tôn người lập đạo là Phật thầy Tây An.
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn sư) sáng lập. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp. Sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng. Đạo hình thành trên tư tưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương nên ngày càng xa với triết lý của Phật dạy.
Đạo Hòa Hảo hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một giáo phái dựa trên nền đạo đức triết lý Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ, nhất là ở Tây Nam bộ.
Thực chất Phật giáo Hòa Hảo là tiếp nối của một tông phái Phật giáo có từ gần một trăm năm trước ở đồng bằng Nam bộ có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) sáng lập vào năm 1849 tại vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang). Tiếp sau Phật Thầy Tây An là Tứ ân hiếu nghĩa của Phật Trùm, Ngô Lợi (Đức Bổn Sư) rồi đến Huỳnh Phú Sổ. Thời kỳ Huỳnh Phú Sổ là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đạo Hòa Hảo.
Giáo lý là sự kết hợp của Tịnh Độ tông với Đạo Ông Bà. Tôn chỉ là "Học Phật Tu Nhân", noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)": cha mẹ, đất nước, tam bảo (Phật-Pháp-Tăng), nhân loại.
Cách thức tu hành của Phật giáo Hòa Hảo rất đơn giản là "tu hành tại gia". Người "cư sĩ tại gia" cúng lạy vào hai buổi sớm mai và chiều tối với 16 lạy như một bài thể dục toàn thân ở "bàn thông thiên", ăn chay một tháng 4 ngày để cơ thể khỏe mạnh; thờ trần đỏ hoặc trần dà với ý nghĩa hòa hợp; không chấp nhận mê tín dị đoan (không đốt vàng mã, không cúng tà thần...); thực hành tiết kiệm triệt để như không dâng cúng thực phẩm cho Phật mà chỉ cúng bông hoa nước sạch, không ăn thịt trâu, chó, bò để giữ sức kéo...; không hình thức: không đúc tượng, không chuông mõ, "tử thì táng", không có hàng giáo phẩm và không có tổ chức đạo (trước năm 1947).
Do đức Tôn sư Minh Trí sáng lập dựa vào pháp môn tịnh độ lấy giáo lý Đức Phật làm gốc, nhưng diễn đạt đơn giản, dễ hiểu phù hợp với quần chúng nông dân hơn. Phương châm hành đạo "Phước Huệ song tu" lấy việc chữa bị bệnh chăm sóc sức khỏe bằng thuốc nam và Đông y làm phương tiện hành đạo - Phước; lấy pháp môn niệm phật A Di Đà học tập kinh A Di Đà, Vô Lương Thọ, Quán Vô Lượng Thọ - Huệ.
Đạo lấy giáo lý của tôn sư Minh Trí làm căn bản dạy cư sĩ tu tập theo các quyển "kinh, luật, luân" như: Lục Phương lễ bái, Phu thê ngôn luận, Đạo đức, Giới luật, Phật học vấn đáp, Phương pháp kiến tánh.
"Nhìn chung trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Phật giáo suy vi, đất nước chiến tranh loạn lạc, hạn hán mất mùa liên lục ở miền nam tạo ra chỗ trống về tín ngưỡng sự ra đời của các tôn giáo tông phái là để đáp ứng nhu cầu đó các đạo điều dựa trên tư tưởng từ bi của Phật và đạo đức hiếu hạnh, ái quốc của dân tộc để hành đạo. Có nhiều điểm chung giữa các đạo này là lấy việc học đạo làm người làm tiền đề tu học, lấy việc bốc thuốc chữa bệnh làm phương tiện truyền đạo, khi các tín đồ vào đạo thì lấy pháp môn tịnh độ tu tập hướng tới tịnh độ Cực Lạc tây phương của Phật A Di Đà hay tịnh độ của Phật Di Lặc."
Trong văn học dân gian thì truyện bình dân kể lại truyện "Bà Chúa Ba" tức truyện Quan âm chùa Hương. Nghệ thuật trình diễn có vở chèo "Quan Âm Thị Kính". "Truyện Kiều" của Tố như Nguyễn Du cũng hàm chứa nhiều tư tưởng Phật giáo.
Số tục ngữ ca dao liên quan đến Phật giáo rất đa dạng:
Thời nhà Đinh, nhà tiền Lê, nhà Lý, và nhà Trần Phật giáo Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến các Triều đại. Đã có nhiều vị cao tăng được triều đình trọng dụng như thiền sư Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Minh Không, Pháp Loa, v.v. ra giúp tham chính và cố vấn, giúp chèo lái con thuyền đất nước trong những lúc khó khăn. Đinh Tiên Hoàng đế lập ra chức tăng thống và Tăng lục để đại diện cho Phật giáo với chính quyền.
Thời kỳ thuộc Minh, khi nhà Hồ chấn chỉnh đạo đến thời thuộc Minh, nhà Minh tàn phá tự viện, đập phá tượng Phật, đốt kinh sách, bắt bớ tu sĩ làm cho đạo Phật bị suy yếu. Tới thời Lê sơ, Lê trung hưng chính quyền Lê, Trịnh tôn sùng Nho giáo kìm hãm Phật giáo, còn miền Nam các chúa Nguyễn lại là các Phật tử nên đã chấn hưng Phật giáo, đạo Phật có một thời gian khởi hưng ngắn cho đến hết thời Tây Sơn.
Đến thời nhà Nguyễn, Gia Long cũng lấy Nho giáo làm trọng, Phật giáo bấy giờ bắt đầu suy vi mãi đến khi phong trào chấn hưng Phật giáo được phát động.
Vào cuối thời chống Pháp dưới chính thể Quốc gia Việt Nam năm 1951 Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời. Đây là tổ chức đầu tiên với ý định thống nhất các tổ chức Phật giáo rời rạc. Tổng hội thành công trong việc liên kết các tự viện Đại thừa khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Tuy nhiên Tổng hội không có cơ cấu điều hành ngoài việc mở đường liên lạc.
Khoảng thập niên 1960 Phật giáo đấu tranh chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa dẫn đến Biến cố Phật giáo, 1963. Hiến chương 1964 đặt nền móng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức quy tụ nhiều giáo phái ở phía nam vĩ tuyến 17 thành một lực lượng tôn giáo đáng kể.
Năm 1958 tại miền bắc, Đảng Lao động Việt Nam cho phép thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
Sau năm 1975, mãi đến năm 1981 chính quyền mới cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức Phật giáo duy nhất là đại diện cho Phật giáo tại Việt Nam, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giáo hội được thành lập vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, trên cơ sở hợp nhất tất cả tổ chức Phật giáo trong nước. Hiện nay, Đệ Tứ Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng.
Vào đầu thế kỉ XX, hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo các nước các nhà sư Việt Nam cũng vận động chấn hưng Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh trên cả ba miền, đã tạo lập nên tổng thể Phật giáo Việt Nam hiện đại, Phật giáo dần lấy lại vị thế đáng có của mình, nhưng vẫn chưa phải là Quốc giáo ở Việt Nam.
Trải qua hơn ngàn năm gắn bó với dân tộc và lịch sử Việt Nam, Phật giáo đã có cả một hệ thống danh lam thắng cảnh với nhiều ngọn núi và chùa nổi tiếng, nếu tìm chọn 4 ngọn núi lớn ở bốn phía Đông Tây Nam Bắc tạm coi là Tứ Đại Danh Sơn của Phật giáo Việt Nam thì đó có lẽ là:
Dưới đây là bảng chi tiết các ngọn núi và chùa nổi tiếng
|
6145 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6145 | Gấu ngựa | Gấu ngựa (danh pháp khoa học: Ursus thibetanus hay Ursus tibetanus), còn được biết đến với tên gọi gấu đen Tây Tạng, gấu đen Himalaya, hay gấu đen châu Á, là một loài gấu có kích thước trung bình, vuốt sắc, màu đen với hình chữ "V" đặc trưng màu trắng hay kem trên ngực. Loài gấu này có quan hệ họ hàng rất gần với gấu đen Mỹ, người ta tin rằng chúng có chung nguồn gốc tổ tiên ở châu Âu.
Gấu ngựa có khu vực sinh sống trải rộng từ đông sang tây châu Á. Chúng có thể tìm thấy trong rừng vùng đồi núi ở Đông Á và Nam Á, bao gồm một dải từ Afghanistan, Pakistan, sang bắc Ấn Độ, Nepal, Sikkim, Bhutan, Đông Nam Á, đến tận đông bắc Trung Quốc, và cả Đài Loan, Nhật Bản. Chúng có thể sống trong những khu vực lên tới độ cao 3.000 m (9.900 ft). Ở một vài khu vực, gấu ngựa sống chung địa bàn với gấu nâu ("Ursus arctos") là loài to hơn và khỏe hơn. Tuy nhiên, gấu ngựa có ưu thế trước đối thủ vì khả năng leo trèo giỏi giúp chúng lấy được hoa quả và các loại hạt trên cây cao. Môi trường sinh sống của gấu ngựa có nơi cũng trùng với gấu trúc như khu bảo tồn Ngọa Long, Trung Quốc. Nòi gấu ngựa tìm thấy ở Đài Loan là nòi gấu đen Đài Loan.
Gấu ngựa có chiều dài khoảng 1,30 - 1,90 m. Con đực cân nặng khoảng 110 – 150 kg còn con cái nhẹ hơn, khoảng 65 – 90 kg. Tuổi thọ của gấu khoảng 25 năm.
Gấu ngựa là loài ăn tạp, chúng ăn các loại thức ăn như hoa quả, quả mọng, cỏ, hạt, quả hạch, động vật thân mềm, mật ong và thịt (cá, chim, động vật gặm nhấm cũng như các động vật có vú nhỏ hay xác súc vật).Tuy nhiên cũng như những cá thể khác trong họ nhà Gấu ngày nay, hạt quả và cỏ đã không còn khả thi trong khẩu phần thức ăn của chúng bởi các tác hại của tật ăn tạp. Gấu ngựa là loài ăn thịt nhiều hơn anh em của nó là gấu đen Mỹ; dù vậy thịt chỉ là một phần nhỏ trong khẩu phần ăn.
Gấu ngựa còn được biết đến như là những con thú rất hung hăng đối với con người (hơn nhiều so với gấu đen Mỹ); có rất nhiều ghi chép về các cuộc tấn công gây thương vong của gấu ngựa. Điều này có lẽ chủ yếu là do gấu ngựa sống gần với con người và tấn công khi nó bị giật mình.
Gấu ngựa được đưa vào danh sách trong sách đỏ của IUCN (Hiệp hội bảo tồn thế giới) như là loài dễ bị thương tổn trong số các động vật đang bị đe dọa. Chúng bị đe dọa chủ yếu là do phá rừng và mất chỗ sinh sống. Gấu ngựa cũng bị giết bởi nông dân vì mối đe dọa của chúng đối với gia súc, gia cầm và chúng cũng không được yêu thích do tập tính hay bóc vỏ cây của chúng làm giảm giá trị của cây trồng. Một vấn đề khác mà gấu ngựa phải đối mặt là chúng thông thường hay bị săn để lấy mật, là chất được sử dụng trong y học Trung Hoa. Do Trung Quốc cấm việc săn bắt gấu ngựa từ những năm 1980, mật gấu được cung cấp tới tay người tiêu dùng bởi các trại nuôi gấu đặc biệt, ở đó gấu bị nuôi nhốt trong chuồng và mật gấu bị rút theo định kỳ bằng cách hút mật theo các ống kim tiêm sau khi gấu bị gây mê. Những người ủng hộ cho việc này cho rằng nếu không có các trang trại như vậy thì do nhu cầu về mật gấu là cao nên việc săn bắn trộm sẽ gia tăng và càng làm cho loài gấu vốn đã gặp nguy hiểm lại càng thêm nguy hiểm trong họa diệt chủng. Những người phê phán thì cho rằng việc này là độc ác và vô nhân đạo, hay mật gấu tổng hợp (axít ursodeoxycholic), cũng có hiệu quả y học như mật gấu thật và trên thực tế là rẻ tiền hơn nhiều.
Ngày nay, gấu ngựa chỉ được săn bắt hợp pháp ở Nhật Bản và Nga. Ở Nga, 75–100 con được săn bắt hàng năm, tuy nhiên con số không chính thức là 500 mỗi năm. Môn thể thao săn gấu ngựa của người Nga được hợp pháp hóa năm 2004. Theo một bài viết năm 2008 đăng trên "The Sun", Câu lạc bộ săn bắt slavơ của Nga cung cấp dịch vụ chuyến đi săn 4 ngày đảm bảo bắt được gấu với chi phí £16.000. Bài báo chỉ ra rằng khách hàng nhận được giấy phép săn gấu ngựa bao gồm những người từ Anh, Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan và Phần Lan.
Tại Việt Nam, nạn săn bắt gấu ngựa để lấy mật gấu đã gây ra nạn hàng trăm con gấu bị nhốt trong cũi và đặt ống vào bụng để rút mật. Ước tính vào năm 2005, Việt Nam có 4.500 con gấu nuôi trong cũi với mục đích này. Song vì giá mật ngày càng giảm, chủ nuôi không có lời nên hàng trăm con bị bỏ đói cho chết, rồi đem xẻ thịt. Thịt gấu và tay gấu được dùng trong Đông y. Tính đến năm 2018, không tới 800 con vẫn bị nhốt để lấy mật ở Việt Nam.
|
6147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6147 | Thiền tông | Thiền tông (, ), còn gọi là Phật Tâm tông, Tổ sư Thiền hay Tối Thượng thừa. Đây là một tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn Độ và truyền bá lớn mạnh ở Trung Quốc. Tuy nhiên, các thiền sư trong Thiền tông tự coi tông phái mình tách biệt không thuộc Đại thừa hay Tiểu thừa. Thiền tông được Đức Phật Thích-ca đích thân truyền cho Ma-ha Ca-diếp làm Sơ tổ qua sự kiện "Niêm Hoa Thị Chúng", rồi từ đó mà tổ tổ tương truyền. Cho đến khoảng thế kỉ thứ 6, thứ 7, khi Bồ-đề-đạt-ma, lúc ấy là Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ, đưa phép Thiền vào Trung Quốc, trở thành Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa. Nơi đây, Thiền tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là hành giả trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề. Tông phái này được đưa vào Việt Nam từ Trung Quốc với tên gọi là Thiền tông, và qua Triều Tiên với tên gọi là Seon (선), hay Nhật Bản là Zen (禅).
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ rất sớm, trước cả Trung Quốc với trung tâm Phật giáo quan trọng tại Luy Lâu. Và theo đó, Thiền tông Ấn Độ cũng được truyền bá vào Việt Nam trước tiên, với các thiền sư như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, nổi danh tại Trung Quốc từ trước thời Bồ-đề-đạt-ma. Họ đều từng có nhiều năm tu tập tại Việt Nam trước khi truyền đạo tại Trung Quốc, chứng minh cho sự phát triển rực rỡ của Phật giáo tại Việt Nam ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3. Tuy nhiên, các pháp thiền mà Khương Tăng Hội truyền bá như An Ban Thủ Ý (thiền quán hơi thở) chỉ mang tính chất là Thiền Tiểu Thừa chứ không phải Thiền tông.
Thiền tông Trung Quốc được truyền sang Việt Nam lần đầu bởi Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi, người gốc Ấn Độ, môn đệ Tam tổ Tăng Xán. Thiền phái này được truyền qua 19 đời và có ảnh hưởng rất sâu rộng đối với các tầng lớp dân chúng, quý tộc. Tư tưởng chính là chú trọng tu tập theo Kinh điển Đại Thừa, Lục Độ Ba La Mật và Trí tuệ Bát Nhã, các phương pháp Thiền Quán.
Sau đó, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là Vô Ngôn Thông (zh. 無言通, ?-826) sang Việt Nam truyền tông chỉ Thiền Nam tông của Lục Tổ Huệ Năng, với tính chất Dĩ Tâm Truyền Tâm và chủ trương Đốn ngộ. Thiền phái này được truyền qua 17 đời và cũng có ảnh hưởng rất sâu rộng trong quần chúng và giới tri thức.
Vân Môn tông được Thiền sư Thảo Đường (zh. 草堂, thế kỷ 11), đệ tử của Tuyết Đậu Trọng Hiển truyền sang Việt Nam. Sư vốn bị bắt làm tù binh khi vua Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành đem về Thăng Long năm 1069, sau đó phát hiện ông là thiền sư liền được thả ra, ông đã thành lập phái Thiền Thảo Đường và vua đã phong ông làm Thảo Đường Quốc sư. Thiền phái Thảo Đường này chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo nên rất gần gũi với các tầng lớp trí thức và quý tộc, điều này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo thời Trần.
Đến thời Trần, Trần Nhân Tông tham vấn Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ được đốn ngộ Phật tính, sau đó nhường ngôi vua cho con và xuất gia, hoằng pháp với hiệu là "Trúc Lâm Đầu Đà", sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam. Là sự kết hợp và kế thừa Tư tưởng của ba thiền phái là Tì-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường. Ba vị tổ quan trọng nhất của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.
Đến thế kỷ thứ 17, Tào Động tông được truyền sang Việt Nam qua Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (zh. 通覺水月, 1637-1704), đời thứ 31, tại Miền Bắc Việt Nam, ngài từng hành cước sang Trung Quốc tham học với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo và nối pháp tông Tào Động, chủ trương của dòng Thiền này là thuyết Động Sơn ngũ vị, Thiền Mặc chiếu. Tông Tào Động cũng được Thiền sư Thạch Liêm (zh. 石溓, 1633-1704), đời thứ 29 truyền qua miền Trung Việt Nam, tuy nhiên Thạch Liêm ảnh hưởng và mang đậm tư tưởng Thiền Thoại Đầu của tông Lâm Tế và thuyết Tam giáo đồng nguyên.
Thời Lê Trung Hưng, Lâm Tế tông được hai thầy trò là Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết và Minh Hành Tại Tại truyền vào Bắc Việt Nam. Từ thiền phái này đã sản sinh ra Thiền sư Chân Nguyên là người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tông này cũng được Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch và các môn đồ như Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung truyền vào Miền Trung và ảnh hưởng lan rộng khắp Miền Nam Việt Nam. Thiền sư Liễu Quán Thiệt Diệu là người có ảnh hưởng nhất của dòng Thiền này.
Hơn 150 năm nay, Thiền tông tại Việt Nam về tư tưởng đốn ngộ và các phương pháp tu tập đặc thù như Thiền công án, Thoại Đầu bị suy tàn và gần như không còn ảnh hưởng mấy nữa, Thiền tông bị dung nhập và thay thế bởi Tịnh độ tông, các sư tự nhận mình thuộc pháp hệ ở các Thiền phái hầu như đều tu theo Tịnh độ hoặc Mật tông, họ hầu như không biết gì về lối Thiền của chư tổ và tông chỉ, phương pháp hành trì. Hiện nay, Hòa thượng Thích Thanh Từ là người chủ trương khôi phục lại tinh thần của phái Thiền Trúc Lâm và xây dựng nhiều cơ sở Thiền viện và dạy các tăng chúng tu tập theo phương pháp Thiền Tri Vọng của Thiền sư Phong Khuê Tông Mật (tổ thứ năm của Hoa Nghiêm tông), hay Lục Diệu Pháp môn của Thiên Thai tông. Và cũng có Thiền sư Thích Duy Lực, đệ tử Hòa thượng Thích Hoằng Tu, cao tăng người gốc Hoa sang Chợ lớn, Sài Gòn hoằng pháp, thuộc dòng Tào Động hệ phái Cổ Sơn do ngài Vĩnh Giác Nguyên Hiền sáng lập, chủ trương đào tạo các đệ tử theo phương pháp Thiền Thoại Đầu của tông Lâm Tế, khá thịnh hành tại miền Nam Việt Nam, các băng giảng, tài liệu về Tham Thoại Đầu được xuất bản và đăng tải lên trên mạng rất nhiều và phù hợp đối với các hành giả những ai có hứng thú và ý nguyện muốn tu tập theo pháp môn này.
Trong lịch sử Thiền tông, có nhiều vị Thiền sư hành động kỳ lạ và trái với bình thường như đánh, hét, mắng chửi, dựng phất tử...để làm cho người tham học phát nghi tình. Vì người tham học không thể hiểu được ý của vị Thiền sư là gì nên từ đó mới phát khởi nghi tình một cách mãnh liệt. Đến khi nghi tình thành khối, chẳng thể bỏ nó được thì vị thầy, là người đã triệt ngộ, mới khéo dùng phương tiện (đánh, hét, chửi, câu nói...) thích hợp thời cơ để cho người tham học được ngộ.
|
6151 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6151 | Sân bay | Sân bay (còn gọi là phi trường, cảng hàng không) là một khu vực xác định nằm trên đất liền hoặc mặt nước, được xây dựng để phục vụ cho hoạt động giao thông hàng không. Mỗi sân bay phải có ít nhất một đường băng (còn gọi là phi đạo) làm nơi để các máy bay (còn gọi là phi cơ) cất cánh và hạ cánh. Thông thường, các sân bay sẽ được tổ chức thành một cảng hàng không, phục vụ vận chuyển hành khách và hàng hóa. Đó là khu phức hợp hiện đại, gồm có nhà ga hàng không, trung tâm kiểm soát không lưu, xưởng bảo dưỡng máy bay, sân đậu máy bay, đường lăn, đường băng và một số cơ sở hạ tầng khác. Tại những cảng hàng không quốc tế, nước sở tại sẽ đặt một cửa khẩu hải quan để kiểm soát việc xuất-nhập cảnh của hành khách, hoặc thông quan để kiểm soát xuất-nhập khẩu hàng hóa. Những sân bay dành cho quân đội được gọi là sân bay quân sự. Sân bay quân sự loại lớn được gọi là căn cứ không quân. Một loại hình khác của sân bay quân sự là hàng không mẫu hạm.
Các sân bay thường được xây dựng ở gần trung tâm của những thành phố hoặc vùng ngoại vi của nó, và được đảm bảo sự kết nối rất nhanh chóng với hệ thống giao thông. Sân bay còn bao gồm một khu vực lân cận để đảm bảo an toàn cho hoạt động hàng không dân dụng và dân cư trong khu vực đó. Giới hạn khu vực lân cận cảng hàng không, sân bay là 8 kilômét tính từ ranh giới cảng hàng không, sân bay trở ra.
Phi trường (từ Hán Việt) thường được dùng để gọi các sân bay tương đối lớn, nhưng hiện nay ít dùng.
Cụm cảng hàng không (tiếng Anh: "airports authority") là tên cơ quan thuộc các cục hàng không của các quốc gia.
Sân bay bao gồm một số công trình chính như hệ thống đường băng, các nhà ga, tháp điều khiển không lưu, và các công trình phụ trợ khác.
Những đường băng máy bay của một phi cảng được xây dựng rất vững chắc, nó thường được phủ một chất bitume (chất nhựa rải đường) hoặc phức hợp của những tấm bêtong. Nó thường được viền bằng những dấu hiệu phát ra ánh sáng để có thể dễ dàng xách định được vị trí trong đêm tối, hoặc khi điều kiện thời tiết xấu (mưa, sương mù), và để giúp việc hạ cánh một cách dễ dàng.
Phần lớn những đường băng máy bay phục vụ cho những lần hạ cánh và cất cánh, Khi phi cảng chào đón một sự thông thương quan trọng, nó sẽ được xây dựng những đường băng máy bay thành từng nhóm hai đường băng song song, để tách biệt sự cất cánh và hạ cánh. Người ta cũng có thể có những đường băng tiếp đón cho mỗi sự vận động bằng phút hoặc giờ.
Thông thường những đường băng được lấy hướng theo chiều của gió trội nhất, người ta sẽ lợi dụng dòng hải lưu trong không khí để máy bay có thể dễ dàng cất cánh và sự hãm lại trở nên tốt hơn khi hạ cánh, máy bay luôn tự đối đầu với gió.
Những phi cảng lớn để khi không có gió nổi rõ nét hoặc có hai loại gió nổi nhất có thể có nhiều đường băng hoặc nhóm các đường băng, mỗi hướng một lối khác nhau. Khi có hai đường trục, nó có thể vuông góc nếu như hướng gió không được nổi lên rõ nét, để tìm dược hướng gió gần như đối mặt với gió. Nếu như có hai loại gió được nhận dạng, các hướng của đường băng được đánh dấu góc giữa các hướng gió. Bằng một cách đặc biệt, người ta có thể tìm thấy những phi cảng hoặc nhiều hướng đường băng cùng tồn tại với góc 60 độ.
Trong trường hợp phi cảng gồm nhiều đường băng hoặc nhóm các đường băng, những đường băng của hướng này sẽ ngược chiều với đường băng khác.
Những đường băng được nhận dạng bằng một chữ hai số, biểu thị hướng của chúng bằng chục độ khi vận hành các thiết bị máy bay. Người ta phân chia hướng của đường băng theo độ 10 và làm tròn kết quả bằng đơn vị gần đúng (ví dụ: hướng một đường bay là 124 độ, 124/10 = 12,4 làm tròn là 12. và số đường băng là 12). Nếu phi cảng có những băng song song, chúng sẽ được phân biệt bằng chữ L (cho bên trái) và chữ R (cho bên phải). Ví dụ đường 12L
Những đường băng được ghép lại bằng đường lưu thông khác nhau, có những đường dành cho máy bay, lại có những đường khác dành riêng cho dịch vụ vận chuyển hay cứu trợ.
Sân bãi trong phi cảng là nơi để máy bay dừng lại để lưu chuyển hành khách hay hàng hóa lên hoặc xuống máy bay, hoặc để bảo dưỡng.
Bãi đỗ thường được hiểu là để cho các hoạt động diễn ra một cách dễ dàng, đặc biệt ở những phi cảng lớn, những mạng lưới đường ngầm dưới đất cho phép chuyển chất đốt trực tiếp đến chân máy bay. Một chiếc xe tải chuyên dụng sẽ sử dụng ống dẫn để chuyển nhiên liệu từ điểm tiếp tế gần nhất tới máy bay.
Những đường dành riêng cho máy bay đỗ lại để những hoạt động vận chuyển dĩ nhiên sẽ nằm ở việc trao đổi ở ga sân bay. Thường thường, hệ thống lối đi cho phép hành khách vào trực tiếp đến cửa của cabin sau đó vào ga sân bay, không có đường xuống bãi đỗ. Ngoại lệ, bãi đỗ quá đông, hành khách sẽ quá cảnh đến máy bay bằng xe bus hoặc minibus. Họ sẽ lên máy bay bằng cầu thang lưu động.
Những bãi đỗ cho phép các hoạt động tu sửa, bảo quản máy bay (kiểm tra kĩ thuật, bảo dưỡng) được ở vùng phụ cận của nhà để máy bay.
Đường lưu hành là đường định ranh giới cho phép máy bay di chuyển trên bãi đỗ và đường băng. Chúng thường được xây dựng phức hợp của những tấm beton hoặc được phủ chất bitume, và có thể xác định được vị trí bằng hệ thống tín hiệu màu vàng. Một dải màu vàng định ranh giới đường trung tâm, hai đường màu vàng định đầu mút. Hệ thống tín hiệu trở nên có hiệu quả hơn nhờ những cọc màu xanh.
Tháp giám sát là cơ quan thấy rõ nhất các mạch giám sát trên không. Nó được ví như người giám sát vòm trời hoạt động ("controleur du ciel") để dẫn đường cho những pha bay.
Tháp giám sát được bố trí để theo dõi các hoạt động của máy bay trên đường lưu hành và những đường băng. Nó quản lý theo thời tiết, để chọn lựa những đường băng sử dụng và hoạt hóa các cọc tiêu ở dưới đất.
Ga sân bay là nơi dành để trao đổi và vận chuyển hàng hóa,hành khách và hành lý của họ, thông thường nó là nơi đặt cửa hàng bán vé máy bay của công ty hàng không, nơi quản lý hành chính,cũng như các dịch vụ bảo đảm an toàn,trạm kiểm tra của hải quan.Ở đó ta cũng có thể tìm thấy được khu bán giảm thuế, các quán bar hay các nhà hàng.
Các hành khách vào trong nhà ga để sử dụng máy bay thì phải thực hiện rất nhiều các giai đoạn. Đầu tiên phải mua vé của cửa hàng bán vé thuộc công ty hàng không phải tự đăng ký và gửi hành lý vào khoang để đồ của máy bay,sau đó có thể chờ ở phòng đợi hoặc mua sắm ở khu thương mại.Tiếp đó phải qua một sự kiểm tra an toàn để đi đến phòng chờ máy bay trước khi lên máy bay.
Nếu chuyến bay đó là chuyến bay quốc tế, ngoài đăng ký và kiểm tra an ninh, hành khách còn phải qua một sự kiểm tra của cảnh sát hải quan,tùy theo từng trường hợp.
Khi máy bay đã hạ cánh, hành khách sẽ lấy lại hành ký của mình tại khoang để đồ. Nếu là chuyến bay quốc tế, hành khách sẽ phải trải qua một cuộc kiểm tra về việc nhập cư trước khi đến phòng giao hành lý.
Những nguyên nhân chính đáng báo động có bom ở trong những kiện hàng bị vứt bỏ là do sự khinh suất hay có ý đồ xấu của những kẻ kích động thường được chế tạo như những món quà để gây nhiều thiệt hại.
Tiếng ồn máy bay là gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến dân cư xung quanh, đặc biệt là lúc máy bay hạ cánh và cất cánh. Máy bay thải ra một lượng chất thải lớn khi hạ cánh và cất cánh nên lượng chất thải ở sân bay là rất nhiều gây nên các bệnh về đường hô hấp.
|
6157 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6157 | Gấu nâu | Gấu nâu (danh pháp khoa học: Ursus arctos) là một loài gấu có thể nặng tới 130–700 kg (300–1.500 pao). Gấu xám, gấu Kodiak và gấu nâu Mexico là các chủng (phân loài) Bắc Mỹ của gấu nâu. Trong tiếng Anh còn gọi chúng là "bruin".
Gấu nâu là một loài động vật có kích thước lớn thứ nhì trong bộ ăn thịt, sau gấu trắng Bắc Cực và trước hổ. Gấu đực trưởng thành nặng khoảng 400–600 kg và chiều dài là 2,4–3 m khi đứng thẳng. Gấu cái có kích thước nhỏ hơn nhiều.
Gấu nâu có lông màu từ vàng hoe, nâu, đen hay tổ hợp của chúng; những chiếc lông dài bên ngoài thông thường pha trộn với màu trắng hay bạc, tạo ra ánh màu "nâu xám". Gấu nâu có bướu to là cơ trên vai chúng, nó tạo ra sức mạnh cho các chân trước để dào bới. Đầu của chúng lớn và tròn với thiết diện mặt là lõm. Mặc dù có kích thước nặng nề, chúng có thể chạy tới 64 km/h (40 mph).
Gấu xám ( gấu xám bắc mỹ ) sống chủ yếu ở Bắc Mỹ. chúng có kích thước nhỉnh hơn và đặc biệt hung hăng hơn gấu nâu.
Gấu nâu là loài động vật ăn đêm là chủ yếu và về mùa hè chúng tích tới 180 kg (400 pao) mỡ, số mỡ này sẽ được tiêu thụ dần trong mùa đông khi chúng ngủ đông. Mặc dù chúng không thực sự là ngủ đông do có thể thức dậy dễ dàng, chúng thích chui vào các chỗ được bảo vệ như hang, hốc hay chỗ lõm sâu để tránh thời tiết lạnh giá của các tháng mùa đông.
Là động vật ăn tạp, chúng ăn rất nhiều chủng loại thức ăn khác nhau, bao gồm quả mọng, rễ cây và
chồi cây; trái cây, nấm; cá, cá hồi, côn trùng hay các động vật có vú loại nhỏ như thỏ, sóc, chồn, chim. Tuy nhiên, chúng cũng đôi khi tấn công cả động vật lớn như nai sừng tấm, tuần lộc, cừu núi và bò rừng bizon. Dù vậy gấu nâu ăn chủ yếu là thực vật, chiếm tới 75% năng lượng từ thức ăn của chúng. Một điều thú vị là chúng ăn rất nhiều nhậy trong mùa hè—đôi khi nhiều tới 20.000 - 40.000 trên ngày—và có thể cung cấp tới 1/3 năng lượng cho chúng.
Gấu nâu cũng đôi khi là những kẻ ăn trộm thức ăn của hổ, chó sói và báo sư tử. Chúng cũng thường xuyên xung đột với những loài dã thú này. Người ta đã tìm thấy hai con hổ đực bị giết chết bởi gấu nâu trong năm 2000.
Thông thường chúng là các động vật sống cô độc, nhưng gấu nâu tụ tập thành bầy dọc theo các con sông và suối trong mùa cá hồi sinh đẻ. Cứ mỗi năm gấu cái lại sinh được từ 1 - 4 gấu con, chúng chỉ nặng khoảng 1 pao (454 g) khi mới sinh.
Đã từng phổ biến ở châu Á, châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ, gấu nâu hiện nay đã bị tuyệt chủng ở một số nơi và suy giảm về số lượng ở những khu vực khác. Chúng thích sống trong những khu vực tương đối thoáng, thông thường là miền núi. Gấu nâu sống phổ biến hiện nay từ miền đông Alaska từ Yukon và Lãnh thổ Tây Bắc, về phía nam xuyên từ British Columbia cho đến nửa phía tây của Alberta. Các quần thể cô lập sống tại tây bắc Washington, bắc Idaho, tây Montana và tây bắc Wyoming. Chủng gấu xám ("U. arctos horribilis") là gấu nâu phổ biến của Bắc Mỹ lục địa; chủng gấu Kodiak ("U. arctos middendorffi") bao gồm gấu nâu trên các đảo Kodiak, Afognak và Shuyak thuộc Alaska. Chủng gấu xám Mexico ("U. arctos nelsoni") sinh sống tại miền bắc México.
Ước tính có khoảng 200.000 gấu nâu trên thế giới. Quần thể lớn nhất nằm ở Nga, khoảng 120.000 con, Mỹ khoảng 32.500 con và Canada khoảng 21.750 con. 95% của quần thể gấu nâu Mỹ nằm ở Alaska. Ở châu Âu, có khoảng 14.000 con trong 10 quần thể riêng rẽ, sống từ Tây Ban Nha tới Nga.
Người ta cho rằng gấu nâu đã tiến hóa từ "Ursus etruscus". Các hóa thạch cổ nhất có tại Trung Quốc, khoảng 0,5 triệu năm trước (Ma). Chúng đã tiến vào châu Âu khoảng 0,25 Ma, vào Bắc Mỹ chỉ một thời gian ngắn ngay sau đó. Các di tích gấu nâu với niên đại thuộc thế Pleistocen là phổ biến trên đảo Anh, nơi mà người ta cho rằng chúng đã vượt qua gấu hang ("Ursus spelaeus"). Loài này tiến vào Alaska khoảng 0,1 Ma, mặc dù chúng đã không tiến xuống phía nam Bắc Mỹ cho tới khoảng 13.000 năm trước. Người ta cho rằng gấu nâu đã không thể tiến xuống phía nam cho tới khi loài gấu mõm ngắn "Arctodus simus" to lớn hơn bị tuyệt chủng. Một số nhà cổ động vật học lại đề xuất khả năng về hai đợt di cư tách biệt của gấu nâu: gấu xám được coi là phát sinh ra từ gấu hộp sọ hẹp, di cư từ miền bắc Siberi tới miền trung Alaska và phần còn lại của đại lục, trong khi gấu Kodiak phát sinh từ gấu hộp sọ rộng có ở Kamchatka và đã chiếm lĩnh bán đảo Alaska. Các hóa thạc gấu nâu đã phát hiện tại Ontario, Ohio, Kentucky và Labrador chỉ ra rằng loài này đã sinh sống xa hơn về phía đông so với các chỉ dẫn trong các ghi chép lịch sử.
Có rất ít sự đồng thuận về phân loại gấu nâu. Một số hệ thống đề xuất nhiều tới 90 phân loài, trong khi phân tích DNA gần đây đã nhận dạng được chỉ năm nhánh. Phân tích DNA cho thấy các phân loài gấu nâu đã nhận dạng được, ở cả Á-Âu và Bắc Mỹ, về mặt di truyền là khá đồng nhất, và địa lý phát sinh chủng loài về mặt di truyền của chúng không tương ứng với phân loại truyền thống của chúng. Vào thời điểm năm 2005, người ta công nhận 16 phân loài. Các phân loài như sau:
Gấu xám được liệt kê là bị đe dọa trong phạm vi nước Mỹ.
Rất hiếm khi gấu nâu giết chết hay gây thương tích cho con người, nhưng đã có một số trường hợp đáng tiếc xảy ra. Ở khu vực Scandinavia trong 100 năm gần đây có 3 trường hợp bị giết chết bởi gấu nâu. Các vụ tấn công xảy ra khi gấu bị thương hay đang nuôi con. Ngoài ra, có thể các loài gấu khác, chẳng hạn gấu trắng Bắc Cực đã tấn công khi chúng đi kiếm thức ăn.
Gấu nâu rất dễ bị kích động và có thể giết chết người chỉ bằng một cú tát của nó.
Dự án nghiên cứu gấu Scandinavia liệt kê các tình huống sau như là những mối nguy hiểm tiềm ẩn của gấu với con người:
Nếu có việc phải đi trong rừng thì luôn nhớ cầm theo chuông vì thông thường gấu sẽ tránh con người. Nếu gặp chúng, hãy bình tĩnh và đi chậm theo hướng ngược lại với nó, tuyệt đối không nên bỏ chạy vì điều này kích thích gấu tấn công. Quan trọng là không được đe dọa nó hay kêu la. Nếu bị gấu tấn công và không có đường tẩu thoát, hãy nhớ bảo vệ tốt nhất cho đầu mình.
|
6159 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6159 | Paulo Coelho | Paulo Coelho (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1947; phát âm "Pao-lu Koe-lhu") là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Brasil.
Paulo Coelho sinh tại Rio de Janeiro (Brasil). Ông học đại học trường luật, nhưng đã bỏ học năm 1970 để du lịch qua México, Peru, Bolivia và Chile, cũng như châu Âu và Bắc Phi. Hai năm sau, ông trở về Brasil và bắt đầu soạn lời nhạc pop. Ông cộng tác với những nhạc sĩ pop như Raul Seixas. Năm 1974, ông bị bắt giam một thời gian ngắn vì những hoạt động chống lại chế độ độc tài thời đó ở Brazil.
Sách của ông đã bán ra hơn 86 triệu bản trên 150 nước và được dịch ra 56 thứ tiếng. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng của nhiều nước, trong đó tác phẩm "Veronika quyết chết" ("Veronika decide morrer") được đề cử cho Giải Văn chương Dublin IMPAC Quốc tế.
Tiểu thuyết "Nhà giả kim" ("O Alquimista") của ông, một câu chuyện thấm đẫm chất thơ, đã bán được hơn 65 triệu bản trên thế giới và dịch ra 56 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm sau đó được dựng thành phim do Lawrence Fishburne sản xuất, vì diễn viên này rất hâm mộ Coelho. Các tác phẩm khác của ông bao gồm "Hành hương" ("O diário de um mago") (được công ty Arxel Tribe lấy ý tưởng xây dựng một trò chơi vi tính), "Bên sông Piedra tôi ngồi xuống và khóc" ("Na margem do rio Piedra eu sentei e chorei") và "Những nữ chiến binh" ("As Valkírias"). Cuốn tiểu thuyết năm 2005 - "O Zahir" - của ông bị cấm ở Iran, 1000 bản sách bị tịch thu , nhưng sau đó lại được phát hành.
Tác phẩm của Paulo Coelho được xếp vào danh sách những sách bán chạy nhất ở nhiều nước, bao gồm Brasil, Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Ý, Israel và Hy Lạp. Ông được xem là tác giả viết tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại.
Mặc dù có nhiều thành công, nhiều nhà phê bình ở Brasil vẫn xem ông như một tác giả bình thường, cho rằng những tác phẩm của ông quá đơn giản và giống sách tự lực ("self-help book") hơn. Cũng có người cho rằng tiểu thuyết của ông có quá nhiều tính chất "thương mại". Sự kiện ông được vào Viện Hàn lâm Văn chương Brasil (ABL) đã gây ra nhiều tranh cãi trong cộng đồng độc giả Brasil và ngay trong chính Viện Hàn lâm.
Ông và vợ Christina định cư tại Rio de Janeiro (Brasil) và Tarbes (Pháp).
Paulo Coelho đã được trao tặng nhiều giải thưởng uy tín:
|
6161 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6161 | Các Lãnh thổ Tây Bắc | Các Lãnh thổ Tây Bắc (tiếng Anh: Northwest Territories, , viết tắt NWT hay NT; tiếng Pháp, "les Territoires du Nord-Ouest") là một lãnh thổ của Canada.
Nằm ở Bắc Canada, lãnh thổ này tiếp giáp Yukon về phía tây, Nunavut về phía đông (hai lãnh thổ khác của Canada), British Columbia về phía tây nam, Alberta về phía nam và Saskatchewan về phía đông nam. Lãnh thổ này có diện tích và dân số 41.464 theo cuộc điều tra dân số Canada 2006, tăng 11,0% so với năm 2001. Thủ phủ của lãnh thổ này là Yellowknife từ năm 1967.
Các đặc điểm nổi bật về địa lý của lãnh thổ này có các hồ Gấu Lớn và hồ Slave Lớn cũng như sông Mackenzie và các hẻm núi sông Nahanni, một vườn quốc gia đồng thời là một di sản thế giới được UNESCO công nhận. Quần đảo Bắc Cực bao gồm đảo Banks, bán đảo Parry, đảo Prince Patrick, và các vùng thuộc đảo Victoria và đảo Melville. Điểm cao nhất là núi Nirvana gần giáp với Lãnh thổ Yukon với độ cao 2.773 mét (9.098 ft).
Nằm ở phía bắc Canada, lãnh thổ này tiếp giáp hai lãnh thổ khác của Canada gồm: Yukon về phía tây và Nunavut về phía đông, ba tỉnh bang: British Columbia về phía tây nam, Alberta và Saskatchewan về phía Nam,giáp Manitoba ở phía cực Đông, mặc dù các cuộc khảo sát vẫn chưa được hoàn thành. Diện tích khoảng 1.183.085 km 2 (456.792 sq mi).
Các điểm địa lý bao gồm hồ Gấu Lớn - hồ lớn nhất ở Canada, hồ Nô Lệ Lớn - vùng nước sâu nhất ở Bắc Mỹ với độ sâu 614 m (2.014 ft), cũng như sông Mackenzie và hẻm núi của Nahanni Khu bảo tồn Vườn quốc gia, một công viên quốc gia và Di sản Thế giới của UNESCO. Các hòn đảo lãnh thổ trong Quần đảo Bắc Cực thuộc Canada bao gồm Đảo Banks, Đảo Borden, Đảo Prince, và một phần của Đảo Victoria và Đảo Melville. Điểm cao nhất của nó là Núi Nirvana gần biên giới với Yukon ở độ cao 2.773 m (9.098 ft).
Phần phía nam của lãnh thổ (phần lớn lục địa) có khí hậu cận Bắc, trong khi các đảo và bờ biển phía Bắc có khí hậu cực.
Mùa hè ở phía Bắc ngắn và mát mẻ, với độ cao ban ngày ở giữa độ tuổi Celsius (60 đến 70 °F), và thấp nhất trong độ Celsius (45 ° đến 55 °F). Mùa đông dài và khắc nghiệt, mức cao ban ngày ở giữa -20 °C và -4 °C. Sự cực đoan thường xảy ra với mức cao trong mùa hè ở phía Nam đạt 36 °C (97 °F) và thấp chạm vào âm bản. Vào mùa đông ở miền Nam, nhiệt độ không đạt được -40 °C (-40 °F), nhưng chúng cũng có thể tiếp cận các thanh thiếu niên thấp trong ngày. Ở phía bắc, nhiệt độ có thể đạt đến mức cao 30 °C (86 °F), và thấp có thể đạt đến âm bản âm thấp. Vào mùa đông ở miền Bắc, nhiệt độ không đạt được -50 °C (-58 °F) nhưng chúng cũng có thể đạt đến một con số trong ngày. Bãokhông phải là hiếm ở miền Nam. Ở phía Bắc chúng rất hiếm, nhưng xảy ra. Lốc xoáy cực kỳ hiếm hoi nhưng đã xảy ra với một con tàu đáng chú ý nhất xảy ra ngay bên ngoài Yellowknife phá hủy một tháp truyền thông. Lãnh thổ có khí hậu khá khô do các dãy núi phía tây.
Khoảng một nửa lãnh thổ nằm trên đường cây. Không có nhiều cây ở hầu hết các vùng phía đông của lãnh thổ, hoặc ở các hòn đảo phía bắc.
Tài nguyên địa chất của Các Lãnh thổ Tây Bắc bao gồm vàng, kim cương, khí thiên nhiên và dầu mỏ. BP là công ty dầu duy nhất hiện đang sản xuất dầu tại lãnh thổ. Viên kim cương NWT được thăng chức như một giải pháp thay thế để mua kim cương máu. Hai trong số các công ty tài nguyên khoáng sản lớn nhất trên thế giới, BHP Billiton và Rio Tinto khai thác nhiều viên kim cương của họ từ NWT. Trong năm 2010, NWT chiếm 28,5% tổng sản lượng kim cương của Rio Tinto (3,9 triệu carats, tăng hơn 17% so với năm 2009, từ Diamond Diavik Diamond) và 100% BHP (3,05 triệu carat từ mỏ EKATI). [41] [42]
Các Lãnh thổ Tây Bắc có GDP bình quân đầu người cao nhất của tất cả các tỉnh hoặc vùng lãnh thổ ở Canada, C $ 76.000 trong năm 2009. Tuy nhiên, khi sản xuất tại các mỏ hiện tại bắt đầu để thư giãn, không có mỏ mới khai trương và dịch vụ công cộng thu hẹp, các lãnh thổ đã mất 1.200 việc làm trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 11 năm 2014.
Vì là một lãnh thổ, nơi này có ít quyền hơn các tỉnh bang.Trong nhiệm kỳ của mình, Thủ tướng Kakfwi đã thúc đẩy chính phủ liên bang dành nhiều quyền hơn cho lãnh thổ này, trong đó có phần lớn lợi nhuận từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên của lãnh thổ đi đến lãnh thổ. Sự phân quyền quyền lực cho lãnh thổ là một vấn đề trong cuộc tổng tuyển cử lần thứ 20 vào năm 2003, và kể từ khi lãnh thổ bắt đầu bầu các thành viên vào năm 1881.
Các Ủy viên của NWT là giám đốc điều hành và được bổ nhiệm của Thống đốc-in-Hội đồng Canada vào sự giới thiệu của liên bang Bộ trưởng Bộ Thổ Dân Xã và Phát triển Bắc. Vị trí được sử dụng nhiều hơn về hành chính và chính phủ, nhưng với sự phân cấp quyền lực nhiều hơn cho cuộc bầu cử được bầu vào năm 1967, vị trí này đã trở thành biểu tượng. Ủy viên hội đồng có quyền lực chính phủ đầy đủ cho đến năm 1980 khi các lãnh thổ được trao quyền tự trị lớn hơn. Sau đó, Quốc hội Lập pháp bắt đầu bầu ra một Nội các và Nhà lãnh đạo Chính phủ, sau đó được gọi là Thủ hiến. Từ năm 1985, Ủy viên không còn làm chủ tịch Hội đồng Quản trị (hoặc nội các), và chính phủ liên bang đã chỉ thị cho các ủy viên hành động giống như một Thống đốc Trung ương Tỉnh. Không giống như các Thống đốc Trung tá, Ủy viên của các Vùng Tây Bắc không phải là đại diện chính thức của Nữ hoàng Canada. [ cần dẫn nguồn ]
Không giống như các chính quyền tỉnh và chính phủ của Yukon, chính phủ vùng Tây Bắc không có đảng phái chính trị, ngoại trừ khoảng thời gian từ năm 1898 đến năm 1905. Đây là một chính phủ thống nhất được gọi là Lập pháp. Nhóm này bao gồm một thành viên được bầu ra từ mỗi trong số mười chín cử tri. Sau mỗi cuộc tổng tuyển cử, Quốc hội mới bầu bằng Thủ tướng và Chủ tịch bằng bỏ phiếu kín. Bảy MLAs cũng được chọn làm bộ trưởng, với phần còn lại tạo thành phe đối lập.
Các Hội đồng lập pháp hiện nay là 18 và cuộc bầu cử gần đây nhất được tổ chức ngày 23 tháng 11 năm 2015. [46] Các Premier là Bob McLeod. Thành viên của Quốc hội cho vùng lãnh thổ Tây Bắc là Michael McLeod (Đảng Tự do). Ủy viên của các Vùng Tây Bắc là George Tuccaro và Phó Ủy viên là Margaret Thom.
