instruction
stringclasses
1 value
input
stringlengths
259
2.96k
output
stringlengths
259
2.96k
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Như thị đích nhiên thị như thị đích. - Bởi rằng như vậy một Sa Mạc thế kia, thì tìm đâu ra chỗ để hằng trụ hằng tồn thường tại trong vô tội thơ ngây Chân Lí? Thì đó là Thượng Thừa Thống Khổ vậy đối với mọi mọi kẻ nào không thể chịu đi bước tót vời “du hí thần thông tam muội tận, phiêu bồng hồng nhạn tuyết trung khan”, đười ươi hú vượn thênh thang, can đầu bách xích oát toàn hoàn tu... Ấy từ cổ lục phù du. Tằng giao thất luyện ngữ từ thu quang. Ấy đi chữ bát chân bàn. Ấy chân bước chữ lộn hàng hàng hai. Bổ sung tam thập lục hài. Hình trong nội mật thể ngoài ngao du. Weil die einstige Innigkeit, das Bleiben im unversehrten “Gesetz”, ein Leiden ist, deshalb leidet das ewige Herz aus seinem Wesensanfang. Daher leidet es auch “eines Gottes Leiden mit”. Bởi vì cõi miên man thiên thu Nội Mật Thể, cuộc hằng trụ lưu tồn trong bất tổn hại “Điều Quy” là một Thống Khổ, nên Trái Tim vĩnh viễn đau đớn từ Uyên Nguyên Tinh thể mình. Cũng từ đó nó chia sẻ “mối Thống Khổ của một Đế Thần”. Nhân vì cõi Thiêng Liêng tự phụng hiến cho cuộc Quyết Nhiên Liễu Đoán Của Quang Tuyến và đó là một Thống Khổ, cõi Thiêng Liêng vẫn cứ y nhiên như nhiên trong khi chớp lóe huy hoàng vẫn trụ tại Chân Lí của Tinh Thể mình, và như vậy gánh lấy một khối thống khổ đầy rẫy hình hài, đau đớn theo thể lệ sơ nguyên đoạn trường phù du phương cảo đoạn, “Phương cảo phù du vân cẩm đoạn, Sương phù du quận đoạn trường thiêu. Thanh Hà Lãng Mị Sơ Nguyên Tiết. Lục Liễu Phiêu Quang Thượng Cổ Triều.
Thanh Hà Lãng Mị Sơ Nguyên Tiết. Lục Liễu Phiêu Quang Thượng Cổ Triều. Trì Ngự triêu dương phò tuyệt nghiễn. Lưu tồn hằng thể biệt nguyên tiêu...” Người kĩ nữ ngày xưa trên bến nước Sẽ đi về trong bóng nguyệt quanh năm Và sẽ nhắc với đời em chuyện trước Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa đêm rằm “Bởi vì cõi miên man thiên thu Nội Mật Thể, cuộc hằng trụ lưu tồn trong Bất Tổn Hại “Điều Quy” là một Đoạn Trường Thống Khổ, nên Trái Tim vĩnh viễn đau đớn từ Uyên Nguyên Tinh Thể Khổng Khâu Lữ Thứ Liệp Hộ kia. Cũng từ đó, nó chia sẻ “mối Thống Khổ của Một Đế Thần”. Nhân vì cõi Thiêng Liêng tự hiến phụng cho cuộc Quyết Nhiên Liễu Định lĩnh điệu của Hoa Âm Quang Tuyến, và đó là một Thống Khổ Thượng Thừa Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cõi Thiêng Liêng vẫn y nhiên như nhiên trong rực bờ chớp loé vẫn kiên cường trụ tại Chân Lí của Tinh Thể mình, và như vậy gánh lấy một khối thống khổ theo thể lệ đau đớn tại nguyên tuyền nguyên mạch uyên nguyên. Nhân vì tuy nhiên cuộc thống khổ phát khởi từ nguyên sơ cổ độ đó chẳng phải là lêu bêu dung nhẫn, mà là Toàn Nhiên Quy Tụ Nhất Thiết Ư Tự Thể Tự Thân Đích Nội Mật-Thể, nhân vì như vậy nên cuộc chia sẻ mối Thống Khổ với Đế Thần tuyệt nhiên chẳng phải là trong thể lệ lân mẫn uyển tích hay căng tuất theo thể thái phàm phu. Thống Khổ là Kiên Trì Thường Tại tại Ban Sơ. (là quyết nhiên Trì Tồn tại Nguyên Sơ Hằng Thủy).
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thanh Hà Lãng Mị Sơ Nguyên Tiết. Lục Liễu Phiêu Quang Thượng Cổ Triều. Trì Ngự triêu dương phò tuyệt nghiễn. Lưu tồn hằng thể biệt nguyên tiêu...” Người kĩ nữ ngày xưa trên bến nước Sẽ đi về trong bóng nguyệt quanh năm Và sẽ nhắc với đời em chuyện trước Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa đêm rằm “Bởi vì cõi miên man thiên thu Nội Mật Thể, cuộc hằng trụ lưu tồn trong Bất Tổn Hại “Điều Quy” là một Đoạn Trường Thống Khổ, nên Trái Tim vĩnh viễn đau đớn từ Uyên Nguyên Tinh Thể Khổng Khâu Lữ Thứ Liệp Hộ kia. Cũng từ đó, nó chia sẻ “mối Thống Khổ của Một Đế Thần”. Nhân vì cõi Thiêng Liêng tự hiến phụng cho cuộc Quyết Nhiên Liễu Định lĩnh điệu của Hoa Âm Quang Tuyến, và đó là một Thống Khổ Thượng Thừa Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cõi Thiêng Liêng vẫn y nhiên như nhiên trong rực bờ chớp loé vẫn kiên cường trụ tại Chân Lí của Tinh Thể mình, và như vậy gánh lấy một khối thống khổ theo thể lệ đau đớn tại nguyên tuyền nguyên mạch uyên nguyên. Nhân vì tuy nhiên cuộc thống khổ phát khởi từ nguyên sơ cổ độ đó chẳng phải là lêu bêu dung nhẫn, mà là Toàn Nhiên Quy Tụ Nhất Thiết Ư Tự Thể Tự Thân Đích Nội Mật-Thể, nhân vì như vậy nên cuộc chia sẻ mối Thống Khổ với Đế Thần tuyệt nhiên chẳng phải là trong thể lệ lân mẫn uyển tích hay căng tuất theo thể thái phàm phu. Thống Khổ là Kiên Trì Thường Tại tại Ban Sơ. (là quyết nhiên Trì Tồn tại Nguyên Sơ Hằng Thủy).
Thống Khổ là Kiên Trì Thường Tại tại Ban Sơ. (là quyết nhiên Trì Tồn tại Nguyên Sơ Hằng Thủy). (Das Leiden ist das Festbleiben im Anfang): Đối với cõi Ban Sơ Hằng Thủy, cuộc Khai Lập Phát Tiết và Phụng Hiến Anh Hoa chẳng bao giờ là Mất Mát hoặc Liễu Kết Chung Cục mà trái lại mãi mãi mãi vẫn là là Ban-Sơ Càng Rực Rỡ Sơ Ban, Hằng-Thủy càng Huy Hoàng Thủy Hằng-Sa-Thủy, Nội-Mật-Thể càng chót vót Thủy Nguyên. (Weil die einstige Innigkeit, das Bleiben im unversehrten “Gesetz”, ein Leiden ist, deshalb leidet das ewige Herz aus seinem Wesensanfang. Daher leidet es auch “eines Gottes Leiden mit”. Indem das Heilige in die Entschiedenheit des Strahls, die ein Leiden ist, sich verschenkt, bleibt das Heilige doch, sich verstrahlend, in der Wahrheit seines Wesens und leidet so anfaenglich. Weil jedoch dies dem Anfang entstammende Leiden kein preisgegebenes Dulden ist, sondern die alles in sich sammelnde Iunigkeit, hat auch das Mitleiden mit dem Gott nicht, die Art des Bedauerns und Erbarmens. Das Leiden ist das Festbleiden im Anfang. Fuer den Anfang ist das Aufgehen und die Verschenkung nie Verlust und Ende, sondem stets nur herrlicherer Anfang afaenglichere Innigkeit). Cõi Thiêng Liêng trong cuộc Quyết Nhiên Trì Tồn Kiên Trì Hằng Tồn Thường Tại của nó, phải được nói lên.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thống Khổ là Kiên Trì Thường Tại tại Ban Sơ. (là quyết nhiên Trì Tồn tại Nguyên Sơ Hằng Thủy). (Das Leiden ist das Festbleiben im Anfang): Đối với cõi Ban Sơ Hằng Thủy, cuộc Khai Lập Phát Tiết và Phụng Hiến Anh Hoa chẳng bao giờ là Mất Mát hoặc Liễu Kết Chung Cục mà trái lại mãi mãi mãi vẫn là là Ban-Sơ Càng Rực Rỡ Sơ Ban, Hằng-Thủy càng Huy Hoàng Thủy Hằng-Sa-Thủy, Nội-Mật-Thể càng chót vót Thủy Nguyên. (Weil die einstige Innigkeit, das Bleiben im unversehrten “Gesetz”, ein Leiden ist, deshalb leidet das ewige Herz aus seinem Wesensanfang. Daher leidet es auch “eines Gottes Leiden mit”. Indem das Heilige in die Entschiedenheit des Strahls, die ein Leiden ist, sich verschenkt, bleibt das Heilige doch, sich verstrahlend, in der Wahrheit seines Wesens und leidet so anfaenglich. Weil jedoch dies dem Anfang entstammende Leiden kein preisgegebenes Dulden ist, sondern die alles in sich sammelnde Iunigkeit, hat auch das Mitleiden mit dem Gott nicht, die Art des Bedauerns und Erbarmens. Das Leiden ist das Festbleiden im Anfang. Fuer den Anfang ist das Aufgehen und die Verschenkung nie Verlust und Ende, sondem stets nur herrlicherer Anfang afaenglichere Innigkeit). Cõi Thiêng Liêng trong cuộc Quyết Nhiên Trì Tồn Kiên Trì Hằng Tồn Thường Tại của nó, phải được nói lên.
Cõi Thiêng Liêng trong cuộc Quyết Nhiên Trì Tồn Kiên Trì Hằng Tồn Thường Tại của nó, phải được nói lên. Thường Tại Trì Tồn của nó tuy nhiên chẳng hề là loại Trì Trù ù lì rỗng không diên trì của một vật vật sự sự vụ vụ tồn tồn tại tại hiện hiện hữu hữu nhấp nhô lố nhố hằng ngày theo dung thường nhật lệ, mà trái lại Thường Tại Hằng Tồn Trì Lưu của Thiêng Liêng là cuộc Đi Về của Sơ Nguyên Hằng Thủy. Của Sơ Đầu Thủy Nguyên Sơ Thủy. Và trước đó như đó là trước tiên, như là Miên Trường Vĩnh Viễn, không còn gì Sơ-Thủy-Hơn có thể suy niệm được. Miên Trường Vĩnht Viễn là Chót Vót của Sơ Thủy Sơ Nguyên Sơ Đầu Hằng Thủy vậy. Thường Tại như là cuộc Đi Về là bất-khả-tiền-lập-ư-suy-tưởng-chi-trung-đích-sơ-nguyên-đích-Sơ-Nguyên-Thể (ư suy niệm chi trong vô khả hình dung nhậm hà nhất cá sự thể cánh năng tiền lập đối ư Sơ Nguyên đích Sơ Nguyên Thể, nghĩa là: Sơ Nguyên Thể của Sơ Nguyên là thượng thừa Ban Sơ Thái Thậm. Không thể nào còn suy tưởng suy niệm được một cái gì còn xa xôi thái cổ hơn Sơ Nguyên Thể của Sơ Nguyên). (Das Heilige in seinem Festhleiben ist zu sagen. Sein Bleiben bedeute aber nie das leere Andauern eines Vorhandenen, sondern ist das Kommen des Anfang. Diesem zuvor als dem Einstigen kann nichts Anfaenglicheres gedacht werden. Das Bleiben als Kommen ist die unvordenkliche Anfaenglichkeit des Anfangs.) Cái gì thường tại tuy nhiên, những thi sĩ thiết lập Was bleibet aber, stiften die Dichter. (Andenken - Hồi Tưởng)
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cõi Thiêng Liêng trong cuộc Quyết Nhiên Trì Tồn Kiên Trì Hằng Tồn Thường Tại của nó, phải được nói lên. Thường Tại Trì Tồn của nó tuy nhiên chẳng hề là loại Trì Trù ù lì rỗng không diên trì của một vật vật sự sự vụ vụ tồn tồn tại tại hiện hiện hữu hữu nhấp nhô lố nhố hằng ngày theo dung thường nhật lệ, mà trái lại Thường Tại Hằng Tồn Trì Lưu của Thiêng Liêng là cuộc Đi Về của Sơ Nguyên Hằng Thủy. Của Sơ Đầu Thủy Nguyên Sơ Thủy. Và trước đó như đó là trước tiên, như là Miên Trường Vĩnh Viễn, không còn gì Sơ-Thủy-Hơn có thể suy niệm được. Miên Trường Vĩnht Viễn là Chót Vót của Sơ Thủy Sơ Nguyên Sơ Đầu Hằng Thủy vậy. Thường Tại như là cuộc Đi Về là bất-khả-tiền-lập-ư-suy-tưởng-chi-trung-đích-sơ-nguyên-đích-Sơ-Nguyên-Thể (ư suy niệm chi trong vô khả hình dung nhậm hà nhất cá sự thể cánh năng tiền lập đối ư Sơ Nguyên đích Sơ Nguyên Thể, nghĩa là: Sơ Nguyên Thể của Sơ Nguyên là thượng thừa Ban Sơ Thái Thậm. Không thể nào còn suy tưởng suy niệm được một cái gì còn xa xôi thái cổ hơn Sơ Nguyên Thể của Sơ Nguyên). (Das Heilige in seinem Festhleiben ist zu sagen. Sein Bleiben bedeute aber nie das leere Andauern eines Vorhandenen, sondern ist das Kommen des Anfang. Diesem zuvor als dem Einstigen kann nichts Anfaenglicheres gedacht werden. Das Bleiben als Kommen ist die unvordenkliche Anfaenglichkeit des Anfangs.) Cái gì thường tại tuy nhiên, những thi sĩ thiết lập Was bleibet aber, stiften die Dichter. (Andenken - Hồi Tưởng)
Das Bleiben als Kommen ist die unvordenkliche Anfaenglichkeit des Anfangs.) Cái gì thường tại tuy nhiên, những thi sĩ thiết lập Was bleibet aber, stiften die Dichter. (Andenken - Hồi Tưởng) Cái gì thường tại tuy nhiên... Tuy nhiên những gì thường tại bọn thi sĩ thiết lập chúng. Bài thơ còn dở dang ở nhiều mặt, nhất là hình thể đoạn kết, mà chính Höelderlin ắt cũng quyết nhiên gia công vào, hình thể đoạn cuối còn mơ hồ bất định, nhưng mọi dở dang ở đây chỉ là hậu quả của Thái Thậm Sung Mãn tuôn trào từ Sơ Đầu tới nội-tại của Bài Thơ và yêu sách lời kết thúc giản khiết. Mỗi loay hoay tầm cầu vạch vẽ cơ cấu đoạn kết thúc chỉ có thể nhằm mục đích đánh thức những Kẻ nào có thể nghe ra cái “Lời” của Bài Thơ kia là gì. Nhưng giờ đây là ngày dậy! Tôi đã hi vọng, đã nhìn thấy nó đi về Và điều tôi đã thấy Xin nguyện rằng Thiêng Liêng là Lời của tôi” Jetzt abet tagts! Ich harrt und sah es kommen, Und was ich sah, das Heilige sei mein Wort. “Jetz” - Giờ Đây - Khi nào như thế là ấy “Giờ Đây ? Phải chăng là khoảng thời gian lẩn quất xung quanh năm 1800, thuở Bài Thơ ra đời? Tiếng “Giờ Đây” gọi tên rành mạch minh bạch thời gian chính Höelderlin nói: “Nhưng Giờ Đây là Ngày Dậy!”. Hẳn nhiên, tiếng “Giờ Đây” gọi tên cái Thời-gian- Höelderlin và quyết nhiên không phải thời nào khác. Nhưng Thời-gian-Höelderlin vẫn quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian được điều hợp âm thanh tiết điệu qua Lời thơ ông.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Das Bleiben als Kommen ist die unvordenkliche Anfaenglichkeit des Anfangs.) Cái gì thường tại tuy nhiên, những thi sĩ thiết lập Was bleibet aber, stiften die Dichter. (Andenken - Hồi Tưởng) Cái gì thường tại tuy nhiên... Tuy nhiên những gì thường tại bọn thi sĩ thiết lập chúng. Bài thơ còn dở dang ở nhiều mặt, nhất là hình thể đoạn kết, mà chính Höelderlin ắt cũng quyết nhiên gia công vào, hình thể đoạn cuối còn mơ hồ bất định, nhưng mọi dở dang ở đây chỉ là hậu quả của Thái Thậm Sung Mãn tuôn trào từ Sơ Đầu tới nội-tại của Bài Thơ và yêu sách lời kết thúc giản khiết. Mỗi loay hoay tầm cầu vạch vẽ cơ cấu đoạn kết thúc chỉ có thể nhằm mục đích đánh thức những Kẻ nào có thể nghe ra cái “Lời” của Bài Thơ kia là gì. Nhưng giờ đây là ngày dậy! Tôi đã hi vọng, đã nhìn thấy nó đi về Và điều tôi đã thấy Xin nguyện rằng Thiêng Liêng là Lời của tôi” Jetzt abet tagts! Ich harrt und sah es kommen, Und was ich sah, das Heilige sei mein Wort. “Jetz” - Giờ Đây - Khi nào như thế là ấy “Giờ Đây ? Phải chăng là khoảng thời gian lẩn quất xung quanh năm 1800, thuở Bài Thơ ra đời? Tiếng “Giờ Đây” gọi tên rành mạch minh bạch thời gian chính Höelderlin nói: “Nhưng Giờ Đây là Ngày Dậy!”. Hẳn nhiên, tiếng “Giờ Đây” gọi tên cái Thời-gian- Höelderlin và quyết nhiên không phải thời nào khác. Nhưng Thời-gian-Höelderlin vẫn quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian được điều hợp âm thanh tiết điệu qua Lời thơ ông.
Nhưng Thời-gian-Höelderlin vẫn quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian được điều hợp âm thanh tiết điệu qua Lời thơ ông. Thời Gian Sử Xanh quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian do “Tân Thanh” của “Cổ Lục” truyền điệu-do cảo thơm riêng biệt ấy vọng về. Thời-gian-Höelderlin quả thật theo một nghĩa nghiêm mật là Thời Gian của ông. (Thời Gian và Thời Thể của ông.) Thời Thể và Hằng Thể của ông. Phong Tình Cổ Lục của ông. Lần Giở Trước Đèn của ông. Còn truyền Sử Xanh của ông.Theo một nghĩa nghiêm mật ngật miêm của ông). Và cũng chính vì vậy mà Thời Gian đó là Thời Gian của ông tuyệt nhiên chẳng phải mọi mọi những thứ thứ gì vào thuở của Thời Gian đó chỉ duy là đồng đại của đồng đồng đẳng đẳng đại đại thời thời của đồng thời đẳng đại mà thôi. (“Jetzt” - wann ist dieses “Jetzt”? Ist das der Zeitpunkt um 1800, da dies Gedicht entstand? Das “Jetzt” nennt ja doch eindeutig den Zeitpunkt, in dem Höelderlin sethst sagt: “Jetzt aber tagts!”. Gewiss nennt das “Jetzt” Höelderlins Zeit und keine andere. Aber Höelderlins Zeit ist ja einzig die durch sein Wort angestimmte Zeit. Höelderlins Zeit ist allerdings im strengen Sinne seine Zeit, Aber diese seine Zeit ist gerade nich das zu dieser Zeit nur gleichzeitige und uebliche Zeitgenoessische). Tiếng “Giờ Đây” gọi tên cuộc Đi Về của Thiêng Liêng. Riêng cuộc Đi Về đó chỉ định cái “Thời Gian”, trong thời gian đó đã đến cái “Thời Gian” mà Sử Lịch tồn lập trước những quyết định cốt yếu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng Thời-gian-Höelderlin vẫn quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian được điều hợp âm thanh tiết điệu qua Lời thơ ông. Thời Gian Sử Xanh quyết nhiên chỉ duy là Thời Gian do “Tân Thanh” của “Cổ Lục” truyền điệu-do cảo thơm riêng biệt ấy vọng về. Thời-gian-Höelderlin quả thật theo một nghĩa nghiêm mật là Thời Gian của ông. (Thời Gian và Thời Thể của ông.) Thời Thể và Hằng Thể của ông. Phong Tình Cổ Lục của ông. Lần Giở Trước Đèn của ông. Còn truyền Sử Xanh của ông.Theo một nghĩa nghiêm mật ngật miêm của ông). Và cũng chính vì vậy mà Thời Gian đó là Thời Gian của ông tuyệt nhiên chẳng phải mọi mọi những thứ thứ gì vào thuở của Thời Gian đó chỉ duy là đồng đại của đồng đồng đẳng đẳng đại đại thời thời của đồng thời đẳng đại mà thôi. (“Jetzt” - wann ist dieses “Jetzt”? Ist das der Zeitpunkt um 1800, da dies Gedicht entstand? Das “Jetzt” nennt ja doch eindeutig den Zeitpunkt, in dem Höelderlin sethst sagt: “Jetzt aber tagts!”. Gewiss nennt das “Jetzt” Höelderlins Zeit und keine andere. Aber Höelderlins Zeit ist ja einzig die durch sein Wort angestimmte Zeit. Höelderlins Zeit ist allerdings im strengen Sinne seine Zeit, Aber diese seine Zeit ist gerade nich das zu dieser Zeit nur gleichzeitige und uebliche Zeitgenoessische). Tiếng “Giờ Đây” gọi tên cuộc Đi Về của Thiêng Liêng. Riêng cuộc Đi Về đó chỉ định cái “Thời Gian”, trong thời gian đó đã đến cái “Thời Gian” mà Sử Lịch tồn lập trước những quyết định cốt yếu.
Tiếng “Giờ Đây” gọi tên cuộc Đi Về của Thiêng Liêng. Riêng cuộc Đi Về đó chỉ định cái “Thời Gian”, trong thời gian đó đã đến cái “Thời Gian” mà Sử Lịch tồn lập trước những quyết định cốt yếu. (Riêng cuộc Đi Về đó quy định cái “Thời Gian” trong đó “Thời Gian” đã đến lúc mà Sử Lịch lập tồn trước những quyết định cốt yếu Loại “Thời Gian” như thế chẳng bao giờ có thể phơi mình ra để thiên hạ chỉ định, quy định theo thể lệ “gian thời” dời than dịch khói (chuyển thán chán băng, chăng bàn chớ luận, chuẩn lớ mớ ưng, chứng thực cứ hư, cừ kình áp ngạc, cóp nhặt cắt chia, kia này nọ đó…) bỏ rọ nó vào trong đếm đo ngày tháng tuế niên, chia nghiêng chẻ ngửa ra làm thế kỉ nối đuôi thí kể, làm hậu bán nối gót tiền phần (tần nguyên vũ ngụy, yên vệ sở tào...) (un tel temps ne se laisse jamais dater et n’est jamais mesurable en nombre d’années et ou découpage par siècles) (Solche “Zeit” laesst sich nie angeben (datieren) und ist nicht ausmessbar durch Jahreszahlen und Abschnitte von Jahrhunderten). Những niên kỉ sử kí chỉ là những dải băng dắt dẫn lập lờ để cho sự toán định cò ke của con người vạch vào lui lui tới tới những sự biến, biến cố bố kiến bi bô, bổ một ra mười ruồi ra muỗi rệp, mép ruội rìa rơi, rời ria ra mép, dẹp lép tủy xương, tưởng tơ ra tóc, róc thịt ra da, đuổi gà ra vịt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tiếng “Giờ Đây” gọi tên cuộc Đi Về của Thiêng Liêng. Riêng cuộc Đi Về đó chỉ định cái “Thời Gian”, trong thời gian đó đã đến cái “Thời Gian” mà Sử Lịch tồn lập trước những quyết định cốt yếu. (Riêng cuộc Đi Về đó quy định cái “Thời Gian” trong đó “Thời Gian” đã đến lúc mà Sử Lịch lập tồn trước những quyết định cốt yếu Loại “Thời Gian” như thế chẳng bao giờ có thể phơi mình ra để thiên hạ chỉ định, quy định theo thể lệ “gian thời” dời than dịch khói (chuyển thán chán băng, chăng bàn chớ luận, chuẩn lớ mớ ưng, chứng thực cứ hư, cừ kình áp ngạc, cóp nhặt cắt chia, kia này nọ đó…) bỏ rọ nó vào trong đếm đo ngày tháng tuế niên, chia nghiêng chẻ ngửa ra làm thế kỉ nối đuôi thí kể, làm hậu bán nối gót tiền phần (tần nguyên vũ ngụy, yên vệ sở tào...) (un tel temps ne se laisse jamais dater et n’est jamais mesurable en nombre d’années et ou découpage par siècles) (Solche “Zeit” laesst sich nie angeben (datieren) und ist nicht ausmessbar durch Jahreszahlen und Abschnitte von Jahrhunderten). Những niên kỉ sử kí chỉ là những dải băng dắt dẫn lập lờ để cho sự toán định cò ke của con người vạch vào lui lui tới tới những sự biến, biến cố bố kiến bi bô, bổ một ra mười ruồi ra muỗi rệp, mép ruội rìa rơi, rời ria ra mép, dẹp lép tủy xương, tưởng tơ ra tóc, róc thịt ra da, đuổi gà ra vịt.
đít lộn ra đầu, rầu ra rũ rượi, rưỡi ra một phần ba, pha bần in phú, ú ớ ò e, e dè cho phù chú dượng cô ghì, ghì ôm nhau nhảy nhót, đánh thót đong đưa, vừa cơn đỏng đảnh đánh thọ đọ thinh, đinh ninh là đúng, lúng đà lả ngọn, lộn ngõ ra nơi, rơi vào định tháo, đạo thính đồ thuyết, điếc ngụy đui tào, đào túy chon von, hao mòn con mắt. Những loại tùm lum biến cố nhấp nhô kia bao giờ cũng chỉ choán phần tiền cảnh, tiền diện sỗ sàng của Sử Lịch. Riêng phần hời hợt đó cho phép cuộc thăm dò “điều tra” tiếp cận. Loại “Sử Kí” đó tuy nhiên chẳng bao giờ đích thị là Sử Lịch. Sử Lịch hiếm hoi hi hữu. Sử Lịch chỉ hiện thị mỗi phen nào Tinh Thể Chân Lí mỗi được quyết định một cách sơ nguyên ([49]). (Das “Jetzt” nennt das Kommen des Heiligen.Dieses Kommen allein gibt die “Zeit” an, in der es “Zeit” ist, dass die Geschichte sich wesentlichen Entscheidungen stellt. Solche “Zeit” laesst sich nie angeben (datieren) und ist nicht ausmessbar durch Jahreszahlen und Abschnitte von Jahrhunderten. “Geschichtszahlen” sind lediglich das herzugebrachte Leitband, an dem menschliches Rechnen die Begebenheiten aufreiht. Diese besetzen immer nur den Vordergrund der Geschichte, der allein der Erkundung (historein) zugaenglich bleibt. Dieses “Historische” ist aber nie die Geschichte selbst. Geschichte ist nur dann, wenn je das Wesen der Wahrheit anfaenglich entschieden wird).
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
đít lộn ra đầu, rầu ra rũ rượi, rưỡi ra một phần ba, pha bần in phú, ú ớ ò e, e dè cho phù chú dượng cô ghì, ghì ôm nhau nhảy nhót, đánh thót đong đưa, vừa cơn đỏng đảnh đánh thọ đọ thinh, đinh ninh là đúng, lúng đà lả ngọn, lộn ngõ ra nơi, rơi vào định tháo, đạo thính đồ thuyết, điếc ngụy đui tào, đào túy chon von, hao mòn con mắt. Những loại tùm lum biến cố nhấp nhô kia bao giờ cũng chỉ choán phần tiền cảnh, tiền diện sỗ sàng của Sử Lịch. Riêng phần hời hợt đó cho phép cuộc thăm dò “điều tra” tiếp cận. Loại “Sử Kí” đó tuy nhiên chẳng bao giờ đích thị là Sử Lịch. Sử Lịch hiếm hoi hi hữu. Sử Lịch chỉ hiện thị mỗi phen nào Tinh Thể Chân Lí mỗi được quyết định một cách sơ nguyên ([49]). (Das “Jetzt” nennt das Kommen des Heiligen.Dieses Kommen allein gibt die “Zeit” an, in der es “Zeit” ist, dass die Geschichte sich wesentlichen Entscheidungen stellt. Solche “Zeit” laesst sich nie angeben (datieren) und ist nicht ausmessbar durch Jahreszahlen und Abschnitte von Jahrhunderten. “Geschichtszahlen” sind lediglich das herzugebrachte Leitband, an dem menschliches Rechnen die Begebenheiten aufreiht. Diese besetzen immer nur den Vordergrund der Geschichte, der allein der Erkundung (historein) zugaenglich bleibt. Dieses “Historische” ist aber nie die Geschichte selbst. Geschichte ist nur dann, wenn je das Wesen der Wahrheit anfaenglich entschieden wird).
Dieses “Historische” ist aber nie die Geschichte selbst. Geschichte ist nur dann, wenn je das Wesen der Wahrheit anfaenglich entschieden wird). Cõi Thiêng Liêng “xa xưa cổ cựu hơn những thời đại thời gian” và ở “bên trên chư Thần Đế”, thiết lập trong bước Đi Về của nó một Sơ Nguyên khác của một Sử Lịch khác. Về chúng sinh và chư Thần Đế, cõi Thiêng Liêng quyết định một cách sơ nguyên và sơ đầu: họ có là (hiện hữu) không và họ là ai, là gì, họ là là như thế nào và là là lúc nào. Cái Đi Về trong bước Đi Về của nó được nói lên bởi Tiếng Gọi. Lời Höelderlin giờ đây với bài thơ này mở cuộc, lời Höelderlin là Lời Gọi. Lời Höelderlin giờ đây là “Hymnos” theo một nghĩa duy nhất được nung đúc mới mẻ trở lại, theo thói thường quen thuộc, chúng ta dịch tiếng Hi Lạp “hymnein” ra làm “tán” và “tụng”. Bởi lối đó, chúng ta dễ dàng lĩnh hội bừa bãi đó là một lối lu bù say sưa cuồng ca, tuý tụng, xưng tán ò e...tràn lời, ngập tiếng. Giờ đây ta thấy Lời Thơ thi dựng là cái Nói thiết lập. Lời của bài ca chẳng còn là một “Tụng ca về” một cái gì, cũng chẳng phải “Tán ca cho Thi Sĩ” cũng chẳng còn nữa là Tụng Ca “về” Thiên Nhiên, mà trái lại, là Tụng Ca “của” Thiêng Liêng (Tán Ca “của” Linh Thiêng Liêng Hiện, Liêng Thinh Hiển Thiêng). Thiêng Liêng hiến tặng cho Lời, ban tặng cho Tiếng và dẫn thân chính mình đi về trong Lời Tiếng ấy. Lời là Thịnh Triều Tức Vị của Thiêng Liêng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dieses “Historische” ist aber nie die Geschichte selbst. Geschichte ist nur dann, wenn je das Wesen der Wahrheit anfaenglich entschieden wird). Cõi Thiêng Liêng “xa xưa cổ cựu hơn những thời đại thời gian” và ở “bên trên chư Thần Đế”, thiết lập trong bước Đi Về của nó một Sơ Nguyên khác của một Sử Lịch khác. Về chúng sinh và chư Thần Đế, cõi Thiêng Liêng quyết định một cách sơ nguyên và sơ đầu: họ có là (hiện hữu) không và họ là ai, là gì, họ là là như thế nào và là là lúc nào. Cái Đi Về trong bước Đi Về của nó được nói lên bởi Tiếng Gọi. Lời Höelderlin giờ đây với bài thơ này mở cuộc, lời Höelderlin là Lời Gọi. Lời Höelderlin giờ đây là “Hymnos” theo một nghĩa duy nhất được nung đúc mới mẻ trở lại, theo thói thường quen thuộc, chúng ta dịch tiếng Hi Lạp “hymnein” ra làm “tán” và “tụng”. Bởi lối đó, chúng ta dễ dàng lĩnh hội bừa bãi đó là một lối lu bù say sưa cuồng ca, tuý tụng, xưng tán ò e...tràn lời, ngập tiếng. Giờ đây ta thấy Lời Thơ thi dựng là cái Nói thiết lập. Lời của bài ca chẳng còn là một “Tụng ca về” một cái gì, cũng chẳng phải “Tán ca cho Thi Sĩ” cũng chẳng còn nữa là Tụng Ca “về” Thiên Nhiên, mà trái lại, là Tụng Ca “của” Thiêng Liêng (Tán Ca “của” Linh Thiêng Liêng Hiện, Liêng Thinh Hiển Thiêng). Thiêng Liêng hiến tặng cho Lời, ban tặng cho Tiếng và dẫn thân chính mình đi về trong Lời Tiếng ấy. Lời là Thịnh Triều Tức Vị của Thiêng Liêng.
Thiêng Liêng hiến tặng cho Lời, ban tặng cho Tiếng và dẫn thân chính mình đi về trong Lời Tiếng ấy. Lời là Thịnh Triều Tức Vị của Thiêng Liêng. Thơ Höelderlin giờ đây là Tiếng Gọi Sơ Nguyên được gọi về bởi chính bước Đi Về, và nói cái đó và chỉ duy cái đó như là cái đó như là cái Thiêng Liêng. Lời tán ca giờ đây là Lời “thiêng liêng cấp thiết yêu sách”Và nhân vì “thiêng liêng” khẩn thiết yêu sách yêu cầu, nên cũng là Lời “thiêng liêng đạm nhiên bình ổn” (... Das Wort dieses Gesanges ist nich mehr eine “Hymne an” etwas, weder die “Hymne an die Dichter” noch aber auch die Hymne “an” die Natur, sondem die Hymne “des” Heiligen. Das Heilige verschenkt das Wort und kommt selbst in dieses Wort. Das Wort ist das Ereignis des Heiligen. Höelderlins Dichtung ist jetzt anfaengliches Rufen, das vom Kommenden selbst gerufen, dieses und nur dieses als das Heilige sagt. Das hymnische Wort ist ietzt “heiliggenoethiget”, und weil “heilig” gonoetiget, auch “heilignuechtern”) Vậy đó một đoạn thơ viết năm 1800, nhan đề là “Bài Ca Đức Quốc”, nói ra điều này: “…Ư thi tọa ư thâm âm xứ Sa sa đầu thượng du thụ thanh Thanh khê lưu thủy xuy lương khí Đức Quốc Thi Nhân tán tụng hành Khiết thủy thiêng liêng thuần đạm ẩm Viễn phương tịch tĩnh vọng vi thanh Liêu nhiên tế thính Linh Ca khởi (Mãn địa Nga Quỳnh thiên Thúy Thanh) “ Dann sitzt im tiefen Schaten, Weun ueber dem Haupte die Ulme saeuselt, Am kuehlathmenden Bache der deutsche Dichter Und singt, wenn er des heiligen nuechternen Wassers
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thiêng Liêng hiến tặng cho Lời, ban tặng cho Tiếng và dẫn thân chính mình đi về trong Lời Tiếng ấy. Lời là Thịnh Triều Tức Vị của Thiêng Liêng. Thơ Höelderlin giờ đây là Tiếng Gọi Sơ Nguyên được gọi về bởi chính bước Đi Về, và nói cái đó và chỉ duy cái đó như là cái đó như là cái Thiêng Liêng. Lời tán ca giờ đây là Lời “thiêng liêng cấp thiết yêu sách”Và nhân vì “thiêng liêng” khẩn thiết yêu sách yêu cầu, nên cũng là Lời “thiêng liêng đạm nhiên bình ổn” (... Das Wort dieses Gesanges ist nich mehr eine “Hymne an” etwas, weder die “Hymne an die Dichter” noch aber auch die Hymne “an” die Natur, sondem die Hymne “des” Heiligen. Das Heilige verschenkt das Wort und kommt selbst in dieses Wort. Das Wort ist das Ereignis des Heiligen. Höelderlins Dichtung ist jetzt anfaengliches Rufen, das vom Kommenden selbst gerufen, dieses und nur dieses als das Heilige sagt. Das hymnische Wort ist ietzt “heiliggenoethiget”, und weil “heilig” gonoetiget, auch “heilignuechtern”) Vậy đó một đoạn thơ viết năm 1800, nhan đề là “Bài Ca Đức Quốc”, nói ra điều này: “…Ư thi tọa ư thâm âm xứ Sa sa đầu thượng du thụ thanh Thanh khê lưu thủy xuy lương khí Đức Quốc Thi Nhân tán tụng hành Khiết thủy thiêng liêng thuần đạm ẩm Viễn phương tịch tĩnh vọng vi thanh Liêu nhiên tế thính Linh Ca khởi (Mãn địa Nga Quỳnh thiên Thúy Thanh) “ Dann sitzt im tiefen Schaten, Weun ueber dem Haupte die Ulme saeuselt, Am kuehlathmenden Bache der deutsche Dichter Und singt, wenn er des heiligen nuechternen Wassers
“ Dann sitzt im tiefen Schaten, Weun ueber dem Haupte die Ulme saeuselt, Am kuehlathmenden Bache der deutsche Dichter Und singt, wenn er des heiligen nuechternen Wassers Genug getrunken, fernhin lauschend in die Stille Den Seelengesang”. Ngồi dưới bóng thâm u thăm thẳm Ở trên đầu du thụ thì thào Dòng khe khí bốc thanh tao Thi nhân Đức Quốc dạt dào tụng ca Thuần đạm nước ngọc ngà đã uống Lặng nghe xa vọng hưởng liêu nhiên Linh Hồn Ca Khúc Thiêng Liêng (Quỳnh Nga mãn địa thừa thiên Thanh Hà) Der “tiefe Schatten” rettet das dichtende Wort vor der uebergrossen Helle des “himmlischen Feuers”, Bóng Râm sâu thăm thẳm cứu nguy cho Lời Thơ thi dựng trước làn Ánh Sáng quá dữ dội của “Lửa Trời”. Làn Khí Mát của dòng Khe che chở Lời Thơ thi dựng trước sức Thiêu Đốt quá dõng mãnh của Lửa Trời. Khí Mát và Bóng Râm của Thuần Đạm đáp ứng lại Thiêng Liêng. Thuần Đạm Thể đó không khước bác Nhiệt Huệ Trí. Thuần Đạm Thể là Quy Hưởng Cơ liên thời cụ bị (toàn nhiên cụ túc sẵn sàng luôn luôn) (của Chuẩn Bị Thể phơi mở cho Thiêng Liêng. (Die Nuechternheit ist die allzeit bereite Grundstimmung der Bereitschaft fuer das Heilige).
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
“ Dann sitzt im tiefen Schaten, Weun ueber dem Haupte die Ulme saeuselt, Am kuehlathmenden Bache der deutsche Dichter Und singt, wenn er des heiligen nuechternen Wassers Genug getrunken, fernhin lauschend in die Stille Den Seelengesang”. Ngồi dưới bóng thâm u thăm thẳm Ở trên đầu du thụ thì thào Dòng khe khí bốc thanh tao Thi nhân Đức Quốc dạt dào tụng ca Thuần đạm nước ngọc ngà đã uống Lặng nghe xa vọng hưởng liêu nhiên Linh Hồn Ca Khúc Thiêng Liêng (Quỳnh Nga mãn địa thừa thiên Thanh Hà) Der “tiefe Schatten” rettet das dichtende Wort vor der uebergrossen Helle des “himmlischen Feuers”, Bóng Râm sâu thăm thẳm cứu nguy cho Lời Thơ thi dựng trước làn Ánh Sáng quá dữ dội của “Lửa Trời”. Làn Khí Mát của dòng Khe che chở Lời Thơ thi dựng trước sức Thiêu Đốt quá dõng mãnh của Lửa Trời. Khí Mát và Bóng Râm của Thuần Đạm đáp ứng lại Thiêng Liêng. Thuần Đạm Thể đó không khước bác Nhiệt Huệ Trí. Thuần Đạm Thể là Quy Hưởng Cơ liên thời cụ bị (toàn nhiên cụ túc sẵn sàng luôn luôn) (của Chuẩn Bị Thể phơi mở cho Thiêng Liêng. (Die Nuechternheit ist die allzeit bereite Grundstimmung der Bereitschaft fuer das Heilige).
(Die Nuechternheit ist die allzeit bereite Grundstimmung der Bereitschaft fuer das Heilige). (Chuẩn Bị Thể càng chu đáo viên dung thêm nữa lúc đi vào lời dịch Hoa ngữ và Việt ngữ, hai lần Thi Luật Hoa Việt hai lần bó buộc dịch giả phải mỗi lần mỗi thêm một câu cho thành Bài Bát Cú, và vì yêu sách nghiêm mật đó, bỗng nhiên Tinh Thể “Quỳnh Nga Thanh Hà” đòi hỏi hiện thị chan hòa đầy đất (mãn địa) ứng đáp Vẻ Ngân Ngang Trời theo thể lệ nào Nguyễn Du đã từng quy định: “Cửa thiền vừa cữ cuối xuân. Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời. Gió quang mây tạnh thảnh thơi...” Quỳnh Nga và Hà Thanh đều là người Thừa Thiên, nghĩa là thừa thụ mệnh trời mang ân lộc về cho đất, ghé chùa Vạn Hạnh (cửa Thiền) thăm viếng thi sĩ trung niên. Té ra thơ Nguyễn Du Höelderlin đều mang nặng chất tiên tri. Xét như thế, trung niên thi sĩ không có tội lỗi gì lúc đưa tên tuổi kiều diễm của họ vào đây. Trung niên thi sĩ vốn nhã nhặn biết phép xã giao ngăn nắp không hề bạ đâu bù đó gọi bừa bãi tên tuổi giai nhân suốt xứ bước tràn bờ dâu biển trên mặt đất trầm trọng và đau thương ra mọi chốn đìu hiu ca hát. Lời Höelderlin nói lên cõi Thiêng Liêng và như vậy gọi tên cái khung Vũ Trụ (Không Gian và Thời Gian) duy nhất Thời Không của Sơ Nguyên Quyết Định cho Tinh Thể Cơ Cấu của Sử Lịch Tương Lai của Chư Thần Đế và của Chúng Sinh. Lời Thơ đó, chưa được nghe ra, được bảo tồn tàng trữ trong Ngôn Ngữ Tây Phương của Người Dân nước Đức.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
(Die Nuechternheit ist die allzeit bereite Grundstimmung der Bereitschaft fuer das Heilige). (Chuẩn Bị Thể càng chu đáo viên dung thêm nữa lúc đi vào lời dịch Hoa ngữ và Việt ngữ, hai lần Thi Luật Hoa Việt hai lần bó buộc dịch giả phải mỗi lần mỗi thêm một câu cho thành Bài Bát Cú, và vì yêu sách nghiêm mật đó, bỗng nhiên Tinh Thể “Quỳnh Nga Thanh Hà” đòi hỏi hiện thị chan hòa đầy đất (mãn địa) ứng đáp Vẻ Ngân Ngang Trời theo thể lệ nào Nguyễn Du đã từng quy định: “Cửa thiền vừa cữ cuối xuân. Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời. Gió quang mây tạnh thảnh thơi...” Quỳnh Nga và Hà Thanh đều là người Thừa Thiên, nghĩa là thừa thụ mệnh trời mang ân lộc về cho đất, ghé chùa Vạn Hạnh (cửa Thiền) thăm viếng thi sĩ trung niên. Té ra thơ Nguyễn Du Höelderlin đều mang nặng chất tiên tri. Xét như thế, trung niên thi sĩ không có tội lỗi gì lúc đưa tên tuổi kiều diễm của họ vào đây. Trung niên thi sĩ vốn nhã nhặn biết phép xã giao ngăn nắp không hề bạ đâu bù đó gọi bừa bãi tên tuổi giai nhân suốt xứ bước tràn bờ dâu biển trên mặt đất trầm trọng và đau thương ra mọi chốn đìu hiu ca hát. Lời Höelderlin nói lên cõi Thiêng Liêng và như vậy gọi tên cái khung Vũ Trụ (Không Gian và Thời Gian) duy nhất Thời Không của Sơ Nguyên Quyết Định cho Tinh Thể Cơ Cấu của Sử Lịch Tương Lai của Chư Thần Đế và của Chúng Sinh. Lời Thơ đó, chưa được nghe ra, được bảo tồn tàng trữ trong Ngôn Ngữ Tây Phương của Người Dân nước Đức.
