instruction
stringclasses 1
value | input
stringlengths 1.12k
1.5k
| output
stringlengths 181
1.5k
|
---|---|---|
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn chọn những chương trình hay trên các đài truyền hình và chỉ mở máy để nghe những chương trình ấy mà thôi.
Và bạn chọn những khung cảnh đẹp đẽ và êm mát, những buổi sum họp thân mật với những người bạn yêu mến, những cuốn sách và những đĩa hát bạn ưa thích v.v... Tất cả những gì bạn đã chọn, bạn hãy sống thật thoải mái và có ý thức với chúng.
Bạn nhớ rằng: mình chọn những cái gì thì mình sẽ là cái ấy.
Có khi nào ở trước bãi biển lúc mặt trời mọc hoặc trên núi cao lúc giữa trưa, bạn vươn vai thở một hơi dài hít vào đầy phổi không khí trong sạch của bầu trời lồng lộng nơi ấy?
Có phải là bạn thấy mình là một với trời biển và núi sông không?
Nếu bạn nghĩ rằng bạn ở xa biển, xa núi quá thì bạn hãy ngồi lại trong tư thế hoa sen, và làm như người hành giả kia, thở một hơi thở vừa nhẹ vừa dài, và đưa biển, núi và thái hư về trong bạn.
Hoặc bạn ra bờ sông hoặc ra công viên gần nơi bạn cư trú.
Ðối tượng nhận thức không thể tách rời khỏi chủ thể nhận thức
Ý thức là ý thức về một cái gì, vì vậy đối tượng quán chiếu của tâm cũng là tâm.
Khi quán chiếu núi thì tâm là núi, khi quán chiếu biển thì tâm là biển.
Duy thức học nhấn mạnh đến điểm đó: nhận thức bao hàm cả chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức.
Khi ta quán chiếu thân thể ta thì ta giới hạn nhận thức của ta trong phạm vi thân thể ta, và ta là thân thể ta, dù rằng thân thể ta không phải là một thực thể riêng biệt, độc lập, có thể tồn tại độc lập với vũ trụ. | Cũng như thế, khi quán niệm về không gian vô biên, ta đồng nhất với không gian vô biên, và ta đi vào một trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.
Đó là một trong bốn cảnh giới thiền định gọi là tứ không định (kaśānantyāyatana).
Nếu ta quán niệm về tâm thức bao hàm cả không thời gian và an trú trong trạng thái quán niệm ấy, thì ta đi vào thức vô biên xứ định (vijnānanāntyāyatana).
Nếu ta quán niệm về đặc tính vô tướng của tất cả các pháp trong vũ trụ thì ta đi vào vô sở hữu xứ định (ākincanyāyatana).
Khi ta quán niệm về nhận thức trong đó không còn sự phân biệt chủ thể và đối tượng thì ta đi vào phi tưởng phi phi tưởng định (aivasañjnānāsanjnāyatana).
Bốn trạng thái thiền định này không phải là khó thực hiện như nhiều người thường nghĩ, miễn là ta biết thường trực quan sát đường đi nước bước của tâm ta.
Bạn có muốn thực tập thì cứ thử, nhưng nếu không thực tập cũng không sao.
Ðiều cần nhắc ở đây là đừng gạt tất cả những gì mà bạn cho là đối tượng của nhận thức ra khỏi nhận thức.
Thân thể của bạn, cũng như đỉnh núi và dòng sông kia một khi được bạn nhận thức, đều là tâm của bạn.
Buông bỏ ý niệm trong và ngoài
Có lẽ bạn đã để ý rằng mỗi khi dùng mệnh đề "thế giới bên ngoài" tôi đều đặt nó trong vòng kép.
Tôi làm như thế là vì tôi không thực sự thấy rằng thế giới ấy là thế giới "bên ngoài".
Bạn thử quán sát xem: bên ngoài là bên ngoài của thân hay của tâm?
Thân thể ta, máu thịt và gân cốt ta đều thuộc về thế giới "bên ngoài" ấy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cũng như thế, khi quán niệm về không gian vô biên, ta đồng nhất với không gian vô biên, và ta đi vào một trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.
Đó là một trong bốn cảnh giới thiền định gọi là tứ không định (kaśānantyāyatana).
Nếu ta quán niệm về tâm thức bao hàm cả không thời gian và an trú trong trạng thái quán niệm ấy, thì ta đi vào thức vô biên xứ định (vijnānanāntyāyatana).
Nếu ta quán niệm về đặc tính vô tướng của tất cả các pháp trong vũ trụ thì ta đi vào vô sở hữu xứ định (ākincanyāyatana).
Khi ta quán niệm về nhận thức trong đó không còn sự phân biệt chủ thể và đối tượng thì ta đi vào phi tưởng phi phi tưởng định (aivasañjnānāsanjnāyatana).
Bốn trạng thái thiền định này không phải là khó thực hiện như nhiều người thường nghĩ, miễn là ta biết thường trực quan sát đường đi nước bước của tâm ta.
Bạn có muốn thực tập thì cứ thử, nhưng nếu không thực tập cũng không sao.
Ðiều cần nhắc ở đây là đừng gạt tất cả những gì mà bạn cho là đối tượng của nhận thức ra khỏi nhận thức.
Thân thể của bạn, cũng như đỉnh núi và dòng sông kia một khi được bạn nhận thức, đều là tâm của bạn.
Buông bỏ ý niệm trong và ngoài
Có lẽ bạn đã để ý rằng mỗi khi dùng mệnh đề "thế giới bên ngoài" tôi đều đặt nó trong vòng kép.
Tôi làm như thế là vì tôi không thực sự thấy rằng thế giới ấy là thế giới "bên ngoài".
Bạn thử quán sát xem: bên ngoài là bên ngoài của thân hay của tâm?
Thân thể ta, máu thịt và gân cốt ta đều thuộc về thế giới "bên ngoài" ấy. | Bạn thử quán sát xem: bên ngoài là bên ngoài của thân hay của tâm?
Thân thể ta, máu thịt và gân cốt ta đều thuộc về thế giới "bên ngoài" ấy.
Cho đến hệ thần kinh và óc tủy của chúng ta cũng đều thuộc về cùng một thế giới.
Cái dung tích mấy trăm phân khối chứa não bộ của ta, nó có phải là cái "thế giới bên trong" để đối với cái "thế giới bên ngoài" hay không?
Bạn nói là không, bởi vì nó là một phần của không gian, tức là một phần của thế giới bên ngoài.
Vậy thì thế giới bên trong là tâm, bạn nói.
Bạn có thể xác định được vị trí của tâm không?
Bạn hãy dùng tâm mà quan sát tâm như quan sát mọi hiện tượng khác mà ta gọi là vật lý.
Tâm liên hệ tới thần kinh và não bộ: tâm là ký ức và cảm giác, là tư tưởng, là nhận thức, những hiện tượng ấy có liên hệ tới gốc rễ sinh lý của chúng, có sinh diệt, có cường độ.
Bạn nói ta có thể xác định vị trí không gian và thời gian của chúng.
Về không gian thì căn cứ của chúng là thần kinh và não bộ.
Về thời gian thì chúng có thể phát hiện hôm qua, ngày nay hoặc ngày mai.
Như vậy dưới nhận thức của tâm, tâm trở thành một phần của cái thế giới mà ta gọi là thế giới bên ngoài.
Cứ theo đà ấy mà suy xét thì tất cả đều thuộc về thế giới bên ngoài ấy.
Nhưng bên ngoài là bên ngoài của cái gì?
Làm gì có bên ngoài nếu không có bên trong?
Những quan sát ấy không phải để đưa tới kết luận rằng thế giới bên ngoài nằm gọn trong tâm và tâm bao hàm tất cả pháp giới.
Bởi vì một kết luận như thế vẫn còn được đặt trên sự phân biệt trong và ngoài. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn thử quán sát xem: bên ngoài là bên ngoài của thân hay của tâm?
Thân thể ta, máu thịt và gân cốt ta đều thuộc về thế giới "bên ngoài" ấy.
Cho đến hệ thần kinh và óc tủy của chúng ta cũng đều thuộc về cùng một thế giới.
Cái dung tích mấy trăm phân khối chứa não bộ của ta, nó có phải là cái "thế giới bên trong" để đối với cái "thế giới bên ngoài" hay không?
Bạn nói là không, bởi vì nó là một phần của không gian, tức là một phần của thế giới bên ngoài.
Vậy thì thế giới bên trong là tâm, bạn nói.
Bạn có thể xác định được vị trí của tâm không?
Bạn hãy dùng tâm mà quan sát tâm như quan sát mọi hiện tượng khác mà ta gọi là vật lý.
Tâm liên hệ tới thần kinh và não bộ: tâm là ký ức và cảm giác, là tư tưởng, là nhận thức, những hiện tượng ấy có liên hệ tới gốc rễ sinh lý của chúng, có sinh diệt, có cường độ.
Bạn nói ta có thể xác định vị trí không gian và thời gian của chúng.
Về không gian thì căn cứ của chúng là thần kinh và não bộ.
Về thời gian thì chúng có thể phát hiện hôm qua, ngày nay hoặc ngày mai.
Như vậy dưới nhận thức của tâm, tâm trở thành một phần của cái thế giới mà ta gọi là thế giới bên ngoài.
Cứ theo đà ấy mà suy xét thì tất cả đều thuộc về thế giới bên ngoài ấy.
Nhưng bên ngoài là bên ngoài của cái gì?
Làm gì có bên ngoài nếu không có bên trong?
Những quan sát ấy không phải để đưa tới kết luận rằng thế giới bên ngoài nằm gọn trong tâm và tâm bao hàm tất cả pháp giới.
Bởi vì một kết luận như thế vẫn còn được đặt trên sự phân biệt trong và ngoài. | Bởi vì một kết luận như thế vẫn còn được đặt trên sự phân biệt trong và ngoài.
"Tất cả đều trong tâm, ngoài tâm không còn gì nữa".
Câu nói này cũng vô lý như câu nói: "Tâm ta nhận thức được thế giới bên ngoài".
Lý do của sự lúng túng nằm ở thói phân biệt trong và ngoài của chúng ta.
Trong đời sống thực dụng hằng ngày, sự phân biệt ấy rất cần thiết.
Ta phải phân biệt trong và ngoài, bởi vì vào mùa đông ở trong nhà ta có thể mặc ít áo, nhưng ra ngoài đường (tức là ngoài nhà!)
thì phải mặc cho thật ấm, nếu không muốn bị sưng phổi.
Các ý niệm như cao/thấp, một/nhiều, tới/đi, sinh/diệt v.v... cũng vậy, rất cần cho nhận thức và hành động thực dụng của sự sống hằng ngày.
Nhưng đến khi ta thoát ra khỏi phạm vi sự sống thực dụng đó mà đi vào sự quán sát thực tướng của vũ trụ thì ta phải rời bỏ các ý niệm kia.
Ví dụ khi ta ngửng đầu lên nhìn trăng sao, ta thường cho phía ấy là phía trên, nhưng cùng một lúc ấy những người đang đứng ở bán cầu bên kia trái đất của ta lại cho phía ấy là phía dưới.
Trên chỉ là trên đối với ta mà thôi.
Trên là trên trong cuộc sống thực dụng chứ không phải là trên của chân lý vũ trụ.
Muốn quán sát vũ trụ phải biết buông bỏ ý niệm trên dưới ấy.
Thực tại không chịu đựng được khuôn khổ
Vậy sự buông bỏ ý niệm về khuôn khổ rất cần thiết cho người thực tập thiền quán. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bởi vì một kết luận như thế vẫn còn được đặt trên sự phân biệt trong và ngoài.
"Tất cả đều trong tâm, ngoài tâm không còn gì nữa".
Câu nói này cũng vô lý như câu nói: "Tâm ta nhận thức được thế giới bên ngoài".
Lý do của sự lúng túng nằm ở thói phân biệt trong và ngoài của chúng ta.
Trong đời sống thực dụng hằng ngày, sự phân biệt ấy rất cần thiết.
Ta phải phân biệt trong và ngoài, bởi vì vào mùa đông ở trong nhà ta có thể mặc ít áo, nhưng ra ngoài đường (tức là ngoài nhà!)
thì phải mặc cho thật ấm, nếu không muốn bị sưng phổi.
Các ý niệm như cao/thấp, một/nhiều, tới/đi, sinh/diệt v.v... cũng vậy, rất cần cho nhận thức và hành động thực dụng của sự sống hằng ngày.
Nhưng đến khi ta thoát ra khỏi phạm vi sự sống thực dụng đó mà đi vào sự quán sát thực tướng của vũ trụ thì ta phải rời bỏ các ý niệm kia.
Ví dụ khi ta ngửng đầu lên nhìn trăng sao, ta thường cho phía ấy là phía trên, nhưng cùng một lúc ấy những người đang đứng ở bán cầu bên kia trái đất của ta lại cho phía ấy là phía dưới.
Trên chỉ là trên đối với ta mà thôi.
Trên là trên trong cuộc sống thực dụng chứ không phải là trên của chân lý vũ trụ.
Muốn quán sát vũ trụ phải biết buông bỏ ý niệm trên dưới ấy.
Thực tại không chịu đựng được khuôn khổ
Vậy sự buông bỏ ý niệm về khuôn khổ rất cần thiết cho người thực tập thiền quán. | Muốn quán sát vũ trụ phải biết buông bỏ ý niệm trên dưới ấy.
Thực tại không chịu đựng được khuôn khổ
Vậy sự buông bỏ ý niệm về khuôn khổ rất cần thiết cho người thực tập thiền quán.
Khi ta quán sát thân thể, cảm giác, tư tưởng và nhận thức của ta, ta cũng đặt chúng vào khuôn khổ không gian và thời gian như khi ta quán sát các hiện tượng vật lý, và như thế là ta đặt chúng vào cùng trong một thế giới, sắp đối tượng tâm lý bên cạnh các đối tượng sinh lý và vật lý.
Bạn đặt câu hỏi: tâm như là đối tượng quán sát có còn là tâm nữa hay chăng, hay chỉ là bóng dáng rơi rớt của tâm?
Bạn có thể hỏi tiếp: các đối tượng quán sát của tâm mà ta xếp vào hai phạm trù sinh lý và vật lý có còn nằm trong thể tính và tự thân của chúng hay không, hay chỉ còn là bóng dáng rơi rớt của một thực tại bị đối tượng hoá?
Tâm của ta đã tạo dựng ra những khuôn khổ như không gian và thời gian, trên và dưới, trong và ngoài, mình và người, nhân và quả, sinh và diệt, một và nhiều v.v... và đặt mọi hiện tượng sinh lý, vật lý và tâm lý vào trong những khuôn khổ đó để quan sát, mong tìm ra được chân tướng của chúng.
Thái độ đó là thái độ của người đem nước lã rót đầy vào các ve chai có hình thù lớn nhỏ tròn dài khác nhau để tìm hiểu tình trạng và dung tích của nước.
Thực tại trong tự thân nó không bao giờ chịu đựng được bất cứ khuôn khổ nào, và vì vậy người muốn thể nhập nó phải quăng bỏ những khuôn khổ ý niệm sử dụng trong đời sống thực dụng hằng ngày.
Các nhà khoa học vật lý hiện giờ cũng thấy được điều đó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Muốn quán sát vũ trụ phải biết buông bỏ ý niệm trên dưới ấy.
Thực tại không chịu đựng được khuôn khổ
Vậy sự buông bỏ ý niệm về khuôn khổ rất cần thiết cho người thực tập thiền quán.
Khi ta quán sát thân thể, cảm giác, tư tưởng và nhận thức của ta, ta cũng đặt chúng vào khuôn khổ không gian và thời gian như khi ta quán sát các hiện tượng vật lý, và như thế là ta đặt chúng vào cùng trong một thế giới, sắp đối tượng tâm lý bên cạnh các đối tượng sinh lý và vật lý.
Bạn đặt câu hỏi: tâm như là đối tượng quán sát có còn là tâm nữa hay chăng, hay chỉ là bóng dáng rơi rớt của tâm?
Bạn có thể hỏi tiếp: các đối tượng quán sát của tâm mà ta xếp vào hai phạm trù sinh lý và vật lý có còn nằm trong thể tính và tự thân của chúng hay không, hay chỉ còn là bóng dáng rơi rớt của một thực tại bị đối tượng hoá?
Tâm của ta đã tạo dựng ra những khuôn khổ như không gian và thời gian, trên và dưới, trong và ngoài, mình và người, nhân và quả, sinh và diệt, một và nhiều v.v... và đặt mọi hiện tượng sinh lý, vật lý và tâm lý vào trong những khuôn khổ đó để quan sát, mong tìm ra được chân tướng của chúng.
Thái độ đó là thái độ của người đem nước lã rót đầy vào các ve chai có hình thù lớn nhỏ tròn dài khác nhau để tìm hiểu tình trạng và dung tích của nước.
Thực tại trong tự thân nó không bao giờ chịu đựng được bất cứ khuôn khổ nào, và vì vậy người muốn thể nhập nó phải quăng bỏ những khuôn khổ ý niệm sử dụng trong đời sống thực dụng hằng ngày.
Các nhà khoa học vật lý hiện giờ cũng thấy được điều đó. | Các nhà khoa học vật lý hiện giờ cũng thấy được điều đó.
Thuyết Tương Ðối chủ trương rằng nếu không buông bỏ ý niệm thời gian và không gian độc lập và tuyệt đối thì không thể nào đi xa trên con đường hiểu biết vũ trụ.
Thuyết Lượng Tử nói rằng đi vào thế giới vật thể cực vi thì phải bỏ lại các ý niệm sự vật, có không, nhân quả, trước sau v.v... thường được áp dụng trong thế giới sinh hoạt thực dụng hằng ngày.
Tuệ là công trình của quán chiếu không phải của suy tư
Các khoa học gia thuyết Lượng Tử bây giờ cũng biết rằng tâm quán sát của ta có liên hệ mật thiết tới vật ta quán sát, và đã bắt đầu nói nhiều tới tâm.
Năm 1979, đài France Culture có tổ chức một tuần lễ tọa đàm tại Cordoue, Y Pha Nho, về vị trí của tâm trong khoa học, và nhiều học giả nổi tiếng các nước đã được mời tới tham dự.
Ðề tài tọa đàm là Khoa Học và Tâm Thức (Science et Conscienne).
Nhiều khoa học gia tham dự đã tỏ ý tin tưởng rằng tâm và thế giới cùng có chung một thể tính.
[6]
Các khoa học gia thấy được tính cách then chốt của tâm, nhưng đa số cũng còn nghiên cứu tâm như những đối tượng khác trong phòng thí nghiệm của họ: tâm ở đây không còn là tâm mà là những hình bóng rơi rụng của tâm gắn trong những khuôn khổ ý niệm.
Chắc bạn còn nói đến câu này trong Kinh Niệm Xứ: quán niệm thân thể trong thân thể, quán niệm cảm giác trong cảm giác, quán niệm tâm thức nơi tâm thức, quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Các nhà khoa học vật lý hiện giờ cũng thấy được điều đó.
Thuyết Tương Ðối chủ trương rằng nếu không buông bỏ ý niệm thời gian và không gian độc lập và tuyệt đối thì không thể nào đi xa trên con đường hiểu biết vũ trụ.
Thuyết Lượng Tử nói rằng đi vào thế giới vật thể cực vi thì phải bỏ lại các ý niệm sự vật, có không, nhân quả, trước sau v.v... thường được áp dụng trong thế giới sinh hoạt thực dụng hằng ngày.
Tuệ là công trình của quán chiếu không phải của suy tư
Các khoa học gia thuyết Lượng Tử bây giờ cũng biết rằng tâm quán sát của ta có liên hệ mật thiết tới vật ta quán sát, và đã bắt đầu nói nhiều tới tâm.
Năm 1979, đài France Culture có tổ chức một tuần lễ tọa đàm tại Cordoue, Y Pha Nho, về vị trí của tâm trong khoa học, và nhiều học giả nổi tiếng các nước đã được mời tới tham dự.
Ðề tài tọa đàm là Khoa Học và Tâm Thức (Science et Conscienne).
Nhiều khoa học gia tham dự đã tỏ ý tin tưởng rằng tâm và thế giới cùng có chung một thể tính.
[6]
Các khoa học gia thấy được tính cách then chốt của tâm, nhưng đa số cũng còn nghiên cứu tâm như những đối tượng khác trong phòng thí nghiệm của họ: tâm ở đây không còn là tâm mà là những hình bóng rơi rụng của tâm gắn trong những khuôn khổ ý niệm.
Chắc bạn còn nói đến câu này trong Kinh Niệm Xứ: quán niệm thân thể trong thân thể, quán niệm cảm giác trong cảm giác, quán niệm tâm thức nơi tâm thức, quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. | Câu này có nghĩa là: sống chánh niệm với thân thể chứ không phải là khảo cứu về thân thể như một đối tượng, sống chánh niệm với cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức chứ không phải là khảo cứu về cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức như những đối tượng.
Khi ta quán niệm về thân thể ta, ta sống với thân thể ta như một thực tại với tất cả sự chăm chú và tỉnh táo của ta, ta là một với thân thể ta, cũng như khi ánh sáng chiếu vào một nụ hoa nó thâm nhập vào nụ hoa, làm một với nụ hoa và làm cho nụ hoa hé nở.
Công phu quán niệm làm phát hiện không phải là một ý niệm về thực tại mà là một cái thấy về thực tại.
Cái thấy đó là tuệ, do niệm và định đưa đẩy tới.
Suy tư là xây dựng nên những kiến trúc tư tưởng bằng những viên gạch ý niệm rút từ kho tàng ký ức.
Tự thân của suy tư không có giá trị sáng tạo.
Chỉ khi nào Tuệ được phát hiện thì suy tư mới có thực chất mới.
Tuệ không phải là do suy tư đưa tới: nó là công trình của sự quán chiếu.
Tuệ có thể nhờ tư tưởng chuyên chở, nhưng tư tưởng nhiều khi khó chuyên chở được Tuệ, bởi vì tư tưởng thường hay bị các phạm trù ý niệm của chúng điều khiển và gò bó.
Tư tưởng và ngôn ngữ nhiều khi không diễn tả được Tuệ hay bằng một cái nhìn hay một tiếng cười, chính là gì thế.
Ðiệu múa của loài ong
Bạn đã từng dọc sách hoặc xem phim về sinh hoạt loài ong chưa.
Khi con ong thợ phát kiến được một địa điểm nhiều hoa, nó bay về tổ báo cho đồng loại biết phương hướng và vị trí của địa điểm này bằng cách đi vài đường múa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Câu này có nghĩa là: sống chánh niệm với thân thể chứ không phải là khảo cứu về thân thể như một đối tượng, sống chánh niệm với cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức chứ không phải là khảo cứu về cảm giác, tâm thức và đối tượng tâm thức như những đối tượng.
Khi ta quán niệm về thân thể ta, ta sống với thân thể ta như một thực tại với tất cả sự chăm chú và tỉnh táo của ta, ta là một với thân thể ta, cũng như khi ánh sáng chiếu vào một nụ hoa nó thâm nhập vào nụ hoa, làm một với nụ hoa và làm cho nụ hoa hé nở.
Công phu quán niệm làm phát hiện không phải là một ý niệm về thực tại mà là một cái thấy về thực tại.
Cái thấy đó là tuệ, do niệm và định đưa đẩy tới.
Suy tư là xây dựng nên những kiến trúc tư tưởng bằng những viên gạch ý niệm rút từ kho tàng ký ức.
Tự thân của suy tư không có giá trị sáng tạo.
Chỉ khi nào Tuệ được phát hiện thì suy tư mới có thực chất mới.
Tuệ không phải là do suy tư đưa tới: nó là công trình của sự quán chiếu.
Tuệ có thể nhờ tư tưởng chuyên chở, nhưng tư tưởng nhiều khi khó chuyên chở được Tuệ, bởi vì tư tưởng thường hay bị các phạm trù ý niệm của chúng điều khiển và gò bó.
Tư tưởng và ngôn ngữ nhiều khi không diễn tả được Tuệ hay bằng một cái nhìn hay một tiếng cười, chính là gì thế.
Ðiệu múa của loài ong
Bạn đã từng dọc sách hoặc xem phim về sinh hoạt loài ong chưa.
Khi con ong thợ phát kiến được một địa điểm nhiều hoa, nó bay về tổ báo cho đồng loại biết phương hướng và vị trí của địa điểm này bằng cách đi vài đường múa. | Khi con ong thợ phát kiến được một địa điểm nhiều hoa, nó bay về tổ báo cho đồng loại biết phương hướng và vị trí của địa điểm này bằng cách đi vài đường múa.
Có nhiều điểm xa cách tổ ong đến hàng cây số.
Học giả K. Von Frisch từng nghiên cứu về ngôn ngữ "múa" ấy của loài ong.
Loài người cũng biết múa và có nhiều nghệ sĩ từng diễn tả nội tâm bằng những điệu múa… Có người diễn tả nội tâm bằng âm nhạc hoặc hội họa.
Lời nói của chúng ta cũng chỉ là những đường múa, những tiếng hát, những nét họa.
Nó có thể vụng về hoặc khéo léo.
Nó có thể chuyên chở được nhiều hay ít cái thấy của chúng ta.
Nhưng sự khéo léo không phải chỉ cần thiết ở người sử dụng ngôn ngữ.
Chính người nghe cũng phải khéo léo và tinh ý.
Bởi ngôn ngữ thường không thoát được những phạm trù ý niệm.
Dầu người nói có khéo léo lách thoát khỏi một mớ phạm trù này thì người nghe cũng có thể rơi vào cạm bẫy của những phạm trù ấy.
Bởi vì những chai và bình của ta đem ra để đựng nước đều có sẵn những hình thái và dung lượng của chúng.
Thiền giả hay nói đến tính cách "bất lập văn tự" không phải nhất thiết là để phủ nhận khả năng diễn đạt của văn tự mà chỉ là để đề phòng sự chấp chặt vào văn tự của người sử dụng cũng như của người tiếp nhận.
Những tác phẩm như Trung Quán Luận của luận sư Long Thọ (sáng tác vào thế kỷ thứ hai dương lịch) biểu trưng cho ý thức muốn sử dụng ý niệm để đập vỡ ý niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi con ong thợ phát kiến được một địa điểm nhiều hoa, nó bay về tổ báo cho đồng loại biết phương hướng và vị trí của địa điểm này bằng cách đi vài đường múa.
Có nhiều điểm xa cách tổ ong đến hàng cây số.
Học giả K. Von Frisch từng nghiên cứu về ngôn ngữ "múa" ấy của loài ong.
Loài người cũng biết múa và có nhiều nghệ sĩ từng diễn tả nội tâm bằng những điệu múa… Có người diễn tả nội tâm bằng âm nhạc hoặc hội họa.
Lời nói của chúng ta cũng chỉ là những đường múa, những tiếng hát, những nét họa.
Nó có thể vụng về hoặc khéo léo.
Nó có thể chuyên chở được nhiều hay ít cái thấy của chúng ta.
Nhưng sự khéo léo không phải chỉ cần thiết ở người sử dụng ngôn ngữ.
Chính người nghe cũng phải khéo léo và tinh ý.
Bởi ngôn ngữ thường không thoát được những phạm trù ý niệm.
Dầu người nói có khéo léo lách thoát khỏi một mớ phạm trù này thì người nghe cũng có thể rơi vào cạm bẫy của những phạm trù ấy.
Bởi vì những chai và bình của ta đem ra để đựng nước đều có sẵn những hình thái và dung lượng của chúng.
Thiền giả hay nói đến tính cách "bất lập văn tự" không phải nhất thiết là để phủ nhận khả năng diễn đạt của văn tự mà chỉ là để đề phòng sự chấp chặt vào văn tự của người sử dụng cũng như của người tiếp nhận.
Những tác phẩm như Trung Quán Luận của luận sư Long Thọ (sáng tác vào thế kỷ thứ hai dương lịch) biểu trưng cho ý thức muốn sử dụng ý niệm để đập vỡ ý niệm. | Những tác phẩm như Trung Quán Luận của luận sư Long Thọ (sáng tác vào thế kỷ thứ hai dương lịch) biểu trưng cho ý thức muốn sử dụng ý niệm để đập vỡ ý niệm.
Trung quán Luận không nhắm tới sự thành lập một ý niệm hay một luận thuyết nào hết mà chỉ nhằm tới sự phá bỏ tất cả mọi ý niệm, đập vỡ hết cả tất cả mọi chai lọ, ống và bình để cho ta thấy nước là một cái gì không cần hình tướng mà vẫn hiện thực.
Trung Quán Luận là những điệu múa nhằm giúp ta bỏ lại các khuôn khổ ý niệm trước khi đi vào sự thể nghiệm thực tại.
Ðiệu múa ấy chỉ là phương tiện phá bỏ chướng ngại trên con đường thể nghiệm thực tại mà không phải là một hình ảnh thực tại được mô tả.
Kiến thức là chướng ngại của tuệ giác
Những phát minh lớn của khoa học không phải là hoa trái của suy tư mà là của tuệ giác.
Công cụ của nhà khoa học không phải chỉ là trí năng và phòng thí nghiệm mà là cả con người của ông ta, trong đó có phần vô thức thâm sâu.
Trí năng đóng vai trò ươm hạt và vun xén.
Nó gieo hạt nghi án vào mảnh đất tâm.
Chừng nào hạt chưa mọc mầm thành cây thì trí năng vẫn còn chưa làm được trò trống gì, chỉ suốt ngày đánh võ trong hư không.
Hạt nghi án nở thành mầm tuệ giác vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là những lúc mà trí năng không hoạt động, không "đánh võ trong hư không".
Tuệ giác đó là một cống hiến của công trình ấp ủ của nhà khoa học, trong lúc thức cũng như trong giấc ngủ, trong khi ăn cũng như lúc đi bách bộ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những tác phẩm như Trung Quán Luận của luận sư Long Thọ (sáng tác vào thế kỷ thứ hai dương lịch) biểu trưng cho ý thức muốn sử dụng ý niệm để đập vỡ ý niệm.
Trung quán Luận không nhắm tới sự thành lập một ý niệm hay một luận thuyết nào hết mà chỉ nhằm tới sự phá bỏ tất cả mọi ý niệm, đập vỡ hết cả tất cả mọi chai lọ, ống và bình để cho ta thấy nước là một cái gì không cần hình tướng mà vẫn hiện thực.
Trung Quán Luận là những điệu múa nhằm giúp ta bỏ lại các khuôn khổ ý niệm trước khi đi vào sự thể nghiệm thực tại.
Ðiệu múa ấy chỉ là phương tiện phá bỏ chướng ngại trên con đường thể nghiệm thực tại mà không phải là một hình ảnh thực tại được mô tả.
Kiến thức là chướng ngại của tuệ giác
Những phát minh lớn của khoa học không phải là hoa trái của suy tư mà là của tuệ giác.
Công cụ của nhà khoa học không phải chỉ là trí năng và phòng thí nghiệm mà là cả con người của ông ta, trong đó có phần vô thức thâm sâu.
Trí năng đóng vai trò ươm hạt và vun xén.
Nó gieo hạt nghi án vào mảnh đất tâm.
Chừng nào hạt chưa mọc mầm thành cây thì trí năng vẫn còn chưa làm được trò trống gì, chỉ suốt ngày đánh võ trong hư không.
Hạt nghi án nở thành mầm tuệ giác vào những lúc bất ngờ nhất, nghĩa là những lúc mà trí năng không hoạt động, không "đánh võ trong hư không".
Tuệ giác đó là một cống hiến của công trình ấp ủ của nhà khoa học, trong lúc thức cũng như trong giấc ngủ, trong khi ăn cũng như lúc đi bách bộ. | Tuệ giác đó là một cống hiến của công trình ấp ủ của nhà khoa học, trong lúc thức cũng như trong giấc ngủ, trong khi ăn cũng như lúc đi bách bộ.
Ðối với nhà khoa học, nghi án vùi chôn trong tâm thức ông, nếu ấp ủ suốt ngày đêm bằng niệm lực thì sẽ có cơ phá giải.
Sự phát kiến mới làm rạn nứt những sở tri (kiến thức) cũ và buộc trí năng phải phá bỏ những kiến trúc hiện thời của nó để xây dựng một kiến trúc mới.
Kiến thức cũ là chướng ngại cho tuệ giác mới, vì vậy trong Phật học chúng được gọi là sở tri chướng.
Cũng như các nhà đạt đạo, các nhà khoa học lớn đều có đi qua, những giai đoạn biến đổi lớn trong bản thân.
Sở dĩ họ đạt được những cái thấy sâu sắc là vì nơi họ niệm lực và định lực đã khá dồi dào.
Trí tuệ không phải là sự chất đống của tri thức.
Trái lại, nó vùng vẫy để thoát khỏi các tri thức ấy.
Nó đập vỡ các tri thức cũ để làm phát sinh những tri thức mới phù hợp hơn với thực tại.
Khi Copernic phát minh ra rằng trái đất xoay quanh mặt trời thì có biết bao ý niệm về thiên văn học cũ bị sụp đổ, trong đó có ý niệm trên và dưới.
Thuyết Lượng Tử hiện thời đang phấn đấu mãnh liệt để vượt thoát các ý niệm đồng nhất và nhân quả vốn là những ý niệm căn bản xưa nay của khoa học.
Khoa học cũng đang dấn thân trên con đường rũ bỏ ý niệm như đạo học.
Khi Phật Thích Ca đưa ra ý niệm vô ngã, ông đã làm đảo lộn không biết bao nhiêu quan niệm về vũ trụ và nhân sinh.
Phật đã giáng một đòn lớn trên ý niệm phổ thông và kiên cố nhất của loài người: ý niệm về sự tồn tại của ngã. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tuệ giác đó là một cống hiến của công trình ấp ủ của nhà khoa học, trong lúc thức cũng như trong giấc ngủ, trong khi ăn cũng như lúc đi bách bộ.
Ðối với nhà khoa học, nghi án vùi chôn trong tâm thức ông, nếu ấp ủ suốt ngày đêm bằng niệm lực thì sẽ có cơ phá giải.
Sự phát kiến mới làm rạn nứt những sở tri (kiến thức) cũ và buộc trí năng phải phá bỏ những kiến trúc hiện thời của nó để xây dựng một kiến trúc mới.
Kiến thức cũ là chướng ngại cho tuệ giác mới, vì vậy trong Phật học chúng được gọi là sở tri chướng.
Cũng như các nhà đạt đạo, các nhà khoa học lớn đều có đi qua, những giai đoạn biến đổi lớn trong bản thân.
Sở dĩ họ đạt được những cái thấy sâu sắc là vì nơi họ niệm lực và định lực đã khá dồi dào.
Trí tuệ không phải là sự chất đống của tri thức.
Trái lại, nó vùng vẫy để thoát khỏi các tri thức ấy.
Nó đập vỡ các tri thức cũ để làm phát sinh những tri thức mới phù hợp hơn với thực tại.
Khi Copernic phát minh ra rằng trái đất xoay quanh mặt trời thì có biết bao ý niệm về thiên văn học cũ bị sụp đổ, trong đó có ý niệm trên và dưới.
Thuyết Lượng Tử hiện thời đang phấn đấu mãnh liệt để vượt thoát các ý niệm đồng nhất và nhân quả vốn là những ý niệm căn bản xưa nay của khoa học.
Khoa học cũng đang dấn thân trên con đường rũ bỏ ý niệm như đạo học.
Khi Phật Thích Ca đưa ra ý niệm vô ngã, ông đã làm đảo lộn không biết bao nhiêu quan niệm về vũ trụ và nhân sinh.
Phật đã giáng một đòn lớn trên ý niệm phổ thông và kiên cố nhất của loài người: ý niệm về sự tồn tại của ngã. | Phật đã giáng một đòn lớn trên ý niệm phổ thông và kiên cố nhất của loài người: ý niệm về sự tồn tại của ngã.
Những người thấu hiểu được vô ngã thì biết rằng vô ngã là một ý niệm được đưa ra để đánh đổ ý niệm ngã chứ không là một đồ án mới của thực tại.
Vô ngã là phương tiện chứ không phải là cứu cánh.
Nếu vô ngã chỉ là ý niệm thì nó cũng cần phải phá vỡ như một ý niệm khác.
Không nói nên lời
Nơi con người, cái biết được diễn dịch thành khái niệm, tư tưởng và ngôn ngữ.