Trong Quốc hội Canada, NWT bao gồm một bộ phận Thượng viện duy nhất và một quận bầu cử của Hạ viện, có tiêu đề Lãnh thổ Tây Bắc (Bắc cực cho đến năm 2014)
|
6162 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6162 | Nunavut | Nunavut (từ tiếng Inuktitut: ᓄᓇᕗᑦ ; ) là lãnh thổ mới nhất, lớn nhất, và xa nhất về phía bắc của Canada. Nó chính thức được tách khỏi Các lãnh thổ Tây Bắc vào ngày 1 tháng 4 năm 1999, qua Đạo luật Nunavut và hiệp định quản lý đất đai Nunavut, dù đường biên giới đã được giải quyết xong từ năm 1993. Sự hình thành của Nunavut tạo nên thay đổi lớn đầu tiên trong bản đồ chính trị Canada từ khi Newfoundland và Labrador được thành lập vào năm 1949.
Lãnh thổ Nunavut chiếm một phần lớn Bắc Canada, và Quần đảo Bắc Cực thuộc Canada. Thủ phủ Iqaluit (trước "Frobisher Bay"), nằm trên đảo Baffin ở miền đông, được chọn từ cuộc bỏ phiếu 1995. Những điểm dân như đáng kể khác gồm Rankin Inlet và Cambridge Bay. Nunavut cũng gồm đảo Ellesmere ở viễn bắc, cũng như phần phía đông và nam đảo Victoria và đảo Akimiski trong vịnh James xa về phía đông nam. Đây là vùng địa-chính trị duy nhất của Canada không được kết nối với phần còn lại của đất nước bằng đường lộ.
Nunavut là khu vực có diện tích lớn nhất, là nơi có dân số ít nhất ở các tỉnh và lãnh thổ của Canada. Một trong những khu vực xa xôi nhất, thưa thớt, có dân số 35.944 chủ yếu là người Inuit, trải rộng trên diện tích hơn 1.750.000 km (680.000 dặm vuông),xấp xỉ kích thước của Tây Âu.Một trạm khí tượng cách xa Ellesmere Island, Eureka, có nhiệt độ trung bình năm thấp nhất của bất kỳ trạm thời tiết nào của Canada.
Nunavut có nghĩa là "đất của chúng ta" trong tiếng Inuktitut
Nunavut bao gồm 1.877.787 km (725.018 sq mi) của đất và 160.935 km (62.137 sq mi) của nước ở miền Bắc Canada. Lãnh thổ bao gồm một phần của lục địa, hầu hết Quần đảo Bắc cực, và tất cả các hòn đảo trong Vịnh Hudson, vịnh James và Vịnh Ungava, bao gồm Quần đảo Belcher, thuộc vùng Tây Bắc. Điều này làm cho nó trở thành cơ quan địa phương lớn thứ năm (hoặc bộ phận hành chính) trên thế giới. Nếu Nunavut là một quốc gia, nó sẽ đứng thứ 15 trong khu vực.
Nunavut có biên giới đất liền với các vùng lãnh thổ Tây Bắc trên một số hòn đảo cũng như đại lục, Manitoba ở phía nam của lục địa Nunavut, Saskatchewan về phía tây nam (ở một điểm bốn góc) và một đường biên giới đất liền với Newfoundland và Labrador Đảo Killiniq và với Ontario ở hai vị trí nhỏ ở vịnh James: vị trí lớn hơn ở phía tây đảo Akimiski, và nhỏ hơn quanh sông Albany gần đảo Fafard. Nó cũng chia sẻ biên giới biển với Greenland và các tỉnh Quebec, Ontario, và Manitoba.
Điểm cao nhất Nunavut là Barbeau Đỉnh (2.616 m (8.583 ft)) trên đảo Ellesmere. Mật độ dân số là 0,019 người / km (0,05 người / dặm vuông), một trong những nơi có mật độ thấp nhất trên thế giới. Để so sánh, Greenland có diện tích tương đương và gần gấp đôi dân số.
Nunavut trải qua một khí hậu vùng cực ở hầu hết các khu vực, do vĩ độ cao và ảnh hưởng mùa hè lục thấp hơn so với khu vực phía tây. Tại các khu vực lục địa phía nam hơn rất lạnh khí hậu cận Bắc Cực có thể được tìm thấy, do đến tháng Bảy là hơi nhẹ hơn so với yêu cầu 10 °C (50 °F).
Nền kinh tế của Nunavut là Inuit và Chính phủ lãnh thổ, khai thác, thăm dò dầu khoáng khí, hàng thủ công nghệ thuật, săn bắn, câu cá, săn cá voi, du lịch, giao thông, giáo dục - Nunavut Bắc Cực Cao đẳng, nhà ở, quân sự và nghiên cứu - Canada CHARS Trạm nghiên cứu cao Arctic mới trong Lập kế hoạch cho vịnh Cambridge và trạm cảnh báo phía bắc cao. Iqaluit tổ chức Hội nghị Nunavut Mining Symposium hàng năm vào tháng 4, đây là một buổi trình diễn giới thiệu nhiều hoạt động kinh tế khi đi đến Nunavut.
Hiện tại có ba mỏ lớn đang hoạt động tại Nunavut.
Công ty mỏ Agnico-Eagle - Bộ phận Meadowbank. Meadowbank là mỏ vàng hầm với tuổi thọ mỏ ước tính 2010-2020 và sử dụng 680 người. Mỏ khai thác lần gần đây thứ hai trong sản xuất là mỏ Sắt của Sông Mary do mỏ Baffinland Iron khai thác. Nó nằm gần Bến Ino trên Đảo Bắc Baffin. Họ sản xuất một con tàu sắt cao cấp trực tiếp.
Mỏ khai thác gần đây nhất là Doris North hoặc mỏ Hope Bay do TMAC Resource Ltd. điều hành. Mỏ vàng cao cấp mới này là mỏ đầu tiên trong một loạt các mỏ tiềm năng trong các lần xuất hiện vàng dọc theo đai xanh của Vịnh Hope.
Người dân Nunavut chủ yếu dựa vào nhiên liệu diesel để chạy các máy phát điện và sưởi ấm, với các chuyến hàng nhiên liệu hóa thạch từ miền Nam Canada bằng máy bay hoặc thuyền vì có rất ít đường không hoặc đường sắt nối với khu vực. Có một nỗ lực của chính phủ để sử dụng nhiều nguồn năng lượng tái tạo, mà thường được cộng đồng ủng hộ.
Sự hỗ trợ này đến từ Nunavut cảm nhận được ảnh hưởng của sự nóng lên toàn cầu. Cựu Thủ tướng Nunavut, bà Eva Aariak, cho biết trong năm 2011, " Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng rất nhiều đến chúng ta. Nó ảnh hưởng đến thợ săn, động vật, sự mỏng đi của băng là một mối quan tâm lớn, cũng như sự xói mòn từ băng tan tan. " Vùng này đang nóng lên nhanh gấp hai lần so với mức trung bình toàn cầu, theo Ủy ban Liên chính phủ của LHQ về biến đổi khí hậu.
Nunavut có một Ủy viên được Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phía Bắc của Bộ Ngoại giao bổ nhiệm. Cũng như các lãnh thổ khác, vai trò của ủy viên là biểu tượng và tương tự như của một Trung úy Thống đốc. Mặc dù Ủy viên không chính thức là đại diện của người đứng đầu nhà nước Canada, một vai trò tương tự như đại diện của Vương quyền đã nảy sinh với chức vụ này.
Nunavut chọn một thành viên duy nhất của Hạ viện Canada. Điều này khiến Nunavut trở thành khu vực bầu cử lớn nhất trên thế giới theo khu vực.
Các thành viên của Hội đồng Lập pháp đơn nhất của Nunavut được bầu riêng; có không bên và cơ quan lập pháp là dựa trên đồng thuận. Người đứng đầu chính phủ, thủ tướng của Nunavut, được bầu bởi, và từ các thành viên của hội đồng lập pháp. Kể từ ngày 21 tháng 1 năm 2014, Premier là Peter Taptuna.
Đối mặt bởi những lời chỉ trích các chính sách của mình, cựu Thủ tướng Paul Okalik thành lập Hội đồng tư vấn của mười trưởng lão, có chức năng đó là để giúp kết hợp "" Inuit Qaujimajatuqangit "" (Inuit văn hóa và kiến thức truyền thống, thường được gọi trong tiếng Anh là "chỉ số IQ ") Vào các quyết định chính trị và chính phủ của lãnh thổ.
Do quy mô rộng lớn của Nunavut, mục tiêu đã tuyên bố của chính phủ lãnh thổ là phân cấp quản lý vượt ra khỏi thủ đô của khu vực. Ba vùng - Kitikmeot, Kivalliq và Qikiqtaaluk / Baffin - là cơ sở để quản lý bản địa hoá, mặc dù họ thiếu các chính phủ tự trị của riêng họ.
Lãnh thổ có ngân sách hàng năm là 700 triệu đô la Canada, được cung cấp gần như hoàn toàn bởi chính phủ liên bang. Cựu Thủ tướng Paul Martin đã chỉ định hỗ trợ cho Bắc Canada là một trong những ưu tiên của ông trong năm 2004, với thêm 500 triệu USD để được chia ra trong ba vùng lãnh thổ.
Năm 2001, chính phủ New Brunswick cộng tác với chính phủ liên bang và các công ty công nghệ SSI Micro để khởi động Qiniq, một mạng lưới duy nhất sử dụng vệ tinh cung cấp để cung cấp truy cập Internet băng thông rộng đến 24 cộng đồng ở Nunavut. Kết quả là Lãnh thổ được đặt tên là "Smart 25 Communities" của thế giới vào năm 2006 bởi Diễn đàn Cộng đồng Thông minh, một tổ chức trên toàn thế giới tôn vinh sự đổi mới trong công nghệ băng thông rộng. Các Nunavut Thư viện công cộng dịch vụ, hệ thống thư viện công cộng phục vụ lãnh thổ, cũng cung cấp dịch vụ thông tin khác nhau để lãnh thổ.
Vào tháng 9 năm 2012, Thủ tướng hoan nghênh Aariak Prince Edward và Sophie, nữ bá tước xứ Wessex, để Nunavut như một phần của sự kiện đánh dấu Diamond Jubilee của Nữ hoàng Elizabeth II.
|
6168 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6168 | Nhà Trần | Nhà Trần (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: "Trần triều") là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1226 sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tông thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền, chính Trần Thủ Độ đã âm thầm ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho cháu mình.
Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long – kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách chính trị, các Hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy chính quyền hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các mặt kinh tế, xã hội, giáo dục và nghệ thuật cũng hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện "Tam giáo đồng nguyên", sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo – Nho giáo – Đạo giáo. Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông được coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều... là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa.
Dưới triều nhà Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh... Chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tảng lớn khiến quân đội nhà Trần đánh bại được các cuộc xâm lược của quân đội Nhà Nguyên - Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Nhiều tôn thất hoàng gia như Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật và Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đều là những tướng cầm quân tài ba, có vai trò quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên (vào các năm 1285, 1287), cũng như trong nền quân sự nhà Trần và của cả Việt Nam sau này.
Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề chài lưới, có gốc là người đất Mân Việt ở tỉnh Phúc Kiến di cư đến đất Đại Việt. Những hậu duệ của nhà Trần là con cháu lai giữa dòng dõi nhà Trần và dòng dõi nhà Lý trừ trường hợp của Trần Lý, Trần Thừa, và con của Trần Thừa là Trần Cảnh vị vua đầu tiên của nhà Trần.
Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân (con cháu Trần Ích Tắc) còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân Việt . Cụ tổ nhà Trần- Đại Việt đầu tiên là Phuơng Chính Hầu Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến – Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà.
Người họ Trần nổi tiếng trong gia phả là Trần Kinh (陳京), đến định cư tại làng Tức Mặc (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) sống bằng nghề ngư sinh vào đầu thế kỷ XII. Cụ Trần Kinh sinh ra cụ Trần Hấp, cụ Trần Hấp sau sinh ra cụ Trần Lý. Gia đình cụ Trần Hấp có gia sản lớn, kẻ ở người làm đông đến vài trăm, anh em Trần Lý cũng bỏ hẳn nghề chài lưới để chuyển sang quản lý điền trang, tuyển mộ người ở. Gia tộc họ Trần dần có địa vị, trở thành tầng lớp trên của xã hội bấy giờ.
Họ Trần trở nên giàu có và hùng mạnh dưới đời cụ Trần Lý. Cụ Trần Lý đến tuổi trưởng thành lấy bà Tô Thị Hiền (bà này có người em ruột là Tô Trung Từ, giữ chức Thái úy Phụ chính, tước Thuận Lưu bá, dưới triều Lý Huệ Tông). Họ sinh được bốn người con: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Thị Tam Nương.
Trần Thừa lấy bà họ Lê (con gái ông Lê Điện, quan Thái phó triều Lý), sau này sinh ra 3 con trai là Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu và 2 con gái. Trần Cảnh là con thứ của Trần Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, tức Kiến Gia năm thứ 8 triều Lý (9/7/1218). Như vậy Trần Cảnh (vua đầu tiên của nhà Trần) là cháu 4 đời của Trần Kinh (tổ họ Trần).
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.
Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp.
Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hóa, Thái tử Lý Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh.
Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi là Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm Nguyên phi (元妃). Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái úy phụ chính, còn Tự Khánh được phong Chương Thành hầu (章成侯).
Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Đàm thái hậu (譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông (譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát".
Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng (段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Tháng 12 năm Bính Tý 1216, Lý Huệ Tông phong Trần Thị Dung làm Hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm Thái úy Phụ chính, anh cả của Hoàng hậu là Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ.
Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh được hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Thuận Thiên sau là Lý Thuận Thánh, lấy Trần Liễu; Chiêu Thánh sau là Lý Chiêu Hoàng, lấy Trần Cảnh. Vậy là hai chị em công chúa con vua Lý Huệ Tông đều lấy hai anh em ruột con của Trần Thừa (tức là anh em họ con cô con bác lấy nhau).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ, em họ của Trần Thừa (陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Vua Lý Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, khi vào chầu miễn cần xưng tên.
Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để ép vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.
Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa (Trần Thái Tổ).
Từ năm 1211, trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực lớn là:
Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong thời gian nắm quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau.
Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý.
Trần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp chính và thực sự nắm quyền hành.
Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là:
Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép:"..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, cách 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm".
Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Sau đó ông lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập. Giai đoạn này gọi là "Nguyên Phong chi trị" (元豐之治).
Năm 1258, sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai của người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (陳晃), tự xưng là Thái thượng hoàng. Từ đấy, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, Thượng hoàng tuy nhường ngôi nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần chính sự.
Trần Hoảng lên ngôi, sử gọi là Trần Thánh Tông.
Dưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng (仁皇), niên hiệu cải thành Thiệu Long (紹隆).
Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần nhiều là công sức của ông. Đến đây, truy phong làm Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (上父太師忠武大王).
Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước.
Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết. Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng.
Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Khâm (陳欽), sử gọi là Trần Nhân Tông. Nhân Tông xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇), đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (紹寶).
Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong số đó.
Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lược, nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (興道王陳國峻) làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1288. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo.
Năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm, thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng là rất tôn xứng.
Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài kinh thành lại đói to, 3 thăng gạo giá một quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá một quan tiền. Ngay lập tức, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có thể mua chuộc lại ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần dần cải thiện.
Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên (陳烇), sử gọi là Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng làm Anh Hoàng (英皇).
Anh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông.
Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài (段汝諧), mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.
Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng.
Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (阮忠彥), Trần Thì Kiến (陳時見), Bùi Mộc Đạc (裴木鐸).
Về lễ phục quan lại, Anh Tông quy định áo mũ, kiệu ngồi cũng rất chặt chẽ, rõ ràng. Năm 1300, quy định quan văn thì đội mũ Đinh tự màu đen, tụng quan thì đội mũ Toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến một thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên). Nhưng đến năm sau, đổi lại thành các quan văn võ đều đội mũ Đinh tự, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc. Các kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ Triều thiên, người tóc ngắn đội mũ Bao.
Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa (玄珍公主) cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được một năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung (陳克終) cướp công chúa về, từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV) đánh trả nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả.
Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh, sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng (宁皇). Thượng hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế (英明晟世), kéo dài hơn 60 năm hưng thịnh.
Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân (英思夫人), con gái một quan viên họ Lê, và em phu nhân là Sung viên Lê thị (充媛黎氏). Cả hai bà đều sinh ra các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai. Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (陳旺), Trần Phủ (陳暊) còn Lê sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính (陳曔).
Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh hoàng hậu (麗聖皇后) là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱), một đại thần trụ cột đương thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú. Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói địa vị của Quốc Chẩn rất cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục của Trần Khắc Chung (陳克終), Văn Hiến hầu (文獻侯) là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng.
Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, Minh Tông lập con của Lệ Thánh hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự, thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu.
Trần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An (朱文安), một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ (七斬疏) đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua. Có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (陳元卓) đã yểm bùa hại ông. Dụ Tông chút nữa là sát hại Nguyên Trác, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu đã can ngăn.
Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi.
Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài.
Năm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm.
Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục (陳元育) được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Nhật Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương (楊姜). Bà múa vở "Vương mẫu hiến bàn đào", thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm "Thái hoàng thái hậu", Trần Nguyên Trác làm "Thượng tướng quốc thái tể". Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu.
Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa (天寧公主) xâm nhập vào cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết.
Mùa đông, tháng 10 năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán (陳元旦) cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công (昏德公).
Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Nghệ Hoàng giữ ngai vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện (陳晛) lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly (黎季犛), là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng.
Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung (陳顒), tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.
Do sự suy yếu chính quyền, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Cụ thể là khởi nghĩa của:
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì.
Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm "Quốc Tổ Chương Hoàng" (國祖章皇).
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân (陳渴真) cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ (胡), lập ra triều đại nhà Hồ.
Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế.
Hồ Quý Ly làm vua được 7 năm thì mất nước vào tay quân Minh. Tôn thất nhà Trần khởi nghĩa chống quân Minh, nhà Trần được tái lập bởi Giản Định đế - Trần Ngỗi vào tháng 10 âm lịch năm 1407 tại Ninh Bình.
Bị quân Minh truy sát, Giản Định đế chạy vào Nghệ An, viên Đại tri châu châu Hóa là Đặng Tất giết quan nhà Minh, dẫn quân từ Hóa châu ra theo phò, nhà Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An vào Thanh Hóa. Năm 1408, quân Hậu Trần tiến quân ra Bắc, đánh bại quân Minh do Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô, bao vây các thành, cơ hội khôi phục nhà Trần, giành lại đất nước trở nên rõ ràng. Nhưng năm 1409, Giản Định đế nghe lời gièm pha, giết 2 tướng trụ cột là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, khiến cho 2 người con của họ là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị kéo quân trở về Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên làm vua, hiệu là Trùng Quang đế. Trùng Quang đế bắt Giản Định đế và tôn làm Thượng hoàng, cả hai cùng nhau đánh quân Minh. Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh sai Trương Phụ đem quân tiếp viện cho Mộc Thạnh. Giản Định đế thua trận bị xử tử. Trùng Quang đế núng thế, lui dần về phía Nam và thất bại hoàn toàn trong trận đánh đẫm máu ở Thuận Hóa năm 1414. Trùng Quang đế tự sát. Như vậy nhà Hậu Trần gồm 2 vua, kéo dài được 7 năm (1407-1414).
Do Trùng Quang đế và Giản Định đế đều là thành viên hoàng tộc nhà Trần, có công lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm nên dù thất bại trong việc khôi phục nhà Trần và nước Đại Việt, họ vẫn được người dân coi là 2 vị vua chính thống của nhà Trần và nước Đại Việt. Do vậy các đền thờ nhà Trần thường có tượng thờ và bài vị 14 vị vua (gồm 12 vua nhà Trần và 2 vua nhà Hậu Trần).
Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...
Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần.
Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.
Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Trần Dụ Tông thích xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Hồ Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Nghệ Tông đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của Trần Duệ Tông, không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.
Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu lại thất bại và phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Nguyên Mông xưa kia. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.
Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau.
Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía Bắc thì Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam là Ai Lao và Chiêm Thành.
Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi chinh phạt Chiêm Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự qua lại tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân vào năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế rước về.
Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm Thành đánh bại cả hai lần.
Năm 1370, các hoàng tử con vua Trần Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn" bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm Thành đánh Đại Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại hai châu đã mất. Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Trần Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Nhà Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần bị bại trận, quân Chiêm Thành ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân Chiêm Thành cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính một năm rồi sau đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn.
Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn. Vua Chiêm Thành trúng đạn tử trận, quân Chiêm Thành bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa.
Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh Hóa. Vì thế triều đình nhà Trần đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.
Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.
Các đơn vị quân đội được gọi là "quân". Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi quân có 30 đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ là đầu ngũ.
Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động đi các lộ để tác chiến.
Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách "ngụ binh ư nông" (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có chiến tranh xảy tới. Vua Trần một phần giữ lại ở kinh thành phòng khi có chuyện cấp bách, một phần cho về quê cày ruộng. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người.
Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dần xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ XII. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt.
Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai ("Uriyangqadai" hay 兀良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy một tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.
Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1280, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường đánh Chiêm Thành (Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh bùng phát. Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô mang quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây còn Toa Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm" thốc lên từ phía nam Đại Việt.
Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn quân) và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó.
Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật "vườn không nhà trống" để quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân chạy về bắc.
Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói với vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa... Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa trốn chạy về bắc.
Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, "Đại Việt sử ký toàn thư" (ĐVSKTT) chép như sau:
Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng giang, Diễn Châu.
Ngoài các lộ trên, nhà Trần còn đặt các phủ Lâm Bình, Thái Nguyên, Lạng Giang.
Khi quân Mông Cổ đánh bại nhà Nam Tống, một số quan lại địa phương nhà Tống đã quy phụ nhà Trần, như trường hợp Hoàng Bính đem dâng phủ Tư Minh (nay là Bằng Tường) năm 1263.
Năm 1306, nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Jaya Sinhavarman III. Vua Chiêm Thành dâng hai Châu Ô, Rý làm của hồi môn. Nhà Trần đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay).
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại như sau:
Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn.
Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. "Đại Việt sử ký toàn thư" có chép:
Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương.
Về mặt thuế má: Có hai loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều tùy theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.
Đời nhà Trần, văn học được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.
Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.
Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.
Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.
Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại: ""Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ"".
Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khoa thi tam giáo như đời nhà Lý.
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ "Đại Việt Sử ký" và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam (nay đã thất truyền). Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như "Hịch tướng sĩ".
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép:
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng.
Về kiến trúc, dựa trên các tháp gốm, tháp đá, mô hình nhà bằng đất nung, mảnh ngói vỡ khai quật được, triều Trần tiếp tục kế thừa truyền thống nhà Lý với điểm nổi bật là chùa tháp, bộ đấu củng chống đỡ mái cầu kỳ và các họa tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo.
Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc. Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân. Nhà Trần từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong họ.
Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã dẫn ra các trường hợp hôn nhân nội tộc tiêu biểu của nhà Trần:
Tuy cẩn thận đề phòng nạn ngoại thích bằng việc kết hôn nội tộc, nhưng về sau thì việc kết hôn nội tộc trong họ Trần cũng thưa dần. Những trường hợp có kết hôn nội tộc thì cũng ngày càng xa hơn về họ hàng (ban đầu là con chú con bác lấy nhau, về sau thì là họ hàng 3 đời, rồi 4 đời mới lấy nhau). Từ khi Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng gặp "họa ngoại thích" và cuối cùng cũng mất về tay ngoại thích, giống như nhà Lý trước đó.
Những nhân vật có ảnh hưởng nhất triều Trần, được đánh giá dựa trên sự đóng góp, công trạng của họ cho triều đại, giúp triều đại này tồn tại và phát triển.
Hoàng Đế Trung Hoa: Trần Hữu Lượng, con trai Trần Ích Tắc ???
Trần Hữu Lượng (chữ Hán: 陳友諒; 1316– 3 tháng 10 năm 1363) là một thủ lĩnh quân phiệt thời ""Nguyên mạt Minh sơ"" trong lịch sử Trung Quốc, là người Miện Dương, Hồ Bắc, ông là người sáng lập nước Đại Hán Trung Quốc Tự Xưng Hoàng Đế Đại Hán ở trung quốc.
Có sự mâu thuẫn giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử Trung Quốc về thân thế Trần Hữu Lượng. Các bộ sách sử xưa của Việt Nam đều có nhắc đến tên Trần Hữu Lượng, từ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) và Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB) cho đến Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (KĐVSTGCM) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Trong ba tài liệu quan trọng này chỉ có ĐVSKTT là có ghi rằng: Trần Hữu Lượng tự nhận mình là con của Trần Ích Tắc (Trần Ích Tắc là một hoàng thân đời Trần nhưng đã đầu hàng quân Nguyên lúc quân Mông Cổ xâm lược nước Việt Nam năm 1286). Ở đây, rất có thể là do Trần Hữu Lượng (1316–1363) muốn mượn quân đội của nhà Trần nhằm phục vụ cho quyền lợi của mình nên nói phao lên như vậy, bởi Trần Ích Tắc hơn Hữu Lượng tới 62 tuổi( nhưng thời Minh - Thanh, người trên 60 tuổi sinh con quý tử vẫn có: Nguyễn Trãi sinh Nguyễn Anh Vũ, Vua Càn Long sinh Hòa Hiếu công chúa... ). Ngoài ra, theo Minh sử (quyển 123, liệt truyện 11) thì cha của Trần Hữu Lượng sau năm 1364 vẫn còn sống và được nhà Minh phong làm Thừa Ân hầu. còn Trần Ích Tắc thì đã chết từ năm 1329 ( đây là theo Minh thực lục, được ghi chép theo lệnh Minh Thái Tổ, người có tính tình hẹp hòi, khiến các thuộc hạ vào sinh ra tử lúc khởi nghiệp đều mất mạng về sau).
Đền Trần Thương (Hà Nam)
|
6173 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6173 | Mật tông | Mật Tông (zh. 密宗 "mì-zōng") là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật Tông gắn với các luận sư nổi tiếng như Subha Karasimha ("Thiên Vô Úy", 637-735), Vajra Bodhi ("Kim Cương Trí", 671-741), Amoghavajra ("Bất Không Kim Cương", 705-774), Padmasambhava ("Liên Hoa Sinh", cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI).
Tư tưởng Mật giáo có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, thể hiện qua các câu thần chú trong các bộ luật và trong Kinh Khổng Tước. Nửa sau thế kỷ thứ 7 CN, Ấn Độ giáo đã len lỏi trong các hệ thống học thuyết, kể cả giáo lý Phật giáo mà phục hưng trở lại, từ đó tạo ra sự cạnh tranh mãnh liệt đối với Phật giáo đương thời. Lúc bấy giờ, Phật giáo Đại thừa chỉ giới hạn trong phạm vi “kinh viện triết học”, lý luận học vấn, các phạm trù triết học biện luận... Do vậy, đã tự tách mình ra khỏi phần đông quần chúng trong khi những hiện tượng siêu hình, thần bí có ở khắp nơi trên đất Ấn. Vì thế, để thích ứng với tình thế mới, Phật giáo Đại thừa nhanh chóng và tích cực tiếp cận với Ấn Độ giáo và Bà-la-môn giáo. Ban đầu khi tiếp xúc, phía Phật giáo có những phản ứng khá kịch liệt, có lúc cật lực phê phán những quan niệm nghi chấp về tế tự cầu phúc trừ họa và mật chú. Tuy nhiên vẫn xúc tiến việc hợp lý hóa hoặc Phật giáo hóa theo tinh thần tùy duyên, cuối cùng Mật giáo đã hình thành nên một hệ thống tương đối độc lập trong Phật giáo Đại Thừa.
Theo Mật giáo, sự truyền thừa bắt đầu từ Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Bồ tát. Ông viết 2 quyển kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh đem lưu lại trong một ngôi tháp. Long Thụ mở tháp tiếp nhận 2 quyển kinh này và được Kim Cương Bồ tát chỉ dạy. Sau đó, Long Thụ truyền cho Long Trí, một cao tăng tại viện Đại học Nalanda.
Ngài Long Trí sau khi thụ pháp với ngài Long Thụ, đã truyền pháp và giáo hóa các nước miền Nam Thiên Trúc và Tích Lan (Sri Lanka). Mật giáo sau đó đã sớm được phổ biến về hướng Bắc để sang Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản và về hướng Nam để qua mấy xứ Tích Lan, Miến Điện (Myanmar), Nam Dương (Indonesia), Campuchia, Lào… hình thành hai nhánh Mật Giáo chính: Mật tông Nam Tông và Mật tông Bắc Tông.
Mật Tông du nhập vào Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 7 và thịnh hành vào thế kỷ 8 với sự xuất hiện của ba vị Cao tăng Ấn Độ sang truyền pháp là Thiện Vô Uý (zh. 善無畏, sa. "śubhākārasiṃha"; 637-735), Kim Cương Trí (zh. 金剛智, sa. "vajrabodhi"; 663-723) và Bất Không Kim Cương (zh. 不空金剛, sa. "amoghavajra"; 705-774). Ba ngài được tôn vinh là Khai Nguyên Tam Đại Sĩ. Dòng truyền thừa vào Trung Quốc xuất phát từ trung tâm Phật học Na-lan-đà. Cả ba ngài Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy và Bất Không Kim Cương từng được Sư Long Trí (là đệ tử của Ngài Long Thọ) truyền pháp. Thiện Vô Uý, được coi là tổ sư của Mật tông Trung Hoa và là người dịch "Đại Nhật kinh" (sa. "mahāvairocana-sūtra"), kinh căn bản của tông này, ra chữ Hán.
Hai dòng Mật tông Ấn Độ Chân Ngôn thừa và Kim Cương thừa truyền đến đại sư Nhất Hạnh - đệ tử của Thiện Vô Úy - thì nhập lại làm một ở Trung Quốc.
Mật tông tại Trung Quốc rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần thoái trào và về sau này thì tưởng như suy vi hẳn.
Trước khi Mật giáo được truyền vào Tây Tạng, dân chúng nơi này chưa có một tôn giáo nào đậm nét. Lúc đó, vùng đất chỉ có đạo Bon là đạo giáo cổ truyền của dân bản xứ. Thời đó,người ta chỉ biết thờ cúng chư thần kể cả hung thần, ác quỷ. Pháp môn Mật tông này truyền vào Tây Tạng muộn hơn Trung Quốc, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8, vua Tisongdetsen (740-786) có thỉnh rước 2 vị cao tăng Ấn Độ là Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungne) và Antarakshita. Tại đây Kim cương thừa đã hòa nhập với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng và được gọi là Lạt Ma giáo.
Tây Tạng có 4 tông phái Mật Tông chính là:
Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông thông qua một nghi lễ khai ngộ ("initiation") đặc biệt được tiến hành bởi một lạt-ma có tên tuổi. Mật tông cũng chủ trương sự tự giác ngộ thông qua việc thiền định ("meditation") và niệm chân ngôn ("mantra"). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng xuất phát từ trung tâm Phật học Vikramasila.
Mật tông dòng Chân Ngôn thừa du nhập vào Nhật Bản vào khoảng cuối thế kỷ 8 đầu thế kỷ 9 bởi hai vị:
Các yếu tố quan trọng của Mật tông là phép niệm chân ngôn, phép bắt ấn (sa. "mudrā") và sử dụng Mạn-đồ-la cũng như các lần Quán đỉnh (zh. 灌頂, sa. "abhiṣeka"). Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) và đó là lý do mà Mật tông không được truyền bá rộng rãi. Thật ra, sau này do nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chân ngôn nên Mật tông dần co cụm lại và truyền thụ cho những người có duyên với pháp môn này.
Mật tông vốn truyền vào Việt Nam từ khá sớm. Theo Thiền uyển tập anh, vào thế kỷ thứ VI, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ, đã đến Việt Nam và dịch kinh Đại thừa phương quảng tổng trì tại chùa Pháp Vân. Đây là một bộ kinh của Mật giáo, và liên hệ rất nhiều đến Thiền. Vào thời Đinh và Tiền Lê, Mật tông đã khá thịnh hành tại Việt Nam. Những trụ đá được phát hiện tại Hoa Lư, Ninh Bình vào các năm 1963, 1964, 1978 - dựng vào năm 973, thời Đinh; có trụ dựng năm 995, thời Lê Đại Hành - đều khắc bản kinh Phật đỉnh Tôn thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một bản kinh rất phổ biến của Mật giáo, đã chứng minh cho điều đó.
Dĩ nhiên Mật tông thịnh hành không chỉ do mỗi ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, mà còn từ Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ ngoại quốc và những vị sư Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, ngài Mahamaya, gốc Chiêm Thành, thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo học với ngài Pháp Thuận - Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi - cũng rất nổi tiếng về pháp thuật. Thiền uyển tập anh cho rằng ông đắc pháp Tổng trì Tam muội, thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành và dân chúng đều nể phục. Một thiền sư Việt, ngài Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ chín năm, sau mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. Đệ tử của ngài có sư Từ Đạo Hạnh nổi tiếng về phù chú và sư Trì Bát cũng thấm nhuần Mật giáo. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về một vị Tăng sĩ Ấn Độ, vào năm 1311, đến nước ta, xưng là 300 tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Năm 1318, vua Anh Tông mời một Tăng sĩ Ấn Độ, tên Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi đến dịch một bộ kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần chú kinh.
Trong Nam, có Hòa Thượng Nhẫn Tế thế danh Nguyễn Văn Tạo sanh năm 1889 tại thôn An Thánh (nay là thị trấn Lái Thiêu), tỉnh Bình Dương, hâm mộ đạo Phật từ nhỏ, năm 1904, được 16 tuổi ông đến chùa Thiên Tôn trong vùng, quy y với Hòa Thượng Ấn Thành - Từ Thiện, pháp danh Chơn Phổ. Sau khi học hành xong, ông đi làm việc nhưng vì có bệnh nên xin nghỉ dưỡng bệnh.
Năm 1926, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa có giới đàn, ông đến xin thọ giới do Đầu đàn Hòa Thượng Huệ Đăng truyền giới, ông được ban pháp danh Trừng Liễn, pháp hiệu Minh Tịnh thuộc đời thứ 42 Thiên Thai Thiền Giáo Tông.
Năm 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, ông xin thọ giới do Đầu dàn Hòa Thượng Ngộ Định - Từ phong truyền giới, ông được ban pháp hiệu Nhẫn Tế, đệ tử nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh chùa Thiên Tôn.
Ngày 17-4-1935, ông lên tàu đi sang Ấn Độ, chiêm bái và học Phật, có sang Népal nhận được Xá lợi Phật, rồi sang Tây Tạng ngày 28-6-1936, được yết kiến Nhiếp chánh Quốc vương Tây Tạng, được Lạt ma Nhiếp chánh nhận là tu sĩ Tây Tạng, ban cho pháp danh Thubten Osall Lama (Huệ Phát), ông đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. Đến ngày 29-10-1936, ông rời khỏi Tây Tạng, trở lại Ấn Độ học hỏi thêm một thời gian rồi mới trở về xứ. Ông đặt chân lại am thất cũ của mình tại Bình Dương ngày 30-6-1937.
Tại Phú Cường có ngôi chùa Bửu Hương, Phật tử tại đây quy ngưỡng nên dâng cúng chùa cho ông. Ông đổi tên thành Tây Tạng tự, từ đó ông tu và truyền bá Mật tông, nhưng vì Phật giáo thời đó, nên Mật Tông của sư Nhẫn Tế không lan rộng, không lập nên Giáo Hội. Hòa thượng Nhẫn Tế viên tịch ngày 17-5-1951, thọ 63 tuổi đời, đắc 25 hạ lạp, là một Lama Việt Nam đầu tiên, được chính Nhiếp chánh quốc vương Tây Tạng ấn chứng.
Ở Huế có Mật tông lưu truyền, thập niên 60, Hội Phật Học Nam Việt có thỉnh chư Tăng từ Huế vào chùa Xá Lợi làm lễ Trai Đàn Cứu Tế, những vị Tăng nầy đã hành lễ theo nghi thức Mật Tông Trung Hoa.
Thích Viên Đức có dịch một BỘ MẬT TÔNG gồm những sách: Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm yếu, Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích (hay Kinh Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết), Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni.
|
6175 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6175 | Chuyển mạch | Trong cách dùng chữ chuyển mạch có hai nghĩa:
|
6176 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6176 | Phật giáo Hòa Hảo | Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939, lấy pháp môn "Học Phật - Tu Nhân" làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia (Tại gia cư sĩ). Tôn giáo này lấy nền tảng là Đạo Phật, kết hợp với những bài sấm kệ do chính Huỳnh Phú Sổ biên soạn.
Phật giáo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ sáng lập.
Huỳnh Phú Sổ, còn được gọi là "Thầy Tư Hoà Hảo", "Đức Huỳnh Giáo chủ", khi đó chưa đầy 18 tuổi, tuyên bố mình là bậc "Sinh nhi tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và "đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc nam do ông kê toa hoặc nước lã, giấy vàng, lá xoài, lá ổi, bông trang, bông thọ, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm thầy tổ, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Đức Tôn Sư, Đức Thầy.
Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển "Sấm giảng thi văn giáo lý", nội dung cốt lõi là giáo lý của Đức Phật Thích Ca, và có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.
Các ngày Lễ kỷ niệm trong Đạo đều tổ chức vào ngày âm lịch.
Trong một năm, theo âm lịch đạo Hòa Hảo có các ngày lễ, Tết chính:
|
6178 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6178 | Huỳnh Phú Sổ | Huỳnh Phú Sổ (15 tháng 1 năm 1920 - 1947) là người sáng lập đạo Phật giáo Hòa Hảo. Theo các tài liệu của tôn giáo này, ông được các tín đồ gọi là "Đức Thầy", "Đức Huỳnh Giáo chủ" hay "Đức Tôn Sư".
Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15 tháng 1 năm 1920, nhằm ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang); con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Thuở nhỏ ông thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược Pháp - Việt nhưng hay bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học.
Từ thuở bé, Huỳnh Phú Sổ đã có căn tính của một người tu hành, ông không thích đàn địch, ca hát, cười giỡn như các bạn cùng trang lứa, lúc nào ông cũng trầm tư, tĩnh mặc, thích ở nơi thanh vắng, yên tĩnh. Mỗi khi được bàn đến chuyện cưới hỏi thì ông đều cự tuyệt và có ý lẩn tránh.
Bệnh tình của ông ngày càng trở nặng, được người nhà đưa đi chữa trị khắp nơi, gặp nhiều danh y trong vùng nhưng họ cũng đành chịu thua. Sau khi trở về từ một lần đi viếng cảnh núi Tà Lơn (Campuchia) và vùng Thất Sơn (An Giang) cùng thân phụ của ông, những chứng bệnh của ông dần thuyên giảm.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, tức ngày 4 tháng 7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ thoát nhiên tỏ ngộ và tuyên bố khai sinh đạo Phật giáo Hòa Hảo, khi ấy ông chỉ mới 19 tuổi.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ đứng ra cử hành lễ "Đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Phật giáo Hòa Hảo, đó vừa là tên quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo", lại mang một hàm nghĩa là đạo Phật ở làng Hòa Hảo. Từ đó, ông đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ giảng. Văn chương của ông bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của ông càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp lo ngại.
Ngày 18 tháng 8 năm 1940, Thực dân Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ đi quản thúc tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 5 năm 1940, Thực dân Pháp chuyển ông sang quản thúc ở làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ nhưng cả hai nơi này đều được đông đảo quần chúng đến xin nghe thuyết pháp và quy y Phật giáo Hòa Hảo.
Vì vậy ngày 28 tháng 7 năm 1940, nhà cầm quyền Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ vào bệnh viện Cần Thơ và sau đó chuyển lên nhà thương điên Chợ Quán tại Sài Gòn.
Tháng 6 năm 1941, Huỳnh Phú Sổ bị đưa đi quản thúc ở Bạc Liêu. Tại đây ông không được phép trị bệnh và thuyết pháp.
Tháng 10 năm 1942, trước tin tức người Pháp sẽ đưa Huỳnh Phú Sổ đi đày ở Ai Lao (Lào), các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và hiến binh Nhật đã giải cứu ông đem về Sài Gòn.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945, Huỳnh Phú Sổ đi thuyết pháp và khuyến nông tại 107 địa điểm ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
|
6179 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6179 | Cổ Mã Lai | Cổ Mã Lai (tên khác: "Indonésien", Proto-Malay) là tên của chủng tộc sống vào "thời kỳ đồ đá giữa" (khoảng 10.000 năm về trước). Chủng cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn, tầm vóc thấp, cư trú trên toàn bộ vùng Đông Nam Á cổ đại trải dài từ sông Dương Tử ở phía bắc đến các hải đảo Indonesia ở phía nam; từ Ấn Độ ở phía tây đến quần đảo Philippines ở phía đông.
Chủng Cổ Mã Lai được coi là tổ tiên của người Mã Lai ở Malaysia và Indonesia hiện đại, cũng được coi là tổ tiên của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Người Proto-Malay được coi là thuyền viên có kiến thức trong đi biển, đánh cá, và các kỹ năng nông nghiệp nâng cao. Theo thời gian họ định cư ở những nơi khác nhau và thông qua giao lưu dẫn đến giao thoa văn hóa, tôn giáo, tập quán, và có sự kết hôn của những người ở các bộ tộc Orang Asli với người Semang và Senoi. Bộ phận người bản địa sống tách biệt và được bảo tồn đến ngày nay, được gọi là "những người Negrito".
Theo các giả thuyết thịnh hành hồi cuối thế kỷ XIX - thế kỷ XX do các nhà nghiên cứu ở châu Âu đưa ra, điển hình là học giả người Pháp Louis Finot (1864-1935), và được phổ biến ở Việt Nam, chủng cổ Mã Lai là kết quả của sự kết hợp giữa đại chủng Mông Cổ và đại chủng Úc khi một quần thể của đại chủng Mông Cổ từ vùng Tây Tạng thiên di về phía đông nam hồi 30.000 năm trước. Tại Malaysia được nêu là thuyết nguồn gốc Vân Nam.
Theo "Bách khoa toàn thư Malaysia" thì có ba giả thuyết về nguồn gốc của Proto-Malay:
Một số nhà ngôn ngữ học lịch sử đã kết luận rằng có ít ỏi cơ sở ngôn ngữ cho việc phân chia Proto-Malay và người Malay thứ hai (Deutero-Malay) . Các phát hiện cho thấy rằng Proto-Malay và các dân tộc Deutero-Malay có thể có cùng nguồn gốc. Các giả thuyết trước đây cho rằng người Deutero-Malay đến vùng này trong "làn sóng di cư thứ hai", khoảng 300 trước Công nguyên, còn người Proto-Malay thì đã đến sớm hơn nhiều.
|
6180 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6180 | Gutzon Borglum | John Gutzon de la Mothe Borglum (1867–1941) là một nhà điêu khắc nổi tiếng của Hoa Kỳ, người đã tạc tượng bốn vị tổng thống nổi tiếng trên đỉnh núi Rushmore vào năm 1942. Ông sinh ngày 25 tháng 3 năm 1867 trong một gia đình gốc Đan Mạch, từng là học trò của nhà điêu khắc nổi tiếng người Pháp Auguste René Rodin. Công trình quan trọng nhất của ông là tạc một bức tượng vĩ đại trên đỉnh núi Rushmore, tiểu bang Nam Dakota, Hoa Kỳ. Công trình này bắt đầu từ tháng giêng năm 1924 cho đến khi ông mất vào ngày 6 tháng 3 năm 1941. Con trai ông là Lincoln Borglum kết thúc công trình đó vào ngày 31 tháng 10 năm 1941.
Gutzon Borglum sinh ra trong một gia đình của những người nhập cư từ Đan Mạch vào năm 1867 tại St. Charles, nơi lúc bấy giờ là Lãnh thổ Idaho. Borglum là con của chế độ đa thê Mormon. Cha của ông, Jens Møller Haugaard Børglum (1839–1909), đến từ làng Børglum ở tây bắc Đan Mạch. Ông có hai người vợ khi sống ở Idaho: mẹ của Gutzon, Christina Mikkelsen Børglum (1847–1871), và chị gái Ida, người vợ đầu tiên của Jens. Jens Borglum quyết định từ bỏ Đạo Mormon và chuyển đến Omaha, Nebraska, nơi chế độ đa thê vừa là bất hợp pháp vừa là điều cấm kỵ. Jens Borglum đã làm việc chủ yếu như một thợ khắc gỗ trước khi quyết định tham dự Cao đẳng Y tế vi lượng đồng căn Saint Louis ở St. Louis, Missouri. Tại thời điểm này "Jens và Christina ly hôn, gia đình rời nhà thờ Mormon, Jens, Ida, các con của họ và hai con trai của Christina, Gutzon và Solon, chuyển đến St. Louis, nơi Jens lấy bằng y khoa." Sau khi tốt nghiệp Đại học Y Missouri năm 1874, Borglum chuyển cả gia đình đến Fremont, Nebraska, nơi ông thành lập một cơ sở hành nghề y. Gutzon Borglum vẫn ở Fremont cho đến năm 1882, khi cha ông đăng ký cho ông vào Học viện và Cao đẳng Saint Mary ở Kansas.
Sau một thời gian ngắn tại Học viện và Cao đẳng Saint Mary, Gutzon chuyển đến Omaha, Nebraska, nơi ông học việc trong một cửa hàng máy móc và tốt nghiệp trường Creighton Preparatory School.
|
6210 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6210 | O Canada | O Canada (tiếng Pháp: Ô Canada) là bài nhạc được dùng cùng với hai bài "God Save the King" (hay "God Save the Queen" trong trường hợp vị quân chủ là phụ nữ) và "The Maple Leaf Forever" từ khi Canada được độc lập vào năm 1867 như quốc ca. Bắt đầu từ thập niên 1960, "O Canada" trở nên phổ biến hơn và Quốc hội của Canada đã ban hành một đạo luật công nhận nó như quốc ca chính thức của Canada vào năm 1980.
Nhạc cho bài "O Canada" được viết bởi Calixa Lavallée. Tương truyền rằng ông lấy nguồn cảm hứng từ vở opera "Die Zauberflöte" ("Cái sáo mầu nhiệm") của Mozart.
Lời tiếng Pháp được viết bởi Sir Adolphe-Basile Routhier (người Canada gốc Pháp) vào khoảng 1880. Lời tiếng Anh không được dịch từ lời tiếng Pháp mà dựa vào một bài thơ do Robert Stanley Weir viết vào năm 1908.
Thông thường, phần đầu của lời Anh sẽ được hát trước, tiếp theo là phần cuối của lời Pháp. Ở tại các cộng đồng có nhiều người dùng tiếng Pháp, thứ tự này sẽ được đổi. Ngoài ra, cộng đồng người Inuit tại Nunavut cũng có lời riêng dùng tiếng Inuktitut của họ.
<score vorbis="1">
\clef treble \key f \major \tempo 4=100 \set Staff.midiInstrument = "piano" {
</score>
O Canada!
Our home and native land!
True patriot love in all of us command.
Car ton bras sait porter l'épée,
Il sait porter la croix!
Ton histoire est une épopée
Des plus brillants exploits.
God keep our land glorious and free!
𝄆 O Canada, we stand on guard for thee. 𝄇
Ô Canada!
Terre de nos aïeux,
Ton front est ceint de fleurons glorieux!
Car ton bras sait porter l'épée,
Il sait porter la croix!
Ton histoire est une épopée
Des plus brillants exploits.
God keep our land glorious and free!
𝄆 O Canada, we stand on guard for thee. 𝄇
|
6214 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6214 | Gấu trắng Bắc Cực | Gấu trắng Bắc Cực (danh pháp hai phần: Ursus maritimus) là một loài động vật có vú lớn của bộ Ăn thịt (Carnivora), họ Gấu (Ursidae). Chúng là loài động vật sống gần địa cực tìm thấy xung quanh Bắc Băng Dương và chúng là loài động vật ăn thịt lớn nhất trên đất liền.
Gấu Bắc Cực sinh sống trên lãnh thổ của năm quốc gia khác nhau. Chúng có mặt ở ngoài khơi bờ biển phía bắc và tây bắc Alaska, Canada, Greenland, Svalbard (Na Uy) và Nga. Quần thể gấu Bắc Cực ước tính khoảng 16.000 đến 35.000, với khoảng 60% ở Canada.
Gấu Bắc Cực là hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống băng giá phía bắc Trái Đất, song xét về mặt tiến hóa của sinh giới, nó là động vật xuất hiện khá muộn. Vào khoảng 50000 đến 100000 năm trước, một cuộc chạy đua để phát triển của loài gấu nhằm đương đầu với cuộc sống khắc nghiệt đã diễn ra trên vùng Bắc Cực. Trong quá trình này, chúng đã trải qua nhiều lần thay đổi đáng kể.