Lời Thơ đó, chưa được nghe ra, được bảo tồn tàng trữ trong Ngôn Ngữ Tây Phương của Người Dân nước Đức. Höelderlins Wort sagt das Heilige und nennt so den einmaligen Zeit-Raum der anfaenglichen Entscheidung fuer das Wesensgefuege der kuenftigen Geschichte der Gotter und der Menschentuemer. (Dies Wort ist, noch ungehoert, aufbewahrt in die abendlaendische Sprache der Deutschen). * * * [1] Trong Sương Bình Nguyên có trích dịch một phần nhỏ bài diễn thuyết hi hữu đó. [2] Đoạn trên đây đề cập tới một sự vụ thượng thừa trầm trọng trong tư tưởng Heidegger. [3] Chú giải: ông Heidegger đang giảng giải Khổng Tử tại những nơi nào Khổng Tử đã phải buộc lòng nói lời nghiêm khắc mà ngài vốn không bao giờ muốn nói. Phải bào háo như hùm beo? Trong khi linh hồn chỉ muốn điềm nhiên hô hấp như lá cây? [4] Heidegger viết ra những lời ấy từ bao giờ? Dường như lâu nay không mấy ai lưu ý tới? Ấy bởi vì mảnh đất Âu châu Luận Lí đã tràn ngập địa cầu và luận lí là lí luận hỗn độn một chiều hồ đồ từ tứ diện tung ra bát phương đến tận cùng thập phương quốc độ vậy. Cũng vì lẽ đó nên những sách vở Tây phương nghiên cứu về Đông phương cứ lẩn quẩn giữa sa mù, sa mù không mù-sa-mẫu-thân-chiếu-cố mà sa mù mờ mịt che bít con đường cho bước chân quanh quẩn hằng hằng trong mỗi mỗi trận lang bối bất kham. [5] Bản Pháp ngữ của André Préau dịch câu đó biến đổi lệch lạc như sau: Les choses de la pensée sont très particulières. Đáng lẽ phải dịch là: Il est vrait, c' est une chose bien particulière que la pensée.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lời Thơ đó, chưa được nghe ra, được bảo tồn tàng trữ trong Ngôn Ngữ Tây Phương của Người Dân nước Đức. Höelderlins Wort sagt das Heilige und nennt so den einmaligen Zeit-Raum der anfaenglichen Entscheidung fuer das Wesensgefuege der kuenftigen Geschichte der Gotter und der Menschentuemer. (Dies Wort ist, noch ungehoert, aufbewahrt in die abendlaendische Sprache der Deutschen). * * * [1] Trong Sương Bình Nguyên có trích dịch một phần nhỏ bài diễn thuyết hi hữu đó. [2] Đoạn trên đây đề cập tới một sự vụ thượng thừa trầm trọng trong tư tưởng Heidegger. [3] Chú giải: ông Heidegger đang giảng giải Khổng Tử tại những nơi nào Khổng Tử đã phải buộc lòng nói lời nghiêm khắc mà ngài vốn không bao giờ muốn nói. Phải bào háo như hùm beo? Trong khi linh hồn chỉ muốn điềm nhiên hô hấp như lá cây? [4] Heidegger viết ra những lời ấy từ bao giờ? Dường như lâu nay không mấy ai lưu ý tới? Ấy bởi vì mảnh đất Âu châu Luận Lí đã tràn ngập địa cầu và luận lí là lí luận hỗn độn một chiều hồ đồ từ tứ diện tung ra bát phương đến tận cùng thập phương quốc độ vậy. Cũng vì lẽ đó nên những sách vở Tây phương nghiên cứu về Đông phương cứ lẩn quẩn giữa sa mù, sa mù không mù-sa-mẫu-thân-chiếu-cố mà sa mù mờ mịt che bít con đường cho bước chân quanh quẩn hằng hằng trong mỗi mỗi trận lang bối bất kham. [5] Bản Pháp ngữ của André Préau dịch câu đó biến đổi lệch lạc như sau: Les choses de la pensée sont très particulières. Đáng lẽ phải dịch là: Il est vrait, c' est une chose bien particulière que la pensée.
Les choses de la pensée sont très particulières. Đáng lẽ phải dịch là: Il est vrait, c' est une chose bien particulière que la pensée. Hoặc: Il est vraiment (il y a vraiment) une chose particulière concernant la pensée. Hoặc: Assurément, la pensée est une chose bien particulière. Còn nếu dịch sát lời sát tiếng hơn, ắt ra: Autour de la pensée, vraiment, il est (il y a, il existe) une chose particulière. Hoặc ra: Au sujet de la pensée (Concernant la pensée), il est (il y a) assurément une chose particulière. [6] Dịch có phần hơi “tếu” chút ít. [7] Từ đây trở xuống lời thơ dịch sắp triệt để đi cái bước chuyển dịch hai bờ. [8] Bạch Cư Dị và Nguyễn Du vẫn miên man đi về trì ngự suốt Sử Lịch Ngôn Ngữ người ta. Trái lại, Trung Niên Thi Sĩ chỉ gây ảo não vào đồng ruộng mùa màng, với những lời thơ Đoạn Trường trầm thống như sau: Ruộng đồng không mọc lúc mùa Từ hôm cánh trắng cò lưa tiếng buồn Đêm nào nhỏ giọt khe mương Đêm này rớt hột mù sương bây giờ [9] Ý Heidegger muốn nói: sau này Höelderlin sẽ không còn gọi như thế nữa. Vì tiếng Natur sẽ không còn đủ man mác mênh mông để nói một cái gì sơ nguyên sử lịch hơn nữa. Vì về sau linh hồn Phusis Sơ Nguyên Hi Lạp sẽ tái hiện lộng lẫy hơn bao giờ hết, trong Thi Ca Höelderlin. Điều nên lưu ý đối với độc giả Việt Nam là: khi ngôn ngữ La Tinh chuyển dịch ngôn ngữ Hi Lạp thì một sự biến oan uổng đã xảy ra (xem Vấn đề căn bản của siêu hình học - Trăng Châu Thổ - Quế Sơn xuất bản).
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Les choses de la pensée sont très particulières. Đáng lẽ phải dịch là: Il est vrait, c' est une chose bien particulière que la pensée. Hoặc: Il est vraiment (il y a vraiment) une chose particulière concernant la pensée. Hoặc: Assurément, la pensée est une chose bien particulière. Còn nếu dịch sát lời sát tiếng hơn, ắt ra: Autour de la pensée, vraiment, il est (il y a, il existe) une chose particulière. Hoặc ra: Au sujet de la pensée (Concernant la pensée), il est (il y a) assurément une chose particulière. [6] Dịch có phần hơi “tếu” chút ít. [7] Từ đây trở xuống lời thơ dịch sắp triệt để đi cái bước chuyển dịch hai bờ. [8] Bạch Cư Dị và Nguyễn Du vẫn miên man đi về trì ngự suốt Sử Lịch Ngôn Ngữ người ta. Trái lại, Trung Niên Thi Sĩ chỉ gây ảo não vào đồng ruộng mùa màng, với những lời thơ Đoạn Trường trầm thống như sau: Ruộng đồng không mọc lúc mùa Từ hôm cánh trắng cò lưa tiếng buồn Đêm nào nhỏ giọt khe mương Đêm này rớt hột mù sương bây giờ [9] Ý Heidegger muốn nói: sau này Höelderlin sẽ không còn gọi như thế nữa. Vì tiếng Natur sẽ không còn đủ man mác mênh mông để nói một cái gì sơ nguyên sử lịch hơn nữa. Vì về sau linh hồn Phusis Sơ Nguyên Hi Lạp sẽ tái hiện lộng lẫy hơn bao giờ hết, trong Thi Ca Höelderlin. Điều nên lưu ý đối với độc giả Việt Nam là: khi ngôn ngữ La Tinh chuyển dịch ngôn ngữ Hi Lạp thì một sự biến oan uổng đã xảy ra (xem Vấn đề căn bản của siêu hình học - Trăng Châu Thổ - Quế Sơn xuất bản).
Riêng tiếng Phusis bị dịch ra làm Natura, thì thật là khôn hàn lỡ dở. Nhưng rồi giờ đây, chúng ta lại đem dịch trở lại làm Thiên Nhiên, thì mặc nhiên một Cõi Bất Tuyệt được phục hồi. Những lời nào ứng ngay vào trang sách Heidegger này? “Hoà nhi bất đồng Khuê chi thời dụng đại hỉ tai”. [11] Té ra ông Heidegger quanh quẩn gì rồi cũng quay ra giảng Kiều!!! Các bạn bây giờ thử bắt đầu đọc trở lại cuốn truyện kì lạ kia xem, đừng bận bịu với những định kiến, lặp trường cũ. Mỗi một chữ sẽ hiện ra trên khắp bình diện ngôn từ trong thể lệ toàn nhiên của phương cảo. [12] Heidegger đang giai thích thơ Huy Cận? [13] Vở kịch Empedokles có ba bản phác họa cả thây. [14] Cái “das wunderbar Allgegenwaertige” đó của Höelderlin, mà tiếng Natur (dùng theo nghĩa tiếng natura dịch đảo điên tiếng phusis Hi Lạp) không đủ để gọi ra được, thì trong Việt ngữ, chúng ta có tiếng Thiên Nhiên thích đáp vô cùng. [15] Tiếng Phusis là một trong mấy tiếng Hi Lạp được Heidegger giảng đi giảng lại rất nhiều phen (cùng với những tiếng: Alêthéia, Logos, Moiera...) Trong hầu hết các tác phẩm của ông, ít nhiều đều có thấy hình bóng Phusis lẩn quất. (Xem lại lời giảng ở trong cuốn Vấn đề căn bản của siêu hình học - Trăng Châu Thổ). Điều kì lạ nhất, ấy là: mỗi phen mấy tiếng căn bản đó của Tư Tưởng Uyên Nguyên Hi Lạp được Heidegger nắm lấy giảng giải trở lại, thì mỗi phen ngôn ngữ Uyên Nguyên Đông Phương cũng đồng thời hiện ra trở lại.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Riêng tiếng Phusis bị dịch ra làm Natura, thì thật là khôn hàn lỡ dở. Nhưng rồi giờ đây, chúng ta lại đem dịch trở lại làm Thiên Nhiên, thì mặc nhiên một Cõi Bất Tuyệt được phục hồi. Những lời nào ứng ngay vào trang sách Heidegger này? “Hoà nhi bất đồng Khuê chi thời dụng đại hỉ tai”. [11] Té ra ông Heidegger quanh quẩn gì rồi cũng quay ra giảng Kiều!!! Các bạn bây giờ thử bắt đầu đọc trở lại cuốn truyện kì lạ kia xem, đừng bận bịu với những định kiến, lặp trường cũ. Mỗi một chữ sẽ hiện ra trên khắp bình diện ngôn từ trong thể lệ toàn nhiên của phương cảo. [12] Heidegger đang giai thích thơ Huy Cận? [13] Vở kịch Empedokles có ba bản phác họa cả thây. [14] Cái “das wunderbar Allgegenwaertige” đó của Höelderlin, mà tiếng Natur (dùng theo nghĩa tiếng natura dịch đảo điên tiếng phusis Hi Lạp) không đủ để gọi ra được, thì trong Việt ngữ, chúng ta có tiếng Thiên Nhiên thích đáp vô cùng. [15] Tiếng Phusis là một trong mấy tiếng Hi Lạp được Heidegger giảng đi giảng lại rất nhiều phen (cùng với những tiếng: Alêthéia, Logos, Moiera...) Trong hầu hết các tác phẩm của ông, ít nhiều đều có thấy hình bóng Phusis lẩn quất. (Xem lại lời giảng ở trong cuốn Vấn đề căn bản của siêu hình học - Trăng Châu Thổ). Điều kì lạ nhất, ấy là: mỗi phen mấy tiếng căn bản đó của Tư Tưởng Uyên Nguyên Hi Lạp được Heidegger nắm lấy giảng giải trở lại, thì mỗi phen ngôn ngữ Uyên Nguyên Đông Phương cũng đồng thời hiện ra trở lại.
Hiện ra trở lại một cách huyền bí và thăm thẳm nhất trong cuốn truyện của Nguyễn Du. Hiện ra hầu như toàn nhiên viên mãn trong tám câu thơ mở đầu, và hãi hùng ở khắp chốn, và man mác tịch nhiên kết tụ vô hình trong hai câu cuối. [16] Nhưng Hellingrath căn cứ vào đâu mà bảo rằng Höelderlin đã “vội xóa”? Có thể là về sau, khi thi sĩ điên rồi xóa bừa bãi? Bừa bãi thì chẳng thể gọi là vội vàng hấp tấp hay thong dong... [17] Bản Pháp ngữ dịch là: “la lumière qui se fait dans 1'éclaircie présente en tout”. Thiết tưởng phải dịch là: “le Devenant-lumière de l'éclaircie présente en tout”. Vì das Lichtwerden có nghĩa là: le “fait” de devenir lumière chớ không phải là: la lumière qui se fait... Sự việc trở-thành-ánh-sáng là gì? Duy có điều cần biết tại đây là: bóng tối có thể trở thành ánh sáng; tiếng chim ca cũng có thể trở thành ánh sáng; men Rượu Lập Lòe, đầu tường lửa lựu... đều là những sự tình trở-thành-ánh-sáng. Thì như vậy chẳng có ăn nhập gì với cái “lumière qui se fait dans...” (cái ánh sáng thật có hẳn hoi) đang chiếu soi ở trong cõi nào nào đó). [18] Tiếng “Ereignis” cũng như hầu hết mọi ngôn từ cốt yếu trong sách Heidegger, đều mênh mang những ý nghĩa khôn lường. Sau này Heidegger sẽ giảng trở lại tiếng Ereignis theo thể lệ thật bất ngờ. Vốn là: sự biến, biến cố, sự gì xẩy ra đâu đó... Bất thình lình biến thành Trùng-Phục-Thủ-Hữu một kho tàng vốn-dĩ là của sở-hữu-từ-lâu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Hiện ra trở lại một cách huyền bí và thăm thẳm nhất trong cuốn truyện của Nguyễn Du. Hiện ra hầu như toàn nhiên viên mãn trong tám câu thơ mở đầu, và hãi hùng ở khắp chốn, và man mác tịch nhiên kết tụ vô hình trong hai câu cuối. [16] Nhưng Hellingrath căn cứ vào đâu mà bảo rằng Höelderlin đã “vội xóa”? Có thể là về sau, khi thi sĩ điên rồi xóa bừa bãi? Bừa bãi thì chẳng thể gọi là vội vàng hấp tấp hay thong dong... [17] Bản Pháp ngữ dịch là: “la lumière qui se fait dans 1'éclaircie présente en tout”. Thiết tưởng phải dịch là: “le Devenant-lumière de l'éclaircie présente en tout”. Vì das Lichtwerden có nghĩa là: le “fait” de devenir lumière chớ không phải là: la lumière qui se fait... Sự việc trở-thành-ánh-sáng là gì? Duy có điều cần biết tại đây là: bóng tối có thể trở thành ánh sáng; tiếng chim ca cũng có thể trở thành ánh sáng; men Rượu Lập Lòe, đầu tường lửa lựu... đều là những sự tình trở-thành-ánh-sáng. Thì như vậy chẳng có ăn nhập gì với cái “lumière qui se fait dans...” (cái ánh sáng thật có hẳn hoi) đang chiếu soi ở trong cõi nào nào đó). [18] Tiếng “Ereignis” cũng như hầu hết mọi ngôn từ cốt yếu trong sách Heidegger, đều mênh mang những ý nghĩa khôn lường. Sau này Heidegger sẽ giảng trở lại tiếng Ereignis theo thể lệ thật bất ngờ. Vốn là: sự biến, biến cố, sự gì xẩy ra đâu đó... Bất thình lình biến thành Trùng-Phục-Thủ-Hữu một kho tàng vốn-dĩ là của sở-hữu-từ-lâu.
Vốn là: sự biến, biến cố, sự gì xẩy ra đâu đó... Bất thình lình biến thành Trùng-Phục-Thủ-Hữu một kho tàng vốn-dĩ là của sở-hữu-từ-lâu. Theo thể lệ "ôn cố tri tân" hoặc "giác tân ư cố", nghĩa là: nhận thức ra một cái tân kì nằm ở trong cái cổ kính. Một cái Cổ Kính chứa chất một cái Tân Kì khôn hàn tàng ẩn ở trong. Trong một Nếp Gấp Nhị Trùng thênh thang thăm thẳm mà bấy lâu bị để nằm vùi lấp ở dưới Tân Thanh, trong Nếp Gấp đó Ngôn Ngữ từ Cỗi Nguồn về, đem cho một Tặng Vật Tươi Vui dấu kín dưới tiếng Đoạn Trường... Từ đó, giờ đây làm sao dịch tiếng Errreignisss? Nếu một mai Ereignis bất thình lình biến ra làm Errreignisss, hoặc Er-rig-neiss, hoặc Ein-rei-gg- ni-ssis, thì lúc bấy giờ, mọi lời dịch tiếng di, đành tan hoang lông lốc, mọi diễn dịch bây giờ đều thi đua nhau dập dìu vỡ toang trong nhà ma cốt cách? Là thể cách ngậm ngùi của mọi mọi phong thể dịch diễn lập tồn lẽo đẽo? Mộng mị không đi về trong bước chiêm bao? [19] Hình như ông Heidegger luôn luôn bị ám ảnh bởi Lời Thơ Nguyễn Du. Ông bàn lui giảng tới gì đi nữa, rốt cuộc vẫn lẩn quất ở quanh vòng bi hùng hiệp hộ du hí của Nguyễn Du. [20] Pháp ngữ không dịch rõ hết tiếng Waffenklang: âm thanh binh khi va chạm nhau (Waffe: binh khí; Klang: thanh âm). Nhưng thể theo tinh hoa Pháp ngữ dịch như vậy mới thật là lai rai đắc điệu. [21] Pháp ngữ dịch có phần không thích đáng. [22] Dịch tuy không thật là trúng chữ, nhưng quả thật đúng thể lệ tinh thần nguyên tác.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vốn là: sự biến, biến cố, sự gì xẩy ra đâu đó... Bất thình lình biến thành Trùng-Phục-Thủ-Hữu một kho tàng vốn-dĩ là của sở-hữu-từ-lâu. Theo thể lệ "ôn cố tri tân" hoặc "giác tân ư cố", nghĩa là: nhận thức ra một cái tân kì nằm ở trong cái cổ kính. Một cái Cổ Kính chứa chất một cái Tân Kì khôn hàn tàng ẩn ở trong. Trong một Nếp Gấp Nhị Trùng thênh thang thăm thẳm mà bấy lâu bị để nằm vùi lấp ở dưới Tân Thanh, trong Nếp Gấp đó Ngôn Ngữ từ Cỗi Nguồn về, đem cho một Tặng Vật Tươi Vui dấu kín dưới tiếng Đoạn Trường... Từ đó, giờ đây làm sao dịch tiếng Errreignisss? Nếu một mai Ereignis bất thình lình biến ra làm Errreignisss, hoặc Er-rig-neiss, hoặc Ein-rei-gg- ni-ssis, thì lúc bấy giờ, mọi lời dịch tiếng di, đành tan hoang lông lốc, mọi diễn dịch bây giờ đều thi đua nhau dập dìu vỡ toang trong nhà ma cốt cách? Là thể cách ngậm ngùi của mọi mọi phong thể dịch diễn lập tồn lẽo đẽo? Mộng mị không đi về trong bước chiêm bao? [19] Hình như ông Heidegger luôn luôn bị ám ảnh bởi Lời Thơ Nguyễn Du. Ông bàn lui giảng tới gì đi nữa, rốt cuộc vẫn lẩn quất ở quanh vòng bi hùng hiệp hộ du hí của Nguyễn Du. [20] Pháp ngữ không dịch rõ hết tiếng Waffenklang: âm thanh binh khi va chạm nhau (Waffe: binh khí; Klang: thanh âm). Nhưng thể theo tinh hoa Pháp ngữ dịch như vậy mới thật là lai rai đắc điệu. [21] Pháp ngữ dịch có phần không thích đáng. [22] Dịch tuy không thật là trúng chữ, nhưng quả thật đúng thể lệ tinh thần nguyên tác.
[21] Pháp ngữ dịch có phần không thích đáng. [22] Dịch tuy không thật là trúng chữ, nhưng quả thật đúng thể lệ tinh thần nguyên tác. [23] Tiếng exposition trong Pháp ngữ không đủ đầy âm hưởng và dung lượng để dịch tiếng Aus-einandersetzung. Có lẽ nên viết ra làm Ex-posit-ion? [24] L’Esprit est l’Unité unifiante (Der Geist die einigende Einhet). [25] Trong mấy đoạn này, cũng như ở nhiều đoạn khác rải rác khắp cuốn sách, ông Heidegger sử dụng đường lối quy tập những âm hưởng giao ứng nhau để nhiếp dẫn ngôn ngữ khai triển những chỗ ẩn vi, tế, mật nhất của tư tưởng. Do đó, lời dịch buộc phải biến đổi ngôn từ, thuận theo yêu sách của ngữ điệu ngữ thể, ngữ ngôn, ngõ hầu tái lập phần nào những điệp hướng trùng âm, trong nguyên ngữ. Tỉ như: Geist, Be-geisterung, be-geistern; Anwesung, Anwesen, Wesen, wesentliche; einigende Einheit; Erwachen, Erscheinen, Erscheinende; allgegenwaertige, allerschaffende(......) [26] Aufgehen und Erwachen. [28] Rải rác trong mấy cuốn sách trước, từ lâu đã có chỉ dấu vết của những bước đi theo thể lệ ngã ba, mặc dù lời chỉ dẫn lưa thưa theo cốt cách “cử nhất phản tam” trong nề nếp “lời vang hú vượn than dài đười ươi”. [29] Người đọc đang giở lại trang sách nào trong Nam Hoa Kinh? (Cái trang riêng biệt của Trang Tử ứng hợp trực tiếp vào đây chỉ trong bản dịch của Nhượng Tống mới có). [30] Chú cước: Lối nói đó là lối mô phỏng đặc biệt đười ươi của Trung Niên Thi Sĩ bắt chước ông Kim Thánh Thán bình giải Tây Sương Kí đấy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
[21] Pháp ngữ dịch có phần không thích đáng. [22] Dịch tuy không thật là trúng chữ, nhưng quả thật đúng thể lệ tinh thần nguyên tác. [23] Tiếng exposition trong Pháp ngữ không đủ đầy âm hưởng và dung lượng để dịch tiếng Aus-einandersetzung. Có lẽ nên viết ra làm Ex-posit-ion? [24] L’Esprit est l’Unité unifiante (Der Geist die einigende Einhet). [25] Trong mấy đoạn này, cũng như ở nhiều đoạn khác rải rác khắp cuốn sách, ông Heidegger sử dụng đường lối quy tập những âm hưởng giao ứng nhau để nhiếp dẫn ngôn ngữ khai triển những chỗ ẩn vi, tế, mật nhất của tư tưởng. Do đó, lời dịch buộc phải biến đổi ngôn từ, thuận theo yêu sách của ngữ điệu ngữ thể, ngữ ngôn, ngõ hầu tái lập phần nào những điệp hướng trùng âm, trong nguyên ngữ. Tỉ như: Geist, Be-geisterung, be-geistern; Anwesung, Anwesen, Wesen, wesentliche; einigende Einheit; Erwachen, Erscheinen, Erscheinende; allgegenwaertige, allerschaffende(......) [26] Aufgehen und Erwachen. [28] Rải rác trong mấy cuốn sách trước, từ lâu đã có chỉ dấu vết của những bước đi theo thể lệ ngã ba, mặc dù lời chỉ dẫn lưa thưa theo cốt cách “cử nhất phản tam” trong nề nếp “lời vang hú vượn than dài đười ươi”. [29] Người đọc đang giở lại trang sách nào trong Nam Hoa Kinh? (Cái trang riêng biệt của Trang Tử ứng hợp trực tiếp vào đây chỉ trong bản dịch của Nhượng Tống mới có). [30] Chú cước: Lối nói đó là lối mô phỏng đặc biệt đười ươi của Trung Niên Thi Sĩ bắt chước ông Kim Thánh Thán bình giải Tây Sương Kí đấy.
[30] Chú cước: Lối nói đó là lối mô phỏng đặc biệt đười ươi của Trung Niên Thi Sĩ bắt chước ông Kim Thánh Thán bình giải Tây Sương Kí đấy. Bùi Thi Sĩ chằng thể nào tự mình nghĩ ra được một cách nói tót vời chịu chơi đến thế. [31] Chẳng riêng gì độc giả, mà chính kẻ dịch cũng bồi hồi trước thể thái rỡn hơi thái quá của ông Heidegger trong thể lệ niêm hoa vi tiếu lúc thuyết thoại bằng ngôn ngữ về cái gì bất khả ngữ thuyết ở tại đây. Nam Mô A Di Đà Phật! [32] Bản dịch Pháp ngữ thiếu sót nhiều ở đoạn này. [33] Nguyên là Kraniche: những con Hạc, nếu dịch theo bản Pháp “cự điểu” nghe cũng xuôi? [34] Bản Pháp ngữ dịch lệch thêm lần nữa. Dịch ra Việt ngữ, chỉ một tiếng “chăm sóc” là đủ (hoặc chở che, chiếu cố, pflegen). [35] Tôi sử dụng lục bát để đi sát hồn thơ Höelderlin hơn, mặc dù mới xem dường như không hợp. [36] Ở đoạn trên, Höelderlin vừa gọi về gọi hình bóng những Người Xưa Cổ Hi Lạp và đoạn tiếp sau sẽ gọi “Ôi Đất Nước của Homere! và tự xem mình là họ hàng thân thích hậu duệ của những Người Đời Xưa ấy (cũng như chúng ta bây giờ lẩn thẩn nhớ nhung mơ mộng chiêm bao những Tô Châu, Tứ Xuyên, Giang Tây, những Trích Tiên Lý Bạch, những Tư Mã Giang Châu, Những Thôi Hộ Thôi Hiệu...) [37] Đoạn này gồm ba câu cả thảy. Ông Heidegger có dụng ý đặc biệt trong thể cách đó. Bản Pháp ngữ ngắt ra thành năm câu cả thảy ấy là thể theo tinh thần Pháp ngữ. Tôi không rõ sang Việt ngữ nên ngắt làm năm hay là bảy. Đành thuận theo nguyên thuyết, giữ nguyên tam. Người đọc ngạc nhiên đếm lại?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
[30] Chú cước: Lối nói đó là lối mô phỏng đặc biệt đười ươi của Trung Niên Thi Sĩ bắt chước ông Kim Thánh Thán bình giải Tây Sương Kí đấy. Bùi Thi Sĩ chằng thể nào tự mình nghĩ ra được một cách nói tót vời chịu chơi đến thế. [31] Chẳng riêng gì độc giả, mà chính kẻ dịch cũng bồi hồi trước thể thái rỡn hơi thái quá của ông Heidegger trong thể lệ niêm hoa vi tiếu lúc thuyết thoại bằng ngôn ngữ về cái gì bất khả ngữ thuyết ở tại đây. Nam Mô A Di Đà Phật! [32] Bản dịch Pháp ngữ thiếu sót nhiều ở đoạn này. [33] Nguyên là Kraniche: những con Hạc, nếu dịch theo bản Pháp “cự điểu” nghe cũng xuôi? [34] Bản Pháp ngữ dịch lệch thêm lần nữa. Dịch ra Việt ngữ, chỉ một tiếng “chăm sóc” là đủ (hoặc chở che, chiếu cố, pflegen). [35] Tôi sử dụng lục bát để đi sát hồn thơ Höelderlin hơn, mặc dù mới xem dường như không hợp. [36] Ở đoạn trên, Höelderlin vừa gọi về gọi hình bóng những Người Xưa Cổ Hi Lạp và đoạn tiếp sau sẽ gọi “Ôi Đất Nước của Homere! và tự xem mình là họ hàng thân thích hậu duệ của những Người Đời Xưa ấy (cũng như chúng ta bây giờ lẩn thẩn nhớ nhung mơ mộng chiêm bao những Tô Châu, Tứ Xuyên, Giang Tây, những Trích Tiên Lý Bạch, những Tư Mã Giang Châu, Những Thôi Hộ Thôi Hiệu...) [37] Đoạn này gồm ba câu cả thảy. Ông Heidegger có dụng ý đặc biệt trong thể cách đó. Bản Pháp ngữ ngắt ra thành năm câu cả thảy ấy là thể theo tinh thần Pháp ngữ. Tôi không rõ sang Việt ngữ nên ngắt làm năm hay là bảy. Đành thuận theo nguyên thuyết, giữ nguyên tam. Người đọc ngạc nhiên đếm lại?
Tôi không rõ sang Việt ngữ nên ngắt làm năm hay là bảy. Đành thuận theo nguyên thuyết, giữ nguyên tam. Người đọc ngạc nhiên đếm lại? Rõ ràng đoạn đó tôi viết ra đến bốn câu sờ sờ đấy sao bướng bỉnh bảo là giữ nguyên “ba”? Ấy bởi rằng trong bốn câu Việt ngữ có một câu hoàn toàn là do tôi thêm vào theo thể lệ “hư không đặt để thêm lời”. Nhưng “hư không” không có nghĩa là “không hư”. Ấy cũng vì thuận theo yêu sách nghiêm mật trong thể cách thuyết thoại nguyên ngôn. Nó thế có nghĩa là gì? Có nghĩa rằng: vì tôn trọng lối ăn nói “nhì nhằng” của ông cụ Heidegger, tôi không thể đem diễn đạt lại một cách rành mạch theo thể lệ trung niên, thì phong vận thi sĩ cốt cách thi nhân nơi tôi buộc tôi phải bố trí thêm một chút “luộm thuộm thừa dư” vào trong trận nhì nhằng của ông cụ ấy vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi không rõ sang Việt ngữ nên ngắt làm năm hay là bảy. Đành thuận theo nguyên thuyết, giữ nguyên tam. Người đọc ngạc nhiên đếm lại? Rõ ràng đoạn đó tôi viết ra đến bốn câu sờ sờ đấy sao bướng bỉnh bảo là giữ nguyên “ba”? Ấy bởi rằng trong bốn câu Việt ngữ có một câu hoàn toàn là do tôi thêm vào theo thể lệ “hư không đặt để thêm lời”. Nhưng “hư không” không có nghĩa là “không hư”. Ấy cũng vì thuận theo yêu sách nghiêm mật trong thể cách thuyết thoại nguyên ngôn. Nó thế có nghĩa là gì? Có nghĩa rằng: vì tôn trọng lối ăn nói “nhì nhằng” của ông cụ Heidegger, tôi không thể đem diễn đạt lại một cách rành mạch theo thể lệ trung niên, thì phong vận thi sĩ cốt cách thi nhân nơi tôi buộc tôi phải bố trí thêm một chút “luộm thuộm thừa dư” vào trong trận nhì nhằng của ông cụ ấy vậy.
[38] Ngôn ngữ Heidegger trong đoạn này phất phơ quá hàm súc, tàng ẩn mọi âm hưởng thiết yếu ở khắp các “tác phẩm” khác của ông, những âm hưởng ngôn từ trong ngữ điệu nào cùng một lúc tụ tập mọi “kim thanh ngọc chấn” về tại một điểm quá hoàng đại đạm nhiên bó buộc lời dịch phải liên miên lóng cóng như trường hợp con nhà võ hiệp đứng trước một luồng kiếm khí phát xuất từ một cõi Kiếm Thuật Thượng Thừa với nội lực quá hùng hồn của Thần Công Thượng Thặng kết tụ mọi mọi tinh hoa của thảy môn phái vũ thuật cổ kim từ Thiếu Lâm, Võ Đang Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Thanh Thành tới những phát minh riêng biệt của những bậc kì tài đột xuất từ hải ngoại xa xôi hoặc từ heo hút non ngàn mây bạc cõi Tây Vực trùng trùng điệp điệp khép mở chon von bao nhiêu những bí mật ngàn thu của tuyết sương vèo bay giữa linh hồn tuế nguyệt làm nên nỗi xao xuyến dị thường của những con én múa đầu xuân. [39] Xem: Sao gọi là Suy Tư - Heidegger - bản dịch mấy chương cốt yếu trong Phụ Bản Mùa Hè Sa Mạc, Võ Tánh Quế Sơn xuất bản. [40] Bản Pháp ngữ Unmittelbarkeit ra làm Immédiate thì không khơi dẫn ra ý, và có thể bị hiểu theo nghĩa thường. [41] Xem tập Thúy Vân Tam Hợp Đạo Cô (Quế Sơn Võ Tánh xuất bản) [42] Höelderlin như ta thấy bất ngờ ra như vậy đã quyết định toàn thể ngôn ngữ Zarathustra. Chỉ khác một điều: Höelderlin trầm hùng, hải hàm đạm nhiên thơ dại, Nietzsche gào thét, lúc cuồng nộ, lúc bàng hoàng như con beo bị nhốt ở trong chuồng bách thú.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
[38] Ngôn ngữ Heidegger trong đoạn này phất phơ quá hàm súc, tàng ẩn mọi âm hưởng thiết yếu ở khắp các “tác phẩm” khác của ông, những âm hưởng ngôn từ trong ngữ điệu nào cùng một lúc tụ tập mọi “kim thanh ngọc chấn” về tại một điểm quá hoàng đại đạm nhiên bó buộc lời dịch phải liên miên lóng cóng như trường hợp con nhà võ hiệp đứng trước một luồng kiếm khí phát xuất từ một cõi Kiếm Thuật Thượng Thừa với nội lực quá hùng hồn của Thần Công Thượng Thặng kết tụ mọi mọi tinh hoa của thảy môn phái vũ thuật cổ kim từ Thiếu Lâm, Võ Đang Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Thanh Thành tới những phát minh riêng biệt của những bậc kì tài đột xuất từ hải ngoại xa xôi hoặc từ heo hút non ngàn mây bạc cõi Tây Vực trùng trùng điệp điệp khép mở chon von bao nhiêu những bí mật ngàn thu của tuyết sương vèo bay giữa linh hồn tuế nguyệt làm nên nỗi xao xuyến dị thường của những con én múa đầu xuân. [39] Xem: Sao gọi là Suy Tư - Heidegger - bản dịch mấy chương cốt yếu trong Phụ Bản Mùa Hè Sa Mạc, Võ Tánh Quế Sơn xuất bản. [40] Bản Pháp ngữ Unmittelbarkeit ra làm Immédiate thì không khơi dẫn ra ý, và có thể bị hiểu theo nghĩa thường. [41] Xem tập Thúy Vân Tam Hợp Đạo Cô (Quế Sơn Võ Tánh xuất bản) [42] Höelderlin như ta thấy bất ngờ ra như vậy đã quyết định toàn thể ngôn ngữ Zarathustra. Chỉ khác một điều: Höelderlin trầm hùng, hải hàm đạm nhiên thơ dại, Nietzsche gào thét, lúc cuồng nộ, lúc bàng hoàng như con beo bị nhốt ở trong chuồng bách thú.
Chỉ khác một điều: Höelderlin trầm hùng, hải hàm đạm nhiên thơ dại, Nietzsche gào thét, lúc cuồng nộ, lúc bàng hoàng như con beo bị nhốt ở trong chuồng bách thú. Ngày trước dịch mấy đoạn Zarathustra in vào tập Con Người Phản Kháng, tôi nghĩ rằng nên đem những vần thơ Höelderlin mà trao tặng cho Nietzsche, để chỉ dẫn âm thầm cho Nietzsche cỗi nguồn mà Nietzsche cố gắng quên đi vì hãi hùng trong lời thâm tạ không thốt ra được với thiên tài đàn anh của ông ta. Độc giả tưởng lầm là của Nietzsche thật thì càng hay vì một lẽ riêng trong cõi thượng thừa tư tưởng, cuộc hội thoại phải tuân theo thể lệ nào mà Hồng Sơn Liệp Hộ đã quy định từ lâu và riêng Huy Cận liễu giải. Nietzsche chưa đạt tới cõi đó suốt bình sinh, và chỉ một mình Nietzsche rõ điều ấy. [43] Đoạn này lời dịch có thêm ít ngôn ngữ nhiếp dẫn vài tương liên quy thuộc “khác khác”. Nhưng thể theo nguyện vọng Heidegger vậy. Bản dịch Pháp ngữ có sai lệch ở một điểm đặc biệt đáng lưu tâm. Người nào có bản Approche de Hoelderlin hãy giữ ra xem lại những trang 86, 87, 88. Michel Deguy và François Fédier dịch có vẻ sát nguyên ngữ, nhưng “sai một li, đi một dặm”. Trung Niên Thi Sĩ trái lại, dịch giải có vẻ như sai hàng dặm, mà thật ra, thiết cận, cận khẩn từng li trong đường tơ kẽ tóc làm chuyển động dạt dào những mạch ngầm trong ngôn ngữ Heidegger, mở ra ngàn vạn chân trời huyền bí cho tư tưởng bước đi, từ cõi Homère, Hoa Nghiêm tới Nguyễn Du, Huy Cận, Nerval.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chỉ khác một điều: Höelderlin trầm hùng, hải hàm đạm nhiên thơ dại, Nietzsche gào thét, lúc cuồng nộ, lúc bàng hoàng như con beo bị nhốt ở trong chuồng bách thú. Ngày trước dịch mấy đoạn Zarathustra in vào tập Con Người Phản Kháng, tôi nghĩ rằng nên đem những vần thơ Höelderlin mà trao tặng cho Nietzsche, để chỉ dẫn âm thầm cho Nietzsche cỗi nguồn mà Nietzsche cố gắng quên đi vì hãi hùng trong lời thâm tạ không thốt ra được với thiên tài đàn anh của ông ta. Độc giả tưởng lầm là của Nietzsche thật thì càng hay vì một lẽ riêng trong cõi thượng thừa tư tưởng, cuộc hội thoại phải tuân theo thể lệ nào mà Hồng Sơn Liệp Hộ đã quy định từ lâu và riêng Huy Cận liễu giải. Nietzsche chưa đạt tới cõi đó suốt bình sinh, và chỉ một mình Nietzsche rõ điều ấy. [43] Đoạn này lời dịch có thêm ít ngôn ngữ nhiếp dẫn vài tương liên quy thuộc “khác khác”. Nhưng thể theo nguyện vọng Heidegger vậy. Bản dịch Pháp ngữ có sai lệch ở một điểm đặc biệt đáng lưu tâm. Người nào có bản Approche de Hoelderlin hãy giữ ra xem lại những trang 86, 87, 88. Michel Deguy và François Fédier dịch có vẻ sát nguyên ngữ, nhưng “sai một li, đi một dặm”. Trung Niên Thi Sĩ trái lại, dịch giải có vẻ như sai hàng dặm, mà thật ra, thiết cận, cận khẩn từng li trong đường tơ kẽ tóc làm chuyển động dạt dào những mạch ngầm trong ngôn ngữ Heidegger, mở ra ngàn vạn chân trời huyền bí cho tư tưởng bước đi, từ cõi Homère, Hoa Nghiêm tới Nguyễn Du, Huy Cận, Nerval.
[44] Người đọc thử nhìn vào câu viết dài dậm duộc đó của ông già nua Heidegger, bàng hoàng đếm chơi những điệp âm va chạm nhau như kiếm đao tại sa trường Hán Sở chen chúc nhau tiếng sắt tiếng vàng, và sẽ Không kinh ngạc gì về lời dịch huếch hoắc ngữ ngôn ôn tồn tiếp dẫn: damit, der, das, den, des, durch den đen; eine Schaerfe, einen Schlag, einzigen Strahls, etcaetera…. [45] Trạng huống ông Heidegger nói đó, Nguyễn Du đã lịch nghiệm như thế nào trong tồn sinh Tại Thể của ông và thể hiện như thế nào trong cuốn Truyện? Tôi có nói tới nhiều lần dưới nhiều thể cách, nhưng hình như không một người nghe ra. Bây giờ chắc quý vị bắt đầu xúm xít lại hoan hô ông Heidegger? Ông này đã từng đạm nhiên nói ra điều đó cách đây mười thế kỉ, nghĩa là một ngàn năm. (Dĩ hỉ Thiền Tâm Vô Biệt Ngữ. Thượng hiềm Thí Phát hữu Thi Ban...”. Lời lời ứng hợp không sai một mảy may. [46] Bản Pháp dịch câu đó: Cela sens aux enfants - Thế là sai một li đi một dặm. Sai một dặm lên tới cung trăng. Phải dịch là: cela est propre aux enfants. Cái thuần phác là cái tính chất đặc hữu của con nít, bọn con nít thích ngó chuồn chuồn một cách vô tội thơ ngây. Dịch “cela sens aux enfants” (cái đó thích hợp với trẻ con) thì ngôn ngữ đầy chất đạo đức gàn, không phải cõi miền của uyên nguyên chi đạo. Tuy nhiên, muốn dịch sao thì dịch, nếu sai một li đi một dặm, sai một dặm, lên tới cung trăng, lên cung trăng gặp gỡ chị Hằng thì thật là điều tốt lắm, cũng là đúng trong tâm nguyện bình sinh trẻ con thuần phác vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
[44] Người đọc thử nhìn vào câu viết dài dậm duộc đó của ông già nua Heidegger, bàng hoàng đếm chơi những điệp âm va chạm nhau như kiếm đao tại sa trường Hán Sở chen chúc nhau tiếng sắt tiếng vàng, và sẽ Không kinh ngạc gì về lời dịch huếch hoắc ngữ ngôn ôn tồn tiếp dẫn: damit, der, das, den, des, durch den đen; eine Schaerfe, einen Schlag, einzigen Strahls, etcaetera…. [45] Trạng huống ông Heidegger nói đó, Nguyễn Du đã lịch nghiệm như thế nào trong tồn sinh Tại Thể của ông và thể hiện như thế nào trong cuốn Truyện? Tôi có nói tới nhiều lần dưới nhiều thể cách, nhưng hình như không một người nghe ra. Bây giờ chắc quý vị bắt đầu xúm xít lại hoan hô ông Heidegger? Ông này đã từng đạm nhiên nói ra điều đó cách đây mười thế kỉ, nghĩa là một ngàn năm. (Dĩ hỉ Thiền Tâm Vô Biệt Ngữ. Thượng hiềm Thí Phát hữu Thi Ban...”. Lời lời ứng hợp không sai một mảy may. [46] Bản Pháp dịch câu đó: Cela sens aux enfants - Thế là sai một li đi một dặm. Sai một dặm lên tới cung trăng. Phải dịch là: cela est propre aux enfants. Cái thuần phác là cái tính chất đặc hữu của con nít, bọn con nít thích ngó chuồn chuồn một cách vô tội thơ ngây. Dịch “cela sens aux enfants” (cái đó thích hợp với trẻ con) thì ngôn ngữ đầy chất đạo đức gàn, không phải cõi miền của uyên nguyên chi đạo. Tuy nhiên, muốn dịch sao thì dịch, nếu sai một li đi một dặm, sai một dặm, lên tới cung trăng, lên cung trăng gặp gỡ chị Hằng thì thật là điều tốt lắm, cũng là đúng trong tâm nguyện bình sinh trẻ con thuần phác vậy.