Cái biết ở đây không phải là tri thức thu lượm được bằng cách chất chứa.
Nó là một cái thấy trực tiếp và mau lẹ; nghiêng về tình cảm thì ta gọi là cảm xúc, nghiêng về trí tuệ thì ta gọi là tri giác.
Nó là trực giác chứ không phải là kết quả của suy luận.
Có khi nó hiện hữu tràn đầy trong ta nhưng ta không diễn dịch nó thành khái niệm được, không dùng hình thức tư duy để chuyên chở nó được và do đó không diễn tả nó được thành lời.
Nói không nên lời là tâm trạng ta lúc đó.
Có những tri giác được mô tả trong Phật học là bất khả tư, bất khả nghị, bất khả thuyết nghĩa là không thể suy tư, nghị luận và thành lập học thuyết.
Ai biết
Cái biết của ta, ta tự hào là do ta đạt được; kỳ thực, đó là cái biết của chủng loại ta, diễn biến và tiến hóa từ những kiếp nào xa lắc khi ta còn bơ vơ giữa ranh giới vô cơ và hữu cơ.
Nói đến cái biết ta cứ nghĩ ngay đến con người với não bộ hơi lớn của nó mà không nhớ rằng cái biết đang hiện hữu nơi mọi loài vật, ở cả những vật mà ta gọi là "vô tri". |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Phật đã giáng một đòn lớn trên ý niệm phổ thông và kiên cố nhất của loài người: ý niệm về sự tồn tại của ngã.
Những người thấu hiểu được vô ngã thì biết rằng vô ngã là một ý niệm được đưa ra để đánh đổ ý niệm ngã chứ không là một đồ án mới của thực tại.
Vô ngã là phương tiện chứ không phải là cứu cánh.
Nếu vô ngã chỉ là ý niệm thì nó cũng cần phải phá vỡ như một ý niệm khác.
Không nói nên lời
Nơi con người, cái biết được diễn dịch thành khái niệm, tư tưởng và ngôn ngữ.
Cái biết ở đây không phải là tri thức thu lượm được bằng cách chất chứa.
Nó là một cái thấy trực tiếp và mau lẹ; nghiêng về tình cảm thì ta gọi là cảm xúc, nghiêng về trí tuệ thì ta gọi là tri giác.
Nó là trực giác chứ không phải là kết quả của suy luận.
Có khi nó hiện hữu tràn đầy trong ta nhưng ta không diễn dịch nó thành khái niệm được, không dùng hình thức tư duy để chuyên chở nó được và do đó không diễn tả nó được thành lời.
Nói không nên lời là tâm trạng ta lúc đó.
Có những tri giác được mô tả trong Phật học là bất khả tư, bất khả nghị, bất khả thuyết nghĩa là không thể suy tư, nghị luận và thành lập học thuyết.
Ai biết
Cái biết của ta, ta tự hào là do ta đạt được; kỳ thực, đó là cái biết của chủng loại ta, diễn biến và tiến hóa từ những kiếp nào xa lắc khi ta còn bơ vơ giữa ranh giới vô cơ và hữu cơ.
Nói đến cái biết ta cứ nghĩ ngay đến con người với não bộ hơi lớn của nó mà không nhớ rằng cái biết đang hiện hữu nơi mọi loài vật, ở cả những vật mà ta gọi là "vô tri". | Nói đến cái biết ta cứ nghĩ ngay đến con người với não bộ hơi lớn của nó mà không nhớ rằng cái biết đang hiện hữu nơi mọi loài vật, ở cả những vật mà ta gọi là "vô tri".
Các loài ong, nhện và tò vò có mặt trong những loài vật "khéo tay" nhất.
Chúng có thể tạo dựng những kiến trúc thật đẹp.
Khi ta quán sát tổ ong, tổ vò vò và lưới nhện, ta thấy chúng có khả năng "biết làm" (le savoir-faire).
Ta nói: "Các loài này không biết tư duy, không biết toán học, không làm được đồ án và dự tính.
Chúng không có trí tuệ mà chỉ có bản năng".
Tuy vậy, không phải là loài người làm ra tổ ong, tổ tò vò và màng nhện cho các loài này.
Chính những con vật bé nhỏ không có "khối óc" đó đã tự xây dựng nên những thứ mà ta phải tấm tắc khen đẹp.
Nếu không phải chúng biết thì ai biết?
Chính là chúng, chính là chủng loại của chúng trong lịch trình tiến hóa.
Nhìn vào loài thực vật, ta cũng thấy đầy dẫy những sự mầu nhiệm của cái biết.
Cây chanh "biết" đâm rễ, làm cành, làm lá, làm hoa, làm trái.
Bạn nói rằng cây chanh không có nhận thức thì làm gì biết "làm" có phải không?
Xương sườn, xương sống và các hạch tiết tuyến trong bạn có phải là do bạn vận dụng trí thức của bạn mà làm ra chăng?
Ðó là công trình của cái Biết, một cái biết bao trùm tất cả những cái biết khác trong đó có cái suy tư của bạn.
Biết trong trời xanh
Bây giờ bạn thử gạt bỏ khái niệm về ngã, thử dùng một thứ ngôn ngữ không có chủ từ để xem chúng ta thấy được gì.
Thường thường ta hay nói "trời mưa", trời là chủ từ còn mưa là động từ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nói đến cái biết ta cứ nghĩ ngay đến con người với não bộ hơi lớn của nó mà không nhớ rằng cái biết đang hiện hữu nơi mọi loài vật, ở cả những vật mà ta gọi là "vô tri".
Các loài ong, nhện và tò vò có mặt trong những loài vật "khéo tay" nhất.
Chúng có thể tạo dựng những kiến trúc thật đẹp.
Khi ta quán sát tổ ong, tổ vò vò và lưới nhện, ta thấy chúng có khả năng "biết làm" (le savoir-faire).
Ta nói: "Các loài này không biết tư duy, không biết toán học, không làm được đồ án và dự tính.
Chúng không có trí tuệ mà chỉ có bản năng".
Tuy vậy, không phải là loài người làm ra tổ ong, tổ tò vò và màng nhện cho các loài này.
Chính những con vật bé nhỏ không có "khối óc" đó đã tự xây dựng nên những thứ mà ta phải tấm tắc khen đẹp.
Nếu không phải chúng biết thì ai biết?
Chính là chúng, chính là chủng loại của chúng trong lịch trình tiến hóa.
Nhìn vào loài thực vật, ta cũng thấy đầy dẫy những sự mầu nhiệm của cái biết.
Cây chanh "biết" đâm rễ, làm cành, làm lá, làm hoa, làm trái.
Bạn nói rằng cây chanh không có nhận thức thì làm gì biết "làm" có phải không?
Xương sườn, xương sống và các hạch tiết tuyến trong bạn có phải là do bạn vận dụng trí thức của bạn mà làm ra chăng?
Ðó là công trình của cái Biết, một cái biết bao trùm tất cả những cái biết khác trong đó có cái suy tư của bạn.
Biết trong trời xanh
Bây giờ bạn thử gạt bỏ khái niệm về ngã, thử dùng một thứ ngôn ngữ không có chủ từ để xem chúng ta thấy được gì.
Thường thường ta hay nói "trời mưa", trời là chủ từ còn mưa là động từ. | Bây giờ bạn thử gạt bỏ khái niệm về ngã, thử dùng một thứ ngôn ngữ không có chủ từ để xem chúng ta thấy được gì.
Thường thường ta hay nói "trời mưa", trời là chủ từ còn mưa là động từ.
Nhưng chủ từ không thật sự là một chủ từ.
Người Tây Phương nói: it rains, il pleut.
Chủ từ it hay il cũng không thực sự chỉ một cái gì hết.
Có khi ta nói mưa rơi, mưa được xem là chủ từ còn rơi là động từ.
Xét lại nói mưa rơi là vô nghĩa.
Mưa thì có nước rơi, nếu không có rơi thì không phải là mưa.
Vậy ta có thể nói mưa ở Sài Gòn, mưa ở Ðà Lạt, không dùng chủ từ mà vẫn diễn đạt được thực tại.
Ta hãy dùng động từ biết theo kiểu đó, và nói; biết trong con người, biết trong loài ong, biết nơi cây chanh.
Nghe lạ tai thật, nhưng chỉ là do thói quen của chúng ta, khi nói là phải có chủ từ.
Tiếng biết ở đây có thể là một động từ hay một danh từ, như trường hợp "mưa ở Sài Gòn, mưa ở Hà nội".
Nếu mưa Sài Gòn có nghĩa là có mưa ở Sài Gòn thì biết trong con người có nghĩa là có sự biết trong con người, có gì mà không hiểu được.
Theo như tôi thấy, cái biết có mặt khắp chốn và biểu hiện khắp chốn.
Biết trong anh Hai, biết nơi cô Ba, biết nơi con ong, biết nơi cây đào, biết trên thái hư, biết giữa tinh hà.
Nếu ngôn ngữ Tây Phương nói il pleut sur Paris được thì cũng có thể nói il pense dans l'azur được chứ sao không. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bây giờ bạn thử gạt bỏ khái niệm về ngã, thử dùng một thứ ngôn ngữ không có chủ từ để xem chúng ta thấy được gì.
Thường thường ta hay nói "trời mưa", trời là chủ từ còn mưa là động từ.
Nhưng chủ từ không thật sự là một chủ từ.
Người Tây Phương nói: it rains, il pleut.
Chủ từ it hay il cũng không thực sự chỉ một cái gì hết.
Có khi ta nói mưa rơi, mưa được xem là chủ từ còn rơi là động từ.
Xét lại nói mưa rơi là vô nghĩa.
Mưa thì có nước rơi, nếu không có rơi thì không phải là mưa.
Vậy ta có thể nói mưa ở Sài Gòn, mưa ở Ðà Lạt, không dùng chủ từ mà vẫn diễn đạt được thực tại.
Ta hãy dùng động từ biết theo kiểu đó, và nói; biết trong con người, biết trong loài ong, biết nơi cây chanh.
Nghe lạ tai thật, nhưng chỉ là do thói quen của chúng ta, khi nói là phải có chủ từ.
Tiếng biết ở đây có thể là một động từ hay một danh từ, như trường hợp "mưa ở Sài Gòn, mưa ở Hà nội".
Nếu mưa Sài Gòn có nghĩa là có mưa ở Sài Gòn thì biết trong con người có nghĩa là có sự biết trong con người, có gì mà không hiểu được.
Theo như tôi thấy, cái biết có mặt khắp chốn và biểu hiện khắp chốn.
Biết trong anh Hai, biết nơi cô Ba, biết nơi con ong, biết nơi cây đào, biết trên thái hư, biết giữa tinh hà.
Nếu ngôn ngữ Tây Phương nói il pleut sur Paris được thì cũng có thể nói il pense dans l'azur được chứ sao không. | Nếu ngôn ngữ Tây Phương nói il pleut sur Paris được thì cũng có thể nói il pense dans l'azur được chứ sao không.
Một thiền sư nào đó, trong một tuần lễ hướng dẫn thực tập quán niệm về vô ngã, có thể đề nghị thiền sinh của mình sử dụng lối ngôn ngữ không có chủ từ này, và chỉ sử dụng lối ngôn ngữ ấy mà thôi.
Tôi tin rằng phương pháp đó có thể đưa tới những kết quả rất tốt.
Trong gió có cái biết
Chúng ta hãy thử đùa một tí với điệu múa sau đây để "biết" thêm về cái biết.
Giả sử tôi nói: tôi biết gió đang thổi.
Chữ tôi ở đây, bạn nghĩ, có nghĩa là tâm hơn là thân, và vì vậy nó có nghĩa tâm (tôi) biết gió đang thổi.
Vậy thì ta đang thực sự nói: cái biết biết gió đang thổi.
Sự vô lý nằm ở chỗ cái biết biết (la connaissance connait).
Ta tưởng tượng cái biết là một thực thể tồn tại độc lập với đối tượng biết của nó, cư trú trong đầu ta và vươn ra ngoài cái biết sự vật, giống như là cái thước đo có sẵn, đem ra để đo chiều dài sự vật.
Ta đã lồng cái biết của ta vào khuôn khổ do chính cái biết của ta tạo tác ra, do đó cái biết mà ta ngỡ là cái biết không còn là cái biết trong tự thân nó nữa.
Khi ta nói gió đang thổi (le vent souffle) ta thực sự không nghĩ rằng có một cái gì đang thổi một cái gì.
Gió tức là thổi, không thổi tức là không gió.
Cái biết cũng vậy: tâm tức là cái biết, cái biết tức là tâm.
Cái biết mà ta đang nói tới đây là cái biết về gió.
"Biết là biết một cái gì", vậy gió và cái biết không rời nhau, gió và cái biết là một.
Ta chỉ nói đến "gió" là đủ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu ngôn ngữ Tây Phương nói il pleut sur Paris được thì cũng có thể nói il pense dans l'azur được chứ sao không.
Một thiền sư nào đó, trong một tuần lễ hướng dẫn thực tập quán niệm về vô ngã, có thể đề nghị thiền sinh của mình sử dụng lối ngôn ngữ không có chủ từ này, và chỉ sử dụng lối ngôn ngữ ấy mà thôi.
Tôi tin rằng phương pháp đó có thể đưa tới những kết quả rất tốt.
Trong gió có cái biết
Chúng ta hãy thử đùa một tí với điệu múa sau đây để "biết" thêm về cái biết.
Giả sử tôi nói: tôi biết gió đang thổi.
Chữ tôi ở đây, bạn nghĩ, có nghĩa là tâm hơn là thân, và vì vậy nó có nghĩa tâm (tôi) biết gió đang thổi.
Vậy thì ta đang thực sự nói: cái biết biết gió đang thổi.
Sự vô lý nằm ở chỗ cái biết biết (la connaissance connait).
Ta tưởng tượng cái biết là một thực thể tồn tại độc lập với đối tượng biết của nó, cư trú trong đầu ta và vươn ra ngoài cái biết sự vật, giống như là cái thước đo có sẵn, đem ra để đo chiều dài sự vật.
Ta đã lồng cái biết của ta vào khuôn khổ do chính cái biết của ta tạo tác ra, do đó cái biết mà ta ngỡ là cái biết không còn là cái biết trong tự thân nó nữa.
Khi ta nói gió đang thổi (le vent souffle) ta thực sự không nghĩ rằng có một cái gì đang thổi một cái gì.
Gió tức là thổi, không thổi tức là không gió.
Cái biết cũng vậy: tâm tức là cái biết, cái biết tức là tâm.
Cái biết mà ta đang nói tới đây là cái biết về gió.
"Biết là biết một cái gì", vậy gió và cái biết không rời nhau, gió và cái biết là một.
Ta chỉ nói đến "gió" là đủ. | Cái biết mà ta đang nói tới đây là cái biết về gió.
"Biết là biết một cái gì", vậy gió và cái biết không rời nhau, gió và cái biết là một.
Ta chỉ nói đến "gió" là đủ.
Sự có mặt của gió bao hàm sự có mặt của cái biết và của động tác thổi.
Dồn mệnh đề tôi biết gió đang thổi thành một tiếng "gió" có thể vừa tránh cho ta nhiều lỗi văn phạm vừa giúp cho ta tới gần sự thực hơn.
Trong cuộc sống thực dụng hằng ngày, ta đã tập thói quen suy nghĩ và diễn tả theo nhận thức về sự tồn tại của những chủ thể độc lập cho nên ta sẽ gặp một ít khó khăn khi đi vào thế giới phân biệt [7] của thực tại.
Ðộng tác là bản thân của chủ thể động tác
Trong các mệnh đề như gió thổi, mưa rơi và sông trôi, ta thấy rõ chủ từ và động từ là một: không thổi là không phải gió, không rơi là không phải mưa và không trôi là không phải sông.
Xét cho tinh tế, ta thấy chủ thể nằm trong hành động và hành động tức là chủ thể.
Chủ thể với hành động là một, cũng như vật chất và năng lượng là một.
Ðộng từ phổ cập nhất là động từ hiện hữu (être): tôi hiện hữu, anh hiện hữu, núi sông hiện hữu.
Nhưng vì động từ này không diễn tả được trạng thái sinh động của vạn vật cho nên người ta hay thay thế nó bằng động từ trở thành (devenir).
Hai động từ này cũng được người Tây Phương dùng như những danh từ: l'être và le devenir (tiếng Pháp) hoặc being và becoming (tiếng Anh).
Nhưng trở thành cái gì mới được chứ? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cái biết mà ta đang nói tới đây là cái biết về gió.
"Biết là biết một cái gì", vậy gió và cái biết không rời nhau, gió và cái biết là một.
Ta chỉ nói đến "gió" là đủ.
Sự có mặt của gió bao hàm sự có mặt của cái biết và của động tác thổi.
Dồn mệnh đề tôi biết gió đang thổi thành một tiếng "gió" có thể vừa tránh cho ta nhiều lỗi văn phạm vừa giúp cho ta tới gần sự thực hơn.
Trong cuộc sống thực dụng hằng ngày, ta đã tập thói quen suy nghĩ và diễn tả theo nhận thức về sự tồn tại của những chủ thể độc lập cho nên ta sẽ gặp một ít khó khăn khi đi vào thế giới phân biệt [7] của thực tại.
Ðộng tác là bản thân của chủ thể động tác
Trong các mệnh đề như gió thổi, mưa rơi và sông trôi, ta thấy rõ chủ từ và động từ là một: không thổi là không phải gió, không rơi là không phải mưa và không trôi là không phải sông.
Xét cho tinh tế, ta thấy chủ thể nằm trong hành động và hành động tức là chủ thể.
Chủ thể với hành động là một, cũng như vật chất và năng lượng là một.
Ðộng từ phổ cập nhất là động từ hiện hữu (être): tôi hiện hữu, anh hiện hữu, núi sông hiện hữu.
Nhưng vì động từ này không diễn tả được trạng thái sinh động của vạn vật cho nên người ta hay thay thế nó bằng động từ trở thành (devenir).
Hai động từ này cũng được người Tây Phương dùng như những danh từ: l'être và le devenir (tiếng Pháp) hoặc being và becoming (tiếng Anh).
Nhưng trở thành cái gì mới được chứ? | Hai động từ này cũng được người Tây Phương dùng như những danh từ: l'être và le devenir (tiếng Pháp) hoặc being và becoming (tiếng Anh).
Nhưng trở thành cái gì mới được chứ?
Tiếng trở thành ở đây thực ra chỉ có nghĩa là chuyển biến không ngừng, và do đó nó cũng có tính cách phổ biến như tiếng hiện hữu.
Nó không diễn tả được cái phong cách hiện hữu và trở thành của từng hiện tượng xét riêng.
Ví dụ trong trường hợp gió thì hiện hữu hoặc trở thành là thổi, trong trường hợp mưa là rơi, trong trường hợp sông là trôi.
Ta thấy ngay rằng nếu động từ hiện hữu là hoàn toàn phổ biến thì các động từ thổi, rơi và trôi cũng còn rất phổ biến: (không những mưa rơi mà tuyết, lá, phóng xạ v.v... cũng rơi).
Trong khi đó, động từ mưa là đầy đủ nhất cho chủ thể mưa.
Ta có thể nói "mưa mưa" cho đủ chủ từ và động từ, hoặc chỉ cần nói mưa như một động từ (hoặc như một chủ từ, tùy ý thích của ta).
Cứ như thế, bạn có thể nói: người họa sĩ vẽ, thiền giả ngồi thiền, người đọc sách đọc sách, ông vua làm vua, Tuệ Trung làm Tuệ Trung, núi làm núi, mây làm mây.
Lý do tồn tại của vua là để làm vua, lý do tồn tại của núi là để làm núi.
Làm vua tức là làm tất cả những gì mà một ông vua làm: trị nước, an dân, thiết triều, và một vạn truyện khác.
Như trong trường hợp "mưa mưa", ta không nói "vua làm vua" nữa mà chỉ nói "vua vua" tiếng vua thứ hai là động từ, một động từ không có tính cách phổ biến, chỉ để dành cho nhà vua mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hai động từ này cũng được người Tây Phương dùng như những danh từ: l'être và le devenir (tiếng Pháp) hoặc being và becoming (tiếng Anh).
Nhưng trở thành cái gì mới được chứ?
Tiếng trở thành ở đây thực ra chỉ có nghĩa là chuyển biến không ngừng, và do đó nó cũng có tính cách phổ biến như tiếng hiện hữu.
Nó không diễn tả được cái phong cách hiện hữu và trở thành của từng hiện tượng xét riêng.
Ví dụ trong trường hợp gió thì hiện hữu hoặc trở thành là thổi, trong trường hợp mưa là rơi, trong trường hợp sông là trôi.
Ta thấy ngay rằng nếu động từ hiện hữu là hoàn toàn phổ biến thì các động từ thổi, rơi và trôi cũng còn rất phổ biến: (không những mưa rơi mà tuyết, lá, phóng xạ v.v... cũng rơi).
Trong khi đó, động từ mưa là đầy đủ nhất cho chủ thể mưa.
Ta có thể nói "mưa mưa" cho đủ chủ từ và động từ, hoặc chỉ cần nói mưa như một động từ (hoặc như một chủ từ, tùy ý thích của ta).
Cứ như thế, bạn có thể nói: người họa sĩ vẽ, thiền giả ngồi thiền, người đọc sách đọc sách, ông vua làm vua, Tuệ Trung làm Tuệ Trung, núi làm núi, mây làm mây.
Lý do tồn tại của vua là để làm vua, lý do tồn tại của núi là để làm núi.
Làm vua tức là làm tất cả những gì mà một ông vua làm: trị nước, an dân, thiết triều, và một vạn truyện khác.
Như trong trường hợp "mưa mưa", ta không nói "vua làm vua" nữa mà chỉ nói "vua vua" tiếng vua thứ hai là động từ, một động từ không có tính cách phổ biến, chỉ để dành cho nhà vua mà thôi. | Như trong trường hợp "mưa mưa", ta không nói "vua làm vua" nữa mà chỉ nói "vua vua" tiếng vua thứ hai là động từ, một động từ không có tính cách phổ biến, chỉ để dành cho nhà vua mà thôi.
Mỗi chủ từ trở thành một động từ, và động từ ấy là "lý do tồn tại" (la raison d'être!)
Ví dụ trái núi núi, đám mây mây, Tuệ Trung tuệ trung.
Khi ta nói người họa sĩ vẽ, ta nghe như xuôi tai hơn, kỳ thực mệnh đề đó không khác gì mệnh đề nhà vua vua.
Mấy ngàn năm về trước đức thánh Khổng đã từng dùng loại ngôn từ này rồi.
Ngài nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử" nghĩa là "vua (làm) vua, tôi (làm) tôi, cha (làm) cha, con (làm) con".
Ta có thể tuỳ ý riêng mà giải thích: "vua phải làm trọn bổn phận vua" hoặc "vua phải cho ra vua..." nhưng tựu trung lối giải thích ấy không có thêm gì mới.
Thấy được động tác là chính bản thân của chủ thể động tác rồi ta mới hé thấy được cái dung lượng bao la của một tiếng biết.
Objets inanimés, avez vous donc une ame?
Ðã quen nhận thức cái Biết qua hình thức cảm giác và tri giác của mình, chúng ta thường gọi những vật vô cơ là vô tri vô giác, những vật chỉ hiện hữu một cách "trơ trơ bất động".
Thực ra các vật này chỉ vô tri vô giác theo nhận định của ta mà thôi.
Tảng đá kia là sự tập họp của nhiều nguyên tử do những lực từ điện kết hợp. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Như trong trường hợp "mưa mưa", ta không nói "vua làm vua" nữa mà chỉ nói "vua vua" tiếng vua thứ hai là động từ, một động từ không có tính cách phổ biến, chỉ để dành cho nhà vua mà thôi.
Mỗi chủ từ trở thành một động từ, và động từ ấy là "lý do tồn tại" (la raison d'être!)
Ví dụ trái núi núi, đám mây mây, Tuệ Trung tuệ trung.
Khi ta nói người họa sĩ vẽ, ta nghe như xuôi tai hơn, kỳ thực mệnh đề đó không khác gì mệnh đề nhà vua vua.
Mấy ngàn năm về trước đức thánh Khổng đã từng dùng loại ngôn từ này rồi.
Ngài nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử" nghĩa là "vua (làm) vua, tôi (làm) tôi, cha (làm) cha, con (làm) con".
Ta có thể tuỳ ý riêng mà giải thích: "vua phải làm trọn bổn phận vua" hoặc "vua phải cho ra vua..." nhưng tựu trung lối giải thích ấy không có thêm gì mới.
Thấy được động tác là chính bản thân của chủ thể động tác rồi ta mới hé thấy được cái dung lượng bao la của một tiếng biết.
Objets inanimés, avez vous donc une ame?
Ðã quen nhận thức cái Biết qua hình thức cảm giác và tri giác của mình, chúng ta thường gọi những vật vô cơ là vô tri vô giác, những vật chỉ hiện hữu một cách "trơ trơ bất động".
Thực ra các vật này chỉ vô tri vô giác theo nhận định của ta mà thôi.
Tảng đá kia là sự tập họp của nhiều nguyên tử do những lực từ điện kết hợp. | Thực ra các vật này chỉ vô tri vô giác theo nhận định của ta mà thôi.
Tảng đá kia là sự tập họp của nhiều nguyên tử do những lực từ điện kết hợp.
Nguyên tử không phải là những hạt vật chất đông đặc bất động mà là những khoảng không gian khá đồ sộ trong đó các chất điểm li ti như chất tử (proton), trung hòa tử (neutron), và điện tử (electron) không ngớt di chuyển với tốc độ kinh khiếp, suýt soát tốc độ của ánh sáng, nghĩa là 300,000 cây số mỗi giây.
Cái gì dã khiến cho các trường từ điện và các chất điểm hành động như thế?
Ta có còn mô tả tảng đá là một vật thể "trơ trơ, vô tri vô giác" nữa hay không?
Những vật vô tri vô giác, Tây Phương gọi là les objets inanimés.
Thi sĩ Lamartine có lần hỏi: "Những vật vô tri vô giác kia, chúng bây có linh hồn không vậy?"
(objets inanimés, avez vous donc une âme?).
Linh hồn theo kiểu tư duy và tưởng tượng của con người thì chắc là không có, hoặc không thấy biểu hiện, nhưng linh hồn theo nghĩa một thực thể sống động thì chắc chắn là có.
Tác dụng muôn mặt của cái biết
Cái biết có thể được biểu hiện ra muôn ngàn mặt.
Tác dụng của biết, như ta thường thấy, là thấy, là nghe, là cảm, là so sánh, là hồi tưởng, là tưởng tượng, là suy tư, là lo sợ, là hy vọng v.v... Trong Duy Thức Học, một môn học chuyên chú về nhận thức trong Phật Giáo, ta tìm thấy nhiều tác dụng của cái biết nữa.
Trong trường hợp thức A lại gia, biết có nghĩa là hàm chứa, duy trì, biểu hiện [8].
Trong trường hợp thức Mạt na, biết có tác dụng bám chặt không chịu buông thả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thực ra các vật này chỉ vô tri vô giác theo nhận định của ta mà thôi.
Tảng đá kia là sự tập họp của nhiều nguyên tử do những lực từ điện kết hợp.
Nguyên tử không phải là những hạt vật chất đông đặc bất động mà là những khoảng không gian khá đồ sộ trong đó các chất điểm li ti như chất tử (proton), trung hòa tử (neutron), và điện tử (electron) không ngớt di chuyển với tốc độ kinh khiếp, suýt soát tốc độ của ánh sáng, nghĩa là 300,000 cây số mỗi giây.
Cái gì dã khiến cho các trường từ điện và các chất điểm hành động như thế?
Ta có còn mô tả tảng đá là một vật thể "trơ trơ, vô tri vô giác" nữa hay không?
Những vật vô tri vô giác, Tây Phương gọi là les objets inanimés.
Thi sĩ Lamartine có lần hỏi: "Những vật vô tri vô giác kia, chúng bây có linh hồn không vậy?"
(objets inanimés, avez vous donc une âme?).
Linh hồn theo kiểu tư duy và tưởng tượng của con người thì chắc là không có, hoặc không thấy biểu hiện, nhưng linh hồn theo nghĩa một thực thể sống động thì chắc chắn là có.
Tác dụng muôn mặt của cái biết
Cái biết có thể được biểu hiện ra muôn ngàn mặt.
Tác dụng của biết, như ta thường thấy, là thấy, là nghe, là cảm, là so sánh, là hồi tưởng, là tưởng tượng, là suy tư, là lo sợ, là hy vọng v.v... Trong Duy Thức Học, một môn học chuyên chú về nhận thức trong Phật Giáo, ta tìm thấy nhiều tác dụng của cái biết nữa.
Trong trường hợp thức A lại gia, biết có nghĩa là hàm chứa, duy trì, biểu hiện [8].
Trong trường hợp thức Mạt na, biết có tác dụng bám chặt không chịu buông thả. | Trong trường hợp thức A lại gia, biết có nghĩa là hàm chứa, duy trì, biểu hiện [8].
Trong trường hợp thức Mạt na, biết có tác dụng bám chặt không chịu buông thả.
Trong trường hợp ý thức, biết còn có tác dụng sáng tạo, vẽ vời, mơ mộng, cắt xén.
Trong trường hợp thức Yêm Ma La, biết có tác dụng chiếu rọi [9].
Ta nhận thấy ở bất cứ hiện tượng nào dù là tâm lý, sinh lý hay vật lý cũng có sự có mặt của sự vận chuyển sinh động.
Ta có thể nói sự sinh động vận chuyển là tác dụng phổ biến của cái biết.
Ta chớ cho cái biết là một vật bên ngoài đến để làm cho vạn vật sinh động: nó chính là sự sinh động, nó chính là vạn vật sinh động.
Vũ khúc với vũ là một.
Bạn hãy ra ngồi gần một cây chanh
Những điều tôi vừa nói với bạn trên đây không phải là những trò biểu diễn của văn tự và tri thức có mục đích giải trí người đọc.
Ðó là những dụng cụ mà ta có thể sử dụng để làm rạn nứt và bật tung cái nề nếp suy tư khái niệm đã được un đúc lâu ngày trong cuộc sống thực dụng, cũng như những cái chốt sắt và những chiếc xà beng mà ta thường dùng để tháo gỡ những cái thùng hoặc để tách chẻ một thân cây ra làm nhiều mảnh.
Như khi ta luồn một con rựa vào giữa thân tre để chẻ cây tre ra làm hai, bạn có thể vừa đọc tới đâu vừa vỡ lẽ ra tới đó, và điều này chứng tỏ bạn có công phu quán niệm.
Nhưng nếu bạn không thấy như vậy, hoặc chưa thấy như vậy, thì đó có thể là do bạn mới quan sát thực tại lần đầu bằng ý thức không phân biệt và chưa quen với cách nhìn đảo lộn này. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong trường hợp thức A lại gia, biết có nghĩa là hàm chứa, duy trì, biểu hiện [8].
Trong trường hợp thức Mạt na, biết có tác dụng bám chặt không chịu buông thả.
Trong trường hợp ý thức, biết còn có tác dụng sáng tạo, vẽ vời, mơ mộng, cắt xén.
Trong trường hợp thức Yêm Ma La, biết có tác dụng chiếu rọi [9].
Ta nhận thấy ở bất cứ hiện tượng nào dù là tâm lý, sinh lý hay vật lý cũng có sự có mặt của sự vận chuyển sinh động.
Ta có thể nói sự sinh động vận chuyển là tác dụng phổ biến của cái biết.
Ta chớ cho cái biết là một vật bên ngoài đến để làm cho vạn vật sinh động: nó chính là sự sinh động, nó chính là vạn vật sinh động.
Vũ khúc với vũ là một.
Bạn hãy ra ngồi gần một cây chanh
Những điều tôi vừa nói với bạn trên đây không phải là những trò biểu diễn của văn tự và tri thức có mục đích giải trí người đọc.
Ðó là những dụng cụ mà ta có thể sử dụng để làm rạn nứt và bật tung cái nề nếp suy tư khái niệm đã được un đúc lâu ngày trong cuộc sống thực dụng, cũng như những cái chốt sắt và những chiếc xà beng mà ta thường dùng để tháo gỡ những cái thùng hoặc để tách chẻ một thân cây ra làm nhiều mảnh.
Như khi ta luồn một con rựa vào giữa thân tre để chẻ cây tre ra làm hai, bạn có thể vừa đọc tới đâu vừa vỡ lẽ ra tới đó, và điều này chứng tỏ bạn có công phu quán niệm.
Nhưng nếu bạn không thấy như vậy, hoặc chưa thấy như vậy, thì đó có thể là do bạn mới quan sát thực tại lần đầu bằng ý thức không phân biệt và chưa quen với cách nhìn đảo lộn này. | Nhưng nếu bạn không thấy như vậy, hoặc chưa thấy như vậy, thì đó có thể là do bạn mới quan sát thực tại lần đầu bằng ý thức không phân biệt và chưa quen với cách nhìn đảo lộn này.
Cũng có thể vì những đường múa trên đây của tôi còn vụng.
Không sao, thua keo nầy ta sẽ bày keo khác.
Không vào được bằng cánh cửa này, ta sẽ vào bằng một cánh cửa khác.
Ðiều quan trọng không phải là "hiểu" những lời tôi nói, mà là "thấy" được thực tại.
Lời tôi nói chỉ là những điệu múa gợi ý, hoặc một ngón tay chỉ trỏ.
Bạn phải nhìn bằng con mắt của chính bạn, và con mắt đó chỉ có thể mở ra trong chính niệm.
Tôi ao ước bạn không đem những lời tôi nói để chế tạo thành những ý niệm rồi cất giữ chúng trong bạn.
Tôi không muốn trao cho bạn cái gì hết.
Tôi chỉ muốn "múa" cho bạn xem mà thôi.
Tôi không muốn làm hơn một con ong.
Bạn thấy được gì thì đó là bạn thấy trong tâm bạn, chứ không phải thấy trong những đường múa của tôi.
Bây giờ bạn hãy tới ngồi xem một đứa bé ngủ.
Hoặc ra ngoài vườn ngồi cạnh cây chanh.
Hoặc vào bếp nấu nước pha một bình trà, làm một trong những việc đó một cách thật tỉnh táo, thắp mặt trời chánh niệm lên để đừng đi lạc vào quên lãng.
Bạn không cần suy tư về sự đồng nhất hoặc sai biệt của bạn với đứa bé, với cây chanh hay bình trà.
Ngồi với đứa bé, ngồi với cây chanh hoặc ngồi uống trà cho tới khi môi bạn nở một nụ cười.
Chương 3: Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tâm cảnh nhất như
Chiều hôm ấy, tôi đóng hết các cửa là vì gió lộng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng nếu bạn không thấy như vậy, hoặc chưa thấy như vậy, thì đó có thể là do bạn mới quan sát thực tại lần đầu bằng ý thức không phân biệt và chưa quen với cách nhìn đảo lộn này.
Cũng có thể vì những đường múa trên đây của tôi còn vụng.
Không sao, thua keo nầy ta sẽ bày keo khác.
Không vào được bằng cánh cửa này, ta sẽ vào bằng một cánh cửa khác.
Ðiều quan trọng không phải là "hiểu" những lời tôi nói, mà là "thấy" được thực tại.
Lời tôi nói chỉ là những điệu múa gợi ý, hoặc một ngón tay chỉ trỏ.
Bạn phải nhìn bằng con mắt của chính bạn, và con mắt đó chỉ có thể mở ra trong chính niệm.
Tôi ao ước bạn không đem những lời tôi nói để chế tạo thành những ý niệm rồi cất giữ chúng trong bạn.
Tôi không muốn trao cho bạn cái gì hết.
Tôi chỉ muốn "múa" cho bạn xem mà thôi.
Tôi không muốn làm hơn một con ong.
Bạn thấy được gì thì đó là bạn thấy trong tâm bạn, chứ không phải thấy trong những đường múa của tôi.
Bây giờ bạn hãy tới ngồi xem một đứa bé ngủ.
Hoặc ra ngoài vườn ngồi cạnh cây chanh.
Hoặc vào bếp nấu nước pha một bình trà, làm một trong những việc đó một cách thật tỉnh táo, thắp mặt trời chánh niệm lên để đừng đi lạc vào quên lãng.
Bạn không cần suy tư về sự đồng nhất hoặc sai biệt của bạn với đứa bé, với cây chanh hay bình trà.