Con gấu Bắc Cực đực trưởng thành nặng từ 350 đến 540 kg và đôi khi nặng hơn 800 kg. Con cái có kích thước bằng khoảng một nửa con đực và thông thường cân nặng 200–300 kg. Con đực trưởng thành dài khoảng 2,4 đến 2,6 m; con cái là 1,9 đến 2,1 m. Con gấu Bắc Cực to nhất từng được ghi nhận cân nặng 1002 kg và đứng cao 3,39 m.
Gấu Bắc Cực là một ví dụ tiêu biểu của một động vật hoàn toàn thích nghi với môi trường. Chúng được nhận ra rất nhanh bởi màu lông trắng của chúng. Không giống như các loài động vật có vú khác sống gần vùng cực, chúng không bao giờ rụng lông để trở thành sẫm hơn trong mùa hè. Lông của chúng không phải là màu trắng, nó là không màu và rỗng, giống như tóc trắng ở người. Một đặc thù thú vị của lớp lông gấu Bắc Cực là chúng xuất hiện với màu đen khi chụp ảnh bằng ánh sáng tím. Một số người cho rằng điều này là do lông của chúng truyền ánh sáng tới lớp da màu đen của gấu để giữ cho nó đủ ấm trong mùa đông lạnh lẽo không có mặt trời. Tuy nhiên, các phép đo chứng tỏ rằng lông của chúng hấp thụ rất mạnh các tia tím và cực tím. Điều này giải thích tại sao da chúng thông thường có màu vàng. Đôi khi có những con gấu Bắc Cực có màu khác. Tháng 2 năm 2004, hai con gấu Bắc Cực ở vườn thú Singapore có màu lục do kết quả của tảo mọc trên các ống lông rỗng của chúng. Người phát ngôn của vườn thú nói rằng tảo được sinh ra do điều kiện thời tiết nóng và ẩm của Singapore. Chúng đã được tẩy bằng dung dịch peroxid để phục hồi màu lông cũ của chúng. Loại tảo tương tự cũng đã mọc trên lông của ba con gấu Bắc Cực ở vườn thú San Diego mùa hè năm 1979. Chúng được điều trị bằng dung dịch nước muối.
Ngoài bộ lông có tác dụng ngụy trang và không thấm nước, gấu Bắc Cực còn có lớp mỡ dày đến 10 cm giúp giữ ấm cơ thể, ngay cả khi nhiệt độ xuống tới -40 °C. Chúng không có lông mi, vì lông mi có thể gây đóng băng trên mắt khi nhiệt độ dưới 0 °C. Thay vào đó chúng có lớp màng mí mắt thứ ba, giống như của mèo, giúp cho chúng không bị chói băng và chói tuyết. Gấu Bắc Cực cách nhiệt rất tốt khi chúng nóng quá 10 °C (50 °F). Việc cách nhiệt này rất hiệu quả, khi quan sát bằng camera hồng ngoại thì chúng là không nhìn thấy. Chỉ có bàn chân của chúng bức xạ ra đủ nhiệt để có thể phát hiện được.
Nơi trú ngụ của gấu Bắc Cực là các mảng băng tạo thành mũ băng quanh cực Bắc của Trái Đất. Chúng thường xuất hiện ở rìa các mũ băng, bên cạnh các dải nước và những nơi có nhiều hải cẩu là nguồn thức ăn chính của chúng.
Gấu Bắc Cực dành phần lớn thời gian để đi lại trên băng. Chúng tránh những cơn bão tuyết dữ dội bằng cách đào các hang trú ẩn tạm thời. Thường thì chỉ có gấu cái mang thai mới ngủ đông. Nhưng ở những nơi mà mùa đông lạnh hơn và thức ăn cũng khó tìm hơn, tất cả gấu Bắc Cực đều ngủ đông. Tuy ngủ nhưng chúng không chìm sâu vào giấc ngủ như sóc chuột hay sóc đất. Nhịp tim giảm từ 70 lần/phút xuống 8 lần/phút, nhưng thân nhiệt của chúng vẫn bình thường; và lúc ngủ trong hang, chúng có thể thức dậy ngay. Khi ở trong hang, chúng không ăn và sống nhờ vào lượng mỡ của cơ thể; trong thời gian này, chúng không hề đại tiểu tiện.
Thức ăn chính của gấu Bắc Cực là hải cẩu; không có loài động vật này, gấu Bắc Cực khó có thể tồn tại. Về mùa xuân, chúng săn hải cẩu vòng mới đẻ; về mùa hè, chúng săn hải cẩu râu, hải cẩu đầu chỏm. Gấu Bắc Cực là loài rất kén ăn. Khi ăn, chúng lột da hải cẩu và thường chỉ ăn lớp mỡ dưới da và bộ lòng. Chỉ khi nào quá đói chúng mới ăn toàn bộ xác con mồi. Các loại mồi khác bao gồm cá heo trắng, voi biển và động vật gặm nhấm. Là một loài động vật ăn thịt thuần túy, chủ yếu là cá, gấu Bắc Cực hấp thụ một lượng lớn vitamin A, được lưu trữ trong gan; trong quá khứ, đã có người bị ngộ độc khi ăn gan gấu Bắc Cực.
Thường thì vào mùa hè do không có hải cẩu để săn, gấu Bắc Cực trở nên ăn tạp; chúng ăn hầu như bất cứ thứ gì tìm thấy được. Chúng đi rảo dưới các vách đá để tìm trứng và chim non bị rơi xuống từ các bờ đá. Chúng còn ăn cả chuột lemming, trái việt quất, dâu tây chua và thậm chí là cỏ héo, tảo,rong rêu biển.
Gấu Bắc Cực là động vật hoàn thiện nhất trong họ Gấu khi xét theo tiêu chuẩn của bộ ăn thịt. Chúng bơi rất tốt và thường xuyên bơi ra biển cách xa đất liền hàng dặm cây số. Điều này có lẽ là dấu hiệu cho thấy chúng quen với cuộc sống dưới nước để săn mồi tốt hơn. Chúng cũng săn mồi rất tốt trên đất liền do có tốc độ lớn; chúng có thể chạy nhanh hơn con người.
Khi săn mồi, gấu di chuyển im lặng trên băng tuyết, cúi đầu thấp. Dùng hai chân sau đẩy mình, chúng di chuyển về phía trước và khi cách con mồi chừng 1 m, chúng tấn công chớp nhoáng và giết chết con mồi.
Khi săn hải cẩu, gấu Bắc Cực nhẹ nhàng trượt xuống nước với hai chân sau xuống trước. Khi tiến gần con mồi, chúng lặn xuống rồi phóng vọt lên làm cho con mồi bị bất ngờ và không thể trốn thoát. Có khi chúng kiên nhẫn chờ đợi trên các lỗ băng và đợi cho đến khi hải cẩu trồi lên để thở thì chúng chộp ngay.
Đối với loài gấu Bắc Cực, con cái thường giao phối khi được 4-5 tuổi trong khi con đực phải đợi đến lúc ít nhất được 8 tuổi. Gấu Bắc Cực giao phối vào tháng tư, tháng năm và tháng sáu. Thời kỳ mang thai tương đối dài, từ 195-265 ngày.
Vào mùa thu, gấu cái mang thai quay vào đất liền, đào hang để chuẩn bị sinh con. Những gấu con được sinh ra vào tháng muời hai hay tháng một, thường thì gấu sinh đôi, có khi sinh ba nhưng rất hiếm. Con non lúc mới sinh chỉ nặng 600-700 g và chưa mở mắt. chúng lớn nhanh bằng sữa gấu mẹ giàu vitamin A. Lúc 26 ngày tuổi, gấu con đã có thể nghe được, nhưng phải đợi đến 1 tuần sau mới mở mắt.
Vào đầu tháng ba, gia đình gấu rời khỏi hang. Lúc này, gấu con đã nặng 9–11 kg. Trong năm đầu tiên, gấu con hoàn toàn phụ thuộc vào mẹ và không có khả năng sống sót nếu không có gấu mẹ. Chúng bú mẹ mãi đến 21 tháng tuổi và sống với gấu mẹ cho đến cuối mùa đông thứ hai. Trong thời gian này răng sữa của chúng được thay thế bằng răng vĩnh viễn để chuẩn bị cho việc săn mồi vào mùa xuân năm sau, đồng thời chúng cũng học các kỹ năng săn mồi từ gấu mẹ khi trưởng thành hơn gấu con rời mẹ mà tự độc lập
Нàng ngàn năm nay, người Eskimo và gấu Bắc Cực đã cùng chia sẻ một môi trường sống. Trước kia, họ cho rằng gấu có năng lực thần bí; để có được năng lực thần bí này, nhiều người trong số họ đeo răng gấu trên cổ. Da gấu Bắc Cực rất có giá; người Eskimo ngày nay vẫn còn dùng găng, giày ủng, quần áo làm bằng lông gấu. Họ còn dùng bộ da để làm thảm ngồi và ngủ. Chất nhờn từ lông gấu được dùng để bôi trơn các thanh trượt của xe trượt tuyết. Một số người chỉ nuôi chó kéo xe của họ bằng thịt gấu Bắc Cực.
Những nhà thám hiểm và thợ săn cá voi đầu tiên đã săn gấu Bắc Cực để lấy da và thịt. Ở châu Âu, da gấu Bắc Cực dùng làm thảm trải. chúng còn được bán với giá cao để làm tấm lót bàn thờ, hay bục giảng kinh mà các giáo sĩ dùng giữ chân được ấm.
Sự đặt chân của con người đã làm cho số lượng gấu Bắc Cực bị giảm sút rất nhanh. Năm 1965, các quốc gia có ranh giới giáp Bắc Cực đã tổ chức cuộc họp và nhất trí công bố tầm quan trọng của gấu Bắc Cực đồng thời nghiêm cấm việc săn bắn gấu cái đang nuôi con.
Ngày nay, gấu Bắc Cực được cho là đang bị đe dọa, không phải chủ yếu là do việc săn bắn, mà do mất nơi cư trú sinh ra bởi sự ấm toàn cầu; ví dụ, khu vực có băng che phủ của ở miền bắc Canada trong mùa đông là bị thu hẹp lại, giới hạn khả năng của gấu Bắc Cực trong việc săn hải cẩu. Độ nhạy của tỷ lệ sống của gấu Bắc Cực với nhiệt độ toàn cầu đã được chứng minh bằng tư liệu về sự gia tăng quần thể trong nhóm gấu sinh ra trong giai đoạn lạnh ngắn ngủi sau sự phun trào của núi lửa Pinatubo năm 1991. Tuy nhiên, quần thể gấu này đã gia tăng với một tỷ lệ chưa từng thấy, khoảng 15–25% trong khoảng từ năm 1995 đến năm 2005. Sự suy giảm trong một vài khu vực có lẽ là hậu quả của việc săn bắt hơn là do sự thay đổi khí hậu.
Việc khai thác, phát triển công nghiệp khai thác dầu ngoài khơi đã được xây dựng kiên cố gần Bắc Cực. Các sự cố tràn dầu đã giết chết nhiều hải cầu, do đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến gấu Bắc Cực vì hải cẩu là thức ăn chính của chúng.
Gấu Bắc Cực được biết đến vì các hành động hài hước và thông thường là giải trí - ăn ảnh. Ví dụ, chúng trượt bằng bụng của mình, đánh đấm lẫn nhau, hay nhúng nhau xuống nước. Khi con cái làm ổ, nó thường làm ở những chỗ sườn dốc để con của nó có thể trượt xuống bằng mông của chúng, một đặc điểm thông thường được vẽ trong tranh hí họa và các truyện viễn tưởng về gấu Bắc Cực, bao gồm cả chương trình quảng cáo những năm 1990 của Coca-Cola.
Gấu Bắc Cực được vẽ trên đồng 2 đôla (toonie) Canada. Nó cũng là con vật làm phước của ít nhất là hai trường ở Mỹ: Trường Bowdoin và Đại học Bắc Ohio.
|
6218 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6218 | Đạo Cao Đài | Đạo Cao Đài hay Cao Đài Giáo là một tôn giáo thờ Thượng đế được thành lập ở miền Nam Việt Nam vào năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Một số tín đồ Cao Đài thường tự gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời.
Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (chữ Hán: 大道三期普度), có nghĩa là "Nền đạo lớn cứu khổ lần thứ Ba".
Tuy được khai sinh chính thức vào năm 1926, có nguồn nói rằng đạo Cao Đài khởi nguồn vào đêm Giáng Sinh năm 1925. Cao Đài nhanh chóng phát triển về quy mô và số lượng tín đồ. Theo thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ, dẫn thống kê năm 2010 của các tổ chức Cao Đài thì có khoảng hơn 2,4 triệu tín đồ, còn theo Thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam cũng trong năm 2009 thì số người tự xem mình là tín đồ Cao Đài tại Việt Nam là 807.915 người, cũng có nguồn ghi hơn 5 triệu. Về mặt tổ chức đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận. Trên toàn quốc có 35/38 tỉnh thành đạo Cao Đài hoạt động với 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4000 tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài). Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ, Châu Âu và Úc. Theo trang thông tin và truyền giáo Cao Đài hải ngoại, số tín đồ Cao Đài là khoảng 5 triệu
|
6220 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6220 | Cao Đài | Cao Đài là một tôn hiệu trong tôn giáo Cao Đài dùng để chỉ ngôi vị tối cao, tức Thượng đế. Vì vậy, tôn giáo tôn thờ Cao Đài thường được gọi là đạo Cao Đài dù danh xưng chính thức của tôn giáo này được các tín đồ gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là "Một tôn giáo lớn mở ra lần chót để độ rỗi chúng sanh".
Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ ""một nơi cao"", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là "Cao Đài "Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát"".
Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Họ tin rằng tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp Khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là "Con đường lớn mở ra lần thứ Ba để phổ độ chúng sanh".
Các tín đồ Cao Đài cho rằng tôn giáo "Cao Đài" đã được tiên tri từ trước khi đạo Cao Đài khai đạo chính thức. Các tài liệu Cao Đài thường trích dẫn sự xuất hiện của tôn hiệu "Cao Đài", hoặc khái niệm "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" hay biểu tượng Thiên nhãn trong các tài liệu cổ xưa. Họ cho rằng đó chính là ""Thiên ý" hay là "Ý muốn của Trời" và chính ý muốn ấy đã được báo trước từ mấy trăm năm qua hoặc còn lâu hơn nữa ở nhiều nơi trên thế giới".
Một số tài liệu được các học giả Cao Đài trích dẫn để chứng minh nền đạo của họ đã được tiên tri từ lâu đời, thậm chí, trong cả các tài liệu phương Tây:
Các tài liệu Cao Đài đều ghi lại tín đồ đầu tiên Ngô Văn Chiêu đã chứng nhận tôn hiệu Cao Đài xuất hiện nhiều nhất. Trong đó ghi nhận lần xuất hiện sớm nhất vào năm 1919 (Kỷ Mùi) tại tỉnh Tân An.
Sau đó, tôn hiệu Cao Đài được ghi nhận xuất hiện lần thứ hai vào năm 1920 (Canh Thân) tại Hà Tiên, lần thứ ba vào 1921 (Tân Dậu) tại Phú Quốc. Lần thứ ba này, tôn hiệu được xưng đầu đủ là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát".
Theo "Cao Đài Từ điển" thì:
|
6222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6222 | Quang tử học | Quang tử học là ngành khoa học kĩ thuật nghiên cứu về phát và điều khiển ánh sáng, đặc biệt là việc sử dụng ánh sáng để mang thông tin. Vì nó đã vượt ra ngoài lĩnh vực khoa học cơ bản và tiến tới một ngành công nghệ hiện đại nên người ta thường gọi nó là công nghệ quang tử.
Trong tiếng Anh ngành quang tử học được gọi là "photonics", tên này bắt nguồn từ tên tiếng Anh của quang tử là photon.
Còn trong tiếng Pháp ngành này là "optronique", sự kết hợp tên gọi của hai ngành khoa học kĩ thuật có lịch sử hoàn toàn khác biệt:
Ngành quang tử học khác với ngành phân cực học ("polaritonics") ở chỗ trong phân cực học hạt mang thông tin cơ bản là các phonon-polariton. "Phonon-polariton" là một thể hỗn hợp của photon và phonon với tần số năng lượng thay đổi từ 100 gigahertz đến khoảng 10 terahertz. Trong khi đó tần số đặc trưng của photon trong quang tử học vào cỡ vài trăm terahertz.
Ngành quang tử học bao gồm các nghiên cứu về phát sáng, truyền sáng, khuếch đại cường độ ánh sáng, thu nhận ánh sáng, gài thông tin vào chùm sáng và đóng ngắt quá trình truyền sáng. Các nghiên cứu và ứng dụng của công nghệ quang tử thường được thực hiện bằng ánh sáng của laser.
Ứng dụng của ngành quang tử học bao gồm từ việc thu bắt ánh sáng tới các ngành truyền thông và xử lý thông tin. Sự kết hợp giữa yếu tố quang học và điện tử học đã tạo ra nhiều khái niệm cũng như những thiết bị mới, có ứng dụng cả trong quân sự (ví dụ trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991) lẫn trong đời sống xã hội (ví dụ các mạng lưới cáp quang truyền dẫn thông tin).
Các thiết bị dùng trong quang tử học gồm laser, các điốt phát quang ("LED"), cáp quang và tinh thể quang tử ("photonic crystal").
Quang tử học có mối quan hệ chặt chẽ với quang lượng tử. Khó có thể phân biệt rõ hai ngành này bởi các nghiên cứu lý thuyết cơ bản của quang tử học có xu hướng được xếp vào quang lượng tử. Nói cách khác ngành quang tử là một ứng dụng công nghệ của các nghiên cứu khoa học cơ bản, với việc cố gắng xây dựng một ngành điện tử mới mà vai trò của electron được thay thế bằng photon.
|
6223 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6223 | Laser | Laser hay Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation có nghĩa là "khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ kích thích".
Theo thuyết lượng tử thì trong một nguyên tử, các electron tồn tại ở các mức năng lượng riêng biệt và rời rạc. Các mức năng lượng có thể hiểu là tương ứng với các quỹ đạo riêng biệt của electron xung quanh hạt nhân. Electron ở phía ngoài sẽ có mức năng lượng cao hơn những electron ở phía trong. Khi có sự tác động vật lý hay hóa học từ bên ngoài, các electron này cũng có thể nhảy từ mức năng lượng thấp lên mức năng lượng cao hay ngược lại, gọi là chuyển dời trạng thái. Các chuyển dời có thể sinh ra hay hấp thụ lượng tử ánh sáng hay photon theo thuyết lượng tử của Albert Einstein. Bước sóng (liên quan đến màu sắc) của tia sáng phụ thuộc vào sự chênh lệch năng lượng giữa các mức.
Có nhiều loại laser khác nhau, có thể ở dạng hỗn hợp khí, ví dụ He-Ne, hay dạng chất lỏng, song có độ bức xạ lớn nhất vẫn là tia laser tạo bởi các linh kiện bán dẫn như điốt laser.
Laser có trong rất nhiều ứng dụng, như làm mắt đọc đĩa quang CD/DVD, máy in laser, máy quét mã vạch, công cụ trình tự DNA, internet cáp quang, truyền dữ liệu trong không gian vũ trụ, máy cắt, máy hàn, máy phẫu thuật laser, tẩy mụn ruồi, nhắm bằng laser. Trong quân đội laser được dùng để đánh dấu, đo khoảng cách và tốc độ của mục tiêu. Trong giải trí laser được sử dụng trong các sân khấu như hòa âm ánh sáng.
Laser được phỏng theo maser, một thiết bị có cơ chế tương tự nhưng tạo ra tia vi sóng hơn là các bức xạ ánh sáng. Maser đầu tiên được tạo ra bởi Charles H. Townes và sinh viên tốt nghiệp J.P. Gordon và H.J. Zeiger vào năm 1953. Maser đầu tiên đó không tạo ra tia sóng một cách liên tục. Nikolay Gennadiyevich Basov và Aleksandr Mikhailovich Prokhorov của Liên bang Xô viết đã làm việc độc lập trên lĩnh vực lượng tử dao động và tạo ra hệ thống phóng tia liên tục bằng cách dùng nhiều hơn hai mức năng lượng. Hệ thống đó có thể phóng ra tia liên tục mà không cho các hạt xuống mức năng lượng bình thường, vì thế vẫn giữ tần suất. Năm 1964, Charles Townes, Nikolai Basov và Aleksandr Prokhorov cùng nhận giải thưởng Nobel vật lý về nền tảng cho lĩnh vực điện tử lượng tử, dẫn đến việc tạo ra máy dao động và phóng đại dựa trên thuyết maser-laser.
Laser hồng ngọc, một laser chất rắn, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1960, bởi nhà vật lý Theodore Maiman tại phòng thí nghiệm Hughes Laboratory ở Malibu, California. Hồng ngọc là oxit nhôm pha lẫn crôm, crôm hấp thụ tia sáng màu xanh lá cây và xanh lục, để lại duy nhất tia sáng màu hồng phát ra.
Robert N. Hall phát triển laser bán dẫn đầu tiên, hay điốt laser, năm 1962. Thiết bị của Hall xây dựng trên hệ thống vật liệu gali-asen và tạo ra tia có bước sóng 850 nm, gần vùng quang phổ tia hồng ngoại. Laser bán dẫn đầu tiên với tia phát ra có thể thấy được được trưng bày đầu tiên cùng năm đó. Năm 1970, Zhores Ivanovich Alferov của Liên Xô và Hayashi và Panish của Phòng thí nghiệm Bell đã độc lập phát triển điốt laser hoạt động liên tục ở nhiệt độ trong phòng, sử dụng cấu trúc đa kết nối.
Nguyên lý cấu tạo chung của một máy laser gồm có: buồng cộng hưởng chứa hoạt chất laser, nguồn nuôi và hệ thống dẫn quang. Trong đó buồng cộng hưởng với hoạt chất laser là bộ phận chủ yếu.
Buồng cộng hưởng chứa hoạt chất laser, đó là một chất đặc biệt có khả năng khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ cưỡng bức để tạo ra laser. Khi 1 photon tới va chạm vào hoạt chất này thì kéo theo đó là 1 photon khác bật ra bay theo cùng hướng với photon tới. Mặt khác buồng cộng hưởng có 2 mặt chắn ở hai đầu, một mặt phản xạ toàn phần các photon khi bay tới, mặt kia cho một phần photon qua một phần phản xạ lại làm cho các hạt photon va chạm liên tục vào hoạt chất laser nhiều lần tạo mật độ photon lớn. Vì thế cường độ chùm laser được khuếch đại lên nhiều lần. Tính chất của laser phụ thuộc vào hoạt chất đó, do đó người ta căn cứ vào hoạt chất để phân loại laser.
Một ví dụ về nguyên lý hoạt động của laser có thể miêu tả cho laser thạch anh:
Có khoảng 200 chất rắn có khả năng dùng làm môi trường hoạt chất laser. Một số loại laser chất rắn thông dụng:
Môi trường hoạt chất là chất lỏng, thông dụng nhất là laser màu.
Laser có thể được cấu tạo để hoạt động ở trạng thái bức xạ sóng liên tục (hay CW - continuous wave) hay bức xạ xung (pulsed operation). Điều này dẫn đến những khác biệt cơ bản khi xây dựng hệ laser cho những ứng dụng khác nhau.
Trong chế độ phát liên tục, công suất của một laser tương đối không đổi so với thời gian. Sự đảo nghịch mật độ electron cần thiết cho hoạt động laser được duy trì liên tục bởi nguồn bơm năng lượng đều đặn.
Trong chế độ phát xung, công suất laser luôn thay đổi so với thời gian, với đặc trưng là các giai đoạn "đóng" và "ngắt" cho phép tập trung năng lượng cao nhất có thể trong một thời gian ngắn nhất có thể. Các dao laser là một ví dụ, với năng lượng đủ để cung cấp một nhiệt lượng cần thiết, chúng có thể làm bốc hơi một lượng nhỏ vật chất trên bề mặt mẫu vật trong thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, nếu cùng năng lượng như vậy nhưng tiếp xúc với mẫu vật trong thời gian dài hơn thì nhiệt lượng sẽ có thời gian để xuyên sâu vào trong mẫu vật do đó phần vật chất bị bốc hơi sẽ ít hơn. Có rất nhiều phương pháp để đạt được điều này, như:
Laser với cường độ thấp, chỉ là vài miliwatt, cũng có thể nguy hiểm với mắt người. Tại bước sóng mà giác mạc mắt và thủy tinh thể có thể tập trung tốt, nhờ tính đồng nhất và sự định hướng cao của laser, một công suất năng lượng lớn có thể tập trung vào một điểm cực nhỏ trên võng mạc. Kết quả là một vết cháy tập trung phá hủy các tế bào mắt vĩnh viễn trong vài giây, thậm chí có thể nhanh hơn. Độ an toàn của laser được xếp từ I đến IV. Với độ I, tia laser tương đối an toàn. Với độ IV, thậm chí chùm tia phân kỳ có thể làm hỏng mắt hay bỏng da. Các sản phẩm laser cho đồ dân dụng như máy chơi CD và bút laser dùng trong lớp học được xếp hạng an toàn từ I, II, hay III. (Xem thêm "An toàn laser").
Vào thời điểm được phát minh năm 1960, laser được gọi là "giải pháp để tìm kiếm các ứng dụng". Từ đó, chúng trở nên phổ biến, tìm thấy hàng ngàn tiện ích trong các ứng dụng khác nhau trên mọi lĩnh vực của xã hội hiện đại, như phẫu thuật mắt, hướng dẫn phương tiện trong tàu không gian, trong các phản ứng tổng hợp hạt nhân... Laser được cho là một trong những phát minh có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ 20.
Ích lợi của laser đối với các ứng dụng trong khoa học, công nghiệp, kinh doanh nằm ở tính đồng pha, đồng màu cao, khả năng đạt được cường độ sáng cực kì cao, hay sự hợp nhất của các yếu tố trên. Ví dụ, sự đồng pha của tia laser cho phép nó hội tụ tại một điểm có kích thước nhỏ nhất cho phép bởi giới hạn nhiễu xạ, chỉ rộng vài nanomét đối với laser dùng ánh sáng. Tính chất này cho phép laser có thể lưu trữ vài gigabyte thông tin trên các rãnh của DVD. Cũng là điều kiện cho phép laser với công suất nhỏ vẫn có thể tập trung cường độ sáng cao và dùng để cắt, đốt và có thể làm bốc hơi vật liệu trong kỹ thuật cắt bằng laser hay dao laser. Ví dụ, một laser Nd:YAG, sau quá trình nhân đôi tần số, phóng ra tia sáng xanh tại bước sóng 523 nm với công suất 10 W có khả năng, trên lý thuyết, đạt đến cường độ sáng hàng triệu W trên một cm vuông. Trong thực tế, thì sự tập trung hoàn toàn của tia laser trong giới hạn nhiễu xạ là rất khó.
Tia sáng laser với cường độ cao có thể cắt thép và các kim loại khác. Tia từ laser thường có độ phân kì rất nhỏ (độ chuẩn trực cao). Độ chuẩn trực tuyệt đối là không thể tạo ra, bởi giới hạn nhiễu xạ. Tuy nhiên, tia laser có độ phân kỳ nhỏ hơn so với các nguồn sáng khác. Một tia laser được tạo từ laser He-Ne, nếu chiếu từ Trái Đất lên Mặt Trăng, sẽ tạo nên một hình tròn đường kính khoảng 1 dặm (1,6 kilômét). Một vài laser, đặc biệt là với laser bán dẫn, có với kích thước nhỏ dẫn đến hiệu ứng nhiễu xạ mạnh với độ phân kỳ cao. Tuy nhiên, các tia phân kỳ đó có thể chuyển đổi về tia chuẩn trục bằng các thấu kính hội tụ. Trái lại, ánh sáng không phải từ laser không thể làm cho chuẩn trực dễ dàng bằng các thiết bị quang học, vì chiều dài đồng pha ngắn hơn rất nhiều so với tia laser. Định luật nhiễu xạ không áp dụng khi laser được truyền trong các thiết bị dẫn sóng như sợi thủy tinh. Laser cường độ cao cũng tạo nên các hiệu ứng thú vị trong quang học phi tuyến tính.
Máy đo khoảng cách bằng laser trong quân sự là loại thiết bị quan trọng. Có nhiều loại khác nhau: máy đo cự ly hàng không, máy đo cự ly xe tăng, máy đo cự ly xách tay... Máy đo cự ly hàng không đo chính xác cự ly từ máy bay đến mục tiêu trên mặt đất, nâng cao độ trúng đích khi ném bom. Nguyên lý hoạt động: đo khoảng thời gian chênh lệch giữa xung laser phát ra và xung phản hồi về rồi nhân với tốc độ ánh sáng (≈ 3.10 m/s), lấy kết quả chia 2, được cự ly cần đo.
Rada laser có độ chính xác cao hơn rada thông thường, có thể hướng dẫn hai tàu vũ trụ ghép nối chính xác trên không gian. Máy bay chiến đấu bay ở tầm siêu thấp, nếu trang bị rada laser có thể né chính xác tất cả chướng ngại vật, kể cả đường dây điện. Tuy nhiên, những thiết bị laser đều chịu ảnh hưởng của thời tiết, trời mù hoặc mưa thì khoảng cách đo bị giảm đi nhiều.
Bom có lắp thiết bị dẫn đường bằng laser và đuôi có lắp hệ thống lái điều khiển sẽ tự động tìm kiếm và đánh trúng mục tiêu.
La bàn laser thay thế la bàn phổ thông, để đo phương vị máy bay, dùng trong máy bay phản lực cỡ lớn và máy bay chiến đấu tính năng cao.
Tia laser đo khoảng cách từ vệ tinh và Mặt Trăng đến Trái Đất, đo đạc toàn cầu. Ngoài ra, chùm tia laser còn làm náo nhiệt không khí lễ hội.
Trong đo lường công nghiệp, tia laser được sử dụng trong các máy đo quét laser để xác định các tọa độ 3D của vật thể, nhằm tính toán kích thước, khoảng cách.
Tia laser còn được dùng làm vũ khí, tuy chưa được phổ biến. Được chia làm hai loại: Vũ khí laser công suất thấp làm loá mắt đối phương, dùng trong tác chiến gần, khoảng cách chỉ vài km, trời mưa mù khoảng cách còn ngắn hơn, có thể xách tay, lắp trên xe tăng, máy bay trực thăng. Vũ khí laser năng lượng cao dùng chùm tia laser cực mạnh chiếu đến một điểm trên mục tiêu, dừng lại một thời gian ngắn để vật liệu chảy ra hoặc khí hoá. Chùm tia laser mạnh có thể phá huỷ đường điện, gây cháy thùng nguyên liệu trong máy bay, gây nổ đạn đạo. Lắp đặt trên mặt đất, trên tàu, máy bay, vệ tinh, có tốc độ nhanh, chính xác cao, không cần thuốc mồi, không sinh lực đẩy phía sau, không tạo ô nhiễm nên nó là loại vũ khí "sạch sẽ". Vũ khí laser lắp đặt trên vệ tinh có thể bắn hạ tên lửa đạn đạo và vệ tinh đối phương.
Theo dự tính, để phá huỷ tên lửa đạn đạo cách xa 1000 km cần năng lượng laser 20000 KW và kính phản xạ đường kính 10 m với thời gian chiếu xạ 1 giây. Đầu những năm 90, Mỹ có thể tạo ra tia laser năng lượng 5000 KW. Tuy vẫn còn một khoảng cách khá xa nhưng trong tương lai, vũ khí laser sẽ trở thành công cụ chiến tranh lợi hại và là cuộc đua công nghệ của các cường quốc trên thế giới.
Trong y học, laser công suất thấp được sử dụng trong vật lý trị liệu để gây hiệu ứng sinh học,
Sự hiện diện của laser trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, hay phim hành động, cũng như lời bình phẩm nói chung dẫn đến các suy nghĩ sai lầm. Ví dụ, trái với những gì xuất hiện trên phim như "Star Wars", tia laser không bao giờ nhìn thấy trong chân không, vì chân không không có tán xạ ánh sáng. Trong không khí, tia laser có thể va chạm với bụi hay vật cản trên đường và bị tán xạ, tạo ra các tia lóe sáng; tương tự như ánh nắng mặt trời tỏa sáng trong môi trường bụi. Kĩ xảo dùng hạt bụi được ứng dụng làm tia laser có thể nhìn thấy, như trong mục đích chụp ảnh, bằng cách tăng số lượng các hạt bụi trong không khí, chẳng hạn dùng bình xịt thơm.
Tia laser với cường độ cao có thể nhìn thấy trong không khí nhờ vào tán xạ Rayleigh hay tán xạ Raman. Với các tia có cường độ cao hơn, tập trung tại một điểm nhỏ, không khí có thể bị nung lên đến trạng thái plasma, do đó laser có thể được thấy nhờ bức xạ từ plasma này. Tuy nhiên sự tăng áp suất đột ngột khi không khí bị nóng nhanh có thể tạo ra tiếng nổ lớn, và tạo ra sự phản hồi của tia laser làm hư thiết bị (tùy vào thiết kế của laser).
Trong phim khoa học viễn tưởng, các hiệu ứng đặc biệt thường miêu tả các vũ khí laser truyền đi vài mét trong một giây, trái với thực tế là tia laser di chuyển với vận tốc ánh sáng, nhanh đến mức không thể thấy sự di chuyển của tia laser.
Một vài cảnh phim miêu tả hệ thống an toàn sử dụng laser đỏ, có thể được vô hiệu hóa bởi các nhân vật bằng việc là sử dụng gương, khi người này nhìn thấy tia laser bằng cách rải các bụi trắng vào không khí. Thực tế thì hệ thống an toàn có thể dùng tia laser hồng ngoại hơn là tia laser thấy được.
|
6231 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6231 | Hạt hạ nguyên tử | Trong khoa học vật lý, các hạt hạ nguyên tử (tiếng Anh: "subatomic particle") là các hạt nhỏ hơn nhiều lần so với các nguyên tử, là 1 khái niệm để chỉ các hạt cấu thành nên nguyên tử, cùng các hạt được giải phóng trong các phản ứng hạt nhân hay phản ứng phân rã. Ví dụ: electron, proton, neutron là những hạt hạ nguyên tử thường được nhắc đến. Có 2 loại hạt hạ nguyên tử: hạt sơ cấp, không được cấu tạo từ những hạt khác, và hạt tổ hợp. Vật lý hạt và vật lý hạt nhân nghiên cứu những hạt này và cách chúng tương tác với nhau. Ý tưởng tính chất của hạt được nghiên cứu qua các thí nghiệm cho thấy ánh sáng vừa có tính chất hoạt động giống như 1 dòng hạt (gọi là photon) vừa có các đặc tính của sóng. Điều này dẫn đến khái niệm mới về tính chất 2 mặt sóng-hạt để phản ánh rằng "các hạt" quy mô lượng tử hoạt động giống như cả các hạt và sóng (điều này đôi khi chúng được mô tả là các hạt phản xạ). 1 khái niệm mới khác, nguyên lý bất định, nói rằng các trạng thái của chúng đều xả ra đồng thời, chẳng hạn như vị trí và động lượng đồng thời xảy ra cùng một lúc, và không thể đo được chính xác. Trong thời gian gần đây, tính 2 mặt sóng-hạt đã được chứng minh là không chỉ áp dụng cho các photon mà còn cho các hạt lượng tử khác. Sự tương tác của các hạt trong khuôn khổ của lý thuyết trường lượng tử được hiểu là sự sáng tạo và hủy diệt lượng tử của các tương tác cơ bản tương ứng. Điều này pha trộn vật lý hạt với lý thuyết từ trường.
Bất kỳ hạt hạ nguyên tử nào, giống như bất kỳ hạt nào trong không gian 3 chiều tuân theo luật của cơ học lượng tử, có thể là boson (với spin là số nguyên) hoặc fermion (với spin là nửa số nguyên lẻ).
Các hạt cơ bản của Mô hình Chuẩn bao gồm:
Các phần mở rộng khác nhau của Mô hình Chuẩn dự đoán sự tồn tại của 1 hạt graviton cơ bản và nhiều hạt cơ bản khác.
Các hạt hạ nguyên tử tổng hợp (như proton hoặc hạt nhân nguyên tử) là trạng thái liên kết của hai hay nhiều hạt cơ bản. Ví dụ, 1 proton được tạo thành từ 2 hạt up quark và 1 hạt down quark, trong khi hạt nhân nguyên tử của heli-4 bao gồm 2 proton và 2 neutron. Neutron được tạo thành từ 2 hạt down quark và 1 hạt up quark. Các hạt tổng hợp bao gồm tất cả các hadron: chúng bao gồm baryon (như proton và neutron) và meson (như pion và kaon).
Trong thuyết tương đối hẹp, năng lượng của 1 hạt ở phần còn lại bằng khối lượng của nó nhân bình phương tốc độ ánh sáng, E = mc. Đó là, khối lượng có thể được thể hiện dưới dạng năng lượng và ngược lại. Nếu 1 hạt có 1 hệ quy chiếu nằm ở phần còn lại, thì nó có khối lượng nghỉ tích cực và được gọi là khối lượng lớn.
Tất cả các hạt composite đều lớn. Baryon (có nghĩa là "nặng") có xu hướng có khối lượng lớn hơn meson (có nghĩa là "trung gian"), có xu hướng nặng hơn lepton (có nghĩa là "nhẹ"), nhưng lepton nặng nhất (hạt tau) nặng hơn 2 hương vị nhẹ nhất của baryon (nucleon). Nó cũng chắc chắn rằng bất kỳ hạt nào có điện tích đều lớn.
Tất cả các hạt không khối lượng (các hạt có khối lượng bất biến là số 0) là hạt cơ bản. Chúng bao gồm photon và gluon, mặc dù chúng không thể bị cô lập.
Thông qua công trình nghiên cứu của Albert Einstein, Satyendra Nath Bose, Louis de Broglie, và nhiều nhà khoa học khác, lý thuyết khoa học hiện tại cho rằng tất cả các hạt đều có bản chất sóng. Điều này đã được xác minh không chỉ cho các hạt cơ bản mà còn cho các hạt hợp chất như nguyên tử và thậm chí cả các phân tử. Trên thực tế, theo các công thức truyền thống của cơ học lượng tử phi tương đối tính, tính nhị nguyên sóng-hạt áp dụng cho tất cả các đối tượng, thậm chí là các đối tượng vĩ mô; mặc dù các đặc tính sóng của các đối tượng vĩ mô không thể được phát hiện do các bước sóng nhỏ của chúng.
Sự tương tác giữa các hạt đã được xem xét kỹ lưỡng trong nhiều thế kỷ, và một vài luật đơn giản nhấn mạnh cách các hạt hoạt động trong va chạm và tương tác. Cơ bản nhất trong số này là các định luật bảo toàn năng lượng và bảo toàn động lượng, cho phép chúng ta tính toán các tương tác hạt trên thang độ lớn từ các ngôi sao đến các quark. Đây là những điều cơ bản tiên quyết của cơ học Newton, một loạt các phát biểu và phương trình trong cuốn "Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên", được xuất bản lần đầu năm 1687.
Thuật ngữ "hạt hạ nguyên tử" phần lớn là từ viết tắt của những năm 1960, được sử dụng để phân biệt một số lượng lớn các baryon và meson (trong đó bao gồm các hadron) từ các hạt mà giờ đây được cho là hạt cơ bản thực sự. Trước đó, các hadron đã từng được phân loại là "hạt cơ bản" bởi vì thành phần của chúng chưa được biết đến.
Danh sách các khám phá quan trọng sau:
|
6232 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6232 | Nguyên tử khối | Nguyên tử khối ("m") là khối lượng của một nguyên tử. Đơn vị của nó là đơn vị khối lượng nguyên tử (u) hay đơn vị carbon (đvC) được quy ước là 1 đơn vị carbon thì bằng khối lượng một nguyên tử carbon-12, ở trạng thái nghỉ. Với nguyên tử, proton và neutron của hạt nhân chiếm hầu hết khối lượng, và nguyên tử khối tính bằng u có giá trị gần bằng số khối của nguyên tử đó.
Khi chia nguyên tử khối cho đơn vị, hay dalton (Da), để tạo thành một tỉ số, nguyên tử khối trở thành một đại lượng không thứ nguyên gọi là khối lượng đồng vị tương đối (xem phần dưới). Vì thế khối lượng của một nguyên tử carbon-12 là 12 u (hay 12 Da), nhưng khối lượng đồng vị tương đối của một nguyên tử carbon-12 chỉ là 12.
Nguyên tử khối hay khối lượng đồng vị tương đối chỉ khối lượng của một hạt duy nhất, vì vậy nên bị ràng buộc bởi đồng vị nhất định của một nguyên tố. Đại lượng không thứ nguyên khối lượng nguyên tử chuẩn chỉ giá trị trung bình của các giá trị nguyên tử khối của những đồng vị hay gặp trong tự nhiên trong một mẫu nguyên tố. Do đó, giá trị của nguyên tử khối thường có nhiều chữ số có nghĩa hơn khối lượng nguyên tử chuẩn. Khối lượng nguyên tử chuẩn liên quan đến nguyên tử khối qua sự phổ biến của các đồng vị trong một nguyên tố. Giá trị của nó thường xấp xỉ nguyên tử khối của đồng vị phổ biến nhất, chứ không phải là vì sự khác biệt khi làm tròn.
Nguyên tử khối của nguyên tử, ion, hay hạt nhân nguyên tử nhỏ hơn một chút so với tổng khối lượng của các proton, neutron và electron cấu thành nên nó, do có sự mất mát khối lượng từ năng lượng liên kết (do ).
Khối lượng "đồng vị" tương đối (tính chất của một nguyên tử duy nhất) không nên nhầm lẫn với khối lượng nguyên tử tương đối (còn gọi là trọng lượng nguyên tử) là trung bình của các giá trị của nhiều nguyên tử trong một mẫu nguyên tố hóa học. Khối lượng đồng vị tương đối tương đương với nguyên tử khối, chỉ khác
Khối lượng đồng vị tương đối tương đương với nguyên tử khối và có giá trị đại số bằng đúng nguyên tử khối, với nguyên tử khối sử dụng đơn vị khối lượng nguyên tử. Sự khác biệt duy nhất là khối lượng đồng vị tương đối là một con số thuần túy mà không có đơn vị. Vì nó chỉ tỉ lệ của khối lượng nguyên tử với tiêu chuẩn là nguyên tử carbon-12, và từ "tương đối" chỉ tỉ "tương đối" so với carbon-12.
Với khối lượng của carbon-12 là 12, khối lượng đồng vị tương đối khi ấy sẽ là khối lượng của một đồng vị (một nuclit bất kỳ) khi mà giá trị này được so với khối lượng của carbon-12. Một các tương đương, khối lượng đồng vị tương đối của một đồng vị hay nuclit là khối lượng của đồng vị so với 1/12 khối lượng của một nguyên tử carbon-12.
Ví dụ, khối lượng đồng vị tương đối của một nguyên tử carbon-12 bằng đúng 12, còn nguyên tử khối của một nguyên tử carbon-12 bằng đúng 12 đơn vị carbon hay 12 u. Ngoài ra, nguyên tử khối của một nguyên tử carbon-12 có thể được biểu diễn trong bất kì đơn vị khối lượng nào: ví dụ, nguyên tử khối của một nguyên tử carbon-12 vào khoảng 1.998467052 × 10 kilogam.
Không nuclit nào trừ carbon-12 có giá trị khối lượng đồng vị tương đối là một số nguyên. Cũng giống như trường hợp "nguyên tử khối" khi biểu diễn bằng u, giá trị khối lượng nguyên tử trung bình của các nuclit khác carbon-12 chỉ gần bằng một số nguyên. Điều này sẽ được nói rõ hơn dưới đây.
Nguyên tử khối và khối lượng đồng vị tương đối đôi khi bị nhầm lẫn hoặc dùng thay cho khối lượng nguyên tử chuẩn và khối lượng nguyên tử tương đối. Tuy nhiên, khối lượng nguyên tử tương đối và khối lượng nguyên tử chuẩn biểu diễn giá trị trung bình (có trọng số chỉ số lượng) của các nguyên tử có trong mẫu nguyên tố, không phải của nuclit đơn lẻ. Vì thế, khối lượng nguyên tử tương đối và khối lượng nguyên tử chuẩn thường có giá trị khác Nguyên tử khối và khối lượng đồng vị tương đối, và chúng cũng có thể có đơn vị khác nguyên tử khối.
Nguyên tử khối (hay khối lượng đồng vị tuyệt đối) được định nghĩa là khối lượng của một nguyên tử duy nhất, tức chỉ có thể là một đồng vị (nuclit), chứ không phải là giá trị trung bình như khối lượng nguyên tử tương đối và khối lượng nguyên tử chuẩn. Vì thế, trong lý thuyết, nguyên tử khối hay khối lượng đồng vị tương đối của mỗi đồng vị hay nuclit của một nguyên tố hóa học có thể được đo đạc rất chính xác, vì mỗi mẫu nuclit sẽ giống hoàn toàn những mẫu khác có cùng trạng thái năng lượng. Ví dụ, mỗi nguyên tử oxi-16 sẽ có nguyên tử khối (hay khối lượng đồng vị tương đối) bằng với tất cả nguyên tử oxi-16.
Trong trường hợp các nguyên tố chỉ có một đồng vị trong tự nhiên (các nguyên tố đơn nuclit) hoặc một đồng vị chủ yếu, sự chênh lệch giữa nguyên tử khối của đồng vị phổ biến nhất và khối lượng nguyên tử tương đối (hay chuẩn) có thể rất nhỏ hoặc bằng không, và không ảnh hưởng đến phần lớn tính toán. Tuy nhiên, có thể tồn tại sai lệch và đôi khi cần phải xét từng nguyên tử đơn lẻ của những nguyên tố mà không phải đơn nuclit.
Với các nguyên tố có nhiều hơn một đồng vị phổ biến, sự chênh lệch giữa khối lượng nguyên tử tương đối và khối lượng đồng vị tương đối của đồng vị phổ biến nhất, có thể lên đến hơn 0.5 đơn vị (như trường hợp của clo với khối lượng nguyên tử chuẩn và khối lượng nguyên tử tương đối vào khoảng 35.45). Nguyên tử khối (khối lượng đồng vị tương đối) của một đồng vị hiếm có thể chênh lệch với khối lượng nguyên tử chuẩn hoặc khối lượng nguyên tử tương đối đến vài đơn vị khối lượng.
Nguyên tử khối tính theo đơn vị carbon (có giá trị bằng khối lượng nguyên tử chuẩn) luôn gần bằng một số nguyên nhưng không bao giờ có giá trị nguyên (trừ carbon-12) vì hai lý do chính:
Tỉ lệ giữa nguyên tử khối và số khối (số hạt trong nhân) nằm trong khoảng từ 0.99884 với Fe và 1.00782505 với H.
Bất kì sự hao hụt khối lượng nào do năng lượng liên kết hạt nhân chỉ chiếm một phần nhỏ (bé hơn 1%) so với tổng khối lượng các nucleon tự do. So với khối lượng trung bình của mỗi nucleon trong carbon-12, là một nguyên tử có liên kết tương đối mạnh, hao hụt khối lượng chỉ là một phần nhỏ của một đơn vị carbon. Do proton và neutron tự do có khối lượng khác nhau rất ít (khoảng 0.0014 u), làm tròn khối lượng đồng vị tương đối, hoặc nguyên tử khối của bất kỳ nuclit nào (tính theo đơn vị carbon) luôn cho ta số hạt trong nhân, hay số khối. Thêm vào đó, số neutron có thể được tính bằng cách trừ số khối cho số proton (số hiệu nguyên tử) có trong hạt nhân.
Độ chênh lệch của tỉ số giữa nguyên tử khối và số khối và 1 thay đổi: là số dương với hydro-1, rồi giảm dần cho đến khi đạt cực tiểu tại heli-4. Đồng vị của lithi, beryli, và bo có liên kết không chặt bằng heli, bằng chứng là tỉ số của chúng tăng dần.
Đến carbon, tỉ số giữa nguyên tử khối (tính theo đơn vị carbon) và số khối bằng đúng 1. Sau carbon nó giảm xuống thấp hơn 1 đến khi đạt cực tiểu tại sắt-56 (sắt-58 và niken-62 có giá trị cao hơn rất ít), rồi tăng dần với những đồng vị nặng hơn và số khối tăng dần. Điều này là do phân hạch hạt nhân trong nguyên tố nặng hơn zirconi tỏa năng lượng, và phân hạch trong nguyên tố nhẹ hơn niobi cần năng lượng. Mặt khác, phản ứng hợp hạch giữa hai nguyên tử của một nguyên tố nhẹ hơn scandi (trừ heli) tạo năng lượng, còn nhiệt hạch nguyên tố nặng hơn calci cần năng lượng. Sự nhiệt hạch của hai nguyên tử He-4 để tạo ra beryli-8 cần cung cấp năng lượng, và nguyên tử beryli sẽ nhanh chóng vỡ ra lại. He-4 có thể phản ứng với triti (H-3) hoặc He-3, và những quá trình này đã diễn ra trong tổng hợp hạt nhân Big Bang. Sự hình thành của các nguyên tố có nhiều hơn bảy nucleon cần phản ứng hợp hạch giữa ba nguyên tử He-4 trong quá trình ba alpha, bỏ qua lithi, beryli và bo để tạo ra carbon.