[47] Mưa Nguồn: Chợt dòng hoài cảm Ven Khe Từ trong Hang Thẳm dậy đè Đầu Non Mùa Mây trên Tháng Năm Còn Ngày Vui Thứ nhất Trái Tròn Sơ Nguyên... (Một Bài Thơ nhan đề Đi Tìm, bốn câu trích ra như thế là cái Vùng Hội Tụ Tinh Thể Thơ Höelderlin Như Lai và Tư Tưởng Heidegger vậy). [48] Bản Pháp Ngữ (trang 93-94) Mais le Sacré, au dessus des dieux et des hommes est plus ancien que les temps. Ce qui est avant toute chose le premier, et après toute chose le dernier, est cela qui vient avant tout et maintient tout en lui: l’Inaugural, et comme tel, ce qui demeure. Sa permanence est l’éternité de l’éternel. Dịch như vậy nghe chẳng đâu vào đâu hết cả. Riêng nói về đoạn cuối, nếu muốn tinh thể ngôn ngữ tư tưởng thượng thừa đừng tan hoang, phải dịch như thế này:: l’Inaugural, et comme tel, le Demeurant. Le Demeurer du Demeurant, est l’Éternité de l’Éternel. Cưu Ma La Thập ngày xưa dịch Kinh Phật ra Hoa ngữ, đã dám đi nhiều bước dạn dĩ hơn học giả đời nay. Lương Khải Siêu trong quyển Phật Học Nghiên Cứu Thập Bát Biên đã nêu sự vụ đồ sộ kia từ lâu lắm rồi. [49] Khắp nơi trong tác phẩm Heidegger, luôn luôn thấy trở lại sự phân biệt trầm trọng này: Lịch sử Sử kí (Historie Historische) và Sử Lịch Sử xanh Thanh Sử Hồng Sử (Geschichte). Cuốn sách về Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại xưa kia đã nói rồi.Sử lịch Sử xanh là gì? Lúc Truyện Kiều hiện thị ở bên đèn, Sử Lịch Đông Phương lập thời lịch hiện trong Sát Na Choáng Váng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
[47] Mưa Nguồn: Chợt dòng hoài cảm Ven Khe Từ trong Hang Thẳm dậy đè Đầu Non Mùa Mây trên Tháng Năm Còn Ngày Vui Thứ nhất Trái Tròn Sơ Nguyên... (Một Bài Thơ nhan đề Đi Tìm, bốn câu trích ra như thế là cái Vùng Hội Tụ Tinh Thể Thơ Höelderlin Như Lai và Tư Tưởng Heidegger vậy). [48] Bản Pháp Ngữ (trang 93-94) Mais le Sacré, au dessus des dieux et des hommes est plus ancien que les temps. Ce qui est avant toute chose le premier, et après toute chose le dernier, est cela qui vient avant tout et maintient tout en lui: l’Inaugural, et comme tel, ce qui demeure. Sa permanence est l’éternité de l’éternel. Dịch như vậy nghe chẳng đâu vào đâu hết cả. Riêng nói về đoạn cuối, nếu muốn tinh thể ngôn ngữ tư tưởng thượng thừa đừng tan hoang, phải dịch như thế này:: l’Inaugural, et comme tel, le Demeurant. Le Demeurer du Demeurant, est l’Éternité de l’Éternel. Cưu Ma La Thập ngày xưa dịch Kinh Phật ra Hoa ngữ, đã dám đi nhiều bước dạn dĩ hơn học giả đời nay. Lương Khải Siêu trong quyển Phật Học Nghiên Cứu Thập Bát Biên đã nêu sự vụ đồ sộ kia từ lâu lắm rồi. [49] Khắp nơi trong tác phẩm Heidegger, luôn luôn thấy trở lại sự phân biệt trầm trọng này: Lịch sử Sử kí (Historie Historische) và Sử Lịch Sử xanh Thanh Sử Hồng Sử (Geschichte). Cuốn sách về Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại xưa kia đã nói rồi.Sử lịch Sử xanh là gì? Lúc Truyện Kiều hiện thị ở bên đèn, Sử Lịch Đông Phương lập thời lịch hiện trong Sát Na Choáng Váng.
Cuốn sách về Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại xưa kia đã nói rồi.Sử lịch Sử xanh là gì? Lúc Truyện Kiều hiện thị ở bên đèn, Sử Lịch Đông Phương lập thời lịch hiện trong Sát Na Choáng Váng. Truyện Kiều là Biến Cố Sử Lịch quan trọng bậc nhất trong lịch sử Đông phương, vì đó là lần đầu tiên tại Việt Nam, tinh thể chân lí bồi hồi hiện ra trở lại sau hai ngàn ba trăm năm rưỡi ngủ yên, mà hiện ra trong bước lịch hành huyền bí tại Ngã Ba Tam Đạo một cách sơ nguyên thượng thừa, vì đó là lần đầu tiên Đông phương rục rịch mở đối thoại với Tây Phương Cựu Hi Lạp.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đoạn hồng linh nhạn ký - Truyện một con hồng nhạn lênh đênh? Truyện một nhà sư vướng tục lụy? Nhà sư ấy, cha vốn là người Trung Hoa, mẹ là người Nhật Bản. Cha mất sớm, mẹ về cố quận… Đứa con bơ vơ trôi nổi, quy y cửa Phật, rồi giũ áo tu, ra đời, vướng vào Lụy Tình Yêu. Ngòi bút của Tô Tử Cốc, vừa trang nhã, thâm trầm, vừa linh hoạt tân kỳ như bút pháp những văn hào hiện đại Tây phương - ngòi bút Tô Tử Cốc sẽ đưa chúng ta vào sâu trong cõi tình và lụy, đạo giáo và ước mơ, những mâu thuẫn muôn đời vạn kiếp của con người ở một thời đại, và riêng biệt của con người đứng chênh vênh ở đầu thế kỷ hai mươi là thế kỷ của những dông bão dị thường. Đọc Tô Mạn Thù, chúng ta có cảm tưởng kỳ dị: chẳng những không một tâm tình tư tưởng nào của cõi Đạo Đông phương Chân Như lọt ra ngoài nhãn quan ông, mà ngay cả cõi Tây phương hoằng đại, từ sơ thủy Hy Lạp Sophocle Parménide tới hiện đại Âu châu văn thể siêu thực Apollinaire, Nerval, Camus, Morgan, không một “bút pháp” nào ông không thành thục quán xuyến. Toàn thể câu chuyện, cũng như mỗi tình tiết nhỏ nêu ra đều được nung nấu trong mối tư lường của một thánh tính đạt tới cõi lô hỏa thuần thanh, siêu thần nhập hóa. Không thể nào nói đó là bút pháp tài tình, kỹ thuật điêu luyện, chỉ có thể nói rằng đó là một cuộc kết tinh huyền nhiệm của lịch sử Đông phương giữa một triều sóng rộng dâng lên cùng với bao nhiêu ngọn gió ở bốn chân trời lổ đổ thổi lại.
Đọc cuốn sách của Tô Mạn Thù cũng như đọc Sophocle, Nguyễn Du, Nerval, Apollinaire, Faulkner, Morgan, luôn luôn chúng ta bàng hoàng trước huyền nhiệm anh hoa phát tiết. Đại sư Mạn Thù, tên thật là Tô Huyền Anh biệt hiệu là Tô Tử Cốc, sinh năm 1883, mất năm 1918 (xấp xỉ đồng thời với Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Apollinaire, lênh đênh giữa hai thế kỷ 19 và 20). Thân phụ ông vốn là người Trung Hoa, tỉnh Quảng Đông, vì cuộc sinh nhai mà lưu lạc sang Nhật Bản, cưới một thiếu nữ Nhật, sinh hạ Tô Huyền Anh. Tô Huyền Anh chưa được mấy tuổi, thì thân phụ chàng đưa gia quyến về lại Trung Hoa. Chẳng bao lâu thân phụ chàng lìa đời. Thân mẫu đành quay về Nhật Bản, gửi đứa con ở lại Trung Hoa, nhờ thân thích bên nội nuôi dưỡng. Đứa bé bị họ hàng quê cha ghét bỏ, vì nó mang một nửa phần máu mẹ Nhật Bản ở trong thân thể nó. Đứa bé cô đơn quá, bèn cạo đầu quy y cửa Phật, vào chùa Lôi Phong tại Quảng Châu. Phương trượng Tuệ Long, nhận thấy thằng bé thông minh xuất sắc, mới dốc lòng dạy dỗ. Sau mấy năm dùi mài cần mẫn, chú bé đã thông thạo văn học tư tưởng Ấn Độ, Trung Hoa, và dăm bảy ngôn ngữ Tây phương… Sau khi Phương trượng viên tịch, Tô Mạn Thù cảm thấy bơ vơ, bèn trút giũ áo tu, ra sống ngoài cõi tục. Tâm trạng tình cảm từ đó quả thật là éo le: tu thì tu không trót, mà chen lấn chìm nổi với đời, thì cũng thiếu hẳn khả năng chen lấn nổi chìm. Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đọc cuốn sách của Tô Mạn Thù cũng như đọc Sophocle, Nguyễn Du, Nerval, Apollinaire, Faulkner, Morgan, luôn luôn chúng ta bàng hoàng trước huyền nhiệm anh hoa phát tiết. Đại sư Mạn Thù, tên thật là Tô Huyền Anh biệt hiệu là Tô Tử Cốc, sinh năm 1883, mất năm 1918 (xấp xỉ đồng thời với Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Apollinaire, lênh đênh giữa hai thế kỷ 19 và 20). Thân phụ ông vốn là người Trung Hoa, tỉnh Quảng Đông, vì cuộc sinh nhai mà lưu lạc sang Nhật Bản, cưới một thiếu nữ Nhật, sinh hạ Tô Huyền Anh. Tô Huyền Anh chưa được mấy tuổi, thì thân phụ chàng đưa gia quyến về lại Trung Hoa. Chẳng bao lâu thân phụ chàng lìa đời. Thân mẫu đành quay về Nhật Bản, gửi đứa con ở lại Trung Hoa, nhờ thân thích bên nội nuôi dưỡng. Đứa bé bị họ hàng quê cha ghét bỏ, vì nó mang một nửa phần máu mẹ Nhật Bản ở trong thân thể nó. Đứa bé cô đơn quá, bèn cạo đầu quy y cửa Phật, vào chùa Lôi Phong tại Quảng Châu. Phương trượng Tuệ Long, nhận thấy thằng bé thông minh xuất sắc, mới dốc lòng dạy dỗ. Sau mấy năm dùi mài cần mẫn, chú bé đã thông thạo văn học tư tưởng Ấn Độ, Trung Hoa, và dăm bảy ngôn ngữ Tây phương… Sau khi Phương trượng viên tịch, Tô Mạn Thù cảm thấy bơ vơ, bèn trút giũ áo tu, ra sống ngoài cõi tục. Tâm trạng tình cảm từ đó quả thật là éo le: tu thì tu không trót, mà chen lấn chìm nổi với đời, thì cũng thiếu hẳn khả năng chen lấn nổi chìm. Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu.
Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu. Cũng nhiều phen qua Nhật Bản viếng thăm thân mẫu. Chính tại Nhật Bản, Tô Mạn Thù gặp Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và nhiều đồng chí của Tôn Dật Tiên sang Nhật lánh nạn. Những anh hùng cách mạng kia chơi thân thiết với Tô Mạn Thù. Nhưng họ Tô vốn là nhà sư thi sĩ, chẳng thể nào nhập cuộc thật sự với các lãnh tụ chánh trị chịu chơi gay cấn kia. Cái anh chàng thanh niên “lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh” kia từ đó càng lang thang trầm luân khắp châu quận, trường giang đại hải. Tiếng gọi sơ đầu của Như Lai không đủ cứu vớt chàng, dìu dắt chàng trở lại với cõi tịch mịch thanh tu. Càng ngày chàng càng đâm ra trầm túy, nửa trong hồ rượu nửa trong biển tình. Chàng đúng là một loại Nerval Baudelaire Dylan Thomas Verlaine Apollinaire. Nếu chàng mù được hai mắt như Homère, ắt chàng đã khám phá ra một cõi sống dị thường trong u tối. Nhưng cái rủi ro lại là ở chỗ: chàng không mù. Kể từ mười mấy tuổi đầu, chàng đã sống trọn cái thảm kịch trần gian, sinh mệnh chàng ngược xuôi lảo đảo, mười sáu tuổi đầu, chàng đã thể hội hết nỗi đoạn trường thế sự mà Nguyễn Du đã viết lúc đầu bạc bình sinh, chàng đã nhìn quá sáng suốt mọi thảm kịch biển dâu, mà chẳng đủ khả năng thoát tục, cũng không đủ sức sống xô bồ bạt mạng trắng trợn tới cùng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu. Cũng nhiều phen qua Nhật Bản viếng thăm thân mẫu. Chính tại Nhật Bản, Tô Mạn Thù gặp Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và nhiều đồng chí của Tôn Dật Tiên sang Nhật lánh nạn. Những anh hùng cách mạng kia chơi thân thiết với Tô Mạn Thù. Nhưng họ Tô vốn là nhà sư thi sĩ, chẳng thể nào nhập cuộc thật sự với các lãnh tụ chánh trị chịu chơi gay cấn kia. Cái anh chàng thanh niên “lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh” kia từ đó càng lang thang trầm luân khắp châu quận, trường giang đại hải. Tiếng gọi sơ đầu của Như Lai không đủ cứu vớt chàng, dìu dắt chàng trở lại với cõi tịch mịch thanh tu. Càng ngày chàng càng đâm ra trầm túy, nửa trong hồ rượu nửa trong biển tình. Chàng đúng là một loại Nerval Baudelaire Dylan Thomas Verlaine Apollinaire. Nếu chàng mù được hai mắt như Homère, ắt chàng đã khám phá ra một cõi sống dị thường trong u tối. Nhưng cái rủi ro lại là ở chỗ: chàng không mù. Kể từ mười mấy tuổi đầu, chàng đã sống trọn cái thảm kịch trần gian, sinh mệnh chàng ngược xuôi lảo đảo, mười sáu tuổi đầu, chàng đã thể hội hết nỗi đoạn trường thế sự mà Nguyễn Du đã viết lúc đầu bạc bình sinh, chàng đã nhìn quá sáng suốt mọi thảm kịch biển dâu, mà chẳng đủ khả năng thoát tục, cũng không đủ sức sống xô bồ bạt mạng trắng trợn tới cùng.
Thi văn chàng từ đó mang một tố chất đìu hiu bất khả tư nghị ở tại cái “ngã ba” siêu lệch chênh vênh gây cấn: “dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Chiêm bao kỳ mộng dường gần. Sịch mành sực tỉnh lại dần dần xa. Há rằng ngẫu nhĩ mà ra. Đoạn hồng linh nhạn mù sa thế nào…” Đọc Đoạn hồng linh nhạn của Đại sư Tô Mạn Thù, từ đó, chúng ta chứng kiến mọi tan vỡ trong xã hội Đông phương giữa những xung đột kỳ thị, những mộng và tình và tiền oan túc trái… (Tiện đây, người dịch xin đưa ý kiến riêng là: những sách tiểu thuyết tôi được đọc trên vài mươi năm nay, không có cuốn nào gây chấn động cho tôi nhiều như cuốn sách này của Tô Mạn Thù - trừ cuốn truyện của Nguyễn Du (cố nhiên) và cuốn Sylvie của Nerval và có lẽ Fountain Sparkenbroke của Morgan - kể về mọi phương diện - nội dung văn thể, bố cục…) Tô Mạn Thù vốn mê thơ Lord Byron (thi hào lãng mạn Anh Quốc). Nhưng Tô Mạn Thù không thể sống trọn cái nghiệp Byron, ấy có vì từ thuở sơ sinh, chàng đã quá lạc loài rũ rượi, rồi chàng lại bị cái tiếng gọi âm thầm của Như Lai chi phối, khiến chàng suốt kiếp luẩn quẩn, tìm không ra lối bước, đường tiến, nẻo lui. Hai dòng máu ở trong mình, hai thời đại của lịch sử, xô con người vào một cõi cô độc dị thường - đó là chỗ cốt yếu trong cuốn truyện của Tô Tử Cốc. Cuốn truyện hẳn nhiên không tất nhiên phải là tiểu sử, nhưng nó phản ánh cuộc sống nội tâm của tác giả và của một lớp người trong buổi giao thời riêng biệt. Bùi Giáng NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY Hay là chuyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly Người đâu tá?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thi văn chàng từ đó mang một tố chất đìu hiu bất khả tư nghị ở tại cái “ngã ba” siêu lệch chênh vênh gây cấn: “dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Chiêm bao kỳ mộng dường gần. Sịch mành sực tỉnh lại dần dần xa. Há rằng ngẫu nhĩ mà ra. Đoạn hồng linh nhạn mù sa thế nào…” Đọc Đoạn hồng linh nhạn của Đại sư Tô Mạn Thù, từ đó, chúng ta chứng kiến mọi tan vỡ trong xã hội Đông phương giữa những xung đột kỳ thị, những mộng và tình và tiền oan túc trái… (Tiện đây, người dịch xin đưa ý kiến riêng là: những sách tiểu thuyết tôi được đọc trên vài mươi năm nay, không có cuốn nào gây chấn động cho tôi nhiều như cuốn sách này của Tô Mạn Thù - trừ cuốn truyện của Nguyễn Du (cố nhiên) và cuốn Sylvie của Nerval và có lẽ Fountain Sparkenbroke của Morgan - kể về mọi phương diện - nội dung văn thể, bố cục…) Tô Mạn Thù vốn mê thơ Lord Byron (thi hào lãng mạn Anh Quốc). Nhưng Tô Mạn Thù không thể sống trọn cái nghiệp Byron, ấy có vì từ thuở sơ sinh, chàng đã quá lạc loài rũ rượi, rồi chàng lại bị cái tiếng gọi âm thầm của Như Lai chi phối, khiến chàng suốt kiếp luẩn quẩn, tìm không ra lối bước, đường tiến, nẻo lui. Hai dòng máu ở trong mình, hai thời đại của lịch sử, xô con người vào một cõi cô độc dị thường - đó là chỗ cốt yếu trong cuốn truyện của Tô Tử Cốc. Cuốn truyện hẳn nhiên không tất nhiên phải là tiểu sử, nhưng nó phản ánh cuộc sống nội tâm của tác giả và của một lớp người trong buổi giao thời riêng biệt. Bùi Giáng NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY Hay là chuyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly Người đâu tá?
Bùi Giáng NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY Hay là chuyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ Tuổi bao nhiêu? Đã sinh cùng nước cùng thì Cùng ta không biệt mà ly bao giờ… TẢN ĐÀ Gia suona mattutino, lento, lento, Ritorno a casa e non veggo la via Gli occhi lasciai teco e il sentimento! E ne portai con me la gelosia... (Đã nghe vang động chuông mai Lễ là kỳ đảo, hội là cưỡng câu Tôi về nhà cửa sương thâu Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường Bên chàng, thiếp đặt tình thương Mắt mi môi miệng máu hường bình sinh Còn riêng mang mãi bên mình Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi…) FRANCESCO PETRARCA - Canzoniere CHƯƠNG MỘT Tại Bách Việt, về phía Nam bờ biển, có dãy Kim Nhân Sơn nguy nga dựng sững. Những lúc trời quang mây tạnh, ta có thể nhận thấy phía bên dưới sườn núi xanh um (tại chân núi) ẩn ẩn hiện hiện một mái ngói hồng lóng lánh, lập lòe như lớp vảy con kình ngư. Đó là ngôi chùa Hải Vân, vẫn còn nguyên như thuở xưa, cái ngày nhà Tống sụp đổ, Lục Tú Phù cõng vị ấu chúa chạy tỵ nạn, tới bước đường cùng, tiên sinh đã cùng ấu chúa tự sát tuẫn quốc tại Nhai Sơn, để trọn đạo hiếu trung, hơn là lọt vào tay cường địch hung bạo. Một số di thần triều Tống cũng đã tới đó ẩn thân độn tích, cạo đầu đi tu. Ngày đêm hướng lên trời xanh cầu nguyện, mong mỏi Thương hiệu phò trì vong linh của Đại Hành Hoàng đế. Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Bùi Giáng NHÀ SƯ VƯỚNG LỤY Hay là chuyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ Tuổi bao nhiêu? Đã sinh cùng nước cùng thì Cùng ta không biệt mà ly bao giờ… TẢN ĐÀ Gia suona mattutino, lento, lento, Ritorno a casa e non veggo la via Gli occhi lasciai teco e il sentimento! E ne portai con me la gelosia... (Đã nghe vang động chuông mai Lễ là kỳ đảo, hội là cưỡng câu Tôi về nhà cửa sương thâu Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường Bên chàng, thiếp đặt tình thương Mắt mi môi miệng máu hường bình sinh Còn riêng mang mãi bên mình Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi…) FRANCESCO PETRARCA - Canzoniere CHƯƠNG MỘT Tại Bách Việt, về phía Nam bờ biển, có dãy Kim Nhân Sơn nguy nga dựng sững. Những lúc trời quang mây tạnh, ta có thể nhận thấy phía bên dưới sườn núi xanh um (tại chân núi) ẩn ẩn hiện hiện một mái ngói hồng lóng lánh, lập lòe như lớp vảy con kình ngư. Đó là ngôi chùa Hải Vân, vẫn còn nguyên như thuở xưa, cái ngày nhà Tống sụp đổ, Lục Tú Phù cõng vị ấu chúa chạy tỵ nạn, tới bước đường cùng, tiên sinh đã cùng ấu chúa tự sát tuẫn quốc tại Nhai Sơn, để trọn đạo hiếu trung, hơn là lọt vào tay cường địch hung bạo. Một số di thần triều Tống cũng đã tới đó ẩn thân độn tích, cạo đầu đi tu. Ngày đêm hướng lên trời xanh cầu nguyện, mong mỏi Thương hiệu phò trì vong linh của Đại Hành Hoàng đế. Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa.
Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa. Và thỉnh thoảng tiếng sóng vỗ bi thống còn khiến lữ khách ngậm ngùi, cúi đầu lặng lẽ, không giám gợi lại những bóng ma não nùng của quá khứ. Ngày nay, tôi ghi chép lại những “bảo võng kim tàng” của ngôi chùa cổ. Thảy thảy còn là những cựu vật chứng giám một thời. Đây một mặt hồ tĩnh lặng, kia một dòng suối quanh co… dưới bóng tùng bách xanh um. Mấy chục nhà sư trụ trì tại đó, còn giữ gìn những phong thái nghi lễ ngày xưa. Năm về, năm lại, qua mỗi một mùa đông truyền giới, y bát vô thanh, khách viễn phương về thụ giới mỗi mùa trong cảnh tịch mịch. Khách về thưa thớt lắm, ấy bởi vì đường núi hiểm trở, đèo dốc khi khu. Một buổi mai, tiếng chuông chùa từ từ ngân, tôi tựa lưng bên góc chùa tĩnh mịch, nhìn những đàn hải âu bay lượn thấp thoáng ở chân trời. Thời tiết lạnh lẽo giữa mùa đông. Ngọn gió biển như bức bách con người ta, tự bên ngoài ngàn dặm (hải phong bức nhân ư thiên lý chi ngoại). Độc giả hiểu cho: đó là ngày tam giới hoàn tất của tôi. Tính ra, cuộc cư lưu của tôi tại chùa, hốt nhiên đã ba tuần viên mãn, hôm nay ngày tôi có thể xuống núi trình diện với phương trượng. Sau đó, ngày ngày quét lá, đêm đêm đốt hương, độ quá lưu niên, có gì đâu mà ân hận! Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ “Ai cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa bé không mẹ?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa. Và thỉnh thoảng tiếng sóng vỗ bi thống còn khiến lữ khách ngậm ngùi, cúi đầu lặng lẽ, không giám gợi lại những bóng ma não nùng của quá khứ. Ngày nay, tôi ghi chép lại những “bảo võng kim tàng” của ngôi chùa cổ. Thảy thảy còn là những cựu vật chứng giám một thời. Đây một mặt hồ tĩnh lặng, kia một dòng suối quanh co… dưới bóng tùng bách xanh um. Mấy chục nhà sư trụ trì tại đó, còn giữ gìn những phong thái nghi lễ ngày xưa. Năm về, năm lại, qua mỗi một mùa đông truyền giới, y bát vô thanh, khách viễn phương về thụ giới mỗi mùa trong cảnh tịch mịch. Khách về thưa thớt lắm, ấy bởi vì đường núi hiểm trở, đèo dốc khi khu. Một buổi mai, tiếng chuông chùa từ từ ngân, tôi tựa lưng bên góc chùa tĩnh mịch, nhìn những đàn hải âu bay lượn thấp thoáng ở chân trời. Thời tiết lạnh lẽo giữa mùa đông. Ngọn gió biển như bức bách con người ta, tự bên ngoài ngàn dặm (hải phong bức nhân ư thiên lý chi ngoại). Độc giả hiểu cho: đó là ngày tam giới hoàn tất của tôi. Tính ra, cuộc cư lưu của tôi tại chùa, hốt nhiên đã ba tuần viên mãn, hôm nay ngày tôi có thể xuống núi trình diện với phương trượng. Sau đó, ngày ngày quét lá, đêm đêm đốt hương, độ quá lưu niên, có gì đâu mà ân hận! Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ “Ai cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa bé không mẹ?
Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ “Ai cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa bé không mẹ? Kể từ ngày dưỡng phụ từ trần, tôi một thân một mình không còn họ hàng nhìn mặt. Nhưng mỗi lần gió lay đầu cây ngọn cỏ, hoặc mỗi phen mưa trút liên miên, hoặc trong cảnh cuồng phong bạo vũ, hoặc trong cảnh vạn vật im lìm, tôi vẫn dường như nghe thoang thoảng bên tai tiếng kêu gọi của từ mẫu. Nhưng âm thanh đó khởi từ đâu lại? Ấy là điều tôi không rõ. Nhưng lòng tôi vẫn hằng hằng ôm ấp cái ý tưởng ấy. Tôi lại thở dài tự nhủ “Mẹ sinh con ra đời, sao chẳng cho con được gặp mặt một lần? Mẹ có biết đứa con tôi thân thế phiêu linh cùng cực thế này chăng?” Lúc bấy giờ sóng biển rì rào từng đợt lấp lánh ngoài khơi, quang cảnh đẹp dị thường. Tôi khoác áo cà sa lên thân thể, cùng ba mươi sáu vị đồng giới, tay cầm nén hương, lũ lượt nối gót nhau bước đi. Lúc lên tới đại điện, bọn chúng tôi phân tán ra hai bên tả hữu, đứng im phăng phắc như những con nhạn ngày xưa trong cổ lục phương môn. Các vị trưởng lão ở bốn phía núi non lân cận, cũng đã tề tựu đông đủ. Đốt hương tụng niệm xong, tứ bề im phăng phắc. Một lát sau, vị sư cao đạo cất giọng bi khẩn tụng rằng: Cầu giới hành nhân Hướng thiên tam bái Dĩ báo phụ mẫu Dưỡng dục chi ân. Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ “Ai cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa bé không mẹ? Kể từ ngày dưỡng phụ từ trần, tôi một thân một mình không còn họ hàng nhìn mặt. Nhưng mỗi lần gió lay đầu cây ngọn cỏ, hoặc mỗi phen mưa trút liên miên, hoặc trong cảnh cuồng phong bạo vũ, hoặc trong cảnh vạn vật im lìm, tôi vẫn dường như nghe thoang thoảng bên tai tiếng kêu gọi của từ mẫu. Nhưng âm thanh đó khởi từ đâu lại? Ấy là điều tôi không rõ. Nhưng lòng tôi vẫn hằng hằng ôm ấp cái ý tưởng ấy. Tôi lại thở dài tự nhủ “Mẹ sinh con ra đời, sao chẳng cho con được gặp mặt một lần? Mẹ có biết đứa con tôi thân thế phiêu linh cùng cực thế này chăng?” Lúc bấy giờ sóng biển rì rào từng đợt lấp lánh ngoài khơi, quang cảnh đẹp dị thường. Tôi khoác áo cà sa lên thân thể, cùng ba mươi sáu vị đồng giới, tay cầm nén hương, lũ lượt nối gót nhau bước đi. Lúc lên tới đại điện, bọn chúng tôi phân tán ra hai bên tả hữu, đứng im phăng phắc như những con nhạn ngày xưa trong cổ lục phương môn. Các vị trưởng lão ở bốn phía núi non lân cận, cũng đã tề tựu đông đủ. Đốt hương tụng niệm xong, tứ bề im phăng phắc. Một lát sau, vị sư cao đạo cất giọng bi khẩn tụng rằng: Cầu giới hành nhân Hướng thiên tam bái Dĩ báo phụ mẫu Dưỡng dục chi ân. Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi.
Cầu giới hành nhân Hướng thiên tam bái Dĩ báo phụ mẫu Dưỡng dục chi ân. Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi. Buổi lễ hoàn tất, các vị trưởng lão lần lượt tới bên chúng tôi, mở lời khuyên miễn an ủi mà rằng: Thiện tai đại đức! Tuệ căn thâm hậu, Nguyện lực trang nghiêm Thử khứ cẩn thị thân sư, Dị nhựt Linh Sơn hội thượng. Niêm hoa tương tiếu (Đức lớn tốt thay! Tuệ căn sâu dày, Nguyện lực trang nghiêm Lần này đi phụng bồi sư trưởng Tới ngày sau tụ hội Linh Sơn Sẽ cầm nhánh hoa Nhìn nhau mỉm cười một nụ) Tôi lặng nghe âm thanh tụng niệm ấy chan chứa lòng từ bi ai mẫn, tôi đảnh lễ thụ điệp (đón nhận Phật kinh) gạt lệ mà bái từ các vị trưởng lão, rồi chậm rãi xuống núi. Hai bên đường cây cối trơ trụi xác xơ, lá cành rụng hết. Cảnh tượng thật là tiêu điều. Chỉ thấy vài ông tiều phu hiện ra rồi mất dạng. Ai có rõ rằng kẻ xa lánh bụi đời, quy y cửa Phật, vẫn còn mang những đau xót không lời! CHƯƠNG HAI Tôi đã từ giã Hải Vân tự, và bây giờ cư lưu tại một căn nhà ở chốn hoang thôn tịnh mịch. Ngoài việc chăm lo phụng thừa nhu cầu sư trưởng, hằng ngày tôi lãng phí thời gian trong những trận nhớ nhung xa vắng, nửa tỉnh nửa mê, thần hồn theo nước mắt mà tràn ra không ngớt. Sư trưởng của tôi, nhận thấy tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cầu giới hành nhân Hướng thiên tam bái Dĩ báo phụ mẫu Dưỡng dục chi ân. Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi. Buổi lễ hoàn tất, các vị trưởng lão lần lượt tới bên chúng tôi, mở lời khuyên miễn an ủi mà rằng: Thiện tai đại đức! Tuệ căn thâm hậu, Nguyện lực trang nghiêm Thử khứ cẩn thị thân sư, Dị nhựt Linh Sơn hội thượng. Niêm hoa tương tiếu (Đức lớn tốt thay! Tuệ căn sâu dày, Nguyện lực trang nghiêm Lần này đi phụng bồi sư trưởng Tới ngày sau tụ hội Linh Sơn Sẽ cầm nhánh hoa Nhìn nhau mỉm cười một nụ) Tôi lặng nghe âm thanh tụng niệm ấy chan chứa lòng từ bi ai mẫn, tôi đảnh lễ thụ điệp (đón nhận Phật kinh) gạt lệ mà bái từ các vị trưởng lão, rồi chậm rãi xuống núi. Hai bên đường cây cối trơ trụi xác xơ, lá cành rụng hết. Cảnh tượng thật là tiêu điều. Chỉ thấy vài ông tiều phu hiện ra rồi mất dạng. Ai có rõ rằng kẻ xa lánh bụi đời, quy y cửa Phật, vẫn còn mang những đau xót không lời! CHƯƠNG HAI Tôi đã từ giã Hải Vân tự, và bây giờ cư lưu tại một căn nhà ở chốn hoang thôn tịnh mịch. Ngoài việc chăm lo phụng thừa nhu cầu sư trưởng, hằng ngày tôi lãng phí thời gian trong những trận nhớ nhung xa vắng, nửa tỉnh nửa mê, thần hồn theo nước mắt mà tràn ra không ngớt. Sư trưởng của tôi, nhận thấy tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian.
Sư trưởng của tôi, nhận thấy tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian. Một ngày nọ, tôi tuân mệnh sư trưởng, xuống thôn làng khất mễ (xin gạo), được hơn mười cân, lẽo đẽo mang đi dọc đường. Đang suy nghĩ tìm chốn trọ lại ban đêm, chợt có kẻ trộm cướp từ xa tới, chộp cái túi vải đựng gạo và chạy mất, Tôi chỉ đành than dài một tiếng. Lúc bấy giờ trời nhá nhem tối. Tôi một mình bước đi vất vơ vất vưởng. Lại lạc lối thế nào ra tận bãi biển, và không tìm được đường về. Tôi bồi hồi quanh quẩn khá lâu, tới một cồn cát nọ, ngồi nghỉ chân giây lát. Sóng biển bỗng nổi dậy thật hãi hùng, nhìn bốn bề chỉ thấy âm u dằng dặc. Đương giữa lúc hoang mang như thế, chợt thấy một đốm lửa li ti ở ngoài khơi lập lòe như một hạt đậu. Biết rằng đó là ngọn đèn của một chiếc thuyền đánh cá, bèn cất tiếng gọi: - Xin ông chài ghé vào đây, cho tôi sang bờ bên kia với. Sau tiếng gọi, thấy đốm lửa lớn ra dần dần, tôi biết rằng ông chài cá đã đáp ứng, và đang tiến lại gần. Lòng tôi cũng cảm thấy an ủi đặc biệt. Chẳng bao lâu, chiếc ghe đã cập bến. Ông chài cất tiếng hỏi: - Muốn đi tới đâu? Tôi đáp: - Tôi chỉ là một nhà sư tại Ba La thôn đi khất thực suốt ngày, lạc lối ra đây. Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy. Ông chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng: - Úi chà! Ghe của người ta là cốt đi đánh cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Sư trưởng của tôi, nhận thấy tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian. Một ngày nọ, tôi tuân mệnh sư trưởng, xuống thôn làng khất mễ (xin gạo), được hơn mười cân, lẽo đẽo mang đi dọc đường. Đang suy nghĩ tìm chốn trọ lại ban đêm, chợt có kẻ trộm cướp từ xa tới, chộp cái túi vải đựng gạo và chạy mất, Tôi chỉ đành than dài một tiếng. Lúc bấy giờ trời nhá nhem tối. Tôi một mình bước đi vất vơ vất vưởng. Lại lạc lối thế nào ra tận bãi biển, và không tìm được đường về. Tôi bồi hồi quanh quẩn khá lâu, tới một cồn cát nọ, ngồi nghỉ chân giây lát. Sóng biển bỗng nổi dậy thật hãi hùng, nhìn bốn bề chỉ thấy âm u dằng dặc. Đương giữa lúc hoang mang như thế, chợt thấy một đốm lửa li ti ở ngoài khơi lập lòe như một hạt đậu. Biết rằng đó là ngọn đèn của một chiếc thuyền đánh cá, bèn cất tiếng gọi: - Xin ông chài ghé vào đây, cho tôi sang bờ bên kia với. Sau tiếng gọi, thấy đốm lửa lớn ra dần dần, tôi biết rằng ông chài cá đã đáp ứng, và đang tiến lại gần. Lòng tôi cũng cảm thấy an ủi đặc biệt. Chẳng bao lâu, chiếc ghe đã cập bến. Ông chài cất tiếng hỏi: - Muốn đi tới đâu? Tôi đáp: - Tôi chỉ là một nhà sư tại Ba La thôn đi khất thực suốt ngày, lạc lối ra đây. Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy. Ông chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng: - Úi chà! Ghe của người ta là cốt đi đánh cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói!
Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy. Ông chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng: - Úi chà! Ghe của người ta là cốt đi đánh cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói! Nói xong quày quả chèo ghe đi tuốt. Tôi chẳng còn biết nghĩ gì ra gì được nữa, phiền muộn ngồi khóc một mình. Chợt vẳng nghe một tiếng chó sủa ở xa xa. Tôi biết thế là quanh quất vùng này còn có thôn làng thang lan đâu đó. Bèn đứng dậy, men lối theo đường cỏ mọc mà đi. Dần dà thấy hiện ra ở tiền diện một ngôi cổ miếu. Giữa ngôi cổ miếu, có treo một chiếc đèn leo lét. Luẩn quẩn một lúc, nằm xuống bên bậc đá, khoanh thân lại nghỉ. Chợt nghe tiếng chân đi bên ngoài cửa miếu. Tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, đứng lên, thì thấy một đứa bé lăng xăng vội vã bước vào. Tôi hỏi: - Em bé đi đâu đó? Chú bé hai tay cầm mấy cái giỏ tre đưa ra mà rằng: - Công việc của cháu nhọc nhằn lắm. Đêm đã khuya thế này, cháu vẫn phải len lỏi bên những tường xiêu vách nát, hoặc lọ mọ giữa những hang đá âm u, hoa cỏ um tùm, trông cháu giống một tên ăn trộm vậy, cốt để bắt lấy những con dế kêu ri rỉ này đây. - Trông em bé mặt mày tuấn tú sao phải đi làm cái việc hèn mọn thế? Đứa bé than một tiếng đáp rằng: - Gia đình cháu vốn có một vườn hoa. Ban ngày cháu gánh hoa đem bán cho nhà giàu có. Người giàu keo kiệt quá, nên chẳng kiếm được bao lăm tiền; chẳng đủ để nuôi dưỡng mẹ. Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy. Ông chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng: - Úi chà! Ghe của người ta là cốt đi đánh cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói! Nói xong quày quả chèo ghe đi tuốt. Tôi chẳng còn biết nghĩ gì ra gì được nữa, phiền muộn ngồi khóc một mình. Chợt vẳng nghe một tiếng chó sủa ở xa xa. Tôi biết thế là quanh quất vùng này còn có thôn làng thang lan đâu đó. Bèn đứng dậy, men lối theo đường cỏ mọc mà đi. Dần dà thấy hiện ra ở tiền diện một ngôi cổ miếu. Giữa ngôi cổ miếu, có treo một chiếc đèn leo lét. Luẩn quẩn một lúc, nằm xuống bên bậc đá, khoanh thân lại nghỉ. Chợt nghe tiếng chân đi bên ngoài cửa miếu. Tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, đứng lên, thì thấy một đứa bé lăng xăng vội vã bước vào. Tôi hỏi: - Em bé đi đâu đó? Chú bé hai tay cầm mấy cái giỏ tre đưa ra mà rằng: - Công việc của cháu nhọc nhằn lắm. Đêm đã khuya thế này, cháu vẫn phải len lỏi bên những tường xiêu vách nát, hoặc lọ mọ giữa những hang đá âm u, hoa cỏ um tùm, trông cháu giống một tên ăn trộm vậy, cốt để bắt lấy những con dế kêu ri rỉ này đây. - Trông em bé mặt mày tuấn tú sao phải đi làm cái việc hèn mọn thế? Đứa bé than một tiếng đáp rằng: - Gia đình cháu vốn có một vườn hoa. Ban ngày cháu gánh hoa đem bán cho nhà giàu có. Người giàu keo kiệt quá, nên chẳng kiếm được bao lăm tiền; chẳng đủ để nuôi dưỡng mẹ. Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già.
Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già. Công việc bắt dế này thật là cực nhọc, nhưng phải gắng làm phụ thêm, kiếm thêm được đồng nào, hay đồng ấy. Nhưng mẹ cháu quả thật chẳng có ngờ rằng cháu làm việc này. Nếu biết, ắt bà không cho làm. Hôm trước, cháu có thấy bên góc miếu này một con dế bự, cỡi trên lưng một con rết ngất ngưởng bò đi. Cháu tới đây rình mò đã hai đêm, mà chưa chộp được nó. Nếu ông trời xanh run rủi cho nó lọt vào được trong tay cháu, thì thật là vạn hạnh! Chờ tới ngày chợ phiên, cháu đem ra bán, ắt được giá cao lắm. Thì cháu sẽ mua cho mẹ một tấm áo da cừu, mùa đông mặc vào thì ấm áp cũng như ở giữa mùa xuân vậy. Cháu đâu phải như những kẻ ham kiếm tiền, bất kể tính mệnh xông pha đêm hôm thế này đâu! Nghe đứa bé nói thế, tôi lại bồi hồi xúc động, nước mắt lại tuôn ra. Đứa bé nhìn tôi, thấy đầu tôi cạo trọc, thì nó chậm rãi hỏi tiếp: - Dạ dám xin hỏi đại sư vì lẽ chi mà ngủ đêm tại chốn hoang liêu trống trải này? Nhìn thấy đứa bé mặt mày chân thành trang trọng, tôi bèn đem hết đầu đuôi cơ sự kể cho nó nghe. Đứa bé cảm động nói: - Thầy chịu khổ nhiều thật! Nhà cháu ở gần đây còn phòng bỏ không. Cháu xin mời thầy theo cháu về nhà. Nếu thầy cứ ở đây, thì biết đâu bọn người hung ác trong thôn vắng lại chẳng vu cáo cho thầy cái tội trộm cắp, thì thầy chịu đựng sao nổi! Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi tới một căn nhà lá.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già. Công việc bắt dế này thật là cực nhọc, nhưng phải gắng làm phụ thêm, kiếm thêm được đồng nào, hay đồng ấy. Nhưng mẹ cháu quả thật chẳng có ngờ rằng cháu làm việc này. Nếu biết, ắt bà không cho làm. Hôm trước, cháu có thấy bên góc miếu này một con dế bự, cỡi trên lưng một con rết ngất ngưởng bò đi. Cháu tới đây rình mò đã hai đêm, mà chưa chộp được nó. Nếu ông trời xanh run rủi cho nó lọt vào được trong tay cháu, thì thật là vạn hạnh! Chờ tới ngày chợ phiên, cháu đem ra bán, ắt được giá cao lắm. Thì cháu sẽ mua cho mẹ một tấm áo da cừu, mùa đông mặc vào thì ấm áp cũng như ở giữa mùa xuân vậy. Cháu đâu phải như những kẻ ham kiếm tiền, bất kể tính mệnh xông pha đêm hôm thế này đâu! Nghe đứa bé nói thế, tôi lại bồi hồi xúc động, nước mắt lại tuôn ra. Đứa bé nhìn tôi, thấy đầu tôi cạo trọc, thì nó chậm rãi hỏi tiếp: - Dạ dám xin hỏi đại sư vì lẽ chi mà ngủ đêm tại chốn hoang liêu trống trải này? Nhìn thấy đứa bé mặt mày chân thành trang trọng, tôi bèn đem hết đầu đuôi cơ sự kể cho nó nghe. Đứa bé cảm động nói: - Thầy chịu khổ nhiều thật! Nhà cháu ở gần đây còn phòng bỏ không. Cháu xin mời thầy theo cháu về nhà. Nếu thầy cứ ở đây, thì biết đâu bọn người hung ác trong thôn vắng lại chẳng vu cáo cho thầy cái tội trộm cắp, thì thầy chịu đựng sao nổi! Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi tới một căn nhà lá.
Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi tới một căn nhà lá. Đứa bé đẩy cửa bước vào, rồi khép ngay lại, để tôi đứng chờ ở dưới hiên. Vườn hoa bốn bề đưa hương thơm. Chợt nghe tiếng bà lão thốt: - Triều Nhi! Hôm nay sao con về khuya thế? Giọng nói của bà lão ấy. Lúc tôi bước vào nhà trong, thì bỗng dưng thấy trước mặt mình đích thị là người vú nuôi tôi ngày trước. CHƯƠNG BA Tôi chào hỏi người vú nuôi, lòng đầy bi thương và hoan hỉ. Bao nhiêu ân tình mừng mừng tủi tủi. Bà vú bảo tôi ngồi xuống, bắt tôi đem hết sự tình kể lại đầu đuôi. Tôi đã làm gì, tôi đã trải qua những gì, nhất nhất đem gót đầu ra thuật lại tỉ mỉ. Bà chống tay vào gò má nhăn nheo, suy nghĩ lâu lắm, rồi ảo não thở dài nói: - Tội quá! Nếu ngày nay tôi còn ở với gia đình cậu, thì đâu đến nỗi cậu phải cạo đầu đi tu như thế! Tôi đã hầu hạ phu nhân không quá ba năm trời. Thời gian ấy kể cũng không dài chi lắm, nhưng phu nhân đã đối đãi với tôi hết lòng hiền từ thân ái. Một phen từ biệt phu nhân, đến nay đã ròng rã mười năm trời, nhưng cứ mỗi lần cầm đũa, bưng cơm, tôi chẳng thể nào quên được tấm lòng phu nhân đối với tôi. Lúc phu nhân rời gót ra đi, tôi liền bị người trong gia đình cậu ghét bỏ, đối xử tàn ác, nhưng tôi vẫn ẩn nhẫn chịu đựng. Ấy bởi vì tôi cảm ân đức của phu nhân, nên tôi chẳng thể nào bỏ cậu mà ra đi. Cho tới lúc nghĩa phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ: “Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi tới một căn nhà lá. Đứa bé đẩy cửa bước vào, rồi khép ngay lại, để tôi đứng chờ ở dưới hiên. Vườn hoa bốn bề đưa hương thơm. Chợt nghe tiếng bà lão thốt: - Triều Nhi! Hôm nay sao con về khuya thế? Giọng nói của bà lão ấy. Lúc tôi bước vào nhà trong, thì bỗng dưng thấy trước mặt mình đích thị là người vú nuôi tôi ngày trước. CHƯƠNG BA Tôi chào hỏi người vú nuôi, lòng đầy bi thương và hoan hỉ. Bao nhiêu ân tình mừng mừng tủi tủi. Bà vú bảo tôi ngồi xuống, bắt tôi đem hết sự tình kể lại đầu đuôi. Tôi đã làm gì, tôi đã trải qua những gì, nhất nhất đem gót đầu ra thuật lại tỉ mỉ. Bà chống tay vào gò má nhăn nheo, suy nghĩ lâu lắm, rồi ảo não thở dài nói: - Tội quá! Nếu ngày nay tôi còn ở với gia đình cậu, thì đâu đến nỗi cậu phải cạo đầu đi tu như thế! Tôi đã hầu hạ phu nhân không quá ba năm trời. Thời gian ấy kể cũng không dài chi lắm, nhưng phu nhân đã đối đãi với tôi hết lòng hiền từ thân ái. Một phen từ biệt phu nhân, đến nay đã ròng rã mười năm trời, nhưng cứ mỗi lần cầm đũa, bưng cơm, tôi chẳng thể nào quên được tấm lòng phu nhân đối với tôi. Lúc phu nhân rời gót ra đi, tôi liền bị người trong gia đình cậu ghét bỏ, đối xử tàn ác, nhưng tôi vẫn ẩn nhẫn chịu đựng. Ấy bởi vì tôi cảm ân đức của phu nhân, nên tôi chẳng thể nào bỏ cậu mà ra đi. Cho tới lúc nghĩa phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ: “Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa”.