Ngồi với đứa bé, ngồi với cây chanh hoặc ngồi uống trà cho tới khi môi bạn nở một nụ cười.
Chương 3: Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tâm cảnh nhất như
Chiều hôm ấy, tôi đóng hết các cửa là vì gió lộng. | Chương 3: Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tâm cảnh nhất như
Chiều hôm ấy, tôi đóng hết các cửa là vì gió lộng.
Sáng hôm nay, cửa sổ của tôi mở trên một cánh rừng xanh mát.
Nắng đã lên và có một chú chim tới hót trên cây mận trước sân.
Bé Thanh Thủy đã đi học.
Tôi ngừng viết nhìn qua cánh rừng trải dài bên kia đồi và duy trì ý thức về sự có mặt của tôi và của cánh rừng.
Muốn đạt tới sự định tâm, không hẳn là ta phải đóng hết các cửa giác quan lại.
Các thiền giả sơ tâm phải đóng hết các cửa mắt và tai để có thể dễ dàng tập trung vào hơi thở hoặc vào một đối tượng quán niệm khác.
Nhưng đối tượng của cảm quan không phải chỉ hiện hữu bên ngoài thân.
Người hành giả có thể không nghe, không thấy, không ngửi và không nếm, nhưng người hành giả không thể không có cảm giác về những gì đang xảy ra bên trong thân thể.
Khi hành giả có một cái răng nhức hoặc bắp chân mỏi, thì đó là một khổ thọ.
Khi toàn cơ thể hoạt động bình thường, hành giả có một cảm thọ dễ chịu và an lạc về cơ thể.
Cảm thọ này có thể được gọi là một xả thọ tức là một cảm thọ trung tính (không dễ chịu không khó chịu); kỳ thực nó thuộc về lạc thọ.
Trong Phật học thường nói tới ba thọ: khổ, lạc và xả thọ; theo tôi, ta có thể bỏ xả thọ bởi vì xả thọ thực ra là một thứ lạc thọ.
Cảm thọ bên trong thân thể là một dòng hiện tượng liên tục, dù ta có ý thức hay không về nó.
Nó là một trong hai cánh cửa sổ của xúc giác.
Vậy thì "đóng hết các cửa cảm giác" là một chuyện không thể làm được. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chương 3: Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tâm cảnh nhất như
Chiều hôm ấy, tôi đóng hết các cửa là vì gió lộng.
Sáng hôm nay, cửa sổ của tôi mở trên một cánh rừng xanh mát.
Nắng đã lên và có một chú chim tới hót trên cây mận trước sân.
Bé Thanh Thủy đã đi học.
Tôi ngừng viết nhìn qua cánh rừng trải dài bên kia đồi và duy trì ý thức về sự có mặt của tôi và của cánh rừng.
Muốn đạt tới sự định tâm, không hẳn là ta phải đóng hết các cửa giác quan lại.
Các thiền giả sơ tâm phải đóng hết các cửa mắt và tai để có thể dễ dàng tập trung vào hơi thở hoặc vào một đối tượng quán niệm khác.
Nhưng đối tượng của cảm quan không phải chỉ hiện hữu bên ngoài thân.
Người hành giả có thể không nghe, không thấy, không ngửi và không nếm, nhưng người hành giả không thể không có cảm giác về những gì đang xảy ra bên trong thân thể.
Khi hành giả có một cái răng nhức hoặc bắp chân mỏi, thì đó là một khổ thọ.
Khi toàn cơ thể hoạt động bình thường, hành giả có một cảm thọ dễ chịu và an lạc về cơ thể.
Cảm thọ này có thể được gọi là một xả thọ tức là một cảm thọ trung tính (không dễ chịu không khó chịu); kỳ thực nó thuộc về lạc thọ.
Trong Phật học thường nói tới ba thọ: khổ, lạc và xả thọ; theo tôi, ta có thể bỏ xả thọ bởi vì xả thọ thực ra là một thứ lạc thọ.
Cảm thọ bên trong thân thể là một dòng hiện tượng liên tục, dù ta có ý thức hay không về nó.
Nó là một trong hai cánh cửa sổ của xúc giác.
Vậy thì "đóng hết các cửa cảm giác" là một chuyện không thể làm được. | Nó là một trong hai cánh cửa sổ của xúc giác.
Vậy thì "đóng hết các cửa cảm giác" là một chuyện không thể làm được.
Hơn nữa, dù ta có đóng hết các cửa cảm giác thì ý thức ta vẫn còn hoạt động, nghĩa là tâm ta vẫn còn đối tượng: đó là những hình ảnh, những khái niệm và những tư tưởng mà bản chất có nguồn gốc ở ký ức.
Có người cho rằng thiền tọa là gạt ra khỏi tâm thức tất cả mọi đối tượng thuộc về thế giới cảm giác và suy tưởng và để cho tâm trở về trạng thái thuần tuý không đối tượng để cho tâm tự quán chiếu cho đến khi tâm trở thành chân tâm [10].
Ðó là một diễn tả hấp dẫn, nhưng sai lạc ngay từ đầu, nghĩa là từ lúc cho rằng có thể gạt thế giới cảm giác và suy tưởng ra khỏi tâm để cho tâm trở nên thuần túy.
Tâm không phải là một thực tại biệt lập với thế giới cảm giác và suy tưởng để có thể đi ra khỏi thế giới ấy rồi rút về tự thân.
Khi tôi ngồi nhìn cảnh rừng trước mặt, tâm tôi không ra khỏi tự thân để tìm tới cảnh rừng, nó cũng không mở cửa để đón cảnh rừng đi vào.
Khi tôi ngồi nhìn cảnh rừng trong chánh niệm, tôi có thể đi vào thiền định mà không hề nhắm mắt: nói rằng tâm tôi quán chiếu cảnh rừng mà kỳ thực cảnh rừng không phải là một đối tượng biệt lập: tâm tôi với cảnh rừng là một.
Cảnh rừng là một trong những biểu hiện mầu nhiệm của tâm:
rừng
ngàn thân cây
một thân người
lá cành đưa tay vẫy
tai nghe tiếng suối gọi
mắt mở toang trời Tâm
nụ cười hàm tiếu kia
nở trên từng chiếc lá
có rừng cây ở đây
vì có thế gian đó
nhưng tâm đã theo rừng
khoác áo mới màu xanh |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nó là một trong hai cánh cửa sổ của xúc giác.
Vậy thì "đóng hết các cửa cảm giác" là một chuyện không thể làm được.
Hơn nữa, dù ta có đóng hết các cửa cảm giác thì ý thức ta vẫn còn hoạt động, nghĩa là tâm ta vẫn còn đối tượng: đó là những hình ảnh, những khái niệm và những tư tưởng mà bản chất có nguồn gốc ở ký ức.
Có người cho rằng thiền tọa là gạt ra khỏi tâm thức tất cả mọi đối tượng thuộc về thế giới cảm giác và suy tưởng và để cho tâm trở về trạng thái thuần tuý không đối tượng để cho tâm tự quán chiếu cho đến khi tâm trở thành chân tâm [10].
Ðó là một diễn tả hấp dẫn, nhưng sai lạc ngay từ đầu, nghĩa là từ lúc cho rằng có thể gạt thế giới cảm giác và suy tưởng ra khỏi tâm để cho tâm trở nên thuần túy.
Tâm không phải là một thực tại biệt lập với thế giới cảm giác và suy tưởng để có thể đi ra khỏi thế giới ấy rồi rút về tự thân.
Khi tôi ngồi nhìn cảnh rừng trước mặt, tâm tôi không ra khỏi tự thân để tìm tới cảnh rừng, nó cũng không mở cửa để đón cảnh rừng đi vào.
Khi tôi ngồi nhìn cảnh rừng trong chánh niệm, tôi có thể đi vào thiền định mà không hề nhắm mắt: nói rằng tâm tôi quán chiếu cảnh rừng mà kỳ thực cảnh rừng không phải là một đối tượng biệt lập: tâm tôi với cảnh rừng là một.
Cảnh rừng là một trong những biểu hiện mầu nhiệm của tâm:
rừng
ngàn thân cây
một thân người
lá cành đưa tay vẫy
tai nghe tiếng suối gọi
mắt mở toang trời Tâm
nụ cười hàm tiếu kia
nở trên từng chiếc lá
có rừng cây ở đây
vì có thế gian đó
nhưng tâm đã theo rừng
khoác áo mới màu xanh | lá cành đưa tay vẫy
tai nghe tiếng suối gọi
mắt mở toang trời Tâm
nụ cười hàm tiếu kia
nở trên từng chiếc lá
có rừng cây ở đây
vì có thế gian đó
nhưng tâm đã theo rừng
khoác áo mới màu xanh
Người đạo sĩ ngồi nhắm mắt đi vào thiền định không hề phân biệt có thế giới bên ngoài cần phải chặn lại và tâm thức bên trong cần phải thâm nhập.
Tuy nhắm mắt nhưng thế giới có mặt một cách rất hiện thực đối với y, không phải ngoài cũng không phải trong và thế giới này có mặt một cách linh động và hoàn bị nơi đối tượng mà y đang quán niệm, đối tượng đó hoặc là hơi thở của y, chót mũi của y, công án mà y đang nuôi dưỡng, hoặc bất kỳ cái gì đang là đối tượng của tâm ý "Cái gì" ấy có thể nhỏ như hạt bụi hay lớn như núi Thái Sơn nhưng không phải là một mảnh thực tại rời rạc có thể tách rời ra khỏi thực tại mầu nhiệm và trái lại còn chứa đựng toàn thể cái thực tại mầu nhiệm đó.
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tôi đề nghị bạn cùng quán niệm với tôi bài tập sau đây: Bạn ngồi lại trong tư thế thoải mái, bắt đầu chú ý đến hơi thở của mình, trong khi làm cho hơi thở thật êm thật nhẹ.
Chừng một vài phút sau, bạn chuyển sự chú ý vào cảm giác bên trong của thân thể bạn.
Nếu bạn cảm thấy không có sự đau nhức hoặc khó ở nào, trái lại còn có cảm giác thoải mái và an lạc thì bạn chú ý tới cảm giác ấy và cứ tự nhiên an hưởng nó với tất cả ý thức tỉnh táo của bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | lá cành đưa tay vẫy
tai nghe tiếng suối gọi
mắt mở toang trời Tâm
nụ cười hàm tiếu kia
nở trên từng chiếc lá
có rừng cây ở đây
vì có thế gian đó
nhưng tâm đã theo rừng
khoác áo mới màu xanh
Người đạo sĩ ngồi nhắm mắt đi vào thiền định không hề phân biệt có thế giới bên ngoài cần phải chặn lại và tâm thức bên trong cần phải thâm nhập.
Tuy nhắm mắt nhưng thế giới có mặt một cách rất hiện thực đối với y, không phải ngoài cũng không phải trong và thế giới này có mặt một cách linh động và hoàn bị nơi đối tượng mà y đang quán niệm, đối tượng đó hoặc là hơi thở của y, chót mũi của y, công án mà y đang nuôi dưỡng, hoặc bất kỳ cái gì đang là đối tượng của tâm ý "Cái gì" ấy có thể nhỏ như hạt bụi hay lớn như núi Thái Sơn nhưng không phải là một mảnh thực tại rời rạc có thể tách rời ra khỏi thực tại mầu nhiệm và trái lại còn chứa đựng toàn thể cái thực tại mầu nhiệm đó.
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài
Tôi đề nghị bạn cùng quán niệm với tôi bài tập sau đây: Bạn ngồi lại trong tư thế thoải mái, bắt đầu chú ý đến hơi thở của mình, trong khi làm cho hơi thở thật êm thật nhẹ.
Chừng một vài phút sau, bạn chuyển sự chú ý vào cảm giác bên trong của thân thể bạn.
Nếu bạn cảm thấy không có sự đau nhức hoặc khó ở nào, trái lại còn có cảm giác thoải mái và an lạc thì bạn chú ý tới cảm giác ấy và cứ tự nhiên an hưởng nó với tất cả ý thức tỉnh táo của bạn. | Nếu bạn cảm thấy không có sự đau nhức hoặc khó ở nào, trái lại còn có cảm giác thoải mái và an lạc thì bạn chú ý tới cảm giác ấy và cứ tự nhiên an hưởng nó với tất cả ý thức tỉnh táo của bạn.
Một vài phút sau, bạn lưu ý tới sự vận hành bên trong của các bộ phận trong cơ thể bạn như trái tim, buồng phổi, lá gan, quả thận và bộ máy tiêu hóa.
Các bộ phận này đang hoạt động bình thường, không có vấn đề gì, cho nên chúng không gây sự khó chịu đau nhức khiến bạn phải chú ý tới chúng.
Bạn chú ý tới máu đang luân lưu trong cơ thể giống như sông suối đang đi qua cánh đồng để thấm nhuần nước mát cho những cánh đồng ấy.
Bạn biết là máu nuôi dưỡng các tế bào trong cơ thể, và tất cả những bộ phận trong cơ thể trong khi được máu nuôi dưỡng đều góp phần vào việc bồi dưỡng máu (bộ máy tiêu hóa), hoặc lọc máu (gan, phổi), hoặc để máu luân lưu trong cơ thể (tim).
Tất cả những bộ phận trong cơ thể, trong đó có hệ thần kinh và các hạch tiết tuyến, đều nương vào nhau mà hiện hữu.
Tất cả đều thống thuộc vào nhau.
Phổi cần cho máu nên phổi là của máu.
Máu cần cho phổi, cho nên máu là của phổi.
Cứ như thế, ta có thể nói "phổi là của tim" hay là "gan là của phổi"... và ta thấy được rằng trong một bộ phận nào của cơ thể cũng có sự có mặt của tất cả những bộ phận khác của cơ thể.
Sự nương tựa vào nhau trùng trùng lớp lớp để cùng có mặt ấy, giáo lý Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu bạn cảm thấy không có sự đau nhức hoặc khó ở nào, trái lại còn có cảm giác thoải mái và an lạc thì bạn chú ý tới cảm giác ấy và cứ tự nhiên an hưởng nó với tất cả ý thức tỉnh táo của bạn.
Một vài phút sau, bạn lưu ý tới sự vận hành bên trong của các bộ phận trong cơ thể bạn như trái tim, buồng phổi, lá gan, quả thận và bộ máy tiêu hóa.
Các bộ phận này đang hoạt động bình thường, không có vấn đề gì, cho nên chúng không gây sự khó chịu đau nhức khiến bạn phải chú ý tới chúng.
Bạn chú ý tới máu đang luân lưu trong cơ thể giống như sông suối đang đi qua cánh đồng để thấm nhuần nước mát cho những cánh đồng ấy.
Bạn biết là máu nuôi dưỡng các tế bào trong cơ thể, và tất cả những bộ phận trong cơ thể trong khi được máu nuôi dưỡng đều góp phần vào việc bồi dưỡng máu (bộ máy tiêu hóa), hoặc lọc máu (gan, phổi), hoặc để máu luân lưu trong cơ thể (tim).
Tất cả những bộ phận trong cơ thể, trong đó có hệ thần kinh và các hạch tiết tuyến, đều nương vào nhau mà hiện hữu.
Tất cả đều thống thuộc vào nhau.
Phổi cần cho máu nên phổi là của máu.
Máu cần cho phổi, cho nên máu là của phổi.
Cứ như thế, ta có thể nói "phổi là của tim" hay là "gan là của phổi"... và ta thấy được rằng trong một bộ phận nào của cơ thể cũng có sự có mặt của tất cả những bộ phận khác của cơ thể.
Sự nương tựa vào nhau trùng trùng lớp lớp để cùng có mặt ấy, giáo lý Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi. | Sự nương tựa vào nhau trùng trùng lớp lớp để cùng có mặt ấy, giáo lý Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi.
Nhân quả ở đây không nằm theo chiều dài (trong đó một nhân đưa đến một quả) mà thể hiện chằng chịt như một màn lưới, không phải một màng lưới hai chiều như một màng nhện mà là nhiều màng lưới giao nhau trong một không gian nhiều chiều.
Không những một bộ phận của cơ thể chứa trong nó sự hiện hữu của tất cả các bộ phận khác của cơ thể, mà mỗi tế bào trong cơ thể cũng chứa đựng sự có mặt của toàn thể các tế bào trong cơ thể.
Một có mặt trong tất cả, và tất cả có mặt trong một.
Giáo lý Hoa Nghiêm khi nói đến "một là tất cả, tất cả là một" (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất) tức là nói về nguyên lý tương quan tương duyên chằng chịt này.
Nếu ta nắm vững được nguyên lý "tất cả là một, một là tất cả" thì ta có thể vượt thoát được cái bẫy khái niệm một và nhiều (nhất/đa), một cái bẫy đã từng giam hãm ta trong nhiều ngày, nhiều tháng.
Khi ta nói: "một tế bào chứa đựng tất cả tế bào khác", ta không nghĩ một cách đơn giản rằng dung tích của một tế bào có thể bao hàm được mọi tế bào, và mọi tế bào có thể chui vào nằm gọn trong tế bào ấy.
Ta chỉ nói: sự có mặt của một tế bào chứng minh được sự có mặt của tất cả tế bào khác trong cơ thể.
Một vị thiền sư Việt Nam nói: "hạt bụi này mà không có thì cả vũ trụ cũng không có" (tác hữu trần sa hữu, vi không nhất thiết không).
Nhìn vào hạt bụi, bậc thiền giả đắc đạo thấy được cả vạn hữu nơi pháp giới. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Sự nương tựa vào nhau trùng trùng lớp lớp để cùng có mặt ấy, giáo lý Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi.
Nhân quả ở đây không nằm theo chiều dài (trong đó một nhân đưa đến một quả) mà thể hiện chằng chịt như một màn lưới, không phải một màng lưới hai chiều như một màng nhện mà là nhiều màng lưới giao nhau trong một không gian nhiều chiều.
Không những một bộ phận của cơ thể chứa trong nó sự hiện hữu của tất cả các bộ phận khác của cơ thể, mà mỗi tế bào trong cơ thể cũng chứa đựng sự có mặt của toàn thể các tế bào trong cơ thể.
Một có mặt trong tất cả, và tất cả có mặt trong một.
Giáo lý Hoa Nghiêm khi nói đến "một là tất cả, tất cả là một" (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất) tức là nói về nguyên lý tương quan tương duyên chằng chịt này.
Nếu ta nắm vững được nguyên lý "tất cả là một, một là tất cả" thì ta có thể vượt thoát được cái bẫy khái niệm một và nhiều (nhất/đa), một cái bẫy đã từng giam hãm ta trong nhiều ngày, nhiều tháng.
Khi ta nói: "một tế bào chứa đựng tất cả tế bào khác", ta không nghĩ một cách đơn giản rằng dung tích của một tế bào có thể bao hàm được mọi tế bào, và mọi tế bào có thể chui vào nằm gọn trong tế bào ấy.
Ta chỉ nói: sự có mặt của một tế bào chứng minh được sự có mặt của tất cả tế bào khác trong cơ thể.
Một vị thiền sư Việt Nam nói: "hạt bụi này mà không có thì cả vũ trụ cũng không có" (tác hữu trần sa hữu, vi không nhất thiết không).
Nhìn vào hạt bụi, bậc thiền giả đắc đạo thấy được cả vạn hữu nơi pháp giới. | Nhìn vào hạt bụi, bậc thiền giả đắc đạo thấy được cả vạn hữu nơi pháp giới.
Người mới học đạo tuy chưa nhìn thấy điều đó rõ ràng như thấy một trái chanh nằm trong lòng bàn tay nhưng cũng có thể thấy được điều đó trên mặt nhận xét và suy luận.
Kinh Hoa Nghiêm có những câu có thể làm người đọc rụng rời tay chân, nếu người ấy chưa có dịp tham khảo về nguyên lý trùng trùng duyên khởi.
Ta hãy đọc câu: "Trong mỗi hạt bụi, ta thấy vô số cảnh giới Phật, mỗi cảnh giới đều có các Ðức Như Lai với hào quang quý báu", "Vô lượng vô số núi Tu Di có thể đem để trên đầu một sợi tóc", "đặt một thế giới vào tất cả các thế giới, đặt tất cả thế giới vào một thế giới".
Trong thế giới hiện tượng, ta thấy sự vật hiện hữu riêng biệt, cái nào nằm trong vị trí của cái ấy, cái này ở ngoài cái kia.
Ði sâu vào nguyên lý duyên khởi, ta thấy rằng tính cách riêng biệt ấy là giả tạo: một vật thể là do tất cả các vật thể cấu thành, một vật thể chứa đựng tất cả các vật thể.
Dưới ánh sáng quán chiếu của duyên khởi, ý niệm một và nhiều bị tan rã, và cùng với nó các ý niệm trong và ngoài, nhỏ và lớn cũng tan rã.
Thi sĩ Nguyễn Công Trứ [11] đã thấy được điều này khi ông ca ngợi:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Mặt trời là trái tim
Ðã thấy được "một trong tất cả, tất cả trong một" nơi cơ thể, ta hãy đi xa một bước nữa để quán niệm về sự có mặt của vạn hữu trong ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhìn vào hạt bụi, bậc thiền giả đắc đạo thấy được cả vạn hữu nơi pháp giới.
Người mới học đạo tuy chưa nhìn thấy điều đó rõ ràng như thấy một trái chanh nằm trong lòng bàn tay nhưng cũng có thể thấy được điều đó trên mặt nhận xét và suy luận.
Kinh Hoa Nghiêm có những câu có thể làm người đọc rụng rời tay chân, nếu người ấy chưa có dịp tham khảo về nguyên lý trùng trùng duyên khởi.
Ta hãy đọc câu: "Trong mỗi hạt bụi, ta thấy vô số cảnh giới Phật, mỗi cảnh giới đều có các Ðức Như Lai với hào quang quý báu", "Vô lượng vô số núi Tu Di có thể đem để trên đầu một sợi tóc", "đặt một thế giới vào tất cả các thế giới, đặt tất cả thế giới vào một thế giới".
Trong thế giới hiện tượng, ta thấy sự vật hiện hữu riêng biệt, cái nào nằm trong vị trí của cái ấy, cái này ở ngoài cái kia.
Ði sâu vào nguyên lý duyên khởi, ta thấy rằng tính cách riêng biệt ấy là giả tạo: một vật thể là do tất cả các vật thể cấu thành, một vật thể chứa đựng tất cả các vật thể.
Dưới ánh sáng quán chiếu của duyên khởi, ý niệm một và nhiều bị tan rã, và cùng với nó các ý niệm trong và ngoài, nhỏ và lớn cũng tan rã.
Thi sĩ Nguyễn Công Trứ [11] đã thấy được điều này khi ông ca ngợi:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Mặt trời là trái tim
Ðã thấy được "một trong tất cả, tất cả trong một" nơi cơ thể, ta hãy đi xa một bước nữa để quán niệm về sự có mặt của vạn hữu trong ta. | Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Mặt trời là trái tim
Ðã thấy được "một trong tất cả, tất cả trong một" nơi cơ thể, ta hãy đi xa một bước nữa để quán niệm về sự có mặt của vạn hữu trong ta.
Ta biết rằng hễ trái tim ngừng đập trong ta là dòng sinh mạng ta có thể bị gián đoạn, vì vậy ta rất nuông chiều quý mến trái tim ta.
Nhưng bên ngoài cơ thể ta có nhiều bộ phận cũng quan trọng cho sự sống ta và quan trọng không kém trái tim trong cơ thể ta.
Hãy chú ý tới cái vầng sáng vĩ đại trong không gian mà ta gọi là mặt trời, chẳng hạn.
Mặt trời cũng là một trái tim của ta, một bộ phận ta tạm gọi là ở ngoài cơ thể ta, nhưng nếu ngưng hoạt động thì sự sống của ta cũng bị chấm dứt.
"Trái tim" vĩ đại ấy của ta cho ta và muôn loài trên trái đất nhiệt lượng cần thiết để sinh tồn.
Loài thực vật sống được là nhờ ánh sáng mặt trời.
Lá cây hút lấy một phần ánh sáng chiếu rọi trên nó, cắt giữ năng lượng ấy, rút chất thán trong không khí và chế tạo các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây như đường và tinh bột.
Nhờ cây cỏ mà vật và người có thức ăn.
Tất cả chúng ta, cây cỏ thú vật và người đều "tiêu thụ" mặt trời, trực tiếp và gián tiếp.
Nói sao cho hết tác dụng của mặt trời, của trái-tim-bên-ngoài-cơ-thể đó của ta.
Cơ thể của ta thực ra không giới hạn trong phạm vi bên trong của da ta.
Cơ thể ta bao la vĩ đại hơn nhiều.
Nội một sự vắng mặt trong vài ba phút của cái bầu khí quyển bao quanh trái đất cũng đủ để cho sự sống của "ta" chấm dứt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Mặt trời là trái tim
Ðã thấy được "một trong tất cả, tất cả trong một" nơi cơ thể, ta hãy đi xa một bước nữa để quán niệm về sự có mặt của vạn hữu trong ta.
Ta biết rằng hễ trái tim ngừng đập trong ta là dòng sinh mạng ta có thể bị gián đoạn, vì vậy ta rất nuông chiều quý mến trái tim ta.
Nhưng bên ngoài cơ thể ta có nhiều bộ phận cũng quan trọng cho sự sống ta và quan trọng không kém trái tim trong cơ thể ta.
Hãy chú ý tới cái vầng sáng vĩ đại trong không gian mà ta gọi là mặt trời, chẳng hạn.
Mặt trời cũng là một trái tim của ta, một bộ phận ta tạm gọi là ở ngoài cơ thể ta, nhưng nếu ngưng hoạt động thì sự sống của ta cũng bị chấm dứt.
"Trái tim" vĩ đại ấy của ta cho ta và muôn loài trên trái đất nhiệt lượng cần thiết để sinh tồn.
Loài thực vật sống được là nhờ ánh sáng mặt trời.
Lá cây hút lấy một phần ánh sáng chiếu rọi trên nó, cắt giữ năng lượng ấy, rút chất thán trong không khí và chế tạo các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây như đường và tinh bột.
Nhờ cây cỏ mà vật và người có thức ăn.
Tất cả chúng ta, cây cỏ thú vật và người đều "tiêu thụ" mặt trời, trực tiếp và gián tiếp.
Nói sao cho hết tác dụng của mặt trời, của trái-tim-bên-ngoài-cơ-thể đó của ta.
Cơ thể của ta thực ra không giới hạn trong phạm vi bên trong của da ta.
Cơ thể ta bao la vĩ đại hơn nhiều.
Nội một sự vắng mặt trong vài ba phút của cái bầu khí quyển bao quanh trái đất cũng đủ để cho sự sống của "ta" chấm dứt. | Cơ thể ta bao la vĩ đại hơn nhiều.
Nội một sự vắng mặt trong vài ba phút của cái bầu khí quyển bao quanh trái đất cũng đủ để cho sự sống của "ta" chấm dứt.
Không có hiện tượng nào trong vũ trụ mà không có liên hệ đến ta, từ một hạt sỏi trong lòng suối đến một tinh hà đang vận chuyển cách trái đất ta hàng triệu năm ánh sáng.
Thi sĩ Walt Whitman nói: "sự có mặt của một lá cỏ cũng quan trọng bằng sự vận hành của các vì tinh tú".
Nhận xét đó không phải đến từ sự suy luận Triết Học mà từ một rung cảm của tâm tư.
Ông còn nói: "Tôi rộng lớn... tôi chứa đựng cả và thiên hạ" (I am large… I contain multitudes) [12].
Tương tức và tương nhập
Phép quán mà tôi đề nghị với bạn trên đây, ta có thể gọi là phép quán "trùng trùng duyên khởi" tức là về sự biểu hiện của mọi hiện tượng theo đường lối tương quan tương duyên.
Phép quán này có thể đưa ta vượt thoát ý niệm về một và nhiều (l'unité et la diversité) hoặc về một và tất cả (le Un et le Tout).
Chỉ có phép quán này mới đủ sức đập vỡ ngã kiến, vì ngã kiến đã được thành lập trên thói quen nhận thức về một và nhiều.
Khi ta có khái niệm "một hạt bụi", "một bông hồng", hay "một con người", khái niệm ấy không tách rời khỏi ý niệm về đơn vị, về một, và toán học được thành lập.
Ta thấy có ranh giới giữa một và nhiều, giữa một và không.
Ý niệm về đơn vị rất thiết dụng cho đời sống hằng ngày, cũng như đường rầy xe lửa rất cần cho chiếc xe lửa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cơ thể ta bao la vĩ đại hơn nhiều.
Nội một sự vắng mặt trong vài ba phút của cái bầu khí quyển bao quanh trái đất cũng đủ để cho sự sống của "ta" chấm dứt.
Không có hiện tượng nào trong vũ trụ mà không có liên hệ đến ta, từ một hạt sỏi trong lòng suối đến một tinh hà đang vận chuyển cách trái đất ta hàng triệu năm ánh sáng.
Thi sĩ Walt Whitman nói: "sự có mặt của một lá cỏ cũng quan trọng bằng sự vận hành của các vì tinh tú".
Nhận xét đó không phải đến từ sự suy luận Triết Học mà từ một rung cảm của tâm tư.
Ông còn nói: "Tôi rộng lớn... tôi chứa đựng cả và thiên hạ" (I am large… I contain multitudes) [12].
Tương tức và tương nhập
Phép quán mà tôi đề nghị với bạn trên đây, ta có thể gọi là phép quán "trùng trùng duyên khởi" tức là về sự biểu hiện của mọi hiện tượng theo đường lối tương quan tương duyên.
Phép quán này có thể đưa ta vượt thoát ý niệm về một và nhiều (l'unité et la diversité) hoặc về một và tất cả (le Un et le Tout).
Chỉ có phép quán này mới đủ sức đập vỡ ngã kiến, vì ngã kiến đã được thành lập trên thói quen nhận thức về một và nhiều.
Khi ta có khái niệm "một hạt bụi", "một bông hồng", hay "một con người", khái niệm ấy không tách rời khỏi ý niệm về đơn vị, về một, và toán học được thành lập.
Ta thấy có ranh giới giữa một và nhiều, giữa một và không.
Ý niệm về đơn vị rất thiết dụng cho đời sống hằng ngày, cũng như đường rầy xe lửa rất cần cho chiếc xe lửa. | Ta thấy có ranh giới giữa một và nhiều, giữa một và không.
Ý niệm về đơn vị rất thiết dụng cho đời sống hằng ngày, cũng như đường rầy xe lửa rất cần cho chiếc xe lửa.
Nhưng nếu ta quán chiếu được tự tính duyên khởi trùng trùng của hạt bụi, của bông hoa hoặc của con người thì ta thấy cái một và cái nhiều không thể rời nhau mà hiện hữu, cái một và cái nhiều đi vào nhau không trở ngại, cái một tức là cái nhiều.
Ðó là ý niệm tương tức và tương nhập của giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
Tương tức có nghĩa là cái này là cái kia, cái kia là cái này: tương nhập có nghĩa là cái này nằm trong cái kia, cái kia nằm trong cái này.
Quán chiếu cho tường tận thì ta có thể thấy ý niệm một và nhiều chỉ là một trong các phạm trù ý thức mà ta sử dụng để nắm lấy thực tại, cũng như những chai lọ mà ta sử dụng để đựng nước uống.
Ta thoát được phạm trù một và nhiều thì cũng như chiếc xe lửa thoát khỏi đường rầy xe lửa để trở thành chiếc máy bay bay liệng tự do trên không gian.
Cũng như nhờ thấy được rằng ta đứng trên một trái đất tròn đang quay chung quanh nó và chung quanh mặt trời, ta thấy ý niệm về trên và dưới ngày xưa của ta bị phá vỡ, nhờ thấy được tính cách tương tức và tương nhập của mọi hiện tượng, ta thoát được ý niệm về một và nhiều.
Kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh màng lưới của vua trời Ðế Thích để gợi ý trùng trùng duyên khởi.
Màn lưới này được kết bằng những hạt ngọc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta thấy có ranh giới giữa một và nhiều, giữa một và không.
Ý niệm về đơn vị rất thiết dụng cho đời sống hằng ngày, cũng như đường rầy xe lửa rất cần cho chiếc xe lửa.
Nhưng nếu ta quán chiếu được tự tính duyên khởi trùng trùng của hạt bụi, của bông hoa hoặc của con người thì ta thấy cái một và cái nhiều không thể rời nhau mà hiện hữu, cái một và cái nhiều đi vào nhau không trở ngại, cái một tức là cái nhiều.
Ðó là ý niệm tương tức và tương nhập của giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
Tương tức có nghĩa là cái này là cái kia, cái kia là cái này: tương nhập có nghĩa là cái này nằm trong cái kia, cái kia nằm trong cái này.
Quán chiếu cho tường tận thì ta có thể thấy ý niệm một và nhiều chỉ là một trong các phạm trù ý thức mà ta sử dụng để nắm lấy thực tại, cũng như những chai lọ mà ta sử dụng để đựng nước uống.
Ta thoát được phạm trù một và nhiều thì cũng như chiếc xe lửa thoát khỏi đường rầy xe lửa để trở thành chiếc máy bay bay liệng tự do trên không gian.
Cũng như nhờ thấy được rằng ta đứng trên một trái đất tròn đang quay chung quanh nó và chung quanh mặt trời, ta thấy ý niệm về trên và dưới ngày xưa của ta bị phá vỡ, nhờ thấy được tính cách tương tức và tương nhập của mọi hiện tượng, ta thoát được ý niệm về một và nhiều.
Kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh màng lưới của vua trời Ðế Thích để gợi ý trùng trùng duyên khởi.
Màn lưới này được kết bằng những hạt ngọc. | Kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh màng lưới của vua trời Ðế Thích để gợi ý trùng trùng duyên khởi.
Màn lưới này được kết bằng những hạt ngọc.
Mỗi hạt ngọc phản chiếu trong nó tất cả các hạt ngọc khác và hình ảnh của nó cũng được phản chiếu trong tất cả các hạt ngọc khác trên lưới.
Như vậy, đứng trên phương diện hình bóng, một hạt ngọc chứa tất cả các hạt khác, và tất cả các hạt khác đều chứa nó.
Ta cũng có thể dùng một hình tượng hình học để nói về tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn vật.
Ví dụ ta có một hình tròn mà tâm điểm là T, được thành lập bởi tất cả các điểm cách T bởi một khoảng cách bằng nhau, và ta biết hễ thiếu một điểm là vòng tròn không thể thành lập được.
Vòng tròn là tất cả các điểm ấy.
Ở đây ta thấy một là tất cả, bởi vì nếu thiếu một điểm thì vòng tròn không thể thành lập, nghĩa là tất cả các điểm khác cũng không có.
Ta lại thấy tất cả là một, bởi vì sự có mặt của vòng tròn, nghĩa là của tất cả các điểm kia đều tùy thuộc vào sự có mặt của một điểm này.
Tất cả các điểm của vòng tròn đều quan trọng như nhau và đều có tính cách thiết yếu cho tất cả vòng tròn.
Ðể có một ý niệm về liên hệ chằng chịt tượng trưng cho tính cách tương tức và tương nhập (tôi tạm dịch là inner-être và interpenétration) của vạn hữu, ta có thể hình dung một khối cầu (globe) hình học, được thành lập do sự có mặt của tất cả các điểm trên diện tích hình cầu cũng như trong lòng cầu, thiếu một trong vô số các điểm đó là khối cầu không thể thành lập. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh màng lưới của vua trời Ðế Thích để gợi ý trùng trùng duyên khởi.
Màn lưới này được kết bằng những hạt ngọc.
Mỗi hạt ngọc phản chiếu trong nó tất cả các hạt ngọc khác và hình ảnh của nó cũng được phản chiếu trong tất cả các hạt ngọc khác trên lưới.
Như vậy, đứng trên phương diện hình bóng, một hạt ngọc chứa tất cả các hạt khác, và tất cả các hạt khác đều chứa nó.
Ta cũng có thể dùng một hình tượng hình học để nói về tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn vật.
Ví dụ ta có một hình tròn mà tâm điểm là T, được thành lập bởi tất cả các điểm cách T bởi một khoảng cách bằng nhau, và ta biết hễ thiếu một điểm là vòng tròn không thể thành lập được.
Vòng tròn là tất cả các điểm ấy.
Ở đây ta thấy một là tất cả, bởi vì nếu thiếu một điểm thì vòng tròn không thể thành lập, nghĩa là tất cả các điểm khác cũng không có.