Sau đây là tỉ số giữa nguyên tử khối và số khối của một số nguyên tố:
Việc đo đạc và so sánh khối lượng của nguyên tử được thực hiện bằng phương pháp khối phổ.
Đơn vị chuẩn được dùng trong khoa học để đo lượng chất là mol (ký hiệu: mol), được định nghĩa xấp xỉ là lượng chất chứa số nguyên tử hoặc phân tử bằng số nguyên tử có trong 12 gam carbon-12. Số nguyên tử có trong một mol chất gọi là số Avogadro, có giá trị khoảng 6.022 × 10.
Một mol chất luôn có khối lượng gần bằng "khối lượng nguyên tử chuẩn" hoặc "khối lượng mol" của chất đó; tuy nhiên, điều này không nhất thiết đúng với "nguyên tử khối" tùy thuộc vào số đồng vị của nguyên tố đó tồn tại trong tự nhiên. Ví dụ, khối lượng nguyên tử chuẩn của sắt là 55.847 g/mol, vậy nên một mol sắt phổ biến trên Trái Đất có khối lượng là 55.847 grams. "Nguyên tử khối" của đồng vị Fe là 55.935 u và một mol nguyên tử Fe sẽ có khối lượng 55.935 g, nhưng lượng Fe nguyên chất như thế chưa từng được tìm thấy (hay tạo ra) trên Trái Đất. Tuy nhiên, có 22 nguyên tố đơn nuclit chỉ có một đồng vị được tìm thấy trong tự nhiên (như fluor, natri, nhôm và phosphor) và với những nguyên tố này, khối lượng nguyên tử chuẩn và nguyên tử khối có giá trị bằng nhau. Do đó, các mẫu thử của những nguyên tố này có thể dùng làm chuẩn tham chiếu cho một số giá trị nguyên tử khối nhất định.
Công thức để chuyển đổi giữa đơn vị khối lượng nguyên tử và gam theo IUPAC cho một nguyên tử là:
trong đó formula_2 là hằng số Avogadro.
Có thể áp dụng định nghĩa tương tự cho các phân tử. Khối lượng phân tử của một hợp chất có thể được tính bằng cách cộng nguyên tử khối của những nguyên tử cấu thành nên nó (nuclit). Khối lượng mol của một hợp chất có thể được tính bằng cách cộng khối lượng nguyên tử tương đối của các nguyên tố có trong công thức hóa học của nó. Trong cả hai trường hợp, cần phải xét cả số lần các nguyên tử xuất hiện, và nhân nguyên tử khối cho bội số đó.
Các nhà khoa học đầu tiên xác định được khối lượng nguyên tử tương đối là John Dalton và Thomas Thomson giữa 1803 và 1805 và Jöns Jakob Berzelius giữa 1808 và 1826. Khối lượng nguyên tử tương đối ban đầu được định nghĩa so với khối lượng của nguyên tố nhẹ nhất, hydro, được tính là 1.00, và trong những năm 1820 giả thuyết Prout cho rằng khối lượng nguyên tử của tất cả nguyên tố là một bội số của khối lượng nguyên tử hydro. Tuy nhiên, Berzelius sớm chứng minh rằng điều này là sai, và với một số nguyên tố như clo, khối lượng nguyên tử tương đối vào khoảng 35.5, nằm gần như chính giữa hai bội số nguyên của khối lượng hydro. Dù vậy, sau này, điều này được chứng minh là do hỗn hợp của nhiều đồng vị, còn nguyên tử khối của đồng vị nguyên chất, hay nuclit, là bội số của khối lượng hydro với sai số trong khoảng 1%.
Trong thập kỷ 1860, Stanislao Cannizzaro hoàn thiện khối lượng nguyên tử tương đối bằng cách dùng định luật Avogadro (đặc biệt là tại Hội nghị Karlsruhe năm 1860). Ông đưa ra một định luật để xác định khối lượng nguyên tử tương đối của các nguyên tố: "lượng chất khác nhau của cùng một nguyên tố chứa trong những phân tử khác nhau là các bội số nguyên của trọng lượng nguyên tử" và xác định khối lượng nguyên tử và phân tử tương đối qua việc so sánh mật độ hơi của một hỗn hợp khí chứa phân tử của một hay nhiều nguyên tố cần đo đạc.
Trong thế kỉ 20, trước những năm 1960 các nhà hóa học và vật lý sử dụng hai thang đo nguyên tử khối khác nhau. Các nhà hóa học dùng "đơn vị nguyên tử khối" (amu) sao cho hỗn hợp tự nhiên các đồng vị của oxi có khối lượng nguyên tử là 16, trong khi các nhà vật lý gán con số 16 làm nguyên tử khối của đồng vị oxi phổ biến nhất (O, gồm 8 proton và 8 neutron). Tuy nhiên, vì oxi-17 và oxi-18 cũng có trong tự nhiên, điều này dẫn đến hai thang đo khác nhau cho khối lượng nguyên tử. Thang đo thống nhất dựa trên carbon-12, C, đáp ứng nhu cầu của các nhà vật lý về thang đo dựa theo một đồng vị duy nhất, trong khi vẫn có giá trị gần bằng thang đo của các nhà hóa học.
Cụm từ "trọng lượng nguyên tử" đang dần bị loại bỏ và thay thế bằng "khối lượng nguyên tử tương đối", trong đa số trường hợp. Sự thay đổi thuật ngữ này có nguồn gốc từ những năm 1960 và đã gây ra nhiều tranh cãi trong cộng đồng khoa học, và do việc sử dụng đơn vị khối lượng nguyên tử và ý kiến rằng "weight" có phần không phù hợp. Một số người vẫn muốn giữ cụm từ "trọng lượng nguyên tử" với nguyên nhân chính là cụm từ "trọng lượng nguyên tử" vẫn được người trong ngành hiểu rõ, còn cụm từ "khối lượng nguyên tử" đã được sử dụng và cụm từ "khối lượng nguyên tử tương đối" có thể bị nhầm lẫn với "khối lượng đồng vị tương đối" (khối lượng của một nguyên tử của một nuclit, so với 1/12 khối lượng một nguyên tử carbon-12; xem phần trên).
Năm 1979, để giải quyết mâu thuẫn, cụm từ "khối lượng nguyên tử tương đối" được coi là đồng nghĩa cho trọng lượng nguyên tử. Hai mươi năm sau thứ tự của chúng đã bị đảo ngược, và "khối lượng nguyên tử tương đối" trở thành cụm từ được ưa chuộng. Tuy nhiên, cụm từ "khối lượng nguyên tử "chuẩn"" (chỉ khối lượng nguyên tử của các mẫu thử được chuẩn hóa) vẫn được giữ nguyên.
|
6233 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6233 | Dalton (đơn vị) | Đơn vị khối lượng nguyên tử hay dalton (ký hiệu SI: u, amu hoặc Da, ký hiệu cũ của Việt Nam: đvC), là một đơn vị đo khối lượng trong hóa học và vật lý, sử dụng đo khối lượng của các nguyên tử và phân tử. Nó được quy ước bằng một phần mười hai khối lượng của nguyên tử carbon đồng vị 12.
Nguyên tử có khối lượng vô cùng nhỏ bé, nếu tính bằng gram thì số trị vô cùng nhỏ, không tiện dụng. Thí dụ, khối lượng của một nguyên tử carbon (C) là: 0,000 000 000 000 000 000 000 019 926 g (= 1,9926.10 g)
Tại Việt Nam quy ước lấy 1/12 khối lượng của nguyên tử carbon làm đơn vị khối lượng cho nguyên tử, được gọi là "đơn vị carbon", viết tắt là đvC.
Trong Hệ Đo lường Quốc tế (SI), đơn vị khối lượng nguyên tử được ký hiệu bằng chữ ""u"". Theo quy ước trong hệ Đo lường Quốc tế:
|
6237 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6237 | Quy tắc Hund thứ nhất | Quy tắc Hund thứ nhất hay quy tắc Hund về độ bội lớn nhất quy định rằng trong các obitan có cùng mức năng lượng, các điện tử (electron) sẽ không bắt cặp cho đến khi mỗi obitan trong nhóm đều có một điện tử đơn lẻ, và các điện tử này phải có spin song song và cùng chiều với nhau. Quy tắc này được nhà khoa học Đức Friedrich Hermann Hund tìm ra vào năm 1925 và nó được đánh giá là có tầm quan trọng lớn trong hóa học nguyên tử, quang phổ học và hóa học lượng tử. Tầm quan trọng của quy tắc thứ nhất này khiến nó thường được mọi người gọi tắt là quy tắc Hund trong khi thật ra Hund đã tìm ra được tổng cộng đến 3 quy tắc.
Độ ổn định cao của nguyên tử phần nhiều được hình thành tại trạng thái năng lượng thấp, nảy sinh bởi vì trạng thái spin cao buộc các điện tử chưa bắt cặp phải "cư trú" tại các obitan khác nhau về mặt không gian. Một cách hiểu thông dụng nhưng sai lầm về lý do của sự ổn định của trạng thái độ bội cao là: việc các điện tử chiếm chỗ các obitan khác nhau về mặt không gian sẽ khiến khoảng cách giữa các điện tử tăng cao và làm giảm lực đẩy giữa các điện tử với nhau. Tuy nhiên trên thực tế nguyên nhân của sự ổn định này là do các điện tử sẽ ít bị che lấp khỏi lực hút tĩnh điện của hạt nhân nguyên tử. Trạng thái spin tổng cộng sẽ được tính theo tổng số điện tử chưa bắt cặp cộng với 1, hay tổng số spin nhân đôi rồi cộng với 1 (viết tắt là 2S+1).
Như vậy, theo quy tắc Hund thứ nhất, hạn chế được đặt trên các con đường quỹ đạo nguyên tử được lấp đầy theo nguyên lý Aufbau. Trước khi hai điện tử chiếm chỗ cùng một obitan trong một phân lớp, các obitan trong cùng phân lớp đó đều phải chứa một điện tử chưa bắt cặp. Đồng thời, các điện tử chưa bắt cặp nêu trên đều phải có spin song song và cùng hướng với nhau trước khi phân lớp lấp đầy các obitan với những điện tử có spin hướng ngược lại. "Như vậy, trong quá trình lấp đầy các obitan nguyên tử, số điện tử chưa bắt cặp sẽ luôn là lớn nhất và trạng thái spin tối đa cũng được đảm bảo."
Như vậy, một phân lớp p có các điện tử được sắp xếp là [↑↓][↑][↑] sẽ có trạng thái bền nhất (chứ không phải là [↑↓][↑][↓] hay [↑↓][↑↓][ ]).
Năm 2004, các nhà khoa học đã điều chế được chất 5-dehydro-m-xylylene (DMX), hợp chất hữu cơ đầu tiên không tuân theo quy tắc Hund thứ nhất.
|
6240 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6240 | Orbital | Orbital có nhiều nghĩa:
Orbital là khái niệm được nhắc đến trong cơ học lượng tử nhằm thay thế khái niệm quỹ đạo trong cơ học cổ điển hay trong mô hình sơ khai về nguyên tử. Orbital miêu tả hình dáng của phân bố xác suất tìm thấy electron trong nguyên tử. Các electron quay quanh hạt nhân, với các mẫu hình phức tạp. Tuy nhiên, sẽ có những điểm trong không gian quanh hạt nhân, ở đó xác suất tìm thấy electron là lớn nhất(>90%). Các điểm cùng có xác suất tìm thấy electron lớn nhất này được gọi là các orbital.
Có bốn loại orbital là orbital s,orbital p,orbital d,orbital f.
|
6242 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6242 | Nhà hóa học | Một nhà hóa học là một nhà khoa học chuyên môn về lĩnh vực hóa học,tính chất các chất hóa học, thành phần, phát minh ra chất mới, thay thế, chế biến và sản phẩm, góp phần nâng cao kiến thức cho thế giới. Các nhà hóa học làm việc tại các trường đại học với các chức vụ như giáo sư, nhà nghiên cứu, hoặc trong các phòng thí nghiệm của các xí nghiệp.
Sau đây là danh sách của một số các nhà hóa học nổi tiếng.
Alfred Nobel - Thụy Điển (1833-1896)
Lê Minh Nhựt - Việt Nam
|
6245 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6245 | Đạo giáo Việt Nam | Đạo giáo Việt Nam là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở Việt Nam.
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là "nội tu" và "ngoại dưỡng", phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn.
Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là "Đạo giáo phù thủy", tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy tín thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng "cưỡi diều tìm long mạch" để triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới.
Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư: nên có chức đạo quan và tăng quan. Tương truyền vua Đinh Tiên Hoàng từng lấy lễ thầy trò để tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái vốn là Mộc tinh ở cây chiên đàn lâu năm. Đời nhà Lý các đạo sĩ Trần Tuệ Long và Trịnh Trí Không giữ địa vị quan trọng trong triều.
Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ 17, xuất hiện một trường phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có 10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng Sư. Tương truyền vua Lê Thần Tông bị bệnh mọc lông cọp được Trần Toàn dùng bùa phép và thần chú chữa khỏi. Ông còn cứu sống cho con Chúa chết đã 2 ngày, nên được Vua và Chúa cho người cất nhà cho và tự tay vua ghi 3 chữ "Nội Đạo Tràng". Ba người con trai của ông được tôn là "Tam Thánh". Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc, đến tận thế kỷ 20 hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội.
Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên. Giới sĩ phu xưa thường cùng nhau tổ chức cầu Tiên để hỏi về vận nước, chuyện kiết hung đại sự… Nhiều đàn cầu Tiên nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)… Đầu thế kỷ 20, các đàn cầu Tiên (gọi là thiện đàn) mọc lên khắp nơi.
Kinh sách của Đạo giáo được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền tụng, ngoài 2 quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử, còn có quyển Huỳnh Đình Kinh dạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát. Tất cả tương truyền là do Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ dạy từ xưa bên Trung Quốc.
Đặc biệt, Đạo giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo dòng lịch sử, chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... với cuộc sống "tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn" của học thuyết Lão Trang.
Thời Bắc thuộc, Đạo giáo chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần đều coi trong các đạo sỹ không kém các tăng sư, bên cạnh "Tăng quan" còn có cả "Đạo quan".
Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ.
Tổng hợp là một đặc điểm quan trọng của tín ngưỡng truyền thống nên giống như các tôn giáo khác khi du nhập vào Việt Nam, Đạo giáo bị hòa trộn với "tín ngưỡng truyền thống". Đối với Đạo giáo thì rất đặc biệt, "Đạo giáo phù thủy" rất tương đồng với "tín ngưỡng ma thuật" nên sự hòa trộn xảy ra rất mãnh liệt đến không thể phân biệt nổi đâu là Đạo giáo, đâu là tín ngưỡng. Rất nhiều nhà nghiên cứu quy hết cho mọi tín ngưỡng Việt Nam là Đạo giáo, còn đối với người dân thích đồng bóng, bùa chú... thì lại không biết Đạo giáo là gì.
Đạo giáo còn hòa trộn với các tôn giáo khác như Phật giáo. Chử Đồng Tử là người vừa tu đắc đạo thành Phật, vừa được coi là tổ sư của Đạo giáo Việt Nam. Đạo giáo còn ảnh hưởng đến các nhà Nho, các nhà nho khi gặp chuyện bất bình trong chốn quan trường thì hay lui về ẩn dật, tìm thú vui nơi thiên nhiên, sống cuộc sống an bình thanh thản, đó là các tu của Đạo giáo. Các nhà Nho còn tổ chức "phụ tiên" ("cầu tiên") để hỏi trời đất về chuyện thời thế, tốt, xấu... Nhiều đàn phụ tiên nổi tiếng như đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên)... Nhiều nhà Nho còn lập đàn phụng tiên ngay tại tư gia và nơi làm việc như Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền.
Sau tính tổng hợp là tính linh hoạt và âm dương hòa hợp là những đặc tính của Đạo giáo Việt Nam. Đạo giáo thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình. Câu tục ngữ, ""Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ"" là để chỉ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa). Việc thờ đức Thánh Trần với "tam phủ" và tứ phủ đi liền với tín ngưỡng "đồng bóng". Ngoài ra Đạo giáo Việt Nam còn thờ các vị thần khác như: Tam Bành, Độc Cước, Huyền Đàn...
Đạo giáo chủ trương không tham gia vào đời sống xã hội ("xuất thế") nhưng khi vào đến Việt Nam thì Đạo giáo còn được dùng làm vũ khí chống áp bức ("nhập thế"). Ví dụ, đời Hồ Quý Ly, có Trần Đức Huy dùng pháp thuật để thu hút đông đảo người theo chống lại triều đình sau đó bị dẹp.
|
6246 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6246 | Hành tinh nguyên tử | Hành tinh nguyên tử, còn gọi là mẫu hành tinh nguyên tử hay mô hình nguyên tử Rutherford, là một mô hình về nguyên tử được nhà vật lý người New Zealand là Ernest Rutherford (1871–1937) đưa ra sau năm 1911.
Trong mẫu hành tinh nguyên tử, hạt nhân mang điện tích dương rất nhỏ bé, tập trung phần lớn khối lượng của nguyên tử ở trung tâm; còn các điện tử mang điện tích âm quay chung quanh hạt nhân trên các quỹ đạo giống như các hành tinh quay chung quanh Mặt Trời.
Trước năm 1911, nguyên tử được cho là có cấu trúc tuân theo mô hình mứt mận của J. J. Thomson, gồm các hạt tích điện dương đan xen với các electron, tạo thành một hỗn hợp tương tự như thành phần của mứt mận (Plum pudding model).
Năm 1909, theo sự chỉ đạo của Rutherford, Hans Geiger và Ernest Marsden tiến hành thí nghiệm, mà sau này gọi là thí nghiệm Rutherford, tại Đại học Manchester. Họ chiếu dòng hạt alpha vào các lá vàng mỏng và đo số hạt alpha bị phản xạ, truyền qua và tán xạ. Họ khám phá ra một phần nhỏ các hạt alpha đã phản hồi lại.
Nếu cấu trúc nguyên tử có dạng như mô hình "mứt mận" thì sự phản hồi xảy ra rất yếu, do nguyên tử là môi trường trộn lẫn giữa điện tích âm (của điện tử) và điện tích dương (của proton), trung hòa điện tích và gần như không có lực tĩnh điện giữa nguyên tử và các hạt alpha.
Năm 1911, Rutherford giải thích kết quả thí nghiệm, với giả thiết rằng nguyên tử chứa một hạt nhân mang điện tích dương nhỏ bé trong lõi, với những điện tử mang điện tích âm khác chuyển động xung quanh nó trên những quỹ đạo khác nhau, ở giữa là những khoảng không. Khi đó, hạt alpha khi nằm bên ngoài nguyên tử không chịu lực Coulomb, nhưng khi đến gần hạt nhân mang điện dương trong lõi thì bị đẩy do hạt nhân và hạt alpha đều tích điện dương. Do lực Coulomb tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách nên hạt nhân cần có kích thước nhỏ để đạt lực đẩy lớn tại các khoảng cách nhỏ giữa hạt alpha và hạt nhân.
Mô hình nguyên tử của Rutherford là mô hình đầu tiên đề xuất một hạt nhân nhỏ bé nằm tại tâm của nguyên tử, có thể coi là sự khai sinh cho khái niệm hạt nhân nguyên tử. Sau khám phá này, việc nghiên cứu về nguyên tử được tách ra làm hai nhánh, vật lý hạt nhân nghiên cứu về hạt nhân nguyên tử, và vật lý nguyên tử nghiên cứu cấu trúc của các electron bay quanh.
Tuy nhiên, mô hình Rutherford có cách nhìn cổ điển về các hạt electron bay trên quỹ đạo như các hành tinh bay quanh Mặt Trời; không thể giải thích được cấu trúc quỹ đạo của electron liên quan đến các quá trình hóa học; đặc biệt không giải thích được tại sao nguyên tử tồn tại cân bằng bền và electron không bị rơi vào trong hạt nhân. Mô hình này sau đó được thay thế bằng mô hình bán cổ điển của Niels Bohr vào năm 1913 và mô hình lượng tử về nguyên tử.
Dù cho nó không chính xác, mô hình nguyên tử Rutherford thường được dùng trong các minh họa trong các phương tiện thông tin đại chúng như là biểu tượng cho nguyên tử. Ví dụ như mô hình này được vẽ trên cờ của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế.
|
6248 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6248 | Văn hóa Việt Nam | Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
Văn hoá Việt Nam mang tính đa dạng cao. Dù vị trí địa lý nằm ở Đông Nam Á, văn hoá Việt Nam đôi khi được coi là một phần của vùng văn hoá Đông Á (cùng Trung Quốc, Đài Loan, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản) bởi nhiều sự tương đồng.
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn hóa tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi nhìn nhận từ bên ngoài bao gồm tôn kính tổ tiên, tôn trọng các giá trị cộng đồng và gia đình, thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù và hiếu học. Phương Tây cũng cho rằng những biểu tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.
Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa là Làng (thôn) và Nước (quốc gia). Tục ngữ Việt Nam có câu "Làng đi đôi với nước". Các đơn vị tổ chức trung gian là Huyện và Tỉnh.
Quan hệ họ hàng đóng một vai trò rất lớn ở Việt Nam. Không giống như sự nhấn mạnh cá nhân của văn hóa phương Tây, văn hóa Phương Đông đánh giá cao vai trò của gia đình và tinh chất gia tộc. Trong văn hóa phương Đông (đặc biệt là vùng Văn hóa chữ Hán), văn hóa Trung Quốc coi trọng giá trị gia đình hơn gia tộc, trong khi ở văn hóa Việt Nam đặt gia tộc cao hơn gia đình. Gia tộc luôn có một tộc trưởng, bàn thờ gia tộc (nhà thờ họ), và đám tang người Việt luôn có sự tham gia của cả gia tộc.
Trước đây hầu hết các cư dân ở một địa phương có quan hệ huyết thống. Điều đó thực tế vẫn còn thấy trong tên làng như Đặng Xá (nơi có người họ Đặng là chủ yếu), Châu Xá, Lê Xá... Ở vùng Tây Nguyên truyền thống nhiều gia đình trong một gia tộc cư trú trong một nhà dài vẫn còn phổ biến. Ở nông thôn Việt Nam ngày nay, ta vẫn có thể thấy ba hay bốn thế hệ sống dưới một mái nhà.
Bởi vì mối quan hệ họ hàng có vai trò quan trọng trong xã hội, nên tồn tại một hệ thống phân cấp phức tạp các mối quan hệ. Trong xã hội Việt Nam, có chín thế hệ khác nhau. Người trẻ tuổi có thể có một vị trí cao hơn trong hệ thống phân cấp của gia đình hơn và vẫn phải được tôn trọng như một người lớn tuổi. Ví dụ, nếu cha mẹ, của một đứa trẻ lớn tuổi, có một người anh/chị lớn tuổi nhưng có con trẻ tuổi hơn so với con mình, thì con họ sẽ ở vị trí thấp hơn trong gia đình. Nói cách khác, bạn phải đối xử với người anh em họ trẻ tuổi của bạn như một người lớn tuổi, nếu cha của bạn là em trai của bố người anh em họ đó.
Hệ thống phức tạp của các mối quan hệ, là kết quả của cả Nho giáo và các chuẩn mực xã hội được chuyển tải thông qua việc sử dụng rộng rãi của các đại từ khác nhau trong tiếng Việt, trong đó có một mảng rộng lớn của sự kính trọng để biểu thị trạng thái của người nói liên quan đến những người mà họ đang nói chuyện đến. Xưng hô trong tiếng Việt đã trở thành đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh. Các dân tộc thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu chúng ta biết nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam cổ nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa...những vị thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng ngày họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công, Thần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome...
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một hình thức thông báo với tổ tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo (được gọi là "Tam giáo"). Có một số tôn giáo khác như Công giáo Rôma, Cao Đài và Hòa Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác gồm Phật giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người không có tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến các địa điểm tôn giáo vài lần trong một năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung của người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo. Và đến lượt mình, các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng tạo, hay nói cách khác các tôn giáo mới du nhập đã được bản địa hoá để phù hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người dân địa phương
Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo, từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines
Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên...ước tính hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây Ninh vào thế kỷ 19
Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ở miền Trung và Tây Nguyên và miền Bắc.
Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ:
Tiếng Việt thuộc về nhóm Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam
Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Trong quá trình phát triển Tiếng Việt đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán và được gọi là từ Hán-Việt, ngoài ra tiếng Việt còn tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay
Về chữ viết, theo một số nghiên cứu khảo cổ, từ thời Hùng Vương người Việt đã có chữ viết riêng gọi là "chữ Khoa Đẩu" mà người Trung Quốc miêu tả là giống đàn nòng nọc đang bơi. Tới thời Bắc thuộc, người Việt dùng chữ Hán làm chữ viết chính cho tiếng Việt ở Việt Nam. Sau khi giành độc lập từ thế kỷ 10, với ý thức dân tộc cũng như các từ vựng không có trong chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dùng song hành với chữ Hán. chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ 12 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 18. Tuy nhiên chữ Nôm chỉ được dùng trong lĩnh vực văn chương, còn trong hành chính thì vẫn dùng chữ Hán.
Từ thế kỷ 17, khi các nhà truyền giáo phương Tây vào Việt Nam truyền đạo Công giáo đã dựa trên bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý để phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latinh và đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Mặc dù chữ Quốc ngữ đã có từ thế kỷ 17 nhưng phải tới đầu thế kỷ 20 khi thực dân Pháp đô hộ hoàn toàn Việt Nam thì chữ Quốc ngữ mới được người Pháp bảo hộ để có thể phổ biến để thành một công cụ giao tiếp thuận lợi trong xã hội Việt Nam cùng tiếng Pháp cũng dùng chữ Latinh. Tuy Chữ Nôm và chữ Hán không còn sử dụng phổ biến, hiện nay vẫn có một lượng không nhỏ người Việt học chữ Hán và chữ Nôm và dùng nó trong tiếng Việt, để vừa biểu nghĩa (tránh đồng âm khác nghĩa), dùng trong các hoạt động liên quan tới văn hóa truyền thống như viết thư pháp, vừa có thể đọc được các văn bản cổ xưa hay các câu chữ ở các di tích lịch sử, là cơ sở để tìm hiểu thêm về văn hóa truyền thống xa xưa.
Ngoài chữ Quốc ngữ là chữ viết phổ thông cho người dân ở Việt Nam hiện nay, một số dân tộc khác cũng sử dụng song hành chữ viết của dân tộc mình như chữ Khmer của người Khmer ở Nam Bộ, chữ Akhar Thrah của người Chăm, chữ Thái của người Thái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người Mnông ở Tây Nguyên...nhằm gìn giữ văn hoá của dân tộc mình cũng như tiếp nhận các tri thức mới từ chữ quốc ngữ dịch sang. Theo thống kê hiện nay có 26 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình ngoài chữ Quốc ngữ.
Theo nghĩa Hán-Việt, "Phong" (風) là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và "Tục" (俗) là thói quen lâu đời. Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Tuy có những phong tục mất đi nhưng cũng có những phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người Việt Nam
Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương trải qua hàng nghìn năm người Việt cùng một số dân tộc khác vẫn giữ được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu bắt nguồn từ truyện "sự tích Trầu Cau" để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng của người Việt, theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người Việt Nam
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân tộc khác. Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người Chăm Bàlamôm...Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Hàn thực, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh minh
Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục hôn nhân, sinh đẻ, tang lễ, cũng đã song hành với người Việt Nam từ xa xưa và đến ngày nay vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam.
Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, không hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo.
Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam là sự trung dung trong cách pha trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị) để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả hoặc lá non; các gia vị lên men và các gia vị đặc trưng của các dân tộc nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển".
Số lượng món ăn và cách thức kết hợp thực phẩm trong món ăn Việt Nam là vô cùng đa dạng do có sự kết hợp Đông Tây, ẩm thực Trung Hoa và ẩm thực các nước Đông Nam Á, đặc biệt là sự sáng tạo của người Việt để bản địa hóa và tìm ra những phương thức thích hợp nhất. Có những món ăn không hề thay đổi trong hàng nghìn năm qua. (Danh sách các món ăn Việt Nam)
Năm 2015, CNN đã công bố Top 8 nền ẩm thực mới nổi có sức lan tỏa nhất thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên việc thịnh hành ẩm thực phương Tây nhất là ở các đô thị, trong một bộ phận dân chúng nhất là người giàu và sính ngoại đe dọa đến bản sắc ẩm thực Việt Nam, và cả nông sản Việt Nam.
Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, người ta có những quy định rất khắt khe về cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kì màu nào khác ngoài những màu đen, nâu hay trắng. Quần áo của người dân hầu hết là tầm thường và đơn sơ, để hợp với thân phận của mình trong xã hội (ngoài những dịp lễ quan trọng hoặc lễ cúng tế, đám cưới...).
Một trong những y phục cổ xưa nhất được người phụ nữ bình dân mặc cho đến đầu thế kỉ XX là bộ "Áo tứ thân". Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.Trong đời sống thường nhật ngày nay, trang phục đã theo phong cách phương tây. Những bộ quần áo truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt.
Ngoài ra, áo dài cho cả nam lẫn nữ được coi như quốc phục của Việt Nam.
Trước thời Bắc thuộc thì có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái, nhưng hình dạng thì không rõ. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo:
Ba loại áo này cùng có mặt nhưng khác nhau ở mức phổ biến trong dân gian tùy từng thời kỳ.
Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng người đàn bà có khi chỉ mặc yếm. Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo.
Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Quần thì có lẽ sau khi người Việt tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa mới có lệ mặc quần.
Cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam là một nước có nhiều lễ hội dân gian là hình thức sinh hoạt của cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa Xuân
Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn và long trọng như lễ tế các thần linh, các lễ hội nhằm tưởng nhớ tới công ơn tổ tiên, nòi giống như hội Đền Hùng, có những lễ hội tưởng nhớ tới các anh hùng như hội Đền Mẫu Đợi, hội Gióng, hội Đền Kiếp Bạc, hội Đống Đa, có những lễ hội tưởng nhớ người có công mở mang bờ cõi, các ông tổ các ngành nghề...của người Việt. Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội lớn như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội xuống Đồng của người Tày, người Nùng, Lễ hội hoa ban của người Thái, Hội đua voi của người Mnông..
Ngoài các lễ hội lớn và long trọng tại Việt Nam từ bắc đến nam còn có hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ khác nhau của các dân tộc Việt Nam. Các lễ hội ở Việt Nam rất đa dạng, những lễ hội về nông nghiệp, hội văn nghệ vui chơi, thi tài, hội giao duyên, hội lịch sử... Đặc biệt là hội mừng năm mới (Tết Nguyên Đán) của người Việt và một số dân tộc khác
Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ mang ý nghĩa nội bộ nhưng theo thời gian các lễ hội đó lan sang các tầng lớp xã hội khác và thành những lễ hội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của Phật giáo và lễ Noel của Công giáo.
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương và Phú Thọ.
Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng. Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là vùng văn hóa rất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui.
Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa Xuân và số ít vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội Việt Nam thì phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết các gia đình trên mọi miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên Đán, Lễ Vu Lan và tết Trung Thu. Gần đây một số lễ hội được nhà nước và nhân dân quan tâm như: Lễ hội đền Hùng,Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Giáng Sinh, Hội Phật Tích.
Một số lễ hội lớn ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hội Gióng (xứ Kinh Bắc), lễ hội đền Hùng (Xứ Đoài), Hội Lim (Kinh Bắc), Hội Phủ Dày (xứ Sơn Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An Giang), Lễ hội pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng...
Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay, có những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ thuật Việt Nam có nội hàm khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu) vốn thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ 20 trở về trước trên lãnh thổ Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả những môn phái mới sinh thành trong thời điểm hiện tại, và bao quát cả những võ phái đã phát triển trong suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam.
Các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ thuật Cổ Truyền" vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:
Nghệ thuật của một dân tộc là yếu tố đặc trưng nhất và tiếp cận nhanh nhất với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Nền nghệ thuật Việt Nam có từ hàng nghìn năm nay, bắt đầu từ nghệ thuật truyền thống hay còn gọi là nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận đó là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ.
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, để giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc, để bảo tồn những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam khi đại đa số người dân trong thời phong kiến không có điều kiện biết chữ Hán, một hình thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Việt Nam. Đó là những câu chuyện thần thoại như "Thần Trụ Trời" của người Việt, "Đi san mặt Đất" của người Lô Lô...những sử thi như "Đam San" của người E Đê, "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường...những truyền thuyết như "Sơn Tinh Thủy Tinh", "Thánh Gióng" của người Việt, những cổ tích như "Thạch Sanh"...và các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca dao... Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thủy vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau
Trong văn học viết, với chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm văn học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ 11 và chủ yếu liên quan đến đạo Phật khi đó đang thịnh hành tại Việt Nam. Đó là những bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật cũng như bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, từ thế kỷ 13 nhiều công trình về lịch sử, địa lý và địa chí bằng chữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ 13, nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm lần lượt xuất hiện, một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nôm còn để lại đến hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nôm có tên "Quốc âm thi tập" ở thế kỷ 15, và kế tiếp là "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Từ đầu thế kỷ 20, do sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp, chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn học mới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Các thay đổi trong đời sống văn học đã xuất hiện với sự ra đời của phong trào Thơ Mới vào những năm 1930, đây là một phong trào hiện đại nhằm giải phóng thơ Việt Nam ra khỏi những luật lệ gò bó của thơ Trung Quốc cổ. Trong lĩnh vực văn xuôi, các hoạt động của nhóm Tự Lực Văn Đoàn chịu ảnh hưởng từ phương Tây đã tạo ra thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những tác phẩm gắn liền với chính trị đó là dòng tác phẩm cách mạng
Bắt đầu sớm nhất với kiến trúc dân gian với những hoạ tiết về nhà cửa trên mặt trống đồng Đông Sơn vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên, trải qua thời bắc thuộc kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc, từ thế kỷ 10 khi giành được độc lập kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp giữa kiến trúc bản địa cùng với những ảnh hưởng từ Trung Quốc. Các công trình của Việt Nam quy mô thường không lớn, nhưng thường là sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh, đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sông ngòi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan. Từ cuối thế kỷ 19, với việc đô hộ của thực dân Pháp, kiến trúc Việt Nam bắt đầu áp dụng rộng rãi các khuông mẫu và thủ pháp kiến trúc, xây dựng của phương Tây, nhiều công trình còn tồn tại đến ngày nay ở các đô thị, đặc biệt là tại Hà Nội đã để lại một sắc thái kiến trúc đẹp và độc đáo
Điện ảnh là môn nghệ thuật xuất hiện muộn nhất tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn. Ban đầu là những thể loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930, cùng với sự ra đời của các môn âm nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt đầu được người Việt Nam thực hiện. Tiếp đó sau sự chia cắt đất nước, điện ảnh Việt Nam tại hai miền đều có những hướng phát triển riêng cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài là hai nền điện ảnh miền Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau những năm 1975 nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước thực hiện. Tới giai đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực điện ảnh đã tạo ra dòng phim mỳ ăn liền, dòng phim này thịnh hành trong những năm đầu của thập niêm 1990 và tự kết thúc vai trò của mình từ những năm 1995 nhường chỗ cho dòng phim đương đại Việt Nam.
Nền mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn của cư dân Lạc Việt, trải qua các thời kỳ cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên cạnh các công trình kiến trúc và điêu khắc của người Việt thì nền điêu khắc kiến trúc Việt Nam được bổ sung các kỹ thuật tinh xảo trong việc xây dựng các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ.
Hội họa xuất hiện muộn hơn với tranh lụa, tranh truyền thần, tranh thờ, tranh chân dung, tranh sơn mài, tranh khắc gỗ, hội họa cung đình và dòng tranh dân gian Việt Nam gồm tranh Tết, tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống. Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân dã, mỗi bức tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu tượng, siêu thực...mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.
Sự ra đời và phát triển của sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, múa rối nước là nghệ thuật dân gian của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu diễn trong dịp hội hè, những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội họa và văn học. Cùng với múa rối nước là các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet, opera...
Âm nhạc cổ truyền Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình...của người Việt và bên cạnh đó là âm nhạc dân gian của các dân tộc khác như hát lượn của người Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người Khmer...Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, nền âm nhạc hiện đại Việt Nam từ những năm 1930 được hình thành và phát triển đến ngày nay được gọi là tân nhạc Việt Nam với các dòng nhạc tiền chiến, nhạc đỏ, tình khúc 1954-1975, nhạc vàng, nhạc hải ngoại và nhạc trẻ. Tính đến tháng 12 năm 2013, 6 trong số các hình thức âm nhạc cổ truyền Việt Nam là dân ca quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế, hát xoan, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) và đờn ca tài tử được UNESCO vinh danh là kiệt tác di sản truyền khẩu văn hóa phi vật thể của nhân loại (ở Việt Nam cũng thường gọi là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới).
|
6249 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6249 | Tín ngưỡng dân gian Việt Nam | Tín ngưỡng dân gian Việt Nam hay còn gọi là tín ngưỡng truyền thống Việt Nam (đôi khi nó được gọi tắt là Đạo Lương, chữ Hán:道良), là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc và người địa phương sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên ("nhiên thần") đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia "đa tôn giáo, tín ngưỡng".
Tính đa thần này không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói đó là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức mỗi người Việt. Chính điều này dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người Việt đó là tính "hỗn dung tôn giáo". Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân.
Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự "bàng bạc" trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần đông trong số đó không là tín đồ thành kính của riêng một tôn giáo nào. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là "tính dụng". Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống.
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực ("phồn" nghĩa là "nhiều", "thực" nghĩa là "sinh sôi , nảy nở"). Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ (như linga, yoni) và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi.
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực:
Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên. Ngoài ra nó còn được đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày 6 tháng giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may.
Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở xã Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Công nguyên. Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc... cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình).
Vào dịp hội đền Hùng tại Chu Hóa, Phú Thọ, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống "tùng" thì họ lại "dí" hai vật đó lại với nhau. Phong tục "giã cối đón dâu" cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên. Người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ cũng có tục đâm đuống hay giã gạo. Chày và cối tượng trưng cho vật giống nam và nữ. Quan niệm về sự sinh sôi, nảy nở, hưng thịnh của mọi vật được thể hiện qua hai công cụ là Đuống và Chày, hai vật biểu trưng cho âm và dương, sự hài hòa của trời đất.
Do là một đất nước nông nghiệp nên việc sùng bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng tình cảm, trọng nữ giới). Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ở trên nên các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu. (Xem thêm Đạo Mẫu).
Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian việc thờ cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, và trong các tín ngưỡng dân gian đó phải kể đến Tín ngưỡng thờ động vật hay còn gọi là "tục thờ thú". Người Việt Nam là dân tộc đa dạng trong việc thờ các vị thần có nguồn gốc từ động vật, họ thờ những con vật mạnh mẽ như thờ hổ, cá voi, thờ ngựa, thờ rắn, thì người Việt còn thờ các con vật hiền cóc, chó, cá, hạc, dơi, các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống ""Rồng Tiên"". Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hạ Long, sông Hoàng Long, cầu Hàm Rồng.
Thứ cây cối được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa... đôi khi còn thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau. Các câu chuyện về ma cây cũng khá phổ biến, nhất là chuyện hồn ma quanh quẩn bên gốc cây chỗ người chết, trong truyền thuyết có cây Chiên Đàn gắn với thần hổ Xương Cuồng. Một số dân tộc còn có tập tục thờ hòn đá (hòn đá vía) nhưng nó cũng dẫn đến những biểu hiện mê tín
Ngoài phồn thực và tự nhiên, tín ngưỡng Việt Nam rất coi trọng con người. Họ cũng hay thờ con người, đặc biệt là thờ sống và phong thánh, chẳng hạn như người ta phong Trần Hưng Đạo là Đức Thánh Trần, Nguyễn Minh Không là Đức Thánh Nguyễn, Từ Đạo Hạnh là Đức Thánh Láng, hay thờ những người được mến trọng như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp...
Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm "hồn" và "vía". Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên có cách giải thích khác (xem thêm chín vía). Người Việt thường có câu nói nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra.
Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: "hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây". Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.
Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo ông bà.
Người phương tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn—khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất—theo họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời - Đất - Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc.
Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc thánh sư). Tổ nghề chỉ là những con người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau. Các vị tổ nghề tiêu biểu như: Phạm Thị Trân là tổ nghề hát chèo, Nguyễn Thị Sen là tổ nghề may áo dài, Nguyễn Minh Không tổ nghề đúc đồng, Mạc Thị Giai là bà tổ bếp Phương Nam...
Ở phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có Thành hoàng. Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó. Tuy nhiên một số làng còn thờ những người lý lịch không rõ ràng gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp... nhưng họ chết vào ""giờ thiêng"" (Giờ xấu theo mê tín dị đoan).
Ở phạm vi quốc gia, người Việt thờ Vua tổ, đó là Vua Hùng. Nơi thờ phụng ở Phong Châu, Phú Thọ. Ngày giỗ tổ là ngày 10 tháng 3 âm lịch. Ngày 6 tháng 12 năm 2012, Tổ chức văn hóa giáo dục Liên Hợp Quốc đã ra quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh. Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất; Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.
Ngoài ra, tại Việt Nam có rất nhiều đền thờ các vị danh nhân như vua Đinh Tiên Hoàng, Tô Hiến Thành, Trần Hưng Đạo (Tín ngưỡng Đức Thánh Trần)...
Thờ các thần mang nguồn gốc từ Trung Hoa như Thổ Địa, Thần Tài, Táo Quân, Hà Bá, Môn Quan, Phúc Lộc Thọ...
Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh: Mẹ Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Mẹ Nước (hay Mẫu Thoải), Mẹ Rừng (hay Mẫu Thượng Ngàn). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẹ Đất (hay Mẫu Địa) thường được coi đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1 tháng 12 năm 2016, tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “"Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt"” chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa. Tứ pháp gồm:
|
6250 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6250 | Tín ngưỡng | Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Niềm tin này gắn với sự siêu nhiên nhưng chỉ lưu truyền trong một vùng lãnh thổ hoặc trong một cộng đồng dân chúng nhất định. Có thể coi tín ngưỡng là dạng thấp hơn của tôn giáo.
Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian. Tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo.
Cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái "siêu nhiên" hay gọi là "cái thiêng" cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...
Tùy theo hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà niềm tin vào "cái thiêng" thể hiện ra các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn như niềm tin vào Đức Chúa Trời, của Kitô giáo, niềm tin vào Đức Phật của Phật giáo, niềm tin vào Thánh, Thần của tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng Thành Hoàng, Đạo Mẫu... Các hình thức tôn giáo tín ngưỡng này dù rộng hẹp khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi dân tộc... thì cũng đều là một thực thể biểu hiện niềm tin vào cái thiêng chung của con người.
Hiện tại, có nhiều ý kiến khác nhau khi sử dụng khái niệm tôn giáo và tín ngưỡng. Theo quan điểm truyền thống, người ta có ý thức phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan điểm thứ hai là đồng nhất giữa tôn giáo và tín ngưỡng và đều gọi chung là tôn giáo, tuy có phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa phương, tôn giáo thế giới (phổ quát).
Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện ở một số điểm như: Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển... được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh đường, học viện... có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa, thánh thất..., nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần linh và con người. Còn tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ...
|
6252 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6252 | Tín ngưỡng dân gian | Tín ngưỡng dân gian là tập hợp những niềm tin hình thành và phản ánh ước nguyện của một cộng đồng người có thể nhưng không nhất thiết tuân theo một hệ thống tôn giáo nhất định.
|
6254 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6254 | Tam phủ | Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng Việt Nam gồm: "Mẫu Thượng Thiên", "Mẫu Thượng Ngàn" và "Mẫu Thoải", cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.
Thượng thiên thánh mẫu là vị thánh cai quản cõi trời, trước hết là đại diện cho nguồn sinh lực vô biên, cốt lõi của sự sống và mọi nguồn hạnh phúc. Qua Bà mà người ta mong mọi việc của bầu trời được diễn ra theo quy luật hiền hòa…
Bà còn được biết đến là Mẫu Liễu Hạnh của Tứ bất Tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Thượng Ngàn Thánh Mẫu là Thánh mẫu thế gian gắn với người Việt từ thời nguyên thủy. Trước đây, bà không chỉ có mặt ở rừng núi mà còn có mặt ở khắp mọi miền theo cơ cấu của làng xóm cổ truyền (rừng Sinh Dược - Bái Đính - Ninh Bình; rừng Báng – Đình Bảng – Bắc Ninh; rừng Sặt – Hải Dương; rừng Liên Bạt - Ứng Hòa – Hà Nội,…). Rừng là nơi chứa đựng những của cải tiềm ẩn, nuôi sống con người khi giáp hạt mất mùa; nơi để kiếm chất đốt và nam nữ tình tự; đặc biệt là nơi chôn người chết. Vì thế trong tư duy của người Việt, bà mẹ rừng tối linh tối thiện đã nâng đỡ các kiếp đời người đã qua, để những người có tâm lành tái sinh được thành Cô và Cậu (trong hệ thống điện thờ mẫu thì phần lớn các Cô, Cậu được đặt ở ban thờ này).
Mẫu Thoải (Thủy) hay Bà Chúa Lạch là vị thần sáng tạo ra mọi miền của nước, biển, sông, suối, đầm, hồ. Bà được người nông dân Việt hết sức kính trọng, hệ thống thờ Bà và các thần linh liên quan có mặt hầu như ở khắp mọi nơi, như một sự đảm bảo cho nguồn nước nông nghiệp luôn được đầy đủ, và sau này Bà còn mang chức năng gần giống với Quan Âm Nam Hải trong tư cách vị thần gắn với thương mại và chài lưới.
|
6255 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6255 | Tứ pháp | Tứ Pháp (Chữ Hán: 四法) là các vị Phật - Bồ Tát có nguồn gốc từ các nữ thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam gồm: Mây - Mưa - Sấm - Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Các vị Tứ Pháp vừa là Phật, vừa là Bồ Tát, vừa là Thần, lại mang nữ tính. Vì vậy, tín ngưỡng Tứ pháp là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian qua câu chuyện nhà sư Ấn Độ và cô gái Man Nương. Những nữ thần nông nghiệp của người Việt cổ đã được Phật giáo hoá trở thành những vị Phật Bà, hay việc thờ các vị thần tự nhiên trong dân gian đã trở thành những vị thần Tứ Pháp để cầu mong mưa thuận gió hoà, sự sinh sôi nẩy nở của vạn vật.
Nền nông nghiệp Việt Nam cổ xưa được thể hiện qua câu tục ngữ: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Như vậy nước là yếu tố quan trọng hàng đầu trong một nền nông nghiệp thuộc văn minh lúa nước. Nguồn nước chính phục vụ nông nghiệp vẫn đến từ mưa ("Trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm"), muốn có mưa thì phải có mây, trước khi có mưa thì phải có sấm chớp. Vì thế những vị thần tự nhiên của người Việt bản địa là thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp như một nhu cầu tự nhiên của cư dân nông nghiệp Việt cổ.
Bốn vị Tứ pháp chính gồm:
Những vị thần tự nhiên này đã dung hòa với giáo lý đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ để tạo thành các nhân vật tín ngưỡng đặc biệt, vừa là Phật vừa là Thần. Điều này thể hiện trước nhất ở tên gọi có chữ Pháp đứng trước hiện tượng tự nhiên (Vân, Vũ, Lôi, Điện) cho thấy các vị thần đã thuộc về Phật giáo.
Trong bốn vị Tứ Pháp thì Pháp Vân và Pháp Vũ là hai vị được thờ cúng rộng rãi nhất. Thông thường Pháp Vân được coi là chị cả, là vị Phật "lãnh tụ", đại diện cho cả Tứ Pháp.
Ngoài những ý tưởng xây nên học thuyết và giáo lý, tín ngưỡng Tứ Pháp có cả một hệ thống kiến trúc minh họa cho lý thuyết trên. Quần thể các chùa được xây ở khoảng cách địa lý gần nhau, cùng thờ một hoặc nhiều vị Tứ pháp hiện chỉ tồn tại trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ, gọi là hệ thống chùa Tứ Pháp.