Cho tới lúc nghĩa phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ: “Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa”. Tôi muốn viết thư cho phu nhân, báo bạch hết mọi sự cho phu nhân rõ, để phu nhân sớm liệu xếp đặt cho cậu về gấp bên quê mẹ (bên Nhật Bản) rời hẳn cái con mẹ ghẻ chèng đét hung dữ kia! Dè đâu con mẹ đàn bà đa đoan ác độc nọ lại dò la manh mối, đánh hơi thế nào mà đoán được cái nguyện vọng của tôi, mụ ta nộ khí xung thiên, lôi cổ tôi ra, lấy roi tre đánh tôi một trận bầm mình dập mẩy. Lúc bấy giờ tôi cũng chẳng thiết chi cái chuyện phân giải thị phi, lời hơn lẽ thiệt gì về nhân đạo với mụ ấy! Mụ tha hồ đánh tôi sướng tay thỏa dạ xong, thì đuổi tôi đi về quê, không cho tôi nấn ná một ngày nào nữa. Bà vú kể tới đó, thì nước mắt giàn giụa, không tiếp được lời nào nữa. Lòng tôi đau đớn cùng cực, chẳng còn biết lựa lời gì để an ủi bà. Chỉ biết để nước mắt trào ra như suối, nhìn bà không nói được một lời nào cả. Rồi tôi chợt nghĩ rằng cái ngày phải chịu đựng trận bạc đãi bạo ngược kia, bà vú nuôi tôi đã quá bốn mươi tuổi, thì làm sao kham! Tôi cố gắng hết sức làm ra vẻ trấn định, an ủi bà ta: “Vú đừng đau xót nữa! Vú đã nuôi nấng tôi, ngày nay tôi đã thành lập, ân ấy đức ấy, làm sao tìm ra lời mà bày giãi. Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cho tới lúc nghĩa phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ: “Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa”. Tôi muốn viết thư cho phu nhân, báo bạch hết mọi sự cho phu nhân rõ, để phu nhân sớm liệu xếp đặt cho cậu về gấp bên quê mẹ (bên Nhật Bản) rời hẳn cái con mẹ ghẻ chèng đét hung dữ kia! Dè đâu con mẹ đàn bà đa đoan ác độc nọ lại dò la manh mối, đánh hơi thế nào mà đoán được cái nguyện vọng của tôi, mụ ta nộ khí xung thiên, lôi cổ tôi ra, lấy roi tre đánh tôi một trận bầm mình dập mẩy. Lúc bấy giờ tôi cũng chẳng thiết chi cái chuyện phân giải thị phi, lời hơn lẽ thiệt gì về nhân đạo với mụ ấy! Mụ tha hồ đánh tôi sướng tay thỏa dạ xong, thì đuổi tôi đi về quê, không cho tôi nấn ná một ngày nào nữa. Bà vú kể tới đó, thì nước mắt giàn giụa, không tiếp được lời nào nữa. Lòng tôi đau đớn cùng cực, chẳng còn biết lựa lời gì để an ủi bà. Chỉ biết để nước mắt trào ra như suối, nhìn bà không nói được một lời nào cả. Rồi tôi chợt nghĩ rằng cái ngày phải chịu đựng trận bạc đãi bạo ngược kia, bà vú nuôi tôi đã quá bốn mươi tuổi, thì làm sao kham! Tôi cố gắng hết sức làm ra vẻ trấn định, an ủi bà ta: “Vú đừng đau xót nữa! Vú đã nuôi nấng tôi, ngày nay tôi đã thành lập, ân ấy đức ấy, làm sao tìm ra lời mà bày giãi. Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân.
Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân. Nếu không ắt là đi khắp bích lạc hoàng tuyền cũng không mong được một ngày gặp gỡ. Gẫm ra trời xanh dường cũng linh thiêng lắm. Từ ngày còn nhỏ dại, tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng mẹ tôi còn sống. Nhưng suy gẫm trăm lần, vẫn không biết hiện giờ thân mẫu sống tại đâu, mà cũng chẳng biết tên họ của mẹ là gì! Bữa nay, nghe vú nuôi nói về “phu nhân”, thì đó có thật là bà mẹ đã sinh tôi ra đời hay không? Thì vì lẽ gì thân mẫu lại bỏ tôi bơ vơ khốn khổ, chẳng tìm kiếm hỏi han gì hết? Xin vú nuôi hãy đem thân thế tôi nói cho tôi rõ một lần. Bà vú nuôi gạt lệ, nhìn tôi mà rằng: - Tam Lang hãy yên dạ! Tôi đem mọi sự kể hết cho Tam Lang nghe. Tôi vốn ngày xưa là con gái người nông dân cư lưu tại vùng này, năm năm tháng tháng chỉ biết chăn nuôi súc vật. Sau khi lấy chồng, tôi theo chồng làm ăn, ban ngày ra làm ngoài đồng, tối đến thì về nhà nghỉ ngơi. Vợ chồng sống hạnh phúc hết sức. Tôi đâu biết rằng trong nhân gian có đủ thứ đen trắng thị phi, rủi may may rủi. Vợ chồng nông dân, sống hồn nhiên như nước chảy, năm qua. Tới lúc tôi ba mươi tuổi, chồng tôi chẳng may đoản mệnh chết mất. Chẳng để lại chút gia sản nào, ngoài đứa bé con là Triều Nhi. Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn tình nghĩa gì hết.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân. Nếu không ắt là đi khắp bích lạc hoàng tuyền cũng không mong được một ngày gặp gỡ. Gẫm ra trời xanh dường cũng linh thiêng lắm. Từ ngày còn nhỏ dại, tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng mẹ tôi còn sống. Nhưng suy gẫm trăm lần, vẫn không biết hiện giờ thân mẫu sống tại đâu, mà cũng chẳng biết tên họ của mẹ là gì! Bữa nay, nghe vú nuôi nói về “phu nhân”, thì đó có thật là bà mẹ đã sinh tôi ra đời hay không? Thì vì lẽ gì thân mẫu lại bỏ tôi bơ vơ khốn khổ, chẳng tìm kiếm hỏi han gì hết? Xin vú nuôi hãy đem thân thế tôi nói cho tôi rõ một lần. Bà vú nuôi gạt lệ, nhìn tôi mà rằng: - Tam Lang hãy yên dạ! Tôi đem mọi sự kể hết cho Tam Lang nghe. Tôi vốn ngày xưa là con gái người nông dân cư lưu tại vùng này, năm năm tháng tháng chỉ biết chăn nuôi súc vật. Sau khi lấy chồng, tôi theo chồng làm ăn, ban ngày ra làm ngoài đồng, tối đến thì về nhà nghỉ ngơi. Vợ chồng sống hạnh phúc hết sức. Tôi đâu biết rằng trong nhân gian có đủ thứ đen trắng thị phi, rủi may may rủi. Vợ chồng nông dân, sống hồn nhiên như nước chảy, năm qua. Tới lúc tôi ba mươi tuổi, chồng tôi chẳng may đoản mệnh chết mất. Chẳng để lại chút gia sản nào, ngoài đứa bé con là Triều Nhi. Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn tình nghĩa gì hết.
Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn tình nghĩa gì hết. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu nỗi đời éo le, trong lòng buồn rầu khôn tả. Nhìn bốn bề chẳng còn ai thân thích, tình cảnh khốn cùng chẳng biết nói với ai. Một ngày kia, tôi mang giỏ đi mót những bông lúa rơi ngoài ruộng, bỗng thấy một phu nhân y phục theo lối cổ kính, thong dong bước tới bên tôi cất tiếng hỏi: - Trông thím có vẻ ưu khổ lắm phải không? Rồi bà ấy hỏi thăm cảnh huống tôi. Tôi đem hết gót đầu ra kể cho bà ấy nghe, thì phu nhân lân cảm tình cảnh tôi. Phu nhân cho tôi về làm vú nuôi săn sóc Tam Lang đó. Phu nhân y phục cắt theo lối cổ đại Trung Hoa chúng ta. Những sự này, tôi được nghe ra là từ lúc về ở với phu nhân. “Tam Lang” tức là tên gọi cậu do phu nhân đặt cho đấy. Được nghe phu nhân nói rằng lúc sinh cậu ra chưa được mấy tháng thì thân phụ cậu qua đời. Thân phụ cậu là Tông Lang, vốn thuộc danh tộc ở Giang Hộ. Bình sinh thân phụ cậu can đảm cương trực lắm, nên mọi người mến chuộng. Thân phụ cậu qua đời, mẹ cậu càng ngày càng nhận thấy phong hóa Nhật Bản suy đồi, dần dà phong tục càng trở nên kiêu ly bạc bẽo, trong lòng bà suy gẫm muốn đưa cậu về cội gốc thượng quốc Trung Hoa, bèn dắt cậu về quê nội, đem ủy thác cậu cho một người bạn thân thiết nhất của cha cậu. Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con muôi của người ấy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn tình nghĩa gì hết. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu nỗi đời éo le, trong lòng buồn rầu khôn tả. Nhìn bốn bề chẳng còn ai thân thích, tình cảnh khốn cùng chẳng biết nói với ai. Một ngày kia, tôi mang giỏ đi mót những bông lúa rơi ngoài ruộng, bỗng thấy một phu nhân y phục theo lối cổ kính, thong dong bước tới bên tôi cất tiếng hỏi: - Trông thím có vẻ ưu khổ lắm phải không? Rồi bà ấy hỏi thăm cảnh huống tôi. Tôi đem hết gót đầu ra kể cho bà ấy nghe, thì phu nhân lân cảm tình cảnh tôi. Phu nhân cho tôi về làm vú nuôi săn sóc Tam Lang đó. Phu nhân y phục cắt theo lối cổ đại Trung Hoa chúng ta. Những sự này, tôi được nghe ra là từ lúc về ở với phu nhân. “Tam Lang” tức là tên gọi cậu do phu nhân đặt cho đấy. Được nghe phu nhân nói rằng lúc sinh cậu ra chưa được mấy tháng thì thân phụ cậu qua đời. Thân phụ cậu là Tông Lang, vốn thuộc danh tộc ở Giang Hộ. Bình sinh thân phụ cậu can đảm cương trực lắm, nên mọi người mến chuộng. Thân phụ cậu qua đời, mẹ cậu càng ngày càng nhận thấy phong hóa Nhật Bản suy đồi, dần dà phong tục càng trở nên kiêu ly bạc bẽo, trong lòng bà suy gẫm muốn đưa cậu về cội gốc thượng quốc Trung Hoa, bèn dắt cậu về quê nội, đem ủy thác cậu cho một người bạn thân thiết nhất của cha cậu. Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con muôi của người ấy.
Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con muôi của người ấy. Ý của phu nhân là làm sao cho cậu dứt tuyệt hết mọi liên hệ với căn tính cư dân hải đảo (người Nhật) hy vọng rằng sự giáo hóa ở quê cha sẽ rèn luyện cậu mai sau trở thành một con rồng ở trong nhân gian. Phu nhân vốn biết rằng hành động đó là đắc tội với quốc luật Nhật Bản, quê cha đất tổ của bà, nhưng tình mẹ thương con, có sự gì mà chẳng dám làm được ! Phu nhân thân hành ẵm cậu đi, lén trốn sang Trung Hoa chúng ta, cư ngụ ba năm trời. Chợt một hôm phu nhân gọi tôi tới bên bà và bảo tôi như thế này: - Ngày nay tôi sắp quay trở về Nhật Bản! Thím ở lại mạnh giỏi nhé! Rồi phu nhân đưa tay chỉ Tam Lang, nuốt lệ nghẹn ngào bảo tôi: “Đứa con tôi sinh ra đời không may mắn! Thím hãy chịu khó săn sóc nuôi dưỡng nó, tôi sẽ chẳng quên công lao khó nhọc của thím đâu!”. Nói xong, phu nhân viết địa chỉ mình ra giấy giao cho tôi, căn dặn tôi đừng có để thất lạc. Tới ngày nay, tôi vẫn cẩn thận giữ gìn kỹ càng trong cái hộp tre kia. Lúc bây giờ, tôi khóc tầm tã như mưa. Phu nhân giao cho tôi một trăm đồng vàng. Ngày nay số bạc ấy tuy nhiên không còn đồng nào, nhưng lòng tôi cảm kích phu nhân thật không hề giảm một chút. Nhất là tôi nhớ lại cái đêm trước ngày phu nhân ra đi. Phu nhân gài một tấm ảnh nho nhỏ của mình vào cái lon dẹp đặt vào trong cái rương áo quần của cậu, bà mong rằng ngày sau cậu lớn lên, cậu sẽ không quên được dung nghi từ mẫu. Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con muôi của người ấy. Ý của phu nhân là làm sao cho cậu dứt tuyệt hết mọi liên hệ với căn tính cư dân hải đảo (người Nhật) hy vọng rằng sự giáo hóa ở quê cha sẽ rèn luyện cậu mai sau trở thành một con rồng ở trong nhân gian. Phu nhân vốn biết rằng hành động đó là đắc tội với quốc luật Nhật Bản, quê cha đất tổ của bà, nhưng tình mẹ thương con, có sự gì mà chẳng dám làm được ! Phu nhân thân hành ẵm cậu đi, lén trốn sang Trung Hoa chúng ta, cư ngụ ba năm trời. Chợt một hôm phu nhân gọi tôi tới bên bà và bảo tôi như thế này: - Ngày nay tôi sắp quay trở về Nhật Bản! Thím ở lại mạnh giỏi nhé! Rồi phu nhân đưa tay chỉ Tam Lang, nuốt lệ nghẹn ngào bảo tôi: “Đứa con tôi sinh ra đời không may mắn! Thím hãy chịu khó săn sóc nuôi dưỡng nó, tôi sẽ chẳng quên công lao khó nhọc của thím đâu!”. Nói xong, phu nhân viết địa chỉ mình ra giấy giao cho tôi, căn dặn tôi đừng có để thất lạc. Tới ngày nay, tôi vẫn cẩn thận giữ gìn kỹ càng trong cái hộp tre kia. Lúc bây giờ, tôi khóc tầm tã như mưa. Phu nhân giao cho tôi một trăm đồng vàng. Ngày nay số bạc ấy tuy nhiên không còn đồng nào, nhưng lòng tôi cảm kích phu nhân thật không hề giảm một chút. Nhất là tôi nhớ lại cái đêm trước ngày phu nhân ra đi. Phu nhân gài một tấm ảnh nho nhỏ của mình vào cái lon dẹp đặt vào trong cái rương áo quần của cậu, bà mong rằng ngày sau cậu lớn lên, cậu sẽ không quên được dung nghi từ mẫu. Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động.
Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động. Đâu có ai ngờ rằng phu nhân ra đi chưa bao lâu, thì người trong gia đình đã tìm kiếm mọi vật đó và hủy khử đi mất hết. Sau đó phu nhân từ bên Nhật Bản còn viết thư cho tôi ba lần, lần nào cũng gửi tiền bạc cho tôi, nhưng lần nào cũng bị con mẹ tàn nhẫn kia thu đoạt mất cả. Rồi nhân vì tôi hiểu rõ thân thế phu nhân, lại yêu quý Tam Lang, thì con mẹ kia càng căm hận tôi hơn nữa, vì mụ nghĩ rằng tôi cố ý làm ra vẻ như thế, tôi cố tỏ thái độ ra như thế là cốt để càng thể hiện rõ cái phẩm cách tàn ngược của mụ ta! Do đó, cái niềm oán độc của mụ ta càng sâu cay hơn nữa. Quả thật con người ta và con mãnh thú, chỉ cách nhau có một đường chỉ mỏng mà thôi! Lúc tôi đã bị đuổi đi rồi, thì con mẹ kia lại phao tin lên rằng phu nhân đã gặp bão tố ngoài khơi, đã chết trong bụng cá mập cá voi rồi. Do đó, bà con thân thích láng giềng, ai ai cũng coi cậu như là một đứa con không mẹ, chẳng thèm ai để ý chi tới cậu nữa. Xét ra như thế, thì trong gan phổi con mẹ kia, mụ ta quả có ý muốn phòng ngừa ngày sau cậu lớn lên khỏi có ý nghĩ tìm về thăm viếng phu nhân! Mụ ta là cái giống người gì như thế! Đã giữ lấy con của kẻ khác lại còn đối xử tàn bạo như vậy! Tôi suy gẫm hoài mà chẳng thể nào hiểu được mụ ta, chẳng rõ kiếp trước mụ ta là cái giống độc vật gì gì! Tôi há đâu chỉ vì oán độc kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động. Đâu có ai ngờ rằng phu nhân ra đi chưa bao lâu, thì người trong gia đình đã tìm kiếm mọi vật đó và hủy khử đi mất hết. Sau đó phu nhân từ bên Nhật Bản còn viết thư cho tôi ba lần, lần nào cũng gửi tiền bạc cho tôi, nhưng lần nào cũng bị con mẹ tàn nhẫn kia thu đoạt mất cả. Rồi nhân vì tôi hiểu rõ thân thế phu nhân, lại yêu quý Tam Lang, thì con mẹ kia càng căm hận tôi hơn nữa, vì mụ nghĩ rằng tôi cố ý làm ra vẻ như thế, tôi cố tỏ thái độ ra như thế là cốt để càng thể hiện rõ cái phẩm cách tàn ngược của mụ ta! Do đó, cái niềm oán độc của mụ ta càng sâu cay hơn nữa. Quả thật con người ta và con mãnh thú, chỉ cách nhau có một đường chỉ mỏng mà thôi! Lúc tôi đã bị đuổi đi rồi, thì con mẹ kia lại phao tin lên rằng phu nhân đã gặp bão tố ngoài khơi, đã chết trong bụng cá mập cá voi rồi. Do đó, bà con thân thích láng giềng, ai ai cũng coi cậu như là một đứa con không mẹ, chẳng thèm ai để ý chi tới cậu nữa. Xét ra như thế, thì trong gan phổi con mẹ kia, mụ ta quả có ý muốn phòng ngừa ngày sau cậu lớn lên khỏi có ý nghĩ tìm về thăm viếng phu nhân! Mụ ta là cái giống người gì như thế! Đã giữ lấy con của kẻ khác lại còn đối xử tàn bạo như vậy! Tôi suy gẫm hoài mà chẳng thể nào hiểu được mụ ta, chẳng rõ kiếp trước mụ ta là cái giống độc vật gì gì! Tôi há đâu chỉ vì oán độc kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi.
Tôi há đâu chỉ vì oán độc kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi. Nghĩa phụ của cậu vốn là người thành thực, thường vẫn thể niệm cái ân nghĩa của thân phụ cậu đối với ông ta, nên nghĩa phụ của cậu thuở sinh thời vốn đối xử với cậu như con ruột. Ai có ngờ đâu được rằng ông ta vừa qua đời thì con mẹ kia đã lập tức trở mặt đối với cậu như thế. Một đứa bé chưa ráo máu đầu, còn thuần nhiên thơ dại, đã chịu dày vò khắc nghiệt như vậy, quả thật không có gì so sánh được. Nhưng ngày nay cậu đã lớn ra như thế, phong tư độc lập như thế, cũng coi như là bấy nay không gặp rủi ro chi nhiều; tôi thì già nua rồi, đáng lẽ chẳng nên đem những chuyện oái ăm quá khứ ra làm phiền muộn cậu, chẳng nên thốt những lời cay đắng, mà nên giữ chút lòng trung hậu thì phải hơn. Tuy nhiên trong thời buổi đa đoan kỳ quặc này, dẫu tôi có nhất mực giữ lòng trung hậu của mình, mà người ta thì cứ nhất mực muốn hãm hại tôi. Theo cái lẽ bi đát như thế, thế tình thế thái đã ra như thế nghĩ thật cũng đáng ngậm ngùi. Bà vú nói xong, thì cúi đầu thở dài. Một lát sau, bà định nói tiếp nữa. Lúc bấy giờ lòng tôi tràn đầy sầu khổ, lớp lớp liên miên (như vân quỷ ba quyệt). Nhưng nhân vì tôi đã dò ra tin tức mẫu thân, chẳng còn mong muốn hỏi thêm chi nhiều nữa về những sự việc đã qua, và cũng chẳng còn thì giờ đâu để tự cảm thương thân thế, tôi bèn chậm rãi nói với bà vú nuôi: - Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi há đâu chỉ vì oán độc kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi. Nghĩa phụ của cậu vốn là người thành thực, thường vẫn thể niệm cái ân nghĩa của thân phụ cậu đối với ông ta, nên nghĩa phụ của cậu thuở sinh thời vốn đối xử với cậu như con ruột. Ai có ngờ đâu được rằng ông ta vừa qua đời thì con mẹ kia đã lập tức trở mặt đối với cậu như thế. Một đứa bé chưa ráo máu đầu, còn thuần nhiên thơ dại, đã chịu dày vò khắc nghiệt như vậy, quả thật không có gì so sánh được. Nhưng ngày nay cậu đã lớn ra như thế, phong tư độc lập như thế, cũng coi như là bấy nay không gặp rủi ro chi nhiều; tôi thì già nua rồi, đáng lẽ chẳng nên đem những chuyện oái ăm quá khứ ra làm phiền muộn cậu, chẳng nên thốt những lời cay đắng, mà nên giữ chút lòng trung hậu thì phải hơn. Tuy nhiên trong thời buổi đa đoan kỳ quặc này, dẫu tôi có nhất mực giữ lòng trung hậu của mình, mà người ta thì cứ nhất mực muốn hãm hại tôi. Theo cái lẽ bi đát như thế, thế tình thế thái đã ra như thế nghĩ thật cũng đáng ngậm ngùi. Bà vú nói xong, thì cúi đầu thở dài. Một lát sau, bà định nói tiếp nữa. Lúc bấy giờ lòng tôi tràn đầy sầu khổ, lớp lớp liên miên (như vân quỷ ba quyệt). Nhưng nhân vì tôi đã dò ra tin tức mẫu thân, chẳng còn mong muốn hỏi thêm chi nhiều nữa về những sự việc đã qua, và cũng chẳng còn thì giờ đâu để tự cảm thương thân thế, tôi bèn chậm rãi nói với bà vú nuôi: - Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi.
- Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi. Tôi sẽ đơn thân ra đi tìm mẹ, mong rằng vú đừng bi thương quá độ. Sự đời ai biết đâu mà liệu định, vú hãy thử nhìn tôi và Triều Nhi xem, chúng tôi biết đâu lại chẳng làm nên danh phận? Chẳng lẽ mòn đời mỏi kiếp vẫn chẳng ra cái dạng gì gì cả hay sao? Bà vú bỗng ngẩng đầu lên, đưa tay vỗ vào vai tôi nói: - Tội thay! Vú thật chẳng thể ngờ rằng Tam Lang lớn lên lại mảnh khảnh đến thế! Hãy gắng ngủ cho ngon giấc đêm nay, lưu trú tại đây mà liệu tính công việc đi sang Nhật Bản thăm viếng phu nhân. Tôi thường mộng thấy phu nhân vận y phục cổ kính ngày xưa đứng bàng hoàng trên bờ Đông Hải, đưa mắt mong ngóng Tam Lang về. Tam Lang ạ, cậu còn có một người chị và một người em gái nuôi (nghĩa muội), hai chị em vẫn ở bên phu nhân săn sóc mẹ. Cậu rồi cũng sẽ được nghe âm thanh phu nhân gọi cậu. Còn tôi thân thể đã già nua, chỉ còn chờ ngày vào quan tài, chẳng còn mong chi tái hội phu nhân. Chỉ cầu nguyện trời xanh phù hộ cho phu nhân mà thôi! Sáng hôm sau, ánh trời rực rỡ. Tôi nghĩ tới những sự việc đã qua, còn in rành rành trong tâm khảm. Độc giả thử nghĩ xem, làm sao tôi có thể ngủ được trong đêm vừa rồi? Lúc bấy giờ nỗi niềm bời bời cùng độ, tôi đứng dậy khoác áo vào mình, bước ra ngoài nhìn bốn phía. Dương liễu gầy khô, núi non tiêu điều. Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
- Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi. Tôi sẽ đơn thân ra đi tìm mẹ, mong rằng vú đừng bi thương quá độ. Sự đời ai biết đâu mà liệu định, vú hãy thử nhìn tôi và Triều Nhi xem, chúng tôi biết đâu lại chẳng làm nên danh phận? Chẳng lẽ mòn đời mỏi kiếp vẫn chẳng ra cái dạng gì gì cả hay sao? Bà vú bỗng ngẩng đầu lên, đưa tay vỗ vào vai tôi nói: - Tội thay! Vú thật chẳng thể ngờ rằng Tam Lang lớn lên lại mảnh khảnh đến thế! Hãy gắng ngủ cho ngon giấc đêm nay, lưu trú tại đây mà liệu tính công việc đi sang Nhật Bản thăm viếng phu nhân. Tôi thường mộng thấy phu nhân vận y phục cổ kính ngày xưa đứng bàng hoàng trên bờ Đông Hải, đưa mắt mong ngóng Tam Lang về. Tam Lang ạ, cậu còn có một người chị và một người em gái nuôi (nghĩa muội), hai chị em vẫn ở bên phu nhân săn sóc mẹ. Cậu rồi cũng sẽ được nghe âm thanh phu nhân gọi cậu. Còn tôi thân thể đã già nua, chỉ còn chờ ngày vào quan tài, chẳng còn mong chi tái hội phu nhân. Chỉ cầu nguyện trời xanh phù hộ cho phu nhân mà thôi! Sáng hôm sau, ánh trời rực rỡ. Tôi nghĩ tới những sự việc đã qua, còn in rành rành trong tâm khảm. Độc giả thử nghĩ xem, làm sao tôi có thể ngủ được trong đêm vừa rồi? Lúc bấy giờ nỗi niềm bời bời cùng độ, tôi đứng dậy khoác áo vào mình, bước ra ngoài nhìn bốn phía. Dương liễu gầy khô, núi non tiêu điều. Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở.
Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở. Những u hận vạn ngàn, chẳng rõ ra sao, đã dần dà tiêu tán giữa những trận gió mưa vi vu thổi vào chiều hôm. CHƯƠNG BỐN Một ngày kia, vào lúc hoàng hôn, giữa cảnh hoang liêu gió tuyết thổi lạnh thấu xương, tôi cùng Triều Nhi đang lẽo đẽo từ phía sau núi gang củi quay về nhà. Vừa bước vào cửa, nhìn thấy vú nuôi đang tựa lưng bên lò bếp, ngồi im lìm. Bà đang chăm chỉ khâu vá lại một chiếc áo cũ. Nghe tiếng chân tôi bước vào, bà ngẩng đầu nhìn tôi nói: - Khổ nhọc cho cậu quá! Thấy cậu yên vui sống ở đây, lòng tôi cũng thư thái an ủi được nhiều. Cậu và Triều Nhi hãy ngồi nghỉ ngơi một chặp, để tôi thắp đèn và đem cơm cá ra dùng. Nhà chúng ta ở đây cách hồ nước không bao xa, cá tôm chẳng những tươi ngon lắm, mà giá mua cũng chẳng cao gì đó. Sống ở làng thôn, thật nhiều điều tiện lợi hơn thành thị. Tôi và Triều Nhi liền cởi tơi nón ra, cùng vú nuôi ngồi vào dùng bữa tối. Thật là hoan lạc vô cùng. Dùng cơm xong, vú nuôi quay nhìn tôi bảo: - Hôm nay nhìn Tam Lang gánh củi, lòng tôi thấy bất nhẫn quá. Thân thể cậu ốm yếu như thế! Bữa sau chớ nên gánh củi nữa. Công việc vất vả nặng nhọc kia, Triều Nhi đủ sức giúp được rồi. Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao nhiêu hoa nở tươi tốt lắm.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở. Những u hận vạn ngàn, chẳng rõ ra sao, đã dần dà tiêu tán giữa những trận gió mưa vi vu thổi vào chiều hôm. CHƯƠNG BỐN Một ngày kia, vào lúc hoàng hôn, giữa cảnh hoang liêu gió tuyết thổi lạnh thấu xương, tôi cùng Triều Nhi đang lẽo đẽo từ phía sau núi gang củi quay về nhà. Vừa bước vào cửa, nhìn thấy vú nuôi đang tựa lưng bên lò bếp, ngồi im lìm. Bà đang chăm chỉ khâu vá lại một chiếc áo cũ. Nghe tiếng chân tôi bước vào, bà ngẩng đầu nhìn tôi nói: - Khổ nhọc cho cậu quá! Thấy cậu yên vui sống ở đây, lòng tôi cũng thư thái an ủi được nhiều. Cậu và Triều Nhi hãy ngồi nghỉ ngơi một chặp, để tôi thắp đèn và đem cơm cá ra dùng. Nhà chúng ta ở đây cách hồ nước không bao xa, cá tôm chẳng những tươi ngon lắm, mà giá mua cũng chẳng cao gì đó. Sống ở làng thôn, thật nhiều điều tiện lợi hơn thành thị. Tôi và Triều Nhi liền cởi tơi nón ra, cùng vú nuôi ngồi vào dùng bữa tối. Thật là hoan lạc vô cùng. Dùng cơm xong, vú nuôi quay nhìn tôi bảo: - Hôm nay nhìn Tam Lang gánh củi, lòng tôi thấy bất nhẫn quá. Thân thể cậu ốm yếu như thế! Bữa sau chớ nên gánh củi nữa. Công việc vất vả nặng nhọc kia, Triều Nhi đủ sức giúp được rồi. Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao nhiêu hoa nở tươi tốt lắm.
Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao nhiêu hoa nở tươi tốt lắm. Ngày nay chúng ta đang ở giữa mùa đông, chẳng còn bao ngày tháng nữa, thì năm mới về, cậu mang hoa ra chợ bán mỗi buổi sáng sớm. Ban ngày cậu cũng có thể coi sóc nhà cửa vườn tược cho tôi. Lợi lãi do hoa cỏ đem lại, tuy chẳng là bao, nhưng tôi vẫn gom góp dành dụm đủ tiền cho cậu. Sau hai năm hoặc ba năm, ắt là có đủ tiền lộ phí cho cậu đi qua Nhật Bản một chuyến thăm phu nhân. Ngoài cách ấy ra chẳng còn cách gì khác. Tam Lang, ý cậu nghĩ như thế nào? Tôi đáp: - Mọi sự xin y theo lời vú nuôi hết thảy. Vú nuôi bảo: - Tam Lang! Cha ông của Tam Lang tại Giang Hộ vốn xưa kia là những vị công tử (con cái của những bậc công hầu). Ra ngoài thì ngựa béo hào hoa, áo khinh cầu phong nhã. Mà ngày nay cậu phải làm một kẻ bán hoa cỏ, thật là sự việc quái gở. Tuy nhiên, ngày sau cậu về Nhật Bản, cậu vẫn là một vị công tử ngàn vàng, thì ai còn dám kêu cậu là kẻ bán cỏ lá hoa? Tôi chăm chỉ lắng nghe, đưa mắt nhìn vú nuôi. Thấy bà nói tới đó thì tươi cười ấm áp như xuân. Bỗng chốc đã thấy xuân về. Từ đó tôi tuân theo lời vú nuôi, ngày ngày mỗi sáng sớm tôi vận y phục lai rai vào, nham nhở như đứa chăn bò, mang hoa đi bán. Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá - cốt để không ai nhận ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao nhiêu hoa nở tươi tốt lắm. Ngày nay chúng ta đang ở giữa mùa đông, chẳng còn bao ngày tháng nữa, thì năm mới về, cậu mang hoa ra chợ bán mỗi buổi sáng sớm. Ban ngày cậu cũng có thể coi sóc nhà cửa vườn tược cho tôi. Lợi lãi do hoa cỏ đem lại, tuy chẳng là bao, nhưng tôi vẫn gom góp dành dụm đủ tiền cho cậu. Sau hai năm hoặc ba năm, ắt là có đủ tiền lộ phí cho cậu đi qua Nhật Bản một chuyến thăm phu nhân. Ngoài cách ấy ra chẳng còn cách gì khác. Tam Lang, ý cậu nghĩ như thế nào? Tôi đáp: - Mọi sự xin y theo lời vú nuôi hết thảy. Vú nuôi bảo: - Tam Lang! Cha ông của Tam Lang tại Giang Hộ vốn xưa kia là những vị công tử (con cái của những bậc công hầu). Ra ngoài thì ngựa béo hào hoa, áo khinh cầu phong nhã. Mà ngày nay cậu phải làm một kẻ bán hoa cỏ, thật là sự việc quái gở. Tuy nhiên, ngày sau cậu về Nhật Bản, cậu vẫn là một vị công tử ngàn vàng, thì ai còn dám kêu cậu là kẻ bán cỏ lá hoa? Tôi chăm chỉ lắng nghe, đưa mắt nhìn vú nuôi. Thấy bà nói tới đó thì tươi cười ấm áp như xuân. Bỗng chốc đã thấy xuân về. Từ đó tôi tuân theo lời vú nuôi, ngày ngày mỗi sáng sớm tôi vận y phục lai rai vào, nham nhở như đứa chăn bò, mang hoa đi bán. Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá - cốt để không ai nhận ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy.
Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá - cốt để không ai nhận ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy. Tôi lẽo đẽo bước đi, trong lòng lấy làm xấu hổ cho thân phận. Thấy phần đông những kẻ mua hoa là những thiếu nữ. Rồi đến những đàn bà trong làng xóm. Mỗi ngày tính ra tôi thâu được vài ba trăm xu. Suốt một tháng trời đều đặn như thế. Một ngày kia, tôi đang một mình bước đi sang thôn làng nọ, thì trời bỗng nhiên u ám, mưa phùn lất phất rớt hột miên man, thấm ướt hết áo quần. Đó là ngày trước tiết thanh minh hai hôm, và nhà nào nhà nấy đang sửa soạn lễ Tảo mộ, nên đường đi vắng ngắt chẳng thấy bóng người nào. Chỉ nghe liên miên âm thanh dằng dặc của mưa phùn rớt hột li ti tí tách sầu não sát nhân mà thôi. Tôi len lỏi lần mò bước đi trên con đường mòn mỏi, tới một góc nhà nọ, dừng chân tạm nghỉ ngơi giây lát dưới một cây liễu nhỏ. Chợt thoáng thấy trên bờ tường trước mặt phía sau tấm màn lụa bích một song cửa sổ, có một nữ lang ăn vận mới mẻ đang đứng đăm chiêu nhìn ra đường. Thật là một nữ lang dung hoa tuyệt diễm. Nhưng mặt ngọc của giai nhân mang vẻ trang nghiêm biểu hiện một mối sầu khôn tả. Lúc tôi đưa mắt nhìn kỹ, thì bóng hồng chợt lẩn mất. Cơn mưa chợt tạnh hẳn, trời bỗng sáng sủa xanh lơ. Màu cỏ cây biêng biếc trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá - cốt để không ai nhận ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy. Tôi lẽo đẽo bước đi, trong lòng lấy làm xấu hổ cho thân phận. Thấy phần đông những kẻ mua hoa là những thiếu nữ. Rồi đến những đàn bà trong làng xóm. Mỗi ngày tính ra tôi thâu được vài ba trăm xu. Suốt một tháng trời đều đặn như thế. Một ngày kia, tôi đang một mình bước đi sang thôn làng nọ, thì trời bỗng nhiên u ám, mưa phùn lất phất rớt hột miên man, thấm ướt hết áo quần. Đó là ngày trước tiết thanh minh hai hôm, và nhà nào nhà nấy đang sửa soạn lễ Tảo mộ, nên đường đi vắng ngắt chẳng thấy bóng người nào. Chỉ nghe liên miên âm thanh dằng dặc của mưa phùn rớt hột li ti tí tách sầu não sát nhân mà thôi. Tôi len lỏi lần mò bước đi trên con đường mòn mỏi, tới một góc nhà nọ, dừng chân tạm nghỉ ngơi giây lát dưới một cây liễu nhỏ. Chợt thoáng thấy trên bờ tường trước mặt phía sau tấm màn lụa bích một song cửa sổ, có một nữ lang ăn vận mới mẻ đang đứng đăm chiêu nhìn ra đường. Thật là một nữ lang dung hoa tuyệt diễm. Nhưng mặt ngọc của giai nhân mang vẻ trang nghiêm biểu hiện một mối sầu khôn tả. Lúc tôi đưa mắt nhìn kỹ, thì bóng hồng chợt lẩn mất. Cơn mưa chợt tạnh hẳn, trời bỗng sáng sủa xanh lơ. Màu cỏ cây biêng biếc trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái.
Màu cỏ cây biêng biếc trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái. Thẹn thuồng mà rằng: - Xin tha thứ tội thất lễ của nô tỳ! Dám xin hỏi công tử từ đâu tới đây? Tuổi niên hoa như thế, vì lẽ chi phải chịu làm cái nghề hèn mọn đó? Công tử há chẳng biết rằng thiều quang trôi qua, hối hận không kịp nữa? Xin hãy đáp cặn kẽ cho nô tỳ rõ. Nghe cô gái nói mấy lời kia, tôi biết rằng cô ấy thật là người thông minh rất mực, chẳng có chi giống người quê mùa cục mịch. Nhưng vì lẽ gì mà đường đột bàn vấn như thế, nghe ra y hệt như lời một tướng sĩ đoán vận mệnh nhà ma! Cô chỉ có ý thăm dò hành vi của tôi, hay là còn có duyên do gì khác nữa? Tôi chỉ còn biết đứng lỳ ra đó, đăm đăm nhìn cô gái, lòng rất bối rối, chẳng rõ phải đối đáp thế nào ra câu. Sau một lúc khá lâu, cô gái nói tiếp: - Em sở dĩ đường đột hỏi như thế, ấy chẳng qua là tuân lệnh cô chủ ở trong nhà. Cô chủ bảo em ra hỏi công tử mấy lời đó. Cô chủ của em vốn bản chất tính tình u nhã tĩnh mịch vô cùng, chẳng hề có bao giờ mở miệng ăn nói gì với người ngoài. Nhưng hôm nay, lại sai em bàn vấn đề này, ấy bởi vì cô chủ em nghe thấy cái tiếng rao bán hoa cỏ của công tử chứa chất dư âm cay đắng xót xa thế nào đó. Hôm nay cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Màu cỏ cây biêng biếc trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái. Thẹn thuồng mà rằng: - Xin tha thứ tội thất lễ của nô tỳ! Dám xin hỏi công tử từ đâu tới đây? Tuổi niên hoa như thế, vì lẽ chi phải chịu làm cái nghề hèn mọn đó? Công tử há chẳng biết rằng thiều quang trôi qua, hối hận không kịp nữa? Xin hãy đáp cặn kẽ cho nô tỳ rõ. Nghe cô gái nói mấy lời kia, tôi biết rằng cô ấy thật là người thông minh rất mực, chẳng có chi giống người quê mùa cục mịch. Nhưng vì lẽ gì mà đường đột bàn vấn như thế, nghe ra y hệt như lời một tướng sĩ đoán vận mệnh nhà ma! Cô chỉ có ý thăm dò hành vi của tôi, hay là còn có duyên do gì khác nữa? Tôi chỉ còn biết đứng lỳ ra đó, đăm đăm nhìn cô gái, lòng rất bối rối, chẳng rõ phải đối đáp thế nào ra câu. Sau một lúc khá lâu, cô gái nói tiếp: - Em sở dĩ đường đột hỏi như thế, ấy chẳng qua là tuân lệnh cô chủ ở trong nhà. Cô chủ bảo em ra hỏi công tử mấy lời đó. Cô chủ của em vốn bản chất tính tình u nhã tĩnh mịch vô cùng, chẳng hề có bao giờ mở miệng ăn nói gì với người ngoài. Nhưng hôm nay, lại sai em bàn vấn đề này, ấy bởi vì cô chủ em nghe thấy cái tiếng rao bán hoa cỏ của công tử chứa chất dư âm cay đắng xót xa thế nào đó. Hôm nay cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường.
Hôm nay cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường. Mong rằng công tử đừng lấy làm quái lạ về ngôn ngữ đường đột của em - công tử có phải thuộc dòng dõi “ Hà Hợp” và tên là “Tam Lang” đó chăng? Bất thình lình nghe cô gái nói câu đó, tôi kinh hoàng tưởng như muốn co giò chạy trốn. Nhưng chợt nghĩ rằng cô gái kia chẳng hề có ý làm tổn hại tổn thương tôi gì cả, tôi bèn chậm rãi bình tĩnh đáp rằng: - Thật đúng là tên của tôi đó. Tôi cần kiếm tiền đi gấp sang Nhật Bản tìm thăm viếng mẹ, nên bất đắc dĩ phải làm bừa công việc này. Dám mong cô nương đừng tiết lộ sự đó với ai, thì tôi đội ơn cô không phải là ít! Cô gái nghiêng thân xá tôi một cái, nói tiếp: - Xin tuân lời dạy bảo! Công tử hãy trân trọng giữ mình! Và xin công tử sáng mai trở lại chỗ này. Bây giờ em xin quay vào báo với cô chủ của em. Lúc quay về nhà, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tâm sự, rầu rĩ cắm cúi bước đi. CHƯƠNG NĂM Ngày hôm sau, khi trời âm u nặng nề hơn cả ngày trước. Lúc tôi trở giấc dậy, cảm thấy tâm hồn bàng hoàng khôn tả. Vì sắp tới lúc phải tới hội ước với cô gái kia. Người đọc sách tới đây, ắt nghĩ rằng tôi đang bị vướng thân vào trong tấm lưới tình bối rối, và như vậy là đang lâm vào hiểm họa trở ngại cuộc thanh tĩnh pháp lưu. Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Hôm nay cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường. Mong rằng công tử đừng lấy làm quái lạ về ngôn ngữ đường đột của em - công tử có phải thuộc dòng dõi “ Hà Hợp” và tên là “Tam Lang” đó chăng? Bất thình lình nghe cô gái nói câu đó, tôi kinh hoàng tưởng như muốn co giò chạy trốn. Nhưng chợt nghĩ rằng cô gái kia chẳng hề có ý làm tổn hại tổn thương tôi gì cả, tôi bèn chậm rãi bình tĩnh đáp rằng: - Thật đúng là tên của tôi đó. Tôi cần kiếm tiền đi gấp sang Nhật Bản tìm thăm viếng mẹ, nên bất đắc dĩ phải làm bừa công việc này. Dám mong cô nương đừng tiết lộ sự đó với ai, thì tôi đội ơn cô không phải là ít! Cô gái nghiêng thân xá tôi một cái, nói tiếp: - Xin tuân lời dạy bảo! Công tử hãy trân trọng giữ mình! Và xin công tử sáng mai trở lại chỗ này. Bây giờ em xin quay vào báo với cô chủ của em. Lúc quay về nhà, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tâm sự, rầu rĩ cắm cúi bước đi. CHƯƠNG NĂM Ngày hôm sau, khi trời âm u nặng nề hơn cả ngày trước. Lúc tôi trở giấc dậy, cảm thấy tâm hồn bàng hoàng khôn tả. Vì sắp tới lúc phải tới hội ước với cô gái kia. Người đọc sách tới đây, ắt nghĩ rằng tôi đang bị vướng thân vào trong tấm lưới tình bối rối, và như vậy là đang lâm vào hiểm họa trở ngại cuộc thanh tĩnh pháp lưu. Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy.
Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy. Kỳ thực, hằng ngày tôi vẫn tâm tư niệm tưởng: Mình là thuộc sa môn đạo pháp, thì sống vào cõi tục, dù sao cũng giữ gìn hạnh kiểm nết na, há đâu có hại gì mà lo sợ. Nào tôi đâu có ngờ tới những việc về sau! Tự thân tôi sẽ chịu những giày vò bứt rứt nào, tôi đâu ngờ ra được. Dần dà sẽ kể lại độc giả rõ đầu đuôi. Tôi bước ra khỏi nhà, chính lúc đó, lòng tôi trào dậy muôn loại hoang mang sầu muộn hồi hộp phập phồng. Thôn làng ven sông đang tế lễ Hàn thực, mưa gió phiêu hốt chan hoà khắp mọi ngả. Tôi đưa mắt nhìn bốn bề, lòng tôi xao xuyến một trận dị thường. Thâm nghĩ rằng cảnh vật u buồn ra như thế, quả thật chẳng là điềm lành. Rồi suy gẫm rằng cô tiểu thư kia ước định tương phùng như thế, ắt là có duyên do xa vời nào. Nếu không gì hết cả, thì sao có tiểu thư lại từng rõ biết tính danh tên tuổi của tôi. Huống nữa là hôm qua chợt nhìn thấy mặt ngọc đầy vẻ đơn sơ thanh đạm trang nhã, phương dung tuyệt nhiên không có gì giống như những vẻ đẹp thông thường hấp dẫn! Há đâu có thể là một phường một loại với những dung nhan hạ lưu nham nhở! Tôi vừa bước đi vừa suy gẫm, chẳng bao lâu đã tới chỗ đất đai hôm trước, ở bên dưới khung cửa sổ màn lụa xanh lơ. Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng thấy động tĩnh gì hết. Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ “chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý giỡn cợt chế giễu ta chăng”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy. Kỳ thực, hằng ngày tôi vẫn tâm tư niệm tưởng: Mình là thuộc sa môn đạo pháp, thì sống vào cõi tục, dù sao cũng giữ gìn hạnh kiểm nết na, há đâu có hại gì mà lo sợ. Nào tôi đâu có ngờ tới những việc về sau! Tự thân tôi sẽ chịu những giày vò bứt rứt nào, tôi đâu ngờ ra được. Dần dà sẽ kể lại độc giả rõ đầu đuôi. Tôi bước ra khỏi nhà, chính lúc đó, lòng tôi trào dậy muôn loại hoang mang sầu muộn hồi hộp phập phồng. Thôn làng ven sông đang tế lễ Hàn thực, mưa gió phiêu hốt chan hoà khắp mọi ngả. Tôi đưa mắt nhìn bốn bề, lòng tôi xao xuyến một trận dị thường. Thâm nghĩ rằng cảnh vật u buồn ra như thế, quả thật chẳng là điềm lành. Rồi suy gẫm rằng cô tiểu thư kia ước định tương phùng như thế, ắt là có duyên do xa vời nào. Nếu không gì hết cả, thì sao có tiểu thư lại từng rõ biết tính danh tên tuổi của tôi. Huống nữa là hôm qua chợt nhìn thấy mặt ngọc đầy vẻ đơn sơ thanh đạm trang nhã, phương dung tuyệt nhiên không có gì giống như những vẻ đẹp thông thường hấp dẫn! Há đâu có thể là một phường một loại với những dung nhan hạ lưu nham nhở! Tôi vừa bước đi vừa suy gẫm, chẳng bao lâu đã tới chỗ đất đai hôm trước, ở bên dưới khung cửa sổ màn lụa xanh lơ. Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng thấy động tĩnh gì hết. Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ “chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý giỡn cợt chế giễu ta chăng”.
Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng thấy động tĩnh gì hết. Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ “chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý giỡn cợt chế giễu ta chăng”. Rồi nghĩ lại những lời cô đã thốt, thì thấy mỗi lời mỗi tiếng đều là lời chí tình, sao còn có thể hồ nghi gì cho được? Lúc mưa gió bắt đầu tạnh chút ít, cô gái hôm nọ chợt mở cửa ra, chẳng nói chẳng rằng, chẳng mỉm cười cười mỉm gì hết cả, lặng lẽ tới trước mặt tôi, và đưa hai tay ra với một phong thư nặng trĩu cả bàn tay. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vội vã bóc phong thư ra xem, thì thấy bao đầy vàng bạc. Lòng tôi hoang mang nghi hoặc, dòm kỹ thấy còn một tờ thư viết cho tôi. Xem thư xong, tâm hồn tôi dao động xao xuyến dị thường, cõi lòng như tan nát. Thư viết thế này: “Thiếp là Tuyết Mai, đem nước mắt hòa mực mà viết lá thư này trân trọng gởi Tam Lang. Trước đây, em nghe người ta nói anh Tam Lang đã cạo đầu tóc mà đi tu, làm một ông tỳ kheo trong cửa Phật. Em vốn nghĩ rằng tính tình anh vốn kiên trì với cái cõi cô đơn (cô đơn là tính chất, chất hằng đơn cô) nên em tin ngay lời thiên hạ đồn đại. Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng thấy động tĩnh gì hết. Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ “chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý giỡn cợt chế giễu ta chăng”. Rồi nghĩ lại những lời cô đã thốt, thì thấy mỗi lời mỗi tiếng đều là lời chí tình, sao còn có thể hồ nghi gì cho được? Lúc mưa gió bắt đầu tạnh chút ít, cô gái hôm nọ chợt mở cửa ra, chẳng nói chẳng rằng, chẳng mỉm cười cười mỉm gì hết cả, lặng lẽ tới trước mặt tôi, và đưa hai tay ra với một phong thư nặng trĩu cả bàn tay. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vội vã bóc phong thư ra xem, thì thấy bao đầy vàng bạc. Lòng tôi hoang mang nghi hoặc, dòm kỹ thấy còn một tờ thư viết cho tôi. Xem thư xong, tâm hồn tôi dao động xao xuyến dị thường, cõi lòng như tan nát. Thư viết thế này: “Thiếp là Tuyết Mai, đem nước mắt hòa mực mà viết lá thư này trân trọng gởi Tam Lang. Trước đây, em nghe người ta nói anh Tam Lang đã cạo đầu tóc mà đi tu, làm một ông tỳ kheo trong cửa Phật. Em vốn nghĩ rằng tính tình anh vốn kiên trì với cái cõi cô đơn (cô đơn là tính chất, chất hằng đơn cô) nên em tin ngay lời thiên hạ đồn đại. Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa!
Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa! Gần đây, suốt mấy buổi mai, chợt nghe ra trong giọng rao bán cỏ hoa một âm thanh kỳ lạ em kinh hoàng nhận rõ đó là âm thanh dội từ đáy lòng tâm sự của anh Tam Lang. Ngày xưa thuở em còn bé, đã từng được hai bên gia đình hứa gả con cho nhau, em đã gặp anh một lần, thì cảnh trạng cho tới ngày nay em vẫn còn chôn chặt trong tâm khảm. Cho tới buổi sáng vừa rồi, đứng sau song cửa nhìn thấy anh, em biết rõ đó chính là Tam Lang của em. Lúc bấy giờ, em cảm thấy hồn bay bổng mất đi đâu. Em không còn hiểu gì ra gì được nữa. Lòng rộn ràng xao xuyến quá, liên tồn bất khả tự trì. Em muốn chạy thẳng ra trước mặt anh mà trần tình tâm sự nhưng danh nghĩa không cho phép. Nên đã sai tỳ nữ mạo muội bước ra bước ra hỏi han, khiến cho anh hoang mang như thế, em xin anh Tam Lang hãy thương em mà thứ lỗi cho. Kể từ ngày mẹ em qua đời cho đến ngày nay, em sống linh đinh sầu khổ, chẳng thiết cho tới sinh thú ở đời. Người mẹ ghẻ chẳng chút ân đức nào cả, chỉ thấy lợi mà quên tình nghĩa, xúi giục người cha già nua của em hủy bỏ cuộc ước định đính hôn ngày trước đi, và hãy nghĩ tới chuyện đem gả em cho một kẻ khác. Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa! Gần đây, suốt mấy buổi mai, chợt nghe ra trong giọng rao bán cỏ hoa một âm thanh kỳ lạ em kinh hoàng nhận rõ đó là âm thanh dội từ đáy lòng tâm sự của anh Tam Lang. Ngày xưa thuở em còn bé, đã từng được hai bên gia đình hứa gả con cho nhau, em đã gặp anh một lần, thì cảnh trạng cho tới ngày nay em vẫn còn chôn chặt trong tâm khảm. Cho tới buổi sáng vừa rồi, đứng sau song cửa nhìn thấy anh, em biết rõ đó chính là Tam Lang của em. Lúc bấy giờ, em cảm thấy hồn bay bổng mất đi đâu. Em không còn hiểu gì ra gì được nữa. Lòng rộn ràng xao xuyến quá, liên tồn bất khả tự trì. Em muốn chạy thẳng ra trước mặt anh mà trần tình tâm sự nhưng danh nghĩa không cho phép. Nên đã sai tỳ nữ mạo muội bước ra bước ra hỏi han, khiến cho anh hoang mang như thế, em xin anh Tam Lang hãy thương em mà thứ lỗi cho. Kể từ ngày mẹ em qua đời cho đến ngày nay, em sống linh đinh sầu khổ, chẳng thiết cho tới sinh thú ở đời. Người mẹ ghẻ chẳng chút ân đức nào cả, chỉ thấy lợi mà quên tình nghĩa, xúi giục người cha già nua của em hủy bỏ cuộc ước định đính hôn ngày trước đi, và hãy nghĩ tới chuyện đem gả em cho một kẻ khác. Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi.
Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi. Ấy là vào cõi quyên sinh vậy. Thì em dẫu có thịt nát xương mòn đến ngàn vạn kiếp, trái tim của em vẫn chỉ biết có anh Tam Lang của em mà thôi. Trời xanh ở trên cao kia có đoái tưởng mà che chở cho em chăng trong những ngày điêu đứng này em cũng chẳng cần chi biết tới nữa. Dè đâu hôm nay ngẫu nhiên run rủi em thấy mặt anh trở lại, mới hay rằng Tam Lang của em chưa đến nỗi nào. Cảm thấy lòng trời bao dong, Thượng đế hiền từ rất mực, thì lòng em vui mừng biết lấy gì cân hoặc đo ra cho đầy đủ. Vũ trụ mang mang càn khôn rộng rãi, doanh hoàn thế giới bao la, khắp mười phương quốc độ, nếu em bỏ anh, thì em còn biết bám vào ai được nữa! Dẫu rằng biển cạn đá mòn. Dẫu rằng sông dứt con đàng tới lui… Hình hài xương xẩu của em có thể chỉ như là một sợi tơ mỏng manh, nhưng tình yêu trong máu của em thì thật là liên tồn bát ngát. Nay em xin biếu anh trăm đồng vàng gọi là chút quà mọn phụng trình, mong manh sớm mua vé đáp tàu về Nhật Bản viếng phu nhân và bàn bạc với phu nhân về cuộc tình duyên của chúng ta. Em đã trăm phen ngàn bận suy nghĩ về việc này, chỉ xin anh rủ lòng thương liên tồn chiếu cố. Em đang ở trong cảnh cư tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm đường dài”. Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi. Ấy là vào cõi quyên sinh vậy. Thì em dẫu có thịt nát xương mòn đến ngàn vạn kiếp, trái tim của em vẫn chỉ biết có anh Tam Lang của em mà thôi. Trời xanh ở trên cao kia có đoái tưởng mà che chở cho em chăng trong những ngày điêu đứng này em cũng chẳng cần chi biết tới nữa. Dè đâu hôm nay ngẫu nhiên run rủi em thấy mặt anh trở lại, mới hay rằng Tam Lang của em chưa đến nỗi nào. Cảm thấy lòng trời bao dong, Thượng đế hiền từ rất mực, thì lòng em vui mừng biết lấy gì cân hoặc đo ra cho đầy đủ. Vũ trụ mang mang càn khôn rộng rãi, doanh hoàn thế giới bao la, khắp mười phương quốc độ, nếu em bỏ anh, thì em còn biết bám vào ai được nữa! Dẫu rằng biển cạn đá mòn. Dẫu rằng sông dứt con đàng tới lui… Hình hài xương xẩu của em có thể chỉ như là một sợi tơ mỏng manh, nhưng tình yêu trong máu của em thì thật là liên tồn bát ngát. Nay em xin biếu anh trăm đồng vàng gọi là chút quà mọn phụng trình, mong manh sớm mua vé đáp tàu về Nhật Bản viếng phu nhân và bàn bạc với phu nhân về cuộc tình duyên của chúng ta. Em đã trăm phen ngàn bận suy nghĩ về việc này, chỉ xin anh rủ lòng thương liên tồn chiếu cố. Em đang ở trong cảnh cư tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm đường dài”. Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy.
Em đang ở trong cảnh cư tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm đường dài”. Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy. Nhiên như thế thì tôi há đâu có thể bỏ rụng rơi nường được. Mà bỏ rụng nường để ôm gói cô độc đi đâu? Đi vào chùa mà bộc bạch với cửa “Không” về cái sự ngổn ngang của mình ra như thế! Con xin giũ áo tỳ kheo của con vậy. Như Lai Bồ Tát hãy thể niệm cái cõi lòng đó của con mà đừng có lối cuốn con vào trong cửa “Không” để hành hạ giày vò con suốt tam sinh làm chi như thế ru chăng nhẽ!!! Ăn nhằm vào đâu mà chi cho đáng chứ! Cả rừng cả rú, cả sơn thụ cả lâm tuyền. Con xin trút giũ thảy thảy hết trở lại cho Như Lai, để suốt một bình sinh đi theo dấu chân liên tồn của Tuyết Mai tiên nữ. Nếu con không làm như thế, thì oan nghiệt ngập trời còn ai có thể đảm đương giúp được cho con đó chăng ru? Suốt mười phương quốc độ, còn đâu không đội tiếng than van của một kẻ đã lầm đường còn liên tồn tiếp từng phen lạc lối? Độc giả ắt từng có phen nghĩ rằng tôi là đứa hồ đồ, mang áo cà sa vào mình giữa một bể hận mông mênh, trời tình bát ngát như thế thì đích thị tôi là đứa bất cận nhân tình nhân sự nhân vụ ở giữa cái khoảng nhân gian. Nhưng mà thật ra vốn từ xưa, tôi đã đành cạo trọc cái đầu khoác áp cà sa vào thân thể để đi tu, thì đó chẳng qua chỉ là một cái phương sách tình phi đắc dĩ, miễn là khả dĩ bảo tồn được cho cái sinh mệnh Tuyết Mai đó mà thôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Em đang ở trong cảnh cư tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm đường dài”. Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy. Nhiên như thế thì tôi há đâu có thể bỏ rụng rơi nường được. Mà bỏ rụng nường để ôm gói cô độc đi đâu? Đi vào chùa mà bộc bạch với cửa “Không” về cái sự ngổn ngang của mình ra như thế! Con xin giũ áo tỳ kheo của con vậy. Như Lai Bồ Tát hãy thể niệm cái cõi lòng đó của con mà đừng có lối cuốn con vào trong cửa “Không” để hành hạ giày vò con suốt tam sinh làm chi như thế ru chăng nhẽ!!! Ăn nhằm vào đâu mà chi cho đáng chứ! Cả rừng cả rú, cả sơn thụ cả lâm tuyền. Con xin trút giũ thảy thảy hết trở lại cho Như Lai, để suốt một bình sinh đi theo dấu chân liên tồn của Tuyết Mai tiên nữ. Nếu con không làm như thế, thì oan nghiệt ngập trời còn ai có thể đảm đương giúp được cho con đó chăng ru? Suốt mười phương quốc độ, còn đâu không đội tiếng than van của một kẻ đã lầm đường còn liên tồn tiếp từng phen lạc lối? Độc giả ắt từng có phen nghĩ rằng tôi là đứa hồ đồ, mang áo cà sa vào mình giữa một bể hận mông mênh, trời tình bát ngát như thế thì đích thị tôi là đứa bất cận nhân tình nhân sự nhân vụ ở giữa cái khoảng nhân gian. Nhưng mà thật ra vốn từ xưa, tôi đã đành cạo trọc cái đầu khoác áp cà sa vào thân thể để đi tu, thì đó chẳng qua chỉ là một cái phương sách tình phi đắc dĩ, miễn là khả dĩ bảo tồn được cho cái sinh mệnh Tuyết Mai đó mà thôi.
Vì nên thử nghĩ rằng Tuyết Mai vốn nòi kỳ nữ miêu cương, ôn tồn bát nhã “cổ đức u quang, nghiêm dong cựu hạnh”. Tôi xin bây giờ nói cho độc giả rõ rằng là người cha Tuyết Mai vốn là bạn thân của nghĩa phụ tôi. Lúc nghĩa phụ tôi chưa lìa trần. Cha Tuyết Mai đã cùng nghĩa phụ tôi hứa gả Tuyết Mai cho tôi, từ cái thuở nàng còn liên tồn bé bỏng (sau này mới chậm rãi lớn rộng dần ra). Nhưng rồi về sau cha của nàng nhận thấy rằng gia đình nghĩa phụ tôi vận mệnh càng ngày sa sút, còn người mẹ tôi thị bặt vô âm tín; ông ấy mới nảy sanh ra niềm hối hận ăn năn, muốn hủy bỏ lời hứa hôn ngày trước. Nhưng nàng Tuyết Mai cao nhã huy hoàng ra như thế, há nhiên đâu có thể can tâm điềm nhiên phụ ước. Thế rồi cho nàng và mẹ ghẻ của nàng đều chẳng đoái hoài lân mẫn chi tới đứa con gái, cứ bừa bãi coi con gái chỉ như nhiên là một cái món đồ hàng hóa trao đổi bán buôn mà thôi. Cái đó đâu có nghĩa lý tí ti nào đối với những bậc phụ mẫu mẹ cha của con cái? Chỉ cần là làm sao bán món hàng cho được cao cái giá mà thôi. Trước cái sự thể nó ra như thế về cái uy quyền hà khắc kia của phụ mẫu, thì một cô con gái yếu đuối còn đâu chốn đâu nơi, đâu chỗ, mà đặt cái miệng vào thốt cái lời cho ra cái tiếng? Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn con mà thôi? Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng dạ nàng mà thôi. Không thể bày tò được nỗi lòng với ai cả.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vì nên thử nghĩ rằng Tuyết Mai vốn nòi kỳ nữ miêu cương, ôn tồn bát nhã “cổ đức u quang, nghiêm dong cựu hạnh”. Tôi xin bây giờ nói cho độc giả rõ rằng là người cha Tuyết Mai vốn là bạn thân của nghĩa phụ tôi. Lúc nghĩa phụ tôi chưa lìa trần. Cha Tuyết Mai đã cùng nghĩa phụ tôi hứa gả Tuyết Mai cho tôi, từ cái thuở nàng còn liên tồn bé bỏng (sau này mới chậm rãi lớn rộng dần ra). Nhưng rồi về sau cha của nàng nhận thấy rằng gia đình nghĩa phụ tôi vận mệnh càng ngày sa sút, còn người mẹ tôi thị bặt vô âm tín; ông ấy mới nảy sanh ra niềm hối hận ăn năn, muốn hủy bỏ lời hứa hôn ngày trước. Nhưng nàng Tuyết Mai cao nhã huy hoàng ra như thế, há nhiên đâu có thể can tâm điềm nhiên phụ ước. Thế rồi cho nàng và mẹ ghẻ của nàng đều chẳng đoái hoài lân mẫn chi tới đứa con gái, cứ bừa bãi coi con gái chỉ như nhiên là một cái món đồ hàng hóa trao đổi bán buôn mà thôi. Cái đó đâu có nghĩa lý tí ti nào đối với những bậc phụ mẫu mẹ cha của con cái? Chỉ cần là làm sao bán món hàng cho được cao cái giá mà thôi. Trước cái sự thể nó ra như thế về cái uy quyền hà khắc kia của phụ mẫu, thì một cô con gái yếu đuối còn đâu chốn đâu nơi, đâu chỗ, mà đặt cái miệng vào thốt cái lời cho ra cái tiếng? Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn con mà thôi? Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng dạ nàng mà thôi. Không thể bày tò được nỗi lòng với ai cả.
Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn con mà thôi? Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng dạ nàng mà thôi. Không thể bày tò được nỗi lòng với ai cả. Đó quả thật là điều người ta vốn bảo rằng: nỗi ai oán của những đứa con gái mồ côi kia, xét ra chỉ còn một cách là mang chở cái khối nặng xuống địa phủ để trình bày với phụ mẫu và Diêm Vương. Thì như thế còn yên vui sung sướng hơn là sống vất vơ ở dương gian kéo dây dưa cái cuộc đời nham nhở vậy. Điều đó, nếu không tự thân mình mẩy hình hài thể nghiệm, thì ắt chẳng thể nào hiểu được. Trong lúc đó, tôi lớn lên dần dần. Lâu ngày chẳng đặng cùng Tuyết Mai tương kiến. Chẳng có duyên cơ nào hội nào để chứng minh tình yêu trong linh hồn của nhau một phen nào cả. Nhiên như thế, một lần nhìn ra cái tình huống kia, thì lòng tôi phiền muộn không thể nguôi được. Âm thầm suy ngẫm, xét ra chỉ còn có một lối xuất gia quy y cửa Phật là khả dĩ dập tắt ngọn lửa thiêng liêng trong máu me yêu đương của trái tim và hai lá phổi của hồng nhan mỹ lệ kêu gào. Và khiến cho giai nhân từ đó có thể yên tâm mà tìm ra hạnh phúc gia đình chắp nối với kẻ khác cái dây dưa dằng dặc. Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi, há có thể nào như thế được?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn con mà thôi? Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng dạ nàng mà thôi. Không thể bày tò được nỗi lòng với ai cả. Đó quả thật là điều người ta vốn bảo rằng: nỗi ai oán của những đứa con gái mồ côi kia, xét ra chỉ còn một cách là mang chở cái khối nặng xuống địa phủ để trình bày với phụ mẫu và Diêm Vương. Thì như thế còn yên vui sung sướng hơn là sống vất vơ ở dương gian kéo dây dưa cái cuộc đời nham nhở vậy. Điều đó, nếu không tự thân mình mẩy hình hài thể nghiệm, thì ắt chẳng thể nào hiểu được. Trong lúc đó, tôi lớn lên dần dần. Lâu ngày chẳng đặng cùng Tuyết Mai tương kiến. Chẳng có duyên cơ nào hội nào để chứng minh tình yêu trong linh hồn của nhau một phen nào cả. Nhiên như thế, một lần nhìn ra cái tình huống kia, thì lòng tôi phiền muộn không thể nguôi được. Âm thầm suy ngẫm, xét ra chỉ còn có một lối xuất gia quy y cửa Phật là khả dĩ dập tắt ngọn lửa thiêng liêng trong máu me yêu đương của trái tim và hai lá phổi của hồng nhan mỹ lệ kêu gào. Và khiến cho giai nhân từ đó có thể yên tâm mà tìm ra hạnh phúc gia đình chắp nối với kẻ khác cái dây dưa dằng dặc. Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi, há có thể nào như thế được?
Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi, há có thể nào như thế được? Há chẳng nhận thấy sờ sờ rằng phụ mẫu của nàng tham lợi mà đâm ra u ám trí óc, cam chịu để cho cốt nhục máu mủ mình tan rã theo bụi cỏ lá cây, hơn là đem mà gả cho một thằng người ngợm đói rét đười ươi là cái đứa tôi đây? Lúc bấy giờ tôi còn là đứa nhỏ tuổi khí thịnh máu hăng, xương xẩu dữ tợn, tôi đã quay đầu ngoảnh mặt mà đi, phiêu nhiên mà bước, tìm tới gõ cửa chùa Thường Tú tại Quang Châu, khẩn cầu Tán Sơ trưởng lão cho phép tôi nhập môn, và trưởng lão đã chấp thuận cho tôi vào làm “Biển Ô Sa Di”. Còn cô Tuyết Mai, thì tôi đã âm thầm phó thân phận bạc mệnh của nàng cho hồng ân. Như Lai Phạm Thiên Đế Thích, tha hồ Thích Ca xử trí nào ra sao thì mặc Thích Ca ra nấy (ra thế). Những chương sách trên đây thuật lại nỗi niềm tưởng niệm thân mẫu lúc tôi ở tại chùa tức là sự tình nông nổi mấy tháng sau ngày tôi vào chùa vậy. CHƯƠNG SÁU Từ ngày nhận được lá thư của Tuyết Mai, tôi mới rõ lẽ rằng nường ấy đã tin yêu tôi một cách khôn hàn gay cấn thâm hậu vô song. Lúc bấy giờ linh hồn thể phách tâm đầu tôi dào dạt bừng sôi sục sục, tôi chẳng còn có thể định đoạt đường đi lối bước ra cái gì gì cả. Cũng chẳng nhận định ra đâu là vòi või bích lạc, đâu là âm u đen đủi hoàng tuyền. Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa đối với tôi?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi, há có thể nào như thế được? Há chẳng nhận thấy sờ sờ rằng phụ mẫu của nàng tham lợi mà đâm ra u ám trí óc, cam chịu để cho cốt nhục máu mủ mình tan rã theo bụi cỏ lá cây, hơn là đem mà gả cho một thằng người ngợm đói rét đười ươi là cái đứa tôi đây? Lúc bấy giờ tôi còn là đứa nhỏ tuổi khí thịnh máu hăng, xương xẩu dữ tợn, tôi đã quay đầu ngoảnh mặt mà đi, phiêu nhiên mà bước, tìm tới gõ cửa chùa Thường Tú tại Quang Châu, khẩn cầu Tán Sơ trưởng lão cho phép tôi nhập môn, và trưởng lão đã chấp thuận cho tôi vào làm “Biển Ô Sa Di”. Còn cô Tuyết Mai, thì tôi đã âm thầm phó thân phận bạc mệnh của nàng cho hồng ân. Như Lai Phạm Thiên Đế Thích, tha hồ Thích Ca xử trí nào ra sao thì mặc Thích Ca ra nấy (ra thế). Những chương sách trên đây thuật lại nỗi niềm tưởng niệm thân mẫu lúc tôi ở tại chùa tức là sự tình nông nổi mấy tháng sau ngày tôi vào chùa vậy. CHƯƠNG SÁU Từ ngày nhận được lá thư của Tuyết Mai, tôi mới rõ lẽ rằng nường ấy đã tin yêu tôi một cách khôn hàn gay cấn thâm hậu vô song. Lúc bấy giờ linh hồn thể phách tâm đầu tôi dào dạt bừng sôi sục sục, tôi chẳng còn có thể định đoạt đường đi lối bước ra cái gì gì cả. Cũng chẳng nhận định ra đâu là vòi või bích lạc, đâu là âm u đen đủi hoàng tuyền. Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa đối với tôi?
Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa đối với tôi? Bà vú nuôi tôi, tuổi tác đã ngoại năm mươi rồi, bà già nua như thế, nhưng vừa một phen nhìn thấy là thư Tuyết Mai, đã cảm động như chính bà tự thân cảm thụ đoạn trường, nước mắt bà tuôn ra như mưa. Trong cảnh huống đó, tình trạng thần kinh tôi như thế nào độc giả có thể đoán ra được rồi vậy. Hẳn rằng mọi sự thế gian thiên hạ, do tình ái mà nảy sinh ra thì không sự nào mà chẳng éo le gây cấn. Vô luận sinh từ thấp, hóa, noãn, thai, bốn mặt. Nếu đã vì duyên do kia mà nhập vào cõi nhà ma sinh sinh diệt diệt, thật đó là một trạng huống bi thương. Bốn ngày sau lễ Thanh minh. Lúc tinh sương, ánh rạng đông chiếu vào cây cối, mùi hương hoa lá bốc lan tràn. Tôi từ biệt Triều Nhi và bà vú nuôi, bà vú vốn hối thúc tôi gấp gáp lên đường. Còn về phía Tuyết Mai, bà hứa sẽ dốc hết tâm lực mà phò trợ cô nàng. Tôi không biết nói lời chi để báo đền ân đức vú nuôi. Tôi chỉ giàn giụa nhìn bà. Rồi trích ra hai chục đồng vàng trong số bạc Tuyết Mai tặng tôi trao cho Triều Nhi để nó mua áo lông cừu cho mẹ. Cảm tình tôi đối với Triều Nhi thật sâu xa quá, đứa bé ấy tuy còn nhỏ tuổi, mà lòng hiếu thảo thật phi phàm. Đừng nhìn nhau thật lâu, lòng tôi chẳng nỡ chia tay cùng. Chợt quay đầu nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm… Bà vú nuôi chợt tới bên tôi nói: - Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa đối với tôi? Bà vú nuôi tôi, tuổi tác đã ngoại năm mươi rồi, bà già nua như thế, nhưng vừa một phen nhìn thấy là thư Tuyết Mai, đã cảm động như chính bà tự thân cảm thụ đoạn trường, nước mắt bà tuôn ra như mưa. Trong cảnh huống đó, tình trạng thần kinh tôi như thế nào độc giả có thể đoán ra được rồi vậy. Hẳn rằng mọi sự thế gian thiên hạ, do tình ái mà nảy sinh ra thì không sự nào mà chẳng éo le gây cấn. Vô luận sinh từ thấp, hóa, noãn, thai, bốn mặt. Nếu đã vì duyên do kia mà nhập vào cõi nhà ma sinh sinh diệt diệt, thật đó là một trạng huống bi thương. Bốn ngày sau lễ Thanh minh. Lúc tinh sương, ánh rạng đông chiếu vào cây cối, mùi hương hoa lá bốc lan tràn. Tôi từ biệt Triều Nhi và bà vú nuôi, bà vú vốn hối thúc tôi gấp gáp lên đường. Còn về phía Tuyết Mai, bà hứa sẽ dốc hết tâm lực mà phò trợ cô nàng. Tôi không biết nói lời chi để báo đền ân đức vú nuôi. Tôi chỉ giàn giụa nhìn bà. Rồi trích ra hai chục đồng vàng trong số bạc Tuyết Mai tặng tôi trao cho Triều Nhi để nó mua áo lông cừu cho mẹ. Cảm tình tôi đối với Triều Nhi thật sâu xa quá, đứa bé ấy tuy còn nhỏ tuổi, mà lòng hiếu thảo thật phi phàm. Đừng nhìn nhau thật lâu, lòng tôi chẳng nỡ chia tay cùng. Chợt quay đầu nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm… Bà vú nuôi chợt tới bên tôi nói: - Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ.
Chợt quay đầu nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm… Bà vú nuôi chợt tới bên tôi nói: - Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ. Tôi ngậm ngùi từ biệt vú nuôi và Triều Nhi. Hai ngày sau tới Quảng Châu. Tôi bước lên bờ, thong dong cửa bộ. Tôi có ý định tìm thăm ông thầy cũ và từ biệt ông. Tôi nghĩ rằng chùa Thường Tú đã bị lớp người tân học bạo đồ đạp bỏ và lập đường xá phố thị. Chẳng còn chút gì lưu lại nữa. Pháp khí pháp cụ, thảy thảy tiêu ma hết cả rồi. Tôi nghĩ rằng thầy tôi lúc bấy giờ đã quay về tĩnh thất, tôi bèn đáp tàu đi Hương Giang ngay buổi xế nọ. Sáng hôm sau, tôi mặc y phục chỉnh tề, bước lên bờ liền hướng chân về phía nhà mục sư Robert. Vì mục sư ấy vốn người Tây Ban Nha. Mấy năm trước đã đưa vợ và cô con gái tới lưu trú tại Hương Giang, và dựng căn nhà bên sườn núi Thái Bình Sơn. Ông vốn ít ra ngoài giao thiệp. Chỉ thích sưu tầm những đồ vật cổ kính và những kỳ hoa dị thảo mà thôi. Tôi vốn đặc biệt hâm mộ vị mục sư ấy: Thanh u tuyệt dục, ông ấy quả thật là một giáo sĩ cao đạo, lòng ông chẳng hề nuôi cái ý gì tai hại, ông không hề nghĩ tới việc chinh phục đất đai xứ sở của người ta. Do đó, tôi từng đã hân hoan theo ông về nhà học tập Âu văn trong hai năm trời, và vị mục sư đối với tôi thật là nhiều tình nghĩa. Đến nhà mục sư, cô gái ông Robert niềm nở tươi cười bắt tay tôi, kéo tôi vào phòng văn hỏi chuyện… Phòng văn hơi giá như đồng… Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chợt quay đầu nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm… Bà vú nuôi chợt tới bên tôi nói: - Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ. Tôi ngậm ngùi từ biệt vú nuôi và Triều Nhi. Hai ngày sau tới Quảng Châu. Tôi bước lên bờ, thong dong cửa bộ. Tôi có ý định tìm thăm ông thầy cũ và từ biệt ông. Tôi nghĩ rằng chùa Thường Tú đã bị lớp người tân học bạo đồ đạp bỏ và lập đường xá phố thị. Chẳng còn chút gì lưu lại nữa. Pháp khí pháp cụ, thảy thảy tiêu ma hết cả rồi. Tôi nghĩ rằng thầy tôi lúc bấy giờ đã quay về tĩnh thất, tôi bèn đáp tàu đi Hương Giang ngay buổi xế nọ. Sáng hôm sau, tôi mặc y phục chỉnh tề, bước lên bờ liền hướng chân về phía nhà mục sư Robert. Vì mục sư ấy vốn người Tây Ban Nha. Mấy năm trước đã đưa vợ và cô con gái tới lưu trú tại Hương Giang, và dựng căn nhà bên sườn núi Thái Bình Sơn. Ông vốn ít ra ngoài giao thiệp. Chỉ thích sưu tầm những đồ vật cổ kính và những kỳ hoa dị thảo mà thôi. Tôi vốn đặc biệt hâm mộ vị mục sư ấy: Thanh u tuyệt dục, ông ấy quả thật là một giáo sĩ cao đạo, lòng ông chẳng hề nuôi cái ý gì tai hại, ông không hề nghĩ tới việc chinh phục đất đai xứ sở của người ta. Do đó, tôi từng đã hân hoan theo ông về nhà học tập Âu văn trong hai năm trời, và vị mục sư đối với tôi thật là nhiều tình nghĩa. Đến nhà mục sư, cô gái ông Robert niềm nở tươi cười bắt tay tôi, kéo tôi vào phòng văn hỏi chuyện… Phòng văn hơi giá như đồng… Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe.
Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe. Ngày nay tôi còn ghi tạc kỷ niệm lưa thưa cái mùi hương dị dị ấy. Tiểu thư ngồi bên dương cầm, hai bàn tay búp măng thoăn thoắt, đầu tóc hồng vàng tụ, nghiêng nghiêng ngả ngả. Tôi bỗng biến làm thi nhân mà nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình: “ Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy? Nước xuôi dòng là cổ độ đăm đăm. Tuổi mười tám bây giờ lên gấy gảy. Mộng miên man vân mấn phủ dương cầm …” Vợ chồng ông mục sư mừng rỡ bước vào giữa lúc tôi miên man ra như thế. Ông bà cao hứng quá, chạy lại nắm tay tôi. Bà đưa ngón búp măng xoa mãi cái đầu thầy tu cạo trọc của tôi. Bà mừng rỡ như cầm một viên ngọc kim cương ở trong mấy ngón tay bà vậy. Bà tưng bừng hàn huyên không ngớt! Mà mất dạng bao nhiêu ngày? Tôi gặp những ai ai trên bước đường xuôi ngược? Tại sao trông tôi bần thần ra như thế? Tại sao càng ngày trông tôi càng gầy ốm? Nhà sư có thầm yêu trộm dấu một cô sơn nữ ở sườn non nào chăng? Cô sơn nữ ấy tên gì? Tên tuổi của nàng có hằng ngày rập rình về “tập kích” (!) thầy ở ngay giữa hào lũy trong cõi thanh tu? Thầy đọc kinh ngâm kệ, hay là thầy lẩm nhẩm tên tuổi của ai? Nếu sơn nữ không kết duyên với thầy, thì thầy tính sao? Co thể nào tìm kiếm một giai nhân thôn nữ ở thôn làng ra thay thế cho thầy được chăng? Bà mục sư đâu có rõ ngọn ngành? Bà cao hứng quá hỏi dồn dập âm thanh liên miên trào ra không ngớt. Đang giữa cơn bần thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe. Ngày nay tôi còn ghi tạc kỷ niệm lưa thưa cái mùi hương dị dị ấy. Tiểu thư ngồi bên dương cầm, hai bàn tay búp măng thoăn thoắt, đầu tóc hồng vàng tụ, nghiêng nghiêng ngả ngả. Tôi bỗng biến làm thi nhân mà nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình: “ Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy? Nước xuôi dòng là cổ độ đăm đăm. Tuổi mười tám bây giờ lên gấy gảy. Mộng miên man vân mấn phủ dương cầm …” Vợ chồng ông mục sư mừng rỡ bước vào giữa lúc tôi miên man ra như thế. Ông bà cao hứng quá, chạy lại nắm tay tôi. Bà đưa ngón búp măng xoa mãi cái đầu thầy tu cạo trọc của tôi. Bà mừng rỡ như cầm một viên ngọc kim cương ở trong mấy ngón tay bà vậy. Bà tưng bừng hàn huyên không ngớt! Mà mất dạng bao nhiêu ngày? Tôi gặp những ai ai trên bước đường xuôi ngược? Tại sao trông tôi bần thần ra như thế? Tại sao càng ngày trông tôi càng gầy ốm? Nhà sư có thầm yêu trộm dấu một cô sơn nữ ở sườn non nào chăng? Cô sơn nữ ấy tên gì? Tên tuổi của nàng có hằng ngày rập rình về “tập kích” (!) thầy ở ngay giữa hào lũy trong cõi thanh tu? Thầy đọc kinh ngâm kệ, hay là thầy lẩm nhẩm tên tuổi của ai? Nếu sơn nữ không kết duyên với thầy, thì thầy tính sao? Co thể nào tìm kiếm một giai nhân thôn nữ ở thôn làng ra thay thế cho thầy được chăng? Bà mục sư đâu có rõ ngọn ngành? Bà cao hứng quá hỏi dồn dập âm thanh liên miên trào ra không ngớt. Đang giữa cơn bần thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng.
Đang giữa cơn bần thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng. Bà hỏi: - Thầy cười sự chi? Tôi đáp: - Tiểu sinh cười, vì thấy phu nhân vui vẻ quá. Mặc dầu… Bà hỏi dồn: - Mặc dầu làm sao ? Tôi đáp: - Mặc dầu quả thật hiện giờ lòng tiểu sinh tan nát. Bà hỏi dồn dập: - Tại sao tan nát? Tôi đáp: - Nhưng không hề gì! Bây giờ sắp chấm dứt cơn tan nát rồi. Bà hỏi: - Tại sao sắp chấm dứt? Tôi đáp: - Tại vì cơn tan nát đang chậm rãi tiêu tan từ từ. Cô tiểu thư nãy giờ dừng tay nhạc, ngồi im không nói, lúc đó cô mới xen vào: - Có phải vì em đanh dương cầm rất hay, nên hàn gắn được phần nào cho anh? Tôi đáp: - Cũng có thể là ra như thế? Cô hỏi: - Thế thì tại sao mối sầu làm cho lòng anh tan nát, nó không chịu lành hẳn, mà chỉ “chậm rãi tiêu tán từ từ”- theo lời anh nói? Tôi đáp: - Chuyện gì trong nhân gian đều phải chậm rãi từ từ mới được. Tụng kinh cũng phải từ từ. Mò cua bắt ốc cũng phải từ từ. Tiếc thương cũng phải từ từ. Lành vết thương cũng phải từ từ. Tôi nói tới đó, cả ba người cùng cười ầm lên một trận. Bà mục sư vội bảo cô gái đem bánh và trà ra cho tôi dùng tạm. Trong lúc nhấm trà, tôi đem sự tình ra kể hết ngành ngọn: chuyện thân mẫu, chuyện Tuyết Mai, chuyện Triều Nhi và bà vú nuôi. Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản… Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật sự, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đang giữa cơn bần thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng. Bà hỏi: - Thầy cười sự chi? Tôi đáp: - Tiểu sinh cười, vì thấy phu nhân vui vẻ quá. Mặc dầu… Bà hỏi dồn: - Mặc dầu làm sao ? Tôi đáp: - Mặc dầu quả thật hiện giờ lòng tiểu sinh tan nát. Bà hỏi dồn dập: - Tại sao tan nát? Tôi đáp: - Nhưng không hề gì! Bây giờ sắp chấm dứt cơn tan nát rồi. Bà hỏi: - Tại sao sắp chấm dứt? Tôi đáp: - Tại vì cơn tan nát đang chậm rãi tiêu tan từ từ. Cô tiểu thư nãy giờ dừng tay nhạc, ngồi im không nói, lúc đó cô mới xen vào: - Có phải vì em đanh dương cầm rất hay, nên hàn gắn được phần nào cho anh? Tôi đáp: - Cũng có thể là ra như thế? Cô hỏi: - Thế thì tại sao mối sầu làm cho lòng anh tan nát, nó không chịu lành hẳn, mà chỉ “chậm rãi tiêu tán từ từ”- theo lời anh nói? Tôi đáp: - Chuyện gì trong nhân gian đều phải chậm rãi từ từ mới được. Tụng kinh cũng phải từ từ. Mò cua bắt ốc cũng phải từ từ. Tiếc thương cũng phải từ từ. Lành vết thương cũng phải từ từ. Tôi nói tới đó, cả ba người cùng cười ầm lên một trận. Bà mục sư vội bảo cô gái đem bánh và trà ra cho tôi dùng tạm. Trong lúc nhấm trà, tôi đem sự tình ra kể hết ngành ngọn: chuyện thân mẫu, chuyện Tuyết Mai, chuyện Triều Nhi và bà vú nuôi. Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản… Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật sự, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng.
Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản… Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật sự, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng. Tôi ngậm ngùi tin yêu bày tỏ hết nỗi niềm với người tuy không họ hàng thân thích đồng quận, đồng hương nhưng họ có tâm hồn cảm thông rất mực. CHƯƠNG BẢY Bốn ngày sau, vợ chồng ông mục sư, sắm sửa cho tôi bốn bộ âu phục và lo liệu mọi sự thuận lợi cho cuộc đáp tàu xong, bắt tay tôi, bảo: - Tàu nhổ neo vào giữa lúc ngọ, cậu hãy lên đường xuôi buồm theo gió. Thượng đế chúng tôi sẽ phò trì cho cậu phúc tuệ đủ đầy. Cậu đi chuyến này, nhớ thỉnh thoảng viết thư nhắn tin về cho chúng tôi biết. Ông bà mục sư nói xong thì cô gái tóc nâu lòa xòa xiêm áo xanh lam, cũng đề huề bước tới. Trông nường có vẻ ưu sầu. Tới bên tối nường đưa tay ra bắt tay tôi một cách thân thiết vô cùng. Mấy ngón tay của nường thật là mịn màng ấm áp. Nường cầm một bó tỷ la lan hoa và hàm tu thảo. Hỡi ôi hoa thảo gì như thế! Thêm một bộ sách Anh văn thân tặng. Tôi cảm tạ đón nhận tặng vật của nường. Như đón nhận một kho tàng man mác của thiên tiên thơ ngây xuống trần gian thăm viếng giấc chiêm bao thi sĩ. Nường đìu hiu không nói lời nào cả, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi nghe rõ ràng âm thanh nường văng vẳng trong không gian. Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… - “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản… Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật sự, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng. Tôi ngậm ngùi tin yêu bày tỏ hết nỗi niềm với người tuy không họ hàng thân thích đồng quận, đồng hương nhưng họ có tâm hồn cảm thông rất mực. CHƯƠNG BẢY Bốn ngày sau, vợ chồng ông mục sư, sắm sửa cho tôi bốn bộ âu phục và lo liệu mọi sự thuận lợi cho cuộc đáp tàu xong, bắt tay tôi, bảo: - Tàu nhổ neo vào giữa lúc ngọ, cậu hãy lên đường xuôi buồm theo gió. Thượng đế chúng tôi sẽ phò trì cho cậu phúc tuệ đủ đầy. Cậu đi chuyến này, nhớ thỉnh thoảng viết thư nhắn tin về cho chúng tôi biết. Ông bà mục sư nói xong thì cô gái tóc nâu lòa xòa xiêm áo xanh lam, cũng đề huề bước tới. Trông nường có vẻ ưu sầu. Tới bên tối nường đưa tay ra bắt tay tôi một cách thân thiết vô cùng. Mấy ngón tay của nường thật là mịn màng ấm áp. Nường cầm một bó tỷ la lan hoa và hàm tu thảo. Hỡi ôi hoa thảo gì như thế! Thêm một bộ sách Anh văn thân tặng. Tôi cảm tạ đón nhận tặng vật của nường. Như đón nhận một kho tàng man mác của thiên tiên thơ ngây xuống trần gian thăm viếng giấc chiêm bao thi sĩ. Nường đìu hiu không nói lời nào cả, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi nghe rõ ràng âm thanh nường văng vẳng trong không gian. Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… - “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ.
Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… - “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ. Suốt một đời chàng sẽ đứng riêng tây…” Trời vẫn xanh, sóng biếc giỡn triều ngày…Tiền trình vạn lý nghiêng mày tạ nhau - (“Dư bái tạ thụ chi. Nga nhi, hải thiên tại nhãn, dư Đông hành hỹ…”). Tôi lên tàu ngồi nhìn chân trời mây sóng trùng trùng điệp điệp. Phía trước, một hình bóng… mơ hồ… Phía sau, một hình ảnh đìu hiu nụ cười chất chứa u sầu. Tôi không biết gì nữa cả. Thuyền rẽ sóng, năm ngày năm đêm như một cơn mơ dàn rộng. Buồn sông sóng biển chìm sâu bên dòng… Thuyền đã lênh đênh buồm gió vượt Thái Bình Dương. Mặt trời hào quang chiếu diệu. Tôi bồi hồi luẩn quẩn trên boong tàu, quẩn quanh lui tới phòng thủy thủ. Mang mang thiên hải… Diêu diêu dư hoài… Cầm mấy cuốn sách của tiểu thư đưa tặng, mở ra. Trong đầy đủ toàn tập thi phẩm Shakespeare, Bryron và Surrey. Tôi nhận thấy Byron không khác gì Lý Bạch Trung thổ chúng tôi. Shakespeare là một nòi với Đỗ Phủ. Surrey thì cũng như Lý Hạ. Byron là thiên tài, Shakespeare là thiên tài, thánh thần tài. Surrey là quỷ vương ma chúa tài. Tôi khởi sự đọc thơ Byron. Ngâm những vần du hành của Childe Harold. Tới đoạn cuối, có sáu chương vịnh trùng khơi đại hải. Tôi than dài một tiếng: - Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!) Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau:
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Suốt cuộc hành trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch… - “Người một thuở, mà chàng sầu vạn kỷ. Suốt một đời chàng sẽ đứng riêng tây…” Trời vẫn xanh, sóng biếc giỡn triều ngày…Tiền trình vạn lý nghiêng mày tạ nhau - (“Dư bái tạ thụ chi. Nga nhi, hải thiên tại nhãn, dư Đông hành hỹ…”). Tôi lên tàu ngồi nhìn chân trời mây sóng trùng trùng điệp điệp. Phía trước, một hình bóng… mơ hồ… Phía sau, một hình ảnh đìu hiu nụ cười chất chứa u sầu. Tôi không biết gì nữa cả. Thuyền rẽ sóng, năm ngày năm đêm như một cơn mơ dàn rộng. Buồn sông sóng biển chìm sâu bên dòng… Thuyền đã lênh đênh buồm gió vượt Thái Bình Dương. Mặt trời hào quang chiếu diệu. Tôi bồi hồi luẩn quẩn trên boong tàu, quẩn quanh lui tới phòng thủy thủ. Mang mang thiên hải… Diêu diêu dư hoài… Cầm mấy cuốn sách của tiểu thư đưa tặng, mở ra. Trong đầy đủ toàn tập thi phẩm Shakespeare, Bryron và Surrey. Tôi nhận thấy Byron không khác gì Lý Bạch Trung thổ chúng tôi. Shakespeare là một nòi với Đỗ Phủ. Surrey thì cũng như Lý Hạ. Byron là thiên tài, Shakespeare là thiên tài, thánh thần tài. Surrey là quỷ vương ma chúa tài. Tôi khởi sự đọc thơ Byron. Ngâm những vần du hành của Childe Harold. Tới đoạn cuối, có sáu chương vịnh trùng khơi đại hải. Tôi than dài một tiếng: - Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!) Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau:
- Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!) Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau: Hoàng đào lan hãn Linh hải ửu minh Vạn sưu cổ tập Phiếm nhược khinh bình Mang mang cửu vi, Mỗi hữu di hư Khoáng tai thiên chiểu Phỉ nhân du cư… (…... …) (Mạn Thù đại sư dịch theo ý thơ, hồn thơ Byron, chứ không dịch sát lời bài thơ nọ: “There is a pleasure in the pathless woods, There is a rapture on the lonely shore; There is a society where none intrudes, By the deep sea, and music in its roar. I love not man the less, but Nature more…” Đại khái ta có thể lược dịch tổng hợp ra thơ Việt như sau: Ba đào bành bái tuôn sôi Thẫm đen linh hải chèo bơi vạn thuyền Thuyền con, chiếc lá giữa miền Dấu bèo phiêu dạt diện tiền lưu ly Mang mang thiên địa cửu vy Ngàn tầm hải vực vô kỳ thái hư Mênh mông âm điệu gầm gừ Hồn thiêng đại khí ngôn từ lãng ba Thiên thu chấn đãng chan hòa Ngọn triều non bạc như hà thế nhân Thần công uy vũ vạn phần Bão dông nguyên thủy phân trần càn khôn Doanh hoàn vũ trụ trao hôn Hai vành tịch nạp liên tồn lưỡng nghi Như nhiên chân khí lầm lỳ Hỡi ôi đại hải ù lỳ cứ tuôn Vạn ngàn hải lý uông uông Vào trong bất tuyệt bắt buông ra ngoài Con người khổ lụy trần ai Rụng rơi vết tích phôi phai điêu tàn Con người bài bố đa đoan Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng Thiên thu bão tố luống từng Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao? Giọt mưa rào Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu Ty hào còn lại chi đâu
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
- Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!) Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau: Hoàng đào lan hãn Linh hải ửu minh Vạn sưu cổ tập Phiếm nhược khinh bình Mang mang cửu vi, Mỗi hữu di hư Khoáng tai thiên chiểu Phỉ nhân du cư… (…... …) (Mạn Thù đại sư dịch theo ý thơ, hồn thơ Byron, chứ không dịch sát lời bài thơ nọ: “There is a pleasure in the pathless woods, There is a rapture on the lonely shore; There is a society where none intrudes, By the deep sea, and music in its roar. I love not man the less, but Nature more…” Đại khái ta có thể lược dịch tổng hợp ra thơ Việt như sau: Ba đào bành bái tuôn sôi Thẫm đen linh hải chèo bơi vạn thuyền Thuyền con, chiếc lá giữa miền Dấu bèo phiêu dạt diện tiền lưu ly Mang mang thiên địa cửu vy Ngàn tầm hải vực vô kỳ thái hư Mênh mông âm điệu gầm gừ Hồn thiêng đại khí ngôn từ lãng ba Thiên thu chấn đãng chan hòa Ngọn triều non bạc như hà thế nhân Thần công uy vũ vạn phần Bão dông nguyên thủy phân trần càn khôn Doanh hoàn vũ trụ trao hôn Hai vành tịch nạp liên tồn lưỡng nghi Như nhiên chân khí lầm lỳ Hỡi ôi đại hải ù lỳ cứ tuôn Vạn ngàn hải lý uông uông Vào trong bất tuyệt bắt buông ra ngoài Con người khổ lụy trần ai Rụng rơi vết tích phôi phai điêu tàn Con người bài bố đa đoan Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng Thiên thu bão tố luống từng Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao? Giọt mưa rào Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu Ty hào còn lại chi đâu
Con người bài bố đa đoan Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng Thiên thu bão tố luống từng Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao? Giọt mưa rào Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu Ty hào còn lại chi đâu Chỉ duy đại hải nguyên màu còn ngân Thành trì hào lũy binh đoàn Ùn ùn sấm sét tan hoang cung thành Ngất trời dao động tam bành Té ra rốt cuộc phù danh thôi mà Hùng quang hải thượng âm ba Còn dư cung bậc chan hòa liên thiên Một đời tử diệt cuồng điên Tuyết băng bèo bọt bốn miền nhà ma Hùng tâm từ Armada Tới bờ tráng khí Trafalga nào Chỉ duy biền biệt ty hào Còn chăng riêng chỉ ba đào lãng tinh Carthage? La Mã biên đình Assyria Greece còn tình tự chi? Sóng biên thùy Đã trào xuôi ngược vô kỳ thủy chung Hỡi ôi vương chúa kiêu hùng Hỡi ôi nô lệ cơn vùng dậy cơn Hỡi ôi khổ lụy vong hồn Thanh tân man dại lá cồn rụng hoa Hồn sa mạc thạch lựu là Cái chi như thế cái là cái chi? Chỉ riêng ba lãng nguyên kỳ Thiên thu bất diệt diên trì cuộc chơi Từ sơ thủy lóng lánh ngời Tới bây giờ vẫn rạng ngời long lanh Xô ùa lớp lớp vòng quanh Trùng khơi lộn ngược tiếp nhanh điệp trùng Gương kim cổ? Vạn năng bao quát xuân hồng Thu xanh đông biếc phiêu bồng hạ dương Thời gian vĩnh thể miên trường Gào kêu? hay mường tượng ngân Thao thao bất xá xa gần Hách nhiên thần quỷ hay thần thánh ma Từ bắc cực tới hoàng sa Từ nam cực tới vùng sa mạc nào Từ băng giá giữa chiêm bao Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên Thần linh thị giám diện tiền Hay là duệ hậu hách nhiên như là Phò dao dương giác hải hà
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Con người bài bố đa đoan Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng Thiên thu bão tố luống từng Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao? Giọt mưa rào Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu Ty hào còn lại chi đâu Chỉ duy đại hải nguyên màu còn ngân Thành trì hào lũy binh đoàn Ùn ùn sấm sét tan hoang cung thành Ngất trời dao động tam bành Té ra rốt cuộc phù danh thôi mà Hùng quang hải thượng âm ba Còn dư cung bậc chan hòa liên thiên Một đời tử diệt cuồng điên Tuyết băng bèo bọt bốn miền nhà ma Hùng tâm từ Armada Tới bờ tráng khí Trafalga nào Chỉ duy biền biệt ty hào Còn chăng riêng chỉ ba đào lãng tinh Carthage? La Mã biên đình Assyria Greece còn tình tự chi? Sóng biên thùy Đã trào xuôi ngược vô kỳ thủy chung Hỡi ôi vương chúa kiêu hùng Hỡi ôi nô lệ cơn vùng dậy cơn Hỡi ôi khổ lụy vong hồn Thanh tân man dại lá cồn rụng hoa Hồn sa mạc thạch lựu là Cái chi như thế cái là cái chi? Chỉ riêng ba lãng nguyên kỳ Thiên thu bất diệt diên trì cuộc chơi Từ sơ thủy lóng lánh ngời Tới bây giờ vẫn rạng ngời long lanh Xô ùa lớp lớp vòng quanh Trùng khơi lộn ngược tiếp nhanh điệp trùng Gương kim cổ? Vạn năng bao quát xuân hồng Thu xanh đông biếc phiêu bồng hạ dương Thời gian vĩnh thể miên trường Gào kêu? hay mường tượng ngân Thao thao bất xá xa gần Hách nhiên thần quỷ hay thần thánh ma Từ bắc cực tới hoàng sa Từ nam cực tới vùng sa mạc nào Từ băng giá giữa chiêm bao Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên Thần linh thị giám diện tiền Hay là duệ hậu hách nhiên như là Phò dao dương giác hải hà
Từ nam cực tới vùng sa mạc nào Từ băng giá giữa chiêm bao Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên Thần linh thị giám diện tiền Hay là duệ hậu hách nhiên như là Phò dao dương giác hải hà Ngưng băng dâm lệ dê hòa hài hươu Kể chi mang diễu bài trừu Kể chi thùy mỵ ty hào tồn liên Chỉ duy còn mãi là riêng Mộng hồn đại hải là viên dung hình Hình khiếm diện? vẫn là hình Từ trong cô thể mà hình tượng ra Kình ngư vạn lý hay là Thâm sâu vô để hồn ma quái nào Từng khu vực mỗi âm hao Lừng vang há giống hoàng mao thi thành Ta yêu bao xiết tam bành Hỡi ôi đại hải bao ngành nhớ nhung Tang thương từ kể một vùng Tằng kinh thương hải điệp trùng mà ra Ân tình bao xiết nhà ma Trút về cửa quỷ chan hòa đại dương Lãng hoa phách ngạn khôn lường Khương an khương thịnh mù sương khuynh thành Vong hồn nam diện một cành Còn lưa hơi thở cho mình yêu nhau Chuyện ngày trước chuyện ngày sau Gần xa bành gái một màu sơ nguyên Bàn tay khép mở dịu hiền Hỡi ôi thương hải diện tiền đón ta Dịch xong bài thơ Byron, tôi ngâm vang lên một trận. Lúc bấy giờ màu trắng mới ở trên trời hắt hiu rỡn rỡn. Đúng như là màu xanh trăng mới im ngầm. Phấn thừa hương cũ bội phần chia xa. Gió dàn nhị nguyệt nhà ma. Giữa hoang vu biển lập lòa bốc tia. Ngọn đèn ngư phủ xa kia. Có nghe thơ vọng tới chia niềm gì. Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xãy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ. CHƯƠNG TÁM
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Từ nam cực tới vùng sa mạc nào Từ băng giá giữa chiêm bao Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên Thần linh thị giám diện tiền Hay là duệ hậu hách nhiên như là Phò dao dương giác hải hà Ngưng băng dâm lệ dê hòa hài hươu Kể chi mang diễu bài trừu Kể chi thùy mỵ ty hào tồn liên Chỉ duy còn mãi là riêng Mộng hồn đại hải là viên dung hình Hình khiếm diện? vẫn là hình Từ trong cô thể mà hình tượng ra Kình ngư vạn lý hay là Thâm sâu vô để hồn ma quái nào Từng khu vực mỗi âm hao Lừng vang há giống hoàng mao thi thành Ta yêu bao xiết tam bành Hỡi ôi đại hải bao ngành nhớ nhung Tang thương từ kể một vùng Tằng kinh thương hải điệp trùng mà ra Ân tình bao xiết nhà ma Trút về cửa quỷ chan hòa đại dương Lãng hoa phách ngạn khôn lường Khương an khương thịnh mù sương khuynh thành Vong hồn nam diện một cành Còn lưa hơi thở cho mình yêu nhau Chuyện ngày trước chuyện ngày sau Gần xa bành gái một màu sơ nguyên Bàn tay khép mở dịu hiền Hỡi ôi thương hải diện tiền đón ta Dịch xong bài thơ Byron, tôi ngâm vang lên một trận. Lúc bấy giờ màu trắng mới ở trên trời hắt hiu rỡn rỡn. Đúng như là màu xanh trăng mới im ngầm. Phấn thừa hương cũ bội phần chia xa. Gió dàn nhị nguyệt nhà ma. Giữa hoang vu biển lập lòa bốc tia. Ngọn đèn ngư phủ xa kia. Có nghe thơ vọng tới chia niềm gì. Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xãy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ. CHƯƠNG TÁM
Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xãy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ. CHƯƠNG TÁM Vừa trút hành trang xuống, tôi rút tờ ghi địa chỉ mẹ tôi do vú nuôi trao. Hỏi chủ nhân khách sạn chỉ dẫn giúp. Chủ nhân bảo: - Địa chỉ này rất gần đây. Vùng đó thật là yên tĩnh. Đi tàu hỏa chỉ cách năm trạm nghỉ thôi. Công tử hãy thư thả ngồi dùng trà một lát, tôi lo liệu mua giúp vé tàu cho. Tôi vốn quen người biết mặt rất nhiều, ít thấy ai siêu dật như công tử. Công tử viếng chốn ấy là phải. Dường như công tử nóng lòng đi ngay? Có công việc cần kíp hay sao? Tôi đáp: - Thăm viếng mẫu thân tôi. Ăn trưa xong, chủ nhân khách sạn tiễn chân tôi tới nhà ga. Tôi cảm kích lòng niềm nở ấy vô cùng. Qua hai trạm tới một nhà ga, danh là : “Đại thuyền”. Người xếp trên tàu bảo tôi: - Cậu xuống đây, sang tàu. Đi một trạm nữa, đến trạm thứ nhì là tới chốn vậy. Tôi đổi tàu, vào va gông ngồi xao xuyến ù lỳ. Lòng tôi lúc bấy giờ thật là khó tả. Tôi tự nhủ: “Chỉ một lát nữa thôi, thì cùng mẹ trùng phùng. Thật là… Thật là gây cấn. Đây có phải là niềm vui lớn nhất trong bình sinh của ta chăng?”. Chợt lại chuyển niệm: “Từ nhỏ ta chẳng hay tin gì cả. Mà thế sự biến đổi liên miên, biết đâu thân mẫu chẳng dời nhà nơi chốn khác? Nếu hôm nay không gặp được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?”. Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn cửa, thấy bảng đề ba chữ: “Đậu Tử Trạm”.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xãy ra trên đất nước Nhật Bản quê mẹ. CHƯƠNG TÁM Vừa trút hành trang xuống, tôi rút tờ ghi địa chỉ mẹ tôi do vú nuôi trao. Hỏi chủ nhân khách sạn chỉ dẫn giúp. Chủ nhân bảo: - Địa chỉ này rất gần đây. Vùng đó thật là yên tĩnh. Đi tàu hỏa chỉ cách năm trạm nghỉ thôi. Công tử hãy thư thả ngồi dùng trà một lát, tôi lo liệu mua giúp vé tàu cho. Tôi vốn quen người biết mặt rất nhiều, ít thấy ai siêu dật như công tử. Công tử viếng chốn ấy là phải. Dường như công tử nóng lòng đi ngay? Có công việc cần kíp hay sao? Tôi đáp: - Thăm viếng mẫu thân tôi. Ăn trưa xong, chủ nhân khách sạn tiễn chân tôi tới nhà ga. Tôi cảm kích lòng niềm nở ấy vô cùng. Qua hai trạm tới một nhà ga, danh là : “Đại thuyền”. Người xếp trên tàu bảo tôi: - Cậu xuống đây, sang tàu. Đi một trạm nữa, đến trạm thứ nhì là tới chốn vậy. Tôi đổi tàu, vào va gông ngồi xao xuyến ù lỳ. Lòng tôi lúc bấy giờ thật là khó tả. Tôi tự nhủ: “Chỉ một lát nữa thôi, thì cùng mẹ trùng phùng. Thật là… Thật là gây cấn. Đây có phải là niềm vui lớn nhất trong bình sinh của ta chăng?”. Chợt lại chuyển niệm: “Từ nhỏ ta chẳng hay tin gì cả. Mà thế sự biến đổi liên miên, biết đâu thân mẫu chẳng dời nhà nơi chốn khác? Nếu hôm nay không gặp được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?”. Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn cửa, thấy bảng đề ba chữ: “Đậu Tử Trạm”.
Nếu hôm nay không gặp được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?”. Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn cửa, thấy bảng đề ba chữ: “Đậu Tử Trạm”. Tôi xuống tàu, ra khỏi sân ga, nhìn bốn bể chẳng thấy người đi đường. Vùng này quả thật là vắng vẻ. Tôi mướn một chiếc xe tay (gần giống như xích lô đạp). Người kéo xe bôn bôn ba ba nhắm hướng đồng ruộng chạy nhanh. Lúc bấy giờ thời tiết thật lạnh lẽo. Nhìn ra xa chỉ thấy lớp lớp băng giá tích tụ hoang liêu mấy dặm dài. Tới chân một ngọn núi, xe rẽ về phía tả, rồi lăn dọc theo bờ biển. Chỉ thấy mấy khóm nhà chài. Một lũ bé con đi đi lại lại tìm chỗ thả cần câu. Cảnh vật thật là u liêu hết sức. Người kéo xe chợt dừng chân bảo: - Đây chính là vùng Anh Sơn. Công tử muốn đi về phía nào? Tôi đáp: - Anh Sơn chính là vùng này ư? Bèn xuống xe, mang va ly hành trang bước bộ. Đi khá lâu, tới một chốn nọ, tùng xanh, cát trắng. Mới dừng chân ngóng vọng một lúc, chợt thấy ở xa xa, giữa khoảng tùng bách xanh um, có một con đường, một nhịp cầu nho nhỏ dẫn tới một ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà ẩn ẩn tựa lưng vào sườn núi hậu diện, mở ra phía biển ở tiền diện. Phía bên dưới nhịp cầu nho nhỏ kia, có một dòng tiểu khê nao nao chảy róc rách chạm vào đá vang lên một âm thanh vui vui rầu rầu rĩ rĩ. Tôi vội vã tiến về phía đó. Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm bảng đề: “Tương Châu Đậu Tử Anh Sơn thôn - số 8” Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi. Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nếu hôm nay không gặp được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?”. Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn cửa, thấy bảng đề ba chữ: “Đậu Tử Trạm”. Tôi xuống tàu, ra khỏi sân ga, nhìn bốn bể chẳng thấy người đi đường. Vùng này quả thật là vắng vẻ. Tôi mướn một chiếc xe tay (gần giống như xích lô đạp). Người kéo xe bôn bôn ba ba nhắm hướng đồng ruộng chạy nhanh. Lúc bấy giờ thời tiết thật lạnh lẽo. Nhìn ra xa chỉ thấy lớp lớp băng giá tích tụ hoang liêu mấy dặm dài. Tới chân một ngọn núi, xe rẽ về phía tả, rồi lăn dọc theo bờ biển. Chỉ thấy mấy khóm nhà chài. Một lũ bé con đi đi lại lại tìm chỗ thả cần câu. Cảnh vật thật là u liêu hết sức. Người kéo xe chợt dừng chân bảo: - Đây chính là vùng Anh Sơn. Công tử muốn đi về phía nào? Tôi đáp: - Anh Sơn chính là vùng này ư? Bèn xuống xe, mang va ly hành trang bước bộ. Đi khá lâu, tới một chốn nọ, tùng xanh, cát trắng. Mới dừng chân ngóng vọng một lúc, chợt thấy ở xa xa, giữa khoảng tùng bách xanh um, có một con đường, một nhịp cầu nho nhỏ dẫn tới một ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà ẩn ẩn tựa lưng vào sườn núi hậu diện, mở ra phía biển ở tiền diện. Phía bên dưới nhịp cầu nho nhỏ kia, có một dòng tiểu khê nao nao chảy róc rách chạm vào đá vang lên một âm thanh vui vui rầu rầu rĩ rĩ. Tôi vội vã tiến về phía đó. Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm bảng đề: “Tương Châu Đậu Tử Anh Sơn thôn - số 8” Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi. Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ.
Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm bảng đề: “Tương Châu Đậu Tử Anh Sơn thôn - số 8” Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi. Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ. Một lúc lâu, vẫn chẳng nghe động tĩnh gì hết, dường như nhà vắng không người. Tôi bèn gõ cửa lần nữa. Một người đàn bà mở cửa bước ra. Nhìn người ấy, với tấm vải trắng buộc ở phía trước hình hài, thì tôi đoán ra đó là chị bếp. Tôi liền hỏi: - Xin thứ lỗi đường đột! Đây có phải là nhà của Hà Hợp phu nhân chăng? Người đàn bà đáp: - Phải. Tôi hỏi: - Tôi muốn gặp phu nhân. Phiền thím thông báo giùm cho. Người đàn bà tỏ vẻ trù trừ mà rằng: - Chủ nhân tôi bệnh nặng vừa mới khỏi. Thầy thuốc dặn rằng bà không nên tiếp khách. Khách đến đây có việc gì, xin cho biết để tôi thay mặt báo cho bà chủ rõ cũng được. Tôi nói: - Chủ nhân đây là mẹ của tôi. Tôi từ bên Trung Hoa sang đây hôm nay mới tới Yokohama lần đầu. Nhờ thím thông báo gấp cho. Người đàn bà nghe tôi nói như thế thì giương đôi mắt nhìn tôi đăm đăm từ đầu tới chân. Suy gẫm âm thầm một chặp bàng hoàng hãi nhiên mà rằng: - Ồ! Công tử là Tam Lang thật sao? Tôi thường nghe chủ tôi nhắc tên thiếu chủ hằng ngày, và lo âu mãi chẳng biết thiếu chủ còn sống hay đã mất rồi. Nói xong, liền quay vào trong nhà. Một chặp sau trở ra, trang trọng mời tôi vào. Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng: - Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm bảng đề: “Tương Châu Đậu Tử Anh Sơn thôn - số 8” Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi. Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ. Một lúc lâu, vẫn chẳng nghe động tĩnh gì hết, dường như nhà vắng không người. Tôi bèn gõ cửa lần nữa. Một người đàn bà mở cửa bước ra. Nhìn người ấy, với tấm vải trắng buộc ở phía trước hình hài, thì tôi đoán ra đó là chị bếp. Tôi liền hỏi: - Xin thứ lỗi đường đột! Đây có phải là nhà của Hà Hợp phu nhân chăng? Người đàn bà đáp: - Phải. Tôi hỏi: - Tôi muốn gặp phu nhân. Phiền thím thông báo giùm cho. Người đàn bà tỏ vẻ trù trừ mà rằng: - Chủ nhân tôi bệnh nặng vừa mới khỏi. Thầy thuốc dặn rằng bà không nên tiếp khách. Khách đến đây có việc gì, xin cho biết để tôi thay mặt báo cho bà chủ rõ cũng được. Tôi nói: - Chủ nhân đây là mẹ của tôi. Tôi từ bên Trung Hoa sang đây hôm nay mới tới Yokohama lần đầu. Nhờ thím thông báo gấp cho. Người đàn bà nghe tôi nói như thế thì giương đôi mắt nhìn tôi đăm đăm từ đầu tới chân. Suy gẫm âm thầm một chặp bàng hoàng hãi nhiên mà rằng: - Ồ! Công tử là Tam Lang thật sao? Tôi thường nghe chủ tôi nhắc tên thiếu chủ hằng ngày, và lo âu mãi chẳng biết thiếu chủ còn sống hay đã mất rồi. Nói xong, liền quay vào trong nhà. Một chặp sau trở ra, trang trọng mời tôi vào. Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng: - Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ.
Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng: - Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ. Cô bé nói xong thì dắt tôi lên cầu thang. Tấm bình phong vừa xô qua một phía, thì thấy mẹ tôi đang ngồi trên giường, tựa vai vào bệ cửa sổ. Tóc buông lòa xòa bối rối. Bà nhìn tôi mỉm cười nhè nhẹ. Tôi trong lòng biết rằng nụ cười của từ mẫu như thế, thật còn xót xa gấp mấy lần gào khóc. Tôi chạy tới quỳ xuống bên chân mẹ, miệng không thốt ra được lời nào cả. Nước mắt thì trào ra như suối chảy. Lúc bấy giờ, chợt nghe từ mẫu ngậm ngùi nói: - Con tôi còn sống bình an. Đa tạ Trời Phật phù hộ. Con hãy lau nước mắt nhìn mẹ đây. Mẹ đau lần này suýt lìa trần mấy phen. Tuổi già, sinh mệnh như ngọn đèn trước gió. Thì bệnh mẹ như dường không cánh mà bay, thân thể nghe khỏe khoắn rồi. Mẹ tôi cầm nước mắt lại. Từ từ bà quay nhìn cô bé, bảo rằng: - Đây là anh hai của con. Từ nhỏ anh sống xứ người, nên con chưa gặp mặt lần nào. Quay mặt lại nhìn tôi, mẹ nói tiếp: - Đó là đứa con gái nuôi của mẹ (dưỡng nữ). Năm nay nó mười một tuổi. Nó là em của con vậy, nó săn sóc mẹ rất chu đáo, mẹ thương nó hết sức. Còn con chị của con ngày mai hay tin con đã về, thì nó sẽ tới gặp mặt. Chị của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng: - Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ. Cô bé nói xong thì dắt tôi lên cầu thang. Tấm bình phong vừa xô qua một phía, thì thấy mẹ tôi đang ngồi trên giường, tựa vai vào bệ cửa sổ. Tóc buông lòa xòa bối rối. Bà nhìn tôi mỉm cười nhè nhẹ. Tôi trong lòng biết rằng nụ cười của từ mẫu như thế, thật còn xót xa gấp mấy lần gào khóc. Tôi chạy tới quỳ xuống bên chân mẹ, miệng không thốt ra được lời nào cả. Nước mắt thì trào ra như suối chảy. Lúc bấy giờ, chợt nghe từ mẫu ngậm ngùi nói: - Con tôi còn sống bình an. Đa tạ Trời Phật phù hộ. Con hãy lau nước mắt nhìn mẹ đây. Mẹ đau lần này suýt lìa trần mấy phen. Tuổi già, sinh mệnh như ngọn đèn trước gió. Thì bệnh mẹ như dường không cánh mà bay, thân thể nghe khỏe khoắn rồi. Mẹ tôi cầm nước mắt lại. Từ từ bà quay nhìn cô bé, bảo rằng: - Đây là anh hai của con. Từ nhỏ anh sống xứ người, nên con chưa gặp mặt lần nào. Quay mặt lại nhìn tôi, mẹ nói tiếp: - Đó là đứa con gái nuôi của mẹ (dưỡng nữ). Năm nay nó mười một tuổi. Nó là em của con vậy, nó săn sóc mẹ rất chu đáo, mẹ thương nó hết sức. Còn con chị của con ngày mai hay tin con đã về, thì nó sẽ tới gặp mặt. Chị của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi.
Chị của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi. Mẹ tạ ơn Trời Phật đã rủ lòng che chở không để cho con của mẹ tan nát thịt xương ở xứ người. Mẹ tôi nói xong, tôi nhìn cô em bé đang nép thân bên mẹ, hai mắt rướm lệ. Lúc bấy giờ, cảnh huống thật là tịch mịch đìu hiu. Cảnh vật bốn bề cũng khơi rộng những yêu thương và luyến tiếc của người ta. “Chỉ có mơ màng một bãi xa. Tuyệt mù chỉ nhạt phai và. Véo von tiếng chở lưu ly mộng. Trong khoảng đêm trường ma gọi ma”. “Lòng xin bốn phía mở cho trăng Khách lạ mười phương cũng đãi đằng Nước ngọt vẫn tuôn, vườn đợi hái Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng” Dù sao chăng nữa? Vâng: “Những cặp chim hồn lạc hướng bay Tấc gang cách trở nhớ muôn ngàn Cô hồn dựng núi lên cao ngất Lời chẳng giao lời tay tạ tay” Một lát sau mẹ tôi xoa đầu chúng tôi mà rằng: - Các con đừng buồn nữa. Mai mẹ sẽ khỏi bịnh, mốt mẹ sẽ dắt con tới viếng phần mộ ông ngoại con và ba con, cầu nguyện vong linh phù hộ cho con. Bà con thân thích nhà ta cũng đông đúc lắm. Sau này mẹ sẽ dẫn hai anh em con đi thăm viếng và du ngoạn khắp miền. Mẹ đau nặng, nằm mãi trên giường bệnh đã lâu, nay nhân dịp mà du hành một cuộc, cho thư thái xương xẩu và phong vật các làng xã quê người. Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì? Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này:
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chị của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi. Mẹ tạ ơn Trời Phật đã rủ lòng che chở không để cho con của mẹ tan nát thịt xương ở xứ người. Mẹ tôi nói xong, tôi nhìn cô em bé đang nép thân bên mẹ, hai mắt rướm lệ. Lúc bấy giờ, cảnh huống thật là tịch mịch đìu hiu. Cảnh vật bốn bề cũng khơi rộng những yêu thương và luyến tiếc của người ta. “Chỉ có mơ màng một bãi xa. Tuyệt mù chỉ nhạt phai và. Véo von tiếng chở lưu ly mộng. Trong khoảng đêm trường ma gọi ma”. “Lòng xin bốn phía mở cho trăng Khách lạ mười phương cũng đãi đằng Nước ngọt vẫn tuôn, vườn đợi hái Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng” Dù sao chăng nữa? Vâng: “Những cặp chim hồn lạc hướng bay Tấc gang cách trở nhớ muôn ngàn Cô hồn dựng núi lên cao ngất Lời chẳng giao lời tay tạ tay” Một lát sau mẹ tôi xoa đầu chúng tôi mà rằng: - Các con đừng buồn nữa. Mai mẹ sẽ khỏi bịnh, mốt mẹ sẽ dắt con tới viếng phần mộ ông ngoại con và ba con, cầu nguyện vong linh phù hộ cho con. Bà con thân thích nhà ta cũng đông đúc lắm. Sau này mẹ sẽ dẫn hai anh em con đi thăm viếng và du ngoạn khắp miền. Mẹ đau nặng, nằm mãi trên giường bệnh đã lâu, nay nhân dịp mà du hành một cuộc, cho thư thái xương xẩu và phong vật các làng xã quê người. Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì? Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này:
Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì? Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này: - Huệ Nhi, con hãy dẫn anh hai con ra ngoài xem phong cảnh trước nhà, anh con mới về, phong trần bộc bộc tội nghiệp quá! Xong bà quay sang phía tôi chỉ người bếp mà rằng: - Tam Lang, con hôm nay về ở gia đình, mọi sự đều do A Trúc coi sóc. A Trúc giúp việc nhà ta hơn mười năm nay, chị thật là người trung hậu thành thực, mẹ thương mến cô ta lắm lắm. Mẹ tôi nói xong thì bước xuống thang lầu, lo cơm nước buổi tối cho thằng con có dịp ăn no một trận. Tôi trong lòng nghĩ rằng trong thiên hạ, lòng nhân từ của người ta không đâu bằng tình thương của mẹ đối với con cái. Vì vậy, nên những thằng con đứa cái luôn luôn suốt kiếp phải phiêu bồng mới làm thơ lai rai được. “Người ta bảo người mẹ chàng hay khóc Chia gia tài cho con quý lệ đau Chàng là con một người mẹ hay sầu Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ Người thi sĩ cũng nguyện cầu Thượng Đế Một đôi lần Nhưng vốn nghiệp đi hoang Thì chết rồi chắc người vẫn lang thang Như buổi sống ở trong bầu trăng gió Ở địa ngục hay Thiên đường không rõ…” Tôi bước theo chân em gái. Chính vào lúc trời chiều lãng vãng bóng hoàng hôn. Mặt trời lặn xuống bên dãy núi Yentfu. Ngư phủ quay thuyền về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên nhật vậy. Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì? Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này: - Huệ Nhi, con hãy dẫn anh hai con ra ngoài xem phong cảnh trước nhà, anh con mới về, phong trần bộc bộc tội nghiệp quá! Xong bà quay sang phía tôi chỉ người bếp mà rằng: - Tam Lang, con hôm nay về ở gia đình, mọi sự đều do A Trúc coi sóc. A Trúc giúp việc nhà ta hơn mười năm nay, chị thật là người trung hậu thành thực, mẹ thương mến cô ta lắm lắm. Mẹ tôi nói xong thì bước xuống thang lầu, lo cơm nước buổi tối cho thằng con có dịp ăn no một trận. Tôi trong lòng nghĩ rằng trong thiên hạ, lòng nhân từ của người ta không đâu bằng tình thương của mẹ đối với con cái. Vì vậy, nên những thằng con đứa cái luôn luôn suốt kiếp phải phiêu bồng mới làm thơ lai rai được. “Người ta bảo người mẹ chàng hay khóc Chia gia tài cho con quý lệ đau Chàng là con một người mẹ hay sầu Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ Người thi sĩ cũng nguyện cầu Thượng Đế Một đôi lần Nhưng vốn nghiệp đi hoang Thì chết rồi chắc người vẫn lang thang Như buổi sống ở trong bầu trăng gió Ở địa ngục hay Thiên đường không rõ…” Tôi bước theo chân em gái. Chính vào lúc trời chiều lãng vãng bóng hoàng hôn. Mặt trời lặn xuống bên dãy núi Yentfu. Ngư phủ quay thuyền về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên nhật vậy. Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi.
Ngư phủ quay thuyền về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên nhật vậy. Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi. Tiếng chuông chậm rãi hòa lan vào với tiếng chim hải âu, dõi theo tiếng thủy triều mà chìm vào hư không vắng lặng. Em gái bảo: - Đó là tiếng chuông chiều tại Thần Vũ cổ tự đấy anh ạ. CHƯƠNG CHÍN Đêm đến, tôi viết hai bức thư: một bức thư gửi cho bà vú nuôi. Một bức gửi về mục sư Robert. Trong hai bức thư, tôi đều nói rằng mình bình an về tới gia đình, gặp mặt từ mẫu. Và kể rằng mẹ con tôi cảm tạ ân đức kia không bao giờ quên. Mẹ tôi gởi bà vú nuôi một trăm đồng vàng, dặn dò mẹ con bà vú nuôi hãy giữ gì thân thể cho khỏe mạnh, ngày sau tự nhiên sẽ có phen tái hội. Viết xong hai lá thư, tôi thấy máu me mỏi trong mình, bèn đánh một giấc ngủ vùi mê man. Ngày hôm sau thức giấc, mặt trời hồng chiếu dương quang qua song cửa. Tôi khoác áo đi tắm một trận. Tắm xong, lên lầu gác, nhìn thấy ngọn Phù Dung Phong (Fujiyama) chọc thẳng đỉnh chót vót phiêu phiêu trên mặt sóng vàng kim hải. Phổi tim tôi bỗng chan hòa một trận. Nghe chừng như gột rửa sạch sẽ hết mọi trăm não ngàn phiền dơ bẩn mốc meo ở trong thớ máu và ở trong các khớp xương sườn (kể cả xương bánh chè cũng vậy). Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. Tôi về nhà đã được hai ngày.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ngư phủ quay thuyền về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên nhật vậy. Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi. Tiếng chuông chậm rãi hòa lan vào với tiếng chim hải âu, dõi theo tiếng thủy triều mà chìm vào hư không vắng lặng. Em gái bảo: - Đó là tiếng chuông chiều tại Thần Vũ cổ tự đấy anh ạ. CHƯƠNG CHÍN Đêm đến, tôi viết hai bức thư: một bức thư gửi cho bà vú nuôi. Một bức gửi về mục sư Robert. Trong hai bức thư, tôi đều nói rằng mình bình an về tới gia đình, gặp mặt từ mẫu. Và kể rằng mẹ con tôi cảm tạ ân đức kia không bao giờ quên. Mẹ tôi gởi bà vú nuôi một trăm đồng vàng, dặn dò mẹ con bà vú nuôi hãy giữ gì thân thể cho khỏe mạnh, ngày sau tự nhiên sẽ có phen tái hội. Viết xong hai lá thư, tôi thấy máu me mỏi trong mình, bèn đánh một giấc ngủ vùi mê man. Ngày hôm sau thức giấc, mặt trời hồng chiếu dương quang qua song cửa. Tôi khoác áo đi tắm một trận. Tắm xong, lên lầu gác, nhìn thấy ngọn Phù Dung Phong (Fujiyama) chọc thẳng đỉnh chót vót phiêu phiêu trên mặt sóng vàng kim hải. Phổi tim tôi bỗng chan hòa một trận. Nghe chừng như gột rửa sạch sẽ hết mọi trăm não ngàn phiền dơ bẩn mốc meo ở trong thớ máu và ở trong các khớp xương sườn (kể cả xương bánh chè cũng vậy). Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. Tôi về nhà đã được hai ngày.
Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. Tôi về nhà đã được hai ngày. Qua tới ngày thứ ba, vừa mới tinh sương, mẹ tôi đã dắt tay hai đứa tôi vội vã tới nhà ga xe lửa. Ấy là cuộc đi Tảo mộ tại Tiểu Điền Nguyên (Odawara). Đó là một ngày âm u và rét mướt. Chuyến xe đi giữa mịt mờ hoa tuyết phấp phới đầy không gian. Cảnh vật trên dặm trường thật là ảm đạm tiêu tao. Tới lúc xe đậu lại trạm Tiểu Điền Nguyên, thì thấy mọi nẻo đường đều dằng dặc đầy tràn những tuyết. Khắp làng mạc chìm trong gió tuyết, vì thế nên tìm không ra một bác phu xe tay nào hết cả. Mẹ tôi bèn mướn một người đàn bà nhà quê cõng em tôi đi. Rồi ghé lại chỗ dịch trạm mua một bó hoa tươi tốt. Sau đó, tôi nâng đỡ mẹ tôi bước đi có hơn ba dặm đường tới chân một ngọn núi. Tôi ngẩng nhìn lên chóp núi, thấy lộ ra trên đó một góc vách tường hồng. Mẹ tôi đưa tay về phía đó bảo rằng: - Đó là Long Sơn Tự (chùa Ryusan). Mộ của ông ngoại con và ba con ở trên đó. Chúng tôi lần lượt chậm rãi leo đá núi mà lên. Lúc tới gần cửa chùa, thấy có hai câu đối in đậm đà nét chữ: Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi. (Bồ đoàn, ngồi lại nguyện cầu Luống từng chịu gió giang đầu giá băng Trùng sinh kiếp hậu há rằng Tro là hương hỏa mộng hằng là than Ngồi suông trên tấm bồ đoàn Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư) Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả. Tôi về nhà đã được hai ngày. Qua tới ngày thứ ba, vừa mới tinh sương, mẹ tôi đã dắt tay hai đứa tôi vội vã tới nhà ga xe lửa. Ấy là cuộc đi Tảo mộ tại Tiểu Điền Nguyên (Odawara). Đó là một ngày âm u và rét mướt. Chuyến xe đi giữa mịt mờ hoa tuyết phấp phới đầy không gian. Cảnh vật trên dặm trường thật là ảm đạm tiêu tao. Tới lúc xe đậu lại trạm Tiểu Điền Nguyên, thì thấy mọi nẻo đường đều dằng dặc đầy tràn những tuyết. Khắp làng mạc chìm trong gió tuyết, vì thế nên tìm không ra một bác phu xe tay nào hết cả. Mẹ tôi bèn mướn một người đàn bà nhà quê cõng em tôi đi. Rồi ghé lại chỗ dịch trạm mua một bó hoa tươi tốt. Sau đó, tôi nâng đỡ mẹ tôi bước đi có hơn ba dặm đường tới chân một ngọn núi. Tôi ngẩng nhìn lên chóp núi, thấy lộ ra trên đó một góc vách tường hồng. Mẹ tôi đưa tay về phía đó bảo rằng: - Đó là Long Sơn Tự (chùa Ryusan). Mộ của ông ngoại con và ba con ở trên đó. Chúng tôi lần lượt chậm rãi leo đá núi mà lên. Lúc tới gần cửa chùa, thấy có hai câu đối in đậm đà nét chữ: Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi. (Bồ đoàn, ngồi lại nguyện cầu Luống từng chịu gió giang đầu giá băng Trùng sinh kiếp hậu há rằng Tro là hương hỏa mộng hằng là than Ngồi suông trên tấm bồ đoàn Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư) Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn.
Trùng sinh kiếp hậu há rằng Tro là hương hỏa mộng hằng là than Ngồi suông trên tấm bồ đoàn Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư) Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn. Nhưng vì lẽ gì lòng nghĩ thế mà chỉnh đốn, mà mộng ước trong máu me lại ngậm ngùi không chịu đành cho rằng như thế là chỉnh tề? Vào tới giữa điện, một vị lão ni già nua bước ra, cùng mẹ tôi hàn huyên một chặp. Rồi vị lão ni bước chầm chậm đi thắp hương, cùng đem lại mẹ tôi một ly nước lã. Tôi và em gái bước theo chân mẹ ra phía sau ngôi phù đồ, thấy hai nấm mộ cha và ông ngoại nằm song song bên nhau, giống như hai giọt nước sương trên lá cỏ. Bốn phía đều có giậu rào có vuông vức dây thép gai mịn màng mát rượi. Bốn mặt trụ gỗ có khắc năm chữ: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Đó là do phái Mật Tông biểu thị ân đức của Đại Nhật Như Lai. Tôi và em gái tôi chạy nhặt nhánh tùng khô, đem về hươi quét sạch sẽ những mảnh tuyết tụ trên hai nấm mộ. Mẹ tôi cầm luôn nước rảy xuống, tử đỉnh nấm mộ xuống bốn phía và ba bên hai bề vẹn vẽ. Chẳng mấy chốc, nước chan hòa lôi cuốn hòa chan đi hết mọi vết tích của tuyết tụ mộ phần. Thế là bày hoa hương ra le lói được rồi vậy. Mẹ tôi nhặt một nhành lá trường thanh diệp đặt ngay ngắn vào giữa thạch án, bảo chúng tôi đồng thời quỳ chân vái lạy. Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. Mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Trùng sinh kiếp hậu há rằng Tro là hương hỏa mộng hằng là than Ngồi suông trên tấm bồ đoàn Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư) Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn. Nhưng vì lẽ gì lòng nghĩ thế mà chỉnh đốn, mà mộng ước trong máu me lại ngậm ngùi không chịu đành cho rằng như thế là chỉnh tề? Vào tới giữa điện, một vị lão ni già nua bước ra, cùng mẹ tôi hàn huyên một chặp. Rồi vị lão ni bước chầm chậm đi thắp hương, cùng đem lại mẹ tôi một ly nước lã. Tôi và em gái bước theo chân mẹ ra phía sau ngôi phù đồ, thấy hai nấm mộ cha và ông ngoại nằm song song bên nhau, giống như hai giọt nước sương trên lá cỏ. Bốn phía đều có giậu rào có vuông vức dây thép gai mịn màng mát rượi. Bốn mặt trụ gỗ có khắc năm chữ: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Đó là do phái Mật Tông biểu thị ân đức của Đại Nhật Như Lai. Tôi và em gái tôi chạy nhặt nhánh tùng khô, đem về hươi quét sạch sẽ những mảnh tuyết tụ trên hai nấm mộ. Mẹ tôi cầm luôn nước rảy xuống, tử đỉnh nấm mộ xuống bốn phía và ba bên hai bề vẹn vẽ. Chẳng mấy chốc, nước chan hòa lôi cuốn hòa chan đi hết mọi vết tích của tuyết tụ mộ phần. Thế là bày hoa hương ra le lói được rồi vậy. Mẹ tôi nhặt một nhành lá trường thanh diệp đặt ngay ngắn vào giữa thạch án, bảo chúng tôi đồng thời quỳ chân vái lạy. Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. Mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào.
Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. Mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào. Những đồ vật vừa bày ra lộng lẫy và le lói như thế, bỗng nhiên khoảnh khắc đã bị băng tuyết vùi lấp mất tăm mất dạng hết cả rồi. Mẹ tôi đem một ít tiền bạc gói trong giấy trắng kính biếu vị lão ni. Xông pha vào giữa tuyết mà xuống núi. “Ngập ngừng mép núi quanh co Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang Vi vu gió hút nẻo vàng Một trời thu rộng mấy hàng mây nao” Tôi bày em tôi ngâm thơ vừa thuộc thì mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Dì của con năm ngoái đã dời sang Sương Căn (Hakone). Miền đó cũng ở gần vùng này. Bữa nay mẹ muốn dẫn con tới viếng dì con. Con hãy biết rằng thuở con còn nhỏ, dì của con yêu dấu con như một con phượng non, như một con bồ câu ra ràng bình minh mới mẻ thái bình vậy. Thuở bấy giờ một ngày không thấy con, thì dì con trong lòng buồn bã. Lúc mẹ dẫn con sang bên Trung Quốc, thì dì con hết sức cản trở. Con đi rồi, dì con tan nát can trường. Tam Lang, con hãy ghi nhớ ân tình của dì con, đừng có quên đấy nhé. Tôi đáp: - Con sẽ không quên. Mẹ bảo tiếp: - Dì con dạy bảo điều gì, con đứng trái ý nhé. Tôi đáp: - Con sẽ không trái ý dì con bất cứ điều gì. CHƯƠNG MƯỜI Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi. Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi: - Cậu này là khách từ đâu lại? Mẹ tôi cười đáp: - Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận. Mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Chúng ta hãy sớm liệu về thôi. Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp chẳng rõ tự lúc nào. Những đồ vật vừa bày ra lộng lẫy và le lói như thế, bỗng nhiên khoảnh khắc đã bị băng tuyết vùi lấp mất tăm mất dạng hết cả rồi. Mẹ tôi đem một ít tiền bạc gói trong giấy trắng kính biếu vị lão ni. Xông pha vào giữa tuyết mà xuống núi. “Ngập ngừng mép núi quanh co Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang Vi vu gió hút nẻo vàng Một trời thu rộng mấy hàng mây nao” Tôi bày em tôi ngâm thơ vừa thuộc thì mẹ tôi bảo: - Tam Lang! Dì của con năm ngoái đã dời sang Sương Căn (Hakone). Miền đó cũng ở gần vùng này. Bữa nay mẹ muốn dẫn con tới viếng dì con. Con hãy biết rằng thuở con còn nhỏ, dì của con yêu dấu con như một con phượng non, như một con bồ câu ra ràng bình minh mới mẻ thái bình vậy. Thuở bấy giờ một ngày không thấy con, thì dì con trong lòng buồn bã. Lúc mẹ dẫn con sang bên Trung Quốc, thì dì con hết sức cản trở. Con đi rồi, dì con tan nát can trường. Tam Lang, con hãy ghi nhớ ân tình của dì con, đừng có quên đấy nhé. Tôi đáp: - Con sẽ không quên. Mẹ bảo tiếp: - Dì con dạy bảo điều gì, con đứng trái ý nhé. Tôi đáp: - Con sẽ không trái ý dì con bất cứ điều gì. CHƯƠNG MƯỜI Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi. Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi: - Cậu này là khách từ đâu lại? Mẹ tôi cười đáp: - Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay.
CHƯƠNG MƯỜI Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi. Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi: - Cậu này là khách từ đâu lại? Mẹ tôi cười đáp: - Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay. Dì tôi nghe ra, mừng rỡ vô cùng. Tam Lang còn sống trở về! Sao chị không đánh điện tín báo em hay! Vừa nói dì vừa đưa tay phủi mấy đóa hoa tuyết rớt trên vai tôi, chậm rãi than một tiếng: - Tội thay Tam Lang. Dì không thấy mặt cháu đã mười mấy năm! Ngày nay trông tướng mạo cháu, thật khó nhận ra, con gầy ốm hơn lúc nhỏ. Chúng tôi theo gót dì vào phòng. Hốt nhiên thấy một nữ lang, đem khay trà tới. Nàng vận y phục nhạt màu, dáng đi thật là tha thướt. Tôi ngồi một bên nhìn nàng. Thấy nàng quả thật là thanh tao diễm lệ hơn người. Lòng tôi bỗng nhiên nghi nghi hãi sợ, dường như từng đã có gặp nàng từ lâu ở nơi nào… Dì tôi cầm một đôi que sắt tro lạnh trong lò. Vừa gạt tro vừa nói: - Chị em ta xa nhau hơn một tuần rồi, khiến lòng nhớ nhung. Ngày đó tiếp được thư chị, mới hay rằng bịnh tình chị đã bớt, mới yên tâm chút ít. Nay Tam Lang về, thật tưởng như là chiêm bao mộng ảo. Mẹ tôi đáp: - Cảm ơn em. Chị tuy trong mình còn bệnh tật tuổi tác già nua, nay thấy mặt Tam Lang, thì khoan khoái vô cùng, nhưng trông Tam Lang xanh xao đáng thương quá. Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế, quay sang nhìn nữ lang nói: - Tĩnh Tử!
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
CHƯƠNG MƯỜI Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra đón mẹ tôi. Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi: - Cậu này là khách từ đâu lại? Mẹ tôi cười đáp: - Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay. Dì tôi nghe ra, mừng rỡ vô cùng. Tam Lang còn sống trở về! Sao chị không đánh điện tín báo em hay! Vừa nói dì vừa đưa tay phủi mấy đóa hoa tuyết rớt trên vai tôi, chậm rãi than một tiếng: - Tội thay Tam Lang. Dì không thấy mặt cháu đã mười mấy năm! Ngày nay trông tướng mạo cháu, thật khó nhận ra, con gầy ốm hơn lúc nhỏ. Chúng tôi theo gót dì vào phòng. Hốt nhiên thấy một nữ lang, đem khay trà tới. Nàng vận y phục nhạt màu, dáng đi thật là tha thướt. Tôi ngồi một bên nhìn nàng. Thấy nàng quả thật là thanh tao diễm lệ hơn người. Lòng tôi bỗng nhiên nghi nghi hãi sợ, dường như từng đã có gặp nàng từ lâu ở nơi nào… Dì tôi cầm một đôi que sắt tro lạnh trong lò. Vừa gạt tro vừa nói: - Chị em ta xa nhau hơn một tuần rồi, khiến lòng nhớ nhung. Ngày đó tiếp được thư chị, mới hay rằng bịnh tình chị đã bớt, mới yên tâm chút ít. Nay Tam Lang về, thật tưởng như là chiêm bao mộng ảo. Mẹ tôi đáp: - Cảm ơn em. Chị tuy trong mình còn bệnh tật tuổi tác già nua, nay thấy mặt Tam Lang, thì khoan khoái vô cùng, nhưng trông Tam Lang xanh xao đáng thương quá. Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế, quay sang nhìn nữ lang nói: - Tĩnh Tử!
Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế, quay sang nhìn nữ lang nói: - Tĩnh Tử! Ta còn nhớ thuở Tam Lang ra đi, con đã biết buồn rầu nỗi ly biệt, con đã khóc lóc giàn giụa. Rồi dì bấm đốt ngón tay nói tiếp: - Con lớn hơn Tam Lang đúng hai mươi mốt tháng (gần tới hai tuổi) thế thì Tam Lang là em của con vậy, con chẳng nên ngượng nghịu bối rối như thế. Nữ lang làm thinh không đáp, chậm rãi đưa bàn tay ngọc ra vuốt vào mái tóc mai của em tôi. Hai má nữ lang trông có vẻ ửng đỏ chút ít. Dùng cơm tối xong, tôi chợt nghe thấy trong mình mệt mỏi. Đầu óc choáng váng, tứ chi nóng rần, xương xẩu máu me trở cơn sốt ran ran. Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Bệnh nặng phát tác mất rồi! Sáng hôm sau, trời vẫn còn tuyết liên miên. Mẹ tôi, dì tôi và mọi người trong nhà đều buồn rầu hết sức, bảo rằng chứng bệnh kia không nhẹ. Tôi mặc dù nằm rên rỉ trong chăn, nhưng không thấy đau khổ, nhân vì mới về lại gia đình, nhận ra rằng từ thuở nhỏ đến nay, chưa có bao giờ hân hoan êm đềm như ngày đó. Tôi suy gẫm lại mọi sự việc đã xảy ra trong đời tôi từ ngày bước chân vào chùa tới lúc bấy giờ: việc gặp gỡ ân sư, gặp gỡ mẹ con bà vú nuôi, và gia đình mục sư Robert… Mọi người đều yêu thương tôi không khác gì con ruột, thì như thế, mọi nỗi phiêu linh tân khổ đã trải qua từ trước, kể cả cũng được đền bồi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế, quay sang nhìn nữ lang nói: - Tĩnh Tử! Ta còn nhớ thuở Tam Lang ra đi, con đã biết buồn rầu nỗi ly biệt, con đã khóc lóc giàn giụa. Rồi dì bấm đốt ngón tay nói tiếp: - Con lớn hơn Tam Lang đúng hai mươi mốt tháng (gần tới hai tuổi) thế thì Tam Lang là em của con vậy, con chẳng nên ngượng nghịu bối rối như thế. Nữ lang làm thinh không đáp, chậm rãi đưa bàn tay ngọc ra vuốt vào mái tóc mai của em tôi. Hai má nữ lang trông có vẻ ửng đỏ chút ít. Dùng cơm tối xong, tôi chợt nghe thấy trong mình mệt mỏi. Đầu óc choáng váng, tứ chi nóng rần, xương xẩu máu me trở cơn sốt ran ran. Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Bệnh nặng phát tác mất rồi! Sáng hôm sau, trời vẫn còn tuyết liên miên. Mẹ tôi, dì tôi và mọi người trong nhà đều buồn rầu hết sức, bảo rằng chứng bệnh kia không nhẹ. Tôi mặc dù nằm rên rỉ trong chăn, nhưng không thấy đau khổ, nhân vì mới về lại gia đình, nhận ra rằng từ thuở nhỏ đến nay, chưa có bao giờ hân hoan êm đềm như ngày đó. Tôi suy gẫm lại mọi sự việc đã xảy ra trong đời tôi từ ngày bước chân vào chùa tới lúc bấy giờ: việc gặp gỡ ân sư, gặp gỡ mẹ con bà vú nuôi, và gia đình mục sư Robert… Mọi người đều yêu thương tôi không khác gì con ruột, thì như thế, mọi nỗi phiêu linh tân khổ đã trải qua từ trước, kể cả cũng được đền bồi.
Nhưng lúc nghĩ tới Tuyết Mai, nàng phải một mình ôm mối đau lòng không nói ra được với ai hết cả. Tuy nhiên sự việc tôi đi tu và việc Tuyết Mai, tôi giấu hết, không nói cho mẹ tôi rõ, sợ mẹ đau lòng. Hai sự việc kia, xuất gia và hợp hôn, quả thật là mâu thuẫn nhau triệt để; một đằng sang Đông, một đằng sang Tây; một đằng nằm im, một đằng rục rịch. Tôi đã nguyện tu hành cho đắc đạo rất mực chân tu, thì cố nhiên không thể nào lấy vợ; nhưng đã đi tu, còn có thể nào về bên mẹ mãi mãi được không? Trong khi tôi quẩn quanh tư lự gần xa như thế, mẹ và dì bước vào. Dì tôi tay bưng bát thuốc lá cây rễ cỏ, bước tới bên mép giường bảo: - Tam Lang, bệnh của cháu là một loại cảm mạo. Bây giờ cháu ngồi dậy uống thang thuốc này, một vài ngày sau ắt sẽ khỏi bệnh. Loại rễ thuốc lá hoa này do dì tự tay hái ngắt về. Tam Lang, dì của con hằng ngày chẳng có việc chi làm, thì giờ nhàn rỗi chỉ có biết đi vào trong núi ở trong rừng mà hái lá, ngắt rễ cây. Đem về bào chế ra thuốc, rồi đem cho những kẻ nghèo khó mà đa bệnh để họ dùng trong lúc tai nạn. Phải nên biết rằng trong thế gian, các ông thầy thuốc chẳng ông nào là chẳng tham tiền; do đó kẻ nghèo đói nếu rủi ro lại vướng bệnh, chỉ còn biết buông tay mà chết. Những chuyện thương tâm thảm mục (đau lòng xót mắt) chẳng có chuyện nào đau đớn hơn sự tình trạng huống kia. Dì tự nghĩ mình còn chút sống thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn việc chi lạc thú nữa cả.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng lúc nghĩ tới Tuyết Mai, nàng phải một mình ôm mối đau lòng không nói ra được với ai hết cả. Tuy nhiên sự việc tôi đi tu và việc Tuyết Mai, tôi giấu hết, không nói cho mẹ tôi rõ, sợ mẹ đau lòng. Hai sự việc kia, xuất gia và hợp hôn, quả thật là mâu thuẫn nhau triệt để; một đằng sang Đông, một đằng sang Tây; một đằng nằm im, một đằng rục rịch. Tôi đã nguyện tu hành cho đắc đạo rất mực chân tu, thì cố nhiên không thể nào lấy vợ; nhưng đã đi tu, còn có thể nào về bên mẹ mãi mãi được không? Trong khi tôi quẩn quanh tư lự gần xa như thế, mẹ và dì bước vào. Dì tôi tay bưng bát thuốc lá cây rễ cỏ, bước tới bên mép giường bảo: - Tam Lang, bệnh của cháu là một loại cảm mạo. Bây giờ cháu ngồi dậy uống thang thuốc này, một vài ngày sau ắt sẽ khỏi bệnh. Loại rễ thuốc lá hoa này do dì tự tay hái ngắt về. Tam Lang, dì của con hằng ngày chẳng có việc chi làm, thì giờ nhàn rỗi chỉ có biết đi vào trong núi ở trong rừng mà hái lá, ngắt rễ cây. Đem về bào chế ra thuốc, rồi đem cho những kẻ nghèo khó mà đa bệnh để họ dùng trong lúc tai nạn. Phải nên biết rằng trong thế gian, các ông thầy thuốc chẳng ông nào là chẳng tham tiền; do đó kẻ nghèo đói nếu rủi ro lại vướng bệnh, chỉ còn biết buông tay mà chết. Những chuyện thương tâm thảm mục (đau lòng xót mắt) chẳng có chuyện nào đau đớn hơn sự tình trạng huống kia. Dì tự nghĩ mình còn chút sống thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn việc chi lạc thú nữa cả.
Dì tự nghĩ mình còn chút sống thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn việc chi lạc thú nữa cả. Còn như những việc đốt hương niệm Phật lâm râm theo lối những người đàn bà ở làng thôn (thôn làng thôn xã) thì ấy là điều mà dì của con chẳng làm đâu. Dì và mẹ của cháu đều già nua hết rồi. Ngạn ngữ có câu: “Người già nua thêu thùa sự vụ là cốt để giao thụ cho người sau”- lão giả dự vi giao - đại sự (1) - Ấy bởi rằng lời trong ý là nói người già nua chỉ nên vì người sau mà mưu việc hạnh phúc, còn tự thân mình vất vả, thì không bận tâm lấy làm điều gay cấn cho lắm đâu. Xét riêng gia cảnh của dì hiện nay, thì thằng con của dì đã phục vụ trong ngành hải quân, nó đã lấy vợ lập gia đình rồi, thì dì chẳng còn phải vì nó mà lo lắng sự gì (2)… Ngày nay, còn đứa gái Tĩnh Tử kia kìa, nó là kẻ rất mực của dì lưu tâm quan thiết. Tĩnh Tử (Kiyoko) mồ côi cha thuở nó còn bé, nó nương tựa vào dì đã mười mấy năm nay. Dì chỉ biết… dì nghĩ rằng… mọi sự thôi thì hãy nên ủy thác hết cho Thiên mệnh vậy. Dì tôi noi tới đó, thì trầm ngâm một lúc, thở dài một tiếng, rồi nhìn tôi nói tiếp: - Tam Lang, ngày trước mẹ cháu từ Trung Hoa về lại xứ nhà, chưa được ba tháng, thì tiếp được một lá thư của gia đình nghĩa phụ của cháu, báo tin cho biết rằng “Tam Lang leo lên núi, bị cọp ở trong rừng vồ nuốt mất hình hài thân thể tứ chi”. Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tại nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Dì tự nghĩ mình còn chút sống thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn việc chi lạc thú nữa cả. Còn như những việc đốt hương niệm Phật lâm râm theo lối những người đàn bà ở làng thôn (thôn làng thôn xã) thì ấy là điều mà dì của con chẳng làm đâu. Dì và mẹ của cháu đều già nua hết rồi. Ngạn ngữ có câu: “Người già nua thêu thùa sự vụ là cốt để giao thụ cho người sau”- lão giả dự vi giao - đại sự (1) - Ấy bởi rằng lời trong ý là nói người già nua chỉ nên vì người sau mà mưu việc hạnh phúc, còn tự thân mình vất vả, thì không bận tâm lấy làm điều gay cấn cho lắm đâu. Xét riêng gia cảnh của dì hiện nay, thì thằng con của dì đã phục vụ trong ngành hải quân, nó đã lấy vợ lập gia đình rồi, thì dì chẳng còn phải vì nó mà lo lắng sự gì (2)… Ngày nay, còn đứa gái Tĩnh Tử kia kìa, nó là kẻ rất mực của dì lưu tâm quan thiết. Tĩnh Tử (Kiyoko) mồ côi cha thuở nó còn bé, nó nương tựa vào dì đã mười mấy năm nay. Dì chỉ biết… dì nghĩ rằng… mọi sự thôi thì hãy nên ủy thác hết cho Thiên mệnh vậy. Dì tôi noi tới đó, thì trầm ngâm một lúc, thở dài một tiếng, rồi nhìn tôi nói tiếp: - Tam Lang, ngày trước mẹ cháu từ Trung Hoa về lại xứ nhà, chưa được ba tháng, thì tiếp được một lá thư của gia đình nghĩa phụ của cháu, báo tin cho biết rằng “Tam Lang leo lên núi, bị cọp ở trong rừng vồ nuốt mất hình hài thân thể tứ chi”. Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tại nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật.
Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tại nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật. Dì và mẹ cháu ôm nhau khóc một trận tưởng như chết mất ra ma, rồi vì quá đau lòng mà hai chị em vốn đã già, lại tăng thêm già nua, thêm hơn hai mươi tuổi nữa. Thần thái đã ra người lẩm cẩm. Sự việc đời con mà ra như thế, còn biết tính ra làm sao, chỉ còn biết ngày đêm cầu nguyện ông trời xanh, chúc cho vong hồn cháu tiêu dao du, mà ghé về xứ nhà ứng mộng chiêm bao cho mẹ cháu. Tôi lắng tai nghe dì kể lể giọng thật bi thảm. Trong lòng tôi lại ùn ùn trào dậy bao nhiêu mối u sầu trường hận cũ, trái tim và hai lá phổi như muốn vỡ toang ra một trận, chẳng còn biết ăn nói ra làm sao cả. Thật lâu sau, ngẩng mặt nhìn mẹ, nhận thấy dung nghi điềm đạm, không còn bi thiết, thì tôi cố gắng đàn áp mối bi thống trong máu xương mình, cung kính nói mà rằng: - Con xin ghi tạc mối tình thương yêu của dì. Những phen lao đao vất vả cháu trải qua, đã thành chuyện quá khứ mơ hồ, không thể nhắc gợi ra nhiều chi nữa, con xin dì và mẹ hãy xếp lại đừng bận lòng chi tới. Từ nay về sau, con ở lại nhà, sớm hôm phụng bồi dì và mẹ, thì lòng con sung sướng tràn lan rất mực lắm rồi. Tôi nói xong, mẹ tôi giục uống bát thuốc, một lúc sau, toàn thân tôi mồ hôi ra như tắm, tôi mỏi mệt khắp cả hình hài xương xẩu, nhắm mắt thiêm thiếp miên man. CHƯƠNG MƯỜI MỘT Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tại nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật. Dì và mẹ cháu ôm nhau khóc một trận tưởng như chết mất ra ma, rồi vì quá đau lòng mà hai chị em vốn đã già, lại tăng thêm già nua, thêm hơn hai mươi tuổi nữa. Thần thái đã ra người lẩm cẩm. Sự việc đời con mà ra như thế, còn biết tính ra làm sao, chỉ còn biết ngày đêm cầu nguyện ông trời xanh, chúc cho vong hồn cháu tiêu dao du, mà ghé về xứ nhà ứng mộng chiêm bao cho mẹ cháu. Tôi lắng tai nghe dì kể lể giọng thật bi thảm. Trong lòng tôi lại ùn ùn trào dậy bao nhiêu mối u sầu trường hận cũ, trái tim và hai lá phổi như muốn vỡ toang ra một trận, chẳng còn biết ăn nói ra làm sao cả. Thật lâu sau, ngẩng mặt nhìn mẹ, nhận thấy dung nghi điềm đạm, không còn bi thiết, thì tôi cố gắng đàn áp mối bi thống trong máu xương mình, cung kính nói mà rằng: - Con xin ghi tạc mối tình thương yêu của dì. Những phen lao đao vất vả cháu trải qua, đã thành chuyện quá khứ mơ hồ, không thể nhắc gợi ra nhiều chi nữa, con xin dì và mẹ hãy xếp lại đừng bận lòng chi tới. Từ nay về sau, con ở lại nhà, sớm hôm phụng bồi dì và mẹ, thì lòng con sung sướng tràn lan rất mực lắm rồi. Tôi nói xong, mẹ tôi giục uống bát thuốc, một lúc sau, toàn thân tôi mồ hôi ra như tắm, tôi mỏi mệt khắp cả hình hài xương xẩu, nhắm mắt thiêm thiếp miên man. CHƯƠNG MƯỜI MỘT Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa. Mẹ tôi và dì tôi và mọi người trong nhà, ai ai cũng tưng bừng nét mặt. Ấy vào ngày mồng ba tháng ba. Khí trời thanh tân tôi ngồi dậy lại bên cửa sổ, vén tấm màn nhìn ra ngoài. Sắc núi rực rỡ chân trời, hoa lá chim chóc thi đua nhau đâm bông và ríu rít, trong một trận trường kỳ thi đua gây cấn. Lại thêm một nửa như… như nhiên thường hằng chan hòa từng cơn cơn thái hư tịch mịch. Lòng tôi thư thái dị thường. Chợt tưởng như một sự: Dường như suốt mấy ngày đau ốm, mỗi phen từ trận mê man lò dò tỉnh giấc, mỗi phen lại dường như khướu giác lại chạm phải mùi hương xuân sắc bất khả tư nghị. Chẳng rõ là hoa hay lá? A na tam miệu tam Bồ đề? Thật quả là tôi không phân biệt được rõ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng đó ắt nhiên là một loại hương phấn bốc hơi pha màu xiêm nghê thường quần duệ địa vậy. Bên giường tôi nằm trên chiếc bàn nhỏ, mỗi buổi mai, lại mỗi có một bó hoa tươi tốt đặt gọn gàng ôn tồn nằm yên vui trong cái lọ. Sắc hương thênh thênh, hoa tâm như còn chứa đọng giọt sương ướt át rất mực liên tồn từng khoảnh khắc sát na. Hôm nay chợt thấy một bức phỉ thúy khâm trâm đặt trên chiếc bàn. Ban sơ tôi nghĩ rằng đó là đồ vật thơ ngây của em gái rất mực nữ lang Tĩnh Tử Kiyoko và như vậy thì hiển nhiên bó hoa tươi tốt lòe xòe ắt cũng chẳng vật lòe xòe của mỹ nhân loe lói diễm kiều kia đó vậy. Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
CHƯƠNG MƯỜI MỘT Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa. Mẹ tôi và dì tôi và mọi người trong nhà, ai ai cũng tưng bừng nét mặt. Ấy vào ngày mồng ba tháng ba. Khí trời thanh tân tôi ngồi dậy lại bên cửa sổ, vén tấm màn nhìn ra ngoài. Sắc núi rực rỡ chân trời, hoa lá chim chóc thi đua nhau đâm bông và ríu rít, trong một trận trường kỳ thi đua gây cấn. Lại thêm một nửa như… như nhiên thường hằng chan hòa từng cơn cơn thái hư tịch mịch. Lòng tôi thư thái dị thường. Chợt tưởng như một sự: Dường như suốt mấy ngày đau ốm, mỗi phen từ trận mê man lò dò tỉnh giấc, mỗi phen lại dường như khướu giác lại chạm phải mùi hương xuân sắc bất khả tư nghị. Chẳng rõ là hoa hay lá? A na tam miệu tam Bồ đề? Thật quả là tôi không phân biệt được rõ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng đó ắt nhiên là một loại hương phấn bốc hơi pha màu xiêm nghê thường quần duệ địa vậy. Bên giường tôi nằm trên chiếc bàn nhỏ, mỗi buổi mai, lại mỗi có một bó hoa tươi tốt đặt gọn gàng ôn tồn nằm yên vui trong cái lọ. Sắc hương thênh thênh, hoa tâm như còn chứa đọng giọt sương ướt át rất mực liên tồn từng khoảnh khắc sát na. Hôm nay chợt thấy một bức phỉ thúy khâm trâm đặt trên chiếc bàn. Ban sơ tôi nghĩ rằng đó là đồ vật thơ ngây của em gái rất mực nữ lang Tĩnh Tử Kiyoko và như vậy thì hiển nhiên bó hoa tươi tốt lòe xòe ắt cũng chẳng vật lòe xòe của mỹ nhân loe lói diễm kiều kia đó vậy. Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế.
Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế. Tôi lại chậm rãi nhớ ra rằng ngày trước tợ hồ như từng đã có phen ôn tồn tương thức. Ấy nhân vì ngày trước tại trong phòng văn tiểu thư con gái mục sư Robert tôi từng đã có phen lăn tăn nhìn thấy tấm họa hình ảnh nữ sĩ Hy Lạp Sappho do bàn tay một nghệ sĩ Đức quốc. Hình ảnh đó và nữa lang ôn tồn này trông giống nhau quá sức. Cũng hai con mắt đen láy tròn trĩnh ưu tư. Cũng làn mi liễu cong vòng vang lừng trên mặt ngọc. Cũng hai môi khép mở mơ hồ lúc làn tóc mây lòa xòa buông xuống một bóng hoàng hôn của bình minh kỳ ảo phiêu bồng. Đương lúc tôi trầm ngâm như thế, chợt đưa mắt lưu ý tới phía dưới màn the, trần thiết cựu kỳ phong nhã. Có một chiếc bàn với hình hài trái xoan trứng ngỗng thiên nga lồ lộ. Trên có đặt một chiếc gương soi một chiếc hộp nạm bạc, và bút nghiên, và đèo thêm một dải lụa hồng tua tủa nem dén mép rìa râu mọc thơ ngây. Không một hột bụi nào đậu vào trong cụm ngây thơ nọ. Bên cạnh lại có một chiếc rương nho nhỏ học trò đựng sách gỗ lá cây, hình trạng giống như cái tổ ong tò vò, hoặc cái chuồng bồ câu tư lự. Sách chứa trong đó khá nhiều. Tôi lò dò tiến lại lần giở ra xem xét lai rai nhận xét một vài. Đều là sách cổ xưa Trung Quốc, tới lúc nhìn qua tường vách bên tả, lại thấy một chiếc bàn ghế nhỏ cỏn con, trên có đặt một chiếc nhạn trụ minh tranh, tợ hồ như còn văng vẳng dư âm phảng phất trên huyền ty loan phím.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế. Tôi lại chậm rãi nhớ ra rằng ngày trước tợ hồ như từng đã có phen ôn tồn tương thức. Ấy nhân vì ngày trước tại trong phòng văn tiểu thư con gái mục sư Robert tôi từng đã có phen lăn tăn nhìn thấy tấm họa hình ảnh nữ sĩ Hy Lạp Sappho do bàn tay một nghệ sĩ Đức quốc. Hình ảnh đó và nữa lang ôn tồn này trông giống nhau quá sức. Cũng hai con mắt đen láy tròn trĩnh ưu tư. Cũng làn mi liễu cong vòng vang lừng trên mặt ngọc. Cũng hai môi khép mở mơ hồ lúc làn tóc mây lòa xòa buông xuống một bóng hoàng hôn của bình minh kỳ ảo phiêu bồng. Đương lúc tôi trầm ngâm như thế, chợt đưa mắt lưu ý tới phía dưới màn the, trần thiết cựu kỳ phong nhã. Có một chiếc bàn với hình hài trái xoan trứng ngỗng thiên nga lồ lộ. Trên có đặt một chiếc gương soi một chiếc hộp nạm bạc, và bút nghiên, và đèo thêm một dải lụa hồng tua tủa nem dén mép rìa râu mọc thơ ngây. Không một hột bụi nào đậu vào trong cụm ngây thơ nọ. Bên cạnh lại có một chiếc rương nho nhỏ học trò đựng sách gỗ lá cây, hình trạng giống như cái tổ ong tò vò, hoặc cái chuồng bồ câu tư lự. Sách chứa trong đó khá nhiều. Tôi lò dò tiến lại lần giở ra xem xét lai rai nhận xét một vài. Đều là sách cổ xưa Trung Quốc, tới lúc nhìn qua tường vách bên tả, lại thấy một chiếc bàn ghế nhỏ cỏn con, trên có đặt một chiếc nhạn trụ minh tranh, tợ hồ như còn văng vẳng dư âm phảng phất trên huyền ty loan phím.
Lúc bấy giờ, tôi mới chịu kinh hoảng hiểu ra rằng đó là căn phòng lầu các của khuê nữ rất mực Tĩnh Tử (Kiyoko). Trong lòng tôi lại càng thêm thán phục nữ lang nọ đa tài, học rộng, thâm thúy xuất trần, thật quả có như là bình sinh hóa thân của Ma Cô Tiên Tử (Nường Tiên kiều diễm ở trong núi Ma Cô) Ma Cô là núi, mô ca là rừng? Kiyoko sư muội sư nương nõn nường tài hoa ra như thế? - Anh hoa phát tiết ra ngoài? Ngàn thu rất mực một tài hoa riêng? Lúc bấy giờ, tôi lại cảm thấy trong lòng như có nảy ra một sở niệm tiêu dao phiêu bồng… Rồi sau đó, lại tiêu điều phủ nhiên nhược thất? Như đang giữa cơn đánh mất một cái gì? Chợt thấy mẹ tôi lên thang gác, tay cầm hai bộ áo xuân. Mẹ bảo: - Tam Lang, hôm nay cuồng phong dại tuyết đã đề huề rút lui. Mùa đông đã đi qua rồi. Thì con hãy thử mặc bộ quần áo này vào mừng xuân. Tôi cầm lấy hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi trên chiếc ghế dài nệm gấm viền tua, có lò xo bối rối. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi đưa tay vò đầu tôi, sờ vào trán tôi và hỏi: - Con cảm thấy thế nào tới sáng nay? Tôi đáp: - Con cảm thấy thư thái. Không có chi khổ nhọc gay cấn. Chỉ xương xẩu còn hơi mỏi mệt máu me chút ít mà thôi. Bao giờ mẹ sẽ dẫn con và em gái về nhà? Con cũng chưa gặp lại người chị của con. Mẹ đáp: - Lúc nào cũng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con bình phục sẽ quay về. Nhưng dì của con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc qua loa.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lúc bấy giờ, tôi mới chịu kinh hoảng hiểu ra rằng đó là căn phòng lầu các của khuê nữ rất mực Tĩnh Tử (Kiyoko). Trong lòng tôi lại càng thêm thán phục nữ lang nọ đa tài, học rộng, thâm thúy xuất trần, thật quả có như là bình sinh hóa thân của Ma Cô Tiên Tử (Nường Tiên kiều diễm ở trong núi Ma Cô) Ma Cô là núi, mô ca là rừng? Kiyoko sư muội sư nương nõn nường tài hoa ra như thế? - Anh hoa phát tiết ra ngoài? Ngàn thu rất mực một tài hoa riêng? Lúc bấy giờ, tôi lại cảm thấy trong lòng như có nảy ra một sở niệm tiêu dao phiêu bồng… Rồi sau đó, lại tiêu điều phủ nhiên nhược thất? Như đang giữa cơn đánh mất một cái gì? Chợt thấy mẹ tôi lên thang gác, tay cầm hai bộ áo xuân. Mẹ bảo: - Tam Lang, hôm nay cuồng phong dại tuyết đã đề huề rút lui. Mùa đông đã đi qua rồi. Thì con hãy thử mặc bộ quần áo này vào mừng xuân. Tôi cầm lấy hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi trên chiếc ghế dài nệm gấm viền tua, có lò xo bối rối. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi đưa tay vò đầu tôi, sờ vào trán tôi và hỏi: - Con cảm thấy thế nào tới sáng nay? Tôi đáp: - Con cảm thấy thư thái. Không có chi khổ nhọc gay cấn. Chỉ xương xẩu còn hơi mỏi mệt máu me chút ít mà thôi. Bao giờ mẹ sẽ dẫn con và em gái về nhà? Con cũng chưa gặp lại người chị của con. Mẹ đáp: - Lúc nào cũng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con bình phục sẽ quay về. Nhưng dì của con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc qua loa.
Nhưng dì của con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc qua loa. Nếu như con ở đây thấy thư thái thì mẹ cũng không có ý về nhà ngay làm gì. Con biết rằng mẹ tuổi đã cao, cuộc đời đã xế thân thuộc sinh bình ai ai cũng đã già hết cả rồi. Cũng chẳng còn năng lui tới thăm viếng nhau. Đâu còn có như thời xuân xanh tới lui ngày ngày nô nức nữa? Ngày nay mẹ đưa mắt nhìn bốn phía chỉ duy còn có chỗ dì con là nơi chốn thân mật bịch bồ, hình ảnh thong dong tương hợp. Huống nữa dì thấy con, thì trong lòng dì vui mừng vô hạn, thì con trọ lại đây cũng chẳng khác chi ở giữa gia đình. Mẹ biết tính tình con chỉ mong ước cảnh u tịch, thì ở lại đây trọ căn gác này là rất thích hợp vậy. Căn gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì Tĩnh Tử mới dọn xuống phòng dưới, cùng với em gái của con ở chung. Tam Lang con ở lại đây, nếu thấy không thích hợp, thì hãy nói thật tình cho mẹ rõ. Tôi đáp; - Con xin tuân lời mẹ dạy bảo. Phong vật nhà dì thật là tốt đẹp, ở lại một thời gian, lòng con rất sung sướng. Lúc bấy giờ người bếp vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn tề chỉnh. Mẹ tôi hân nhiên khoan khoái, bảo tôi thay y phục đặng xuống phòng điểm tâm. Theo gót mẹ xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố. Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng: - Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng dì của con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc qua loa. Nếu như con ở đây thấy thư thái thì mẹ cũng không có ý về nhà ngay làm gì. Con biết rằng mẹ tuổi đã cao, cuộc đời đã xế thân thuộc sinh bình ai ai cũng đã già hết cả rồi. Cũng chẳng còn năng lui tới thăm viếng nhau. Đâu còn có như thời xuân xanh tới lui ngày ngày nô nức nữa? Ngày nay mẹ đưa mắt nhìn bốn phía chỉ duy còn có chỗ dì con là nơi chốn thân mật bịch bồ, hình ảnh thong dong tương hợp. Huống nữa dì thấy con, thì trong lòng dì vui mừng vô hạn, thì con trọ lại đây cũng chẳng khác chi ở giữa gia đình. Mẹ biết tính tình con chỉ mong ước cảnh u tịch, thì ở lại đây trọ căn gác này là rất thích hợp vậy. Căn gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì Tĩnh Tử mới dọn xuống phòng dưới, cùng với em gái của con ở chung. Tam Lang con ở lại đây, nếu thấy không thích hợp, thì hãy nói thật tình cho mẹ rõ. Tôi đáp; - Con xin tuân lời mẹ dạy bảo. Phong vật nhà dì thật là tốt đẹp, ở lại một thời gian, lòng con rất sung sướng. Lúc bấy giờ người bếp vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn tề chỉnh. Mẹ tôi hân nhiên khoan khoái, bảo tôi thay y phục đặng xuống phòng điểm tâm. Theo gót mẹ xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố. Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng: - Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh.
Theo gót mẹ xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố. Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng: - Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh. Tĩnh Tử con hãy lẹ chân bước tới chào anh Tam Lang của con đi, xem sáng nay anh con cảm thấy thế nào? Thoáng một cái, đã thấy ngọc nhân gót sen vi vút, dìu dặt bước qua như bóng nhạn ngang trời, lướt tới bên tôi, trang trọng cung thân xá một cái, rất mực “mái cột”môn tường phong nhã sả phạ chiêm bao. Lúc bấy giờ ngọc nhân phong tư tài mạo vân mấn xum xuê tót vời thể thái, phong độ càng nhìn càng siêu, càng ngó càng ưa và mến, và cũng càng như bán khai bao hàm khôn xiết chất mối khuynh thành khiến cho bình sinh, phải chịu trận tam sinh khuynh quốc. Sự thể đã ra như thế nào, thiết thân láng giềng lân cận, nửa mơ hồ bất định lưu ly, nửa một cơn lồng lộng thinh không dìu dặt cuộc phiêu bồng lảo đảo. Trận khôn hàn vô hạn ngẩng mặt nhìn nhau? Nhưng chả lẽ bỏ chạy mất? Như quân cướp đi chinh phục xóm làng bỗng hãi nhiên rút lui về sao huyệt? Vì bất thình lình cảm thấy bị vây bọc, bốn bề bị tập kích giáp công? Dù sao thì dù, dù co giò chạy trốn, dù đứng lại đại từ bi ù lỳ ra đó, dù sao thì dù, cũng cảm thấy ở trong mình toàn thể hình hài, xương xẩu, máu me, xương bánh chè, xương sườn suốt dọc xương sống, cùng một loạt thi đua nhau tam bành lảo đảo, tứ trướng gào kêu trong trận rụng rơi toàn diện.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Theo gót mẹ xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố. Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng: - Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh. Tĩnh Tử con hãy lẹ chân bước tới chào anh Tam Lang của con đi, xem sáng nay anh con cảm thấy thế nào? Thoáng một cái, đã thấy ngọc nhân gót sen vi vút, dìu dặt bước qua như bóng nhạn ngang trời, lướt tới bên tôi, trang trọng cung thân xá một cái, rất mực “mái cột”môn tường phong nhã sả phạ chiêm bao. Lúc bấy giờ ngọc nhân phong tư tài mạo vân mấn xum xuê tót vời thể thái, phong độ càng nhìn càng siêu, càng ngó càng ưa và mến, và cũng càng như bán khai bao hàm khôn xiết chất mối khuynh thành khiến cho bình sinh, phải chịu trận tam sinh khuynh quốc. Sự thể đã ra như thế nào, thiết thân láng giềng lân cận, nửa mơ hồ bất định lưu ly, nửa một cơn lồng lộng thinh không dìu dặt cuộc phiêu bồng lảo đảo. Trận khôn hàn vô hạn ngẩng mặt nhìn nhau? Nhưng chả lẽ bỏ chạy mất? Như quân cướp đi chinh phục xóm làng bỗng hãi nhiên rút lui về sao huyệt? Vì bất thình lình cảm thấy bị vây bọc, bốn bề bị tập kích giáp công? Dù sao thì dù, dù co giò chạy trốn, dù đứng lại đại từ bi ù lỳ ra đó, dù sao thì dù, cũng cảm thấy ở trong mình toàn thể hình hài, xương xẩu, máu me, xương bánh chè, xương sườn suốt dọc xương sống, cùng một loạt thi đua nhau tam bành lảo đảo, tứ trướng gào kêu trong trận rụng rơi toàn diện.
Lả tả toàn phương, không có cách gì cưỡng áp, đành phó mặc cho danh hoàn bờ cõi thổi đợt đợt gió về mà xô đẩy như đẩy xô quay tít những chiếc lá ngô đồng lúc thu sang trong trận gió may heo hút. (Dư bất cảm hồi mâu chính thị, duy tâm như phiêu nhiên phù động, như thu phong xuy lạc diệp, bất tri hà sở chỉ, bất thức hà phương lưu, bất hội hà xứ đình, bất nghiệp hà sở đậu) - Bản dịch Anh ngữ: “I did not have the courage to turn my eyes to look directly at her, but my heart fluttered aimlessly, like falling leaves wafted by autumnal winds and not knowing wither they would land”- Tôi chẳng có can đảm đưa mắt nhìn thẳng vào mắt nàng, nhưng mà trái tim tôi phù động phiêu nhiên bất định, giống như những lá rơi, bị gió thu xô đẩy, và chẳng rõ sẽ rơi rụng vào nơi đâu mà cập bờ cập bến. Anh em tôi cùng mẹ tôi cư lưu tại nhà dì tôi giữa một vùng hồng nhan thiên hương gay cấn bốc hơi lừng tia ra như thế, quả thật chẳng khác gì đem thân thế mà ủy thác vào Vườn Tược Nhà Trời, vào Đào Nguyên Bích Động, Thanh Ngạn Xum Xuê, bốn bề Xiêm Nghê Thánh Thót, Thần Thơ Oản Oẻn Ngây Dại thêm ra. Dì tôi vốn đã yêu tôi rất mực, tôi chỉ còn biết dâng lên một vạn cung kính một ngàn kính cung cẩn trọng để phụng bồi a dì, a mẫu cho hân hoan sắc mà thôi, tự thân cảm thấy từng bừng phiêu bồng thái thậm.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Lả tả toàn phương, không có cách gì cưỡng áp, đành phó mặc cho danh hoàn bờ cõi thổi đợt đợt gió về mà xô đẩy như đẩy xô quay tít những chiếc lá ngô đồng lúc thu sang trong trận gió may heo hút. (Dư bất cảm hồi mâu chính thị, duy tâm như phiêu nhiên phù động, như thu phong xuy lạc diệp, bất tri hà sở chỉ, bất thức hà phương lưu, bất hội hà xứ đình, bất nghiệp hà sở đậu) - Bản dịch Anh ngữ: “I did not have the courage to turn my eyes to look directly at her, but my heart fluttered aimlessly, like falling leaves wafted by autumnal winds and not knowing wither they would land”- Tôi chẳng có can đảm đưa mắt nhìn thẳng vào mắt nàng, nhưng mà trái tim tôi phù động phiêu nhiên bất định, giống như những lá rơi, bị gió thu xô đẩy, và chẳng rõ sẽ rơi rụng vào nơi đâu mà cập bờ cập bến. Anh em tôi cùng mẹ tôi cư lưu tại nhà dì tôi giữa một vùng hồng nhan thiên hương gay cấn bốc hơi lừng tia ra như thế, quả thật chẳng khác gì đem thân thế mà ủy thác vào Vườn Tược Nhà Trời, vào Đào Nguyên Bích Động, Thanh Ngạn Xum Xuê, bốn bề Xiêm Nghê Thánh Thót, Thần Thơ Oản Oẻn Ngây Dại thêm ra. Dì tôi vốn đã yêu tôi rất mực, tôi chỉ còn biết dâng lên một vạn cung kính một ngàn kính cung cẩn trọng để phụng bồi a dì, a mẫu cho hân hoan sắc mà thôi, tự thân cảm thấy từng bừng phiêu bồng thái thậm.
Nếu trong lòng thảng hoặc có vướng víu chạm phải những gì chả rõ của cái quá khứ đoạn trường về luẩn quẩn một cái bên, thì tôi lại tựa lưng vào những gốc cây tùng cây bách, nhìn cái nước chảy lòe xòe, hoặc cầm quyển thi thư mà giải muộn. Phòng văn Tĩnh Tử vốn chứa nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa, đã bị con trùng sâu bọ rủ rê dán chuột gặm mòn bên những bầy mối hoen hoen. Đọc không ra được cái nét chữ. Thảy đều là thi thư ra Đường. Lại còn thêm vài bản dịch Ba La Đa và Ma Hát Thư, ấy là những thi thư thuật sự thiên trường địa hậu đậu lại bờ hoa. Hai quyển thư này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ (của ông Dutt) về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata, cũng là một phần trong bộ sách đó. CHƯƠNG MƯỜI HAI Một bầy nhạn thấp thoáng bay vút ngang trời. Tiếng ve bốn bề văng vẳng. Tôi cúi đầu đi vòng quanh vườn tược nhà dì, vòng quanh bờ đập nước, vòng quanh những doanh mâu lang lạc, những rạng rỡ cột trụ vân thạch, và ghé tới bên cái bờ ao lãnh nhiên liên ỷ li ti vang bóng mùa thu trước năm nào. Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp? Chân bước trông vời áo tiểu thơ? Một hôm trận gió xa vời lại. Năm ngoái năm này năm nữa ru.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nếu trong lòng thảng hoặc có vướng víu chạm phải những gì chả rõ của cái quá khứ đoạn trường về luẩn quẩn một cái bên, thì tôi lại tựa lưng vào những gốc cây tùng cây bách, nhìn cái nước chảy lòe xòe, hoặc cầm quyển thi thư mà giải muộn. Phòng văn Tĩnh Tử vốn chứa nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa, đã bị con trùng sâu bọ rủ rê dán chuột gặm mòn bên những bầy mối hoen hoen. Đọc không ra được cái nét chữ. Thảy đều là thi thư ra Đường. Lại còn thêm vài bản dịch Ba La Đa và Ma Hát Thư, ấy là những thi thư thuật sự thiên trường địa hậu đậu lại bờ hoa. Hai quyển thư này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ (của ông Dutt) về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata, cũng là một phần trong bộ sách đó. CHƯƠNG MƯỜI HAI Một bầy nhạn thấp thoáng bay vút ngang trời. Tiếng ve bốn bề văng vẳng. Tôi cúi đầu đi vòng quanh vườn tược nhà dì, vòng quanh bờ đập nước, vòng quanh những doanh mâu lang lạc, những rạng rỡ cột trụ vân thạch, và ghé tới bên cái bờ ao lãnh nhiên liên ỷ li ti vang bóng mùa thu trước năm nào. Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp? Chân bước trông vời áo tiểu thơ? Một hôm trận gió xa vời lại. Năm ngoái năm này năm nữa ru.
Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp? Chân bước trông vời áo tiểu thơ? Một hôm trận gió xa vời lại. Năm ngoái năm này năm nữa ru. (…) I strolled about my aunt’s grounds – her pavilions, garden, and the path skirting the fishpond… Across the heavens flashed the forms of swans. Every nook resounded with the chirping of the cicada… Wide spaces and limpid streams greeted my eyes. I silently recalled that only this morning my mother had said she would take my sister and me home on the following morning… Chân cứ bước, lòng cứ miên man trầm tư. Mắt cứ mơ hồ nhìn sóng lăn tăn trong từng luồng thinh không dĩ thái, như phi thuyền bộc lộ trong mát lòa xòa trước nhãn quan. Tôi lặng lẽ nhớ lại rằng sáng nay mẹ tôi có nói cho biết sáng mai mẹ sẽ dắt hai anh em tôi về trở lại nhà. Thì như thế, vùng đất đai bạch vân hồng thụ, làm sao chẳng có chăng niềm quyến luyến. Lòng tôi như thế nào như thế. How light her step, how slim her body was! Who would ever think that she had seen eighteen years go by? Xiết bao nhẹ nhàng gót chân nàng bước ! Bao xiết mãi cốt cách là tấm than thể nàng mảnh khảnh đầy đặn nở nang gầy gầy sậu cốt! Xiết bao máu me hồng thắm tịch mịch ra đời! Ai dám bảo rằng nàng đã luống nhìn mười tám tuổi xuân trôi qua ở bên mình và mất dạng ở tiền diện hoặc là ở sau lưng? Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch mịch. Tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ô Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp? Chân bước trông vời áo tiểu thơ? Một hôm trận gió xa vời lại. Năm ngoái năm này năm nữa ru. (…) I strolled about my aunt’s grounds – her pavilions, garden, and the path skirting the fishpond… Across the heavens flashed the forms of swans. Every nook resounded with the chirping of the cicada… Wide spaces and limpid streams greeted my eyes. I silently recalled that only this morning my mother had said she would take my sister and me home on the following morning… Chân cứ bước, lòng cứ miên man trầm tư. Mắt cứ mơ hồ nhìn sóng lăn tăn trong từng luồng thinh không dĩ thái, như phi thuyền bộc lộ trong mát lòa xòa trước nhãn quan. Tôi lặng lẽ nhớ lại rằng sáng nay mẹ tôi có nói cho biết sáng mai mẹ sẽ dắt hai anh em tôi về trở lại nhà. Thì như thế, vùng đất đai bạch vân hồng thụ, làm sao chẳng có chăng niềm quyến luyến. Lòng tôi như thế nào như thế. How light her step, how slim her body was! Who would ever think that she had seen eighteen years go by? Xiết bao nhẹ nhàng gót chân nàng bước ! Bao xiết mãi cốt cách là tấm than thể nàng mảnh khảnh đầy đặn nở nang gầy gầy sậu cốt! Xiết bao máu me hồng thắm tịch mịch ra đời! Ai dám bảo rằng nàng đã luống nhìn mười tám tuổi xuân trôi qua ở bên mình và mất dạng ở tiền diện hoặc là ở sau lưng? Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch mịch. Tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ô Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay.
Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch mịch. Tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ô Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay. Tôi mơ hồ nhớ nhung những chân trời mù sương nào xa xôi quá. Sao cứ về giữa lầm than xứ sở mà náo động mãi như thế ngày đêm? Những cụm sơn lê, những ngành du thụ. Chùm thạch thảo nào cô nương đã hái. Đóa tường vi nào tại hạ đã bảo “em nhớ cho”. Hay là mùa Xuân Hồi Sinh đang trỗi dậy. Hình hài nào từ huyễn ngạn lẽo đẽo gạ gẫm hoài với mộng mỵ chiêm bao. Về châu quận quê hương nào của tôi như thế? I had been thinhking more about it than I knew. The grey ivied house with the stretch of oak woods about it. The great lake that could be so clear that, the fishermen claimed. You could see the Danaan cities flooded over by Danaan magic before the grubbing men put over from China and Russia to take possession of the fair land… Pyramids and spireis you could see there, if you had the sight, as the people said, and great forts. And on the shores were oak woods, and apples orchards, and bleaching greens, and fishermen going out after the pollan. The freshwater herrings, when sunset came. The long lines of rooks homing to the oak woods. In winter the snipe rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon and a white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch mịch. Tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ô Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay. Tôi mơ hồ nhớ nhung những chân trời mù sương nào xa xôi quá. Sao cứ về giữa lầm than xứ sở mà náo động mãi như thế ngày đêm? Những cụm sơn lê, những ngành du thụ. Chùm thạch thảo nào cô nương đã hái. Đóa tường vi nào tại hạ đã bảo “em nhớ cho”. Hay là mùa Xuân Hồi Sinh đang trỗi dậy. Hình hài nào từ huyễn ngạn lẽo đẽo gạ gẫm hoài với mộng mỵ chiêm bao. Về châu quận quê hương nào của tôi như thế? I had been thinhking more about it than I knew. The grey ivied house with the stretch of oak woods about it. The great lake that could be so clear that, the fishermen claimed. You could see the Danaan cities flooded over by Danaan magic before the grubbing men put over from China and Russia to take possession of the fair land… Pyramids and spireis you could see there, if you had the sight, as the people said, and great forts. And on the shores were oak woods, and apples orchards, and bleaching greens, and fishermen going out after the pollan. The freshwater herrings, when sunset came. The long lines of rooks homing to the oak woods. In winter the snipe rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon and a white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese.
In winter the snipe rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon and a white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese. Sometimes at night there was a miracle under the full moon, when a white cloud came driving westward from the far Pacific towards the waters of the Yang Tse Kiang, the shimmering white arch of the moonbow rose the haunted waters. Tôi đã tư lự về mù sương tỳ hải châu quận chiêm bao kia nhiều hơn như tôi tưởng. Những ngôi nhà kỳ ảo mốc meo xám xanh lơ xanh lục, in rêu ngầm lún phún, thường xuân đằng kiều diễm, bạch anh dàn lưu ly, với những dằng dặc dãy rừng phong liên miên tượng thụ, vấn vít bốn bề ba phía bốn xung quanh. Mặt ngọc hồ nguy nga nào tinh khiết thế, cho đến nỗi những ngư ông ngư phủ đã thơ ngây báo biểu rất mực rằng, nhìn đăm đăm vào ắt các anh sẽ thấy có những Đô Thị Phiêu Bồng Huyền Thuyết Cổ Hy vụt nhô lên bất chợt bởi thần thuật Đa Na Ô kỳ bí, ở diện tiền bọn người hì hục lao công, hồ ngọc ôi, ngươi quyến rũ dã man gì như thế, khiến hằng hằng mỗi mỗi cường quốc nọ cứ lăm le muốn chiếm hữu đất đai xứ sở kia cho bằng được. Kim tự tháp và những chóp nhấp nhô tiêm đỉnh, thảy thảy đều lộ diện ra đó kia, nếu như bạn có rất mực cái mắt nhìn của làn lục my thanh nhãn, nói theo ngôn ngữ của ngạn ngữ thói thường: Và ôi những thành trì, những thiết bảo! Ôi những hào lũy những mê cung.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
In winter the snipe rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon and a white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese. Sometimes at night there was a miracle under the full moon, when a white cloud came driving westward from the far Pacific towards the waters of the Yang Tse Kiang, the shimmering white arch of the moonbow rose the haunted waters. Tôi đã tư lự về mù sương tỳ hải châu quận chiêm bao kia nhiều hơn như tôi tưởng. Những ngôi nhà kỳ ảo mốc meo xám xanh lơ xanh lục, in rêu ngầm lún phún, thường xuân đằng kiều diễm, bạch anh dàn lưu ly, với những dằng dặc dãy rừng phong liên miên tượng thụ, vấn vít bốn bề ba phía bốn xung quanh. Mặt ngọc hồ nguy nga nào tinh khiết thế, cho đến nỗi những ngư ông ngư phủ đã thơ ngây báo biểu rất mực rằng, nhìn đăm đăm vào ắt các anh sẽ thấy có những Đô Thị Phiêu Bồng Huyền Thuyết Cổ Hy vụt nhô lên bất chợt bởi thần thuật Đa Na Ô kỳ bí, ở diện tiền bọn người hì hục lao công, hồ ngọc ôi, ngươi quyến rũ dã man gì như thế, khiến hằng hằng mỗi mỗi cường quốc nọ cứ lăm le muốn chiếm hữu đất đai xứ sở kia cho bằng được. Kim tự tháp và những chóp nhấp nhô tiêm đỉnh, thảy thảy đều lộ diện ra đó kia, nếu như bạn có rất mực cái mắt nhìn của làn lục my thanh nhãn, nói theo ngôn ngữ của ngạn ngữ thói thường: Và ôi những thành trì, những thiết bảo! Ôi những hào lũy những mê cung.
Ôi những hào lũy những mê cung. Và dọc mép hải tân diên tần hải thúy của kim hải chon von, còn tròn xoe rừng phong tượng thụ, tụ thượng thù du trùng dương tiết, thạch lựu hoa lòa xòa đi với những vườn tược lê táo đâm bong chất chồng chen lấn và những nõn nà xum xuê thanh lục tuyết bạch phiêu nhiên phiền sương phương trượng cờ phướn tử trúc lâm, cung cầm ba la mật. Và những ngư phủ phiêu bồng lật đật xô ghe ra vạn lý viễn khơi, chạy theo đuôi con kình ngư, con cá mộng, con cua đỏ, con hồng tôm, con thanh ngư, con thúy lục, con hồng vàng tụ từ thạch thượng tam sinh, lúc bình minh trở cơn chiều cho hoàng hôn xuống bóng. Lúc sơ đầu cổ độ ngong ngóng vọng theo làn nước chảy xuôi. Ôi những hàng liền cánh tỵ dực ô nha từng loạt tung bay về tổ tại liên tồn thường trụ trong rừng tía hột sát na chan hòa khuynh thành một thuở kim cương. Ôi vong hồn sơ khai ba la mật. Bà là thế như nhiên như vậy chứ? Những con sa điêu, những con thạch điểu những mùa đông vụt cánh tung lên trời từ hồ nước lạnh giữa lách lau lá hoa cồn lạnh lẽo tê cóng mong gì bốc hơi thiên hương ra được nữa. Với tiếng kêu rè rè trong âm thanh sầu muộn. Và dưới tuần trăng viên mãn nguyệt nguy nga và tuyết băng bạch ngọc, sương giá mơ hồ, con hồng nhạn huýt một thanh âm, con thiên nga vèo một điệu đáp, con vịt trời vút một tiếng tương ứng long lanh. Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Ôi những hào lũy những mê cung. Và dọc mép hải tân diên tần hải thúy của kim hải chon von, còn tròn xoe rừng phong tượng thụ, tụ thượng thù du trùng dương tiết, thạch lựu hoa lòa xòa đi với những vườn tược lê táo đâm bong chất chồng chen lấn và những nõn nà xum xuê thanh lục tuyết bạch phiêu nhiên phiền sương phương trượng cờ phướn tử trúc lâm, cung cầm ba la mật. Và những ngư phủ phiêu bồng lật đật xô ghe ra vạn lý viễn khơi, chạy theo đuôi con kình ngư, con cá mộng, con cua đỏ, con hồng tôm, con thanh ngư, con thúy lục, con hồng vàng tụ từ thạch thượng tam sinh, lúc bình minh trở cơn chiều cho hoàng hôn xuống bóng. Lúc sơ đầu cổ độ ngong ngóng vọng theo làn nước chảy xuôi. Ôi những hàng liền cánh tỵ dực ô nha từng loạt tung bay về tổ tại liên tồn thường trụ trong rừng tía hột sát na chan hòa khuynh thành một thuở kim cương. Ôi vong hồn sơ khai ba la mật. Bà là thế như nhiên như vậy chứ? Những con sa điêu, những con thạch điểu những mùa đông vụt cánh tung lên trời từ hồ nước lạnh giữa lách lau lá hoa cồn lạnh lẽo tê cóng mong gì bốc hơi thiên hương ra được nữa. Với tiếng kêu rè rè trong âm thanh sầu muộn. Và dưới tuần trăng viên mãn nguyệt nguy nga và tuyết băng bạch ngọc, sương giá mơ hồ, con hồng nhạn huýt một thanh âm, con thiên nga vèo một điệu đáp, con vịt trời vút một tiếng tương ứng long lanh. Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể.
Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể. Đôi phen trong tĩnh dạ, chợt xảy ra một trận huyền nhiệm lãng tinh dưới một vùng của yên hoa nhị nguyệt, lúc một áng bạch vân phù động lướt qua bay về phía trời tây, khởi từ viễn khơi Thái Bình Dương thúy lục tới con nước tại giang đầu dương liễu Dương Tử Giang… Thì cái cung vàng lấp lánh trắng bạch ngọc băng của thềm cung ngọc thỏ bỗng nhô lên lồng lộng trên mặt nước lởn vởn những oan hồn về đù đởn cuộc dã man. Ý tuyệt trù Bỗng dưng chắp nối cho sầu ma hoang Lời thăm thẳm? Ý khôn hàn Vì đâu riêng tụ về hàng thơ điên. Bán khai nhân vật diện tiền Sương lung bán ẩn suốt miền cảo thơm. Chiều chiều chân mật vi hôn U nùng hậu diện linh hồn chẩm ma? Diễm kiều ghé lại mà ra Dặn dò Dưới nguyệt Hay là dưới sương? This region of white clouds and red - blossomed trees could not but make my heart wish to linger longer. Anon a whistling wind struck my ears, and looking up into the sky I saw only the old leaves fluttering downwards from their branches. My heart felt rather startled with the realization that clear skied autumn had almost gone; and without knowing it my heart became filled with uneasiness as if were harboring heavy sorrows. My mother was attending to the baggage at this time. Chốn đất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng khiến lòng tôi dùng dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể. Đôi phen trong tĩnh dạ, chợt xảy ra một trận huyền nhiệm lãng tinh dưới một vùng của yên hoa nhị nguyệt, lúc một áng bạch vân phù động lướt qua bay về phía trời tây, khởi từ viễn khơi Thái Bình Dương thúy lục tới con nước tại giang đầu dương liễu Dương Tử Giang… Thì cái cung vàng lấp lánh trắng bạch ngọc băng của thềm cung ngọc thỏ bỗng nhô lên lồng lộng trên mặt nước lởn vởn những oan hồn về đù đởn cuộc dã man. Ý tuyệt trù Bỗng dưng chắp nối cho sầu ma hoang Lời thăm thẳm? Ý khôn hàn Vì đâu riêng tụ về hàng thơ điên. Bán khai nhân vật diện tiền Sương lung bán ẩn suốt miền cảo thơm. Chiều chiều chân mật vi hôn U nùng hậu diện linh hồn chẩm ma? Diễm kiều ghé lại mà ra Dặn dò Dưới nguyệt Hay là dưới sương? This region of white clouds and red - blossomed trees could not but make my heart wish to linger longer. Anon a whistling wind struck my ears, and looking up into the sky I saw only the old leaves fluttering downwards from their branches. My heart felt rather startled with the realization that clear skied autumn had almost gone; and without knowing it my heart became filled with uneasiness as if were harboring heavy sorrows. My mother was attending to the baggage at this time. Chốn đất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng khiến lòng tôi dùng dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi.
Chốn đất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng khiến lòng tôi dùng dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi. Chợt nghe thoảng một ngọn gió vi vu bên tai, tôi ngẩng mặt nhìn lên trời, chỉ thấy những lá úa lìa cành, vì vèo rụng xuống. Trong lòng chợt tủng nhiên sực nhớ ra rằng mùa thu thanh thúy đã hầu tàn. Chẳng rõ vì sao, chẳng biết đâu chăng nhẽ, lòng tôi bỗng thấy u hoài bang bạc mang nhiên, như mang chứa những sầu muộn nào chồng chất. Nghĩ rằng mẹ tôi lúc bấy giờ đã xếp đặt xong xuôi hành trang ly biệt. Chợt vẳng nghe từ cõi nào xa xuôi vô hạn, một âm thanh tin yêu đằm thắm của một thời đại huy hoàng nào về hẹn mai hậu mai sau trong một lời ban sơ ướm thử… - “Then as soon as you appear I shall have you sworn as a Pursuivant of the Great Seal, or as they call it, one of the King’s Chief Messengers. That is the best thing for you. And now, thank you for your coming. Tonight I drive to Mnemosyne’s Land…” “Rồi chừng đó, chàng vừa hiện, thì tôi ắt sẽ yêu cầu chàng tuyên thệ rằng mình là như một… một Kẻ Thị Tòng của Thượng Thừa Quốc Tỷ, hoặc như thói thường thiên hạ nói: Một trong những Sứ Giả Thượng Thặng của Ngọc Hoàng từ Thanh Cấm Nguyệt về hồ sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân. Đó là sự vụ tót vời đẹp đẽ cho anh. Và giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự về Miền Cõi Mnemosyne…”. Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên “Thoái Nhàn” để gặp lại đứa em gái.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chốn đất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng khiến lòng tôi dùng dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi. Chợt nghe thoảng một ngọn gió vi vu bên tai, tôi ngẩng mặt nhìn lên trời, chỉ thấy những lá úa lìa cành, vì vèo rụng xuống. Trong lòng chợt tủng nhiên sực nhớ ra rằng mùa thu thanh thúy đã hầu tàn. Chẳng rõ vì sao, chẳng biết đâu chăng nhẽ, lòng tôi bỗng thấy u hoài bang bạc mang nhiên, như mang chứa những sầu muộn nào chồng chất. Nghĩ rằng mẹ tôi lúc bấy giờ đã xếp đặt xong xuôi hành trang ly biệt. Chợt vẳng nghe từ cõi nào xa xuôi vô hạn, một âm thanh tin yêu đằm thắm của một thời đại huy hoàng nào về hẹn mai hậu mai sau trong một lời ban sơ ướm thử… - “Then as soon as you appear I shall have you sworn as a Pursuivant of the Great Seal, or as they call it, one of the King’s Chief Messengers. That is the best thing for you. And now, thank you for your coming. Tonight I drive to Mnemosyne’s Land…” “Rồi chừng đó, chàng vừa hiện, thì tôi ắt sẽ yêu cầu chàng tuyên thệ rằng mình là như một… một Kẻ Thị Tòng của Thượng Thừa Quốc Tỷ, hoặc như thói thường thiên hạ nói: Một trong những Sứ Giả Thượng Thặng của Ngọc Hoàng từ Thanh Cấm Nguyệt về hồ sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân. Đó là sự vụ tót vời đẹp đẽ cho anh. Và giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự về Miền Cõi Mnemosyne…”. Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên “Thoái Nhàn” để gặp lại đứa em gái.
Và giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự về Miền Cõi Mnemosyne…”. Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên “Thoái Nhàn” để gặp lại đứa em gái. Một hai… Một… hai… bước tới chỗ thạch lan kiều thượng, chợt nghe tiếng vỗ phần phật của một loại thạch tựu trường quần duệ địa đa mang. Trong khoảnh khắc khôn hàn sát na gay cấn, hương phong tứ dật, quốc độ mười phương vân yên phức úc hỡi ôi! Em nói anh nghe tiếng lẫn lời Hồn em thở ở trong hơi Miệng cười bừng nở hàm răng lựu. Sáng cả mười phương một góc trời In a short time sweet odors saturated the air about me. And I suddenly saw the lovely girl, charmingly attired, and advancing with airy steps as if wafted hither on a breeze. Em đi về như mây núi đầu xuân Gió bay qua nước chảy suối vô cùng Mừng như thể hôm qua về đồng nội Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội Để bây giờ còn một mối riêng tây Lời nhân gian không tiếng để phơi bày Kim cương mộng như trăng mờ bát nhã Mưa thúc giục như bình minh vội vã Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa Lá xanh xao như cành nhánh gật gà Và thánh thót đến cây già tùng bách Anh lại thấy một trời xưa đã mất Đã đi về cùng với gót chân em Đã đi qua cùng với cánh tay mềm Anh mở miệng không nói lời nào cả Vì bất chợt thấy môi cười em ạ Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau Vì vu vơ vui sướng gió pha màu Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay Em đến bên anh ghé sát mi mày Và cũng sát cả mày mi ghé sát
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Và giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự về Miền Cõi Mnemosyne…”. Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên “Thoái Nhàn” để gặp lại đứa em gái. Một hai… Một… hai… bước tới chỗ thạch lan kiều thượng, chợt nghe tiếng vỗ phần phật của một loại thạch tựu trường quần duệ địa đa mang. Trong khoảnh khắc khôn hàn sát na gay cấn, hương phong tứ dật, quốc độ mười phương vân yên phức úc hỡi ôi! Em nói anh nghe tiếng lẫn lời Hồn em thở ở trong hơi Miệng cười bừng nở hàm răng lựu. Sáng cả mười phương một góc trời In a short time sweet odors saturated the air about me. And I suddenly saw the lovely girl, charmingly attired, and advancing with airy steps as if wafted hither on a breeze. Em đi về như mây núi đầu xuân Gió bay qua nước chảy suối vô cùng Mừng như thể hôm qua về đồng nội Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội Để bây giờ còn một mối riêng tây Lời nhân gian không tiếng để phơi bày Kim cương mộng như trăng mờ bát nhã Mưa thúc giục như bình minh vội vã Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa Lá xanh xao như cành nhánh gật gà Và thánh thót đến cây già tùng bách Anh lại thấy một trời xưa đã mất Đã đi về cùng với gót chân em Đã đi qua cùng với cánh tay mềm Anh mở miệng không nói lời nào cả Vì bất chợt thấy môi cười em ạ Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau Vì vu vơ vui sướng gió pha màu Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay Em đến bên anh ghé sát mi mày Và cũng sát cả mày mi ghé sát
Vì vu vơ vui sướng gió pha màu Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay Em đến bên anh ghé sát mi mày Và cũng sát cả mày mi ghé sát Anh tự hỏi phong thu lác đác Hay thu rừng phong lổ đổ sương thâu Rừng thiên ôi vạn đại chớ pha màu Nhiều như thế cho ngưòi thêm khổ nhọc Con kim báo một phen vì cô độc Đã nhe răng và mỉm miệng cười thầm Trong mộng ước một phen nào bắt gặp Hồn tủy xương sư tử đủ hai lần… She was several paces from me when she turned her eyes in my direction and, with languid leisure, exchanged glances with me. “Đãn kiến ngọc nhân thu trang, thiên thiên phiêu cử nhi lai, khứ dư cẩn sổ vũ Nhứt hồi thanh phán, từ từ dự ngã mâu tương chúc hỷ… Dư tức túc nhiên cúc cung chí kính…” Chợt thấy ngọc nhân Tĩnh Tử Thu Trang, xiêu xiêu lệch lệch, phơ phất tới bên, đạo hạnh luống dường Như Lai Bồ Tát. A nậu đa la tam niệu tam bồ đề, cùng tôi cách nhau khoảng chừng mấy chục bước rưỡi. Chợt quay mắt xanh, nhìn tôi một cái. Chậm rãi thong dong, rã rượi khôn hàn, đầu mày cuối mắt, bãi động tương thân. Tôi định tới gần, bỗng dưng dừng lại. Cung cung kính kính, xá một lễ dài. Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng không đến nỗi lo âu mà cúi mặt.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Vì vu vơ vui sướng gió pha màu Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay Em đến bên anh ghé sát mi mày Và cũng sát cả mày mi ghé sát Anh tự hỏi phong thu lác đác Hay thu rừng phong lổ đổ sương thâu Rừng thiên ôi vạn đại chớ pha màu Nhiều như thế cho ngưòi thêm khổ nhọc Con kim báo một phen vì cô độc Đã nhe răng và mỉm miệng cười thầm Trong mộng ước một phen nào bắt gặp Hồn tủy xương sư tử đủ hai lần… She was several paces from me when she turned her eyes in my direction and, with languid leisure, exchanged glances with me. “Đãn kiến ngọc nhân thu trang, thiên thiên phiêu cử nhi lai, khứ dư cẩn sổ vũ Nhứt hồi thanh phán, từ từ dự ngã mâu tương chúc hỷ… Dư tức túc nhiên cúc cung chí kính…” Chợt thấy ngọc nhân Tĩnh Tử Thu Trang, xiêu xiêu lệch lệch, phơ phất tới bên, đạo hạnh luống dường Như Lai Bồ Tát. A nậu đa la tam niệu tam bồ đề, cùng tôi cách nhau khoảng chừng mấy chục bước rưỡi. Chợt quay mắt xanh, nhìn tôi một cái. Chậm rãi thong dong, rã rượi khôn hàn, đầu mày cuối mắt, bãi động tương thân. Tôi định tới gần, bỗng dưng dừng lại. Cung cung kính kính, xá một lễ dài. Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng không đến nỗi lo âu mà cúi mặt.
Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng không đến nỗi lo âu mà cúi mặt. - Although the dainty girl’s cheeks were flushed on this occasion, she did not appear to be so bashful as she had been on the previous occasion when she felt so shy that she did not know what to do. Mặc dầu má hồng e ấp cũng có ửng đỏ lên chút ít trong cái cơ hội gay cấn khôn hàn nọ, nhưng dù sao nường cũng không có vẻ quá thẹn thuồng như ban sơ buổi mới, đến nổi cảm thấy lóng cóng luống cuống cả tứ chi, không còn biết mở miệng ăn mần răng nói mần răng với máu me ở trong mình mẩy rục rịch dập dồn. At a glance I perceived that she desired to speak but said no thing. “Dư thiểu chúc, giác ngọc nhân tợ dục ngôn nhi vị ngôn” Tôi nhìn thoáng qua, biết rằng người ngọc dường muốn mở miệng nói điều gì, nhưng ngại ngần chưa nói (chẳng nói gì cả). Tôi càng bối rối luýnh quýnh khôn hàn trong cái cơn dẽ giun tao phùng cầy sấy kia đó ạ. Ôi em Kim Cương ngàn thu một thuở, Nương Tử rất mực vô ngần Nam Diện cành Nam màu lan sơn thủy sơ khai tại sơ đầu cổ độ, cổ mở ra hoa đà đún đẩy, sơ hở một đôi phen lăng tằng phôi dựng rất mực, một ù lỳ, hai sàm sỡ, ba bốn dục trích sàm diên bên phi tuyền xuất sơn vẫn muôn vàn thanh thúy thẩm thúy hằng miền cõi một Đa Mang. My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to do. I could only lower my head and gaze at the ground.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng không đến nỗi lo âu mà cúi mặt. - Although the dainty girl’s cheeks were flushed on this occasion, she did not appear to be so bashful as she had been on the previous occasion when she felt so shy that she did not know what to do. Mặc dầu má hồng e ấp cũng có ửng đỏ lên chút ít trong cái cơ hội gay cấn khôn hàn nọ, nhưng dù sao nường cũng không có vẻ quá thẹn thuồng như ban sơ buổi mới, đến nổi cảm thấy lóng cóng luống cuống cả tứ chi, không còn biết mở miệng ăn mần răng nói mần răng với máu me ở trong mình mẩy rục rịch dập dồn. At a glance I perceived that she desired to speak but said no thing. “Dư thiểu chúc, giác ngọc nhân tợ dục ngôn nhi vị ngôn” Tôi nhìn thoáng qua, biết rằng người ngọc dường muốn mở miệng nói điều gì, nhưng ngại ngần chưa nói (chẳng nói gì cả). Tôi càng bối rối luýnh quýnh khôn hàn trong cái cơn dẽ giun tao phùng cầy sấy kia đó ạ. Ôi em Kim Cương ngàn thu một thuở, Nương Tử rất mực vô ngần Nam Diện cành Nam màu lan sơn thủy sơ khai tại sơ đầu cổ độ, cổ mở ra hoa đà đún đẩy, sơ hở một đôi phen lăng tằng phôi dựng rất mực, một ù lỳ, hai sàm sỡ, ba bốn dục trích sàm diên bên phi tuyền xuất sơn vẫn muôn vàn thanh thúy thẩm thúy hằng miền cõi một Đa Mang. My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to do. I could only lower my head and gaze at the ground.
My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to do. I could only lower my head and gaze at the ground. Tôi bối rối một cơn rối bối đến cái độ hãi hùng hãi sợ nhiên là khiếp đảm tán phách phi hồn, đảo tứ điên tam đa tàm nhị bội. Tôi vụt nhảy lùi ra sau một bước rưỡi chẳng cón biết ăn mần răng nói mần răng vào cái lúc đó bấy giờ. Tôi chỉ còn biết cúi gầm cái đầu bù tóc rối của tôi xuống, nhìn chi trên đất nhạt cỏ mọc tùm lum liên tồn lá cỏ? Sau một lúc lâu, thật là lâu liên tồn rất mực, chợt trên đóa tàn cúc một vật gì lấp lánh trước mặt tôi, phiêu phiêu phiêu nhiên như phấn điệp, lửng lơ phù động sắp vụt bay đi. Bay đi đâu mà dung dằng nửa đậu nửa đi như thế? Hỡi linh hồn tinh thể mù sương! Tôi vội vã tiến bước tới đưa tay bắt lấy. Mới hay rằng đó là tấm màn lụa long lanh như cánh ve mùa thu động đậy, vốn ban sơ nằm ở trên đầu tóc của ngọc nhân, rồi sau đó ngẫu nhiên chẳng rõ vì cớ chi mà lập lòe bay vút. Vừa cầm vào trong tay, đã vừa có ý muốn quẳng nó ra xa. Lại nghĩ rằng làm như rứa e đắc tội với lễ tiết trung dung. Tức thì tôi ngẩn ngơ một cái. Đưa tay ra toan đặt tấm lụa vào năm ngón ngọc nhân. Ngọc nhân tri ngộ sự tình, tức thì thể thái thong dong, thần hồn chậm rãi, bèn đưa hai vòng tay ngọc ra tiếp đón lấy tấm lụa ngà. Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng:
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to do. I could only lower my head and gaze at the ground. Tôi bối rối một cơn rối bối đến cái độ hãi hùng hãi sợ nhiên là khiếp đảm tán phách phi hồn, đảo tứ điên tam đa tàm nhị bội. Tôi vụt nhảy lùi ra sau một bước rưỡi chẳng cón biết ăn mần răng nói mần răng vào cái lúc đó bấy giờ. Tôi chỉ còn biết cúi gầm cái đầu bù tóc rối của tôi xuống, nhìn chi trên đất nhạt cỏ mọc tùm lum liên tồn lá cỏ? Sau một lúc lâu, thật là lâu liên tồn rất mực, chợt trên đóa tàn cúc một vật gì lấp lánh trước mặt tôi, phiêu phiêu phiêu nhiên như phấn điệp, lửng lơ phù động sắp vụt bay đi. Bay đi đâu mà dung dằng nửa đậu nửa đi như thế? Hỡi linh hồn tinh thể mù sương! Tôi vội vã tiến bước tới đưa tay bắt lấy. Mới hay rằng đó là tấm màn lụa long lanh như cánh ve mùa thu động đậy, vốn ban sơ nằm ở trên đầu tóc của ngọc nhân, rồi sau đó ngẫu nhiên chẳng rõ vì cớ chi mà lập lòe bay vút. Vừa cầm vào trong tay, đã vừa có ý muốn quẳng nó ra xa. Lại nghĩ rằng làm như rứa e đắc tội với lễ tiết trung dung. Tức thì tôi ngẩn ngơ một cái. Đưa tay ra toan đặt tấm lụa vào năm ngón ngọc nhân. Ngọc nhân tri ngộ sự tình, tức thì thể thái thong dong, thần hồn chậm rãi, bèn đưa hai vòng tay ngọc ra tiếp đón lấy tấm lụa ngà. Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng:
Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng: - Đa tạ Tam Lang đại ân đại đức từ bi vô lượng biến bố khắp mặt chúng sinh mười phương quốc độ. Không có Tam Lang ra tay tế độ, thì vong hồn tinh thể tiểu muội e đã đi đời cửa quỷ nhà ma. Môi đào thỏ thẻ hé ra nói mấy mời từ bi như thế, lập thời tôi nhận ra tỷ mỷ rằng đó là lần ban sơ duy nhất của ngọc nhân ngẫu nhiên từ bi mở môi đào ra lần đầu tiên ôn tồn thỏ thẻ. Hai vành tịch hạp rất mực anh đào, kể từ đó về sau liên tồn tiếp tục mà mọc cỏ trổ bong hoa. Ban sơ trổ he hé hàm tiếu vén xiêm. Dần dà trổ rộng thong dong thoải mái theo du trường tuế nguyệt. Từ đó tôi tự niệm đậm đà giữa cuộc ở trong cơn mà thể hội thường hằng nơi chốn cư lưu của từ bi một vùng đeo đai Thanh Cấm Nguyệt. Nữ Lang Nương Tử đã đi về gieo rắc hồng ân chan rưới xuống khắp hình hài thân thể máu me xương xẩu tôi. Tuy nhiên trong ban sơ lạ lùng buổi mới đó, với cái ân huệ di dư thành khẩn khoản đãi kia, cũng đồng thời khiến cho tâm khảm là đà lay lắt của trái tim tôi càng keo sơn sắc mắc se sắt dị thường cơn rục rịch, và chẳng biết phải thốt ra cái lời gì tương nghi tương hợp với linh hồn mồn một chan rưới hồng huệ xuống cho tôi, để có thể gọi là đền bồi một cách thích đương hoặc là thích đáng. Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng: - Đa tạ Tam Lang đại ân đại đức từ bi vô lượng biến bố khắp mặt chúng sinh mười phương quốc độ. Không có Tam Lang ra tay tế độ, thì vong hồn tinh thể tiểu muội e đã đi đời cửa quỷ nhà ma. Môi đào thỏ thẻ hé ra nói mấy mời từ bi như thế, lập thời tôi nhận ra tỷ mỷ rằng đó là lần ban sơ duy nhất của ngọc nhân ngẫu nhiên từ bi mở môi đào ra lần đầu tiên ôn tồn thỏ thẻ. Hai vành tịch hạp rất mực anh đào, kể từ đó về sau liên tồn tiếp tục mà mọc cỏ trổ bong hoa. Ban sơ trổ he hé hàm tiếu vén xiêm. Dần dà trổ rộng thong dong thoải mái theo du trường tuế nguyệt. Từ đó tôi tự niệm đậm đà giữa cuộc ở trong cơn mà thể hội thường hằng nơi chốn cư lưu của từ bi một vùng đeo đai Thanh Cấm Nguyệt. Nữ Lang Nương Tử đã đi về gieo rắc hồng ân chan rưới xuống khắp hình hài thân thể máu me xương xẩu tôi. Tuy nhiên trong ban sơ lạ lùng buổi mới đó, với cái ân huệ di dư thành khẩn khoản đãi kia, cũng đồng thời khiến cho tâm khảm là đà lay lắt của trái tim tôi càng keo sơn sắc mắc se sắt dị thường cơn rục rịch, và chẳng biết phải thốt ra cái lời gì tương nghi tương hợp với linh hồn mồn một chan rưới hồng huệ xuống cho tôi, để có thể gọi là đền bồi một cách thích đương hoặc là thích đáng. Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch.
Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch. If Shappho were to come to life again, she would not possess such artless beauty. Giả như mà Shappho trùng sinh trên tam sinh thạch thượng, ắt là nường cũng hẳn nhiên không thể nào có được hoặc sở hữu được cái dung nghi kiều lệ thơ ngây thuần phác thiên nhiên nọ. Bình sinh tôi đã chết, tại hạ đã ra ma hai phen rồi, sao lần này còn đeo đai định chết lịm trong trận trầm túy nịch nhân kia cho đủ bốn lần bấn loạn, thế là nghĩa lý gì như vậy đó chăng ru? This moment was enough to derive one out of his senses. Khoảnh khắc sát na thiểm động bôn đằng kia đã đủ để nhiếp dẫn con người ta ra khỏi vòng của linh hồn thong tuệ để nhập vào cõi hồn xiêu phách lạc đảo tứ điên tam. –Tam sư muội ấy là tam? Tam chanh tam quít, tam cam cõi lòng? Thưa rằng tại hạ không dám biết. Dẫu rằng chiêm bao lẽo đẽo biết có dám lắm chẳng nhe? The lovely one inclined her head to one side for a time, and let out soft, gentle mysterious murmurs. Đúng là biết ra như thế đó. “Ngọc nhân tầm phục phủ kỳ cảnh, thổ uyển diệu chi âm…”. Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh… “vi vi ngôn viết” rất mực mà rằng; - Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng?
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch. If Shappho were to come to life again, she would not possess such artless beauty. Giả như mà Shappho trùng sinh trên tam sinh thạch thượng, ắt là nường cũng hẳn nhiên không thể nào có được hoặc sở hữu được cái dung nghi kiều lệ thơ ngây thuần phác thiên nhiên nọ. Bình sinh tôi đã chết, tại hạ đã ra ma hai phen rồi, sao lần này còn đeo đai định chết lịm trong trận trầm túy nịch nhân kia cho đủ bốn lần bấn loạn, thế là nghĩa lý gì như vậy đó chăng ru? This moment was enough to derive one out of his senses. Khoảnh khắc sát na thiểm động bôn đằng kia đã đủ để nhiếp dẫn con người ta ra khỏi vòng của linh hồn thong tuệ để nhập vào cõi hồn xiêu phách lạc đảo tứ điên tam. –Tam sư muội ấy là tam? Tam chanh tam quít, tam cam cõi lòng? Thưa rằng tại hạ không dám biết. Dẫu rằng chiêm bao lẽo đẽo biết có dám lắm chẳng nhe? The lovely one inclined her head to one side for a time, and let out soft, gentle mysterious murmurs. Đúng là biết ra như thế đó. “Ngọc nhân tầm phục phủ kỳ cảnh, thổ uyển diệu chi âm…”. Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh… “vi vi ngôn viết” rất mực mà rằng; - Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng?
Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh… “vi vi ngôn viết” rất mực mà rằng; - Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng? Chốn Đậu Tử khí hậu ôn hòa, em thật lòng tơ tưởng tới viếng thăm phong cảnh ấy, phụng yết anh hoa phong vận phát tiết bao giờ, nhưng mẹ ở nhà công việc bề bộn quá, em chỉ sợ năm nay chưa thể trừu thân đột xuất phụng bồi lưỡng nghi tịch hạp. Vùng đất đai này so với miền Đậu Tử kia ắt nhiên cũng một thể thái thanh nghiêm u nhã thúy triệt một như nhiên mà thôi môi thà ra cũng thế vậy. Duy có khí hậu là khác nhau thôi. Một bên cứng, một bên mềm vậy. Ấy bởi vì mềm này ở tại ở trung tâm núi non cấm địa vậy. (The clear atmosphere and quiet of this place, compared with that of Hakone, is the same; but the climate is altogether different, for Hakone is in the heart of the mountains). Đường nhân vịnh La Phù thi vân: “Du nhân mạc chước đơn y khứ Lục nguyệt phi vân đái tuyết hàn”. Người đời Đường vịnh núi La Phù có thơ rằng: “Khách đi, áo mỏng mặc vào Liệu chừng chớ thế mà hao tổn mình Mây bay tháng sáu rập rình Mang về gió tuyết biên đình lạnh ghê”. (The Tang poets wrote of Mt. Lo- Fu, saying: “Excursioners should not wear light clothes to this spot; the flying clouds of the sixth moon carry the chilliness of snow.”…) “Miêu cương mạc ngoại sở tề Song đôi là thói đề huề thể thân Xin người anh hãy lại gần Tiền trình vạn lý vô ngần có em” “Ngô tư thử ngữ di dụng ư thử, phạ giác thân thiết hữu vị.
Hãy viết tiếp đoạn văn hoặc thơ sau theo phong cách của Bùi Giáng
Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh… “vi vi ngôn viết” rất mực mà rằng; - Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng? Chốn Đậu Tử khí hậu ôn hòa, em thật lòng tơ tưởng tới viếng thăm phong cảnh ấy, phụng yết anh hoa phong vận phát tiết bao giờ, nhưng mẹ ở nhà công việc bề bộn quá, em chỉ sợ năm nay chưa thể trừu thân đột xuất phụng bồi lưỡng nghi tịch hạp. Vùng đất đai này so với miền Đậu Tử kia ắt nhiên cũng một thể thái thanh nghiêm u nhã thúy triệt một như nhiên mà thôi môi thà ra cũng thế vậy. Duy có khí hậu là khác nhau thôi. Một bên cứng, một bên mềm vậy. Ấy bởi vì mềm này ở tại ở trung tâm núi non cấm địa vậy. (The clear atmosphere and quiet of this place, compared with that of Hakone, is the same; but the climate is altogether different, for Hakone is in the heart of the mountains). Đường nhân vịnh La Phù thi vân: “Du nhân mạc chước đơn y khứ Lục nguyệt phi vân đái tuyết hàn”. Người đời Đường vịnh núi La Phù có thơ rằng: “Khách đi, áo mỏng mặc vào Liệu chừng chớ thế mà hao tổn mình Mây bay tháng sáu rập rình Mang về gió tuyết biên đình lạnh ghê”. (The Tang poets wrote of Mt. Lo- Fu, saying: “Excursioners should not wear light clothes to this spot; the flying clouds of the sixth moon carry the chilliness of snow.”…) “Miêu cương mạc ngoại sở tề Song đôi là thói đề huề thể thân Xin người anh hãy lại gần Tiền trình vạn lý vô ngần có em” “Ngô tư thử ngữ di dụng ư thử, phạ giác thân thiết hữu vị.
“Miêu cương mạc ngoại sở tề Song đôi là thói đề huề thể thân Xin người anh hãy lại gần Tiền trình vạn lý vô ngần có em” “Ngô tư thử ngữ di dụng ư thử, phạ giác thân thiết hữu vị. Vị tri Tam Lang dĩ ngô ngôn hữu đương bất?” – Em suy gẫm cái lời kia đem dịch di sử dụng vào cuộc này, coi chừng như có phần thân thiết mùi hương đậm đà ý vị. Chẳng biết anh Tam Lang xét lời em có thích đương hay chăng? When I heard the lovelyone’s allusion, I felt strangely startled, and merely muttered to myself, for I was unable to frame an answer. Nghe ngọc nhân âm thầm chỉ định ôn tồn ra như thế, lòng tôi liên tồn kỳ lạ kinh hãi, máu me nổi da gà ra ngoài da vịt. Chỉ còn biết ấm ớ dấm dớ lời không thốt ra ngoài môi đáp ứng gì được cả. Lâu một chặp sau đó (sau đó một chặp), tuy nhiên tôi vẫn cung kính nói được ra cái lời: - Đa tạ cô nương phân thần cập ngã. Cô nương rộng lượng từ bi ra như thế chan rưới mưa móc liên tồn cho tại hạ, mà cam lòng chiếu cố một phen luống những tới hàn gia hàn xá ở mé tây thiên, thì than ôi, để cho tại hạ được có phen sớm hôm phụng bồi tả hữu phía trước và ngay cả phía sau, những lần bận bận phen phen nào chúng ta tạm mở cuộc với nam hải điều đồ mà thùy luân ư hoang thôn hàn dũ. Đến điều tinh thể sao là bỗng dưng. Canh rau muống dĩa muối vừng Một hôm nằm mộng nghe mừng hai hôm Chiêm bao phố thị hội đàm Với trăng châu thổ gái chàm đã qua Xứ chiêm thừa thãi giang hà Dư vang để lại cho nhà cửa xin Dâng lời vô hạn oan khiên Lời điên tiếng dại câu chìm lặng câu