Ta lại thấy tất cả là một, bởi vì sự có mặt của vòng tròn, nghĩa là của tất cả các điểm kia đều tùy thuộc vào sự có mặt của một điểm này.
Tất cả các điểm của vòng tròn đều quan trọng như nhau và đều có tính cách thiết yếu cho tất cả vòng tròn.
Ðể có một ý niệm về liên hệ chằng chịt tượng trưng cho tính cách tương tức và tương nhập (tôi tạm dịch là inner-être và interpenétration) của vạn hữu, ta có thể hình dung một khối cầu (globe) hình học, được thành lập do sự có mặt của tất cả các điểm trên diện tích hình cầu cũng như trong lòng cầu, thiếu một trong vô số các điểm đó là khối cầu không thể thành lập. | Bây giờ ta hãy nối liền mỗi điểm trong khối cầu với tất cả các điểm khác trong khối cầu bằng những đường dây tưởng tượng, nối xong điểm A với tất cả các điểm xong thì bắt đầu nối điểm B với tất cả các điểm, trong đó có A. Cứ như thế mà ta nối liền tất cả các điểm trong khối cầu với tất cả các điểm khác trong khối cầu.
Như vậy là ta đã tạo ra màn lưới vô cùng chằng chịt giữa các điểm.
"Bồ tát biết quán sát về tự tính duyên khởi của các pháp, trong một pháp thấy nhiều pháp, trong nhiều pháp thấy một pháp, trong cái một thấy cái vô lượng, trong cái vô lượng thấy cái một, sự sinh khởi và hiện tồn của các pháp có tính cách triển chuyển không thực và không làm nao núng được bậc thức giả".
Như tôi đã nói, trong giới vật lý học hiện tại có quan niệm về "bootstrap" khá phù hợp với tư tưởng tương tức và tương nhập.
Theo thuyết này, không có gì làm bản chất cho vật chất cả.
Chất tử (particules) chỉ là những phối hợp chằng chịt và hỗ tương giữa các chất tử.
Vũ trụ là một màng lưới hiện tượng tương duyên trong đó không có một hiện tượng nào có thể làm bản chất căn bản: một hiện tượng là do tất cả các hiện tượng khác kết hợp [13].
Giả sử có người tới hỏi: "Tôi đồng ý là những hiện tượng riêng biệt kia nương vào nhau mà sinh khởi và tồn tại.
Nhưng cái tổng thể của tất cả các hiện tượng đó, cái Tất Cả (le Tout) thì do dâu mà sinh ra?"
Xin bạn hãy cho người đó một câu trả lời.
Mở mắt trong định |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bây giờ ta hãy nối liền mỗi điểm trong khối cầu với tất cả các điểm khác trong khối cầu bằng những đường dây tưởng tượng, nối xong điểm A với tất cả các điểm xong thì bắt đầu nối điểm B với tất cả các điểm, trong đó có A. Cứ như thế mà ta nối liền tất cả các điểm trong khối cầu với tất cả các điểm khác trong khối cầu.
Như vậy là ta đã tạo ra màn lưới vô cùng chằng chịt giữa các điểm.
"Bồ tát biết quán sát về tự tính duyên khởi của các pháp, trong một pháp thấy nhiều pháp, trong nhiều pháp thấy một pháp, trong cái một thấy cái vô lượng, trong cái vô lượng thấy cái một, sự sinh khởi và hiện tồn của các pháp có tính cách triển chuyển không thực và không làm nao núng được bậc thức giả".
Như tôi đã nói, trong giới vật lý học hiện tại có quan niệm về "bootstrap" khá phù hợp với tư tưởng tương tức và tương nhập.
Theo thuyết này, không có gì làm bản chất cho vật chất cả.
Chất tử (particules) chỉ là những phối hợp chằng chịt và hỗ tương giữa các chất tử.
Vũ trụ là một màng lưới hiện tượng tương duyên trong đó không có một hiện tượng nào có thể làm bản chất căn bản: một hiện tượng là do tất cả các hiện tượng khác kết hợp [13].
Giả sử có người tới hỏi: "Tôi đồng ý là những hiện tượng riêng biệt kia nương vào nhau mà sinh khởi và tồn tại.
Nhưng cái tổng thể của tất cả các hiện tượng đó, cái Tất Cả (le Tout) thì do dâu mà sinh ra?"
Xin bạn hãy cho người đó một câu trả lời.
Mở mắt trong định | Nhưng cái tổng thể của tất cả các hiện tượng đó, cái Tất Cả (le Tout) thì do dâu mà sinh ra?"
Xin bạn hãy cho người đó một câu trả lời.
Mở mắt trong định
Là một người thực tập thông minh, bạn có thể đi vào phép quán "trùng trùng duyên khởi" bằng nhiều ngõ ngách.
Thiền quán không phải là một sự bắt chước, mà là một sự sáng tạo.
Người bắt chước không bao giờ đi xa, kể cả những người bắt chước nghệ thuật nấu ăn.
Chắc bạn cũng dư biết người nấu ăn giỏi là một người có tài sáng tạo.
Những cánh cửa đi vào phép quán ấy có thể gọi là những phương tiện.
Cánh cửa phương tiện mà tôi vừa đề nghị với bạn là quán sát sự vận hành của các bộ phận trong cơ thể: máu, tim, ruột, gan, phổi, thận.
Bạn có thể chọn một trong muôn ngàn cánh cửa khác để đi vào cùng một phép quán.
Một tư tưởng, một tình cảm, một hình bóng, một câu thơ, một giấc mơ, một hòn sỏi, một dòng sông, một vì sao, một chiếc lá... Người thiền sinh giỏi biết vận dụng sự quán chiếu của mình trong đời sống hàng ngày và không bỏ qua một cơ hội nào để nhìn thấu vào tính duyên khởi của vạn tượng.
Sự quán chiếu cố nhiên là được thực hiện trong định, nghĩa là trong sự tập trung của tâm ý.
Dù ta mở mắt hay nhắm mắt thì tính chất của quán chiếu vẫn là định.
Ta hãy bỏ đi cái hình ảnh cho rằng nhắm mắt lại là để nhìn thấy bên trong (của tâm) và mở mắt ra là để nhìn thấy bên ngoài (của tâm).
Một tư tưởng không phải là một đối tượng bên trong, một dáng núi không phải là một đối tượng bên ngoài. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng cái tổng thể của tất cả các hiện tượng đó, cái Tất Cả (le Tout) thì do dâu mà sinh ra?"
Xin bạn hãy cho người đó một câu trả lời.
Mở mắt trong định
Là một người thực tập thông minh, bạn có thể đi vào phép quán "trùng trùng duyên khởi" bằng nhiều ngõ ngách.
Thiền quán không phải là một sự bắt chước, mà là một sự sáng tạo.
Người bắt chước không bao giờ đi xa, kể cả những người bắt chước nghệ thuật nấu ăn.
Chắc bạn cũng dư biết người nấu ăn giỏi là một người có tài sáng tạo.
Những cánh cửa đi vào phép quán ấy có thể gọi là những phương tiện.
Cánh cửa phương tiện mà tôi vừa đề nghị với bạn là quán sát sự vận hành của các bộ phận trong cơ thể: máu, tim, ruột, gan, phổi, thận.
Bạn có thể chọn một trong muôn ngàn cánh cửa khác để đi vào cùng một phép quán.
Một tư tưởng, một tình cảm, một hình bóng, một câu thơ, một giấc mơ, một hòn sỏi, một dòng sông, một vì sao, một chiếc lá... Người thiền sinh giỏi biết vận dụng sự quán chiếu của mình trong đời sống hàng ngày và không bỏ qua một cơ hội nào để nhìn thấu vào tính duyên khởi của vạn tượng.
Sự quán chiếu cố nhiên là được thực hiện trong định, nghĩa là trong sự tập trung của tâm ý.
Dù ta mở mắt hay nhắm mắt thì tính chất của quán chiếu vẫn là định.
Ta hãy bỏ đi cái hình ảnh cho rằng nhắm mắt lại là để nhìn thấy bên trong (của tâm) và mở mắt ra là để nhìn thấy bên ngoài (của tâm).
Một tư tưởng không phải là một đối tượng bên trong, một dáng núi không phải là một đối tượng bên ngoài. | Một tư tưởng không phải là một đối tượng bên trong, một dáng núi không phải là một đối tượng bên ngoài.
Cả hai đều là đối tượng của cái biết và không có cái nào ở trong cái nào ở ngoài cả.
Ðịnh lực lớn là khi ta an trú trong một trạng thái cảm thông sâu sắc với thực tại qua đối tượng quán niệm của ta, nơi đó ta không còn phân biệt chủ thể và đối tượng.
Lúc đó, sở dĩ ta có thể là một thực tại bởi vì ta đã gạt bỏ được những dụng cụ đo lường của nhận thức mà Phật học gọi là nhận thức biến kế [14].
Thấy nghĩa là thương
Chắc chắn là đã có những lúc bạn ngắm những đứa con của mình đang nô đùa vô tư và nghĩ đến tương lai của chúng.
Do kinh nghiệm sống, bạn biết đời người đầy dẫy lo âu, sợ hãi, thất vọng và hy vọng... Bạn lo lắng cho các con của bạn và xót xa nghĩ đến đời sống càng lúc càng khó khăn đang đợi chúng ở tương lai.
Những lúc đó bạn đã đi vào trong chúng.
Sở dĩ bạn đi vào trong chúng dễ dàng như vậy là vì bạn thấy được liên lạc huyết thống giữa bạn và chúng.
Càng quán chiếu tính cách trùng trùng duyên khởi y càng dễ đi vào thực tại của vũ tru, và y có thể thấy được những lo âu sợ hãi thất vọng và hy vọng của muôn loài.
Quán sát một con sâu xanh trên một cọng lá, người thiền giả thấy được tầm quan trọng của con sâu, không phải từ quan điểm tự tôn tự đại của loài người mà là trên nhận thức trùng trùng duyên khởi của vạn vật.
Y thấy được tính cách quý giá của sự sống nơi con sâu, và y không thể nào tiêu diệt sự sống đó một cách dễ dàng như những kẻ khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Một tư tưởng không phải là một đối tượng bên trong, một dáng núi không phải là một đối tượng bên ngoài.
Cả hai đều là đối tượng của cái biết và không có cái nào ở trong cái nào ở ngoài cả.
Ðịnh lực lớn là khi ta an trú trong một trạng thái cảm thông sâu sắc với thực tại qua đối tượng quán niệm của ta, nơi đó ta không còn phân biệt chủ thể và đối tượng.
Lúc đó, sở dĩ ta có thể là một thực tại bởi vì ta đã gạt bỏ được những dụng cụ đo lường của nhận thức mà Phật học gọi là nhận thức biến kế [14].
Thấy nghĩa là thương
Chắc chắn là đã có những lúc bạn ngắm những đứa con của mình đang nô đùa vô tư và nghĩ đến tương lai của chúng.
Do kinh nghiệm sống, bạn biết đời người đầy dẫy lo âu, sợ hãi, thất vọng và hy vọng... Bạn lo lắng cho các con của bạn và xót xa nghĩ đến đời sống càng lúc càng khó khăn đang đợi chúng ở tương lai.
Những lúc đó bạn đã đi vào trong chúng.
Sở dĩ bạn đi vào trong chúng dễ dàng như vậy là vì bạn thấy được liên lạc huyết thống giữa bạn và chúng.
Càng quán chiếu tính cách trùng trùng duyên khởi y càng dễ đi vào thực tại của vũ tru, và y có thể thấy được những lo âu sợ hãi thất vọng và hy vọng của muôn loài.
Quán sát một con sâu xanh trên một cọng lá, người thiền giả thấy được tầm quan trọng của con sâu, không phải từ quan điểm tự tôn tự đại của loài người mà là trên nhận thức trùng trùng duyên khởi của vạn vật.
Y thấy được tính cách quý giá của sự sống nơi con sâu, và y không thể nào tiêu diệt sự sống đó một cách dễ dàng như những kẻ khác. | Y thấy được tính cách quý giá của sự sống nơi con sâu, và y không thể nào tiêu diệt sự sống đó một cách dễ dàng như những kẻ khác.
Có thể là một ngày nào đó y bị bắt buộc phải giết con sâu, nhưng nếu y giết con sâu thì y cũng có cảm tưởng là y tự giết lấy y, y tự thấy "chết trong lòng một ít".
Có người đi săn để giết mua vui.
Ngày xưa, có người đi săn vì không thể để mình và vợ con chết đói, nhưng không bao giờ lại đi tước đoạt sinh mạng của một con vật vì ngứa tay.
Trùng trùng duyên khởi không phải là một trò chơi suy luận triết học không có liên hệ gì tới đời sống tâm linh và thực dụng.
Quán chiếu về trùng trùng duyên khởi, người hành giả dần dần thấy được sự sống của muôn loài là một, và trong y tình thương khơi dậy, bao trùm mọi sinh vật.
Khi thấy tình thương đó hiện hữu, y biết rằng công phu quán chiếu của y bắt đầu có kết quả.
Cái thấy với cái thương đi đôi với nhau, cái thấy với cái thương là một.
Tiểu trí thì đi với tiểu bi, mà đại trí thì đi với đại bi.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Bạn có khi nào xem một chương trình truyền hình về loài vật trong đó các loài săn đuổi nhau để ăn thịt nhau không?
Bạn đã từng thấy một con cọp đuổi bắt một con nai hoặc một con rắn đang nuốt một con ếch không?
Loại phim này thường khiến ta hồi hộp.
Ta mong ước cho con nai thoát khỏi nanh vuốt của con cọp, và con ếch thoát khỏi cái miệng của con rắn, bởi vì nếu nhìn con cọp xé nai hoặc rắn nuốt ếch thì ta thấy khó chịu trong người. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Y thấy được tính cách quý giá của sự sống nơi con sâu, và y không thể nào tiêu diệt sự sống đó một cách dễ dàng như những kẻ khác.
Có thể là một ngày nào đó y bị bắt buộc phải giết con sâu, nhưng nếu y giết con sâu thì y cũng có cảm tưởng là y tự giết lấy y, y tự thấy "chết trong lòng một ít".
Có người đi săn để giết mua vui.
Ngày xưa, có người đi săn vì không thể để mình và vợ con chết đói, nhưng không bao giờ lại đi tước đoạt sinh mạng của một con vật vì ngứa tay.
Trùng trùng duyên khởi không phải là một trò chơi suy luận triết học không có liên hệ gì tới đời sống tâm linh và thực dụng.
Quán chiếu về trùng trùng duyên khởi, người hành giả dần dần thấy được sự sống của muôn loài là một, và trong y tình thương khơi dậy, bao trùm mọi sinh vật.
Khi thấy tình thương đó hiện hữu, y biết rằng công phu quán chiếu của y bắt đầu có kết quả.
Cái thấy với cái thương đi đôi với nhau, cái thấy với cái thương là một.
Tiểu trí thì đi với tiểu bi, mà đại trí thì đi với đại bi.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Bạn có khi nào xem một chương trình truyền hình về loài vật trong đó các loài săn đuổi nhau để ăn thịt nhau không?
Bạn đã từng thấy một con cọp đuổi bắt một con nai hoặc một con rắn đang nuốt một con ếch không?
Loại phim này thường khiến ta hồi hộp.
Ta mong ước cho con nai thoát khỏi nanh vuốt của con cọp, và con ếch thoát khỏi cái miệng của con rắn, bởi vì nếu nhìn con cọp xé nai hoặc rắn nuốt ếch thì ta thấy khó chịu trong người. | Ta mong ước cho con nai thoát khỏi nanh vuốt của con cọp, và con ếch thoát khỏi cái miệng của con rắn, bởi vì nếu nhìn con cọp xé nai hoặc rắn nuốt ếch thì ta thấy khó chịu trong người.
Nhưng đây không phải là chuyện phim giả tạo mà là chuyện thực trong cuộc đời.
Ta muốn cho nai và ếch thoát thân, nhưng ta ít nhớ rằng con cọp và con rắn phải có thức ăn mới sống được.
(Bạn chớ quên rằng ngoài rau đậu ta còn ăn gà, lợn, tôm, cá, dê, bò và cũng như cọp và rắn, ta ăn cả nai và ếch nữa).
Ta không muốn "khó chịu trong người" cho nên ta đứng về phía con nai và con ếch.
Ta thầm ước chúng nhảy thoát cho lẹ.
Người thiền giả trong trường hợp đó phải giữ cho tỉnh táo.
Y không được đứng về phe nào hết, và y thấy y có mặt nơi cả hai bên.
Có những kẻ có thể nhìn cảnh tượng con cọp xé xác con nai một cách thản nhiên và thích thú nữa, nhưng phần lớn chúng ta đều hồi hộp đứng về phía kẻ yếu.
Người thiền giả cũng có khuynh hướng đứng về phía kẻ yếu: nếu cảnh tượng là cảnh tượng sống thì y nhất định kiếm cách làm cho con nai hoặc con ếch chạy thoát.
Tuy nhiên y làm như thế không phải chỉ để tránh cái đau trong lòng y. Y phải thấy được sự thất vọng của con cọp và con rắn mà thương chúng, nghĩa là thấy được tất cả những vật lộn của muôn loài mà thương chúng, nghĩa là thấy được tất cả những vật lộn của muôn loài trong sự mưu sinh.
Ðọc sâu vào cuốn sách của cuộc đời, ta thấy rằng tuy cuộc đời chứa đầy những mầu nhiệm, nó cũng chứa đầy những cảnh tượng kinh khiếp não lòng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta mong ước cho con nai thoát khỏi nanh vuốt của con cọp, và con ếch thoát khỏi cái miệng của con rắn, bởi vì nếu nhìn con cọp xé nai hoặc rắn nuốt ếch thì ta thấy khó chịu trong người.
Nhưng đây không phải là chuyện phim giả tạo mà là chuyện thực trong cuộc đời.
Ta muốn cho nai và ếch thoát thân, nhưng ta ít nhớ rằng con cọp và con rắn phải có thức ăn mới sống được.
(Bạn chớ quên rằng ngoài rau đậu ta còn ăn gà, lợn, tôm, cá, dê, bò và cũng như cọp và rắn, ta ăn cả nai và ếch nữa).
Ta không muốn "khó chịu trong người" cho nên ta đứng về phía con nai và con ếch.
Ta thầm ước chúng nhảy thoát cho lẹ.
Người thiền giả trong trường hợp đó phải giữ cho tỉnh táo.
Y không được đứng về phe nào hết, và y thấy y có mặt nơi cả hai bên.
Có những kẻ có thể nhìn cảnh tượng con cọp xé xác con nai một cách thản nhiên và thích thú nữa, nhưng phần lớn chúng ta đều hồi hộp đứng về phía kẻ yếu.
Người thiền giả cũng có khuynh hướng đứng về phía kẻ yếu: nếu cảnh tượng là cảnh tượng sống thì y nhất định kiếm cách làm cho con nai hoặc con ếch chạy thoát.
Tuy nhiên y làm như thế không phải chỉ để tránh cái đau trong lòng y. Y phải thấy được sự thất vọng của con cọp và con rắn mà thương chúng, nghĩa là thấy được tất cả những vật lộn của muôn loài mà thương chúng, nghĩa là thấy được tất cả những vật lộn của muôn loài trong sự mưu sinh.
Ðọc sâu vào cuốn sách của cuộc đời, ta thấy rằng tuy cuộc đời chứa đầy những mầu nhiệm, nó cũng chứa đầy những cảnh tượng kinh khiếp não lòng. | Ðọc sâu vào cuốn sách của cuộc đời, ta thấy rằng tuy cuộc đời chứa đầy những mầu nhiệm, nó cũng chứa đầy những cảnh tượng kinh khiếp não lòng.
Bạn đã thấy nhiều về đời sống của loài nhện chưa?
Bạn đã sống qua một cuộc chiến tranh chưa?
Bạn đã từng chứng kiến cảnh tra tấn, tù đày, thanh toán?
Bạn đã chứng kiến cảnh cướp bóc và hãm hiếp trên biển cả?
Ðại bi tâm là bản chất của hòa giải
Trong thời bình, hoạt động thể thao được hàng chục triệu người theo dõi.
Sở dĩ người ta thích thú theo dõi một trận đấu túc cầu chẳng hạn là vì người ta hay chọn đứng về một phe và đồng nhất mình với phe ấy.
Người ta sống với sự hồi hộp, lo âu và hy vọng như khi người ta theo dõi một cuốn phim.
Có khi người ta còn đưa chân ra để đá giúp một quả bóng trong màn ảnh nữa.
Nhưng nếu không đứng về một phe thì những thích thú đó không còn.
Ðối với một cuộc chiến tranh cũng vậy, ta thường hay đứng về phía nhược tiểu và đang bị de dọa.
Phong trào hòa bình thường được hướng dẫn bởi tình cảm ấy.
Người ta phẫn nộ, người ta gào thét.
Ít có ai có thể đứng lên cao hơn để nhìn cuộc chiến với tâm trạng của một người mẹ thấy hai đứa con mình đang giết nhau, để có thể tìm những giải pháp thực tiễn nhất cho cuộc hòa giải.
Những nỗ lực hòa giải đích thực phải được phát xuất từ đại bi tâm, mà tâm đại bi là hậu quả của một sự quán chiếu về tự tính tương tức và tương nhập của mọi loài, mọi vật...
Trong cuộc đời thỉnh thoảng ta có duyên may gặp được những kẻ mà lòng thương lan tới cả loài động vật và thực vật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ðọc sâu vào cuốn sách của cuộc đời, ta thấy rằng tuy cuộc đời chứa đầy những mầu nhiệm, nó cũng chứa đầy những cảnh tượng kinh khiếp não lòng.
Bạn đã thấy nhiều về đời sống của loài nhện chưa?
Bạn đã sống qua một cuộc chiến tranh chưa?
Bạn đã từng chứng kiến cảnh tra tấn, tù đày, thanh toán?
Bạn đã chứng kiến cảnh cướp bóc và hãm hiếp trên biển cả?
Ðại bi tâm là bản chất của hòa giải
Trong thời bình, hoạt động thể thao được hàng chục triệu người theo dõi.
Sở dĩ người ta thích thú theo dõi một trận đấu túc cầu chẳng hạn là vì người ta hay chọn đứng về một phe và đồng nhất mình với phe ấy.
Người ta sống với sự hồi hộp, lo âu và hy vọng như khi người ta theo dõi một cuốn phim.
Có khi người ta còn đưa chân ra để đá giúp một quả bóng trong màn ảnh nữa.
Nhưng nếu không đứng về một phe thì những thích thú đó không còn.
Ðối với một cuộc chiến tranh cũng vậy, ta thường hay đứng về phía nhược tiểu và đang bị de dọa.
Phong trào hòa bình thường được hướng dẫn bởi tình cảm ấy.
Người ta phẫn nộ, người ta gào thét.
Ít có ai có thể đứng lên cao hơn để nhìn cuộc chiến với tâm trạng của một người mẹ thấy hai đứa con mình đang giết nhau, để có thể tìm những giải pháp thực tiễn nhất cho cuộc hòa giải.
Những nỗ lực hòa giải đích thực phải được phát xuất từ đại bi tâm, mà tâm đại bi là hậu quả của một sự quán chiếu về tự tính tương tức và tương nhập của mọi loài, mọi vật...
Trong cuộc đời thỉnh thoảng ta có duyên may gặp được những kẻ mà lòng thương lan tới cả loài động vật và thực vật. | Trong cuộc đời thỉnh thoảng ta có duyên may gặp được những kẻ mà lòng thương lan tới cả loài động vật và thực vật.
Ta biết có những người dù sống trong những hoàn cảnh tương đối an ổn vẫn trông thấy rõ ràng những áp bức, đói khát và bệnh tật đang hành hạ bao nhiêu triệu người trên thế giới và luôn luôn thao thức đi tìm giải pháp cứu chữa.
Họ không để cho sự bận rộn làm lãng quên.
Họ thấy được tới một mức nào đó tính cách tương quan tương duyên của sự sống và họ biết sự tồn sinh của những nước kém mở mang có liên hệ tới sự tồn sinh của những nước giàu có tiến bộ về vật chất.
Nghèo đói và áp bức đưa tới chiến tranh.
Trong thời đại chúng ta không có cuộc chiến nào mà không liên hệ tới những khối lớn, và số phận nước này liên hệ tới số phận nước khác.
Ðại bi tâm không có chỗ đứng
Trong một nền văn minh mà kỹ thuật đóng vai trò then chốt cho sự thành công, lòng xót thương không còn nhiều chỗ đứng.
Khi một thiền giả quán chiếu về sự sống, y trở nên lân mẫn với cả con sâu và cái kiến.
Y không thể nhẫn tâm giết hại các loài thú, nói gì y có thể cầm súng giết hại đồng loại.
Cái tâm từ bi của y không có chỗ đứng trong xã hội này.
Nếu y làm nông dân, y sẽ không thể giàu có, bởi vì y không chịu dùng hàng tấn thuốc sát trùng để tiêu diệt các loài sâu bọ trong lòng đất và trên cây lá.
Do đó y thu hoạch được rất ít.
Nếu y làm bộ trưởng quốc phòng, y sẽ khuyến khích thanh niên trở thành kẻ lương tri đối kháng (objecteurs de conscience). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong cuộc đời thỉnh thoảng ta có duyên may gặp được những kẻ mà lòng thương lan tới cả loài động vật và thực vật.
Ta biết có những người dù sống trong những hoàn cảnh tương đối an ổn vẫn trông thấy rõ ràng những áp bức, đói khát và bệnh tật đang hành hạ bao nhiêu triệu người trên thế giới và luôn luôn thao thức đi tìm giải pháp cứu chữa.
Họ không để cho sự bận rộn làm lãng quên.
Họ thấy được tới một mức nào đó tính cách tương quan tương duyên của sự sống và họ biết sự tồn sinh của những nước kém mở mang có liên hệ tới sự tồn sinh của những nước giàu có tiến bộ về vật chất.
Nghèo đói và áp bức đưa tới chiến tranh.
Trong thời đại chúng ta không có cuộc chiến nào mà không liên hệ tới những khối lớn, và số phận nước này liên hệ tới số phận nước khác.
Ðại bi tâm không có chỗ đứng
Trong một nền văn minh mà kỹ thuật đóng vai trò then chốt cho sự thành công, lòng xót thương không còn nhiều chỗ đứng.
Khi một thiền giả quán chiếu về sự sống, y trở nên lân mẫn với cả con sâu và cái kiến.
Y không thể nhẫn tâm giết hại các loài thú, nói gì y có thể cầm súng giết hại đồng loại.
Cái tâm từ bi của y không có chỗ đứng trong xã hội này.
Nếu y làm nông dân, y sẽ không thể giàu có, bởi vì y không chịu dùng hàng tấn thuốc sát trùng để tiêu diệt các loài sâu bọ trong lòng đất và trên cây lá.
Do đó y thu hoạch được rất ít.
Nếu y làm bộ trưởng quốc phòng, y sẽ khuyến khích thanh niên trở thành kẻ lương tri đối kháng (objecteurs de conscience). | Do đó y thu hoạch được rất ít.
Nếu y làm bộ trưởng quốc phòng, y sẽ khuyến khích thanh niên trở thành kẻ lương tri đối kháng (objecteurs de conscience).
Nếu y làm tỉnh trưởng, y sẽ chống đối việc thiết lập trung tâm điện lực nguyên tử nơi tỉnh y. Vì những lý do đó, y sẽ bị vứt ra khỏi guồng máy.
Trong chúng ta nhiều người cũng cảm thấy như y. Chúng ta không thể thấy thoải mái với cái xã hội này.
Chúng ta tổ chức chống đối và sự chống đối này rất chật vật.
David Bohm giáo sư vật lý học tại Ðại Học Luân Ðôn có nói: "Nếu chúng ta muốn xã hội thay đổi thì không thể chỉ thực hiện một vài thay đổi sơ sơ nơi cá nhân hoặc thay đổi hệ thống tổ chức kinh tế, mà phải có sự thay đổi toàn vẹn về tâm thức.
Chúng ta chưa biết sự thay đổi đó được thực hiện như thế nào, nhưng tôi thấy chắc chắn đó là điều thiết yếu [15]".
Sự thay đổi đó của tâm thức, như bạn đã thấy, có thể được thực hiện bằng sự giác ngộ về tự tánh duyên khởi của thực tại, sự giác ngộ mà mỗi chúng ta đang đi vào bằng những cánh cửa phương tiện khác nhau.
Sự giác ngộ này không phải do công trình truyền bá một nhận định hay là một tư tưởng hệ.
Nó là hoa trái của sự trực nhận thực tại trong liên hệ duyên sinh, trong sự phá bỏ những lề lối suy tư chuyên chia cắt một thực tại không thể chia cắt.
Bất diệt trong sinh diệt |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Do đó y thu hoạch được rất ít.
Nếu y làm bộ trưởng quốc phòng, y sẽ khuyến khích thanh niên trở thành kẻ lương tri đối kháng (objecteurs de conscience).
Nếu y làm tỉnh trưởng, y sẽ chống đối việc thiết lập trung tâm điện lực nguyên tử nơi tỉnh y. Vì những lý do đó, y sẽ bị vứt ra khỏi guồng máy.
Trong chúng ta nhiều người cũng cảm thấy như y. Chúng ta không thể thấy thoải mái với cái xã hội này.
Chúng ta tổ chức chống đối và sự chống đối này rất chật vật.
David Bohm giáo sư vật lý học tại Ðại Học Luân Ðôn có nói: "Nếu chúng ta muốn xã hội thay đổi thì không thể chỉ thực hiện một vài thay đổi sơ sơ nơi cá nhân hoặc thay đổi hệ thống tổ chức kinh tế, mà phải có sự thay đổi toàn vẹn về tâm thức.
Chúng ta chưa biết sự thay đổi đó được thực hiện như thế nào, nhưng tôi thấy chắc chắn đó là điều thiết yếu [15]".
Sự thay đổi đó của tâm thức, như bạn đã thấy, có thể được thực hiện bằng sự giác ngộ về tự tánh duyên khởi của thực tại, sự giác ngộ mà mỗi chúng ta đang đi vào bằng những cánh cửa phương tiện khác nhau.
Sự giác ngộ này không phải do công trình truyền bá một nhận định hay là một tư tưởng hệ.
Nó là hoa trái của sự trực nhận thực tại trong liên hệ duyên sinh, trong sự phá bỏ những lề lối suy tư chuyên chia cắt một thực tại không thể chia cắt.
Bất diệt trong sinh diệt | Nó là hoa trái của sự trực nhận thực tại trong liên hệ duyên sinh, trong sự phá bỏ những lề lối suy tư chuyên chia cắt một thực tại không thể chia cắt.
Bất diệt trong sinh diệt
Thực tập phép quán duyên khởi như trên trong một thời gian, bạn sẽ thấy có sự thay đổi trong bạn: cái nhìn của bạn sẽ mở rộng, bạn sẽ nhìn muôn loài với con mắt của từ bi; những cố chấp và thù oán trước kia bạn tưởng không bỏ được nay sẽ tiêu tán và bạn sẽ trở nên dễ dãi và độ lượng với mọi người mọi loài.
Hơn thế nữa, bạn sẽ thấy sự sống chết không làm cho bạn lo lắng như xưa nữa.
Chắc bạn có biết nhà vật lý học Erwin Schrodinger người đã phát minh ra phép lực học ba động (wave mechanics).
Suy tư về ngã, về vũ trụ, về sự sống chết và về ý niệm một và nhiều, ông đã viết: "Vậy anh có thể nằm duỗi thẳng tay chân trên Ðất Mẹ với niềm tin vững chắc rằng anh và đất là một, đất với anh cũng không hai.
Anh cũng vững chãi và an toàn như đất, có thể là vững chãi và an toàn gấp ngàn lần đất nữa.
Nếu chắc chắn là ngày mai anh trở về đất thì cũng chắc chắn là một ngày nào đó đất sẽ đưa anh ra đời trở lại để vật lộn thêm và khổ đau thêm.
Nhưng anh không phải đợi đến "một ngày nào đó" đâu: chính hôm nay, trong khoảnh khắc này, đất đang đưa anh ra đời, không phải một lần mà hàng ngàn hàng vạn lần, cũng như đất đang chôn vùi anh hàng ngàn hàng vạn lần, trong chính khoảnh khắc này.
Bởi vì luôn luôn và vĩnh viễn chỉ có hiện tại, chỉ có cùng một cái hiện tại này mà thôi: chỉ có hiện tại là vĩnh viễn" [16]. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nó là hoa trái của sự trực nhận thực tại trong liên hệ duyên sinh, trong sự phá bỏ những lề lối suy tư chuyên chia cắt một thực tại không thể chia cắt.
Bất diệt trong sinh diệt
Thực tập phép quán duyên khởi như trên trong một thời gian, bạn sẽ thấy có sự thay đổi trong bạn: cái nhìn của bạn sẽ mở rộng, bạn sẽ nhìn muôn loài với con mắt của từ bi; những cố chấp và thù oán trước kia bạn tưởng không bỏ được nay sẽ tiêu tán và bạn sẽ trở nên dễ dãi và độ lượng với mọi người mọi loài.
Hơn thế nữa, bạn sẽ thấy sự sống chết không làm cho bạn lo lắng như xưa nữa.
Chắc bạn có biết nhà vật lý học Erwin Schrodinger người đã phát minh ra phép lực học ba động (wave mechanics).
Suy tư về ngã, về vũ trụ, về sự sống chết và về ý niệm một và nhiều, ông đã viết: "Vậy anh có thể nằm duỗi thẳng tay chân trên Ðất Mẹ với niềm tin vững chắc rằng anh và đất là một, đất với anh cũng không hai.
Anh cũng vững chãi và an toàn như đất, có thể là vững chãi và an toàn gấp ngàn lần đất nữa.
Nếu chắc chắn là ngày mai anh trở về đất thì cũng chắc chắn là một ngày nào đó đất sẽ đưa anh ra đời trở lại để vật lộn thêm và khổ đau thêm.
Nhưng anh không phải đợi đến "một ngày nào đó" đâu: chính hôm nay, trong khoảnh khắc này, đất đang đưa anh ra đời, không phải một lần mà hàng ngàn hàng vạn lần, cũng như đất đang chôn vùi anh hàng ngàn hàng vạn lần, trong chính khoảnh khắc này.
Bởi vì luôn luôn và vĩnh viễn chỉ có hiện tại, chỉ có cùng một cái hiện tại này mà thôi: chỉ có hiện tại là vĩnh viễn" [16]. | Bởi vì luôn luôn và vĩnh viễn chỉ có hiện tại, chỉ có cùng một cái hiện tại này mà thôi: chỉ có hiện tại là vĩnh viễn" [16].
Một cái thấy như vậy thật có thể đưa người ta đến tâm trạng vô úy trước cái chết và cái sống, nếu cái thấy ấy an trú vững chãi trong đời sống tâm linh thường nhật.
Quá khứ, hiện tại và tương lai trên đầu một sợi tóc
Nhận xét của Schrodinger về thời gian nhắc chúng ta đi tới một bước nữa trong phép quán trùng trùng duyên khởi.
Các ý niệm về trong và ngoài và một và tất cả của chúng ta bắt đầu rạn nứt khi ta quán chiếu về các tự tính tương tức và tương nhập của vạn hữu.
Tuy nhiên, các ý niệm này không thể đổ vỡ hoàn toàn nếu ta vẫn còn duy trì ý niệm về một không gian tuyệt đối và một thời gian tuyệt đối làm khuôn khổ cho sự phát hiện của mọi hiện tượng trên nguyên lý tương duyên tương khởi.
Trong buổi đầu của lịch sử Pháp Tướng Tông [17], không gian được quan niệm như một vô vi pháp, nghĩa là một thực tại tuyệt đối thoát ra ngoài sinh diệt (asamkrtadharma), nhưng đến khi tư tưởng Bát Nhã Trung Quán bắt đầu được khai triển thì không gian và thời gian được mô tả như những ý niệm hư vọng về thực tại, những ý niệm nương nhau mà tồn tại.
Phép quán tương tức và tương nhập của Hoa Nghiêm đã bao hàm sự phủ nhận ý niệm không gian như một thực tại tuyệt đối, bởi tư tưởng ấy phủ nhận luôn các ý niệm trong và ngoài, lớn và bé, một và nhiều ("Vô lượng vô số núi Tu Di có thể đem đặt trên đầu một sợi tóc"). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bởi vì luôn luôn và vĩnh viễn chỉ có hiện tại, chỉ có cùng một cái hiện tại này mà thôi: chỉ có hiện tại là vĩnh viễn" [16].