Truyện Man Nương là tác phẩm văn học được xây dựng từ văn học dân gian truyền khẩu kể về Man Nương hay chính là kể về sự tích hình thành "Tứ Pháp". Hiện nay có một số văn bản cổ ghi lại "truyện Man Nương" bao gồm:
Dù có khác biệt về tiểu tiết, tên gọi trong các tác phẩm, hay khác nhau giữa chính các bản chép của cùng một tác phẩm thì nội dung chính của "Truyện Man Nương" là tương đối giống nhau và có thể được tóm tắt như sau:
"Dưới thời Sĩ Nhiếp, có một vị sư từ Ấn Độ là Khâu Đà La đến truyền đạo tại Luy Lâu. Có người con gái tên là A Man (Man Nương) theo học Phật pháp, phụ giúp các việc tại chùa. Một ngày nọ Man Nương ngủ quên trước cổng chùa, sư Khâu Đà La đi về không nỡ đánh thức bèn bước qua người. Sau đó Man Nương bỗng dưng có thai. Man Nương xấu hổ bỏ đi, rồi sinh ra được một bé gái liền bế đến trả sư. Sư Khâu Đà La khấn xin với cây rừng thì có một cây dung mở thân gỗ ra, sư đặt đứa bé vào trong, cây khép lại. Trước khi từ biệt, sư đưa cho Man Nương một cây trượng, dặn khi nào hạn hán thì cắm xuống đất. Đến năm đại hạn, Man Nương cắm gậy xuống đất thì có nước chảy ra, dân được nhờ ơn. Một năm mưa to gió lớn, cây dung thụ bị đổ trôi theo sông Dâu về đến thành Luy Lâu thì mắc lại ven bờ. Bao nhiêu người kéo lên cũng không được. Sĩ Nhiếp (hoặc Man Nương) đến làm lễ cho kéo cây dung lên bờ và chia làm bốn phần, tạc thành bốn pho tượng Phật. Khi cắt bên trong cây thì chỗ đặt đứa bé ngày xưa đã trở thành một khối đá. Bốn pho tượng gọi là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện chia cho bốn chùa để thờ, cầu mưa rất linh ứng. Người ta gọi Man Nương là "Phật Mẫu" (mẹ của Phật). Ngày Man Nương mất, dân địa phương lấy làm ngày lễ, hằng năm cúng tế, mở hội.
Cây "dung thụ" (nguyên văn: 蓉樹) nhắc đến trong các văn bản nhằm chỉ một loài cây Si (chữ Hán:榕 - dung), thân gỗ thuộc Chi Sung, Họ Dâu tằm nên còn được dịch là cây (gỗ) Dâu, không phải cây (hoa) Phù dung (芙蓉) như nhiều bản dịch vẫn dịch nhầm chữ "dung" (蓉). Cái tên cây gỗ Dâu này gắn liền với vùng Dâu - Luy Lâu và tên của chùa Dâu.
Chuyện Man nương và Tứ Pháp vùng Dâu là câu chuyện cổ về Phật giáo thời kỳ đầu du nhập vào Việt Nam. Câu chuyện mang đậm chất thần bí của thể loại thần thoại Việt Nam với màu sắc tín ngưỡng dân gian nhưng lồng trong đó là những yếu tố Phật giáo rõ nét.
Phật giáo quan niệm "chư Pháp do duyên sinh" tức các khái niệm, sự vật như sông, núi, thần, mây, ý tưởng... là các pháp vốn do nhiều nhân duyên tạo thành dựa trên nền tảng chung của các pháp là Tính Không (đại diện bởi hình ảnh hòn đá Thạch Quang Phật). Các vị Phật, Bồ Tát muốn tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh có thể hóa ra cả các vị thần, trời, vua... để giúp đỡ họ. Xuất phát từ triết lý Phật giáo nên sau khi các vị thần bản địa được dung nạp vào hệ thống thờ tự của đạo Phật đã được gọi là Tứ Pháp chứ không còn là "Tứ Thần" nữa. Tên gọi của bốn ngôi chùa đầu tiên gắn liền với Tứ Pháp: Thiền Định - Thành Đạo - Phi Tướng - Trí Quả, là ẩn dụ cho các giai đoạn tu tập Phật giáo chứ không phải tín ngưỡng thần linh.
Tuy cai quản các vấn đề tự nhiên như: Vân - Vũ - Lôi - Điện (mây, mưa, sấm, chớp) nhưng khái niệm Tứ Pháp khác với các Thần trong tín ngưỡng dân gian ở chỗ: nếu chư thần là cái gì đó thuộc vê tự nhiên có quyền năng ban phúc giáng họa thì Tứ Pháp là do Phật, Bồ Tát vì tâm đại bi hóa hiện ra để thỏa mãn các mong cầu của chúng sinh, tức Tứ Pháp cũng là giả danh mà bản thể căn bản là Từ Bi, Trí tuệ. Tóm lại Tứ Pháp là sự "Phương Tiện" biến hóa các Bồ Tát ra các Vị cai quản các hiện tượng tự nhiên để nhân dân cầu mưa, cầu mát chứ không phải các thần tự nhiên thâm nhập vào Phật giáo, tuy hình thức có điểm chung nhưng ý nghĩa lại khác xa nhau..
Tuy nhiên nếu xét về tổng thể các câu chuyện Phật giáo đặc biệt là Mật Tông (yếu tố nổi bật của dòng Tỳ Ni Đa lưu chi lấy chùa Dâu làm tổ đình) thì những câu chuyện lạ lùng như thế diễn ra quá nhiều, như tập chuyện 84 đại thành tựu giả Ấn Độ, Các vị chân sư Đại Thủ Ấn... thì chuyện Khâu Đà La, Man nương đất Dâu không có gì là đặc biệt. Câu chuyện chùa Dâu chỉ khó hiểu và ít liên quan Phật giáo khi người ta không hiểu được ý nghĩa ẩn dụ sâu xa trong nó, Phật giáo có vũ trụ quan sâu sắc và toàn diện ở đó,"Vạn Pháp " tức tất cả sự vật, hiện tượng, khái niệm đều là đối tượng của Phật giáo nên không có gì nằm ngoài. Sự thịnh hành của các tông Phái Mật Tông ở Việt Nam cũng gần như chấm dứt sau thời Trần, nên câu chuyện đậm màu Mật giáo này rơi vào khó hiểu thậm chí bị coi là nằm ngoài giáo lý Phật cũng là dễ hiểu.
Tất cả các câu chuyện Phật giáo dù ở 3 thừa; Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim cang thừa đều chỉ về con đường tu hành, lý nhân quả, cách mà Phật và các đạo sư chỉ cho đệ tử và người đọc thấy được cái "TÂM " của chúng ta nằm ở đâu, là cái gì và khi nhận ra nó thì nương theo nó mà tu hành. Với cốt lõi này chúng ta se thấy sự viên thông giữa các câu chuyện tưởng chừng xa lạ, đối lập nhau vẫn hòa chung vào nhau vì chúng là một phần của đời sống, nơi là "vạn pháp duy tâm tạo". ở nơi đây tất cả các chuyện về Thiền tông trung hoa, Zen nhật bản, Thiền uyển tập anh của Việt Nam hay 84 Đại Thành Tựu ấn độ (các vị chân sư đại thủ ấn), Chuyện về chư đạo sư Tây Tạng... tất cả đều một mùi giải thoát, sự giống nhau vượt lên tất cả các yếu tố bên ngoài tưởng chừng chống trái.
Đây là 1 câu chuyện tuy nội dung thần bí, ẩn dụ sâu xa nhưng tên gọi các nhân vật, địa danh đều toát lên yếu tố Phật giáo.
- Phật giáo dù ở thừa nào (Nguyên Thủy, Đại thừa, Mật Tông) hay quốc gia nào (Ấn Độ, Tây tạng, Trung quốc, Việt nam, thái lan...) đều chung nhau 3 yếu tốt cốt lõi được gọi là Tam Vô Lậu học là Giới - Định - Tuệ, đó là cách nhìn nhận cơ bản nhất về Phật giáo mà không có tôn giáo nào có điểm này. Người theo đạo Phật sẽ quy y với Phật xin thọ Giới (nhưng điều không được làm và được làm) rồi lựa chọn Pháp môn (thiền, niệm phật...) để đạt được Định, rồi từ Định sẽ sinh ra Tuệ tức trí huệ, dẹp hết vô minh gốc rễ của sự luân hồi.
Chính câu chuyện man nương ngay đầu tiền cũng có bộ ba Giới - Định - Tuệ này. Định thì dễ nhận ra nhất chính là cư sĩ TU ĐỊNH, cha Man nương. Khâu Đà La là một vị đại sư chính là người có khả năng truyền giới cho đệ tử, cha man nương muốn làm đệ tử Phật bắt buộc phải thọ giới, đó là điều tiên quyết không thể không. Man Nương thì man có nghĩa là ngu si (vô minh), sau này đăc đạo được gọi là Phật Mẫu Man nương tức vô minh đã được chuyển thành Trí Tuệ (Phật mẫu) điều mà Đạo Phật hướng đến. Vậy chúng ta có bộ ba TAM VÔ LẬU HỌC:
GIỚI sinh ra ĐỊNH, ĐỊNH sinh ra TUỆ
Khâu đà la (giới sư) là Thầy cư sĩ Tu Định (Giới sinh ra Định), TU ĐỊNH là cha Phật Mẫu Man nương (Định sinh ra Tuệ).
- Ba vô lậu học cốt tủy đã có, vậy cái TÂM được ẩn dụ tên ai ? Tâm là chủ đề tìm kiếm của đạo Phật, Chân Tâm chính là Phật, chúng ta các chúng sinh bình phàm như con người, động vật ở nơi cái Tâm chưa tìm thấy ấy lại giống hệt đức Thích Ca Mâu Ni, chỉ có điều Phật đã nhận ra chân tâm, còn chúng ta tuy có mà chưa nhận ra giống như "xa tận chân trời gần ngay trước mắt". Ở đây chân tâm chính là Thạch Quang Vương Phật chính là cái cốt yếu tạo nên sự linh thiêng của 4 pho Tứ Pháp.
Thạch Quang Vương Phật là một cách gọi ẩn dụ của chân tâm như bao nhiêu cụm từ khác trong Phật giáo như: Tự tính Kim Cang, Chân Tâm, Bản Tính, Kim Quang Minh Tự Tính, Chân Kim sắc thân, Phật...
Danh từ chỉ gọi khác nhau nhưng tính chất thì giống nhau mô tả về tâm là Rắn chắc, bất hoại, không thể chia tách... Ấn Độ dùng KIm cương làm ẩn dụ về sự rắn chắc bất hoại (thật ra kim cương vẫn bị kim cương cắt nhưng nó gần nhất với hình ảnh rắn chắc). Còn ở Việt Nam thì dùng chữ" Thạch " đá, trong văn hóa Việt Nam nôm na coi sắt và đá là 2 thứ biểu hiện cho sự rắn chắc, bền vững, giống như câu chuyện dân gian Việt nam về mặt dày do râu cứng không thể xuyên qua, khi hỏi ở đời có gì rắn chắc nhất, người đàn ông nói ngay là Sắt với Đá chứ còn gì nữa. Thạch Quang và Kim cương Tự tính là cách mà người ta nói về chân tâm rắn chắc.
Chữ Quang trong chữ Thạch Quang Vương Phật cũng là 1 chữ nổi tiếng hay xuất hiện trong Phật giáo như tên nhà sư Phật Quang thời Chử Đồng Tử. chữ quang này cũng xuất hiện trong tên các Phật bồ tát như: Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát,Bảo Quang Như Lai...các tên kinh và cụm từ: Kim Quang Minh, Phật Quang Phổ Chiếu, Quang Minh Tự Tính, Hào Quang, Trí Tuệ Quang...
Tại sao chữ Quang lại phổ biến, vì chữ Quang trong Phật giáo không phải đơn thuần là ánh sáng như ánh sáng của mặt trời mặt trăng... mà nó nêu biểu sự "sáng suốt rõ ràng " nêu biểu của Trí Tuệ sáng suốt thứ mà Phật giáo muốn chúng sinh đạt đến.
Chữ Vương ở đây cũng là chữ phổ biến, Vương này chỉ vua nhưng Phật giáo ám chỉ sự "Tối thắng " vượt lên trên tất cả, các cụm từ Phật giáo như; Đại Y Vương, Dược Vương Bồ tát, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Kim quang minh tối thắng vương kinh...
Như vật ngay tên gọi Thạch Quang Vương Phật đã toát lên yếu tố mô tả về chân tâm bền chắc, sáng suốt mà chúng sinh bị tham sân si che mờ, tâm này ai trong chúng sinh đều có, tu Phật vốn để nhận rõ nó, và trong chuyện là Man nương, người được chỉ cách nhận ra nó.
- Tên bốn ngôi chùa Tứ Pháp thì quá rõ ràng đó là các cụm từ Phật giáo được sắp xếp theo trình tự như một thứ bản đồ hướng dẫn người tư tập:
Thiền Định Tự - Thành Đạo Tự - Phi Tướng Tự - Trí Quả Tự.
Từ nơi phương tiện tu tập là Thiền Định, hành giả nhận ra được con đường đi đến Đạo giác ngộ, rồi nhận ra Phi Tướng, Tướng không, hữu tướng bản thế, tính không... rồi đạt được Trí quả, quả vị trí huệ tối thắng. Không có bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng nào có các khái niệm, danh tự này giống Phật giáo.
- Còn tên Pháp Vân, Pháp Vũ,2 vị đứng đầu và quan trọng nhất của Tứ Pháp, ngự ở chùa chính cũng là tên địa thứ 10 của hàng Bồ Tát có tên là Pháp Vân Địa,Pháp Vân địa (zh. 法雲地, sa. "dharmameghā bhūmi") (hay Pháp Vũ địa): Bồ Tát đạt Nhất thiết trí (sa. "sarvajñatā"), đại hạnh. Pháp thân của Bồ tát đã đạt tới mức viên mãn. Bồ Tát ngự trên toà sen với vô số Bồ Tát chung quanh trong cung trời Đâu-suất. Phật quả của Bồ Tát đã được chư Phật ấn chứng. Những Bồ Tát đạt cấp này là Di-lặc (sa. "maitreya"), Quán Thế Âm (sa. "avalokiteśvara") và Văn-thù-sư-lợi (sa. "mañjuśrī").
- Chữ 'Pháp" hay dùng cho bốn vị được coi chủ quản Mây, mưa, sấm, chớp cũng không giống cách người ta gọi các thần mây mưa sấm chớp. Mà tên gọi này xuất phát từ khái niệm các Pháp (tất cả sự vật hiện tượng, khái niệm kể cả mây mưa sấm, sét đều gọi là các Pháp)
"Chư Pháp do duyên sinh, Pháp Diệt nhân duyên diệt, thị chư pháp nhân duyên Phật Đại sa môn thuyết"
"Vạn pháp nhất thiết duy tâm tạo"
Khái niệm các Pháp do tâm tạo và dùng chữ Pháp để gọi chung các khái niệm, sự vật... là điều chỉ Phật giáo mới có.
Và nếu trùng trùng các ngôn tự Phật giáo như vậy thì có đúng chuyện Man nương chùa Dâu là truyền thuyết nôm na kiểu dân gian về các thần tự nhiên được Phật giáo thu nạp hay không?, chắc chắn là không. Phật giáo lan tỏa ra vô số vùng miền và có chấp nhận một số thần thánh địa phương làm hộ pháp,(họ cũng như các Phật tử ở cảnh giới thần thánh nhưng quy y giúp đỡ Phật như các vua chúa, người thế lực bảo trợ Phật giáo) Nhưng giáo lý Phật thì ở đâu cũng không thay đổi.
Câu chuyện Man nương cũng vậy, quanh quẩn cũng là người Thầy giúp đệ tử nhận ra cái tâm và người đệ tử ý đó là tu hành để "Minh Tâm Kiến Tính " trở nên dần toàn thiện và thành Bồ Tát Phật rồi cứu giúp chúng sinh thoát khổ tương đối và tuyệt đối, giúp chúng sinh cũng đạt giác ngộ hoặc thỏa mãn nhưng mong cầu thế tục để bớt khổ, dễ tu như cầu tài, cầu mưa, cầu mát, cầu con cái, sức khỏe...
- Khâu Đà La cao tăng sang Việt nam truyền pháp, rồi bước qua người Man nương: đây là cách truyền pháp kiểu lạ lùng chỉ có thầy và trò biết, giống Tâm truyền tâm của thiền tông, rồi có thể đánh đập... một số cũng có ẩn dụ trong hoạt động tính dục như ở các chuyện Mật tông ấn độ(dĩ nhiên các hoạt động thực sư là thanh tịnh vô nhiễm) nhưng suy cho cùng đó là pháp khó hiểu mà chỉ thầy và trò biết, nói dễ hiểu sẽ giống chuyện Tu bồ đề đánh vào Tôn Ngộ Không ba cái rồi khoát tay bỏ đi, Tôn hiểu rằng canh ba đến phòng thầy.
- Man nương tự động mang thai: ám chỉ sau khi thọ pháp thì âm thầm tu hành, thai nhi trong bụng cũng như Phật Tính dần dần tăng trưởng rồi hiển lộ...(chùa Thiền Định - Chùa Dâu)
- Man nương sinh con rồi đem trả Thầy: đây là lúc hành giả đạt Chứng Ngộ và đem trình lên thầy ấn chứng, đây là điều bắt buộc với các Thiền sư, người tu phải được ấn chứng mới có thể biết được mình đạt Đạo hay chưa (Thành Đạo Tự- chùa Đậu)
- Khâu đà la đem đứa con bỏ vào Cây dung thụ: chỉ cho biết tâm không chỉ ở trong người mà còn tất cả vạn pháp cũng do tâm tạo, các pháp như cây cỏ... vốn toàn là Tánh Không (Phi tướng tự - chùa Tướng)
- Khi thấy vạn pháp do tâm tạo thì sẽ tự tại, biến hóa vô lượng (Ngộ Không, ngộ ra Tánh không thì có thần thông quảng đại), có Trí huệ thì có thể làm được vô số điều mà người đời gọi là thần diệu, chuyện làm mưa, gió... cũng chỉ là một phần trong số đó.(Trí Quả Tự - chùa Dàn).
- Hình ảnh cây dung thụ đổ: cũng là lúc đạt trí tuệ thì gốc rễ vô minh, tham sân si bị đánh bật, gốc rễ luân hồi bị đánh bật...
- Cây dung thụ ban đầu chỉ là cây bình thường sau mang em bé của Khâu đà la mới tạc thành tượng Tứ Pháp linh thiêng và Thạch Quang Phật cũng không rời Tứ Pháp cho thấy đạo lý: tất cả do Tâm tạo, linh thiêng hay không linh thiêng vốn do Tâm (đá Thạch Quang) tạo nên, các vị chủ quản Mây mưa sấm sét cũng do Tâm tạo nên, tin là thiêng thì thiêng.
Tứ Pháp chùa Dâu vốn được cho là có quyền năng tạo ra mây mưa, sấm sét cho dân được mùa no đủ, điều này có phải giống với thần dân gian không? thực tế trong Phật giáo cũng có các vị tu hành có nhiều công đức trí tuệ, hạnh nguyện sâu xa có thể hóa ra các vị thỏa mãn sự mong cầu cho chúng sinh, các vị đó gọi là các vị Bồ Tát, họ có thể cho chúng sinh nưong tựa cầu tai quan nạn khỏi, hết bệnh, cầu tiền, cầu con, cầu mưa, cầu tạnh...
Nhưng họ vẫn khác thần thánh thế tục ở chỗ họ làm các phương tiện thỏa mãn cho chúng sinh để chúng sinh nhất thời thoát lo âu để nếu đủ duyên sẽ dễ tiến tu đạo quả, cũng không vì khổ mà tạo nhiều điều ác.
Hai vị được thờ cúng rộng rãi và chính yếu để cầu mưa của tứ Pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ như đã nói là trùng tên với địa thứ 10 của hàng Bồ Tát.
Ngoài ra hình ảnh Tứ Pháp còn tương ứng với một chủ đề quan trọng trong Phật giáo Đại thừa đó chính là Tứ Vô lượng Tâm: Đại Từ, Đại Bi, Đại hỷ, Đại Xả.
- Từ, đại từ: mong muốn chúng sinh được sung sướng, như đám mây che mát tất cả chúng sinh, che chở khỏi khổ đau - Đám mây Pháp Vân.
- Bi, Đại Bi: Lòng thương xót chúng sinh, muốn chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ, được đại biểu bằng mưa, giống như giọt nước mắt - Pháp Vũ, điều này tương đồng trong tín ngưỡng Việt về thoải Phủ, các vị thánh thuộc Nước thường có truyện tích buồn dễ khóc.
- Hỷ, Đại Hỷ: Tự mình vui mừng thay cho kẻ khác khi họ làm được điều thiện, thành công, hạnh phúc - Tiếng Sấm - Pháp Lôi, Người việt có câu ca dao ' Lúa chiêm lấp ló đàu bờ / hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên " ở Nghệ an hiện còn dân tộc ơ đu có lễ hội Mừng tiếng Sấm, người Thái cũng mừng tiếng sấm đầu năm.
- Xả, Đại Xả: sự xả ly khỏi các bán chấp; mọi sự trên đời như giấc mộng, như tia chớp lóe lên rồi vụt tắt, có hình đấy mà không có thực chất không thể nắm giữ, mà không năm giữ thì phải xả ly, buông bỏ mọi bám chấp - Tia sét - Pháp Điện.
Hệ thống tín ngưỡng Tứ Pháp là sự kết hợp hài hòa giữa tín ngưỡng bản địa của Việt Nam và giáo lý đạo Phật được du nhập từ Ấn Độ. Vùng Dâu - Luy Lâu, thủ phủ của Việt Nam thời Sĩ Nhiếp được xác định là nơi đầu tiên Phật giáo được truyền vào Việt Nam và Tứ Pháp chính là kết quả của sự giao lưu đầu tiên giữa các tín ngưỡng dân gian vốn có với một tôn giáo ngoại lai từ Ấn Độ.
Trước khi Phật giáo có mặt, sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt cổ vùng sông Dâu còn mang tính chất mẫu hệ đậm nét. Hình tượng Man Nương (trong tiếng Việt cổ, các từ "man", "mèn", "mế", "mẹ" đều chỉ bà Tổ Mẫu), Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn là những "bà mẹ văn hóa" của tộc Dâu.
Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam và đã củng cố giáo lý thì những vị thần được người Việt tôn thờ đã được tiếp nhận vào hệ thống tư tưởng và Phật điện của một nhánh tôn giáo mới là Phật giáo Việt Nam. Đó là quá trình bản địa hóa giáo lý đạo Phật, đồng thời tiếp thu hệ thống thần linh bản địa, tạo cho những vị thần này bộ mặt Phật giáo và ngược lại Phật giáo có một bộ mặt bản địa.
Cô gái trẻ Man Nương là một biểu tượng cho sự "đồng trinh", để việc sinh sản, hòa hợp âm dương được thực hiện một cách linh thiêng, còn trinh nguyên mà sinh ra được một vị Phật, gọi là Thạch Quang Phật. Trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa vẫn còn nhắc đến chi tiết: "Thạch Phật bụt đá giống thầy Đà La".
Thạch Quang Phật là hình ảnh thể hiện sự dung hợp giữa tục thờ đá của người Việt cổ với Phật giáo.. Quan hệ Man Nương - Khâu Đà La huyền thoại hóa tính giao thiêng liêng diễn đạt sự kết hợp hai dòng tín ngưỡng phồn thực Việt - Ấn. Thạch quang Phật hỗn dung hòn đá thiêng (tục thờ đá) với linga (dạng phồn thực của Siva giáo). Nhà nghiên cứu George Coedès trong tác phẩm "Các quốc gia bị Ấn Độ hóa ở Đông Nam Á" (The Indianized states of Southeast Asia) cho rằng hiện tượng này kết hợp với ảnh hưởng của Siva giáo gọi là tín ngưỡng "Siva-Buddha".
Văn bản "Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục" (Cổ Châu lục) khắc trên ván gỗ bằng hai thứ chữ: Hán - Nôm, còn lưu trữ tại chùa Dâu đến nay là nguồn tư liệu gốc có giá trị về lai lịch cũng như những sự linh ứng của Tứ Pháp trong suốt hàng nghìn năm lịch sử từ thời Bắc Thuộc cho đến thời Lê Sơ:
Tượng Tứ Pháp cũng đã được nhắc đến nhiều lần trong chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư. Những chi tiết được ghi lại thể hiện tín ngưỡng dân gian đã kết hợp hoàn toàn với Phật giáo Việt Nam thời Lý.
Vua Lý Nhân Tông và triều đình cho đưa tượng về Thăng Long để cầu đảo:
Vua Lý Thần Tông cho đưa tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên để cầu mưa:
Vua Lý Cao Tông thân hành đến tận chùa Dâu để làm lễ và rước tượng Phật về kinh:
Tục lệ rước tượng Phật về kinh này còn đến tận đầu thời Lê, dưới thời Lê Nhân Tông:
Trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập có một loạt bài thơ vịnh chùa Pháp Vân với niềm tin rõ ràng từ vua tới dân vào sự linh ứng của Phật Pháp Vân. Những bài thơ Nôm này minh chứng rằng Phật giáo dưới thời Lê vẫn phát triển mạnh mẽ và thể hiện rõ nét tính dân tộc, nhằm đối kháng lại nền Phật giáo của nhà Minh đưa sang.
Văn khắc "Cổ Châu Phật bản hạnh" (Cổ Châu hạnh) là bản dịch chữ Nôm của "Cổ Châu lục". Trong "Cổ Châu hạnh" đã có những đoạn mô tả cảnh rước phật Pháp Vân dưới thời Lê Thánh Tông rất sinh động và đầy màu sắc theo hình thức thơ Nôm hay còn gọi là "kể hạnh" ở lễ hội chùa Dâu:
Cuối thế kỉ XVI, tác phẩm "Việt sử diễn âm" (tác giả khuyết danh) bằng chữ Nôm còn nhắc đến Tứ Pháp:
Một bài thơ Nôm khác được cho là của chúa Trịnh Căn có tên "Ngự đề Pháp Vân tự thi" (kí hiệu N°7880 tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm) khắc ngày mồng 9 tháng 10 niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718).
Phật giáo Ấn Độ căn bản đều thờ các hình tượng nam. Ngay như Quan Âm cũng là nam. Khi truyền vào Trung Quốc, Việt Nam thì hình tượng Phật được "nữ hoá". Việt Nam và Trung Quốc có tục thờ các bà mẹ, gọi là thờ mẫu. Nếu không kể Tứ pháp thì Việt Nam cũng có Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thủy Cung. Phật giáo Ấn Độ nhập với tín ngưỡng bản địa mà có sự phân hoá: Thánh Mẫu Thượng Thiên nhập vào Quan âm thị giả, hay Quan âm vô uý; Thánh Mẫu Thượng Ngàn thành Quan âm toạ sơn; Thánh Mẫu Thủy Cung thành Quan âm Nam Hải. Đó là hiện tượng cộng hình tượng nam với hình tượng nữ, Phật cộng với Man Nương ra hình tượng Phật mẫu Man Nương. Điều này cũng khẳng định dấu ấn bản địa Việt Nam của một giai đoạn mẫu hệ còn tồn tại. Cho đến bây giờ vẻ đẹp của tượng Phật Việt Nam vẫn là vẻ đẹp nữ, chứ không phải vẻ đẹp nam. Vì thế những tượng Phật Tứ Pháp ở chùa Dâu rất nữ tính, đôi tay và ngực rất nõn nà, đẹp gợi cảm.
Các tượng Tứ Pháp còn tồn tại đến nay đa số là tạc lại vào thế kỷ 17-18, được gọi là các "Bà" nhưng tượng không hề ảnh hưởng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ Phủ vốn rất phát triển giai đoạn này mà vẫn giữ được những nét cổ kính như khuôn mặt của phụ nữ Ấn Độ, dáng cao to. Một điểm chung của tượng Tứ Pháp là đầu "bụt ốc" tức tóc xoăn bện lại như các pho tượng Phật. Đây là hình ảnh khác xa với tên gọi các "bà" hay hình ảnh mẫu, nữ thần cùng thời. Mặc dù phần đầu các pho tượng Tứ Pháp được tạc giống như chư Phật nhưng các tượng này thường là tượng sơn tuyền một màu son chứ không thếp vàng như tượng Phật.
Hệ thống tượng Tứ Pháp vùng Dâu - Luy Lâu gồm bốn pho tượng: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Các pho tượng thuộc loại hình điêu khắc tượng tròn, tư thế tọa thiền trên tòa sen và đều có cấu trúc tổng thể gồm hai phần: Phần tượng và phần bệ tượng nhưng là một thể thống nhất, cả hai hợp lại mới tạo thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Cả 4 pho tượng Tứ Pháp đều được tạo tác vào thế kỉ XVIII bằng chất liệu gỗ có sơn phủ và đang được lưu giữ tại hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp ở huyện Thuận Thành là: Chùa Dâu, Chùa Tướng thuộc xã Thanh Khương và chùa Dàn thuộc xã Trí Quả.
Về mặt nghệ thuật, cách tạo tượng Tứ Pháp giống với dòng tượng Ấn Độ - Khơ-me. Nghệ thuật tạo tượng vẫn bảo lưu đậm nét cách tạo hình của Phật giáo Ấn Độ nguyên thủy được các nhà sư Ấn Độ đưa sang. Bốn tượng Tứ Pháp đều cởi trần, quấn xà rông, nhân tướng theo kiểu Ấn Độ, mũi cao, lõ. Tuy nhiên, thân hình là Phật mẫu nên mang vẻ đẹp gợi cảm của người phụ nữ, rất đặc biệt và độc đáo. Đây là những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo mang màu sắc Việt Nam.
Hệ thống tượng Tứ Pháp vùng Dâu còn thể hiện quá trình phát triển của Phật giáo Đông Nam Á. Các nhà nghiên cứu cho rằng Luy Lâu là trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo khởi thủy ở Đông Á và Đông Nam Á là: Luy Lâu (Việt Nam), Bành Thành và Lạc Dương (Trung Quốc). Điều đáng chú ý là trung tâm Phật giáo Luy Lâu không phải bắt nguồn từ Trung Hoa mà lại bắt nguồn từ Ấn Độ và mang đậm dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ.
Ngày 25 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2089/QĐ-TTg công nhận 24 bảo vật quốc gia trong đó có Bộ tượng Phật Tứ Pháp vùng Dâu - Luy Lâu.
Hệ thống Tứ Pháp nguyên thủy và đầy đủ nhất nằm ở vùng Dâu nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh:
Chùa Đậu ở Bắc Ninh đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, nên pho tượng Pháp Vũ đem về thờ chung trong chùa Dâu. Ngoài ra còn có Chùa Huệ Trạch (Chùa Dàn Xuân Quan) cũng ở xã Trí Quả, gần chùa Trí Quả, chùa này thờ "Pháp Thông Vương Phật" trưởng quản Tứ Pháp. Cũng tại chùa Xuân Quan, năm 2004 người ta phát hiện tấm bia cổ nhất Việt Nam được biết đến gọi là Bia "Xá Lợi Tháp Minh", nói về việc vua Tùy Văn Đế cấp xá lợi cho chùa Thiền Chúng ở Giao Châu.
Ngoài ra ở Thanh Trì có chùa Pháp Vân, chùa Pháp Vũ.
Xã Lạc Hồng:
Xã Lạc Đạo
Các chùa khác như chùa Quyển Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng), chùa Thanh Nộn, chùa Phú Viên, chùa và đình làng Lạt Sơn (xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng), chùa Chanh Thôn (Văn Xá, Kim Bảng) có phối tự thờ Tứ Pháp trong thần điện. Tại Hà Nam, Tứ Pháp đã được gọi bằng những cái tên nôm na thân mật. Dân làng Đanh Xá gọi Pháp Vũ là bà Đanh (chùa Bà Đanh), dân làng Quế Lâm gọi Pháp Vân là bà Bến (chùa Quế Lâm), dân thành phố Phủ Lý gọi Pháp Điện là bà Bầu (chùa Bà Bầu)...
Ghi chú
Trong các chùa thờ những nữ thần này, tượng của các nữ thần được tạc với kích thước to lớn hơn rất nhiều so với các tượng Phật. Hệ thống chùa Tứ pháp là chứng tích cho sự kết hợp giữa Phật giáo với các tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc nguyên thủy ở Việt Nam.
|
6259 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6259 | Thổ công | Thổ công (土公), còn được gọi là thổ địa (土地), thổ địa công (土地公), ông địa (翁地), ông công (翁公), thổ kỳ, thần đất (神坦) hay thổ thần (土神) hoặc xã thần (社神), là một vị thần trong tín ngưỡng Châu Á, cai quản một vùng đất, địa điểm.
Người Việt có câu: ""Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá"", nghĩa là theo niềm tin thì ở phạm vi nào thì ở đó có vị thần cai quản ở đó. Đối với tín ngưỡng thờ kính Thổ công, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai: xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt... thì người ta thường cúng vị thần này qua lễ động thổ. "Thổ Công" còn được gọi Ông Địa và người ta lập bàn thờ đặt ở mặt đất.
Hình tượng Ông Địa trong tín ngưỡng của người Việt là một vị thần bình dân, bụng phệ, ăn mặc xuề xòa, có khi ở trần, tay cầm quạt lá.
|
6261 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6261 | Thần Tài | Thần Tài (財神 "Tài thần") là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước phương Đông. Đây là vị thần theo quan niệm dân gian sẽ đem lại tiền tài, may mắn. Người ta thường vẽ ông hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân (財帛星君) hay Triệu Công Nguyên Soái (趙公元帥). Người đời vẽ ông trên một cái đĩa làm bằng kim loại trên bàn thờ để thờ cúng. Người Việt thường thờ ông Thần Tài vào ngày mồng 10 tháng giêng Âm lịch.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, thần tài gồm 5 vị tương ứng với 5 hướng Đông Tây Nam Bắc và Trung tâm. Bao gồm: Trung Bân Tài Thần 中斌財神 Vương Hợi 王亥 (Trung), Văn Tài Thần 文財神 Tỷ Can 比干 (Đông), Phạm Lãi 范蠡 (Nam), Võ Tài Thần 武財神 Quan Công 關公 (Tây) và Triệu Công Minh 趙公明 (Bắc). Thần tài cũng được đánh đồng với vương thúc Tỷ Can, vị trung thần bị Trụ Vương hại chết theo lời xúi giục của Đát Kỷ.
Nếu như Thần Tài người ta cúng tỏi hay hoa quả thì trái lại Thổ Địa lại cúng chuối xiêm, thuốc lá hay có khi cúng ly cà phê. Thông tường Thần Tài người Hoa kính trọng và khấn vái nhiều, thì trái lại người Việt luôn luôn khấn vái Ông Địa. Có câu:" Lạy ông Địa cúng nải chuối" là câu khấn thường xuyên, giá trị vật cúng thường thấp hơn vật mất hay vật cần khấn. Vào ngày tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.
Bàn thờ Thần Tài được lập ở những góc nhà chứ không phải nơi cao ráo như bàn thờ Tổ tiên, Thổ công hay Thánh Sư. Bàn thờ Thần Tài chỉ là một sập sơn son thếp vàng phía trên đề là Tụ Bảo Đường (聚寶堂). Phía trong khảm là bài vị hoặc thùng gỗ dán giấy đỏ ở xung quanh, phía trong dán bài vị, cũng được viết trên giấy đỏ. Bài vị được viết bằng mực nhũ kim với nội dung như sau:
Hai bên bài vị có câu đối viết bằng chữ Hán:
Phiên âm Hán-Việt là:
Dịch ra tiếng Việt là:
Nội dung câu đối có thể thay đổi, nhưng bao giờ cũng phải trình bày thành một đôi dán ở hai bên bài vị, mỗi bên có một câu. Trên đỉnh bàn thờ, lắp 2 ngọn đèn (được thắp sáng liên tục khi thắp hương). Hai bên, phía bên trái (từ ngoài nhìn vào) là ông Thần tài, phía bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy (không nên đầy quá). 3 hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định. Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, người ta dán chết bát nhang xuống bàn thờ bằng keo, băng dính... Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang, mọi chuyện trở nên trục trặc liền.
Theo nguyên lý "Đông Bình - Tây Quả", nên đặt lọ hoa bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái. Thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên sắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng sẵn, người ta có một cái khay xếp 5 chén nước thành hình chữ "Nhất" (一) - người cúng thường mua về sắp lại thành chữ "Thập" (十), và cũng là tương trưng cho Ngũ hành phát sinh phát triển. Ông Cóc được để bên trái, ở phía trước Thần Tài, sáng quay Cóc ra ngoài, tối quay Cóc vào trong. Ngoài cùng trên mặt đất, người ta chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước.
Hoạt động tín ngưỡng thờ cúng Thần Tài ở Việt Nam của người Việt rất khác với người Trung Quốc, cùng thờ ông Thần Tài nhưng tại Việt Nam, nhất là ở miền Nam, ông Thần Tài được thờ chung bàn thờ với ông Địa và bàn thờ được đặt thấp ở xó xếp chứ không như người Trung Quốc, lễ vật thờ cúng cũng giản dị và tùy tâm. Ngày Mồng 10 tháng Giêng, tức là ngày Mồng 10 Tết Nguyên đán được người Việt chọn làm ngày thờ thần tài đầu năm hay còn gọi là "ngày vía Thần Tài".
Vào ngày vía Thần Tài, nhiều cửa hàng, xí nghiệp, cơ sở buôn bán, người kinh doanh buôn bán sẽ khai trương, mở hàng, bán mì xưa, có nơi còn tổ chức múa lân có ông địa tại cơ sở kinh doanh, nhiều người còn đốt vàng mã. Trong dịp này nhiều người dân còn tấp nập, đổ xô đi mua vàng vào ngày vía Thần Tài, món cá lóc nướng hay còn gọi là cá lóc vía Thần Tài là món ăn được người dân Nam Bộ ưa chuộng để cúng Thần Tài trong dịp này, dịp này nhiều người dân ưa chuộng ăn món cá lóc nướng. Ở Việt Nam còn có "Đền thờ Thần Tài" tại Đà Nẵng với "Lễ hội Thần tài" cầu may mắn dịp đầu năm mới.
|
6262 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6262 | Thành hoàng | Thành hoàng hay Thần hoàng, Thần Thành hoàng, là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là "hộ quốc tỳ dân" (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.
Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: "Thành" 城 là cái thành hay tòa thành, "hoàng" 隍 là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Thành hoàng là 城隍, Thần hoàng là 神 隍, Thần Thành hoàng là 神城隍. Có thể hiểu vị Thần Thành Hoàng là vị chủ thần trông coi, quản lý cái tòa thành đó, ví như một vị Thành Chủ, hay Quận Vương thời xưa.
Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: "Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh..."
Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông "Thần hoàng" là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ "đốt tờ giấy vàng", tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có.
Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng" cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách "Việt Nam phong tục", lễ "Thần hoàng" được xếp vào mục "Phong tục trong gia tộc"; còn việc thờ phụng "Thành hoàng" được xếp vào mục "Phong tục hương đảng", thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau.
Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bản cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bản cảnh (神隍本境). Theo sách "Minh Mạng chính yếu", quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị "Bản cảnh". Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: "Thành hoàng" là vị thần coi một khu vực nào. "Bản cảnh" là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" (神) và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là "Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).
Sách "Việt Nam phong tục" chép:
Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài "Chuyện thần Tô Lịch" trong sách Việt điện u linh:
Cũng theo sách "Việt Nam phong tục", thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng; có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là "Phúc Thần".
Phúc Thần có ba hạng:
Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: "thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết, ... Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì..." Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ.
Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lệnh và huấn dụ của nhà vua. Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu...
Một số tác giả cho rằng, trong quá trình phát triển văn hóa thì các vị vua Hùng chính là các vị thành hoàng được thần thánh hóa theo mệnh lệnh của triều đình và hình thành một cách bình dân bắt nguồn từ phong tục thờ cúng tổ tiên lâu đời. Thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ thể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là "hộ quốc tý dân" (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành. Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho "mưa thuận gió hòa", "mùa màng tươi tốt"; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng.
Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khốn của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc "Quốc điển hóa" sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên.
|
6265 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6265 | Tứ bất tử | Tứ bất tử () là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam; đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh.
Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê.
Do Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khá muộn so với 3 vị kia nên có ý kiến cho rằng bên cạnh 4 vị thánh kia, Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt Nam còn có 2 vị thánh khác là Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử là bản Dư địa chí, in trong bộ "Ức Trai di tập". Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau:
Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là nhà học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời "Án sách Tiên phả dịch lục" có viết:
Những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn và thường khẳng định tứ bất tử gồm: Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Công chúa. Ví dụ như Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện "Trên đỉnh non Tản" in trong tập "Vang bóng một thời", có viết:
|
6267 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6267 | Angola | Angola (, phiên âm tiếng Việt: "An-gô-la"), tên chính thức là Cộng hòa Angola (, ) là một quốc gia ở miền nam châu Phi, nằm bên bờ Đại Tây Dương. Nước này có chung biên giới với Namibia, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Zambia. Tỉnh Cabinda tách bên ngoài quốc gia của Angola có chung biên giới với Cộng hòa Congo. Là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha do đó, còn có tên khác là miền Tây Bồ Đào Nha. Cuộc nội chiến tại vẫn còn tiếp diễn sau khi Angola độc lập cho đến thập niên 2000. Nước này trên danh nghĩa là một nền dân chủ và tên trước kia của nó là Cộng hòa Angola.
Tên Angola bắt nguồn từ "N'gola" của nhóm ngôn ngữ Bantu, đây là tên hiệu của người cai trị vùng đất này trước khi bị cai trị bởi Bồ Đào Nha. Luanda là thủ đô và thành phố lớn nhất của Angola. Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức, các tiếng trong nhóm ngôn ngữ Bantu chỉ được dùng trong các vùng hẻo lánh.
Angola là một trong những quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên bậc nhất châu Phi. Quốc gia này có nguồn dầu mỏ, khí thiên nhiên, kim cương và nhiều loại khoáng sản khác. Mặc dù vậy, nước này vẫn thuộc nhóm kém phát triển, phần lớn dân số đang sống dưới mức nghèo đói, Angola cũng là một trong những quốc gia có tuổi thọ trung bình thấp nhất và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao nhất trên thế giới.
Với diện tích 1.246.700 km² ( ), Angola là nước lớn thứ hai ba châu Phi (sau Niger). Nó có kích cỡ tương tự Mali và gần gấp hai lần bang Texas của Hoa Kỳ.
Angola có chung biên giới với Namibia ở phía nam, Zambia ở phía đông, Cộng hòa Dân chủ Congo ở phía đông bắc, và Nam Đại Tây Dương ở phía tây. Tỉnh ngoài lãnh thổ Cabinda có chung biên giới với Cộng hòa Congo ở phía bắc. Thủ đô Angola, Luanda, nằm trên bờ Đại Tây Dương ở phía tây bắc đất nước. Nhiệt độ trung bình vùng bờ biển của Angola là 16 °C (60 độ Fahrenheit) vào mùa đông và 21 °C (70 độ Fahrenheit) vào mùa hè.
Những người dân đầu tiên sống ở vùng này là những người săn bắn hái lượm Khoisan. Sau này họ đã bị các bộ tộc Bantu thay thế trong những cuộc di cư của bộ tộc này. Trước thời kì thuộc địa, vùng lãnh thổ này là nơi định cư của người Bantu. Vương quốc được đặt theo tên của nhà vua N' Gola, gọi là N' Dongo. Năm 1482, nhà hàng hải Bồ Đào Nha Diogo Cão phát hiện ra vùng đất này. Từ đó, tình trạng mua bán nô lệ ngày càng gia tăng, làm suy yếu đất nước.
Người Bồ Đào Nha bắt đầu cuộc chinh phục vương quốc N' Dongo và đánh bại vương quốc N' Dongo vào năm 1622. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của người bản xứ vẫn tiếp tục dưới sự dẫn dắt của một phụ nữ thuộc dòng dõi hoàng gia, A-Nzinga. Bị đánh bại vào năm 1648, A-Nzinga phải rút lui sâu vào những vùng mà thực dân Bồ Đào Nha không thể thâm nhập được. Năm 1665, Angola trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha. Năm 1704, thực dân Bồ Đào Nha đã thiêu sống một thiếu nữ tên là Kimpa Vita vì đã huy động hàng ngàn người nổi dậy.
Sau khi mất quyền sở hữu Brasil (1822), thực dân Bồ Đào Nha tiến hành các cuộc thám hiểm và chinh phục sâu vào bên trong lãnh thổ (1852). Họ lao vào cuộc chiến tấn công vương quốc của người Ovimbundu (1890-1904), đương đầu với người Lundas (1894-1926).
Năm 1954, Agostinho Neto và Mario de Andrade thành lập Phong trào Nhân dân Giải phóng Angola (MPLA). Từ năm 1955, Angola trở thành tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha. Năm 1961, cuộc nổi dậy ở Luanda mở đầu cuộc chiến tranh giành độc lập nhưng phong trào chủ nghĩa dân tộc bị chia rẽ.
Năm 1975, Angola giành được độc lập nhưng đất nước lại rơi vào tình trạng nội chiến. Chính phủ của Tổng thống Agostinho Neto được sự giúp đỡ của Cuba phải đương đầu với Liên minh Dân tộc vì nền Độc lập Toàn vẹn Angola (UNITA) được Nam Phi hậu thuẫn. Năm 1979, sau khi Tổng thống Neto qua đời, Dos Santos tiếp tục lãnh đạo đất nước. Năm 1988, hiệp định được ký kết giữa Angola, Nam Phi và Cuba dẫn đến việc đình chiến trong vùng lãnh thổ Bắc Namibia và Nam Angola. Từ năm 1989, quân đội Nam Phi và Cuba rút khỏi Angola.
Năm 1990, Tổng thống Dos Santos công bố sắc lệnh thiết lập thể chế đa đảng. Năm 1992, cuộc bầu cử đa đảng được tiến hành, Tổng thống đương nhiệm José Eduardo dos Santes và MPLA thắng cử. Savimbi và UNITA thất cử gian lận và phát động một cuộc nội chiến mới.
Bốn năm tương đối yên tĩnh (1994-1998), kể từ khi Liên Hiệp quốc giám sát Hiệp định hòa bình Lusaka năm 1994.
Năm 1997, Angola đồng ý thành lập một Chính phủ liên minh với UNITA, nhưng Savimbi xâm phạm Hiệp định bằng cách từ chối hủy bỏ căn cứ, không giải tán quân đội và chiếm lại một số lãnh thổ. Do đó, Chính phủ trì hoãn việc liên minh năm 1998 và đất nước chìm sâu vào nội chiến. Các công dân Angola lại phải tiếp tục hứng chịu đau khổ. Sự thù nghịch gây ảnh hưởng đến bốn triệu người (1/3 dân số) và khoảng hai triệu người phải đi tị nạn.
Tháng 2 năm 2002, quân đội Chính phủ đã giết Jonas Savimbi.
Quân đội đã hoàn toàn kiệt sức của Savimbi sẵn sàng hạ vũ khí đầu hàng. Sáu tuần lễ sau, các lãnh đạo phe nổi dậy ký hiệp định ngừng bắn, báo hiệu kết thúc cuộc nội chiến kéo dài 30 năm. Trong vòng năm tuần lễ kế tiếp, 80% quân đội nổi dậy đã giải trừ vũ khí, trật tự được bảo đảm nhưng khoảng hơn nửa triệu dân Angola phải đối mặt trước nạn đói.
Năm 1648, Bồ Đào Nha tái chiếm Luanda và khởi động quá trình tái chinh phục những vùng đất đai đã mất, và đã hoàn toàn khôi phục quyền kiểm soát năm 1650. Những hiệp ước về quan hệ với Kongo năm 1649 và Vương quốc Matamba của Njinga cũng như Ndongo năm 1656. Cuộc chinh phục Pungo Andongo năm 1671 là cuộc mở rộng lớn cuối cùng của người Bồ Đào Nha, bởi những nỗ lực chinh phục Kongo năm 1670 và Matamba năm 1681 không thành công.
Bồ Đào Nha đã mở rộng lãnh thổ quả mình phía sau thuộc địa Benguela ở thế kỷ XVIII, và bắt đầu nỗ lực chiếm các vùng khác vào giữa thế kỷ XIX. Quá trình này mang lại ít thắng lợi cho tới tận những năm 1880. Quyền kiểm soát hành chính hoàn toàn của Bồ Đào Nha ở vùng phía trong chỉ thực sự diễn ra từ đầu thế kỷ XX. Năm 1951 thuộc địa được đổi thành một tỉnh hải ngoại, cũng được gọi là Tây Phi Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha đã hiện diện tại Angola trong gần 500 năm, và những phản ứng đầu tiên của người dân ở đây nhằm kêu gọi một nền độc lập rất pha tạp.