Một cái thấy như vậy thật có thể đưa người ta đến tâm trạng vô úy trước cái chết và cái sống, nếu cái thấy ấy an trú vững chãi trong đời sống tâm linh thường nhật.
Quá khứ, hiện tại và tương lai trên đầu một sợi tóc
Nhận xét của Schrodinger về thời gian nhắc chúng ta đi tới một bước nữa trong phép quán trùng trùng duyên khởi.
Các ý niệm về trong và ngoài và một và tất cả của chúng ta bắt đầu rạn nứt khi ta quán chiếu về các tự tính tương tức và tương nhập của vạn hữu.
Tuy nhiên, các ý niệm này không thể đổ vỡ hoàn toàn nếu ta vẫn còn duy trì ý niệm về một không gian tuyệt đối và một thời gian tuyệt đối làm khuôn khổ cho sự phát hiện của mọi hiện tượng trên nguyên lý tương duyên tương khởi.
Trong buổi đầu của lịch sử Pháp Tướng Tông [17], không gian được quan niệm như một vô vi pháp, nghĩa là một thực tại tuyệt đối thoát ra ngoài sinh diệt (asamkrtadharma), nhưng đến khi tư tưởng Bát Nhã Trung Quán bắt đầu được khai triển thì không gian và thời gian được mô tả như những ý niệm hư vọng về thực tại, những ý niệm nương nhau mà tồn tại.
Phép quán tương tức và tương nhập của Hoa Nghiêm đã bao hàm sự phủ nhận ý niệm không gian như một thực tại tuyệt đối, bởi tư tưởng ấy phủ nhận luôn các ý niệm trong và ngoài, lớn và bé, một và nhiều ("Vô lượng vô số núi Tu Di có thể đem đặt trên đầu một sợi tóc"). | Về thời gian, phép quán tương tức tương nhập của Hoa Nghiêm lại phá bỏ luôn ý niệm phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và vị lai, cho rằng có thể đem quá khứ và vị lai đặt vào hiện tại, đem quá khứ và hiện tại đặt vào vị lai, đem hiện tại và vị lai đặt vào quá khứ, và đem tất cả thời gian đặt vào một "niệm", tức là một khoảnh khắc rất ngắn.
Tóm lại, thời gian cũng được biểu hiện trên nguyên tắc tương tức tương nhập như không gian, và một khoảnh khắc cũng chứa đựng cả "ba đời", nghĩa là toàn thể quá khứ, tương lai và hiện tại:
"Quá khứ đem để vào hiện tại và vị lai
Vị lai đem để vào quá khứ và hiện tại
Ba đời và nhiều kiếp để vào một niệm
Không vắn không dài: đó là giải thoát"…
"Tôi có thể đi vào vị lai
Thâu gọn muôn kiếp trong một niệm".
Ði tới một bước nữa, kinh Hoa Nghiêm nói: không những một hạt bụi chứa đựng không gian "vô cùng" mà còn chứa đựng cả thời gian "vô tận", và một khoảnh khắc (niệm) không những chứa đựng thời gian "vô tận " mà còn chứa đựng cả không gian "vô cùng" [18].
"Dầu một sợi tóc chứa ba đời và có vô lượng cảnh giới Phật."
Thuyết tương đối giúp ta đi vào thế giới tương tức tương nhập
Như vậy là giáo hệ Hoa Nghiêm cho thấy thời gian và không gian dung nhiếp lẫn nhau, liên hệ tới nhau mà tồn tại và cả hai đều không độc lập với nhận thức. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Về thời gian, phép quán tương tức tương nhập của Hoa Nghiêm lại phá bỏ luôn ý niệm phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và vị lai, cho rằng có thể đem quá khứ và vị lai đặt vào hiện tại, đem quá khứ và hiện tại đặt vào vị lai, đem hiện tại và vị lai đặt vào quá khứ, và đem tất cả thời gian đặt vào một "niệm", tức là một khoảnh khắc rất ngắn.
Tóm lại, thời gian cũng được biểu hiện trên nguyên tắc tương tức tương nhập như không gian, và một khoảnh khắc cũng chứa đựng cả "ba đời", nghĩa là toàn thể quá khứ, tương lai và hiện tại:
"Quá khứ đem để vào hiện tại và vị lai
Vị lai đem để vào quá khứ và hiện tại
Ba đời và nhiều kiếp để vào một niệm
Không vắn không dài: đó là giải thoát"…
"Tôi có thể đi vào vị lai
Thâu gọn muôn kiếp trong một niệm".
Ði tới một bước nữa, kinh Hoa Nghiêm nói: không những một hạt bụi chứa đựng không gian "vô cùng" mà còn chứa đựng cả thời gian "vô tận", và một khoảnh khắc (niệm) không những chứa đựng thời gian "vô tận " mà còn chứa đựng cả không gian "vô cùng" [18].
"Dầu một sợi tóc chứa ba đời và có vô lượng cảnh giới Phật."
Thuyết tương đối giúp ta đi vào thế giới tương tức tương nhập
Như vậy là giáo hệ Hoa Nghiêm cho thấy thời gian và không gian dung nhiếp lẫn nhau, liên hệ tới nhau mà tồn tại và cả hai đều không độc lập với nhận thức. | Như vậy là giáo hệ Hoa Nghiêm cho thấy thời gian và không gian dung nhiếp lẫn nhau, liên hệ tới nhau mà tồn tại và cả hai đều không độc lập với nhận thức.
Thuyết tương đối của Einstein ra đời hai ngàn năm sau đã xác định tính cách bất tương ly của thời gian và không gian, và thời gian được xem như là chiều thứ tư của một liên thể không-thời-gian-bốn-chiều không thể chia cắt (continuum espace-temps à quatre dimensions) [19].
Thuyết tương đối đánh đổ ý niệm về không gian như một cái khung tuyệt đối và bất động trong đó vũ trụ đang vận hành, đồng thời cũng đánh đổ ý niệm về thời gian tuyệt đối và phổ biến.
Theo thuyết này, không gian chỉ là liên hệ vị trí giữa các vật thể (l'espace est simplement l'ordre de relation des choses entre elles), và ta không thể có ý niệm về không gian nếu không thấy các vật thể ấy.
Thời gian theo thuyết này cũng chỉ là một liên hệ trình tự của các biến cố.
Thời gian và không gian, do đó, là những hình thái của nhận thức (formes de perceptions), và thuyết tương đối xáp lại rất gần với giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
Cũng theo thuyết tương đối, chỉ có thời gian địa phương mà không có thời gian phổ biến, vì vậy ý niệm về "bây giờ" chỉ có thể áp dụng cho một địa phương chứ không thể áp dụng cho những vùng xa xôi khác của vũ trụ.
Theo đó mà xét thì ý niệm về "ở đây" cũng chỉ có thể áp dụng cho bây giờ chứ không thể áp dụng cho quá khứ và vị lai, bởi lẽ thời gian và không gian là những ý niệm liên đới với nhau mà tồn tại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Như vậy là giáo hệ Hoa Nghiêm cho thấy thời gian và không gian dung nhiếp lẫn nhau, liên hệ tới nhau mà tồn tại và cả hai đều không độc lập với nhận thức.
Thuyết tương đối của Einstein ra đời hai ngàn năm sau đã xác định tính cách bất tương ly của thời gian và không gian, và thời gian được xem như là chiều thứ tư của một liên thể không-thời-gian-bốn-chiều không thể chia cắt (continuum espace-temps à quatre dimensions) [19].
Thuyết tương đối đánh đổ ý niệm về không gian như một cái khung tuyệt đối và bất động trong đó vũ trụ đang vận hành, đồng thời cũng đánh đổ ý niệm về thời gian tuyệt đối và phổ biến.
Theo thuyết này, không gian chỉ là liên hệ vị trí giữa các vật thể (l'espace est simplement l'ordre de relation des choses entre elles), và ta không thể có ý niệm về không gian nếu không thấy các vật thể ấy.
Thời gian theo thuyết này cũng chỉ là một liên hệ trình tự của các biến cố.
Thời gian và không gian, do đó, là những hình thái của nhận thức (formes de perceptions), và thuyết tương đối xáp lại rất gần với giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
Cũng theo thuyết tương đối, chỉ có thời gian địa phương mà không có thời gian phổ biến, vì vậy ý niệm về "bây giờ" chỉ có thể áp dụng cho một địa phương chứ không thể áp dụng cho những vùng xa xôi khác của vũ trụ.
Theo đó mà xét thì ý niệm về "ở đây" cũng chỉ có thể áp dụng cho bây giờ chứ không thể áp dụng cho quá khứ và vị lai, bởi lẽ thời gian và không gian là những ý niệm liên đới với nhau mà tồn tại. | Theo đó mà xét thì ý niệm về "ở đây" cũng chỉ có thể áp dụng cho bây giờ chứ không thể áp dụng cho quá khứ và vị lai, bởi lẽ thời gian và không gian là những ý niệm liên đới với nhau mà tồn tại.
Thuyết tương đối có thể giúp ta đi vào thế giới tương tức và tương nhập bởi vì những chứng minh khoa học về tính cách tương đối của thời gian và không gian có thể giúp ta làm rạn vỡ những ý niệm như ý niệm về hữu hạn và vô hạn, về trong và ngoài, về trước và sau, những ý niệm vốn được hình thành trên ý niệm về một không gian vô cùng và một thời gian vô tận.
Nếu ta còn nhìn lên trời và tự hỏi ngoài biên giới tột cùng của vũ trụ còn có gì thì ta còn chưa hiểu được thuyết tương đối, bởi vì ta chưa phá bỏ được ý niệm về một không gian tuyệt đối độc lập với các vật thể.
Cũng như nếu ta còn tự hỏi tất cả vũ trụ trong tương lai sẽ đi về đâu thì ta cũng chưa thật sự hiểu được thuyết tương đối, bởi vì ta chưa phá bỏ được ý niệm về một thời gian phổ biến và vô cùng.
Thuyết tương đối sẽ còn đưa khoa học và triết học xa hơn nữa.
Ta chỉ tiếc là Einstein đã không dùng được chiếc phi thuyền vĩ đại đó để đi xa hơn trong chuyến du hành thâm nhập vào thế giới của thực tại.
Chiếc bè để qua sông
Chúng ta thấy rằng những khám phá mới của khoa học thường chỉ là những sự phá vỡ những ý niệm cũ về thực tại.
Công trình của thuyết tương đối là ở chỗ phá vỡ được ý niệm cổ điển về thời gian và không gian, và đưa ra ý niệm về đường cong không-thời-gian (la courbe de l'espace-temps). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Theo đó mà xét thì ý niệm về "ở đây" cũng chỉ có thể áp dụng cho bây giờ chứ không thể áp dụng cho quá khứ và vị lai, bởi lẽ thời gian và không gian là những ý niệm liên đới với nhau mà tồn tại.
Thuyết tương đối có thể giúp ta đi vào thế giới tương tức và tương nhập bởi vì những chứng minh khoa học về tính cách tương đối của thời gian và không gian có thể giúp ta làm rạn vỡ những ý niệm như ý niệm về hữu hạn và vô hạn, về trong và ngoài, về trước và sau, những ý niệm vốn được hình thành trên ý niệm về một không gian vô cùng và một thời gian vô tận.
Nếu ta còn nhìn lên trời và tự hỏi ngoài biên giới tột cùng của vũ trụ còn có gì thì ta còn chưa hiểu được thuyết tương đối, bởi vì ta chưa phá bỏ được ý niệm về một không gian tuyệt đối độc lập với các vật thể.
Cũng như nếu ta còn tự hỏi tất cả vũ trụ trong tương lai sẽ đi về đâu thì ta cũng chưa thật sự hiểu được thuyết tương đối, bởi vì ta chưa phá bỏ được ý niệm về một thời gian phổ biến và vô cùng.
Thuyết tương đối sẽ còn đưa khoa học và triết học xa hơn nữa.
Ta chỉ tiếc là Einstein đã không dùng được chiếc phi thuyền vĩ đại đó để đi xa hơn trong chuyến du hành thâm nhập vào thế giới của thực tại.
Chiếc bè để qua sông
Chúng ta thấy rằng những khám phá mới của khoa học thường chỉ là những sự phá vỡ những ý niệm cũ về thực tại.
Công trình của thuyết tương đối là ở chỗ phá vỡ được ý niệm cổ điển về thời gian và không gian, và đưa ra ý niệm về đường cong không-thời-gian (la courbe de l'espace-temps). | Công trình của thuyết tương đối là ở chỗ phá vỡ được ý niệm cổ điển về thời gian và không gian, và đưa ra ý niệm về đường cong không-thời-gian (la courbe de l'espace-temps).
Theo thuyết này, vật thể nào cũng có một cơ cấu bốn chiều (không-thời-gian) và cũng được đặt trên một vũ-trụ-tuyến không thời gian bốn chiều (ligne d'univers de l'espace-temps quadridimensionnelle).
Từ bỏ mô thức vũ trụ của những đường thẳng ba chiều của Euclide, Einstein hình dung một vũ trụ theo đường cong không-thời-gian bốn chiều ấy, một mô thức mà ông đề nghị vào năm 1917.
Theo mô thức này, không gian của vũ trụ là bề mặt ba chiều của một siêu cầu (hypersphere) bốn chiều vĩ đại, trong đó thời gian xuôi dài như một cái trục.
Nếu ta ráng tưởng tượng ra cái mô thức vũ trụ bốn chiều đó, ta sẽ thấy không phải là một hình cầu nữa mà là một siêu trụ (hypercylindre) trong đó mỗi giây phút vũ trụ là một hình cầu riêng biệt, cũng như những cái hình kế tiếp nhau trên một cuốn phim.
Vũ trụ của Einstein như vậy vừa là vô biên mà cũng vừa hữu hạn, bởi vì đường nét cấu tạo nó là một đường cong không-thời-gian chứ không phải là một đường thẳng hoặc là của không gian hoặc là của thời gian.
Trên một trái cam, con kiến có thể cứ theo con đường trước mặt mà đi mãi, không bao giờ có giới hạn, đó là vì nó đi theo một đường tròn.
Tuy con kiến đi mãi nhưng nó vẫn ở trên trái cam: đó là sự hữu hạn.
Mô thức vũ trụ của Einstein phá vỡ được con đường thẳng và phối hợp được hữu hạn và vô biên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Công trình của thuyết tương đối là ở chỗ phá vỡ được ý niệm cổ điển về thời gian và không gian, và đưa ra ý niệm về đường cong không-thời-gian (la courbe de l'espace-temps).
Theo thuyết này, vật thể nào cũng có một cơ cấu bốn chiều (không-thời-gian) và cũng được đặt trên một vũ-trụ-tuyến không thời gian bốn chiều (ligne d'univers de l'espace-temps quadridimensionnelle).
Từ bỏ mô thức vũ trụ của những đường thẳng ba chiều của Euclide, Einstein hình dung một vũ trụ theo đường cong không-thời-gian bốn chiều ấy, một mô thức mà ông đề nghị vào năm 1917.
Theo mô thức này, không gian của vũ trụ là bề mặt ba chiều của một siêu cầu (hypersphere) bốn chiều vĩ đại, trong đó thời gian xuôi dài như một cái trục.
Nếu ta ráng tưởng tượng ra cái mô thức vũ trụ bốn chiều đó, ta sẽ thấy không phải là một hình cầu nữa mà là một siêu trụ (hypercylindre) trong đó mỗi giây phút vũ trụ là một hình cầu riêng biệt, cũng như những cái hình kế tiếp nhau trên một cuốn phim.
Vũ trụ của Einstein như vậy vừa là vô biên mà cũng vừa hữu hạn, bởi vì đường nét cấu tạo nó là một đường cong không-thời-gian chứ không phải là một đường thẳng hoặc là của không gian hoặc là của thời gian.
Trên một trái cam, con kiến có thể cứ theo con đường trước mặt mà đi mãi, không bao giờ có giới hạn, đó là vì nó đi theo một đường tròn.
Tuy con kiến đi mãi nhưng nó vẫn ở trên trái cam: đó là sự hữu hạn.
Mô thức vũ trụ của Einstein phá vỡ được con đường thẳng và phối hợp được hữu hạn và vô biên. | Tuy con kiến đi mãi nhưng nó vẫn ở trên trái cam: đó là sự hữu hạn.
Mô thức vũ trụ của Einstein phá vỡ được con đường thẳng và phối hợp được hữu hạn và vô biên.
Tuy vậy, Einstein cuối cùng cũng phải từ bỏ nó.
Một khối óc như khối óc của Einstein chắc chắn đã thấy được rằng nếu thời gian và không gian tuyệt đối là những hình thái của nhận thức thì cái liên thể không-thời-gian bốn chiều kia, tuy phù hợp với thực tại hơn, vẫn còn là một hình thái khác của nhận thức.
Einstein dư biết rằng nếu không gian không thể khái niệm được ngoài sự có mặt của vật thể thì Einstein cũng thấy rằng bốn chiều của không-thời-gian cũng chỉ là những sáng tạo của tâm thức liên hệ tới các ý niệm về vật thể (chose) và di động (mouvement).
Cái đường cong không-thời-gian kia cũng chỉ nên được nhận thức như một ý niệm đến thay thế các ý niệm về không gian ba chiều và một thời gian tuyệt đối đi theo một đường thẳng, như một phương tiện mà sau khi sử dụng phải được vượt bỏ, như một chiếc bè sau khi qua sông.
Khả năng rũ bỏ và khả năng phát minh
Sở dĩ thực tại biến hình trước sự quan sát của ta là bởi ta đi vào thực tại với những ý niệm có sẵn trong nhận thức.
Nhà khoa học vật lý cực vi hiện đại thấy được điều đó: có người sẵn sàng rũ bỏ ngay cả những ý niệm đã từng làm căn bản cho khoa học từ xưa tới nay như ý niệm nhân quả và ý niệm trình tự thời gian. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tuy con kiến đi mãi nhưng nó vẫn ở trên trái cam: đó là sự hữu hạn.
Mô thức vũ trụ của Einstein phá vỡ được con đường thẳng và phối hợp được hữu hạn và vô biên.
Tuy vậy, Einstein cuối cùng cũng phải từ bỏ nó.
Một khối óc như khối óc của Einstein chắc chắn đã thấy được rằng nếu thời gian và không gian tuyệt đối là những hình thái của nhận thức thì cái liên thể không-thời-gian bốn chiều kia, tuy phù hợp với thực tại hơn, vẫn còn là một hình thái khác của nhận thức.
Einstein dư biết rằng nếu không gian không thể khái niệm được ngoài sự có mặt của vật thể thì Einstein cũng thấy rằng bốn chiều của không-thời-gian cũng chỉ là những sáng tạo của tâm thức liên hệ tới các ý niệm về vật thể (chose) và di động (mouvement).
Cái đường cong không-thời-gian kia cũng chỉ nên được nhận thức như một ý niệm đến thay thế các ý niệm về không gian ba chiều và một thời gian tuyệt đối đi theo một đường thẳng, như một phương tiện mà sau khi sử dụng phải được vượt bỏ, như một chiếc bè sau khi qua sông.
Khả năng rũ bỏ và khả năng phát minh
Sở dĩ thực tại biến hình trước sự quan sát của ta là bởi ta đi vào thực tại với những ý niệm có sẵn trong nhận thức.
Nhà khoa học vật lý cực vi hiện đại thấy được điều đó: có người sẵn sàng rũ bỏ ngay cả những ý niệm đã từng làm căn bản cho khoa học từ xưa tới nay như ý niệm nhân quả và ý niệm trình tự thời gian. | Nhà khoa học vật lý cực vi hiện đại thấy được điều đó: có người sẵn sàng rũ bỏ ngay cả những ý niệm đã từng làm căn bản cho khoa học từ xưa tới nay như ý niệm nhân quả và ý niệm trình tự thời gian.
Tuy nhiên, rũ bỏ mọi ý niệm không phải là dễ: ta có cảm tưởng đi vào thực tại mà không có ý niệm thì cũng như đi vào hầm mỏ mà không mang theo dụng cụ đào mỏ, hoặc đi vào chiến trường mà không mang theo vũ khí, ta sẽ không làm được gì.
Vốn liếng của một nhà khoa học là những "sở đắc khoa học" của ông ta.
Tất cả đều được ông ta sắp xếp thành hệ thống.
Bảo ông ta rũ bỏ thì rất khó.
Trong khi đó sự thực là nhà khoa học nào có khả năng rũ bỏ nhiều nhất là người có khả năng phát minh lớn nhất.
Tự những ngày xa xưa, nhà đạo học đã được nhắc nhở mãi là phải gạt bỏ mọi ý niệm để có thể đi vào thể nghiệm thực tại, từ ý niệm ta và người cho đến các ý niệm như sinh và diệt, thường và đoạn, có và không... Thực tại được mô tả là vô niệm thì công cụ thể nghiệm cũng phải là vô tâm niệm.
Chương 4: Rách tung lưới sinh tử
Tâm thức tạo nên tướng trạng của thực tại
Trưa hôm qua, bé Thủy đã làm cho cô giáo ngạc nhiên hết sức.
Sau bữa cơm trưa tại trường, bé đã tự động đi lấy chổi và quét sạch lớp học.
Trẻ con trong làng, chưa đứa nào từng làm như vậy.
Buổi chiều sau lớp học, cô giáo đã bỏ công leo lên tới đồi Phương Vân để nói cho tôi biết điều đó.
Tôi nói với cô là trẻ em nghèo bên xứ tôi đều như thế đó, lo lắng việc nhà việc cửa mà không đợi người lớn bảo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhà khoa học vật lý cực vi hiện đại thấy được điều đó: có người sẵn sàng rũ bỏ ngay cả những ý niệm đã từng làm căn bản cho khoa học từ xưa tới nay như ý niệm nhân quả và ý niệm trình tự thời gian.
Tuy nhiên, rũ bỏ mọi ý niệm không phải là dễ: ta có cảm tưởng đi vào thực tại mà không có ý niệm thì cũng như đi vào hầm mỏ mà không mang theo dụng cụ đào mỏ, hoặc đi vào chiến trường mà không mang theo vũ khí, ta sẽ không làm được gì.
Vốn liếng của một nhà khoa học là những "sở đắc khoa học" của ông ta.
Tất cả đều được ông ta sắp xếp thành hệ thống.
Bảo ông ta rũ bỏ thì rất khó.
Trong khi đó sự thực là nhà khoa học nào có khả năng rũ bỏ nhiều nhất là người có khả năng phát minh lớn nhất.
Tự những ngày xa xưa, nhà đạo học đã được nhắc nhở mãi là phải gạt bỏ mọi ý niệm để có thể đi vào thể nghiệm thực tại, từ ý niệm ta và người cho đến các ý niệm như sinh và diệt, thường và đoạn, có và không... Thực tại được mô tả là vô niệm thì công cụ thể nghiệm cũng phải là vô tâm niệm.
Chương 4: Rách tung lưới sinh tử
Tâm thức tạo nên tướng trạng của thực tại
Trưa hôm qua, bé Thủy đã làm cho cô giáo ngạc nhiên hết sức.
Sau bữa cơm trưa tại trường, bé đã tự động đi lấy chổi và quét sạch lớp học.
Trẻ con trong làng, chưa đứa nào từng làm như vậy.
Buổi chiều sau lớp học, cô giáo đã bỏ công leo lên tới đồi Phương Vân để nói cho tôi biết điều đó.
Tôi nói với cô là trẻ em nghèo bên xứ tôi đều như thế đó, lo lắng việc nhà việc cửa mà không đợi người lớn bảo. | Tôi nói với cô là trẻ em nghèo bên xứ tôi đều như thế đó, lo lắng việc nhà việc cửa mà không đợi người lớn bảo.
Sáng nay thứ tư bé Thủy nghỉ học, tôi đưa bé lên đồi chơi.
Hai ông cháu đi nhặt trái thông.
Chúng tôi để dành trái thông mà nhen lò sưởi trong mùa đông sắp tới.
Bé Thủy nói trời sinh ra trái thông để cho mình nhóm lửa sướng quá.
Tôi nói trái thông sinh ra là để làm những cây thông con, chớ không phải cho mình nhóm lửa.
Nghe tôi nói, bé đã không thất vọng mà hai mắt nó sáng thêm ra.
Hôm qua, tôi có nói đến quan niệm về thời gian và không gian của kinh Hoa Nghiêm và của thuyết Tương Ðối.
Phá được ý niệm về không gian và thời gian tuyệt đối, là ta đã bắt đầu làm rạn nứt được nhiều ý niệm liên hệ, lâu nay đã trở thành phạm trù của tư tưởng.
Trong thuyết Lượng Tử, các nhà khoa học đã công nhận rằng các điểm cực vi như điện tử không phải thực sự là những vật thể có thể tồn tại độc lập với nhau.
Chúng là những "liên hệ hỗ tương" (interconnexions) giữa các vật thể, và các "vật thể" này lại là những liên hệ hỗ tương giữa các vật thể khác.
Tóm lại, không có vật thể nào có tự tính độc lập.
Cái nhìn này thật không xa với cái nhìn "trùng trùng duyên khởi" và "tương tức tương nhập".
Khái niệm về chất điểm cực vi cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thuyết tương đối. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi nói với cô là trẻ em nghèo bên xứ tôi đều như thế đó, lo lắng việc nhà việc cửa mà không đợi người lớn bảo.
Sáng nay thứ tư bé Thủy nghỉ học, tôi đưa bé lên đồi chơi.
Hai ông cháu đi nhặt trái thông.
Chúng tôi để dành trái thông mà nhen lò sưởi trong mùa đông sắp tới.
Bé Thủy nói trời sinh ra trái thông để cho mình nhóm lửa sướng quá.
Tôi nói trái thông sinh ra là để làm những cây thông con, chớ không phải cho mình nhóm lửa.
Nghe tôi nói, bé đã không thất vọng mà hai mắt nó sáng thêm ra.
Hôm qua, tôi có nói đến quan niệm về thời gian và không gian của kinh Hoa Nghiêm và của thuyết Tương Ðối.
Phá được ý niệm về không gian và thời gian tuyệt đối, là ta đã bắt đầu làm rạn nứt được nhiều ý niệm liên hệ, lâu nay đã trở thành phạm trù của tư tưởng.
Trong thuyết Lượng Tử, các nhà khoa học đã công nhận rằng các điểm cực vi như điện tử không phải thực sự là những vật thể có thể tồn tại độc lập với nhau.
Chúng là những "liên hệ hỗ tương" (interconnexions) giữa các vật thể, và các "vật thể" này lại là những liên hệ hỗ tương giữa các vật thể khác.
Tóm lại, không có vật thể nào có tự tính độc lập.
Cái nhìn này thật không xa với cái nhìn "trùng trùng duyên khởi" và "tương tức tương nhập".
Khái niệm về chất điểm cực vi cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thuyết tương đối. | Cái nhìn này thật không xa với cái nhìn "trùng trùng duyên khởi" và "tương tức tương nhập".
Khái niệm về chất điểm cực vi cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thuyết tương đối.
Các vật thể cực vi mà nhà khoa học gọi là các "liên hệ hỗ tương giữa các vật thể" ấy lại được nhận thức như những thực tại của không-thời-gian bốn chiều luôn luôn ở vào trạng thái sinh động, bởi vì chất lượng (masse) và năng lượng (énergie) là một; chất lượng chỉ là một hình thái của năng lượng (mưa đồng thời là một chủ từ và một động từ).
Chất tử ở đây cũng như hạt bụi hoặc "đầu sợi tóc" trong kinh Hoa Nghiêm, dung nhiếp cả không gian lẫn thời gian.
Một chất tử như vậy có thể coi như một "hạt" thời gian; cũng như một niệm (ksana) trong kinh Hoa Nghiêm không những dung nhiếp quá khứ hiện tại và vị lai mà còn dung nhiếp cả không gian và vật thể.
Chất tử không còn có thể được hình dung như một vật ba chiều trong không gian nữa, (một hòn bi, hoặc một hạt bụi rất nhỏ) và trở thành trừu tượng hơn trong trí óc ta: có thể tạm gọi chúng (ví dụ điện tử) là những "thực thể bốn chiều sinh động trong không-thời-gian" hoặc những "làn sóng cơ suất" (ondes de probabilité) nhưng ta cũng biết rằng đó là một thứ ngôn ngữ đặc biệt, trong ấy các từ ngữ như "chất", "điểm", "thực thể" và "sóng" không còn mang cùng những ý nghĩa như trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cái nhìn này thật không xa với cái nhìn "trùng trùng duyên khởi" và "tương tức tương nhập".
Khái niệm về chất điểm cực vi cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thuyết tương đối.
Các vật thể cực vi mà nhà khoa học gọi là các "liên hệ hỗ tương giữa các vật thể" ấy lại được nhận thức như những thực tại của không-thời-gian bốn chiều luôn luôn ở vào trạng thái sinh động, bởi vì chất lượng (masse) và năng lượng (énergie) là một; chất lượng chỉ là một hình thái của năng lượng (mưa đồng thời là một chủ từ và một động từ).
Chất tử ở đây cũng như hạt bụi hoặc "đầu sợi tóc" trong kinh Hoa Nghiêm, dung nhiếp cả không gian lẫn thời gian.
Một chất tử như vậy có thể coi như một "hạt" thời gian; cũng như một niệm (ksana) trong kinh Hoa Nghiêm không những dung nhiếp quá khứ hiện tại và vị lai mà còn dung nhiếp cả không gian và vật thể.
Chất tử không còn có thể được hình dung như một vật ba chiều trong không gian nữa, (một hòn bi, hoặc một hạt bụi rất nhỏ) và trở thành trừu tượng hơn trong trí óc ta: có thể tạm gọi chúng (ví dụ điện tử) là những "thực thể bốn chiều sinh động trong không-thời-gian" hoặc những "làn sóng cơ suất" (ondes de probabilité) nhưng ta cũng biết rằng đó là một thứ ngôn ngữ đặc biệt, trong ấy các từ ngữ như "chất", "điểm", "thực thể" và "sóng" không còn mang cùng những ý nghĩa như trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày. | Thực tại của thế giới cực vi đã vùng vẫy để thoát ra ngoài thế giới ý niệm, và các chất tử đối với trí óc phân biệt của con người chỉ còn là những số lượng toán học trừu tượng.
Có những nhà khoa học đã thú nhận rằng những đặc tính của các vật thể cực vi là do trí óc của họ tạo tác ra chứ thật ra các vật thể cực vi này không có những đặc tính độc lập với trí óc người nghiên cứu chúng [20].
Như vậy là cả trong hai lãnh vực cực tiểu và cực đại, các nhà khoa học đều đã công nhận rằng tâm thức là bình chứa của thực tại, tâm thức tạo nên tướng trạng của thực tại.
Người quan sát và người tham dự
Ðối với những nhà khoa học vật lý mới, người ta không thể tách vật ra khỏi tâm.
Nhà khoa học không thể đóng vai trò một chủ thể quan sát thuần túy khách quan.
Tâm của ông ta không thể tách rời khỏi thực tại đang được quán sát.
John Wheeler nghĩ rằng phải thay thế danh từ "quán sát viên" (l'observateur) bằng danh từ "tham dự viên" (le participant).
Khi còn là kẻ quan sát thì sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nhất định là còn tồn tại, nhưng một khi đã là kẻ tham dự thì rất có thể sự phân biệt chủ khách sẽ biến mất, nhường chỗ cho kinh nghiệm trực tiếp.
Thái độ "tham dự" đưa ta tới gần phương pháp quán niệm của thiền giả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thực tại của thế giới cực vi đã vùng vẫy để thoát ra ngoài thế giới ý niệm, và các chất tử đối với trí óc phân biệt của con người chỉ còn là những số lượng toán học trừu tượng.
Có những nhà khoa học đã thú nhận rằng những đặc tính của các vật thể cực vi là do trí óc của họ tạo tác ra chứ thật ra các vật thể cực vi này không có những đặc tính độc lập với trí óc người nghiên cứu chúng [20].
Như vậy là cả trong hai lãnh vực cực tiểu và cực đại, các nhà khoa học đều đã công nhận rằng tâm thức là bình chứa của thực tại, tâm thức tạo nên tướng trạng của thực tại.
Người quan sát và người tham dự
Ðối với những nhà khoa học vật lý mới, người ta không thể tách vật ra khỏi tâm.
Nhà khoa học không thể đóng vai trò một chủ thể quan sát thuần túy khách quan.
Tâm của ông ta không thể tách rời khỏi thực tại đang được quán sát.
John Wheeler nghĩ rằng phải thay thế danh từ "quán sát viên" (l'observateur) bằng danh từ "tham dự viên" (le participant).
Khi còn là kẻ quan sát thì sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng nhất định là còn tồn tại, nhưng một khi đã là kẻ tham dự thì rất có thể sự phân biệt chủ khách sẽ biến mất, nhường chỗ cho kinh nghiệm trực tiếp.
Thái độ "tham dự" đưa ta tới gần phương pháp quán niệm của thiền giả. | Thái độ "tham dự" đưa ta tới gần phương pháp quán niệm của thiền giả.
Khi quán niệm về thân thể chẳng hạn, thiền giả biết quán niệm thân thể nơi thân thể (Kinh Niệm Xứ); nghĩa là y không coi thân thể như một đối tượng biệt lập với tâm quán niệm của y. Kết quả của sự quán niệm, vì vậy, không phải là những đo lường và suy tư trên đối tượng quán niệm mà là một kinh nghiệm trực tiếp (une perception directe) về đối tượng ấy.
Cái kinh nghiệm trực tiếp này được gọi là nhận thức vô phân biệt (nirvikalpajnana).
Thói quen phân biệt tâm và vật của ta đã có gốc rễ rất sâu trong ta rồi, nên ta phải thực tập quán niệm để phá vỡ nó từ từ.
Kinh Niệm Xứ, một kinh dạy về thiền tập được các môn đệ của Phật áp dụng ngay từ khi Phật còn tại thế, đưa ra bốn đối tượng quán niệm: thân thể, cảm thọ, nhận thức và đối tượng nhận thức.
Sự phân loại thực tại này chỉ nhắm mục tiêu thiền quán mà không nhắm tới mục tiêu phân tích thực tại.
Các hiện tượng mà ta gọi là vật chất (sắc pháp) được liệt vào trong phạm trù đối tượng nhận thức.
Cố nhiên là thân thể và cảm thọ (và cả nhận thức nữa) cũng có thể liệt vào phạm trù đối tượng nhận thức khi ta quán sát chúng.
Nhưng sự kiện mà kinh gọi mọi hiện tượng trong đó có sắc (vật chất) là đối tượng nhận thức cho ta thấy rằng ngay từ buổi đầu, Phật học đã chống lại thói quen phân biệt tâm và vật như hai thực thể riêng biệt.
Núi vẫn là núi sông vẫn là sông |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thái độ "tham dự" đưa ta tới gần phương pháp quán niệm của thiền giả.
Khi quán niệm về thân thể chẳng hạn, thiền giả biết quán niệm thân thể nơi thân thể (Kinh Niệm Xứ); nghĩa là y không coi thân thể như một đối tượng biệt lập với tâm quán niệm của y. Kết quả của sự quán niệm, vì vậy, không phải là những đo lường và suy tư trên đối tượng quán niệm mà là một kinh nghiệm trực tiếp (une perception directe) về đối tượng ấy.
Cái kinh nghiệm trực tiếp này được gọi là nhận thức vô phân biệt (nirvikalpajnana).
Thói quen phân biệt tâm và vật của ta đã có gốc rễ rất sâu trong ta rồi, nên ta phải thực tập quán niệm để phá vỡ nó từ từ.
Kinh Niệm Xứ, một kinh dạy về thiền tập được các môn đệ của Phật áp dụng ngay từ khi Phật còn tại thế, đưa ra bốn đối tượng quán niệm: thân thể, cảm thọ, nhận thức và đối tượng nhận thức.
Sự phân loại thực tại này chỉ nhắm mục tiêu thiền quán mà không nhắm tới mục tiêu phân tích thực tại.
Các hiện tượng mà ta gọi là vật chất (sắc pháp) được liệt vào trong phạm trù đối tượng nhận thức.
Cố nhiên là thân thể và cảm thọ (và cả nhận thức nữa) cũng có thể liệt vào phạm trù đối tượng nhận thức khi ta quán sát chúng.
Nhưng sự kiện mà kinh gọi mọi hiện tượng trong đó có sắc (vật chất) là đối tượng nhận thức cho ta thấy rằng ngay từ buổi đầu, Phật học đã chống lại thói quen phân biệt tâm và vật như hai thực thể riêng biệt.
Núi vẫn là núi sông vẫn là sông | Núi vẫn là núi sông vẫn là sông
Các nhà khoa học vật lý cực vi mỗi khi rời lãnh vực khảo cứu của mình để trở về thế giới giao tiếp hàng ngày thường có cảm giác những vật thể này (như trái cam hoặc cái ghế) đã mất đi tánh cách thực hữu mà ngày thường chúng vẫn có.
Ðó là tại vì khi đi vào thế giới vật thể cực vi, họ không tìm thấy một bản chất nào của vật chất mà chỉ thấy có tâm mình.
Alfred Kastler nói: "Ta chỉ có thể quan niệm được vật chất qua hai khía cạnh bổ túc cho nhau của nó là sóng (onde) và hạt (particule), và do đó phải từ bỏ những sự vật mà lâu nay ta quen cho là những thành phần của vũ trụ" [21].
"Vật chất" tuy không phải là trái cam và cái ghế, nhưng ta vẫn phải ngồi trên cái ghế ấy và bổ trái cam ấy mà ăn, bởi vì ta cũng được cấu tạo bằng cùng một "chất liệu" với chúng, dù "chất liệu" đó chỉ là những số lượng toán học của tâm ta.
Thiền giả khi đi vào quán niệm có thể khám phá được tính cách tương tức tương nhập của mọi hiện tượng cho nên trong cuộc sống hàng ngày y cũng nhìn trái cam và trái ghế bằng một con mắt khác.
Y nhìn núi, nhìn sông thì thấy "núi không là núi sông không là sông" nữa bởi vì núi đã "đi vào" sông, và sông đã "đi vào" núi (tương nhập), núi đã là sông, sông đã là núi (tương tức).
Tuy vậy khi muốn tắm y vẫn phải lội xuống dòng sông, chứ không phải leo lên núi, bởi vì trở lại thế giới sinh hoạt hằng ngày "núi vẫn là núi, sông vẫn là sông".
Không có cũng không không |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Núi vẫn là núi sông vẫn là sông
Các nhà khoa học vật lý cực vi mỗi khi rời lãnh vực khảo cứu của mình để trở về thế giới giao tiếp hàng ngày thường có cảm giác những vật thể này (như trái cam hoặc cái ghế) đã mất đi tánh cách thực hữu mà ngày thường chúng vẫn có.
Ðó là tại vì khi đi vào thế giới vật thể cực vi, họ không tìm thấy một bản chất nào của vật chất mà chỉ thấy có tâm mình.
Alfred Kastler nói: "Ta chỉ có thể quan niệm được vật chất qua hai khía cạnh bổ túc cho nhau của nó là sóng (onde) và hạt (particule), và do đó phải từ bỏ những sự vật mà lâu nay ta quen cho là những thành phần của vũ trụ" [21].
"Vật chất" tuy không phải là trái cam và cái ghế, nhưng ta vẫn phải ngồi trên cái ghế ấy và bổ trái cam ấy mà ăn, bởi vì ta cũng được cấu tạo bằng cùng một "chất liệu" với chúng, dù "chất liệu" đó chỉ là những số lượng toán học của tâm ta.
Thiền giả khi đi vào quán niệm có thể khám phá được tính cách tương tức tương nhập của mọi hiện tượng cho nên trong cuộc sống hàng ngày y cũng nhìn trái cam và trái ghế bằng một con mắt khác.
Y nhìn núi, nhìn sông thì thấy "núi không là núi sông không là sông" nữa bởi vì núi đã "đi vào" sông, và sông đã "đi vào" núi (tương nhập), núi đã là sông, sông đã là núi (tương tức).
Tuy vậy khi muốn tắm y vẫn phải lội xuống dòng sông, chứ không phải leo lên núi, bởi vì trở lại thế giới sinh hoạt hằng ngày "núi vẫn là núi, sông vẫn là sông".
Không có cũng không không | Tuy vậy khi muốn tắm y vẫn phải lội xuống dòng sông, chứ không phải leo lên núi, bởi vì trở lại thế giới sinh hoạt hằng ngày "núi vẫn là núi, sông vẫn là sông".
Không có cũng không không
Cái thấy của các nhà khoa học về liên hệ tương sinh tương hiện của các chất điểm chắc chắn là có ảnh hưởng tới cái nhìn của ông ta về thực tại và tạo nên một thứ chuyển biến nào đó trong đời sống tâm linh ông.
Thiền giả quán niệm về tính cách tương tức và tương nhập của vạn pháp cũng thực hiện một sự thay đổi trong y: những ý niệm về ngã và về pháp trước kia của y bắt đầu rạn vỡ từ từ và y thấy được sự có mặt của y nơi vạn vật, và của vạn vật nơi y. Sự chuyển đổi trong y là mục tiêu chính của y, là "lý do tồn tại" của y. Vì vậy y không những quán niệm trong giờ thiền tọa mà còn quán niệm trong những lúc đi, đứng, nằm ngồi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày nữa.
Cố nhiên cũng có những nhà khoa học làm như y: chiêm nghiệm ngoài phòng thí nghiệm, chiêm nghiệm ngay cả trong lúc ăn và lúc tắm.
Ý niệm tương duyên về vạn vật có thể gọi là gần gũi nhất với thực tại.
Nó đánh đổ bao nhiêu cặp ý niệm đối lập của tâm thức từng giam hãm, cắt xén và bóp méo thực tại (một và nhiều, trong và ngoài, thời (gian) và không (gian), tâm và vật...) Nó vừa là một phương tiện phá vỡ vừa là một phương tiện hướng dẫn.
Duy thức học gọi ý niệm này là y tha khởi (paratantra).
Thiền giả phải khéo sử dụng nó để thể nghiệm thực tại mà không nên xem nó như là một hình tướng của thực tại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tuy vậy khi muốn tắm y vẫn phải lội xuống dòng sông, chứ không phải leo lên núi, bởi vì trở lại thế giới sinh hoạt hằng ngày "núi vẫn là núi, sông vẫn là sông".
Không có cũng không không
Cái thấy của các nhà khoa học về liên hệ tương sinh tương hiện của các chất điểm chắc chắn là có ảnh hưởng tới cái nhìn của ông ta về thực tại và tạo nên một thứ chuyển biến nào đó trong đời sống tâm linh ông.
Thiền giả quán niệm về tính cách tương tức và tương nhập của vạn pháp cũng thực hiện một sự thay đổi trong y: những ý niệm về ngã và về pháp trước kia của y bắt đầu rạn vỡ từ từ và y thấy được sự có mặt của y nơi vạn vật, và của vạn vật nơi y. Sự chuyển đổi trong y là mục tiêu chính của y, là "lý do tồn tại" của y. Vì vậy y không những quán niệm trong giờ thiền tọa mà còn quán niệm trong những lúc đi, đứng, nằm ngồi, nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày nữa.
Cố nhiên cũng có những nhà khoa học làm như y: chiêm nghiệm ngoài phòng thí nghiệm, chiêm nghiệm ngay cả trong lúc ăn và lúc tắm.
Ý niệm tương duyên về vạn vật có thể gọi là gần gũi nhất với thực tại.
Nó đánh đổ bao nhiêu cặp ý niệm đối lập của tâm thức từng giam hãm, cắt xén và bóp méo thực tại (một và nhiều, trong và ngoài, thời (gian) và không (gian), tâm và vật...) Nó vừa là một phương tiện phá vỡ vừa là một phương tiện hướng dẫn.
Duy thức học gọi ý niệm này là y tha khởi (paratantra).
Thiền giả phải khéo sử dụng nó để thể nghiệm thực tại mà không nên xem nó như là một hình tướng của thực tại. | Duy thức học gọi ý niệm này là y tha khởi (paratantra).
Thiền giả phải khéo sử dụng nó để thể nghiệm thực tại mà không nên xem nó như là một hình tướng của thực tại.
Y tha khởi có nghĩa là nương vào các cái khác mà sinh khởi (y là nương vào, tha là cái khác).
Ðó là tính chất của thực tại.
Tính chất này là không có bản chất, không có tự tánh, cũng như một hình tam giác sở dĩ gọi là có là vì ba đường thẳng đã gặp nhau.
Vì lý do không có tự tánh (nghĩa là không có bản chất) cho nên mọi hiện tượng được mô tả là không (sūnya).
Không ở đây có nghĩa là không có bản chất thực chứ không phải là không có "hiện tượng".
Cũng như chữ chất điểm (particules) trong vật lý học không có nghĩa là những hạt vật chất có tính cách ba chiều tồn tại độc lập với nhau, chữ không ở đây không có cùng một nghĩa với chữ không mà ta dùng trong ngôn ngữ thông dụng hằng ngày.
Không ở đây vượt lên khỏi ý niệm có và không dùng thường.
Ðể cho khỏi lẫn lộn, các nhà Phật học thường dùng danh từ chân không để nói đến cái không ấy.
Thiền sư Huệ Sinh (sống vào thế kỷ thứ mười một đời Lý) từng nói rằng ta không thể dùng các từ có và không để gọi vạn vật được, bởi vì thực tại thoát ra ngoài hai ý niệm có và không ấy:
Pháp cũng như vô pháp
Không có cũng như không
Nếu hiểu được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược nhân tri thử pháp
chúng sinh dữ Phật đồng)
Hoa Ưu-bát-la còn đang nở |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Duy thức học gọi ý niệm này là y tha khởi (paratantra).
Thiền giả phải khéo sử dụng nó để thể nghiệm thực tại mà không nên xem nó như là một hình tướng của thực tại.
Y tha khởi có nghĩa là nương vào các cái khác mà sinh khởi (y là nương vào, tha là cái khác).
Ðó là tính chất của thực tại.
Tính chất này là không có bản chất, không có tự tánh, cũng như một hình tam giác sở dĩ gọi là có là vì ba đường thẳng đã gặp nhau.
Vì lý do không có tự tánh (nghĩa là không có bản chất) cho nên mọi hiện tượng được mô tả là không (sūnya).
Không ở đây có nghĩa là không có bản chất thực chứ không phải là không có "hiện tượng".
Cũng như chữ chất điểm (particules) trong vật lý học không có nghĩa là những hạt vật chất có tính cách ba chiều tồn tại độc lập với nhau, chữ không ở đây không có cùng một nghĩa với chữ không mà ta dùng trong ngôn ngữ thông dụng hằng ngày.
Không ở đây vượt lên khỏi ý niệm có và không dùng thường.
Ðể cho khỏi lẫn lộn, các nhà Phật học thường dùng danh từ chân không để nói đến cái không ấy.
Thiền sư Huệ Sinh (sống vào thế kỷ thứ mười một đời Lý) từng nói rằng ta không thể dùng các từ có và không để gọi vạn vật được, bởi vì thực tại thoát ra ngoài hai ý niệm có và không ấy:
Pháp cũng như vô pháp
Không có cũng như không
Nếu hiểu được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược nhân tri thử pháp
chúng sinh dữ Phật đồng)
Hoa Ưu-bát-la còn đang nở | Không có cũng như không
Nếu hiểu được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược nhân tri thử pháp
chúng sinh dữ Phật đồng)
Hoa Ưu-bát-la còn đang nở
Có một phép quán gọi là chân không quán: thiền giả đi vào phép quán này để vượt bỏ ý niệm có và không cố hữu của mình, một ý niệm được cấu thành do nhận thức sai lầm về tính cách độc lập (ngã) và thường còn (thường) của các vật thể.
Khi cây chanh mới có hoa, ta không thấy trái chanh trên cành và ta nói: "hoa chanh thì có, trái chanh thì không".
Ta không thấy được sự có mặt của trái chanh tiềm ẩn nơi những vật thể đã hiển lộ cho nên ta nói không.
Kỳ thực yếu tố thời gian đang từ từ làm cho trái chanh hiển lộ.
Nhìn vào cái ghế ta chỉ thấy sự có mặt của gỗ, và ta không thấy được sự có mặt của rừng, của cây, của lá, của bàn tay người thợ mộc, của tâm ta ... Kẻ thiền giả khi nhìn vào cái ghế phải thấy được cả vạn hữu trong liên hệ nhân duyên chằng chịt: sự có mặt của gỗ kéo theo sự có mặt của cây, sự có mặt của lá cây kéo theo sự có mặt của mặt trời, v.v.... Y thấy được một trong tất cả và dù không nhìn vào chiếc ghế trước mặt y, y cũng thấy được sự có mặt của nó trong lòng vạn hữu.
Cái ghế không có tự tính riêng biệt.
Nó có trong liên hệ duyên khởi với các hiện tượng khác trong vũ trụ; nó có vì tất cả các cái khác có, nó không thì tất cả các cái khác đều không. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Không có cũng như không
Nếu hiểu được lẽ ấy
Chúng sinh với Phật đồng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược nhân tri thử pháp
chúng sinh dữ Phật đồng)
Hoa Ưu-bát-la còn đang nở
Có một phép quán gọi là chân không quán: thiền giả đi vào phép quán này để vượt bỏ ý niệm có và không cố hữu của mình, một ý niệm được cấu thành do nhận thức sai lầm về tính cách độc lập (ngã) và thường còn (thường) của các vật thể.
Khi cây chanh mới có hoa, ta không thấy trái chanh trên cành và ta nói: "hoa chanh thì có, trái chanh thì không".
Ta không thấy được sự có mặt của trái chanh tiềm ẩn nơi những vật thể đã hiển lộ cho nên ta nói không.
Kỳ thực yếu tố thời gian đang từ từ làm cho trái chanh hiển lộ.
Nhìn vào cái ghế ta chỉ thấy sự có mặt của gỗ, và ta không thấy được sự có mặt của rừng, của cây, của lá, của bàn tay người thợ mộc, của tâm ta ... Kẻ thiền giả khi nhìn vào cái ghế phải thấy được cả vạn hữu trong liên hệ nhân duyên chằng chịt: sự có mặt của gỗ kéo theo sự có mặt của cây, sự có mặt của lá cây kéo theo sự có mặt của mặt trời, v.v.... Y thấy được một trong tất cả và dù không nhìn vào chiếc ghế trước mặt y, y cũng thấy được sự có mặt của nó trong lòng vạn hữu.
Cái ghế không có tự tính riêng biệt.
Nó có trong liên hệ duyên khởi với các hiện tượng khác trong vũ trụ; nó có vì tất cả các cái khác có, nó không thì tất cả các cái khác đều không. | Cái ghế không có tự tính riêng biệt.
Nó có trong liên hệ duyên khởi với các hiện tượng khác trong vũ trụ; nó có vì tất cả các cái khác có, nó không thì tất cả các cái khác đều không.
Mỗi lần mở miệng nói "ghế", hoặc mỗi lần khái niệm "ghế" được hình thành trong nhận thức ta là mỗi lần lưỡi gươm khái niệm vung lên và chém xuống, phân thực tại làm hai mảnh: một mảnh là ghế, một mảnh là tất cả những gì không phải ghế.
Ðối với thực tại sự chia cắt ấy tàn bạo vô song và cũng phi lý vô cùng.
Ta không thấy được rằng tự thân của ghế là tất cả những gì không phải ghế tổ hợp nên.
Tất cả những gì không phải ghế nằm ngay ở trong ghế.
Kẻ trí giả nhìn ghế thì thấy sự có mặt của tất cả những gì không phải ghế, vì vậy thấy được tính cách bất sinh diệt của ghế.
Hồi nhỏ chắc là bạn có chơi kính vạn hoa (kaléidoscope).
Bạn biết rằng tất cả những kiến trúc kỳ diệu trong ống kính đều do sự phối hợp của các mảnh vụn mầu sắc và các mặt kính tạo thành.
Mỗi cử động nhỏ của ngón tay bạn làm tan biến một kiến trúc kỳ diệu và làm phát hiện một kiến trúc kỳ diệu khác.
Bạn có thể nói những kiến trúc kỳ diệu kia có sinh và có diệt, nhưng bạn biết rõ là tự thể chúng (các mảnh vụn mầu sắc và các mặt kiến) không nằm trên bình diện sinh diệt ấy.
Bạn thấy được rằng sự sinh diệt là giả tạo: bản thể của các kiến trúc muôn hình vạn trạng kia thoát ra ngoài sự sinh diệt đó.
Hãy như vị thiền giả kia, bạn thử theo dõi hơi thở bạn và quán chiếu tính bất sinh bất diệt của thế giới bạn, nghĩa là của bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cái ghế không có tự tính riêng biệt.
Nó có trong liên hệ duyên khởi với các hiện tượng khác trong vũ trụ; nó có vì tất cả các cái khác có, nó không thì tất cả các cái khác đều không.
Mỗi lần mở miệng nói "ghế", hoặc mỗi lần khái niệm "ghế" được hình thành trong nhận thức ta là mỗi lần lưỡi gươm khái niệm vung lên và chém xuống, phân thực tại làm hai mảnh: một mảnh là ghế, một mảnh là tất cả những gì không phải ghế.
Ðối với thực tại sự chia cắt ấy tàn bạo vô song và cũng phi lý vô cùng.
Ta không thấy được rằng tự thân của ghế là tất cả những gì không phải ghế tổ hợp nên.
Tất cả những gì không phải ghế nằm ngay ở trong ghế.
Kẻ trí giả nhìn ghế thì thấy sự có mặt của tất cả những gì không phải ghế, vì vậy thấy được tính cách bất sinh diệt của ghế.
Hồi nhỏ chắc là bạn có chơi kính vạn hoa (kaléidoscope).
Bạn biết rằng tất cả những kiến trúc kỳ diệu trong ống kính đều do sự phối hợp của các mảnh vụn mầu sắc và các mặt kính tạo thành.
Mỗi cử động nhỏ của ngón tay bạn làm tan biến một kiến trúc kỳ diệu và làm phát hiện một kiến trúc kỳ diệu khác.
Bạn có thể nói những kiến trúc kỳ diệu kia có sinh và có diệt, nhưng bạn biết rõ là tự thể chúng (các mảnh vụn mầu sắc và các mặt kiến) không nằm trên bình diện sinh diệt ấy.
Bạn thấy được rằng sự sinh diệt là giả tạo: bản thể của các kiến trúc muôn hình vạn trạng kia thoát ra ngoài sự sinh diệt đó.
Hãy như vị thiền giả kia, bạn thử theo dõi hơi thở bạn và quán chiếu tính bất sinh bất diệt của thế giới bạn, nghĩa là của bạn. | Hãy như vị thiền giả kia, bạn thử theo dõi hơi thở bạn và quán chiếu tính bất sinh bất diệt của thế giới bạn, nghĩa là của bạn.
Rồi bạn sẽ thấy sự giải thoát sinh tử chỉ nằm trong tầm tay.
Nếu ta phủ nhận sự có mặt của cái ghế tức là ta phủ nhận sự có mặt của vũ trụ vạn hữu.
Cái ghế kia mà không có thì vạn hữu cũng không, bởi vì vậy không ai có thể làm cho cái ghế từ có trở thành không được.
Ðem chẻ cái ghế ra, bỏ vào lò sưởi, đốt cái ghế đi, nó cũng không thể từ có trở thành không.
Nếu bạn thành công trong sự thủ tiêu cái ghế thì đồng thời bạn đã thủ tiêu luôn cả vũ trụ.
Cho nên ý niệm sinh diệt dính liền với ý niệm có không.
Một chiếc xe đạp chẳng hạn bắt đầu có từ lúc nào và bắt đầu không từ lúc nào?
Nếu bạn nói chiếc xe đạp bắt đầu có vào lúc bộ phận cuối cùng được lắp vào, tại sao trước đó bạn nói rằng "chiếc xe đạp này còn thiếu một bộ phận?"
Khi chiếc xe đạp hư hoại, không dùng được nữa, tại sao bạn còn gọi là "chiếc xe đạp hư"?
Bạn thử quán niệm về giờ sinh và giờ diệt của chiếc xe đạp để rồi có thể thấy được chiếc xe đạp ngoài bốn phạm trù có, không, sinh, diệt.
Thi sĩ Rabindranath Tagore trước khi sinh là không hay là có, và sau khi chết, là có hay là không?
Nếu bạn đã chấp nhận ý niệm trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm hoặc ý niệm tương hiệp tương thành của các chất tử cực vi, bạn không thể gắn ý niệm không vào cho thi sĩ Tagore dù vào lúc ông chưa sanh hoặc khi ông đã chết.
Tagore mà không thì vũ trụ cũng không, tôi cũng không, bạn cũng không. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hãy như vị thiền giả kia, bạn thử theo dõi hơi thở bạn và quán chiếu tính bất sinh bất diệt của thế giới bạn, nghĩa là của bạn.
Rồi bạn sẽ thấy sự giải thoát sinh tử chỉ nằm trong tầm tay.
Nếu ta phủ nhận sự có mặt của cái ghế tức là ta phủ nhận sự có mặt của vũ trụ vạn hữu.
Cái ghế kia mà không có thì vạn hữu cũng không, bởi vì vậy không ai có thể làm cho cái ghế từ có trở thành không được.
Ðem chẻ cái ghế ra, bỏ vào lò sưởi, đốt cái ghế đi, nó cũng không thể từ có trở thành không.
Nếu bạn thành công trong sự thủ tiêu cái ghế thì đồng thời bạn đã thủ tiêu luôn cả vũ trụ.
Cho nên ý niệm sinh diệt dính liền với ý niệm có không.
Một chiếc xe đạp chẳng hạn bắt đầu có từ lúc nào và bắt đầu không từ lúc nào?
Nếu bạn nói chiếc xe đạp bắt đầu có vào lúc bộ phận cuối cùng được lắp vào, tại sao trước đó bạn nói rằng "chiếc xe đạp này còn thiếu một bộ phận?"
Khi chiếc xe đạp hư hoại, không dùng được nữa, tại sao bạn còn gọi là "chiếc xe đạp hư"?
Bạn thử quán niệm về giờ sinh và giờ diệt của chiếc xe đạp để rồi có thể thấy được chiếc xe đạp ngoài bốn phạm trù có, không, sinh, diệt.
Thi sĩ Rabindranath Tagore trước khi sinh là không hay là có, và sau khi chết, là có hay là không?
Nếu bạn đã chấp nhận ý niệm trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm hoặc ý niệm tương hiệp tương thành của các chất tử cực vi, bạn không thể gắn ý niệm không vào cho thi sĩ Tagore dù vào lúc ông chưa sanh hoặc khi ông đã chết.
Tagore mà không thì vũ trụ cũng không, tôi cũng không, bạn cũng không. | Tagore mà không thì vũ trụ cũng không, tôi cũng không, bạn cũng không.
Không phải nhờ "sinh" ra mà Tagore có, không phải vì "chết" đi mà Tagore không.
Một buổi chiều đứng trên Linh Thứu Sơn ở tiểu bang Bihar, tôi thấy một mặt trời rất đẹp đang lặn.
Thì ra đức Phật vẫn còn ngồi ở đó:
Người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Thứu Sơn thản nhiên ngồi nhìn mặt trời huy hoàng đang lặn
Gotama!
Ai bảo rằng Ưu Bát Ða La triệu năm mới có một lần nở
Tiếng hải triều kia, có chiếc tai nào chịu lắng mà lại không nghe?
(Dấu Chân Trên Cát)
Tôi thường nghe nhiều người than thở rằng sinh ra đời không được gặp Phật... Tôi nghĩ rằng có thể những người này có gặp Phật trên đường đi họ cũng không nhận biết.
Không phải chỉ Tagore và Phật Thích Ca là bất sinh, bất diệt, mà bạn và tôi, chúng ta cũng bất sinh bất diệt.
Tôi có đây là vì bạn có đó.
Nếu trong hai chúng ta một người không thì người kia cũng không.
Thực tại thoát ra ngoài ý niệm có không, thực tại thoát ra ngoài ý niệm sinh diệt.
Tạm dùng một tiếng chân không để nói về thực tại, để phá vỡ tất cả những ý niệm chuyên giam hãm cắt xén và bóp méo thực tại.
Không dùng tâm vô niệm thì không có cách gì thâm nhập thực tại.
Tôi tin rằng khoa học đang trên con đường phá vỡ các ý niệm và một mai kia sẽ thấy rằng thực tại thoát ra ngoài mọi đo lường của ý niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tagore mà không thì vũ trụ cũng không, tôi cũng không, bạn cũng không.
Không phải nhờ "sinh" ra mà Tagore có, không phải vì "chết" đi mà Tagore không.
Một buổi chiều đứng trên Linh Thứu Sơn ở tiểu bang Bihar, tôi thấy một mặt trời rất đẹp đang lặn.
Thì ra đức Phật vẫn còn ngồi ở đó:
Người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Thứu Sơn thản nhiên ngồi nhìn mặt trời huy hoàng đang lặn
Gotama!
Ai bảo rằng Ưu Bát Ða La triệu năm mới có một lần nở
Tiếng hải triều kia, có chiếc tai nào chịu lắng mà lại không nghe?
(Dấu Chân Trên Cát)
Tôi thường nghe nhiều người than thở rằng sinh ra đời không được gặp Phật... Tôi nghĩ rằng có thể những người này có gặp Phật trên đường đi họ cũng không nhận biết.
Không phải chỉ Tagore và Phật Thích Ca là bất sinh, bất diệt, mà bạn và tôi, chúng ta cũng bất sinh bất diệt.
Tôi có đây là vì bạn có đó.
Nếu trong hai chúng ta một người không thì người kia cũng không.
Thực tại thoát ra ngoài ý niệm có không, thực tại thoát ra ngoài ý niệm sinh diệt.
Tạm dùng một tiếng chân không để nói về thực tại, để phá vỡ tất cả những ý niệm chuyên giam hãm cắt xén và bóp méo thực tại.
Không dùng tâm vô niệm thì không có cách gì thâm nhập thực tại.
Tôi tin rằng khoa học đang trên con đường phá vỡ các ý niệm và một mai kia sẽ thấy rằng thực tại thoát ra ngoài mọi đo lường của ý niệm. | Không dùng tâm vô niệm thì không có cách gì thâm nhập thực tại.
Tôi tin rằng khoa học đang trên con đường phá vỡ các ý niệm và một mai kia sẽ thấy rằng thực tại thoát ra ngoài mọi đo lường của ý niệm.
Ngôn ngữ của khoa học đã bắt đầu có tính cách tượng trưng của thi ca, bởi vì khoa học gia thấy không còn có thể dùng ngôn ngữ của sự sống thực dụng hàng ngày mà diễn tả được cái thấy vô niệm của mình.
Bạn có biết là các khoa học gia đang dùng những từ ngữ như "ma lực" (charme) và "mầu sắc" (couleurs) để nói về nội dung các chất điểm không?
Như lai không tới cũng không đi
Cái thực tại chân không vô niệm ấy còn được gọi là chân như (bhūtatathatā) nữa.
Như nghĩa là như thế đó, phải thực nghiệm, không thể diễn tả (bằng khái niệm và ngôn ngữ) được.
Chữ Chân không quan hệ mấy, cũng như trong danh từ chân không.
Tây phương dịch danh từ chân như là suchness hay ainsité, lấy từ những chữ such và ainsi ra, cả hai đều có nghĩa "như thế".
Bạn có một trái sầu riêng trên bàn.
Có người hỏi: mùi vị sầu riêng ra sao?
Thay vì trả lời, bạn bổ sầu riêng mời người đó.
Như vậy là bạn đưa người đó đi vào chân như của hương vị sầu riêng, không cần dùng khái niệm và ngôn ngữ.
Ðể nhắc nhở môn đệ về tính cách bất sinh bất diệt của thực tại, Phật đã bảo họ gọi Người là Như Lai (Tathāgata).
Như Lai không phải là một mỹ hiệu tôn xưng.
Như Lai nghĩa là từ chân như mà tới, từ thực tại vô niệm mà tới (như là chân như, lai là tới).
Tới từ chân như, ở trong chân như và đi về chân như.
Ai mà không tới từ chân như? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Không dùng tâm vô niệm thì không có cách gì thâm nhập thực tại.
Tôi tin rằng khoa học đang trên con đường phá vỡ các ý niệm và một mai kia sẽ thấy rằng thực tại thoát ra ngoài mọi đo lường của ý niệm.
Ngôn ngữ của khoa học đã bắt đầu có tính cách tượng trưng của thi ca, bởi vì khoa học gia thấy không còn có thể dùng ngôn ngữ của sự sống thực dụng hàng ngày mà diễn tả được cái thấy vô niệm của mình.
Bạn có biết là các khoa học gia đang dùng những từ ngữ như "ma lực" (charme) và "mầu sắc" (couleurs) để nói về nội dung các chất điểm không?
Như lai không tới cũng không đi
Cái thực tại chân không vô niệm ấy còn được gọi là chân như (bhūtatathatā) nữa.
Như nghĩa là như thế đó, phải thực nghiệm, không thể diễn tả (bằng khái niệm và ngôn ngữ) được.
Chữ Chân không quan hệ mấy, cũng như trong danh từ chân không.
Tây phương dịch danh từ chân như là suchness hay ainsité, lấy từ những chữ such và ainsi ra, cả hai đều có nghĩa "như thế".
Bạn có một trái sầu riêng trên bàn.
Có người hỏi: mùi vị sầu riêng ra sao?
Thay vì trả lời, bạn bổ sầu riêng mời người đó.
Như vậy là bạn đưa người đó đi vào chân như của hương vị sầu riêng, không cần dùng khái niệm và ngôn ngữ.
Ðể nhắc nhở môn đệ về tính cách bất sinh bất diệt của thực tại, Phật đã bảo họ gọi Người là Như Lai (Tathāgata).
Như Lai không phải là một mỹ hiệu tôn xưng.
Như Lai nghĩa là từ chân như mà tới, từ thực tại vô niệm mà tới (như là chân như, lai là tới).
Tới từ chân như, ở trong chân như và đi về chân như.
Ai mà không tới từ chân như? | Như Lai nghĩa là từ chân như mà tới, từ thực tại vô niệm mà tới (như là chân như, lai là tới).
Tới từ chân như, ở trong chân như và đi về chân như.
Ai mà không tới từ chân như?
Bạn, tôi, con sâu đo, hạt bụi,.... tất cả đều từ chân như tới, hiện đang an trú trong chân như và một mai sẽ về chân như.
Các động từ tới, ở và đi đều không có nghĩa bởi vì không lúc nào ta rời khỏi chân nhự.
Trong kinh Anurādha [22], Phật trả lời một câu hỏi đã từng làm cho nhiều tu sĩ đương thời và cả một số đệ tử của Phật nữa thắc mắc.
Ðó là câu hỏi để dò xem trong bốn trường hợp này, trường hợp nào đúng:
- Sau khi chết Như Lai còn hiện hữu
- Sau khi chết Như Lai không còn hiện hữu
- Sau khi chết Như Lai vừa còn hiện hữu vừa không còn hiện hữu
- Sau khi chết, Như Lai vừa không hiện hữu vừa không không hiện hữu.
"Phật hỏi Anurādha:
- Này Anurādha, ông nghĩ sao, có thể nhận ra Như Lai nơi hình sắc (vật chất) không?
- Có thể tìm Như Lai ngoài hình sắc không?
- Có thể nhận ra Như Lai nơi cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không?
- Có thể nhận ra Như Lai ngoài cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không?
- Này Anurādha, chính trong khi ta còn sống đây mà ông cũng không tìm thấy ta ở đâu hết, thì tại sao ông lại thấy cần phải giải quyết vấn đề sau khi chết Như Lai còn hay là mất, hay vừa còn vừa mất, hay vừa không còn vừa không không còn?”
Nhà Vật Lý học Robert Oppenheimer, mà người ta thường gọi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên, đã được đọc đoạn kinh ấy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Như Lai nghĩa là từ chân như mà tới, từ thực tại vô niệm mà tới (như là chân như, lai là tới).
Tới từ chân như, ở trong chân như và đi về chân như.
Ai mà không tới từ chân như?
Bạn, tôi, con sâu đo, hạt bụi,.... tất cả đều từ chân như tới, hiện đang an trú trong chân như và một mai sẽ về chân như.
Các động từ tới, ở và đi đều không có nghĩa bởi vì không lúc nào ta rời khỏi chân nhự.
Trong kinh Anurādha [22], Phật trả lời một câu hỏi đã từng làm cho nhiều tu sĩ đương thời và cả một số đệ tử của Phật nữa thắc mắc.
Ðó là câu hỏi để dò xem trong bốn trường hợp này, trường hợp nào đúng:
- Sau khi chết Như Lai còn hiện hữu
- Sau khi chết Như Lai không còn hiện hữu
- Sau khi chết Như Lai vừa còn hiện hữu vừa không còn hiện hữu
- Sau khi chết, Như Lai vừa không hiện hữu vừa không không hiện hữu.
"Phật hỏi Anurādha:
- Này Anurādha, ông nghĩ sao, có thể nhận ra Như Lai nơi hình sắc (vật chất) không?
- Có thể tìm Như Lai ngoài hình sắc không?
- Có thể nhận ra Như Lai nơi cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không?
- Có thể nhận ra Như Lai ngoài cảm thọ, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức không?
- Này Anurādha, chính trong khi ta còn sống đây mà ông cũng không tìm thấy ta ở đâu hết, thì tại sao ông lại thấy cần phải giải quyết vấn đề sau khi chết Như Lai còn hay là mất, hay vừa còn vừa mất, hay vừa không còn vừa không không còn?”
Nhà Vật Lý học Robert Oppenheimer, mà người ta thường gọi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên, đã được đọc đoạn kinh ấy. | Nhà Vật Lý học Robert Oppenheimer, mà người ta thường gọi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên, đã được đọc đoạn kinh ấy.
Ông hiểu được ý thú của kinh, bởi vì ông đã quán sát về chất điểm và thấy chất điểm cũng không thể đem các ý niệm không gian, thời gian và có không mà bắt nhốt được.
Ông viết: "Nếu người ta đặt những câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản nhất, chúng ta chỉ có thể hoặc nín thinh hoặc đưa ra những câu trả lời mà mới nghe, người ta tưởng là trích từ một cuốn kinh nào đó hơn là những giải bày chính xác của vật lý học.
Chẳng hạn, nếu người ta hỏi vị trí của điện tử có nhất định không, ta phải trả lời là "không", nếu người ta hỏi vị trí đó có thay đổi trong thời gian không, ta phải trả lời là "không", nếu hỏi điện tử có phải bất động không, ta phải trả lời là "không", nếu hỏi điện tử có di động không, ta cũng phải trả lời là "không" [23].
Bạn đã thấy ngôn ngữ khoa học đã bắt đầu có mầu sắc ngôn ngữ thiền học.
Ðọc đoạn kinh Phật nói trên, Oppenheimer nói rằng giới khoa học của các thế kỷ 17 và 18 sẽ không hiểu được những câu trả lời của Phật.
Vậy mà Phật đã nói những điều đó hai mươi lăm thế kỷ về trước!
Lưới sinh tử có thể rách tung
Có một phép quán thứ hai có thể áp dụng thay cho phép quán chân không, đó là diệu hữu quán.
Hữu là có mặt, là tồn tại, nhưng diệu hữu là có mặt và tồn tại theo nguyên lý "một trong tất cả, tất cả trong một", và vì vậy hữu không đồng nghĩa với có trong ý niệm có và không dùng thường. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhà Vật Lý học Robert Oppenheimer, mà người ta thường gọi là cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên, đã được đọc đoạn kinh ấy.
Ông hiểu được ý thú của kinh, bởi vì ông đã quán sát về chất điểm và thấy chất điểm cũng không thể đem các ý niệm không gian, thời gian và có không mà bắt nhốt được.
Ông viết: "Nếu người ta đặt những câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản nhất, chúng ta chỉ có thể hoặc nín thinh hoặc đưa ra những câu trả lời mà mới nghe, người ta tưởng là trích từ một cuốn kinh nào đó hơn là những giải bày chính xác của vật lý học.
Chẳng hạn, nếu người ta hỏi vị trí của điện tử có nhất định không, ta phải trả lời là "không", nếu người ta hỏi vị trí đó có thay đổi trong thời gian không, ta phải trả lời là "không", nếu hỏi điện tử có phải bất động không, ta phải trả lời là "không", nếu hỏi điện tử có di động không, ta cũng phải trả lời là "không" [23].