Sau khi lật đổ chính phủ phát xít Bồ Đào Nha bằng một cuộc đảo chính mang hơi hướng xã hội chủ nghĩa, các đảng quốc gia Angola bắt đầu đàm phán về độc lập vào tháng 1 năm 1975. Một thỏa thuận với chính phủ Bồ Đào Nha được đưa ra, theo đó độc lập cho Angola sẽ được tuyên bố vào tháng 11 năm 1975. Hầu như ngay lập tức, một cuộc nội chiến nổ ra giữa MPLA, UNITA và FNLA, và ngày càng trầm trọng thêm với sự can thiệp từ bên ngoài. Ngay khi độc lập khỏi Bồ Đào Nha năm 1975, thủ đô và chính phủ danh nghĩa của Angola rơi vào Phong trào Giải phóng Nhân dân độc đảng trị. Trước đó, UNITA và FLNA được Zaire,Hoa Kỳ,và Nam Phi hậu thuẫn đã kiểm soát được miền Bắc, miền Nam, Tây và Tây Nam. Một phần Miền trung, bờ biển phía Tây và Thủ đô Luanda do MPLA kiểm soát. Một thời gian trước khi dược trao trả độc lập, cuộc nội chiến bắt đầu.
Để bảo vệ 1.376 kilômét biên giới với Tây Nam Phi của Angola chống lại sự xâm nhập của du kích Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO) có cơ sở tại Angola, các lực lượng quân đội Nam Phi đã dọn một dải trắng rộng một kilômét tại Angola với chiều dài gần một nửa đường biên giới. Zaire, vốn từng cung cấp hỗ trợ cho các du kích FNLA, nhanh chóng cung cấp viện trợ cho cả UNITA. Tới lượt mình, Liên bang Xô viết tăng mạnh viện trợ quân sự cho MPLA với các thiết bị quân sự như xe bọc thép, máy bay, cố vấn, trong khi một số lượng lớn quân đội Cuba được máy bay Liên Xô đưa tới Angola trong một nỗ lực công khai nhằm thiết lập sự cân bằng quân sự có lợi cho MPLA. Tới tháng 10 năm 1975, MPLA và các lực lượng Cuba đã kiểm soát Luanda, và đa phần cơ sở hạ tầng đất nước, buộc các lực lượng UNITA phải chuyển sang chiến thuật du kích. MPLA đơn phương tuyên bố mình là chính phủ thực tế của đất nước khi độc lập được tuyên bố chính thức vào ngày 11 tháng 11, và Agostinho Neto trở thành tổng thống Angola đầu tiên.Nước Cộng hòa nhân dân Angola ra đời (đến năm 1991 hệ thống đa đảng được áp dụng, Nhà nước đổi tên là Cộng hòa Angola).
Năm 1976, FNLA bị quân đội Cuba đánh bại, chỉ còn lại MPLA và UNITA (khi ấy được Hoa Kỳ và Nam Phi hậu thuẫn) cạnh tranh quyền lực. Từ năm 1979, Jose Eduardo dos Santos đã nắm quyền lãnh đạo chính trị đất nước. Dù hệ thống đa đảng đã được áp dụng từ năm 1991, Đảng Lao động của Phong trào Giải phóng Nhân dân vẫn nắm quyền lực.
Cuộc xung đột giữa MPLA và UNITA diễn ra ở vùng nông thôn, được tiếp thêm sức lực bởi cuộc xung đột địa chính trị thời Chiến tranh lạnh và bởi khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên Angola của cả hai bên. MPLA dựa vào nguồn tài chính từ dầu mỏ ngoài khơi, trong khi UNITA lại có được nguồn kim cương dễ dàng buôn lậu được qua vùng biên giới (LeBillon, 1999).
Năm 1991, hai bên đồng ý với Hiệp ước Bicesse với ý định chuyển đổi Angola từ một nước một đảng thành một chế độ đa đảng với các cuộc bầu cử dân chủ năm 1992. Tổng thống dos Santos dẫn đầu sau vòng một cuộc bỏ phiếu với hơn 49% số phiếu bầu, trong khi Jonas Savimbi đạt 40%. Sau những tuyên bố gian lận bầu cử, cuộc nội chiến tiếp diễn, và vòng bầu cử tiếp theo không bao giờ diễn ra.
Một hiệp ước hòa bình năm 1994 (nghị định thư Lusaka) giữa chính phủ và UNITA tạo cơ hội cho lực lượng UNITA phiến loạn cũ tham gia chính phủ. Một chính phủ hợp nhất quốc gia được thành lập năm 1997, nhưng nhiều trận đánh đẫm máu lại tái diễn cuối năm 1998, khiến hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Tổng thống dos Santos một lần nữa lại ngừng kế hoạch về một chính phủ thống nhất. Dù có lời hứa về một chính phủ bầu cử dân chủ và một hệ thống đa đảng, Đảng Lao động của Mặt trận Giải phóng Nhân dân (PLM) vẫn nắm quyền lực.
Ngày 22 tháng 2 năm 2002, Jonas Savimbi, lãnh đạo UNITA, đã bị giết trong một trận đánh với quân chính phủ, và một thỏa thuận ngừng bắn diễn ra giữa hai phe. UNITA từ bỏ nhánh vũ trang và nắm vai trò đảng đối lập chính. Dù tình thế chính trị trong nước bắt đầu ổn định, Tổng thống dos Santos vẫn từ chối tiến hành các quá trình gây dựng các định chế dân chủ. Trong số những vấn đề lớn của Angola có sự khủng hoảng nhân đạo (kết quả của cuộc chiến tranh kéo dài), số lượng mìn sát thương to lớn, và những hoạt động du kích đòi độc lập của tỉnh phía bắc Cabinda (Frente para a Libertação do Enclave de Cabinda).
Như nhiều quốc gia Hạ Sahara khác, Angola là nơi thường xuyên bùng phát các loại bệnh dịch lây nhiễm theo định kỳ. Tháng 4 năm 2005, Angola nằm ở trung tâm cuộc bùng phát virus Marburg nhanh chóng trở thành vụ dịch sốt xuất huyết tồi tệ nhất trong lịch sử, với hơn 237 người chết trong số 261 người mắc bệnh, và đã lan ra 7 trên 18 tỉnh vào ngày 19 tháng 4 năm 2005.
Tổng thống Dos Santos đã cam kết sẽ tổ chức cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2006. Angola đang từng bước tái thiết đất nước sau 27 năm nội chiến.
Từ hơn 1 nửa thế kỉ nay, cuộc nội chiến đã làm 1,5 triệu người chết, nghĩa là hơn 160 người mỗi ngày. Tổng thống Dos Santos đã tổ chức bầu cử tổng thống vào năm 2008 sớm hơn dự kiến 1 năm. Cuộc bầu cử tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm 2012.
Khẩu hiệu quốc gia của Angola là "Virtus Unita Fortior", một câu tiếng La tinh nghĩa "Đoàn kết mang lại Sức mạnh".
Nhánh hành pháp của chính phủ gồm Tổng thống, Thủ tướng (hiện tại là Fernando da Piedade Dias dos Santos) và Hội đồng Bộ trưởng. Hiện nay, quyền lực chính trị tập trung trong tay Tổng thống. Hội đồng Bộ trưởng, gồm toàn bộ các bộ trưởng và thứ trưởng trong chính phủ, nhóm họp thường xuyên để bàn bạc các vấn đề chính sách. Toàn quyền 18 tỉnh được chỉ định và hành động theo chỉ đạo của Tổng thống. Luật Hiến pháp năm 1992 phác thảo cơ cấu chính phủ và mô tả các quyền cũng như nghĩa vụ công dân. Hệ thống pháp luật dựa trên mô hình Bồ Đào Nha và luật phong tục nhưng nó còn yếu kém và chưa thống nhất, tòa án chỉ có mặt tại 12 trên tổng số 140 thành phố. Tòa án Tối cao đồng thời là tòa phúc thẩm; một Tòa án Hiến pháp với quyền lực phán xét nhưng chưa bao giờ thực thi quyền của mình. Những người chỉ trích đã so sánh chính quyền một đảng trị hiện nay tại Angola với chế độc độc tài của António de Oliveira Salazar tại Bồ Đào Nha, dưới thời cầm quyền của ông này người dân Angola đã bắt đầu đứng lên đòi độc lập từ nhiều năm trước.
Sau cuộc Nội chiến Angola kéo dài 27 năm, tàn phá nền chính trị và các định chế xã hội đất nước. Liên hiệp quốc ước tính có 1.8 triệu người đã phải chuyển chỗ ở trong nước, trong khi con số người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh được nhiều bên chấp nhận là 4 triệu người. Những điều kiện sinh hoạt hàng ngày của người dân trên khắp nước và đặc biệt tại Luanda (với số dân gần 4 triệu người) phản ánh sự sụp đổ của hạ tầng hành chính cũng như nhiều định chế xã hội. Tình hình kinh tế nguy ngập hiện nay đã ngăn cản bất kỳ nỗ lực nào của chính phủ nhằm hỗ trợ các định chế xã hội. Bệnh viện không có thuốc hay những trang thiết bị căn bản, trường học không có sách, và những công chức thường thiếu thiết bị làm việc cần thiết hàng ngày.
Chính phủ hiện nay đã thông báo ý định tổ chức bầu cử vào năm 2006. Các cuộc bầu cử đó là lần đầu tiên kể từ năm 1992 và sẽ chọn ra một tổng thống và Quốc hội mới.
Về đối ngoại, Angola tích cực hội nhập với khu vực và thế giới. Hiện là thành viên của LHQ, AU, Phong trào không liên kết, SADC, COMESA, ACP, PALOP, WTO, AfDB, IMF, WB… Angola theo đường lối không liên kết, thực dụng, ưu tiên quan hệ với các nước nói tiếng Bồ Đào Nha và các nước khu vực, đặc biệt là miền Nam châu Phi, tranh thủ quan hệ với Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, duy trì quan hệ với các nước bạn bè truyền thống.
Angola được chia thành mười tám tỉnh ("províncias") và 158 khu vực đô thị ("municípios"). Các tỉnh gồm:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Angola đã trải qua một giai đoạn chuyển đổi, từ tình trạng lộn xộn do một phần tư thế kỷ chiến tranh sang một nền kinh tế phát triển nhanh tại Châu Phi và là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Năm 2004, ngân hàng Eximbank của Trung Quốc đã đồng ý cho Angola vay 2 tỷ dollar. Khoản tiền này sẽ được dùng để tái xây dựng cơ sở hạ tầng trong nước, dù nó vẫn bị giới hạn do ảnh hưởng từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế trong nước. Tăng trưởng hầu như chỉ dựa vào sản xuất dầu mỏ, đã vượt mức 1.4 tỷ thùng mỗi ngày vào cuối năm 2005 và dự tính sẽ đạt 2 tỷ thùng mỗi ngày năm 2007. việc kiểm soát ngành công nghiệp dầu khí vẫn được tập trung vào tay Sonangol Group, một liên doanh có phần sở hữu của chính phủ Angola. Nền kinh tế tăng trưởng 18% năm 2005; và dự kiến sẽ đạt 26% năm 2006 và tiếp tục ở mức trên 10% trong thập kỷ này. An ninh có được nhờ những cuộc đàm phán hòa bình năm 2002 đã dẫn tới việc tái định cư cho 4 triệu người phải rời bỏ nhà cửa trước kia, dẫn tới tăng trưởng mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Với nguồn thu tăng mạnh từ xuất khẩu dầu mỏ, chính phủ đã bắt đầu đưa ra các chương trình phát triển đầy tham vọng trong xây dựng đường sá và các cơ sở hạ tầng căn bản khác của quốc gia.
Năm 2008, là năm đánh dấu bước tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế Angola. Nhờ đợt giá dầu tăng kỷ lục, GDP đã đạt 95,95 tỷ USD, tăng 15,1% so với năm trước, tiếp tục đà tăng trưởng trên 15% trong giai đoạn 2004-2007. Sản xuất dầu và các ngành hỗ trợ đã đóng góp 85% tổng GDP của quốc gia này. Ngành xây dựng và nông nghiệp cũng đang từng bước tăng trưởng mạnh. Mặc dù vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn không đủ cung cấp lương thực trong nước và Angola vẫn phải nhập khoảng một nửa lượng lương thực cho người dân. Năm 2003, ngân hàng trung ương đã thực hiện chương trình ổn định tỷ giá hối đoái, sử dụng các quỹ ngoại hối để mua nội tệ, giảm lạm phát. Tỉ lệ lạm phát đã giảm đáng kể từ 325% năm 2000 xuống còn 13% năm 2008. Cuối năm 2006, Angola trở thành thành viên OPEC. Để có thể tận dụng nguồn tài nguyên giàu có hiện tại như vàng, kim cương, lâm sản, thủy sản và đặc biệt là dầu mỏ, chính phủ Angola cần tiếp tục cải cách, tăng cường minh bạch hóa và hạn chế tham nhũng. Tệ nạn tham nhũng và những tác động tiêu cực của một lượng lớn các dòng ngoại tệ chảy vào đang là những thách thức mà Angola phải đối mặt.
Công nghiệp chiếm 65,8% GDP của Angola, với nhiều ngành khác nhau, trong đó khai khoáng đóng vai trò quan trọng bậc nhất. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Angola là dầu mỏ, vàng, kim cương, sắt, phốt phất, bô-xít, uranium, ximăng, các kim loại cơ bản, chế biến cá và thức ăn, thuốc lá, đường, dệt may, sửa chữa tàu... Trong đó dầu lửa chiếm tới 90% giá trị xuất khẩu của Angola.
Nông nghiệp thu hút tới 85% lao động nhưng chỉ đóng góp khoảng 9,2% vào GDP của Angola, và hàng năm Angola vẫn phải nhập khẩu 1 nửa lượng lương thực phục vụ cho nhân dân. Angola sản xuất các loại nông sản chính như chuối, mía, cà phê, xi đan, ngô, bông, sắn, thuốc lá, rau, lâm sản, hải sản, cây mã đề, vật nuôi…
Lĩnh vực dịch vụ của Angola khá phát triển, chiếm 24,6% GDP.
Về ngoại thương, năm 2010 Angola xuất khẩu khoảng 51,65 tỷ USD (f.o.b) gồm các mặt hàng chính như dầu thô, kim cương, sản phẩm dầu tinh chế, khí ga, cà phê, xi đan, cá và hải sản, sợi bông... Thị trường xuất khẩu chính của Angola gồm Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Nam Phi.
Năm 2010, Angola nhập khẩu khoảng 18,1 tỷ USD (f.o.b) các mặt hàng như máy móc thiết bị, hoá chất, sản phẩm xăng dầu, thiết bị khoa học, hàng tiêu dùng, thực phẩm, đồ quân dụng... Thị trường nhập khẩu của Angola gồm: Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Mỹ, Nam Phi, Brasil, Nhật Bản và Pháp.
Angola có nhiều tài nguyên: dầu lửa, kim cương, vàng, bạc, đồng, cô-ban, thiếc, kẽm, sắt, gỗ, hải sản... Dầu lửa (sản lượng trên 2 triệu thùng/ngày, chiếm khoảng 85% GDP, 78% thu ngân sách); kim cương (trên 01 tỷ USD), là nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu của nước này. Cá và gỗ cũng là hai nguồn lợi quan trọng của Angola.
- Cơ cấu kinh tế theo GDP: nông nghiệp: 9,2%; công nghiệp: 65,8%; dịch vụ: 24,6%.
- Mặt hàng xuất khẩu: dầu lửa, kim cương, bông, gỗ, cà phê, hải sản. Bạn hàng xuất khẩu: Mỹ (32,1%), Trung Quốc (32%), Tây Âu, Nam Phi, Đài Loan. Mặt hàng nhập khẩu: Máy móc thiết bị, xe cộ, phụ tùng, lương thực, thuốc men, hàng tiêu dùng, hàng quân dụng. Bạn hàng nhập khẩu: Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Brasil, Nam Phi, Tây Âu, Mỹ, Hàn Quốc...Dự trữ ngoại tệ vàng: 24,64 tỷ USD.
Dân số Angola được ước tính là 18.056.072 người (năm 2012). Bao gồm các sắc tộc Ovimbundu chiếm 37%, Ambundu 25%, Bakongo 13%, và 25% là các dân tộc khác (bao gồm người Chokwe, Ovambo, Mbunda). Cũng như khoảng 2% là người mestiços (lai giữa châu Âu và châu Phi), người Trung Quốc chiếm 1,4% và 1% là người châu Âu.
Theo ước tính, Angola là nơi có khoảng 12.100 người tị nạn và 2.900 người tị nạn vào cuối năm 2007. Có 11.400 người tị nạn từ Cộng hòa Dân chủ Congo đến trong những năm 1970. Tính đến năm 2008 có khoảng 400.000 công nhân nhập cư vào Angola, trong đó có 30.000 người Bồ Đào Nha, và khoảng 259.000 người Trung Quốc.
Từ năm 2003, có hơn 400.000 người di cư từ Congo đã bị trục xuất khỏi Angola. Trước khi độc lập vào năm 1975, Angola đã có một cộng đồng khoảng 350.000 người Bồ Đào Nha; hiện nay, có khoảng 200.000 người được đăng ký với cơ quan lãnh sự, và đang tăng lên do cuộc khủng hoảng nợ tại Bồ Đào Nha. Người Trung Quốc đứng ở mức 258.920, chủ yếu gồm những người di cư tạm thời.
Tổng tỷ suất sinh của Angola là 5,54 con trên một phụ nữ (ước tính 2012), đứng thứ 11 về tỷ suất trên thế giới.
Các ngôn ngữ tại Angola gồm ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau cộng với tiếng Bồ Đào Nha do quốc gia này là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha. Các ngôn ngữ bản địa sử dụng nhiều nhất là tiếng Umbundu, Kimbundu, và Kikongo. Tiếng Bồ Đào Nha cũng được công nhận là ngôn ngữ chính thức của đất nước.
Angola lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 12 tháng 11 năm 1975. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán, trước chỉ có lãnh sự quán ở đây. Khoảng 200.000 người Việt đang sinh sống ở Angola với nhiều nghề như bán quần áo may sẵn, làm ảnh và các chuyên gia giáo dục và y tế.
Angola là một quốc gia Kitô giáo. Có khoảng 1.000 cộng đồng tôn giáo trong nước. Công giáo La Mã chiếm khoảng một nửa dân số. Giáo phái Kitô giáo khác bao gồm Baptist, Methodist, Giáo hội Luther, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Nhân chứng của Jehovah chiếm khoảng một phần tư dân số. Kể từ khi độc lập, Phong trào Ngũ Tuần, Tin Lành và các cộng đồng khác đã xuất hiện.
Ngoài ra, còn có thiểu số người Hồi giáo, bao gồm những người nhập cư từ các quốc gia châu Phi và các nước khác, những người không tạo thành một cộng đồng. Vài nhóm người Angola bản xứ - chủ yếu là trong các xã hội nông thôn xa xôi tuyên xưng tôn giáo truyền thống của châu Phi, nhưng niềm tin truyền thống tồn tại trong một phần đáng kể của những người đã theo đạo Chúa.
Kitô giáo đến Angola đầu năm 1491, do các nhà truyền giáo đến từ São Salvador. Năm 1878, các nhà truyền giáo Tin Lành đầu tiên thuộc giáo phái Baptists, đến Angola. Năm 1897, Hội Truyền giáo Tin Lành Angola được thành lập tại Cabinda, và Hội Truyền giáo Sứ mệnh Bắc năm 1925, trong Uíge.
Ở Angola, người Bakongo đa số là một trong những nhóm người có rất nhiều Kitô hữu, chỉ 1,5% dân số của sắc tộc này giữ các niềm tin bản địa.
Theo CIA World Factbook, Công giáo La Mã được thực hiện bởi 50% dân số, 25% là người Tin Lành, trong khi 25% thực hành tín ngưỡng bản địa.
Hồi giáo tại Angola là một tôn giáo thiểu số với 80,000-90,000 tín đồ, thành phần chủ yếu là người di cư từ Tây Phi và các gia đình có nguồn gốc Leban Hiệp hội phát triển Hồi giáo Angola là tổ chức cải đạo chính. Hồi giáo được đại diện bởi Hội đồng tối cao của người Hồi giáo ở Luanda.
|
6268 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6268 | Chử Đồng Tử | Chử Đồng Tử () một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng năm 300 TCN, thời Hùng Duệ Vương). Về sau, ông thường được liệt vào một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam.
Truyền thuyết về ông được ghi trong Lĩnh Nam chích quái với tên gọi Nhất Dạ Trạch (đầm một đêm), là một trong những truyền thuyết sớm nhất được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái, một tác phẩm mang tính huyền sử, kể về những câu chuyện thần thoại thời kì cổ xưa của nước Việt Nam
Tương truyền rằng, vào thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân (渚衢雲), hoặc Chử Vi Tử (渚微子), tại thôn Chử Xá, xã Văn Đức (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy, Vua Hùng ngành (nhành) thứ 18 là Hùng Duệ Vương (Lĩnh Nam chích quái ghi là đời thứ 3, được hiểu là đời vua thứ 3 trong thế hệ thứ 18. Theo "Thứ thế các triều vua Việt Nam" - Nguyễn Khắc Thuần). Hiện nay ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội, còn bài vị "Tam Vị Quốc Chúa" thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế/chi/nhành Hùng Vương thứ 18) có cô con gái tên là Tiên Dung (仙容), đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, khôi ngô cường tráng, thú vị hiếm có, tâm sinh ý yêu thích, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Hùng vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm, có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên "Quỳnh Viên sơn" (瓊園山), (Hiện nay là núi Nam Giới thuộc Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh. Trên núi còn có ngôi cổ tự là chùa Quỳnh Viên, tương truyền đời Hùng Vương là nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã tu tiên đắc đạo. Địa danh Quỳnh Viên hay Quỳnh Sơn chính là tên xưa nhất của núi Nam Giới: "Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên" (Nghĩa là: Ngọn núi nổi tiếng này xưa gọi là Quỳnh Viên). Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một tăng sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên đồng ngọc nữ đều sẵn sàng để hầu hạ. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng quân ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc "Bãi Màn Trù" và chợ đó là Hà Thị.
Vào đời Hậu Lương, Trần Bá Tiên nhận mệnh đem quân Nam tiến, đánh bại quân lực của Lý Nam Đế.
Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục đem quân nấp ở đầm Nhất Dạ Trạch trong truyền thuyết. Đầm sâu mà rộng, quân Lương vướng mắc, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: ""Ngày xưa nơi đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người"".
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, Lương Đế bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: ""Hiển linh còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn"".
Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: ""Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt"". Đoạn bay lên trời mà đi. Triệu Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, quân Lương phải lùi.
Sau đó, Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh.
Đền thờ Chử Đồng Tử bao gồm ba đền chính:
Tổng Mễ Sở bị mất đất, mất Đền, lòng dân oán thán quan án sát Chu Mạnh Trinh đã trùng tu ngôi đền cổ ở bờ sông thành ngôi đền chính Đa Hoà (văn bia ở bờ sông ghi rõ: Đa Hòa chính từ bia ký). Do vậy Đền Hoá Dạ Trạch và Đền Chính Đa Hòa đều có chữ "Chính từ".
Đền thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân được lập ra và thờ ở nhiều nơi từ Cửa Sót, Hà Tĩnh ra Bắc. Riêng ở Khoái Châu, Hưng Yên cũng có một số đền Làng thờ như: Đình Phương Trù thôn Phương Trù xã Tứ Dân, Đền Ngự Dội Làng Màn Trầu, huyện Đông Yên nay là thôn Toàn Thắng, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đền Làng Quan Xuyên xã Thành Công huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung, hay còn gọi là lễ hội Đa Hòa - Dạ Trạch, là lễ hội cầu tình yêu được tổ chức ở hai ngôi đền là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa (xã Dạ Trạch) cùng huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Lễ hội hằng năm đều được tổ chức nhưng với quy mô tổng (tổng Mễ xưa có 9 làng) thì 3 năm một lần, thời gian vào giữa tháng 2 âm lịch. Lễ mang giá trị văn hóa thần thoại, là bức tranh về Chử Đồng Tử và hành trình đầy huyền thoại của ông đối với những người ở hai xã này.
Có thuyết kể rằng, Chử Đồng Tử trong lúc chu du tìm thầy học đạo cùng vợ là Tiên Dung đã lấy thêm một người vợ thứ hai là Hồng Vân. Cả ba người đã giúp dân chữa bệnh. Truyền thuyết này khá rõ ràng là chỉ sinh ra vào thời sau, khi sự thờ phụng Chử Đồng Tử đã cao và sinh ra nhiều dị bản để tăng tính thần thoại cho Chử Đồng Tử.
Hồng Vân công chúa tên thường gọi là Tây Nương, hay Tây Sa, có tài liệu gọi là nàng Nguyễn. Bà sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đức độ, hiền lành tại làng Đông Miên, huyện Chu Diên (tức thôn Đông Kim, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên hiện nay). Tương truyền rằng, một đêm nọ mẹ bà mộng thấy một con chim xanh lớn (Thanh Điểu) bay vào màn, rồi hóa thành người con gái đẹp. Tiếp đó, một người đàn bà xuất hiện ngoài màn, tự xưng là Tây cung Vương mẫu (Tây Vương Mẫu), từ thiên đình giáng xuống, đem con xuống gửi nhà người cõi trần trong 3 kỷ (36 năm). Từ đó bà thụ thai, đến ngày mùng 10/2 âm lịch hạ sinh con gái, đặt tên là "Tây Nương". Tây Nương lớn lên có sắc đẹp lạ thường chim sa, cá lặn, hoa tủi, trăng hờn.
Chuyện tình duyên giữa Hồng Vân công chúa và Đức thánh Chử Đồng Tử được ghi lại như sau: ""Trong một chuyến đi chữa bệnh cho người dân, đức thánh và công chúa Tiên Dung gặp Tây Nương đang cắt lúa bên đường đã tới hỏi chuyện. Thấy nàng có sắc đẹp lạ thường, hiền lành mà đối đáp trôi chảy, Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa chị em. Sau cuộc trò chuyện "tâm đầu ý hợp" của ba người, Tây Nương đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử"".
Cũng năm đó, vua Hùng cha của Tiên Dung ốm nặng, không ngự y nào chữa khỏi được. Biết Tây Nương giỏi về chữa bệnh, Tiên Dung đã nhờ nàng vào cung chữa cho vua cha. Sau khi vua Hùng khỏi bệnh định mang vàng bạc, châu báu ra tạ ơn, nhưng nàng không nhận mà trở về chung sống với Chử Đồng Tử - Tiên Dung, tiếp tục chữa bệnh cứu dân.
Sau sự kiện Tam vị đồng thăng, vua Hùng đã sa giá đến nơi để xem xét. Khi đó, vua nhìn lên trời thấy có người con gái cưỡi hạc trắng từ bay đến, tự xưng là Tây cung Vương nữ, vâng mệnh Chử Đồng Tử - Tiên Dung đến tạ phụ vương và xin thứ tội các con. Vua nhận ra đây chính là người chữa khỏi bệnh cho mình lúc trước. Ngài vô cùng hối hận và xúc động và đã phong cho Tây Nương là "Nội trạch Tây cung Tiên nữ – Hồng Vân công chúa". Để tỏ lòng nhớ ơn công ơn của ba vị, dân làng trong vùng và nhiều nơi khác đã lập đền thờ họ.
Nhiều làng thuộc các tỉnh nằm ở hạ lưu châu thổ sông Hồng như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đều có thờ đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Nhưng ở Hưng Yên là có nhiều đền nhất, có 45 làng cùng thờ. Hằng năm vào ngày 10, 12/2 âm lịch, lễ hội Chử Đồng Tử-Tiên Dung lại được diễn ra tại các đền Hóa Dạ Trạch, đền Tránh Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền thờ Hồng Vân công chúa (xã Đông Tảo, Khoái Châu) để ghi nhớ công ơn đồng thời tô đậm thêm thiên tình sử muôn đời của đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân.
|
6272 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6272 | Liễu Hạnh Công chúa | Thánh Mẫu Liễu Hạnh () hay Liễu Hạnh công chúa () là một trong những vị Thánh quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh (柳杏), Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏), Mẫu Thượng Thiên (母上天) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Mẫu Liễu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều "Sắc", tôn phong là ""Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân"", ""Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương"" và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ-tát (鎷鐄菩薩).
Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.
Căn cứ vào "Quảng Cung Linh Từ Phả Ký", "Quảng Cung Linh Từ Bi Ký" và "Cát Thiên Tam Thế Thực Lục" hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý Di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong "Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định" thẩm định thân thế và sự tích bà "Liễu Hạnh" như sau:
Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu 1433, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).
Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước "Đại Hà" từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là "Chùa Kim Thoa". Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.
Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hóa thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.
Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là "Phủ Đại La Tiên Từ". Đồng thời quê mẹ của bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), bà lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vỉ Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.
Lần này, bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương - Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Thánh Mẫu Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây... Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Trận giao chiến trên Đèo Ngang
Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.
Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ
Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tập "Truyền kỳ tân phả" của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.
Theo "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.
Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 - Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử. "(Cụm từ "tam mộc sâm" 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 (cây; gỗ) hợp lại thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp; đông đúc) và cụm từ "hảo... nữ tử " 好... 女子 chỉ chữ nữ 女 (đàn bà, con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt, đẹp, hay)."
Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 - Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. "(Cụm từ "trùng sơn xuất " 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出 (= ra; đi ra) và cụm từ "sứ... lại nhân"使...吏人 chỉ chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì)."
Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 - Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. (C"ô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡."
Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 - Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. (Ô"ng nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 (= 學). Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳)."
Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa) và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ: 冫馬已走 - Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: "Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa." "Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này." Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.
Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)
Cuộc tái hợp với Đào Lang - Người chồng kiếp trước
Vì tình nghĩa thủy chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), bà vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ bà ở Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.
Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.
Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.
Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch - ngày giỗ của bà. Địa điểm là:
Quần thể di tích Phủ Dầy tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Chùa Phúc Lâm, phủ Kim Thoa ở xóm 1 (tục gọi là làng Đồi), xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) ở thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
Phủ Tây Hồ ở Hà Nội
Phủ Đồi Ngang, đền Dâu, đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình)
[Đền Sòng] ở phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hoá. Ngoài ra con có đền thờ bà tại nơi bà chuyển sinh lần thứ ba ở Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá
Đền Sòng Sơn ở số 35 phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy, còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng.
Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (tục gọi là Đình Nghè), ở xã Yên Luật, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.
|
6278 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6278 | Nối chuyển | Nối-chuyển (Anh ngữ: "switching"), còn được gọi là chuyển mạch, là một kỹ thuật thông dụng trong việc thiết kế các mạng. Kỹ thuật này được dùng để định tuyến cho việc dẫn truyền dữ liệu bằng cách tạm thời tạo ra một đường nối giữa hai hay nhiều điểm hoặc nút trên mạng.
Định tuyến (Anh ngữ: "route") là những cách thức hay thuật toán, thường ở dạng phần mềm hay phần sụn ("firmware"), được cài đặt sẵn trong các thiết bị phần cứng của các máy gửi, nhận và các thiết bị trung chuyển dữ liệu nhằm đưa dữ liệu từ nguồn tới đích một cách chính xác, đầy đủ, hiệu quả và an toàn bằng cách tìm, xác định và thiết lập các đường dây nối kết thông tin tạm giữa các thiết bị đó với nhau. Các đường dây này có thể chỉ là ngắn giữa hai thiết bị với nhau hay là dài từ máy gửi đến máy nhận và chúng chỉ có tính cách tạm thời. Sau khi dữ liệu được chuyển đi hoàn tất hoặc được lệnh hủy bỏ thì đường nối này cũng bị cắt.
Nút ("node"), hay điểm ("point"), được hiểu là các thiết bị trung gian làm nhiệm vụ định tuyến và vận chuyển dữ liệu theo con đường xác định bởi các thuật toán định tuyến thưòng được cài sẵn trong các thiết bị đó. Mỗi nút là một máy tính chuyên biệt sẽ nối kết với nút khác theo sự quy định của giao thức mà người thiết kế đặt ra.
Thiết bị nối-chuyển là các máy tính đã được chuyên biệt hoá để làm nhiệm vụ tạo ra đường nối giữa hai hay nhiều nút trong mạng. Mỗi thiết bị như vậy, cùng với thuật toán để chọn đường nối, được xem là một nút mạng. (Xem thêm chi tiết trong mạng). Các thiết bị nối chuyển này không phải là các máy tính nguồn gửi hay đích nhận dữ liệu mà chúng chỉ có thể là các máy tính trung chuyển dữ liệu.
Người ta phân biệt ba loại thiết bị dùng trong kĩ thuật nối-chuyển:
Ngoài ra, để nối máy tính vào được với các thiết bị nối-chuyển hay để tạo một mạng máy tính, các máy tính đó phải dùng thêm những bộ điều hợp ("adapter").
Bộ điều hợp mạng ("network adapter") được hiểu là thiết bị dùng để nối với các thiết bị khác trong một mạng. Các bộ điều hợp đặc biệt là:
"Lưu ý:" chữ NIC còn là chữ viết tắt của một khái niệm khác từ chữ "Network Information Center", tức là Trung tâm thông tin mạng, là tổ chức cung cấp cho người dùng mạng các thông tin về những dịch vụ trên mạng.
|
6280 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6280 | Nông thôn Việt Nam | Nông thôn Việt Nam là một khái niệm chung dùng để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, nơi người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Ở Việt Nam, cho đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, trong khi tỷ lệ này vào năm 1999 là 76,5%. Con số đó những năm trước còn lớn hơn nhiều. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Ngay cả những Việt kiều sống ở các nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, vẫn giữ nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.
Xét về mặt tổ chức xã hội, làng xã và quốc gia Việt Nam là hai đối tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt chẽ nhất. Chính vì thế mà người Việt thường nói "làng" với "nước" đi đôi với nhau. Các hệ thống trung gian như "huyện", "tỉnh" không có vai trò quan trọng như thế.
Ở nông thôn Việt Nam, gia tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân thì phương Đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét ở phương Đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở Việt Nam gia tộc lại quan trọng hơn gia đình. Mỗi gia tộc đều có "trưởng họ" (hay còn gọi là "tộc trưởng"), "nhà thờ họ", "gia phả", "giỗ họ"...
Ở nhiều làng, hầu hết dân cư ở làng đó đều có quan hệ họ hàng với nhau. Việc đó còn lưu lại dấu ấn trong tên của rất nhiều làng hiện nay như: làng "Đặng Xá" ("xá" = nơi ở, "Đặng Xá" = nơi ở của họ Đặng), "Châu Xá", "Lê Xá"... Tương truyền Chử Đồng Tử sinh ra ở làng "Chử Xá", huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ở Tây Nguyên còn phổ biến tình trạng các thế hệ của một gia tộc sống tập trung trong một mái nhà dài, bên trong nhà đó được chia thành từng ngăn nhỏ cho các gia đình. Một nhà như thế có thể chứa đến hơn trăm người. Còn ở phần lớn miền quê Việt Nam hiện nay vẫn có gia đình có đến ba ("tam đại đồng đường") hay bốn ("tứ đại đồng đường") thế hệ cùng chung sống.
Vì gia tộc có vai trò quan trọng nên "tôn ti" của từng người cũng rất được coi trọng. Ở Việt Nam hệ thống tôn ti trong gia tộc được phân biệt rất chi li tới 9 thế hệ (gọi là "cửu đại"):
Việc thờ cúng, lễ tết trong gia tộc cũng tuân thủ theo nguyên tắc cửu đại này. Nghĩa là khi người có vai "Tôi" còn sống thì người ở vai này có trách nhiệm tham gia thờ cúng (nếu người vai trên đã chết), lễ tết (nếu người vai trên còn sống) những người có vai từ "Kỵ" trở xuống đến người có vai "Cha". Những người có vai "Con", "Cháu", "Chắt", "Chút" của người đó vẫn có trách nhiệm phải tuân thủ.
Người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên (nếu người ở vai trên không còn sống), chỉ khi người này mất đi thì việc thờ cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích tôn). Trong trường hợp, người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ tiên sẽ chuyển sang người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia đình người chú.
Trong khi đó ở các nước khác, ví dụ trong tiếng Anh, chỉ có từ cho ba đời, các đời trước và sau nữa chỉ thêm tiền tố vào một trong ba từ đó. Ngoài ra còn có những danh từ chỉ riêng những người họ hàng xa hơn như: "chú" (em trai của "bố"), "cậu" (em trai của "mẹ"), "cô" (em gái của "bố"), "dì" (em gái của "mẹ"), "thím" (vợ của "chú"), "mợ" (vợ của "cậu"), "bác" (anh hay chị của "bố" và của "mẹ"); một vài vùng có thể có cách gọi biến tướng đi như: anh của bố, mẹ đều gọi bằng "bác", còn chị của bố, mẹ lại vẫn gọi là "cô" - như ở Thanh Miện (Hải Dương), Kiến An (Hải Phòng) - hoặc anh, chị của bố gọi là "bá" còn anh, chị của mẹ gọi là "bác" hay ngược lại v.v. Tôn ti rất được tôn trọng, một người ít tuổi, xếp theo "vai vế", có thể là "ông" của một người nhiều tuổi - "Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi" (tục ngữ).
Nếu coi tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình thành nên "làng" và "xóm", đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam. Một làng gồm nhiều xóm gộp lại.
Ở nông thôn Việt Nam, việc tổ chức thành làng là cần thiết vì các lý do sau đây:
Trong một số làng, một số dân cư hoặc phần lớn dân cư có một nghề nghiệp khác ngoài nghề nông. Những người có cùng nghề này tập hợp với nhau để tạo thành "phường". Có rất nhiều phường với các loại nghề nghiệp khác nhau như: "phường gốm", "phường chài", "phường mộc", "phường chèo", "phường tuồng"...
Bên cạnh "phường", còn có "hội", là tổ chức của những người có cùng sở thích, thú vui... ví dụ: "hội văn phả" (các nhà Nho trong làng không ra làm quan), "hội bô lão" (các cụ ở trong làng), "hội tổ tôm", "hội vật"...
Các "phường nghề" sau này chuyển thành các tổ chức "phường" của đô thị.
"Giáp" là hình thức tổ chức dựa trên truyền thống nam giới, nó xuất hiện khá muộn vào đời Lý Thánh Tông (1041) với mục đích là để tiện cho việc thu thuế. Giáp có các đặc điểm sau:
Đứng đầu có ông "cai giáp" (câu đương), giúp việc cho cai giáp có ba ông "lềnh" (lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba). Giáp được chia thành ba hạng: "ty ấu": từ nhỏ đến 18 tuổi; "đinh" (hoặc "tráng"): 18 đến 59 tuổi; "lão": 60 tuổi trở lên.
Con trai, khi mới sinh được cha làm lễ để được vào giáp, lúc này nó thuộc hạng ty ấu. Vào giáp lúc này có quyền lợi là được chia phần khi làng có lễ hội. Đến 18 tuổi, người con trai phải làm lễ làng để lên đinh hoặc tráng ("đinh" = đứa, "tráng" = khỏe mạnh). Đinh, tráng có nghĩa vụ với làng (giúp đỡ trong các dịp lễ lạt, đình đám) và với nước (đóng sưu thuế, đi lính, đi phu). Về quyền lợi thì đinh, tráng được ngồi trên một "chiếu" nhất định trong kỳ họp hành, ăn uống, hoặc được nhận một phần "ruộng công" để cày, ngoài ra còn được thêm một phần hoa màu khi thu hoạch. Đến 60 tuổi (một số nơi còn hạ tuổi xuống còn 49, 50 hoặc 55), đàn ông được lên "lão" làng, đó là một vinh dự rất lớn, được mọi người nể trọng, xin ý kiến khi gặp khó khăn. Phần lớn các giáp được gọi tên theo vị trí, ví dụ: Thượng (trên), Hạ (dưới), Đông (phía đông), Đoài (phía tây).
Về mặt tổ chức hành chính thì nông thôn Việt Nam được chia thành các đơn vị cơ bản là "xã", và "thôn". Thông thường một xã gồm một làng nhưng cũng có xã gồm một vài làng. Mỗi thôn gồm một xóm, cũng có thôn gồm một vài xóm.
Về dân cư thì một thôn có hai loại:
Việc đối xử khắt khe đối với dân ngụ cư là một hình thức ngăn cản người ở làng này di chuyển sang làng khác nhằm duy trì sự ổn định của làng.
Dân chính cư được chia làm 5 hạng:
Ba hạng đầu gồm chức sắc, chức dịch và lão lập thành bộ phận "quan viên" hàng xã. "Quan viên" lại được chia thành ba nhóm theo lứa tuổi là "kỳ mục", "kỳ dịch", và "kỳ lão":
Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với làng trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng có những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy.
Truyền thống gia tộc tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, người dân nông thôn có xu hướng thoát li ra các thành phố lớn hoặc di cư đến những vùng khác có điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn, nên vai trò của gia đình đã dần dần nổi trội hơn. Cũng do việc di cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay đa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh.
Các khái niệm như "giáp", "đinh", "tráng" nay không còn nữa do nó hoàn toàn không phù hợp với nông thôn hiện đại. Các khái niệm "dân chính cư" hay "dân ngụ cư" tuy rằng vẫn có thể hiện diện ở một vài nơi, nhưng chắc chắn nó không còn là một đặc điểm đặc trưng của nông thôn ngày nay. Các chức sắc, chức dịch cũ (quan viên, kỳ mục, kỳ dịch v.v) nay đã bị xóa bỏ.
Vai trò của chính quyền xã hiện nay được công nhận là nằm trong hệ thống quản lý nhà nước đã và đang dần dà làm mất đi vai trò của hệ thống chính quyền làng theo kiểu cũ. Ngày nay, người đứng đầu một làng là trưởng làng (thôn) hay trưởng bản (ở miền núi). Vai trò của họ thực ra không lớn lắm.
Việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết thống, địa bàn cư trú, truyền thống nam giới và hành chính như ở phần trên làm cho làng có tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong làng đều hướng tới nhau, đó là đặc trưng "hướng ngoại"; còn tính tự trị làm cho các làng trở lên biệt lập với nhau, đó là đặc trưng "hướng nội".
Tính biệt lập ở các làng mạnh đến nỗi mỗi làng có thể được coi như một quốc gia thu nhỏ với một "luật pháp riêng" được gọi là hương ước ("lệ làng" được ghi bằng văn bản) và luật tục (lệ làng được quy định bằng lời nói); và một "triều đình riêng" với hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. Nhiều làng còn bầu bốn cụ cao tuổi là "tứ trụ". Sự can thiệp của nhà nước phong kiến, và sau này của thực dân không làm ảnh hưởng nhiều đến tổ chức của làng xã. ""Phép vua thua lệ làng"" là một truyền thống thể hiện mối quan hệ dân chủ đặc biệt của nhà nước phong kiến với làng xã Việt Nam.
Tính biệt lập còn được thể hiện ở lũy tre làng. Lũy tre làng bao trùm xung quanh làng. Đó là một thành lũy rất kiên cố, "đốt không cháy, trèo không được, đào không qua". Điều này khác hẳn với các nước khác trên thế giới là dùng thành quách bằng đất đá. Việc trao đổi với thế giới bên ngoài thông qua cổng làng. Gần cổng làng thường có một "cây đa", khói hương nghi ngút, đó là nơi hội tụ của thánh thần. Bên trong của làng có một cái đình, đó là biểu tượng của làng về mọi phương diện. Đình làng là:
Ban đầu đình làng là nơi tụ tập của tất cả mọi người, sau này đó chỉ là nơi tụ tập của nam giới (giáp) trong làng. Phụ nữ chuyển đến chùa làng và giếng nước. Nhiều nơi người ta còn trả thù nhau bằng cách đóng cọc vào giữa giếng làng, người ta tin rằng làm như thế thì gái làng đó sẽ không chồng mà chửa.
Các hương ước và tục lệ ngày nay tuy còn có ảnh hưởng nhất định tới công việc của làng, nhưng luật pháp nhà nước mới là yếu tố quyết định chính trong quan hệ cộng đồng. Về mặt cấu trúc, làng ngày nay đã thưa dần hình ảnh của lũy tre làng, cổng làng, giếng làng. Đình làng không còn đóng vai trò quan trọng như trước đây, nó chỉ còn thuần túy là nơi để thờ cúng hay giao lưu, gặp gỡ trong những ngày lễ hội.
Đến thời các chúa Nguyễn và sau này là nhà Nguyễn, việc khai phá đồng bằng Nam Bộ đã làm cho làng xã ở vùng này khác hẳn so với làng xã ở cùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây:
Những đặc điểm này ảnh hưởng đến tính tình người dân Nam Bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài, hội nhập, phát triển nhanh trong làm ăn kinh tế.
|
6289 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6289 | Trôi dạt lục địa | Trôi dạt lục địa là sự chuyển động tương đối với nhau của các lục địa trên Trái Đất. Lý thuyết trôi dạt lục địa được Alfred Wegener đưa ra lần đầu tiên năm 1915 và tồn tại cho đến khi nó được thay thế bởi lý thuyết kiến tạo mảng.
Abraham Ortelius , Theodor Christoph Lilienthal (1756), Alexander von Humboldt (1801 và 1845), Antonio Snider-Pellegrini , và các tác giả khác trước đó đề cập về hình dáng các lục địa đối diện nhau hai phía Đại Tây Dương (nổi bật nhất là châu Phi và Nam Mỹ) thì thấy chúng khớp nhau. W. J. Kious miêu tả suy nghĩ của Ortelius theo hướng này:
Năm 1912, Alfred Wegener đã nhận thấy rằng hình dáng của các lục địa ở hai bên bờ của Đại Tây Dương có thể được xếp khít vào nhau (ví dụ Châu Phi và Nam Mỹ). Sau đó, Benjamin Franklin cũng có nhận xét tương tự. Sự tương đồng giữa các cấu trúc địa lý và hóa thạch ở các lục địa làm cho các nhà địa chất, vào năm 1900, cho rằng các lục địa đã từng xuất phát từ một "siêu lục địa" với cái tên là Pangaea. Ban đầu, giả thuyết đó không được chấp nhận rộng rãi vì người ta không hiểu tại sao các lục địa lại có thể trôi dạt ra xa nhau. Cho đến tận thập niên 1950 nó mới được chấp nhận ở Châu Âu và phải đến thập niên 1960 nó mới được chấp nhận ở Bắc Mỹ. Giả thuyết trôi dạt lục địa trở thành một bộ phận của một lý thuyết lớn hơn là lý thuyết kiến tạo mảng.
Nam Mỹ và Châu Phi đang rời xa nhau với tốc độ 3 cm trong một năm. Tốc độ này bằng tốc độ mọc của móng tay người.
Bằng chứng về sự trôi dạt của các lục địa hiện nay rất nhiều. Các hóa thạch động thực vật có tuổi như nhau (ví dụ hóa thạch của một loại cá sấu được tìm thấy ở Brasil và Nam Phi) được tìm thấy ở bờ của các lục địa cho thấy rằng chúng đã từng có một nguồn gốc chung.
Hình dáng các bờ của Nam Mỹ và châu Phi có thể xếp khít lại được với nhau. Trong hàng triệu năm, đáy biển bị di chuyển, các lục địa bị trôi dạt và lực kiến tạo mảng ("tectonophysics") sẽ làm cho các lục địa rời xa nhau hơn và xoay hai lục địa này. Đó là điều mà Alfred Wegener nghiên cứu và đưa ra giả thuyết của ông.
Trước khi có nhiều bằng chứng địa lý học thu thập được từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ý tưởng về sự trôi dạt của các lục địa đã từng gây ra tranh cãi nảy lửa giữa các nhà khoa học. Ngày 15 tháng 11 năm 1926, Hiệp hội Địa chất Dầu mỏ Mỹ (AAPG) mở một hội thảo, trong đó bàn cãi về thuyết lục địa trôi dạt. Kết quả là tập các bài báo ra đời năm 1928 với tên Lý thuyết về trôi dạt lục địa ("Theory of continental drift"). Wegener cũng viết bài cho tập này.
Vấn đề gây khó hiểu nhất trong lý thuyết của Wegener là các lục địa bị "đào xới" lên từ nền đá của các đại dương. Đa số các nhà địa chất học đã không tin như vậy. Thuyết kiến tạo mảng, một phiên bản cập nhật hiện đại cho ý tưởng của Wegener, giải nghĩa chuyển động của các lục địa thông qua sự tách giãn đáy đại dương. Các lớp đá mới được hình thành nhờ hoạt động của núi lửa ở các dãy núi giữa các đại dương và sẽ quay trở về vỏ Trái Đất tại các vực sâu của đại dương. Đáng chú ý là, trong tập bài báo xuất bản năm 1928 của AAPG, G. A. F. Molengraaf làm việc tại Viện Công nghệ Delft (nay là Đại học Công nghệ Delft) đã đề xuất một mô hình về tách giãn đáy đại dương khi miêu tả sự mở rộng của Đại Tây Dương và đới tách giãn Đông Phi. Giả thuyết này vẫn cần kiểm tra thêm bằng các bằng chứng thực nghiệm.
|
6291 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6291 | Hệ tuần hoàn | Hệ tuần hoàn là hệ cơ quan có chức năng tuần hoàn máu trong cơ thể của hầu hết các động vật. Hệ tuần hoàn vận chuyển chất dinh dưỡng, oxy, cacbon đioxide, hormone, tế bào máu ra và vào các tế bào trong cơ thể để nuôi dưỡng nó và giúp chống lại bệnh tật, ổn định nhiệt độ cơ thể và độ pH, và để duy trì cân bằng nội môi. Bên cạnh đó, hệ tuần hoàn tiếp nhận sản phẩm phân huỷ (chất thải, CO2..) do tế bào thải ra qua nước mô rồi theo máu đến các cơ quan bài tiết để thải ra ngoài.
Các cơ quan chuyên biệt như hệ tiêu hóa, hệ bài tiết... có trách nhiệm khắc phục các khó khăn trên. Hệ thống tuần hoàn mang các chất từ nơi này đến nơi khác, giúp các cơ quan thực hiện tốt chức năng của chúng.
Hệ tuần hoàn hở (có ở đa số Thân mềm, trừ mực ống và bạch tuộc có hệ tuần hoàn kín, và Chân khớp) là hệ tuần hoàn không có mao mạch. Gọi là "hở" vì máu có thể thoát ra khỏi hệ thống tuần hoàn. Máu được tim bơm vào một khoang chính gọi là "khoang cơ thể" bao xung quanh các cơ quan, cho phép các mô trao đổi chất trực tiếp với máu. Sau đó máu quay lại tim bằng hệ thống mạch góp. Hệ thống này chỉ thích hợp với các động vật nhỏ như động vật chân khớp hoặc thân mềm.
Hệ thống tuần hoàn kín là hệ thống tuần hoàn ở đó máu lưu thông liên tục trong mạng lưới mạch máu. Trong hệ tuần hoàn này, máu được lưu thông dưới áp lực cao, và do đó, tốc độ chảy của máu sẽ nhanh hơn. Các tế bào của mô không tiếp xúc trực tiếp với máu nhưng tắm trong dịch mô. Dịch mô được hình thành từ máu nhờ quá trình lọc qua thành mao mạch. Ở động vật có xương sống, đa số dịch mô quay trở lại mao mạch với áp suất thấp hơn nhưng một số lại được gom lại vào một hệ thống dẫn riêng biệt gọi là các mạch bạch huyết. Chúng sẽ đem dịch mô trở lại vòng tuần hoàn với áp lực thấp hơn áp lực của dịch mô. Hệ thống tuần hoàn kiểu này hoạt động rất có hiệu quả và là nhân tố quan trọng trong quá trình tiến hóa của các loài động vật có xương sống cỡ lớn.
Hệ thống tuần hoàn đơn là hệ thống tuần hoàn mà máu chỉ đi qua tim một lần trước khi đến các mô của cơ thể. Các loài cá thường có hệ thống tuần hoàn như thế này vì chúng có được đệm đỡ từ môi trường xung quanh và thân nhiệt thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Trong hệ tuần hoàn đơn, máu từ tim đi ra dưới áp lực thấp và chảy đến mang qua động mạch vào mang. Sau khi được oxi hóa, máu được tập trung vào động mạch ra mang, chúng gom lại để thành một mạch máu lớn duy nhất gọi là động mạch lưng chảy dọc theo thân cá. Các nhánh của động mạch chủ lưng trực tiếp đi đến các cơ quan trong cơ thể. Sau khi được khử oxi, máu được tập trung dưới áp suất thấp vào một khoang chứa máu lớn gọi là xoang tĩnh mạch. Các xoang chứa máu có thể tích lớn, từ đó máu chảy đến tim.
Hệ thống tuần hoàn kép là hệ thống tuần hoàn trong đó máu sau khi được oxy hóa sẽ trở lại tim lần thứ hai trước khi được phân phối đến các mô trong cơ thể. Do đi qua tim hai lần nên áp lực của máu và tốc độ dòng chảy rất cao. Hệ thống tuần hoàn kép gồm hai vòng tuần hoàn nhỏ hơn là vòng tuần hoàn phổi và vòng tuần hoàn hệ thống. Lưỡng cư, Bò sát, Chim và Thú có hệ thống tuần hoàn kép như thế này.
Động mạch là mạch máu thuộc hệ tuần hoàn trong cơ thể, dẫn máu từ tim đến các cơ quan. Máu trong động mạch có lượng oxy cao, ngoại trừ ở động mạch phổi và động mạch rốn.
Tĩnh mạch hay ven, ven là mạch máu thuộc hệ tuần hoàn trong cơ thể, dẫn máu trở về tim (đối ngược với động mạch đưa máu từ tim ra). Thường thì máu trong tĩnh mạch có lượng oxy thấp khi đưa máu từ các mô trong cơ thể về tim. Hai ngoại lệ là tĩnh mạch rốn và tĩnh mạch phổi. Trong hai trường hợp này máu tĩnh mạch có lượng dưỡng khí cao.
"Bài chi tiết: Mao mạch"
Mao mạch là các mạch máu và mạch bạch huyết (lymph vessel) nhỏ nhất của một cơ thể. Các mao mạch là nơi đảm bảo chức năng chính của hệ mạch, đó là nơi xảy ra sự trao đổi nước, O, CO, chất dinh dưỡng và các chất thải giữa máu và các mô xung quanh chúng.[3]. Mao mạch bạch huyết kết nối với các mạch bạch huyết lớn hơn để thoát bạch huyết thu thập được trong vi tuần hoàn.
Động mạch chủ là loại động mach lớn nhất của cơ thể. Động mạch chủ có hình dạng nhìn giống như cây gậy, được uốn cong kéo dài từ tim phân nhánh thành các nhánh mạch máu cung cấp máu cho đầu và cánh tay. Sau đó, động mạch chủ đi xuống ngực và bụng phấn thành các mạch cung cấp máu cho phần bụng và chân. Động mạch chủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự tuần hoàn của máu trong thời kỳ tâm trương sau khi máu được đẩy vào động mạch bởi tâm thất trái trong thời kỳ tâm thu.
Động mạch chủ được chia thanh 2 đoạn:
-Đoạn đông mạch chủ ngực: Được chia thành các đoạn động mạch chủ lên, xuống và quai động mạch chủ.
-Đoạn đông mạch chủ bụng: Bao gồm đoạn động mạch chủ trên và dưới thận
Hạch bạch huyết là một phần của hệ bạch huyết, có hình bầu dục dẹp, rải rác dọc theo các mạch bạch huyết. Các hạch bạch huyết có các kích thước khác nhau, từ vài mm đến 1-2 cm. Trong cơ thể con người có 500-600 hạch nằm chặn đường đi của các hạch bạch huyết, đứng thành nhóm và nhận bạch huyết của cơ thể. Những vị trí tập trung nhiều hạch bạch huyết là cổ, bẹn và nách nhưng thường thì nó xuất hiện ở khắp cơ thể.
Hạch bạch huyết của chức năng cực kì quan trọng cho hệ miễn dịch. Nó có chức năng làm bộ lọc giúp bẫy và giữ lại các phần tử ngoại lai có hại cho cơ thể.
|
6293 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6293 | Nông Đức Mạnh | Nông Đức Mạnh (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1940) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2001 và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2011. Ông là Tổng bí thư và cũng là Chủ tịch Quốc hội đầu tiên là một người dân tộc thiểu số.
Ông là một người dân tộc Tày, sinh ngày 11 tháng 9 năm 1940 ở xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, xuất thân trong gia đình nông dân, dân tộc Tày, tham gia hoạt động cách mạng năm 1958, rồi vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 5 tháng 7 năm 1963.
Từ năm 1958 đến năm 1961, ông học trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà Nội. Hai năm sau đó, ông là công nhân lâm nghiệp, kỹ thuật viên điều tra rừng Ty Lâm nghiệp Bắc Kạn, sau đó là đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông.
Năm 1963-1966, ông học tiếng Nga tại Trường Ngoại ngữ Hà Nội. Từ năm 1966 đến năm 1971, ông du học tại (tại Sankt-Peterburg).
Từ năm 1972 đến năm 1973, ông về nước và làm phó ban thanh tra Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái (nay tách thành hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên). Sau đó ông làm giám đốc Lâm trường Phú Lương (Bắc Thái) đến năm 1974.
Từ năm 1974 đến năm 1976, ông học ở Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ năm 1976 đến năm 1980, ông là Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái, kiêm Chủ nhiệm công ty xây dựng lâm nghiệp rồi trưởng Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái.
Từ năm 1980 đến năm 1984, ông được bầu làm Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái.
Từ năm 1984 đến tháng 10 năm 1986, ông đảm nhiệm chức vụ Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái.
Từ tháng 11 năm 1986 đến tháng 2 năm 1989, ông là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Thái. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 3 năm 1989, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), Nông Đức Mạnh được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 8 năm 1989, ông được phân công làm trưởng Ban Dân tộc Trung ương.
Tháng 11 năm 1989, ông được bầu bổ sung đại biểu Quốc hội khóa VIII và được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
Ngày 26 tháng 6 năm 1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nông Đức Mạnh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Ông trở thành người dân tộc thiểu số đầu tiên có tên trong danh sách Bộ Chính trị. Ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội khóa IX. Ông trở thành Chủ tịch Quốc hội đầu tiên là một người dân tộc thiểu số.
Ngày 30 tháng 6 năm 1996, ông tái cử Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII. Ngày 18 tháng 9 năm 1997, ông tái đắc cử Chủ tịch Quốc hội khóa X. Đến tháng 1 năm 1998, ông được Ban Chấp hành Trung ương phân công vào Thường vụ Bộ Chính trị.
Ngày 22 tháng 4 năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX và được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông là người dân tộc thiểu số đầu tiên và cũng là người đầu tiên có bằng đại học giữ chức vụ này. Trong kì đại hội này, ông đã bãi bỏ chế độ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thường vụ Bộ Chính trị. Đến ngày 27 tháng 6 năm 2001, ông được Quốc hội miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội và được Nguyễn Văn An kế nhiệm.
Ngày 25 tháng 4 năm 2006, ông tiếp tục được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X và được Ban Chấp hành Trung ương bầu lại làm Tổng bí thư, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vào ngày 19 tháng 1 năm 2011, ông thôi làm Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI và được Nguyễn Phú Trọng kế nhiệm chức vụ Tổng bí thư. Sau Đại hội Đảng, ông chính thức nghỉ hưu.
Ngày 30 tháng 5 năm 2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc. Chuyến thăm Trung Quốc của ông dã mang lại nét đặc sắc trong quan hệ ngoại giao giữa hại nước. Tổng bí thư Trung Quốc, Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nhiệt liệt chào mừng ông và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, nhấn mạnh chuyến thăm này là một sự kiện trọng đại trong quan hệ hai Đảng, hai nước, có ảnh hưởng sâu rộng và tích cực đối với việc phát triển toàn diện quan hệ Việt - Trung trong thời kỳ mới cũng như hòa bình và phát triển của khu vực và thế giới. Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực và bày tỏ rõ sự hài lòng trước đà phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước trong những năm gần đây; đồng ý tích cực tìm kiếm những lĩnh vực tăng trưởng mậu dịch mới… đồng thời áp dụng những biện pháp để thực hiện phát triển cân bằng mậu dịch song phương; nhất trí khẩn trương bàn bạc, ký kết và thực hiện tốt "Quy hoạch phát triển năm năm về hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung Quốc". Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Vào chiều cùng ngày, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí nâng cấp quan hệ ngoại giao hai nước lên Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí xây dựng "Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" trong thế kỷ 21 trên cơ sở phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". Thông qua chuyến thăm của ông Mạnh, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.
Ngày 19 tháng 4 năm 2009, ông Nông Đức Mạnh thực hiện chuyến thăm Nhật Bản. Đây là chuyến thăm Nhật Bản lần thứ hai của ông mang nhiều dấu ấn quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Chuyến thăm nhằm tiếp tục tăng cường đối thoại cấp cao Việt Nam – Nhật Bản, củng cố sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước…; đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới, ổn định và bền vững trong khuôn khổ “đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á”. Ngày 20 tháng 4 ông đã gặp và hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Asō Tarō, hai bên tin tưởng rằng Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản sẽ đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nước. Hai bên sẽ hợp tác để hiệp định này sớm có hiệu lực và được thực hiện một cách thuận lợi, đồng thời mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ, vận tải hàng hóa, công nghệ thông tin - viễn thông, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường,thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực mới như sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, phát triển vũ trụ, máy bay thân thiện với môi trường và các dự án mới phát triển cơ cở hạ tầng như nhà ga T2 sân bay Nội Bài; Cảng quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng); giao thông đô thị ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.. Thông qua hoạt động của “Sáng kiến chung về tăng cường năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam - Nhật Bản”, hai bên hoan nghênh và thúc đẩy hơn nữa đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam. Kết thúc hội đàm, ông Mạnh và ông Asō thông báo cho các phóng viên Việt Nam, Nhật Bản và các phóng viên quốc tế về kết quả rất thành công của cuộc hội đàm cấp cao Việt Nam - Nhật Bản. Hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Nhật Bản về quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á và nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược.
Ngày 8 tháng 7 năm 2010, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thực hiện chuyến công du đến nước Nga. Đây là chuyến thăm chính thức Liên bang Nga lần thứ 2 của ông Nông Đức Mạnh, thể hiện sự nồng ấm và tin cậy trong quan hệ hai nước. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev nhiệt liệt chào mừng ông Mạnh và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm chính thức Liên bang Nga; Đánh giá cao ý nghĩa to lớn của chuyến thăm, coi đây là sự kiện trọng đại có ý nghĩa lịch sử, mở ra một giai đoạn phát triển mới của mối quan hệ đoàn kết hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga; Khẳng định, Liên bang Nga coi phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga tại Đông Nam Á và châu Á Thái Bình Dương. Hai nhà lãnh đạo sau đó đã tiến hành hội đàm và trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm. Ông Nông Đức Mạnh trân trọng mời Ông Medvedev thăm chính thức Việt Nam và tham dự Hội nghị cấp cao Nga - ASEAN lần thứ 2 tại Hà Nội vào tháng 10 tới. Ông Dmitry Medvedev chân thành cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời. Ngay sau khi kết thúc hội đàm đã diễn ra lễ trao tặng Huy chương Puskin, phần thưởng cao quý của Liên bang Nga tặng ông Mạnh về những đóng góp quan trọng trong việc phát triển quan hệ văn hoá giữa hai nước.
Sau khi nghỉ hưu ông ít can thiệp vào chính trị nhưng thường có mặt trong các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương với tư cách khách mời. Năm 2010, khi còn đương chức Tổng bí thư, ông đã được Tổng thống Nga Dmitry Medvedev trao tặng . Năm 2013, ông nhận được huy hiệu 55 năm tuổi Đảng và 60 năm tuổi Đảng vào năm 2018. Trong các chuyến thăm Việt Nam của các lãnh đạo nhà nước Lào, ông thường có cuộc gặp với họ tại nhà riêng.
Cha mẹ ông là ông Nông Văn Lại và bà Hoàng Thị Nhị. Theo ông Mạnh chia sẻ tại Đại hội Đảng năm 2001, hàng năm tháng ba âm lịch (tết thanh minh) ông luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (cả hai người đều mất sớm), và ông còn có em trai, em gái ở quê. Ông Mạnh luôn bác bỏ tin đồn rằng ông là con của Hồ Chí Minh và đã trả lời "Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ" khi được phóng viên báo Time Asia hỏi về điều đó vào tháng 2 năm 2002.
Vợ ông là bà Lý Thị Bang (1942 – 2010).
Con trai cả là Nông Quốc Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, thành viên Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Ủy viên BCH Trung ương Đảng khóa XI.
|
6294 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6294 | Trần Phú | Trần Phú (1 tháng 5 năm 1904 – 6 tháng 9 năm 1931) là một nhà cách mạng của Việt Nam. Ông là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 27 tuổi. Người tiền nhiệm của ông là Trịnh Đình Cửu, nguyên Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trần Phú sinh ngày 1 tháng 5 năm 1904 tại thành An Thổ, phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên (nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên), nguyên quán của ông ở làng Đông Thái, xã An Đồng, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).
Cha Trần Phú là Trần Văn Phổ, từng đỗ Giải nguyên. Thời gian ông làm Giáo thụ Tuy An đã sinh ra Trần Phú tại đây. Mẹ ông là bà Hoàng Thị Cát, người làng Tùng Anh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Trần Phú là con thứ 7 trong gia đình.
Ngày 19/4/1908, khi đang là Tri huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi), do không chịu được sự đè nén, áp bức, nhục mạ của công sứ Pháp Dodey Besra và bất lực trước tình cảnh nhân dân đói khổ, lầm than, Trần Văn Phổ đã thắt cổ tự sát tại công đường. Do nghèo khổ và buồn phiền, 2 năm sau đó, mẹ ông cũng qua đời ngày 27/11/1910.
Trần Phú cùng với người em út là Trần Ngọc Danh từ Quảng Ngãi ra Quảng Trị sống với người chị gái Trần Ngọc Quang và anh trai Trần Đường, về sau được một người dì ruột là cung nương Hoàng Thị Khương mang về giao cho con trai mình là Thái Thường Tự Khanh Phạm Hoàng San và vợ là Phan Thị Yến (làm việc ở Toà Khâm sứ Huế) nuôi dưỡng, và cho ăn học tại Trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba rồi Trường Quốc học Huế. Tại Trường Quốc học Huế, ông được theo học cụ Võ Liêm Sơn một nhà giáo yêu nước.
Năm 1922, Trần Phú đỗ đầu kỳ thi Thành chung (học vị cao nhất theo hệ Pháp đào tạo tại Việt Nam lúc bấy giờ) lúc 18 tuổi, rồi về dạy học tại trường Tiểu học Pháp – Việt Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An).
Thời gian dạy học ở Vinh, vốn có ảnh hưởng tinh thần dân tộc của cha, Trần Phú có những tiếp xúc đầu tiên với chủ nghĩa cộng sản. Năm 1925, ông cùng một số bạn bè như Lê Văn Huân, Trần Đình Thanh, Ngô Đức Diễn, Tôn Quang Phiệt... thành lập Hội Phục Việt, sau đổi là Hội Hưng Nam, rồi lại đổi ra Việt Nam Cách mạng Đảng.
Năm 1926, với bí danh Lý Quý, Trần Phú đại diện Việt Nam Cách mạng Đảng sang Quảng Châu (Trung Quốc) bàn việc hợp nhất với Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tại Quảng Châu, ông tham gia một số lớp huấn luyện về lý luận và chính trị, được kết nạp vào Cộng sản Đoàn, và được cử về nước hoạt động. Tháng 12 năm 1926, ông về đến Vinh, tham gia cải tổ Việt Nam Cách mạng Đảng theo đường lối và tổ chức của Việt Nam thanh niên cách mạng.
Một thời gian sau, ông bị lộ, được tổ chức bố trí sang Quảng Châu để hoạt động với bí danh Lý Viết Hoa. Mùa xuân năm 1927, Trần Phú được Nguyễn Ái Quốc cử sang học tại trường Đại học Đông Phương (Liên Xô) với bí danh Likvey ("Ликвей"). Tại đây, chi bộ những người Cộng sản Việt Nam được thành lập, ông được chỉ định làm bí thư chi bộ này.
Năm 1928, Trần Phú là đại biểu dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản. Khi đó, tại quê nhà, ngày 11 tháng 10 năm 1929, ông bị tòa án Nam triều ở Nghệ An xử án vắng mặt cùng với một số đồng chí của mình.
Tháng 4 năm 1930, Trần Phú về nước và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng (tháng 7), sau đó ít lâu vào Ban Thường vụ Trung ương. Ông được giao soạn thảo "Luận cương Chính trị về vấn đề cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương".
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua bản "Luận cương Chính trị" và bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, ông được bầu Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Tháng 3 năm 1931, với bí danh Anh Năm, Trần Phú chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của thực dân Pháp. Hội nghị khẳng định: ""Đảng [Cộng sản Việt Nam] là đảng tiền phong của giai cấp vô sản, Đảng chiến đấu cho lợi ích sống còn của dân tộc, cho quyền lợi các giai cấp bị bóc lột, bị áp bức, nhưng không phải là đảng của Công Nông. Kiên quyết chống tả khuynh, chống hữu khuynh"". Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền. Tại hội nghị này, một quyết định về ""Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp của Đảng phải giải quyết"". Đây được xem là tiền đề để hình thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về sau này.
Ngay sau Hội nghị, do sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19 tháng 4 năm 1931, Trần Phú bị thực dân Pháp bắt tại nhà số 66 đường Champagne (đường Lý Chính Thắng hiện nay), Sài Gòn.
Biết ông là cán bộ cao cấp, chính quyền thực dân tìm cách dụ dỗ và tra tấn để khai thác thông tin. Nhưng với chí khí kiên cường, ông không bị khuất phục, dù bị đày ải nhiều lần. Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè ""Hãy giữ vững chí khí chiến đấu"".
Anh chị em tù chính trị ở khám lớn Sài Gòn năm 1931 đã làm thơ:
Sau khi ông qua đời, người thân ông vào Sài Gòn, tìm cách đưa thi hài ông ra chôn cất tại khuôn viên nghĩa trang Nhà thờ Họ đạo Chợ Quán Sài Gòn (tại cư xá Bắc Hải, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).
Ngày 4 tháng 1 năm 1999, phần mộ được cho rằng của ông đã được phát hiện. Ngày 12 tháng 1 năm 1999, hài cốt của Trần Phú được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. Mộ của ông được đặt trên ngọn đồi cao thuộc xã Tùng Ảnh, phía trước mộ là hàng chữ ""Hãy giữ vững chí khí chiến đấu"".
Trần Phú và Lê Hồng Phong được cho là người dịch thành lời bài Quốc tế ca phiên bản đang được sử dụng. Tuy nhiên, người dịch bài hát này đầu tiên là Hồ Chí Minh dưới thể thơ lục bát.
Một giai thoại khác là có một lần ông bàn với các đồng chí trong tù về viễn cảnh sau này nước Việt Nam độc lập với quốc kỳ màu đỏ, có ngôi sao vàng năm cánh, tượng trưng cho năm giới công, nông, binh, trí và thương đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng. Điều này dẫn đến trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, các đồng chí của ông ở Mỹ Tho đã giương cao là cờ đỏ sao vàng năm cánh bên cạnh là cờ búa liềm của Đảng trên mái đình Long Hưng nơi thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên trong tỉnh.
Tên của ông được đặt cho các đường phố ở một số tỉnh, thành của Việt Nam:
|
6295 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6295 | Lê Hồng Phong | Lê Hồng Phong tên khai sinh là Lê Huy Doãn (6 tháng 9 năm 1902 – 6 tháng 9 năm 1942) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Ông là Tổng Bí thư thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1935 đến năm 1936. Vợ ông, Nguyễn Thị Minh Khai, cũng là một người giữ vai trò quan trọng trong Đảng ở thời kỳ đầu.
Ông tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1902 trong một gia đình nghèo thuộc xóm Đông Cửa, thôn Đông xã Cựu Thông Lãng, tổng Thông Lãng, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ, cuộc sống của ông đã gặp nhiều bấp bênh khó khăn. Song thân ông là ông Lê Huy Quán và bà Phạm Thị Sau.
Mồ côi cha từ nhỏ, tuy nhiên nhờ sự tảo tần của người mẹ, ông vẫn được cho theo học chữ Hán tại làng, được thầy học cải tên thành Lê Văn Duyện. Sau đó, ông được cho học tiếp thêm khoảng 2 năm tiếng Pháp. Vì gia cảnh quá ngặt nghèo, năm 16 tuổi, ông xin đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh để có thêm tiền sinh kế cho gia đình. Một thời gian sau, ông chuyển sang làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh đòi quyền lợi với giới chủ bóc lột. Từ đó, ông bước vào con đường làm một nhà cách mạng chuyên nghiệp.
Tháng 1 năm 1924, ông cùng 10 thanh niên, trong đó có bạn cùng làng là Phạm Hồng Thái, sang Thái Lan, sau đó đi qua Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, ông cùng Lê Hồng Sơn, Lê Quang Đạt gặp Nguyễn Ái Quốc và được kết nạp vào tổ chức cách mạng Tâm Tâm Xã (còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn). Ông là một trong 9 hội viên hạt nhân của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Mùa hè năm 1925, ông cùng Lê Hồng Sơn và Lê Quang Đạt được giới thiệu vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Một năm sau, ông được cử sang học Trường Không quân Quảng Châu. Tại đây, tháng 2 năm 1926, được sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 8 năm 1927, ông cùng nhóm thanh niên tình nguyện Việt Nam đang theo học tại Trường Không quân Quảng Châu sang học tiếp tại Trường Không quân Liên Xô.
Tuy nhiên, nhờ có sức khỏe tốt nên ông là người duy nhất trong nhóm tiếp tục theo học tại Trường Không quân Liên Xô. Từ tháng 10 năm 1926 đến tháng 10 năm 1927, ông sang học Trường Lý luận Quân sự tại Leningrad (Liên Xô). Từ tháng 12 năm 1927 đến tháng 11 năm 1928, ông học trường Không quân số 2 ở Borisoglebsk (Liên Xô). Từ tháng 12 năm 1928, ông theo học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva (Liên Xô) với bí danh Litvinov ("Литвинов"). Sau khi tốt nghiệp, ông tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc Trung tá.
Cuối năm 1931, với tên là Vương Nhật Dân, ông về Trung Quốc hoạt động. Bấy giờ, ở trong nước, các tổ chức cộng sản bị chính quyền thực dân đàn áp dữ dội. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ông cùng một số đồng chí tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng trong nước nhằm khôi phục phong trào và thảo chương trình hành động của đảng trong tình hình Đảng bị tổn thất nặng nề trước đó.
Tháng 6 năm 1932, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra bản "Chương trình hành động" được Quốc tế Cộng sản công nhận. Dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, tháng 3 năm 1934, tại Ma Cao, Ban Chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, do ông làm Thư ký (Bí thư). Do tình hình Ban Chấp hành Trung ương trong nước gần như bị tê liệt nên Ban Chỉ huy hải ngoại kiêm Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, có nhiệm vụ liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản và các đảng Cộng sản bạn, tổ chức lại công tác đào tạo cán bộ cho đất nước, ra Tạp chí Bônsơvích - cơ quan lý luận của Trung ương Đảng, tập hợp và phục hồi các cơ sở Đảng, chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng lần thứ nhất.
Từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 6 năm 1934, Hội nghị Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương và đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước được tổ chức, gồm có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt, Nguyễn Văn Tham và Trần Văn Chấn. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết Chính trị và Nghị quyết Về các vấn đề tổ chức.
Nghị quyết Về các vấn đề tổ chức của Hội nghị quy định cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của Ban Chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương:
Như vậy, có thể thấy cơ cấu Ban Chỉ huy hải ngoại có tác dụng như Ban Chấp hành TW ngày nay. Với cương vị Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại, trên thực tế ông nắm giữ vai trò Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi có Ban Chấp hành TW lập trong nước, thì Ban Chỉ huy hải ngoại có nhiệm vụ riêng, và thành viên hai tổ chức khác nhau.
Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, ông được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 7 năm 1935, ông dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ra dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Moskva. Đại hội công nhận Đảng là Chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu ông làm Ủy viên Ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản.
Tháng 1 năm 1936, ông tới Trung Quốc và triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng tại Thượng Hải (tháng 7 năm 1936).
Ngày 10 tháng 11 năm 1937, ông về Việt Nam hoạt động với tên là La Anh.
Tháng 3 năm 1938, ông dự Hội nghị Trung ương họp tại Hóc Môn (Gia Định) quyết định thành lập "Mặt trận Dân chủ Đông Dương".
Ngày 22 tháng 6 năm 1939, ông bị mật thám Pháp bắt lần thứ nhất ở tại Sài Gòn, bị kết án 6 tháng tù và ông trục xuất về quê Nghệ An.
Ngày 6 tháng 2 năm 1940, ông bị bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù và đày đi Khám Lớn Sài Gòn và Côn Đảo.
Ngày 6 tháng 9 năm 1942, ông qua đời trong lúc ở trong tù tại Côn Đảo đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 40.
Trước khi mất ông gửi lời nhắn nhủ: ""Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng: Tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng"".
Ông lập gia đình với Nguyễn Thị Minh Khai, một nữ đồng chí cùng học tại Đại học Phương Đông. Hai người có chung một người con gái tên Lê Nguyễn Hồng Minh.
Trước khi gặp Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong đã từng lập gia đình. Tuy nhiên, do Lê Hồng Phong đã thoát ly quê hương đi hoạt động từ lâu nên vợ Lê Hồng Phong đã lập gia đình mới.
Ông từng là anh em cột chèo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp (phu nhân Đại tướng – Nguyễn Thị Quang Thái là em vợ ông).
Tên ông được đặt cho các đường phố ở Hà Nội (nối Đội Cấn với Điện Biên Phủ và nối Tô Hiệu với Lê Lợi quận Hà Đông), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Hoàng Dư Khương với Trần Hưng Đạo), Hải Phòng (nối đường Đà Nẵng với sân bay Cát Bi), Nha Trang (nối đường 23 tháng 10 với đường Phước Long), Vinh (nối đường Nguyễn Thái Học với đường Phong Định Cảng, tiếp giáp với đường Nguyễn Thị Minh Khai), Cần Thơ (nối đường Cách mạng tháng Tám với quốc lộ 91), Đà Lạt (nối đường Trần Phú với đường Pasteur), Tuy Hòa (nối đường Hùng Vương với đường Lê Duẩn), Quy Nhơn, Uông Bí (từ đường Nguyễn Văn Cừ tới giáp đường sắt phường Vàng Danh), Thành phố Vũng Tàu (nối Lê Lợi với Thùy Vân),Tp Pleiku (Nối Đường Lý Thái Tổ Với Hoàng Văn Thụ Và một số con đường Khác)...
Tên ông còn được đặt cho 2 trường THPT chuyên ở Nam Định và TP.HCM
|
6296 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6296 | Hà Huy Tập | Hà Huy Tập (24 tháng 4 năm 1906 – 28 tháng 8 năm 1941) là một nhà cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư thứ ba của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hà Huy Tập sinh ngày 24 tháng 4 năm 1906 ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyên tên lúc nhỏ của ông là Hà Huy Khiêm, còn gọi là Ba, là con thứ ba trong gia đình 5 anh em.
Cha ông vốn từng đỗ Cử nhân Nho học nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà dạy học và bốc thuốc. Ngoài căn bản Nho học được truyền thụ từ cha, ông còn theo học bậc Tiểu học tại Thị xã Hà Tĩnh. Sau khi học hết bậc Tiểu học, năm 1919, ông thi vào trường Quốc học Huế. Năm 1923, ông tốt nghiệp Diplôme hạng ưu, được phân về dạy tại trường Tiểu học Nha Trang (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Văn Trỗi) cho đến năm 1926.
Tiểu sử tự thuật của Hà Huy Tập khi học tại trường Phương Đông: ""Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân hai trai hai gái. Bố tôi mất năm 1916. Mẹ tôi còn sống. Anh cả tôi khi thì ở nông thôn trồng lúa trên những thửa ruộng của mẹ tôi, khi thì làm việc trong các xí nghiệp công hoặc hầm mỏ vì anh ấy không thể đủ cấp cho nhu cầu gia đình với những công việc đồng áng. Em gái út của tôi là vợ của một người cộng sản vừa tháng 6/1929 bị kết án lao động khổ sai cho đến khi chết. Người em gái này không có điều kiện đi học. Về phần tôi, tôi đã lập gia đình với một nữ cộng sản năm 1929"..."
Chịu ảnh hưởng của cha, thời gian làm giáo viên tiểu học, ngoài việc dạy học cho lớp trẻ, Hà Huy Tập dạy chữ cho công nhân và dân nghèo. Ông trích tiền lương của mình để mua sách vở cho các học sinh nghèo của mình. Hoạt động của ông được một số trí thức trẻ khác tán đồng và giới thiệu ông tham gia vào một tổ chức chính trị có tên là Hội Phục Việt mà về sau hình thành nên Tân Việt Cách mạng Đảng.
Giữa năm 1926, Hà Huy Tập bị viên công sứ Pháp ở Nha Trang là P. Bréda (1919 - 1931?) sa thải và trục xuất khỏi Nha Trang. Tháng 8 năm 1926, ông tìm được công việc dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục (Vinh, Nghệ An). Tháng 3 năm 1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức trường Nguyễn Xích Hồng.
Tháng 1 năm 1928, Hà Huy Tập lại bị sa thải khỏi An Nam học đường. Ông vẫn tiếp tục công việc dạy học và tuyên truyền cách mạng từ Bà Rịa, Biên Hòa, đến Sài Gòn, Gia Định.
Tháng 7 năm 1928, Hà Huy Tập ra Bắc, được giao nhiệm vụ liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngõ hầu tìm cách thống nhất tất cả các tổ chức chống thực dân Pháp vào một tổ chức hành động chung. Tháng 12 năm 1928, ông được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) để tham gia một khóa huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ấn tượng mạnh với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc và tác phẩm Đường Kách Mệnh, từ đó ông tích cực hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Ngày 19 tháng 7 năm 1929, Hà Huy Tập sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Xi-nhi-trơ-kin ("Синичкин"). Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích). Trong thời gian này ông đã soạn thảo ""Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương"" và ""Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản ở Đông Dương"".
Tháng 4 năm 1934, Hà Huy Tập tốt nghiệp khóa học và trở về Việt Nam. Trên đường đi ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc, được Quốc tế Cộng sản chỉ định tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, do Lê Hồng Phong là Bí thư. Từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 6 năm 1934, Hội nghị Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương và đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước được tổ chức, gồm có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt, Nguyễn Văn Tham và Trần Văn Chấn. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết Chính trị và Nghị quyết Về các vấn đề tổ chức.
Tháng 3 năm 1935, tại Đại hội I của Đảng ở Ma Cao, Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Hà Huy Tập được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử vào cương vị Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại. Đến tháng 7 năm 1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26 tháng 7. Ông trực tiếp chỉ đạo các báo "L'Avant garde" (Tiền phong) (1937), "Dân chúng" (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.
Từ 3 tháng 9 đến 5 tháng 9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, Hà Huy Tập báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937. Ngày 30 tháng 3 năm 1938, ông cùng Lê Hồng Phong chủ trì Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Bà Điểm. Tại hội nghị này, ông thôi giữ chức Tổng bí thư, nhưng vẫn tham gia Thường vụ Trung ương Đảng. Người kế nhiệm ông là Nguyễn Văn Cừ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1938, Hà Huy Tập bị bắt do có chỉ điểm trong khi tham dự ngày Quốc tế Lao động tại Sài Gòn. Ông bị trục xuất khỏi Nam Kỳ và bị đưa về quê chịu quản thúc. Đến ngày 30 tháng 3 năm 1940, ông bị bắt lại và đưa vào Nam Kỳ. Ngày 25 tháng 10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam. Tại phiên tòa này, Hà Huy Tập đã được một luật sư trẻ là Nguyễn Văn Huyền, người về sau này giữ chức Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa, làm luật sư biện hộ.
Ngày 25 tháng 3 năm 1941, chính quyền Pháp đổi bản án của Hà Huy Tập thành án tử hình vì ""chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ"". Cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai). Trước tòa ông tuyên bố: ""Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động"".
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, Hà Huy Tập bị chính quyền Pháp xử bắn cùng với một số người khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn, Sài Gòn).
Ngày 22 tháng 11 năm 2009, hài cốt của Hà Huy Tập được phát hiện tại khu vực Bến Tắm Ngựa thuộc xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, lễ viếng và truy điệu linh cữu ông được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều quan chức lãnh đạo của đảng và hàng trăm đoàn đại biểu từ các nơi đến chờ viếng. Sau đó, linh cữu ông được đưa về an táng tại huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Toàn bộ tác phẩm của Hà Huy Tập gồm 14 bài viết và văn kiện, 20 tác phẩm sách báo trong đó có cuốn "Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương" bằng tiếng Pháp, 291 trang, xuất bản đầu năm 1933 (lấy bút danh Hồng Thế Công (H-T-C)) và "Trôtxkit và phản cách mạng" (lấy bút danh Thanh Hương). Ngoài 2 bút danh trên, Hà Huy Tập còn có các bút danh khác như Xinhikin, Xinhitrơkin, Sinitchkin, Giodep Marat, Hồng Quy Vít và Nhỏ.
v.v..
Ông Hà Huy Tập lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giáo năm 1928. Hai người có với nhau một người con gái duy nhất tên là Hà Thị Thúy Hồng, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1929. Trong đời hoạt động của mình, Hà Huy Tập đã nhiều lấy tên của con gái mình để làm bút danh như Hồng Thế Công, Hồng Quy Vít…
Khoảng 4-5 năm sau khi sinh con, bà Nguyễn Thị Giáo cùng con gái từ quê ở Hà Tĩnh vào Huế rồi lưu lạc vào Sài Gòn sống một thời gian rồi xuống Cần Thơ, sau đó lại lên Sài Gòn. Sau khi ông bị kết án tử hình, bà Giáo kết duyên với người chồng thứ hai tên là Tạ Phước Lai ở Sài Gòn, sinh thêm 3 người em chung mẹ khác cha với bà Hồng, hiện nay đều sống bên Mỹ. Bà Giáo mất năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Hồng từ thuở nhỏ được cha dượng coi như con đẻ, cho học xong chương trình Diplome trường Pháp - Việt. Sau Cách mạng tháng Tám, bà theo nghề mẹ làm giáo viên tiểu học tại trường Chi Lăng, rồi xây dựng gia đình với ông Bùi Quang Hiên hơn bà 6 tuổi. Ông Hiên đã từng tham gia Việt Minh chống Pháp tại vùng Chiến khu D, sau năm 1954, ông ở lại miền Nam và hoạt động bị tù đày ở Côn Đảo suốt 10 năm. Năm 1965 ra tù, ông về hoạt động ở Sài Gòn, rồi mất 1988. Ông bà có ba người con đều là gái có tên là Hồng Anh, Hồng Liên và Hồng Vân. Bà Hồng hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tên của ông được đặt cho các đường phố ở Hà Nội (nối Ngô Gia Tự và Đặng Phúc Thông), thành phố Hồ Chí Minh (nối Nguyễn Phan Chánh và đường Nam đoạn qua công viên hồ bán nguyệt), Đồng Hới, Quảng Bình (nối đường Hoàng Diệu với đường Lý Thái Tổ), Nam Định (nối Thành Chung với Bến Thóc), Vinh (nối Nguyễn Trãi với Nguyễn Văn Cừ), Đà Nẵng (nối đường Trường Chinh với đường Hà Khê), Quy Nhơn (nối đường Hai Bà Trưng với đường Đô đốc Bảo), Hà Tĩnh đoạn QL.1 (nối đường từ Phan Đình Phùng đến Cầu Phủ), đường Hà Huy Tập nối đường Hùng Vương với Quách Thị Trang ở Xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai...
|
6297 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6297 | Lê Duẩn | Lê Duẩn (tên khai sinh Lê Văn Nhuận, bí danh Anh Ba; 7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1976, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1986. Lê Duẩn là Tổng Bí thư có thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Theo một số nhận định, sau khi Việt Nam thống nhất Lê Duẩn là nhà lãnh đạo nắm giữ vị trí tối cao và có ảnh hưởng nhất tại Việt Nam.
Lê Duẩn, người trước đó đã dẫn dắt những người cộng sản ở miền Nam trong chiến tranh Đông Dương, là một trong những "kiến trúc sư" hàng đầu trong cuộc chiến tranh chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, với việc vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam với tác phẩm "Đề cương cách mạng miền Nam". Bản đề cương này định hướng cho hàng loạt phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam, từ đó tạo điều kiện cho Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công và tiếp quản Sài Gòn vào năm 1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam. Sau đó, Lê Duẩn tiếp tục lãnh đạo Việt Nam trong thời kỳ xảy ra 2 cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Lê Duẩn, tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông (nay thuộc xã Triệu Thành), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nông dân. Cha ông là Lê Hiệp, làm nghề mộc. Mẹ ông là Võ Thị Đạo, làm ruộng. Sau đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm về ông được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
Năm 1920, Lê Duẩn học hết Tiểu học. Sau đó ông lên tỉnh học Trung học được 1 năm thì bỏ học. Khi lớn lên, chứng kiến cảnh đất nước bị thống trị bởi thực dân Pháp, Lê Duẩn đã nuôi hy vọng phải cứu nước. Ông tâm sự: ""Hồi 15 tuổi, đọc lịch sử, tôi buồn lắm, nghĩ nhất định phải đi cứu nước"."
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, Hồ Chủ tịch đã chọn ông là người lãnh đạo kế tục, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, vì ông là người vừa nắm rõ đường lối của Trung ương vừa có trình độ lý luận, am hiểu Chủ nghĩa Marx. Chiến trường Nam Bộ ngày ấy vừa xa xôi vừa phức tạp, để có một sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương, phải cần một người am hiểu cả địa thế lẫn lòng dân. Vì vậy năm 1957, Hồ Chủ tịch đã gọi ông ra Hà Nội gấp và nhanh nhất có thể để trực tiếp giúp điều hành công việc chung của Đảng.
Vào cuối tháng 4 năm 1957, Lê Duẩn đã được Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh điều ra Hà Nội. Ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Tại miền Nam, trong 4 năm (1955–1958), Việt Nam Cộng Hòa đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng. Tại Nam Bộ, chỉ còn 5.000 đảng viên so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên chết, 12 huyện không còn cơ sở Đảng. Tính riêng ở hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng, trong ba năm từ 1957 đến 1959, gần một vạn cán bộ, đảng viên đã chết hoặc ở tù. Ở Bến Tre, 17.000 người bị bắt, tù đày. Tại trại giam Phú Lợi ở Thủ Dầu Một, có 6.000 người đã bị chính quyền đầu độc làm cho 1.000 người chết ngay, 4.000 người bị trúng độc nặng. Trong tháng 6 năm 1959, Xứ ủy Nam Bộ đã 3 lần điện gửi Trung ương Đảng báo cáo về tình hình Việt Nam Cộng Hòa tăng cường ở Tây Nam Bộ và khẳng định: "“Sự đàn áp khốc liệt của địch làm cho nhân dân Nam Bộ không còn con đường nào khác phải vùng lên chống lại”"
Hai đại biểu của Xứ ủy Nam Bộ là Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô đã ra Bắc báo cáo trực tiếp, tại đây, 2 ông cùng với Lê Duẩn báo cáo tình hình cách mạng miền Nam và có tác động mạnh mẽ để Trung ương Đảng thông qua "Đề cương cách mạng miền Nam" do Lê Duẩn viết và Nghị quyết 15 chuyển hình thức đấu tranh chính trị đơn thuần sang kết hợp đấu tranh vũ trang. Lê Duẩn đã bố trí cho hai người tới chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhắc: "“Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác”". Trong cuộc gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "“Các chú về báo cáo với Xứ ủy: nhất định không để cho địch tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam... Trung ương ở xa, Xứ ủy vừa có trách nhiệm với Trung ương, vừa phải có trách niệm với Đảng bộ và nhân dân miền Nam”". Phan Văn Đáng và Phạm Văn Xô đã trao đổi hai ngày với Lê Duẩn trước khi trở lại chiến trường Nam Bộ, được Lê Duẩn nhắn nhủ: "“Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!”" Trong thư "“Gửi anh Mười Cúc và các đồng chí Nam Bộ ngày 7 tháng 2 năm 1961”", Lê Duẩn nhắc lại: "“Hồi ấy, có đồng chí đề nghị không nên đấu tranh vũ trang vì sợ rằng dùng lực lượng vũ trang sẽ có hại cho việc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ. Nhưng tôi đã trình bày, đã nói rõ sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang”"
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trong giai đoạn này, do sức khỏe suy giảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải giảm dần các hoạt động chính trị, ông muốn tìm người kế tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng của mình. Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao, chẳng hạn như khi nói chuyện với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Aleksey Nikolayevich Kosygin vào năm 1963, Hồ Chí Minh nói rằng ông sẽ dần bàn giao mọi công việc cho người kế cận là Lê Duẩn. Kể từ năm 1967, theo một số nhận định thì ông Duẩn đã trở thành người có ảnh hưởng và vị thế cao nhất trong Bộ Chính trị.
Theo Stein Tonnesson, Lê Duẩn là một nhà lãnh đạo xuất thân từ địa phương. Ông chưa bao giờ đi khắp thế giới lúc còn trẻ như Hồ Chí Minh. Ông cũng chưa bao giờ sát cánh làm việc với Hồ Chí Minh ngay từ những năm 1940 như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp hay Trường Chinh. Quyết định của Hồ Chí Minh trao chức lãnh đạo Đảng cho Lê Duẩn năm 1957–1960, và việc Hồ Chí Minh ủng hộ Lê Duẩn trong cuộc bầu cử năm 1960, phải được hiểu như là một cách để đảm bảo sự đoàn kết quốc gia. Ở thời kỳ mà đất nước Việt Nam đang bị chia đôi, và nhiều cán bộ Miền Nam đã tập kết ra Bắc, cách hay nhất để bảo đảm Đảng Lao động Việt Nam sẽ đại diện cho tất cả người Việt Nam ở mọi miền đất nước, là đưa một cán bộ từ Miền Nam lên lãnh đạo toàn Đảng, đây có thể chính là động lực thúc đẩy đưa đến sự lựa chọn của Hồ Chí Minh.
Lê Duẩn là người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam. Trong 1 cuộc họp, ông tuyên bố cuộc chiến chống đế quốc Mỹ là sự nghiệp chung vì cả dân tộc cũng như toàn thế giới:
Cùng với quân sự là ngoại giao, ông rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: ""Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và mình không rút"."
Lê Duẩn luôn nhấn mạnh: muốn thắng Mỹ thì Việt Nam phải có tinh thần tự lực, không sợ kẻ thù và cũng không để nước ngoài (kể cả đồng minh) chi phối. Trong một cuộc họp, ông nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh: "“Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô”". Có người trong Bộ Chính trị phản đối ý kiến đó, nhưng đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đứng lên ủng hộ: "“Thưa Bác, việc anh Ba nói vậy là vô cùng cần thiết và nhất định phải như vậy chúng ta mới thắng được”". Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến đó.
Lê Duẩn đồng ý nhận viện trợ vũ khí của các nước để đánh Mỹ, nhưng ông không đồng ý nếu các nước này dùng viện trợ để tìm cách gây sức ép với Việt Nam. Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện xe phải đi kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có người trong Bộ Chính trị đề nghị "sao không nhận một vài chiếc cho người ta vui?", nhưng ông vẫn kiên quyết từ chối.
Trong thời gian chuẩn bị diễn ra Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Trung Quốc (ông liên tục ốm nặng kể từ năm 1966, hầu như cả năm 1967, ông ở Trung Quốc chữa bệnh). Tuy vậy, Hồ Chủ tịch vẫn quay về Việt Nam 2 lần (vào tháng 7 và tháng 12 năm 1967) để chỉ đạo và phê duyệt quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tối ngày 23 tháng 12, Hồ Chí Minh đi máy bay về đến Hà Nội, đích thân Lê Duẩn cùng Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Hồ Chí Minh tại sân bay, cùng về nhà và báo cáo công tác chuẩn bị cho Hồ Chí Minh. Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà sàn của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh cùng Lê Duẩn và các thành viên khác của Bộ Chính trị đã thống nhất lần cuối kế hoạch tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân.
Năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời. Lê Duẩn là người đọc điếu văn tang lễ, ông đã nấc nghẹn nhiều lần khi đọc lời truy điệu "“… Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta…”". Đây là lần duy nhất người ta thấy ông khóc trong các bộ phim tài liệu.
Đại tướng Lê Đức Anh viết về Lê Duẩn trong giai đoạn này:
Đầu tháng 6 năm 1973, sau khi nghe báo cáo việc Bộ Tổng Tham mưu đang xúc tiến xây dựng ""Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà"", Lê Duẩn đã triệu tập toàn tổ soạn thảo sang trực tiếp trình bày cho Lê Duẩn nghe về bản kế hoạch ngay chiều hôm ấy. Ông cơ bản nhất trí với những nội dung chính của báo cáo, đồng thời chỉ ra một số phương hướng để thực hiện kế hoạch. Ngày 20 tháng 7 năm 1974, Lê Duẩn lại có cuộc gặp riêng với Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – hai Phó Tổng tham mưu trưởng tại Đồ Sơn, Hải Phòng. Ông kết luận: ""Tôi đồng ý với ý kiến của Bộ Tổng tham mưu là Bộ Chính trị phải có nghị quyết về tình hình mới, thống nhất hành động, thống nhất ý chí để huy động sức mạnh của cả nước vào sự nghiệp lớn lao này"". Và ông đã cho nhiều ý kiến chỉ đạo, xác đáng vào kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu.