Bạn đã thấy ngôn ngữ khoa học đã bắt đầu có mầu sắc ngôn ngữ thiền học.
Ðọc đoạn kinh Phật nói trên, Oppenheimer nói rằng giới khoa học của các thế kỷ 17 và 18 sẽ không hiểu được những câu trả lời của Phật.
Vậy mà Phật đã nói những điều đó hai mươi lăm thế kỷ về trước!
Lưới sinh tử có thể rách tung
Có một phép quán thứ hai có thể áp dụng thay cho phép quán chân không, đó là diệu hữu quán.
Hữu là có mặt, là tồn tại, nhưng diệu hữu là có mặt và tồn tại theo nguyên lý "một trong tất cả, tất cả trong một", và vì vậy hữu không đồng nghĩa với có trong ý niệm có và không dùng thường. | Hữu là có mặt, là tồn tại, nhưng diệu hữu là có mặt và tồn tại theo nguyên lý "một trong tất cả, tất cả trong một", và vì vậy hữu không đồng nghĩa với có trong ý niệm có và không dùng thường.
Cũng bởi vậy cho nên có thêm chữ diệu (có nghĩa là mầu nhiệm) phía trước.
Tuy Oppenheimer dùng luôn bốn lần tiếng "không" để trả lời các câu hỏi về đặc tính của điện tử, điện tử vẫn không phải là không.
Tuy Phật nói: "Ngay trong đời này cũng không tìm được Như Lai"., Như Lai vẫn không phải là không.
Kinh Ðại Bát Nhã dùng danh từ bất không (asūnya) để nói về trạng huống này.
Bất không tức là diệu hữu.
Chân không và diệu hữu giữ cho ta không rơi vào hai cái hố thẳm có và không của nhận thức phân biệt.
Ðiện tử và Như Lai nằm ngoài ý niệm có không, và tính chất chân không và diệu hữu của điện tử và của Như Lai một mặt kéo ta ra khỏi hai hố có không, một mặt đẩy ta trực tiếp vào thế giới vô niệm.
Bạn quán niệm như thế nào?
Khi một người nắm vững được thuyết tương đối nói lên danh từ không gian, người ấy thấy không gian bao hàm cả thời gian và vật thể; tuy y cũng dùng danh từ không gian như mọi người, nhưng nội dung của danh từ ấy đối với y đã trở nên giàu có hơn nhiều, đa dạng hơn nhiều, vì y đã được giải thoát ra ngoài ý niệm không gian có thể hiện hữu độc lập với thời gian và vật thể.
Khi bạn quán sát một con ong, bạn phải nhìn thấy con ong ít nhất cũng với cái nhìn của nhà vật lý học tương đối luận.
Bạn phải đi xa hơn y, phải thấy được chân không và diệu hữu nơi con ong. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hữu là có mặt, là tồn tại, nhưng diệu hữu là có mặt và tồn tại theo nguyên lý "một trong tất cả, tất cả trong một", và vì vậy hữu không đồng nghĩa với có trong ý niệm có và không dùng thường.
Cũng bởi vậy cho nên có thêm chữ diệu (có nghĩa là mầu nhiệm) phía trước.
Tuy Oppenheimer dùng luôn bốn lần tiếng "không" để trả lời các câu hỏi về đặc tính của điện tử, điện tử vẫn không phải là không.
Tuy Phật nói: "Ngay trong đời này cũng không tìm được Như Lai"., Như Lai vẫn không phải là không.
Kinh Ðại Bát Nhã dùng danh từ bất không (asūnya) để nói về trạng huống này.
Bất không tức là diệu hữu.
Chân không và diệu hữu giữ cho ta không rơi vào hai cái hố thẳm có và không của nhận thức phân biệt.
Ðiện tử và Như Lai nằm ngoài ý niệm có không, và tính chất chân không và diệu hữu của điện tử và của Như Lai một mặt kéo ta ra khỏi hai hố có không, một mặt đẩy ta trực tiếp vào thế giới vô niệm.
Bạn quán niệm như thế nào?
Khi một người nắm vững được thuyết tương đối nói lên danh từ không gian, người ấy thấy không gian bao hàm cả thời gian và vật thể; tuy y cũng dùng danh từ không gian như mọi người, nhưng nội dung của danh từ ấy đối với y đã trở nên giàu có hơn nhiều, đa dạng hơn nhiều, vì y đã được giải thoát ra ngoài ý niệm không gian có thể hiện hữu độc lập với thời gian và vật thể.
Khi bạn quán sát một con ong, bạn phải nhìn thấy con ong ít nhất cũng với cái nhìn của nhà vật lý học tương đối luận.
Bạn phải đi xa hơn y, phải thấy được chân không và diệu hữu nơi con ong. | Khi bạn quán sát một con ong, bạn phải nhìn thấy con ong ít nhất cũng với cái nhìn của nhà vật lý học tương đối luận.
Bạn phải đi xa hơn y, phải thấy được chân không và diệu hữu nơi con ong.
Tôi quyết đoán với bạn là công trình thiền tập này, nếu được thực hiện vững chãi trong một thời gian, sẽ đưa người thiền giả là bạn thoát khỏi lưới sinh tử.
Trong giới thiền gia, vấn đề sinh tử là vấn đề trọng đại nhất, "sinh tử sự đại".
Tôi nhớ thiền sư Bạch Ẩn với một bức thủ bút của người, trong đó một chữ chết được viết rất lớn tiếp theo là mấy chữ nhỏ: "Nếu ai thấu triệt được nó mới thực là bậc đại trượng phu" [24].
Trước kia tôi nghĩ thoát ly sinh tử là một viễn vọng khá xa vời, cả những lúc tôi đang dạy tại Phật học đường Nam Việt.
Nhìn những tượng A La Hán gầy gò, tôi nghĩ phải thực hiện việc diệt dục cho đến khi máu khô lực kiệt thì mới có thể đạt được mục tiêu đó.
Nhưng trong thời gian quán sát và thiền tập ở Phương Bối, tôi thấy thoát ly sinh tử không còn là một viễn vọng nữa.
Sinh tử chỉ là những ý niệm: thoát ly được những ý niệm ấy tức là thoát ly sinh tử.
Tôi thấy ngay rằng việc thoát ly sinh tử nằm trong tầm tay của mình.
Tuy nhiên không phải một sự liễu giải có tính cách tri thức lý luận có thể làm cho ta thoát được ý niệm sinh tử.
Khi bạn bắt đầu thấy được nguyên tắc tương tức tương nhập của vạn tượng, khi bạn bắt đầu hiểu được thế nào là chân không và diệu hữu, bạn mới chỉ gieo vào tâm thức bạn những hạt giống của giải thoát mà thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi bạn quán sát một con ong, bạn phải nhìn thấy con ong ít nhất cũng với cái nhìn của nhà vật lý học tương đối luận.
Bạn phải đi xa hơn y, phải thấy được chân không và diệu hữu nơi con ong.
Tôi quyết đoán với bạn là công trình thiền tập này, nếu được thực hiện vững chãi trong một thời gian, sẽ đưa người thiền giả là bạn thoát khỏi lưới sinh tử.
Trong giới thiền gia, vấn đề sinh tử là vấn đề trọng đại nhất, "sinh tử sự đại".
Tôi nhớ thiền sư Bạch Ẩn với một bức thủ bút của người, trong đó một chữ chết được viết rất lớn tiếp theo là mấy chữ nhỏ: "Nếu ai thấu triệt được nó mới thực là bậc đại trượng phu" [24].
Trước kia tôi nghĩ thoát ly sinh tử là một viễn vọng khá xa vời, cả những lúc tôi đang dạy tại Phật học đường Nam Việt.
Nhìn những tượng A La Hán gầy gò, tôi nghĩ phải thực hiện việc diệt dục cho đến khi máu khô lực kiệt thì mới có thể đạt được mục tiêu đó.
Nhưng trong thời gian quán sát và thiền tập ở Phương Bối, tôi thấy thoát ly sinh tử không còn là một viễn vọng nữa.
Sinh tử chỉ là những ý niệm: thoát ly được những ý niệm ấy tức là thoát ly sinh tử.
Tôi thấy ngay rằng việc thoát ly sinh tử nằm trong tầm tay của mình.
Tuy nhiên không phải một sự liễu giải có tính cách tri thức lý luận có thể làm cho ta thoát được ý niệm sinh tử.
Khi bạn bắt đầu thấy được nguyên tắc tương tức tương nhập của vạn tượng, khi bạn bắt đầu hiểu được thế nào là chân không và diệu hữu, bạn mới chỉ gieo vào tâm thức bạn những hạt giống của giải thoát mà thôi. | Những hạt giống này phải nảy nở và trưởng thành theo công phu thiền quán của bạn mới đủ sức làm rạn vỡ ý niệm sinh tử vốn dính liền với muôn vạn ý niệm khác trong sự xây thành ngục tù sinh tử.
Nếu nhà vật lý học chỉ thấy được tính cách tương tức tương thành của các chất tử mà không đi xa hơn tri thức luận lý thì cái thấy của ông chỉ có tính cách trang trí mà thôi, cũng như người học Phật mà không thực hiện thiền quán thì mớ hiểu biết của ông ta chỉ có tính cách trang trí.
Cho nên bạn phải nắm lấy vận mạng của bạn trong tay và "hạ thủ công phu" cho đến lúc các ý niệm sinh tử và hữu vô bật gốc.
Những hình ảnh mà tôi sử dụng để nói chuyện như mặt trời, trái cam, cái ghế, con sâu, chiếc xe đạp, hạt điện tử v.v... đều có thể là những đề tài do đó bạn phăng tới sự thể nghiệm thực tại.
Quán niệm về mặt trời như một trái tim bên ngoài cơ thể bạn, quán niệm về mặt trời trong mỗi tế bào của cơ thể bạn, quán niệm mặt trời như nơi lá rau nuôi dưỡng cơ thể bạn... Bạn sẽ dần dần thấy được "pháp thân", "mặt mũi chân thật" của bạn, và đến khi bạn thấy cái chết và cái sống không động được tới bạn, không làm bạn nao núng nữa, ấy là bạn thành công.
"Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà thương" đó là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
"Sinh tử thường hay ức hiếp nhau, bây giờ không còn làm gì được nhau nữa", đó là ý câu thơ.
Bạn hãy nhìn kỹ để thấy Tuệ Trung nơi mỗi tế bào của cơ thể bạn.
Chiếc lá đưa thẳng vào thực tại vô niệm |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những hạt giống này phải nảy nở và trưởng thành theo công phu thiền quán của bạn mới đủ sức làm rạn vỡ ý niệm sinh tử vốn dính liền với muôn vạn ý niệm khác trong sự xây thành ngục tù sinh tử.
Nếu nhà vật lý học chỉ thấy được tính cách tương tức tương thành của các chất tử mà không đi xa hơn tri thức luận lý thì cái thấy của ông chỉ có tính cách trang trí mà thôi, cũng như người học Phật mà không thực hiện thiền quán thì mớ hiểu biết của ông ta chỉ có tính cách trang trí.
Cho nên bạn phải nắm lấy vận mạng của bạn trong tay và "hạ thủ công phu" cho đến lúc các ý niệm sinh tử và hữu vô bật gốc.
Những hình ảnh mà tôi sử dụng để nói chuyện như mặt trời, trái cam, cái ghế, con sâu, chiếc xe đạp, hạt điện tử v.v... đều có thể là những đề tài do đó bạn phăng tới sự thể nghiệm thực tại.
Quán niệm về mặt trời như một trái tim bên ngoài cơ thể bạn, quán niệm về mặt trời trong mỗi tế bào của cơ thể bạn, quán niệm mặt trời như nơi lá rau nuôi dưỡng cơ thể bạn... Bạn sẽ dần dần thấy được "pháp thân", "mặt mũi chân thật" của bạn, và đến khi bạn thấy cái chết và cái sống không động được tới bạn, không làm bạn nao núng nữa, ấy là bạn thành công.
"Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà thương" đó là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
"Sinh tử thường hay ức hiếp nhau, bây giờ không còn làm gì được nhau nữa", đó là ý câu thơ.
Bạn hãy nhìn kỹ để thấy Tuệ Trung nơi mỗi tế bào của cơ thể bạn.
Chiếc lá đưa thẳng vào thực tại vô niệm | "Sinh tử thường hay ức hiếp nhau, bây giờ không còn làm gì được nhau nữa", đó là ý câu thơ.
Bạn hãy nhìn kỹ để thấy Tuệ Trung nơi mỗi tế bào của cơ thể bạn.
Chiếc lá đưa thẳng vào thực tại vô niệm
Phái thiền Lâm Tế ngày xưa ưa sử dụng công án.
Lợi khí của một công án nằm ở chỗ nó bắt người hành giả nhớ tới nó, và như vậy nó tạo được định lực, được công phu quán niệm thường xuyên.
"Mặt mũi thật của ngươi trước khi cha mẹ ngươi sinh ra ngươi ra sao?"
hoặc "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay" hoặc "Tất cả đi về một, một đi về đâu" là những công án trình bày trong hình thức nghi vấn.
Dấu hỏi có năng lực thu hút sự chú ý.
Những công án khác như "Con chó không có Phật tính" [25], hoặc "Quách nhiên vô thánh" [26], hoặc "Ðầu Trí Tạng bạc, đầu Hoài Hải xanh" [27], tuy không nằm trong hình thái câu hỏi nhưng vẫn có tác dụng tạo ra nghi vấn.
Nghi tình, như vậy, là một yếu tố quan trọng trong lối thiền tập sử dụng công án.
Những công án đưa ra có tác dụng làm rạn nứt khái niệm, nhưng cũng có khi vô tình giam hãm người hành giả quá lâu trong vòng suy tư và lý luận trên căn bản ý niệm.
Thường thì chỉ khi nào đi đến chỗ mệt nhoài và bế tắc cùng cực vì khái niệm, hành giả mới chịu vượt thoát ý niệm.
Nhược điểm của thiền công án là ở chỗ đó.
Người thực hành các phép quán như "tương tức" hoặc "diệu hữu" tuy có thể lấy bất cứ hiện tượng nào làm đối tượng thiền quán nhưng cũng nên sắp đặt để an trú lâu dài với đối tượng ấy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | "Sinh tử thường hay ức hiếp nhau, bây giờ không còn làm gì được nhau nữa", đó là ý câu thơ.
Bạn hãy nhìn kỹ để thấy Tuệ Trung nơi mỗi tế bào của cơ thể bạn.
Chiếc lá đưa thẳng vào thực tại vô niệm
Phái thiền Lâm Tế ngày xưa ưa sử dụng công án.
Lợi khí của một công án nằm ở chỗ nó bắt người hành giả nhớ tới nó, và như vậy nó tạo được định lực, được công phu quán niệm thường xuyên.
"Mặt mũi thật của ngươi trước khi cha mẹ ngươi sinh ra ngươi ra sao?"
hoặc "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay" hoặc "Tất cả đi về một, một đi về đâu" là những công án trình bày trong hình thức nghi vấn.
Dấu hỏi có năng lực thu hút sự chú ý.
Những công án khác như "Con chó không có Phật tính" [25], hoặc "Quách nhiên vô thánh" [26], hoặc "Ðầu Trí Tạng bạc, đầu Hoài Hải xanh" [27], tuy không nằm trong hình thái câu hỏi nhưng vẫn có tác dụng tạo ra nghi vấn.
Nghi tình, như vậy, là một yếu tố quan trọng trong lối thiền tập sử dụng công án.
Những công án đưa ra có tác dụng làm rạn nứt khái niệm, nhưng cũng có khi vô tình giam hãm người hành giả quá lâu trong vòng suy tư và lý luận trên căn bản ý niệm.
Thường thì chỉ khi nào đi đến chỗ mệt nhoài và bế tắc cùng cực vì khái niệm, hành giả mới chịu vượt thoát ý niệm.
Nhược điểm của thiền công án là ở chỗ đó.
Người thực hành các phép quán như "tương tức" hoặc "diệu hữu" tuy có thể lấy bất cứ hiện tượng nào làm đối tượng thiền quán nhưng cũng nên sắp đặt để an trú lâu dài với đối tượng ấy. | Người thực hành các phép quán như "tương tức" hoặc "diệu hữu" tuy có thể lấy bất cứ hiện tượng nào làm đối tượng thiền quán nhưng cũng nên sắp đặt để an trú lâu dài với đối tượng ấy.
Ðề tài không có tính cách "nát óc" (énigmatique) như công án, nhưng nếu thiền giả quyết tâm hạ thủ công phu thì cũng có thể đặt nó đêm ngày trong sự quán chiếu.
Lợi điểm của loại đề tài này (như mặt trời, chiếc lá, con sâu v.v...) là tránh được cho hành giả những ngày giờ phí phạm trong việc sử dụng trí năng để tìm một câu giải đáp không thể có cho những nghi vấn thực ra không phải là những nghi vấn có thể giải đáp bằng trí năng.
Mặt trời, chiếc lá hay con sâu chỉ có thể đưa thẳng hành giả vào thực tại vô niệm.
Tâm vô ngại và cảnh vô ngại
Còn một phép quán quan trọng nữa, gọi là phép quán tâm cảnh viên dung mà công dụng là đánh đổ ý niệm phân biệt tâm vật.
Khi ta nhìn cảnh trời, mây, nước... thì ta phân biệt ba hiện tượng khác nhau.
Nhưng nhận xét kỹ càng hơn, ta thấy không những mây và nước có cùng một thể chất mà cả ba thứ đều không thể tách rời nhau mà hiện hữu.
Khi ta nói: "con rắn làm tôi hoảng sợ", ta thấy con rắn như một hiện tượng vật lý và sự hoảng sợ như một hiện tượng tâm lý.
Pháp quán tâm cảnh viên dung là phương pháp xoá bỏ ý niệm phân biệt có tính cách nhị nguyên ấy.
Nhà toán học Ðức Leibniz nói ông có thể chứng minh rằng không những màu sắc, ánh sáng, nhiệt lượng, mà cả hình thể, dung tích và sự di động của vạn vật nữa, cũng chỉ là những đặc tính mà nhận thức gán cho thực tại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Người thực hành các phép quán như "tương tức" hoặc "diệu hữu" tuy có thể lấy bất cứ hiện tượng nào làm đối tượng thiền quán nhưng cũng nên sắp đặt để an trú lâu dài với đối tượng ấy.
Ðề tài không có tính cách "nát óc" (énigmatique) như công án, nhưng nếu thiền giả quyết tâm hạ thủ công phu thì cũng có thể đặt nó đêm ngày trong sự quán chiếu.
Lợi điểm của loại đề tài này (như mặt trời, chiếc lá, con sâu v.v...) là tránh được cho hành giả những ngày giờ phí phạm trong việc sử dụng trí năng để tìm một câu giải đáp không thể có cho những nghi vấn thực ra không phải là những nghi vấn có thể giải đáp bằng trí năng.
Mặt trời, chiếc lá hay con sâu chỉ có thể đưa thẳng hành giả vào thực tại vô niệm.
Tâm vô ngại và cảnh vô ngại
Còn một phép quán quan trọng nữa, gọi là phép quán tâm cảnh viên dung mà công dụng là đánh đổ ý niệm phân biệt tâm vật.
Khi ta nhìn cảnh trời, mây, nước... thì ta phân biệt ba hiện tượng khác nhau.
Nhưng nhận xét kỹ càng hơn, ta thấy không những mây và nước có cùng một thể chất mà cả ba thứ đều không thể tách rời nhau mà hiện hữu.
Khi ta nói: "con rắn làm tôi hoảng sợ", ta thấy con rắn như một hiện tượng vật lý và sự hoảng sợ như một hiện tượng tâm lý.
Pháp quán tâm cảnh viên dung là phương pháp xoá bỏ ý niệm phân biệt có tính cách nhị nguyên ấy.
Nhà toán học Ðức Leibniz nói ông có thể chứng minh rằng không những màu sắc, ánh sáng, nhiệt lượng, mà cả hình thể, dung tích và sự di động của vạn vật nữa, cũng chỉ là những đặc tính mà nhận thức gán cho thực tại. | Einstein còn đi xa hơn: ông chủ trương cả thời gian lẫn không gian đều là những hình thái của nhận thức chủ quan.. Vào thế kỷ thứ hai mươi, không ai còn có thể chủ trương như Descartes là tâm và vật là hai thực tại riêng biệt có thể tồn tại độc lập với nhau nữa.
Ðơn giản mà nói thì trong mệnh đề "tôi sợ rắn", ta thấy có tôi, có rắn và có sợ.
Sợ là một hiện tượng tâm lý, không có những dính líu đến sinh lý tôi và vật lý rắn, sợ cũng là một hiện tượng trong lưới tương sinh tương duyên của vạn hữu, nghĩa là cùng một thể với vạn hữu.
Hiện tượng sợ bao gồm ý niệm rắn và ý niệm người có thể bị rắn cắn.
Tự thể "khách quan" của rắn và của người ra sao thì ta không quyết chắc được, nhưng sợ là một kinh nghiệm trực tiếp: ta gọi sợ là một tác dụng của tâm.
Theo phép quán tương tức tương nhập, ta thấy "niệm" nào của tâm cũng bao hàm cả vạn hữu vũ trụ.
Niệm tức là một khoảnh khắc của tâm.
Nó có thể là tư tưởng ký ức, cảm giác hay ước vọng.
Cũng như bất cứ hiện tượng nào, nó chứa trong nó thời gian và sự tác động.
Nghiêng về không gian ta có thể tạm gọi nó là một "chất tử" (particule) của tâm.
Nghiêng về thời gian, ta có thể gọi nó là một "hạt thời gian" hay một "sát na".
(Nên để ý: một sát na cũng được gọi là một niệm).
Một niệm của tâm chứa cả quá khứ, hiện tại và vị lai, và dung nhiếp được vạn hữu vũ trụ.
Khi nói đến tâm, ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởng và nhận thức, cũng như khi nói đến vật, ta nghĩ tới những hiện tượng vật lý như núi sông, cây cỏ, động vật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Einstein còn đi xa hơn: ông chủ trương cả thời gian lẫn không gian đều là những hình thái của nhận thức chủ quan.. Vào thế kỷ thứ hai mươi, không ai còn có thể chủ trương như Descartes là tâm và vật là hai thực tại riêng biệt có thể tồn tại độc lập với nhau nữa.
Ðơn giản mà nói thì trong mệnh đề "tôi sợ rắn", ta thấy có tôi, có rắn và có sợ.
Sợ là một hiện tượng tâm lý, không có những dính líu đến sinh lý tôi và vật lý rắn, sợ cũng là một hiện tượng trong lưới tương sinh tương duyên của vạn hữu, nghĩa là cùng một thể với vạn hữu.
Hiện tượng sợ bao gồm ý niệm rắn và ý niệm người có thể bị rắn cắn.
Tự thể "khách quan" của rắn và của người ra sao thì ta không quyết chắc được, nhưng sợ là một kinh nghiệm trực tiếp: ta gọi sợ là một tác dụng của tâm.
Theo phép quán tương tức tương nhập, ta thấy "niệm" nào của tâm cũng bao hàm cả vạn hữu vũ trụ.
Niệm tức là một khoảnh khắc của tâm.
Nó có thể là tư tưởng ký ức, cảm giác hay ước vọng.
Cũng như bất cứ hiện tượng nào, nó chứa trong nó thời gian và sự tác động.
Nghiêng về không gian ta có thể tạm gọi nó là một "chất tử" (particule) của tâm.
Nghiêng về thời gian, ta có thể gọi nó là một "hạt thời gian" hay một "sát na".
(Nên để ý: một sát na cũng được gọi là một niệm).
Một niệm của tâm chứa cả quá khứ, hiện tại và vị lai, và dung nhiếp được vạn hữu vũ trụ.
Khi nói đến tâm, ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởng và nhận thức, cũng như khi nói đến vật, ta nghĩ tới những hiện tượng vật lý như núi sông, cây cỏ, động vật. | Khi nói đến tâm, ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởng và nhận thức, cũng như khi nói đến vật, ta nghĩ tới những hiện tượng vật lý như núi sông, cây cỏ, động vật.
Như vậy là khi ta nói đến tâm hay vật, ta chỉ nghĩ đến hiện tượng (tâm tượng và cảnh tượng) chứ không nói đến tâm thể và vật thể.
Ta đã thấy rằng cả hai hiện tượng (tâm và vật) đều nương nhau mà thành, và thể tính của chúng là sự tương duyên, vậy sao ta không thấy được rằng cả hai loại hiện tượng đều cùng một thể tính?
Thể tính ấy, có người ưa gọi là tâm, có người ưa gọi là vật, có người ưa gọi là chân như, có người ưa gọi là Thượng Đế.
Gọi là gì thì gọi nhưng ta không thể lồng thể tính ấy vào các khuôn thước của ý niệm.
Thể tính ấy có tính cách vô ngại nghĩa là không bị hạn chế, không bị ngăn cản; dung nhiếp tất cả.
Nếu quan niệm nó là một thì gọi nó là pháp thân (dharmakaya).
Nếu quan niệm nó là hai thì gọi nó là "Tâm vô ngại", và "Vật vô ngại".
(Giáo lý Hoa Nghiêm Tông gọi đó là tâm vô ngại và cảnh vô ngại).
Cả hai dung hợp nhau một cách viên mãn cho nên gọi là tâm cảnh viên dung.
Tấm gương lớn tròn đầy
Nhà Vật Lý Học Erwin Schrodinger, trong một bài diễn thuyết về Tâm và Vật tại trường Ðại Học Trinity ở Cambridge năm 1956, có đặt vấn đề tâm thức là một hay là nhiều.
Ông đã đi tới kết luận sau đây: bề ngoài thì hình như có nhiều tâm, sự thực chỉ có một tâm thôi.
Schrodinger đã chịu ảnh hưởng của triết học Vedanta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi nói đến tâm, ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởng và nhận thức, cũng như khi nói đến vật, ta nghĩ tới những hiện tượng vật lý như núi sông, cây cỏ, động vật.
Như vậy là khi ta nói đến tâm hay vật, ta chỉ nghĩ đến hiện tượng (tâm tượng và cảnh tượng) chứ không nói đến tâm thể và vật thể.
Ta đã thấy rằng cả hai hiện tượng (tâm và vật) đều nương nhau mà thành, và thể tính của chúng là sự tương duyên, vậy sao ta không thấy được rằng cả hai loại hiện tượng đều cùng một thể tính?
Thể tính ấy, có người ưa gọi là tâm, có người ưa gọi là vật, có người ưa gọi là chân như, có người ưa gọi là Thượng Đế.
Gọi là gì thì gọi nhưng ta không thể lồng thể tính ấy vào các khuôn thước của ý niệm.
Thể tính ấy có tính cách vô ngại nghĩa là không bị hạn chế, không bị ngăn cản; dung nhiếp tất cả.
Nếu quan niệm nó là một thì gọi nó là pháp thân (dharmakaya).
Nếu quan niệm nó là hai thì gọi nó là "Tâm vô ngại", và "Vật vô ngại".
(Giáo lý Hoa Nghiêm Tông gọi đó là tâm vô ngại và cảnh vô ngại).
Cả hai dung hợp nhau một cách viên mãn cho nên gọi là tâm cảnh viên dung.
Tấm gương lớn tròn đầy
Nhà Vật Lý Học Erwin Schrodinger, trong một bài diễn thuyết về Tâm và Vật tại trường Ðại Học Trinity ở Cambridge năm 1956, có đặt vấn đề tâm thức là một hay là nhiều.
Ông đã đi tới kết luận sau đây: bề ngoài thì hình như có nhiều tâm, sự thực chỉ có một tâm thôi.
Schrodinger đã chịu ảnh hưởng của triết học Vedanta. | Ông đã đi tới kết luận sau đây: bề ngoài thì hình như có nhiều tâm, sự thực chỉ có một tâm thôi.
Schrodinger đã chịu ảnh hưởng của triết học Vedanta.
Ông đã thao thức mãi về cái mà ông gọi là "mâu thuẫn số học" (arithmetical paradox) về tâm.
Như ta đã thấy, ý niệm về một và về nhiều là một khuôn khổ của nhận thức; còn bị nó giam hãm là còn bị cái "mâu thuẫn số học kia giam hãm.
Chỉ có khi nào thấy được tính cách tương tức và tương nhập của thực tại thì ta mới thoát được nó.
Thực tại có tính cách phi nhất phi dị, nghĩa là không phải một cũng không phải nhiều [28].
Cái thực tại tâm cảnh viên dung trong đó chủ thể và đối tượng (tâm và cảnh) dung hợp mầu nhiệm với nhau được Duy Thức Học miêu tả bằng hình ảnh một tấm kính soi, mang trong nó tất cả mọi hình tượng, không hình thì không kính, không kính thì không hình.
Danh từ dùng ở đây là đại viên cảnh trí: tấm gương lớn và tròn đầy của trí tuệ không bị che lấp.
Ðứng về mặt hiện tượng, nó lại được diễn tả như một kho tàng duy trì vạn hữu trong đó người giữ kho (chủ thể) và nội dung kho là một.
Ðó là ý niệm A lại gia (alaya).
Duy Thức Học gán cho A lại gia công dụng duy trì mọi hiện tượng vật lý, sinh lý và tâm lý (đồng thời là nội dung của các hiện tượng ấy) và làm căn bản cho sự phát sinh chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức (tâm và cảnh).
A lại gia không nằm trong khung không thời gian; trái lại không thời gian phát sinh từ nó.
Khái niệm về cảnh (đối tượng nhận thức) rất quan trọng trong Duy Thức Học. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ông đã đi tới kết luận sau đây: bề ngoài thì hình như có nhiều tâm, sự thực chỉ có một tâm thôi.
Schrodinger đã chịu ảnh hưởng của triết học Vedanta.
Ông đã thao thức mãi về cái mà ông gọi là "mâu thuẫn số học" (arithmetical paradox) về tâm.
Như ta đã thấy, ý niệm về một và về nhiều là một khuôn khổ của nhận thức; còn bị nó giam hãm là còn bị cái "mâu thuẫn số học kia giam hãm.
Chỉ có khi nào thấy được tính cách tương tức và tương nhập của thực tại thì ta mới thoát được nó.
Thực tại có tính cách phi nhất phi dị, nghĩa là không phải một cũng không phải nhiều [28].
Cái thực tại tâm cảnh viên dung trong đó chủ thể và đối tượng (tâm và cảnh) dung hợp mầu nhiệm với nhau được Duy Thức Học miêu tả bằng hình ảnh một tấm kính soi, mang trong nó tất cả mọi hình tượng, không hình thì không kính, không kính thì không hình.
Danh từ dùng ở đây là đại viên cảnh trí: tấm gương lớn và tròn đầy của trí tuệ không bị che lấp.
Ðứng về mặt hiện tượng, nó lại được diễn tả như một kho tàng duy trì vạn hữu trong đó người giữ kho (chủ thể) và nội dung kho là một.
Ðó là ý niệm A lại gia (alaya).
Duy Thức Học gán cho A lại gia công dụng duy trì mọi hiện tượng vật lý, sinh lý và tâm lý (đồng thời là nội dung của các hiện tượng ấy) và làm căn bản cho sự phát sinh chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức (tâm và cảnh).
A lại gia không nằm trong khung không thời gian; trái lại không thời gian phát sinh từ nó.
Khái niệm về cảnh (đối tượng nhận thức) rất quan trọng trong Duy Thức Học. | A lại gia không nằm trong khung không thời gian; trái lại không thời gian phát sinh từ nó.
Khái niệm về cảnh (đối tượng nhận thức) rất quan trọng trong Duy Thức Học.
Có ba loại cảnh tánh cảnh, đới chất cảnh và độc ảnh cảnh.
Tánh cảnh là tự thân của thực tại (svabhāva).
Ðới chất cảnh là tánh cảnh đã bị ý niệm chia cắt và đóng khung (sāmānyalaksana).
Ðộc ảnh cảnh là bóng dáng của đới chất cảnh duy trì trong ký ức, có thể phát hiện lại trong nhận thức khi có đủ điều kiện.
Mạt na và liễu biệt cảnh
Từ A Lại gia phát sinh hai loại nhận thức phân biệt gọi là mạt na thức (manyanā) và liễu biệt cảnh thức (vijnapti).
Liễu biệt cảnh thức làm phát hiện cảm giác, tri giác, khái niệm và tư tưởng.
Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ.
Chỉ trong trường hợp cảm giác và tri giác thuần túy và trực tiếp thì đối tượng của nó mới có thể là tánh cảnh.
Trong các trạng thái mơ và mộng, đối tượng của nó chỉ thuần là độc ảnh cảnh.
Như vậy có nghĩa là tuy chất liệu của cảm giác thuần túy là thực tại, hình ảnh của thực tại do khái niệm và suy tưởng xây dựng nên đã là bị méo mó và cắt xén rồi.
Tự thân thực tại là dòng sóng biến động không ngừng, hình ảnh thực tại trong thế giới khái niệm đã trở thành những kiến trúc độc lập trong khuôn khổ thời và không, sinh và diệt, có và không, nhiều và một.
Mạt na thức cũng được phát hiện từ A lại gia.
Nó là một thứ trực giác, trực giác về sự có mặt của một bản ngã tồn tại và độc lập với thế giới van hữu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | A lại gia không nằm trong khung không thời gian; trái lại không thời gian phát sinh từ nó.
Khái niệm về cảnh (đối tượng nhận thức) rất quan trọng trong Duy Thức Học.
Có ba loại cảnh tánh cảnh, đới chất cảnh và độc ảnh cảnh.
Tánh cảnh là tự thân của thực tại (svabhāva).
Ðới chất cảnh là tánh cảnh đã bị ý niệm chia cắt và đóng khung (sāmānyalaksana).
Ðộc ảnh cảnh là bóng dáng của đới chất cảnh duy trì trong ký ức, có thể phát hiện lại trong nhận thức khi có đủ điều kiện.
Mạt na và liễu biệt cảnh
Từ A Lại gia phát sinh hai loại nhận thức phân biệt gọi là mạt na thức (manyanā) và liễu biệt cảnh thức (vijnapti).
Liễu biệt cảnh thức làm phát hiện cảm giác, tri giác, khái niệm và tư tưởng.
Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ.
Chỉ trong trường hợp cảm giác và tri giác thuần túy và trực tiếp thì đối tượng của nó mới có thể là tánh cảnh.
Trong các trạng thái mơ và mộng, đối tượng của nó chỉ thuần là độc ảnh cảnh.
Như vậy có nghĩa là tuy chất liệu của cảm giác thuần túy là thực tại, hình ảnh của thực tại do khái niệm và suy tưởng xây dựng nên đã là bị méo mó và cắt xén rồi.
Tự thân thực tại là dòng sóng biến động không ngừng, hình ảnh thực tại trong thế giới khái niệm đã trở thành những kiến trúc độc lập trong khuôn khổ thời và không, sinh và diệt, có và không, nhiều và một.
Mạt na thức cũng được phát hiện từ A lại gia.
Nó là một thứ trực giác, trực giác về sự có mặt của một bản ngã tồn tại và độc lập với thế giới van hữu. | Mạt na thức cũng được phát hiện từ A lại gia.
Nó là một thứ trực giác, trực giác về sự có mặt của một bản ngã tồn tại và độc lập với thế giới van hữu.
Trực giác này có tính cách tập quán và mê muội.
Tính cách mê vọng của nó được un đúc bởi liễu biệt cảnh thức nhưng nó lại trở thành lưng dựa cho liễu biệt cảnh thức.
Ðối tượng của nó là một mảnh vụn biến hình của a lại gia mà nó cho là cái ta, trong đó có linh hồn và thân xác.
Ðối tượng của nó không bao giờ là tánh cảnh mà chỉ là đới chất cảnh.
Vừa là nhận thức về ngã, mạt na được xem như là chướng ngại căn bản cho sự thể nhập thực tại.
Công phu thiền quán của liễu-biệt-cảnh-thức có thể làm tiêu tán nhận định sai lạc của mạt-na.
Trong liễu-biệt cảnh-thức có tới sáu loại nhận thức: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức.
Ý thức là tác dụng tâm lý hoạt động rộng rãi nhất; khi thì nó hoạt động chung với các thức giác trường hợp tri giác), khi thì nó hoạt động các trường hợp khái niệm, tư duy, tưởng tượng, mơ mộng v.v...) đến sau năm thức cảm giác, nó được gọi là thức thứ sáu.