Các ý kiến bổ sung của Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp vào bản kế hoạch cũng chỉ rõ: ""Mặc dù các năm 1975 và 1976 đều quan trọng nhưng năm 1975 là năm bản lề tạo điều kiện quyết định để năm 1976 đạt mục tiêu cuối cùng. Nếu thời cơ đến vào năm 1975 thì lập tức tiến hành tổng tấn công, giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975"".
Sau chiến thắng trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975, trong diễn văn mừng chiến thắng gửi toàn thể nhân dân, Lê Duẩn viết:
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV (tháng 12 năm 1976) và lần thứ V (tháng 3 năm 1982), Lê Duẩn tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, đồng thời được bầu giữ chức Tổng Bí thư liên tiếp hai nhiệm kỳ, nhưng khi chưa kết thúc nhiệm kỳ thứ hai vào năm 1986 thì đã mất đột ngột, khi vẫn đang đương chức. Đến tháng 5/1986, do sức khỏe của ông đã yếu, Ban Chấp hành Trung ương quyết định bàn giao một số nhiệm vụ của ông dành cho Trường Chinh. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Ngay sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu gây khó khăn cho Hoa kiều khi muốn thăm thân nhân ở Trung Quốc, và cũng không cho nhiều người Trung Quốc sang Việt Nam thăm người thân.
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa trong chuyến thăm Trung Quốc. Phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc làm ông khó chịu. Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố "Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt – Trung", trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng quốc phòng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Việc này đã khiến Trung Quốc bất bình và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc.
Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, khoảng 4% dân số Việt Nam là người gốc Hoa, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc. Ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường miền Nam Việt Nam.
Vấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn. Với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng uy thế kinh tế của Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình, vấn đề Hoa kiều được Chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Năm 1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Quốc.
Năm 1978, người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho Chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài và coi người Hoa kiều là một tổ chức bí mật hoạt động ở Việt Nam và sẵn sàng tiếp tay với Trung Quốc để phá hoại. Để chấm dứt tình trạng này, Lê Duẩn đưa ra biện pháp cứng rắn là quốc hữu hóa tài sản của người Hoa. Trong các tháng 3 và 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, Nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Đến năm 1982, người Hoa ở Việt Nam đã lũ lượt rời Việt Nam vượt biên qua đường biển, đường bộ để đến nước thứ ba.
Đến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ đã mất đi phần lớn. Việt Nam là một ngoại lệ hiếm hoi so với những nước Đông Nam Á khác: người gốc Hoa đã gần như bị đồng hóa bởi người Việt Nam, họ cũng không còn gắn kết thành một cộng đồng tự trị như trước. Mặc dù đám đông người Việt có thể phản đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù gia đình thương gia gốc Hoa (trong khi ở các nước Đông Nam Á khác, người Hoa có sức ảnh hưởng rất mạnh: vào cuối thế kỷ 20, người gốc Hoa sở hữu hơn 80% thị trường chứng khoán Thái Lan, 62% ở Malaysia, 50% ở Philippines, trên 70% tổng số tài sản công ty tại Indonesia, và các nước sở tại đều không thể đồng hóa được họ. Ở Thái Lan thì người gốc Hoa thậm chí còn chiếm một tỉ lệ đáng kể trong Chính phủ).
Trong thời gian Lê Duẩn nắm quyền cao nhất Việt Nam từ năm 1975 đã xảy ra hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc.
Ông đã lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn này, thành công trong việc tiêu diệt chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia và ngăn chặn được quân Trung Quốc ở phía Bắc.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công về quốc phòng, Ban Chấp hành Trung ương do ông đứng đầu đã phải đối mặt với những khó khăn lớn về kinh tế, và hậu quả của các cuộc chiến tranh khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, Việt Nam bị cô lập trong suốt giai đoạn 1976–1986.
Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế. Ông thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị trường tự do ở miền Nam. Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ông đã phát biểu:
Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa ngay. Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế giai đoạn đó: ""Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất (về kinh tế) trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12 năm 1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)""
Sau 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học tại Việt Nam là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới. Mỹ và các nước thân Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu thì mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn đến sụp đổ. Khối SEV, nguồn viện trợ duy nhất của Việt Nam đã cạn dần rồi mất hẳn. Lê Duẩn đã cố gắng chèo lái nước nhà không bị sụp đổ, tuy có gian nan vất vả nhưng vẫn trụ vững.
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, ông từng muốn duy trì kinh tế thị trường tại miền Nam và kinh tế bao cấp tại miền Bắc để đánh giá ưu khuyết điểm, từ đó chọn con đường tốt nhất. Ông cũng cử ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sang Mỹ để đàm phán bình thường hóa quan hệ. Nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó khiến Lê Duẩn không dễ thực hiện mục đích của mình. Chính phủ Mỹ từ chối bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, trong khi những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin vào hiệu quả của hệ thống xã hội chủ nghĩa mô hình Xô viết bởi khi đó Liên Xô vẫn đang rất hùng mạnh. Khi Nam Tư đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, họ đã bị khai trừ ra khỏi hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa. Do đó, những ý tưởng của Lê Duẩn là trái với lý tưởng của nhiều người trong tập thể ban lãnh đạo. Cho nên, Lê Duẩn không thể dễ dàng bày tỏ quan điểm của mình và thuyết phục những lãnh đạo khác nhất trí với quan điểm đó. Nếu cứ cố làm thì sẽ gây chia rẽ trong nội bộ Đảng, mà cần phải làm từ từ để dần thuyết phục những người khác. Cho tới nay, nhiều người vẫn phê phán Lê Duẩn vì việc duy trì nền kinh tế bao cấp quá lâu, nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó đã khiến ông không thể làm khác đi được.
Tại Đại hội lần thứ năm của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 3 năm 1982), "Báo cáo chính trị" của Lê Duẩn đã phê bình hai loại nhận thức: Một là “chủ quan nóng vội” (đề ra một số chỉ tiêu quá cao về quy mô, tốc độ phát triển sản xuất ở một số địa phương); Hai là “bảo thủ, trì trệ”, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách chế độ. Đại hội đã quyết định “Đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ… Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa coi trọng giá trị và quy luật giá trị”. Như vậy, ngay từ Đại hội 5, Ban Chấp hành Trung ương và Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Đại hội Đảng lần 6 (năm 1986) là bắt đầu của công cuộc Đổi Mới, nhưng ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội 5 với bài phát biểu của Lê Duẩn.
Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1986, khi vẫn còn đương chức ở tuổi 79. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã giữ chức Tổng bí thư cho đến khi Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng bí thư vào tháng 12. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Mai Dịch.
Ông có hai người vợ:
Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư, Lê Duẩn đã để lại nhiều di sản với lịch sử Việt Nam. Ông có công lao trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ để giải phóng và thống nhất dân tộc, cũng như ý chí kiên cường, tinh thần cảnh giác trong việc chống lại chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Theo một số nhận định, Lê Duẩn luôn có tự tin khi đứng trước những nhà lãnh đạo Trung Quốc, ông từng nói: ""Chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô"". Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến đó, tuy nhiên những văn bản họp Bộ Chính trị khi đó hầu như chưa được công bố, khiến những câu chuyện về tinh thần dân tộc của Lê Duẩn không thực sự được biết rộng rãi trong dân chúng.
Khi còn sống, theo một số nhận định, Lê Duẩn lúc nào cũng cho rằng hiểu Trung Quốc là chuyện sống còn của dân tộc Việt Nam. Trong suốt chiến tranh chống Mỹ, rất nhiều lần Trung Quốc muốn dùng những khoản viện trợ để lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ, nhưng Lê Duẩn không nhận bất cứ một khoản viện trợ nào mà ông cho là có nguy cơ đối với nền độc lập của Việt Nam. Một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông: "Với Tổng Bí thư Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh quốc gia". Vì tư tưởng này, Lê Duẩn đã trở thành lãnh đạo Việt Nam làm Trung Quốc "gai mắt" trong giai đoạn ấy.
Trong cuốn ""Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á"", do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản năm 2006, có nói về việc Lê Duẩn từ chối nhận viện trợ quân sự của Trung Quốc để Viêt Nam tránh khỏi sự lệ thuộc vào nước này:
Trong lần gặp đầu tiên trong năm 1963 ở Vũ Hán, nơi mà Mao Trạch Đông đã tiếp một phái đoàn của Đảng Lao động Việt Nam. Trong buổi họp đó, Lê Duẩn nói là đã hiểu ý định thật sự của Mao Trạch Đông là muốn khống chế Việt Nam và đã cảnh cáo ông ta là Việt Nam có thể đánh bại các lực lượng Trung Quốc dễ dàng. Mao Trạch Đông đã cố tình hỏi Lê Duẩn: "“Đồng chí, có đúng là dân tộc ông đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”" Lê Duẩn nói: "“Đúng như vậy”". Mao Trạch Đông hỏi tiếp: "“Lại một lần nữa, có đúng không, đồng chí, là các ông đã đánh bại quân nhà Thanh?”" Lê Duẩn trả lời: "“Đúng như vậy.”" Mao Trạch Đông lại hỏi: "“Và cả quân nhà Minh nữa?”" Tới lúc đó, Lê Duẩn nói thẳng thừng: "“Đúng, và luôn cả quân đội của ông nữa, nếu các ông tìm cách xâm lược đất nước tôi"."
Trong cuộc gặp Chu Ân Lai năm 1971, Lê Duẩn trả lời: "“Đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi sẽ không nghe theo. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt Nam. Việt Nam là của chúng tôi; không phải là của đồng chí.”" Dù bị trả lời hằn học, nhưng trong bản tường trình cuộc họp của Chu Ân Lai đã nhắc đến lòng ái quốc cương trực của Lê Duẩn.
Theo Stein Tonnesson thuộc Viện Đại Học Olso, phát biểu tại buổi Hội Thảo Quốc tế, Hồng Kông, ngày 12 tháng 1 năm 2000:
Con trai Lê Duẩn kể lại:
Lê Duẩn đọc rất nhiều và luôn suy nghĩ. Ông đọc vào mọi dịp, đọc trong nhà tù, đọc khi đi nghỉ ở nước ngoài, đến lúc tuổi cao sức yếu vẫn say mê đọc. Trong điều kiện những năm 1980 trở về trước, ít người tham khảo "Bách khoa toàn thư Pháp" hay Kinh Coran của đạo Hồi để làm công tác như Lê Duẩn. Theo ông ""để làm việc với các tín đồ đạo giáo, cần hiểu đúng tôn giáo của họ"". Đến thăm học viên là cán bộ trung, cao cấp đang nghiên cứu Lịch sử Đảng, trao đổi với anh em ở hành lang, Lê Duẩn nói: ""Theo tôi, bài học lớn nhất của Đảng ta là phải độc lập suy nghĩ, giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt Nam trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thực tế của Việt Nam""
Những năm 1960, Lê Duẩn phát biểu: ""Để hiểu việc, con người dùng lý lẽ, lý trí, nhưng khi hành động phải có tình cảm… Cách mạng tư tưởng và văn hóa gắn tình cảm với lý trí. Nói nghệ thuật là nói quy luật riêng của tình cảm. Nghệ thuật vận dụng quy luật của tình cảm"". Đầu những năm 1980, Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức Hội nghị tập huấn tổng biên tập các báo địa phương, ông nói: ""Làm báo là làm công tác khoa học, đồng thời là làm nghệ thuật"".
Tư tưởng "làm chủ tập thể trên lập trường giai cấp vô sản" lần đầu được Lê Duẩn đưa ra vào tháng 6 năm 1965, và nhiều bài phát biểu về sau, ông phân tích:
""Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, động lực đó là lợi nhuận. Lợi nhuận là động lực của cách mạng kỹ thuật, của các cuộc xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, của việc mở rộng nền sản xuất lớn, v.v.. Lợi nhuận là nhân tố kích thích mạnh mẽ nhất sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, là cái mà hằng giờ hằng phút bọn tư bản suy nghĩ đến". Còn trong chế độ xã hội chủ nghĩa "Tất cả những người lao động đều phải lấy việc sản xuất của cải vật chất nhiều hay ít làm thước đo sự cống hiến của mình vào nền sản xuất xã hội; vì vậy, chúng ta phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nguyên tắc đó là một động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng nhân tố thường xuyên, mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực sản xuất của quần chúng công nông là ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể của họ". "Xây dựng tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chống chủ nghĩa cá nhân, và chống chủ nghĩa cá nhân là để xây dựng tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa"".
""Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng nước ta thành một xã hội trong đó người chủ chân chính, tối cao là cộng đồng xã hội, là tập thể nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông. Nội dung của làm chủ tập thể là làm chủ toàn diện, là làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; là làm chủ trong cả nước, trong từng địa phương và từng cơ sở; là trên cơ sở làm chủ đầy đủ của tập thể, của cộng đồng xã hội mà bảo đảm tự do cũng đầy đủ cho mỗi người; và ngược lại "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"." "Phải phát động quần chúng, phải tuyên truyền giáo dục, làm cho mọi công dân Việt Nam từ em bé đến cụ già, nhất là tầng lớp thanh niên hiểu rằng họ là người chủ của nước Việt Nam, rằng tất cả của cải, tài nguyên của đất nước này đều thuộc về tập thể nhân dân, thuộc về những thế hệ hôm nay và cả những thế hệ ngày mai. Họ phải làm tròn nghĩa vụ của người làm chủ đất nước, đồng thời họ có đầy đủ những quyền của người làm chủ: quyền làm việc, học hành, vui chơi, quyền phát biểu ý kiến về bất cứ vấn đề gì của Nhà nước nhằm mưu cầu sự giàu có cho đất nước và hạnh phúc cho đồng bào; không ai được áp bức, ép buộc họ."
""Chế độ làm chủ tập thể hơn hẳn mọi nền dân chủ trong lịch sử. Nó không phải là dân chủ của một số ít người, cũng không phải là dân chủ cho từng cá nhân riêng lẻ. Nó thể hiện vai trò làm chủ tập thể của cả cộng đồng xã hội của từng tổ chức và của từng người trong cộng đồng. Kết hợp chặt chẽ lợi ích của toàn xã hội với lợi ích của tập thể và lợi ích của mỗi người, nó bảo đảm cho cả cộng đồng xã hội cũng như từng tổ chức trong cộng đồng phát triển một cách tốt nhất, đồng thời bảo đảm tự do đầy đủ nhất cho mỗi thành viên của xã hội...Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa có hai mặt: toàn xã hội làm chủ tập thể và từng người một làm chủ tập thể. Cả xã hội làm chủ và từng người một làm chủ, làm chủ tập thể và cá nhân có đầy đủ tự do, hai cái đó thống nhất với nhau, không hề có mâu thuẫn...Làm chủ tập thể là làm chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hoá...Làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân"".
""Trong chế độ làm chủ tập thể, mọi người lao động không thụ động tiếp nhận và hưởng thụ các quyền dân chủ từ một quyền lực bên ngoài mang đến, mà tự giác và chủ động đóng vai người làm chủ thật sự về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân lao động tự mình thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình bằng một cơ cấu tổ chức hợp lý, bằng một chế độ sản xuất và phân phối hợp lý, bằng những phong trào cách mạng liên tục, sôi nổi của hàng chục triệu người. Chế độ làm chủ tập thể thực hiện trong cả nước, trong từng địa phương, từng cơ sở, gắn chặt làm một lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập thể và của toàn xã hội. Đối với mỗi con người, chế độ làm chủ tập thể bảo đảm sự phát triển toàn diện nhất, những quyền lợi đầy đủ nhất đi đôi với những nghĩa vụ cao cả mà mọi người phải làm trọn."
""Chỉ có chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mới giải quyết đúng mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Ở đây, vừa thiết lập sự làm chủ tập thể của cả cộng đồng xã hội Việt Nam, vừa phát huy cao độ quyền tự do chân chính của cá nhân, khơi dậy mọi năng lực sáng tạo của cá nhân, thống nhất hài hoà cá nhân với xã hội. Thiết lập chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động là mục đích của chủ nghĩa xã hội, đồng thời đó là một động lực quan trọng của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Làm chủ tập thể xã hội là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, trước hết là làm chủ về chính trị tiến lên làm chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó làm chủ về kinh tế là quan trọng nhất."
Lê Duẩn cũng giải thích thêm: ""Chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ tất cả những cái riêng của mọi người, nhưng mỗi người phải tham gia vào cái chung, phải phục vụ cái chung, vì cái chung... Chủ nghĩa xã hội không bao giờ chủ trương xóa bỏ quyền lợi cá nhân, mà chỉ làm sao cho quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể nhất trí với nhau. Ta khuyến khích mỗi người cố gắng tiến lên để đời sống chung và riêng được khá hơn... Hơn nữa, hiện nay về mặt kinh tế, phần cá thể vẫn còn là một nguồn sống của mỗi con người chúng ta"". Trong khi coi trọng cái riêng, quyền lợi cá nhân, ông cũng phê phán tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cục bộ.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tám BCHTW khóa IV ông cho là chế độ làm chủ tập thể do các nhà kinh điển nêu ra, nhưng tại Hội nghị lần thứ tám TW khóa V, ông nói Marx, Lenin chưa nói đến, nhưng Việt Nam đang làm trong thực tế. Có thể xem tư tưởng làm chủ tập thể là một nỗ lực của Lê Duẩn tạo ra quan hệ sản xuất mới để thay thế cho quan hệ sản xuất cũ đã bị nhà nước Việt Nam xóa bỏ. Tuy nhiên nhiều người chưa thật sự hiểu tư tưởng của ông và việc áp dụng tư tưởng này vào thực tế không thành công như ông mong đợi. Nếu xem chủ nghĩa cộng sản là một hình thái xã hội cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định trong cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế thì tư tưởng làm chủ tập thể của Lê Duẩn chính là nỗ lực tạo ra một xã hội như vậy. Tuy nhiên trình độ dân trí, trình độ tổ chức xã hội, trình độ sản xuất của Việt Nam chưa thích hợp để hiện thực hóa tư tưởng này. Sau Đổi mới, đường lối làm chủ tập thể không còn được nhắc đến trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong nước đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương (11-1939) - chuyển hướng đấu tranh cách mạng; chỉ đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là ""Xứ ủy Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất "người nông dân có ruộng cày" không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện pháp đúng đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy"", đặc biệt vai trò lớn của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Chính ông là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam' (sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959). Theo ông Võ Văn Kiệt: ""Đề cương Cách mạng miền Nam" được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1 Sài Gòn, nay là Tp. HCM."" Ý kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Giáo sư Kinh tế Đặng Phong nhận xét về Lê Duẩn: ""Thí dụ khi nói về ông Lê Duẩn và các chủ trương làm chủ tập thể, xây dựng cấp huyện... thì rõ ràng đó là các sai lầm gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế. Nhưng tôi vẫn kính trọng ông Duẩn là một nhà tư duy lớn, còn những gì sai thì sau đó phải sửa, có gì là xúc phạm đâu?""
Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: ""Năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần". Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới... Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không"". Theo GS Tương Lai: ""Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc của tư tưởng giáo điều "tả" khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để vượt ra khỏi những áp đặt"".
Giáo sư Trần Phương có thuật lại: ""Tôi nhớ có lần, vào một buổi sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào "quẳng" xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: "Các anh đọc đi!". Rồi anh nhếch mép cười, đi ra... Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: "Tại sao Anh không công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo...". Anh nói: "Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng..."". Ông Trần Phương cũng cho rằng: ""Ai đó đã nói rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú".". Theo những người trợ lý thân cận nhất của Lê Duẩn kể lại thì thái độ của ông đối với khoán ở Vĩnh Phúc (1966-1968) khác với nhiều người lúc đó. Nhưng ông chưa kịp can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ, mà đã có lệnh rồi thì không thể đảo ngược lại được. Ông Đậu Ngọc Xuân là trợ lý của ông kể lại: ""Khi khoán Vĩnh Phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về việc những sáng kiến quá mới như thế thường không dễ đi ngay vào cuộc sống""...
Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: ""Cầm quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi nóng với Chính phủ: "Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi...". Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn"".
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận xét về Lê Duẩn như sau: ""Tôi nhớ khi đó Bộ Chính trị phân công từng đồng chí nghe riêng từng báo cáo, sau đó lại nghe chung. Riêng anh Ba (Lê Duẩn) nghe rất kỹ, không chỉ một lần. Cuối cùng, Bộ Chính trị chính thức họp và thống nhất cao với kết luận của anh Ba và sau đó đã điều chỉnh chủ trương sát hơn với thực tế chiến trường: Kiên quyết đánh trả sự lấn chiếm của địch. Nhờ đó, cục diện chiến trường thay đổi, ta giữ được thế chủ động, tiến công. Có thể nói, sự chỉ đạo của anh Ba sau Hiệp định Paris thêm một minh chứng nữa cho sự nhạy cảm tuyệt vời của anh và chỉ có thể là người từng lăn lộn ở chiến trường mới có được sự nhạy cảm đó.""
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết rằng:
Con trai Lê Duẩn là Thiếu tướng Lê Kiên Trung, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an, đã nói:
Một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông:
Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn là người đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng.
David Elliott, trong quyển sách "The Vietnamese War" (2003), phê bình chính sách kinh tế cứng nhắc của ban lãnh đạo Việt Nam trong giai đoạn 1976–1986, mà đứng đầu là Lê Duẩn, ông cho rằng ""họ thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa Việt Nam đi tiếp trên đường phát triển.""
Stein Tonnesson thuộc Viện Đại Học Olso, cho rằng:
Khi ông mất, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc khi đó đã có bức điện chia buồn "... "Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam"...". (Điện của Tổng Thư ký liên hiệp quốc Javier Pérez de Cuéllar.)
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - phần thưởng cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam. Các nước Liên Xô, Lào, Campuchia, Ba Lan, Bulgaria, Cuba, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hunggary, Mông Cổ, Tiệp Khắc đã tặng ông nhiều huân chương cao quý. Ủy ban giải thưởng quốc tế Lênin tặng giải thưởng “Vì sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc”.
Tên ông được đặt cho một quảng trường thuộc quận Tây Nam Yasenevo, Moskva, Liên bang Nga từ năm 1987.
Tên của ông cũng được đặt cho nhiều tuyến đường ở Việt Nam:
|
6298 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6298 | Nguyễn Văn Linh | Nguyễn Văn Linh, tên khai sinh là Nguyễn Văn Cúc (1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 đến 1991. Thời kỳ là Tổng Bí thư, ông nổi tiếng với bút danh N.V.L. (sau này ông cho biết đó là "Nói Và Làm") với một loạt những bài báo trong chuyên mục "Những việc cần làm ngay" trên báo Nhân Dân bàn về những việc cần phải chấn chỉnh trong xã hội. Ông được xem là người mở đường và có công lớn trong công cuộc Đổi Mới của Việt Nam sau khi nó được khởi xướng từ người tiền nhiệm của ông, Tổng bí thư Trường Chinh.
Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc, sinh tại Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên (vốn là xã Yên Phú, huyện Văn Giang - Bắc Ninh). Ông xuất thân trong một gia đình công chức, cha là Nguyễn Đức Lan, mẹ là Nguyễn Thị Nghiêm.
Năm 1925, khi đang học tiểu học ở Hà Nội, bà nội và chú ruột Nguyễn Đức Thụ chuyển về Hải Phòng, đã đưa Nguyễn Đức Cúc về thành phố này học tập tại trường Bonnan (nay là trường Trung học phổ thông Ngô Quyền thuộc quận Lê Chân, TP. Hải Phòng), học lớp đệ nhất bậc Thành chung. Khi lên lớp nhất bậc Thành chung, niên khóa 1929-1930, Nguyễn Đức Cúc được chuyển về học tại Trường Jean Dupuis. Năm 1929, ông tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
Ngày 1 tháng 5 năm 1930, được tổ chức Đảng giao nhiệm vụ, Nguyễn Đức Cúc cùng hai người bạn học là Nguyễn Văn Thiên và Lê Viên mang truyền đơn cách mạng kỷ niệm Ngày quốc tế lao động đi rải ở phố Cát Dài thì bị mật thám bắt và mặc dù còn ở tuổi vị thành niên, tòa án thực dân Pháp kết tội ông 18 tháng tù giam khi mới 15 tuổi. Ngày 26 tháng 1 năm 1931, tòa án Pháp đưa ông ra xử lại cùng với 191 tù chính trị, trong đó có 72 người tù cộng sản, bị kết án chung thân, lưu đày đi Côn Đảo. Vậy là ở tuổi 15, đồng chí đã bị kẻ địch lưu đày, rồi dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng.
Khi bị lưu đày ở Côn Đảo, ông có cơ hội được gặp hầu hết các nhà lãnh đạo của Đảng cũng đang bị cầm tù ở đây như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Bùi Công Trừng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Ngô Gia Tự... Đầu năm 1932, chi bộ đặc biệt của Đảng ra đời ở banh 1 để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại sự khủng bố của kẻ thù, giữ vững khí tiết của những người cộng sản. Được sự kèm cặp của lớp cách mạng đàn anh, Nguyễn Văn Linh tiếp tục được học văn hóa, học nâng cao trình độ tiếng Pháp và lý luận Mác – Lênin.. Ông bị kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm quyền, ông được trả tự do.
Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động ở Hải Phòng. Tháng 3 năm 1937, Xứ ủy Bắc Kỳ được tái lập lại ở Hà Nội. Ông Nguyễn Văn Linh được phân công giúp việc cho cơ quan Xứ ủy và sau đó Xứ ủy cử ông xuống Hải Phòng tổ chức lập lại Thành ủy Hải Phòng.
Tháng 4 năm 1937, tại cơ sở cách mạng ở Ngõ Đá, phố Cát Dài đã diễn ra hội nghị thành lập Thành ủy gồm Nguyễn Văn Túc (Nguyễn Công Hòa), Đinh Xuân Nhạ (tức Trần Quý Kiên), Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Vượng, Tư Thành, Hoàng Văn Trành... Hội nghị đã nhất trí cử ông Linh làm Bí thư Thành ủy nhưng ông dứt khoát từ chối vì chưa phải là đảng viên vì vậy Hội nghị cử Nguyễn Văn Túc làm Bí thư. Ban Tỉnh ủy mới vừa phát triển, củng cố tổ chức vừa phát động công nhân, lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ làm đà cho cao trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939). Sau đó ông chuyển lên hoạt động ở Hà Nội.
Khi trở lại Hà Nội báo cáo với Bí thư Xứ ủy Trường Chinh thì Xứ ủy mới biết Nguyễn Văn Linh chưa phải đảng viên vì Trung ương vẫn nghĩ ông đã vào Đảng năm 1930 khi bị đày đi Côn Đảo. Do vậy, Trường Chinh đã công nhận ông Linh vào Đảng kể từ năm 1936 và tiếp tục cử xuống Hải Phòng hoạt động, làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng – Kiến An khi Bí thư Nguyễn Văn Túc được Xứ ủy cử đi vùng khác hoạt động.
Sau đó, ông vào hoạt động tại Sài Gòn và là cấp dưới trực tiếp của Bí thư Sài Gòn thời kì này - bà Nguyễn Thị Minh Khai.
Năm 1939, ông tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Sài Gòn, sau đó được Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại Xứ ủy Trung kỳ.
Năm 1941, ông bị bắt ở Vinh, bị kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Đến năm 1945, ông hoạt động ở miền Tây Nam Bộ, sau đó ở Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định.
Năm 1947, Nguyễn Văn Linh là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, đến 1949 là Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ 1955 tới 1960, ông là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
Từ 1957 đến 1960, ông là Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư (1961 - 1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Ông có những đóng góp không nhỏ đối với chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam miền Nam Việt Nam, điều này đã chứng kiến ông chỉ đạo cuộc kháng chiến du kích chống lại chính phủ đồng minh của Hoa Kỳ ở đó, nhưng hầu hết các nhiệm vụ của ông là tổ chức hơn là quân sự. Ông cũng chuyên tuyên truyền, nghiên cứu và cố gắng gây ảnh hưởng đến nền chính trị Hoa Kỳ có lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông đã huấn luyện các điệp viên bí mật đặc biệt của Việt Cộng thâm nhập vào các tổ chức chính phủ ở Sài Gòn. Năm 1968, Nguyễn Văn Linh chỉ đạo Tết Mậu Thân chống lại Việt Nam Cộng hòa. Cuộc tấn công bất ngờ này vào hầu hết các thị trấn và thành phố của miền Nam Việt Nam là một bước ngoặt của Chiến tranh Việt Nam. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc và Việt Nam tái thống nhất năm 1975, Nguyễn Văn Linh được giới thiệu vào Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản và trở thành bí thư thành ủy thủ đô Sài Gòn.
Năm 1976, khi Thành phố Sài Gòn đổi tên làm Thành phố Hồ Chí Minh, ông được cử làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xã hội chủ nghĩa Trung ương, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến 1980.
Trước Đại hội Đảng lần thứ V, Nguyễn Văn Linh xin rút ra khỏi Bộ Chính trị, trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1981), thay ông Võ Văn Kiệt ra trung ương. Về sau, ông giải thích với ông Võ Trần Chí người sẽ giữ cương vị Bí thư Thành ủy: ""Bởi vì mình thấy các anh ấy không muốn mình ở đó nên mình xin rút..."". Ông trở thành một nhân vật quan trọng trong lịch sử của thành phố này.
Từ 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, lúc Lê Duẩn đi nghỉ ở Liên Xô cũ; ba vị lãnh đạo cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công đang nghỉ ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức ""Hội nghị Đà Lạt"" - Ông và một số Giám đốc các cơ sở kinh doanh sản xuất làm ăn có lãi đã trực tiếp gặp gỡ các vị lãnh đạo cấp cao (từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 7) để báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng. Ngày 17 tháng 7, Nguyễn Văn Linh mời các vị lãnh đạo thăm cơ sở chế biến tơ tằm và xí nghiệp chè của Thành phố Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 7, Nguyễn Văn Linh có buổi làm việc riêng với các vị lãnh đạo này, ông đã báo cáo tất cả tâm tư mà cá nhân mình đang nung nấu. "Hội nghị Đà Lạt" diễn ra trong thời gian vừa đúng một tuần lễ. Nội dung tư tưởng của các cuộc gặp trong sự kiện này đã được Nguyễn Văn Linh vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện Đại hội Đảng VI của Đảng Cộng sản Việt Nam - Khởi xướng công cuộc Đổi mới của Việt Nam.
Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa V, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 6 năm 1986, sau khi Lê Duẩn mất, Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư, ông được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư. Với sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh, Bộ Chính trị đã họp tháng 8 năm 1986 và đi tới những kết luận quan trọng, nhấn mạnh đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và 3 chương trình kinh tế lớn. Với tư duy lý luận mới và quá trình khảo nghiệm thực tiễn, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng với Thường trực Ban Bí thư Nguyễn Văn Linh và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa V đã chỉ đạo chặt chẽ xây dựng các văn kiện trình Đại hội VI của Đảng.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, kiêm chức Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1987). Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi Mới và Cởi Mở của Việt Nam. Tuy nhiên sau khi sự kiện Bức tường Berlin qua đi, đồng minh thân cận của Việt Nam như lãnh đạo Rumani Ceaucescu bị hạ bệ, các nhân vật bảo thủ trong Đảng đã tìm cách bóp nghẹt tiến trình này.
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, lúc còn là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh đã tiến hành thí điểm những đổi thay trong cơ chế quản lý kinh tế ở một số doanh nghiệp nhà nước tại thành phố đông dân nhất Việt Nam. Đây là những bước đột phá đầu tiên mặc dù chưa hoàn thiện nhằm xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tồn tại ở Việt Nam trong nhiều năm. Đây cũng là những đòi hỏi và đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định đường lối, chính sách cho thời kỳ đổi mới.
Cuối tháng 5 năm 1987, trên trang nhất báo Nhân Dân xuất hiện một bút danh mới "N.V.L" với mục "Nói và Làm". Ông viết một loạt bài "Những việc phải làm ngay", ký tên NVL. Theo lời kể của nhà báo Hữu Thọ:
Từ năm 1986 đến 1991 trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh đã góp phần lớn mang tính quyết định làm xoay chuyển tình thế, mở đường cho sự nghiệp ổi mới tiến lên. Nhằm khắc phục những bất cập, lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp của Việt Nam, ông đã đưa ra những ý tưởng mới, quan niệm mới, cách làm mới. Ông đã xóa bỏ cái mà người miền Nam hay gọi là "ngăn sông cấm chợ", làm triệt tiêu hoàn toàn quyền lực và sự lộng hành của một vài thương nhân nhà nước hoặc mậu dịch quốc doanh biến chất lúc bấy giờ. Kiên quyết làm gương về chống tác phong quan liêu, xa dân, từ bỏ những đặc quyền đặc lợi. Ông đã bỏ chế độ lãnh đạo cấp cao đi máy bay chuyên cơ trong nước, đi công tác bằng xe Lada không có máy điều hoà (tiêu chuẩn dùng cho cấp Thứ trưởng); vào Nam ra Bắc đi máy bay chung với mọi người; cắt giảm chế độ bảo vệ an ninh...
Nguyễn Văn Linh đã vạch ra quá trình đổi mới tổ chức của Đảng. Các học giả cho rằng những đóng góp và tầm quan trọng của ông trong cải cách đã đưa ra một phân tích rất chi tiết và rõ ràng về chương trình cải tổ Đảng Cộng sản Việt Nam của ông trong bối cảnh rộng lớn hơn của Đổi Mới. Nguyễn Văn Linh đã thể hiện sự linh hoạt và khả năng thích ứng với xu hướng xoay chuyển không chính thống trong quá trình hoạch định chính sách. Các học giả như Stern thấy rằng Nguyễn Văn Linh ít dựa vào các công cụ vận động, các chiến dịch hô hào, các biểu tượng và nhiều hơn nữa vào các chương trình phối hợp quan liêu. Ông có thể sử dụng các tổ hợp nguồn lực độc đáo để tấn công các vấn đề cụ thể liên quan đến đảng phái, thường dựa vào các phương tiện truyền thông và các tổ chức quần chúng được chọn để thúc đẩy tư tưởng cải cách của mình. Nguyễn Văn Linh đã đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo các phiên họp toàn thể của Ban chấp hành Trung ương, coi trọng hơn quá trình ra quyết định nơi các quan điểm trái chiều về chính sách kinh tế và các vấn đề chính trị cơ bản được thảo luận. Stern cho rằng, phần lớn là do phương thức hoạt động cởi mở, linh hoạt, đổi mới và độc đáo của Nguyễn Văn Linh trong bộ máy quan liêu Việt Nam, điều này cho thấy tầm quan trọng của ông trong cách ông quản lý chính trị để đóng góp cho cải cách.
Sau một nhiệm kỳ Tổng Bí thư (1986-1991), ông cương quyết rút lui không ra ứng cử trong nhiệm kỳ tiếp theo, dù nhiều người muốn ông làm thành viên của Ban chấp hành Trung ương khóa VII sau khi khóa VI kết thúc vào năm 1991. Ông nói ""dù không còn ở trong Trung ương nữa, nhưng với trách nhiệm là người đảng viên, tôi xin cố gắng cống hiến sự hiểu biết và kinh nghiệm nhỏ bé của mình cho cách mạng, cho Đảng cho đến hơi thở cuối cùng"". Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) và lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996), ông được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương.
Ông là đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Ngày 29 tháng 12 năm 1997, ông cùng 2 người là ông Võ Chí Công và Phạm Văn Đồng từ chức Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông qua đời ngày 27 tháng 4 năm 1998, hưởng thọ 83 tuổi vì bệnh nặng và an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương khác.
Tên ông được đặt cho nhiều đường, phố và các trường học ở nhiều nơi tại Việt Nam.
Đường Nguyễn Văn Linh được đặt ở Hà Nội (nối đoạn cắt Nguyễn Văn Cừ - Ngô Gia Tự với đường Nguyễn Đức Thuận), thành phố Hồ Chí Minh (nối Tân Thuận đến đoạn cắt Quốc lộ 1 và tuyến đi Trung Lương), Đà Nẵng (nối sân bay Đà Nẵng với Võ Văn Kiệt), Cần Thơ (nối quốc lộ 91B với đường Quang Trung), Hải Phòng (nối Tôn Đức Thắng với Nguyễn Bỉnh Khiêm), Đồng Hới, Quảng Bình (nối đường Lý Thường Kiệt với đường Hữu Nghị, phường Nam Lý)...
Tại chính quê hương ông, Đài Phát thanh - Truyền hình Hưng Yên tọa lạc trên con đường cùng tên và địa chỉ là tại số 164 Nguyễn Văn Linh, Hưng Yên.
Một nhà tưởng niệm ông được xây dựng tại quê hương.
Phu nhân là bà Ngô Thị Huệ (1918-2022, kết nạp Đảng năm 1936, bà từng là Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I đến khóa IV, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Long, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Sài Gòn, nguyên Vụ trưởng Vụ Cán bộ trực thuộc Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam). Hai ông bà có con gái đầu lòng tên Nguyễn Thi Hòa năm 1953, con gái thứ Nguyễn Thị Bình năm 1954 và con trai Nguyễn Hùng Linh (hay Nguyễn Văn Linh) khoảng năm 1957.
Tên Nguyễn Văn Linh thực chất là bí danh, và được đặt theo tên người con trai út của ông.
|
6300 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6300 | Chất hoạt động bề mặt | Chất hoạt động bề mặt (tiếng Anh: "Surfactant", Surface active agent) đó là một chất làm ướt có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt giữa hai chất lỏng hoặc giữa một chất lỏng và một chất rắn. Là chất mà phân tử của nó phân cực: một đầu ưa nước và một đuôi kị nước.
Chất hoạt động bề mặt được dùng giảm sức căng bề mặt của một chất lỏng bằng cách làm giảm sức căng bề mặt tại bề mặt tiếp xúc (interface)của hai chất lỏng. Nếu có nhiều hơn hai chất lỏng không hòa tan thì chất hoạt hóa bề mặt làm tăng diện tích tiếp xúc giữa hai chất lỏng đó. Khi hòa chất hoạt hóa bề mặt vào trong một chất lỏng thì các phân tử của chất hoạt hóa bề mặt có xu hướng tạo đám (micelle, được dịch là mixen), nồng độ mà tại đó các phân tử bắt đầu tạo đám được gọi là "nồng độ tạo đám tới hạn". Nếu chất lỏng là nước thì các phân tử sẽ chụm đuôi kị nước lại với nhau và quay đầu ưa nước ra tạo nên những hình dạng khác nhau như hình cầu (0 chiều), hình trụ (1 chiều), màng (2 chiều). Tính ưa, kị nước của một chất hoạt hóa bề mặt được đặc trưng bởi một thông số là "độ cân bằng ưa kị nước" (tiếng Anh: "Hydrophilic Lipophilic Balance-HLB"), giá trị này có thể từ 0 đến 40. HLB càng cao thì hóa chất càng dễ hòa tan trong nước, HLB càng thấp thì hóa chất càng dễ hòa tan trong các dung môi không phân cực như dầu.
Tùy theo tính chất mà chất hoạt hóa bề mặt được phân theo các loại khác nhau. Nếu xem theo tính chất điện của đầu phân cực của phân tử chất hoạt hóa bề mặt thì có thể phân chúng thành các loại sau:
Chất hoạt hóa bề mặt ứng dụng rất nhiều trong đời sống hàng ngày. Ứng dụng phổ biến nhất là bột giặt, sơn, nhuộm...
Ngoài ra những ứng dụng trong các lĩnh vực khác như
|
6302 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6302 | Yên chi | Yên Chi có thể chỉ đến:
|
6303 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6303 | Perm | Perm (tiếng Nga: Пермь, dân số 1.000.100 thống kê dân số năm 2003) là một thành phố của nước Nga, nằm trên bờ sông Kama, dưới chân dãy núi Ural - ranh giới giữa châu Âu và châu Á. Vị trí địa lý 58°00′vĩ bắc, 56°14′độ kinh đông. Pecmi được thành lập vào ngày 17 tháng 5 năm 1723, và được gọi là thành phố từ năm 1781. Thành phố này là thủ phủ của tỉnh Pecmi (Пермская область), tỉnh này thuộc về Liên vùng cận Volga (Приволжский федеральный округ). Thành phố này là trung tâm hành chính, công nghiệp, khoa học và văn hóa của tỉnh. Các ngành công nghiệp chủ đạo bao gồm chế tạo máy, quốc phòng, dầu khí (khoảng 3% sản lượng dầu khí toàn Nga), chưng cất dầu, hóa chất và hóa dầu, đồ gỗ và chế biến gỗ cũng như công nghiệp thực phẩm. Pecmi cũng có một vài trường đại học lớn.
Từ năm 1940 đến năm 1957 thành phố có tên là Molotov (Мо́лотов), lấy theo tên gọi của Vyacheslav Molotov.
Perm' kết nghĩa với các thành phố sau:
Từ thế kỷ 13 – 17, Perm' là tên gọi của một khu vực rộng lớn bằng tỉnh Perm' và nước cộng hòa tự trị Kômi ngày nay.
|
6305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6305 | Niên đại địa chất | Niên đại địa chất được sử dụng bởi các nhà địa chất và các nhà khoa học khác để miêu tả thời gian và quan hệ của các sự kiện đã diễn ra trong lịch sử Trái Đất. Khái niệm này cũng có thể được dùng để miêu tả các sự kiện của vật thể khác trong vũ trụ (ví dụ như niên đại địa chất của Mặt Trăng "Lunar geologic timescale"); bài viết này chỉ tập trung vào niên đại địa chất trên Trái Đất. Thời gian được tính bằng Ma= Mega annum: "triệu năm", hoặc Ka= Kilo annum: "nghìn năm".
Các nhà địa chất học cho rằng Trái Đất hình thành khoảng 4,570 Ga trước đây. Khoảng thời gian địa chất trong quá khứ của Trái Đất được xây dựng thành thang thời gian địa chất có các cấp tính từ cao xuống thấp là liên đại ("eon"), nguyên đại hay đại ("era"), kỷ ("period"), thế ("epoch"), kỳ ("age") và thời ("chron") khác nhau, tương ứng với thang phân vị địa tầng: liên giới, giới, hệ, thống, bậc và đới. Nhưng cần lưu ý đây là 2 hệ thống khác nhau. Ví dụ 1 đại là khoảng thời gian liên tục nhất định trong lịch sử Trái Đất, trong khi địa tầng tương ứng của đại đó (nghĩa là giới) ở 1 khu vực nào đó thì là các lớp đá có niên đại thuộc đại này nhưng có thể không liên tục, bị đứt đoạn hay mất tích.
Các số liệu dưới đây phù hợp với số liệu và danh pháp được Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS) khuyến nghị.
|
6306 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6306 | Rodinia | Trong địa chất học, Rodinia là danh từ để chỉ tới một siêu lục địa đã hình thành và tan vỡ trong đại Tân Nguyên Sinh ("Neoproterozoic"). Rodinia được cho là hình thành khoảng 1 tỷ năm trước đây và nó bao gồm phần lớn hoặc là tất cả các lục địa hiện nay của Trái Đất. Người ta cũng cho rằng nó vỡ ra thành 8 lục địa khoảng 750 triệu năm trước.Chuyển động của các lục địa trước khi hình thành Rodinia là không biết rõ. Tuy nhiên, chuyển động của các khối lục địa sau khi Rodinia tan vỡ được hiểu khá rõ ràng và nó vẫn là đề tài nghiên cứu. Tám lục địa được tạo ra từ Rodinia sau đó đã liên kết lại thành một siêu lục địa gọi là Pannotia và sau đó là Pangaea.
Rodinia có nguồn gốc từ tiếng Nga và Bungary là Rodina, có nghĩa là "quê hương" hay "tổ quốc", nó được sử dụng trong một số các ngữ cảnh khác nhau.
Ngày 25/2/2013, BBC đưa tin giáo sư Trond Torsvik ở Đại học Oslo tuyên bố đã tìm thấy các mẫu khoáng chất Zircon thuộc nhóm Silicat đảo được chiết xuất từ cát trên bãi biển của Mauritius, một đảo quốc nằm ở phía tây nam Ấn Độ Dương; Zircon là khoáng chất đặc trưng trong lớp vỏ của lục địa rất cổ, từ 61-83,5 triệu năm trước.
|
6308 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6308 | Toàn Lục Địa | Pangaea (từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "toàn bộ đất đai") hay Toàn Lục Địa, là siêu lục địa đã từng tồn tại trong đại Trung Sinh ("Mesozoic") thuộc liên đại Hiển Sinh, trước khi quá trình trôi dạt lục địa tách nó ra thành các lục địa. Tên gọi này được Alfred Wegener đặt năm 1915. Khi các lục địa lần đầu tiên tạo ra Pangaea khoảng 300 triệu năm trước, các dãy núi đã bắt đầu hình thành, và một số dãy núi vẫn còn tồn tại đến ngày nay, chẳng hạn như các dãy núi Appalaches, Atlas, và Ural. Phần đại dương bao quanh Pangaea có tên gọi là Panthalassa. Pangaea vỡ ra khoảng 200 triệu năm trước.
Pangaea là vùng đất có dạng hình chữ C, trải rộng ngang qua đường xích đạo. Phần chứa nước trong lòng chữ "C" có tên gọi là biển Tethys. Vì Pangaea rất rộng lớn, nên khí hậu sâu trong đất liền rất là khô vì thiếu mưa. Do là một lục địa rộng lớn nên các loài động vật trên đất liền tự do di cư theo mọi hướng từ cực Nam tới cực Bắc và ngược lại.
Lớp phủ phía dưới lòng Pangaea vẫn còn rất nóng và có xu hướng trồi lên trên. Do kết quả của sự kiện này, châu Phi đã cao hơn các lục địa khác vài chục mét.
Pangaea có lẽ không phải là "siêu lục địa" đầu tiên. Người ta tin rằng Pannotia đã được hình thành trước đó, vào khoảng 600 triệu năm trước và phân chia ra khoảng 550 triệu năm trước. Ngoài ra, Rodinia đã được hình thành khoảng 1.1 tỉ năm trước và tách ra vào khoảng 750 triệu năm trước.
Trong kỷ Jura, Pangaea tách ra thành hai phần: phần phía nam là Gondwana và phần phía bắc là Laurasia.
Gondwana khi đó bao gồm châu Nam Mỹ, châu Phi, châu Nam Cực, Úc, Tân Guinea, New Zealand, Ấn Độ, Madagasca và tiểu lục địa Ả Rập ngày nay còn Laurasia bao gồm châu Âu, châu Á (trừ Ấn Độ và tiểu lục địa Ả Rập) và châu Bắc Mỹ ngày nay.
|
6314 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6314 | Sinh vật nhân sơ | Sinh vật nhân sơ hay sinh vật tiền nhân hoặc sinh vật nhân nguyên thủy (Prokaryote) là nhóm sinh vật mà tế bào không có màng nhân. Tuy nhiên, trong tế bào của một số loài "Planctomycetales", DNA được bao bọc bởi một màng đơn. Đặc điểm chính để phân biệt với các sinh vật nhân chuẩn được các nhà sinh học phân tử thường sử dụng là trình tự gen mã hóa cho rRNA.
Sinh vật nhân sơ không có các bào quan và cấu trúc nội bào điển hình của tế bào eukaryote. Hầu hết các chức năng của các bào quan như ty thể, lục lạp, bộ máy Golgi được tiến hành trên màng sinh chất. Sinh vật nhân sơ có 3 vùng cấu trúc chính là:
Theo tiến hóa, vi khuẩn là những sinh vật thuộc giới Khởi sinh được chia thành hai loại:
Theo phản ứng của thành tế bào peptidoglican đối với các loại thuốc nhuộm thì có hai loại vi khuẩn: Thành tế bào được nhuộm thuốc nhuộm kiềm tính:
|
6316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6316 | Pannotia | Pannotia là một siêu lục địa đã tồn tại từ khoảng 600 triệu năm trước tới khoảng 540 triệu năm trước. Lần đầu tiên nó được Dalziel miêu tả năm 1997.
Khoảng 750 triệu năm trước, siêu lục địa trước đó là Rodinia tách ra thành 3 lục địa:
Protolaurasia tự quay về hướng nam tới cực Nam. Protogondwana tự quay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Congo nằm giữa Protogondwana và Protolaurasia khoảng 600 triệu năm trước. Điều này đã tạo thành Pannotia.
Pannotia có thời gian tồn tại ngắn. Các va chạm dẫn đến hình thành Pannotia là các va chạm thoáng qua, và các lục địa hợp thành Pannotia vẫn tiếp tục trôi dạt. Vào khoảng 540 triệu năm trước, hoặc chỉ khoảng 60 triệu năm sau khi Pannotia hình thành, Pannotia bị tách ra thành 4 lục địa: Laurentia, Baltica, Siberia và Gondwana.
|
6317 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=6317 | Atlantica | Atlantica là một lục địa cổ. Atlantica được tạo thành khoảng 2 tỷ năm trước đây.
|