Mạt na là thức thứ bảy, còn A lại gia là thức thứ tám.
Nhìn thực tại bằng con mắt tuệ
Như trên đã nói, chỉ trong trường hợp cảm giác thuần túy thì đối tượng nhận thức mới là tự thân thực tại.
Nhưng giác quan chỉ có giá trị tương đối, và vì vậy, nội dung của cảm giác dù là tánh cảnh vẫn có tính cách không toàn bộ.
Khoa học cho ta biết, tai và mắt của chúng ta chỉ tiếp xúc được với một phần rất nhỏ những làn sóng từ điện trong vũ trụ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mạt na thức cũng được phát hiện từ A lại gia.
Nó là một thứ trực giác, trực giác về sự có mặt của một bản ngã tồn tại và độc lập với thế giới van hữu.
Trực giác này có tính cách tập quán và mê muội.
Tính cách mê vọng của nó được un đúc bởi liễu biệt cảnh thức nhưng nó lại trở thành lưng dựa cho liễu biệt cảnh thức.
Ðối tượng của nó là một mảnh vụn biến hình của a lại gia mà nó cho là cái ta, trong đó có linh hồn và thân xác.
Ðối tượng của nó không bao giờ là tánh cảnh mà chỉ là đới chất cảnh.
Vừa là nhận thức về ngã, mạt na được xem như là chướng ngại căn bản cho sự thể nhập thực tại.
Công phu thiền quán của liễu-biệt-cảnh-thức có thể làm tiêu tán nhận định sai lạc của mạt-na.
Trong liễu-biệt cảnh-thức có tới sáu loại nhận thức: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và ý thức.
Ý thức là tác dụng tâm lý hoạt động rộng rãi nhất; khi thì nó hoạt động chung với các thức giác trường hợp tri giác), khi thì nó hoạt động các trường hợp khái niệm, tư duy, tưởng tượng, mơ mộng v.v...) đến sau năm thức cảm giác, nó được gọi là thức thứ sáu.
Mạt na là thức thứ bảy, còn A lại gia là thức thứ tám.
Nhìn thực tại bằng con mắt tuệ
Như trên đã nói, chỉ trong trường hợp cảm giác thuần túy thì đối tượng nhận thức mới là tự thân thực tại.
Nhưng giác quan chỉ có giá trị tương đối, và vì vậy, nội dung của cảm giác dù là tánh cảnh vẫn có tính cách không toàn bộ.
Khoa học cho ta biết, tai và mắt của chúng ta chỉ tiếp xúc được với một phần rất nhỏ những làn sóng từ điện trong vũ trụ. | Khoa học cho ta biết, tai và mắt của chúng ta chỉ tiếp xúc được với một phần rất nhỏ những làn sóng từ điện trong vũ trụ.
Các làn sóng có tần số lớn như các tia quang xạ (rayons du radium), các tia vũ trụ (rayons cosmiques) và cả những làn sóng vô tuyến điện thoại (ondes radiophoniques) nữa đầy dẫy trong không gian mà tai ta có bắt được đâu.
Ánh sáng cũng chỉ là những làn sóng, chỉ khác với những làn sóng âm thanh về tần số mà thôi.
Các tia hồng ngoại đối với mắt ta có tần số hơi ngắn cho nên ta không trông thấy được.
Tần số của tia X còn ngắn hơn của tia tử ngoại nhiều, cho nên ta cũng không trông thấy.
Giá mà ta trông thấy được quang tuyến X thì cảnh tượng của vũ trụ sẽ khác lạ vô cùng với cảnh tượng mà ta đương thấy hàng ngày.
Trong các loài động vật sống chung với ta trên mặt đất, có những loài mà giác quan có thể tiếp nhận được thực tại rộng rãi hơn giác quan của loài người.
Chân tướng toàn vẹn của vũ trụ vì vậy phải được nhìn bằng con mắt tuệ (tuệ nhãn), mà con mắt này chỉ mở ra khi gốc rễ của ý niệm và chấp trước bật tung.
Ðó là lúc a-lại-gia hiển hiện như một tấm gương tròn sáng soi tỏ vạn hữu.
Ðó là trường hợp đại viên cảnh trí [29].
A-lại-gia là một hay là nhiều
Ðến đây có thể có người sẽ hỏi: "Như vậy là mỗi người có một a-lại-gia riêng, hay là tất cả đều có chung một a-lại-gia?"
Câu hỏi này, chắc bạn đã biết, chứng tỏ người hỏi chưa thấy được tính cách tương tức và tương nhập của vạn tượng, mà còn lúng túng trong cái mà Schrodinger gọi là "mâu thuẫn số học". |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khoa học cho ta biết, tai và mắt của chúng ta chỉ tiếp xúc được với một phần rất nhỏ những làn sóng từ điện trong vũ trụ.
Các làn sóng có tần số lớn như các tia quang xạ (rayons du radium), các tia vũ trụ (rayons cosmiques) và cả những làn sóng vô tuyến điện thoại (ondes radiophoniques) nữa đầy dẫy trong không gian mà tai ta có bắt được đâu.
Ánh sáng cũng chỉ là những làn sóng, chỉ khác với những làn sóng âm thanh về tần số mà thôi.
Các tia hồng ngoại đối với mắt ta có tần số hơi ngắn cho nên ta không trông thấy được.
Tần số của tia X còn ngắn hơn của tia tử ngoại nhiều, cho nên ta cũng không trông thấy.
Giá mà ta trông thấy được quang tuyến X thì cảnh tượng của vũ trụ sẽ khác lạ vô cùng với cảnh tượng mà ta đương thấy hàng ngày.
Trong các loài động vật sống chung với ta trên mặt đất, có những loài mà giác quan có thể tiếp nhận được thực tại rộng rãi hơn giác quan của loài người.
Chân tướng toàn vẹn của vũ trụ vì vậy phải được nhìn bằng con mắt tuệ (tuệ nhãn), mà con mắt này chỉ mở ra khi gốc rễ của ý niệm và chấp trước bật tung.
Ðó là lúc a-lại-gia hiển hiện như một tấm gương tròn sáng soi tỏ vạn hữu.
Ðó là trường hợp đại viên cảnh trí [29].
A-lại-gia là một hay là nhiều
Ðến đây có thể có người sẽ hỏi: "Như vậy là mỗi người có một a-lại-gia riêng, hay là tất cả đều có chung một a-lại-gia?"
Câu hỏi này, chắc bạn đã biết, chứng tỏ người hỏi chưa thấy được tính cách tương tức và tương nhập của vạn tượng, mà còn lúng túng trong cái mà Schrodinger gọi là "mâu thuẫn số học". | Câu hỏi này, chắc bạn đã biết, chứng tỏ người hỏi chưa thấy được tính cách tương tức và tương nhập của vạn tượng, mà còn lúng túng trong cái mà Schrodinger gọi là "mâu thuẫn số học".
Nhưng người đó có thể hỏi tiếp: "Nếu a-lại-gia không có tính cách cá biệt thì làm sao có ký ức riêng của từng người?
Không lý nhờ đứa trẻ này học bài mà đứa trẻ kia thuộc?"
Thật ra trên mặt nước có những đợt sóng, và tuy không thể tồn tại ngoài nước, sóng vẫn có tướng trạng và vị trí của mình.
Trong một dòng sông, có thể có nhiều con nước, nhưng tất cả các con nước ấy đều là một dòng sông.
Trên mặt biển hiện tượng, ta thấy nhiều gợn sóng lăn tăn; những gợn sóng này nương vào nhau mà tương thành tương hoại.
Ký ức của một con người không phải là kho tàng riêng biệt.
Nó là một thực tại sinh động liên hệ đến tất cả các thực tại sinh động khác, biến chuyển vào ra không ngừng.
Chính thân thể ta cũng vậy.
Tất cả đều là thực tại, mà thực tại thì thoát ra ngoài tính cách một và nhiều.
Quán chiếu pháp thân
Tất cả những trình bày trên kia của Duy Thức đều chỉ là những khái niệm có tính cách hướng dẫn thiền tập hơn là có tính cách mô tả thực tại.
Những hiện tượng mà ta gọi là thức thứ sáu, thức thứ bảy, tánh cảnh, độc ảnh cảnh kia, ta phải nhớ, không phải là những hiện tượng độc lập với nhau và với không thời gian.
Một độc ảnh như hình tượng phát hiện trong giấc mơ cũng là một thực tại và hàm chứa sự có mặt của vạn vật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Câu hỏi này, chắc bạn đã biết, chứng tỏ người hỏi chưa thấy được tính cách tương tức và tương nhập của vạn tượng, mà còn lúng túng trong cái mà Schrodinger gọi là "mâu thuẫn số học".
Nhưng người đó có thể hỏi tiếp: "Nếu a-lại-gia không có tính cách cá biệt thì làm sao có ký ức riêng của từng người?
Không lý nhờ đứa trẻ này học bài mà đứa trẻ kia thuộc?"
Thật ra trên mặt nước có những đợt sóng, và tuy không thể tồn tại ngoài nước, sóng vẫn có tướng trạng và vị trí của mình.
Trong một dòng sông, có thể có nhiều con nước, nhưng tất cả các con nước ấy đều là một dòng sông.
Trên mặt biển hiện tượng, ta thấy nhiều gợn sóng lăn tăn; những gợn sóng này nương vào nhau mà tương thành tương hoại.
Ký ức của một con người không phải là kho tàng riêng biệt.
Nó là một thực tại sinh động liên hệ đến tất cả các thực tại sinh động khác, biến chuyển vào ra không ngừng.
Chính thân thể ta cũng vậy.
Tất cả đều là thực tại, mà thực tại thì thoát ra ngoài tính cách một và nhiều.
Quán chiếu pháp thân
Tất cả những trình bày trên kia của Duy Thức đều chỉ là những khái niệm có tính cách hướng dẫn thiền tập hơn là có tính cách mô tả thực tại.
Những hiện tượng mà ta gọi là thức thứ sáu, thức thứ bảy, tánh cảnh, độc ảnh cảnh kia, ta phải nhớ, không phải là những hiện tượng độc lập với nhau và với không thời gian.
Một độc ảnh như hình tượng phát hiện trong giấc mơ cũng là một thực tại và hàm chứa sự có mặt của vạn vật. | Một độc ảnh như hình tượng phát hiện trong giấc mơ cũng là một thực tại và hàm chứa sự có mặt của vạn vật.
Ta thường nghĩ hình ảnh một nàng tiên ta gặp trong giấc mơ là một hình ảnh không có thực chất bởi vì ta không nắm được cái "chất" của nàng tiên ấy.
Nhưng hình ảnh của những kẻ nói cười mà ta thấy trên màn ảnh cũng có thực chất đâu, ta có sờ mó được "chất" của chúng đâu.
Tuy vậy nó có thực chất.
Thực chất của nó là vạn hữu trong vũ trụ.
Sự có mặt của một ảo tưởng kéo theo sự có mặt của vạn hữu.
Chính vì có vạn hữu nên có nó.
Do đó tính cách diệu hữu của nó cũng đồng với với tính cách diệu hữu của một chất điểm.
Chất điểm trong khoa học bây giờ không có tính cách rắn chắc và "thực hữu" như óc ta tưởng tượng.
Như ta đã thấy, khi ý thức (thức thứ sáu) an trú trong định thì nó không hoạt động tạo tác ("construire, façonner") nữa mà bắt đầu thể nghiệm thực tại trong tự thân thực tại.
Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì, vì vậy ta đừng tưởng tượng rằng ta có thể đưa ý thức về trạng thái "thuần túy" không có đối tượng.
Ý thức không đối tượng là ý thức không hiện hành, không hoạt động, tiềm phục trong a-lại-gia như sóng tiềm phục trong nước, nghĩa là không có sóng trong lúc ấy.
Có một thứ định gọi là vô tâm định (có thể gọi là vô tâm tam muội, vô tưởng định hoặc diệt tận định) trong đó ý thức không còn hoạt động nữa mà thiền giả có thể đạt tới trong khi tọa thiền.
Trong những giấc ngủ hoàn toàn không có mộng mị, ý thức cũng trở về tiềm phục trong a-lại-gia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Một độc ảnh như hình tượng phát hiện trong giấc mơ cũng là một thực tại và hàm chứa sự có mặt của vạn vật.
Ta thường nghĩ hình ảnh một nàng tiên ta gặp trong giấc mơ là một hình ảnh không có thực chất bởi vì ta không nắm được cái "chất" của nàng tiên ấy.
Nhưng hình ảnh của những kẻ nói cười mà ta thấy trên màn ảnh cũng có thực chất đâu, ta có sờ mó được "chất" của chúng đâu.
Tuy vậy nó có thực chất.
Thực chất của nó là vạn hữu trong vũ trụ.
Sự có mặt của một ảo tưởng kéo theo sự có mặt của vạn hữu.
Chính vì có vạn hữu nên có nó.
Do đó tính cách diệu hữu của nó cũng đồng với với tính cách diệu hữu của một chất điểm.
Chất điểm trong khoa học bây giờ không có tính cách rắn chắc và "thực hữu" như óc ta tưởng tượng.
Như ta đã thấy, khi ý thức (thức thứ sáu) an trú trong định thì nó không hoạt động tạo tác ("construire, façonner") nữa mà bắt đầu thể nghiệm thực tại trong tự thân thực tại.
Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì, vì vậy ta đừng tưởng tượng rằng ta có thể đưa ý thức về trạng thái "thuần túy" không có đối tượng.
Ý thức không đối tượng là ý thức không hiện hành, không hoạt động, tiềm phục trong a-lại-gia như sóng tiềm phục trong nước, nghĩa là không có sóng trong lúc ấy.
Có một thứ định gọi là vô tâm định (có thể gọi là vô tâm tam muội, vô tưởng định hoặc diệt tận định) trong đó ý thức không còn hoạt động nữa mà thiền giả có thể đạt tới trong khi tọa thiền.
Trong những giấc ngủ hoàn toàn không có mộng mị, ý thức cũng trở về tiềm phục trong a-lại-gia. | Trong những giấc ngủ hoàn toàn không có mộng mị, ý thức cũng trở về tiềm phục trong a-lại-gia.
Trong lúc thiền quán, thiền giả tập trung sức quán niệm (niệm lực) trên một đối tượng hoặc của ý thức độc lập hoặc của ý thức trong trường hợp cảm giác thuần túy) và như vậy là định lực bắt đầu phát hiện.
Thiền giả duy trì sức tập trung ấy của ý thức trên đối tượng, nghĩa là trên chính ý thức, cũng như ánh sáng mặt trời liên tục soi trên mặt tuyết hoặc trên lá cây.
Sự quán chiếu này không phải là một sự quán chiếu vô tri, trái lại, thiền giả rất minh mẫn.
Y có thể ghép đối tượng của y vào hơi thở để duy trì sự tập trung của ý thức.
Y có thể lấy một chiếc lá làm đối tượng quán niệm và thấy qua chiếc lá ấy thế giới tâm cảnh viên dung.
Y có thể lấy sự có mặt của mặt trời trong cơ thể y làm đối tượng quán niệm và đi tới kinh nghiệm pháp thân không sinh không diệt.
Trong lúc quán tưởng, y vẫn dùng quán niệm để thấy được tự tính tương tức và tương nhập của thực tại, có ý thức rằng sự quán niệm này không có tính cách tạo tác của ý niệm mà là phương tiện phá vỡ ý niệm.
Tất cả là để đi tới (ngay trong tự tâm và tự thân y) kinh nghiệm trực tiếp về thực tại mà duy thức học gọi là thực tính duy thức (vijñaptimātratā).
Từ y tha khởi đi vào viên thành thật
Phép quán tam tự tính của duy thức cũng không khác mấy với phép quán trùng trùng duyên khởi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong những giấc ngủ hoàn toàn không có mộng mị, ý thức cũng trở về tiềm phục trong a-lại-gia.
Trong lúc thiền quán, thiền giả tập trung sức quán niệm (niệm lực) trên một đối tượng hoặc của ý thức độc lập hoặc của ý thức trong trường hợp cảm giác thuần túy) và như vậy là định lực bắt đầu phát hiện.
Thiền giả duy trì sức tập trung ấy của ý thức trên đối tượng, nghĩa là trên chính ý thức, cũng như ánh sáng mặt trời liên tục soi trên mặt tuyết hoặc trên lá cây.
Sự quán chiếu này không phải là một sự quán chiếu vô tri, trái lại, thiền giả rất minh mẫn.
Y có thể ghép đối tượng của y vào hơi thở để duy trì sự tập trung của ý thức.
Y có thể lấy một chiếc lá làm đối tượng quán niệm và thấy qua chiếc lá ấy thế giới tâm cảnh viên dung.
Y có thể lấy sự có mặt của mặt trời trong cơ thể y làm đối tượng quán niệm và đi tới kinh nghiệm pháp thân không sinh không diệt.
Trong lúc quán tưởng, y vẫn dùng quán niệm để thấy được tự tính tương tức và tương nhập của thực tại, có ý thức rằng sự quán niệm này không có tính cách tạo tác của ý niệm mà là phương tiện phá vỡ ý niệm.
Tất cả là để đi tới (ngay trong tự tâm và tự thân y) kinh nghiệm trực tiếp về thực tại mà duy thức học gọi là thực tính duy thức (vijñaptimātratā).
Từ y tha khởi đi vào viên thành thật
Phép quán tam tự tính của duy thức cũng không khác mấy với phép quán trùng trùng duyên khởi. | Từ y tha khởi đi vào viên thành thật
Phép quán tam tự tính của duy thức cũng không khác mấy với phép quán trùng trùng duyên khởi.
Ban đầu người hành giả cũng phải quán sát về tính cách tương quan tương duyên của vạn vật - tính cách y tha khởi - để được thấy rằng hình ảnh của thực tại trong nhận thức y là sai lầm, bởi vì đã được xây dựng trong khuôn khổ các ý niệm sinh diệt, một nhiều, không gian, thời gian, v.v... Hình ảnh đó sai lạc vì có tính cách biến kế chấp.
Quán sát thực tại bằng ý thức y tha khởi, dần dần hành giả thoát khỏi lưới ngã chấp và pháp chấp trong nhận thức ý thức.
Tuy vậy tiềm tàng trong a-lại-gia của y vẫn còn những gốc rễ của các kiến chấp ấy gọi là tùy miên (anuśaya) mà y chỉ có thể làm tiêu tán nếu y thực tập quán niệm thường trực trong đời sống hàng ngày để có thể thực sự sống từng giây từng phút trong nhận thức tương duyên của vạn vật.
Khi hành giả đã thực sự sống trong hòa điệu đại đồng rồi thì y không cần đến ý niệm y tha khởi nữa, như người đã qua bờ không còn cần tới chiếc thuyền.
Bây giờ người ấy an trú trong tự tính duy thức, tự tính này là viên thành thật.
Ðó chính là thế giới của chân như, của tâm cảnh viên dung.
Từ sự đến lý, lý sự viên thông
Thế giới ấy, ta không cần phải thực hiện, bởi chân như đã "như thế" từ bao giờ, nghĩa là không thời gian mà thế này hay thế khác.
Ðó là thế giới mà Hoa Nghiêm tông gọi là lý pháp giới, thế giới của bản thể. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Từ y tha khởi đi vào viên thành thật
Phép quán tam tự tính của duy thức cũng không khác mấy với phép quán trùng trùng duyên khởi.
Ban đầu người hành giả cũng phải quán sát về tính cách tương quan tương duyên của vạn vật - tính cách y tha khởi - để được thấy rằng hình ảnh của thực tại trong nhận thức y là sai lầm, bởi vì đã được xây dựng trong khuôn khổ các ý niệm sinh diệt, một nhiều, không gian, thời gian, v.v... Hình ảnh đó sai lạc vì có tính cách biến kế chấp.
Quán sát thực tại bằng ý thức y tha khởi, dần dần hành giả thoát khỏi lưới ngã chấp và pháp chấp trong nhận thức ý thức.
Tuy vậy tiềm tàng trong a-lại-gia của y vẫn còn những gốc rễ của các kiến chấp ấy gọi là tùy miên (anuśaya) mà y chỉ có thể làm tiêu tán nếu y thực tập quán niệm thường trực trong đời sống hàng ngày để có thể thực sự sống từng giây từng phút trong nhận thức tương duyên của vạn vật.
Khi hành giả đã thực sự sống trong hòa điệu đại đồng rồi thì y không cần đến ý niệm y tha khởi nữa, như người đã qua bờ không còn cần tới chiếc thuyền.
Bây giờ người ấy an trú trong tự tính duy thức, tự tính này là viên thành thật.
Ðó chính là thế giới của chân như, của tâm cảnh viên dung.
Từ sự đến lý, lý sự viên thông
Thế giới ấy, ta không cần phải thực hiện, bởi chân như đã "như thế" từ bao giờ, nghĩa là không thời gian mà thế này hay thế khác.
Ðó là thế giới mà Hoa Nghiêm tông gọi là lý pháp giới, thế giới của bản thể. | Ðó là thế giới mà Hoa Nghiêm tông gọi là lý pháp giới, thế giới của bản thể.
Thế giới mà ta tiếp xúc hàng ngày trong đó có núi có sông, có cây cỏ, có muôn vật, vật nào có vị trí của vật ấy, được gọi là sự pháp giới, thế giới của hiện tượng.
Nhưng hai thế giới ấy không phải là hai thế giới cách biệt: thể và tướng dung thông lẫn nhau, như nước và sóng, cho nên cả hai có thể được gọi chung là lý sự vô ngại pháp giới, nghĩa là thế giới trong đó bản thể và hiện tượng tương dung.
Tuy nhiên, sự tương dung này có thể thấy được ngay trong lòng thế giới hiện tượng, nơi mà một hiện tượng là tất cả các hiện tượng, nơi mà một là tất cả, và tất cả là một.
Thế giới này gọi là sự vô ngại pháp giới.
Ðó là đại khái về ý nghĩa bốn pháp giới rất phổ biến trong Hoa Nghiêm tông.
Thiền sư Pháp Tạng đời Ðường, một tư tưởng gia cự phách của tông này có làm ra sách Vọng Tận Hoàng Nguyên Quán (kinh thứ 1876 trong Ðại Tạng Tân Tu) nói về những phương pháp thiền quán có thể giúp người trừ diệt vọng kiến để trở về nguồn, tức là nhận thức hoàn hảo về thế giới của chân như.
Gần dây, có một nhà vật lý học tên David Bohm đưa ra thuyết "thế giới dung nhiếp và thế giới biểu hiện" (The implicate order and the explicate order) đi rất sát với ý niệm sự vô ngại pháp giới.
Ông nói rằng những sự vật mà ta nhận thức như có sự hiện hữu độc lập kia thuộc về thế giới biểu hiện (the explicate order) trong đó, cái này hình như hiện hữu bên ngoài cái kia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ðó là thế giới mà Hoa Nghiêm tông gọi là lý pháp giới, thế giới của bản thể.
Thế giới mà ta tiếp xúc hàng ngày trong đó có núi có sông, có cây cỏ, có muôn vật, vật nào có vị trí của vật ấy, được gọi là sự pháp giới, thế giới của hiện tượng.
Nhưng hai thế giới ấy không phải là hai thế giới cách biệt: thể và tướng dung thông lẫn nhau, như nước và sóng, cho nên cả hai có thể được gọi chung là lý sự vô ngại pháp giới, nghĩa là thế giới trong đó bản thể và hiện tượng tương dung.
Tuy nhiên, sự tương dung này có thể thấy được ngay trong lòng thế giới hiện tượng, nơi mà một hiện tượng là tất cả các hiện tượng, nơi mà một là tất cả, và tất cả là một.
Thế giới này gọi là sự vô ngại pháp giới.
Ðó là đại khái về ý nghĩa bốn pháp giới rất phổ biến trong Hoa Nghiêm tông.
Thiền sư Pháp Tạng đời Ðường, một tư tưởng gia cự phách của tông này có làm ra sách Vọng Tận Hoàng Nguyên Quán (kinh thứ 1876 trong Ðại Tạng Tân Tu) nói về những phương pháp thiền quán có thể giúp người trừ diệt vọng kiến để trở về nguồn, tức là nhận thức hoàn hảo về thế giới của chân như.
Gần dây, có một nhà vật lý học tên David Bohm đưa ra thuyết "thế giới dung nhiếp và thế giới biểu hiện" (The implicate order and the explicate order) đi rất sát với ý niệm sự vô ngại pháp giới.
Ông nói rằng những sự vật mà ta nhận thức như có sự hiện hữu độc lập kia thuộc về thế giới biểu hiện (the explicate order) trong đó, cái này hình như hiện hữu bên ngoài cái kia. | Ông nói rằng những sự vật mà ta nhận thức như có sự hiện hữu độc lập kia thuộc về thế giới biểu hiện (the explicate order) trong đó, cái này hình như hiện hữu bên ngoài cái kia.
Nhưng xét cho kỹ thì thấy vật nào cũng liên hệ tới toàn vũ trụ, và từ một chất điểm ta có thể thấy được cả vũ trụ hàm nhiếp trong nó và tạo thành nó.
Cái nhìn này đưa đến ý niệm về một thế giới dung nhiếp (the implicate order) trong đó "thời gian và không gian không còn là những yếu tố chỉ định những liên hệ độc lập hoặc không độc lập giữa các vật thể nữa".
[30]
Khoa học ngày nay, theo ông, phải đi từ cái toàn thể của thế giới dung nhiếp mới thấy được chân tướng của từng vật thể.
Tại cuộc tọa đàm Cordoue, ông đã nói về chất tử: "L'électron est toujours la totalité" (điện tử bao hàm tất cả).
Quan niệm của Bohm như vậy rất gần với quan niệm "một là tất cả" của giáo lý Hoa Nghiêm.
Nếu nhà Khoa Học này chịu đi xa hơn việc khảo cứu và trình bày lý thuyết vật lý, và thực hiện thiền quán trong tự thân và tự tâm, ông sẽ có thể đạt được nhiều thành quả bất ngờ và đẩy vật lý học đi tới những bước rất lớn.
Chương 5: Con hãy nhìn bàn tay con
Chánh niệm cho ta niềm vui trong sáng
Sáng hôm nay trời trong và ấm, tôi ra vườn cắm nè cho những hàng dậu mới lên và cắm thêm vài hàng cây xà lách con.
Bé Thanh Thủy đi học sau khi ăn chén cơm rang tôi làm cho nó.
Khi tôi trở vào rửa tay thì ông bạn học Thiền đã dậy, đang đánh răng súc miệng trong phòng tắm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ông nói rằng những sự vật mà ta nhận thức như có sự hiện hữu độc lập kia thuộc về thế giới biểu hiện (the explicate order) trong đó, cái này hình như hiện hữu bên ngoài cái kia.
Nhưng xét cho kỹ thì thấy vật nào cũng liên hệ tới toàn vũ trụ, và từ một chất điểm ta có thể thấy được cả vũ trụ hàm nhiếp trong nó và tạo thành nó.
Cái nhìn này đưa đến ý niệm về một thế giới dung nhiếp (the implicate order) trong đó "thời gian và không gian không còn là những yếu tố chỉ định những liên hệ độc lập hoặc không độc lập giữa các vật thể nữa".
[30]
Khoa học ngày nay, theo ông, phải đi từ cái toàn thể của thế giới dung nhiếp mới thấy được chân tướng của từng vật thể.
Tại cuộc tọa đàm Cordoue, ông đã nói về chất tử: "L'électron est toujours la totalité" (điện tử bao hàm tất cả).
Quan niệm của Bohm như vậy rất gần với quan niệm "một là tất cả" của giáo lý Hoa Nghiêm.
Nếu nhà Khoa Học này chịu đi xa hơn việc khảo cứu và trình bày lý thuyết vật lý, và thực hiện thiền quán trong tự thân và tự tâm, ông sẽ có thể đạt được nhiều thành quả bất ngờ và đẩy vật lý học đi tới những bước rất lớn.
Chương 5: Con hãy nhìn bàn tay con
Chánh niệm cho ta niềm vui trong sáng
Sáng hôm nay trời trong và ấm, tôi ra vườn cắm nè cho những hàng dậu mới lên và cắm thêm vài hàng cây xà lách con.
Bé Thanh Thủy đi học sau khi ăn chén cơm rang tôi làm cho nó.
Khi tôi trở vào rửa tay thì ông bạn học Thiền đã dậy, đang đánh răng súc miệng trong phòng tắm. | Bé Thanh Thủy đi học sau khi ăn chén cơm rang tôi làm cho nó.
Khi tôi trở vào rửa tay thì ông bạn học Thiền đã dậy, đang đánh răng súc miệng trong phòng tắm.
Tôi đi nấu một ấm trà và mang để trên chiếc bàn gỗ trên sân sạn, đợi ông ta ra.
Chúng tôi ngồi uống trà dưới ánh nắng ấm áp.
Ông bạn hỏi tôi về cách kiểm điểm những thành quả của công phu thiền quán.
Tôi nói rằng sự trầm tĩnh và sự an lạc là hai cái thước đo tốt nhất.
Nếu không có tiến bộ về hai phía ấy tức là có thể có những chỗ kẹt trong công phu.
Có người nói đến thiền quán mà không có thầy chỉ dạy có thể đi đến chỗ điên loạn.
Nhưng gặp được một vị minh sư thì hiếm lắm.
Minh sư thì hiếm, mà "bất minh sư" thì nhiều.
Chi bằng ta hãy nương tựa ông thầy nơi chính mỗi chúng ta khi ta chưa có duyên gặp một minh sư đúng nghĩa của nó.
Muốn tránh được sự điên loạn, bạn đừng vội vã muốn đi vào những trạng thái thiền định có tính cách "xuất thần", trái lại hãy dè chừng.
Những phép thiền như tứ không định không phải là những giai đoạn thiết yếu mà bạn phải trải qua.
Ðừng bao giờ tự ép uổng thân xác hoặc tâm thức bạn.
Phải sống thật bình thường và tỉnh táo.
Những dòng tôi nói về chánh niệm rất thực dụng và cần thiết, bạn nên đọc lại.
Ðó là công phu hàng ngày.
Có chánh niệm là có tất cả.
Những gì tôi nói trong phần sau của tập sách này, liên hệ tới tam tánh, bát thức, tứ pháp giới v.v... bạn có thể mở ra xem trở lại lúc nào cũng được, không nhất thiết là cần thiết trước khi bạn đi vào công việc thực tập. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bé Thanh Thủy đi học sau khi ăn chén cơm rang tôi làm cho nó.
Khi tôi trở vào rửa tay thì ông bạn học Thiền đã dậy, đang đánh răng súc miệng trong phòng tắm.
Tôi đi nấu một ấm trà và mang để trên chiếc bàn gỗ trên sân sạn, đợi ông ta ra.
Chúng tôi ngồi uống trà dưới ánh nắng ấm áp.
Ông bạn hỏi tôi về cách kiểm điểm những thành quả của công phu thiền quán.
Tôi nói rằng sự trầm tĩnh và sự an lạc là hai cái thước đo tốt nhất.
Nếu không có tiến bộ về hai phía ấy tức là có thể có những chỗ kẹt trong công phu.
Có người nói đến thiền quán mà không có thầy chỉ dạy có thể đi đến chỗ điên loạn.
Nhưng gặp được một vị minh sư thì hiếm lắm.
Minh sư thì hiếm, mà "bất minh sư" thì nhiều.
Chi bằng ta hãy nương tựa ông thầy nơi chính mỗi chúng ta khi ta chưa có duyên gặp một minh sư đúng nghĩa của nó.
Muốn tránh được sự điên loạn, bạn đừng vội vã muốn đi vào những trạng thái thiền định có tính cách "xuất thần", trái lại hãy dè chừng.
Những phép thiền như tứ không định không phải là những giai đoạn thiết yếu mà bạn phải trải qua.
Ðừng bao giờ tự ép uổng thân xác hoặc tâm thức bạn.
Phải sống thật bình thường và tỉnh táo.
Những dòng tôi nói về chánh niệm rất thực dụng và cần thiết, bạn nên đọc lại.
Ðó là công phu hàng ngày.
Có chánh niệm là có tất cả.
Những gì tôi nói trong phần sau của tập sách này, liên hệ tới tam tánh, bát thức, tứ pháp giới v.v... bạn có thể mở ra xem trở lại lúc nào cũng được, không nhất thiết là cần thiết trước khi bạn đi vào công việc thực tập. | Một phút thiền quán phải là một phút thoải mái, thanh tịnh và an lạc.
Nếu thấy thiền quán là một cực hình, thì đó là người ta đã đi qua một cảnh giới sai lầm.
Thiền quán cho ta sự hỷ lạc, nghĩa là một niềm vui.
Niềm vui đó, trước tiên là do ta trở về làm chủ lấy ta, không để bị lôi kéo vào quên lãng (thất niệm).
Nắm được hơi thở, nở được nụ cười, động tác thân thể trở nên thung dung, cảm giác và tư tưởng an trú nơi chánh niệm: niềm vui chân thật đến từ những cái ấy.
Giữ cho tâm mình có mặt trong mỗi phút giây của hiện tại, đó là công phu thiết yếu nhất của thiền quán.
Do công phu thực tập này, không những ta có thể sống đầy đủ, sáng suốt và thâm sâu đời sống của ta mà còn phát hiện những điều mà kẻ khác, vì thất niệm, không thể thấy.
Tạo điều kiện cho nếp sống chánh niệm
Trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức xuất bản vào khoảng mười năm về trước, tôi có đề nghị trên ba mươi phương pháp thiền tập về chánh niệm, trong đó có phương pháp tổ chức một ngày quán niệm mỗi tuần.
Nếu bạn muốn có những chỉ dẫn tường tận, xin tìm xem cuốn ấy, vốn đã được in thành nhiều thứ tiếng.
Ðó là một cuốn sách mỏng, rất dễ đọc và có cách tính thực dụng.
Hiện tôi vẫn còn sống theo những điều nói trong sách.
Cuốn sách đó tuy mỏng, bạn có thể đọc nhiều lần, bởi vì mỗi lần đọc bạn lại có dịp nhìn lại quãng đường thực tập đã qua và phát kiến những điều mới, không phải trong sách mà chính là trong kinh nghiệm tâm linh của bạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Một phút thiền quán phải là một phút thoải mái, thanh tịnh và an lạc.
Nếu thấy thiền quán là một cực hình, thì đó là người ta đã đi qua một cảnh giới sai lầm.
Thiền quán cho ta sự hỷ lạc, nghĩa là một niềm vui.
Niềm vui đó, trước tiên là do ta trở về làm chủ lấy ta, không để bị lôi kéo vào quên lãng (thất niệm).
Nắm được hơi thở, nở được nụ cười, động tác thân thể trở nên thung dung, cảm giác và tư tưởng an trú nơi chánh niệm: niềm vui chân thật đến từ những cái ấy.
Giữ cho tâm mình có mặt trong mỗi phút giây của hiện tại, đó là công phu thiết yếu nhất của thiền quán.
Do công phu thực tập này, không những ta có thể sống đầy đủ, sáng suốt và thâm sâu đời sống của ta mà còn phát hiện những điều mà kẻ khác, vì thất niệm, không thể thấy.
Tạo điều kiện cho nếp sống chánh niệm
Trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức xuất bản vào khoảng mười năm về trước, tôi có đề nghị trên ba mươi phương pháp thiền tập về chánh niệm, trong đó có phương pháp tổ chức một ngày quán niệm mỗi tuần.
Nếu bạn muốn có những chỉ dẫn tường tận, xin tìm xem cuốn ấy, vốn đã được in thành nhiều thứ tiếng.
Ðó là một cuốn sách mỏng, rất dễ đọc và có cách tính thực dụng.
Hiện tôi vẫn còn sống theo những điều nói trong sách.
Cuốn sách đó tuy mỏng, bạn có thể đọc nhiều lần, bởi vì mỗi lần đọc bạn lại có dịp nhìn lại quãng đường thực tập đã qua và phát kiến những điều mới, không phải trong sách mà chính là trong kinh nghiệm tâm linh của bạn. | Nhiều năm đã đi qua từ ngày cuốn sách được xuất bản, vậy mà tôi vẫn tiếp tục nhận thư của đọc giả từ nhiều nước gởi về.
Thơ nào cũng chỉ là để cảm ơn sự có mặt của quyển sách và cho tác giả biết là cuốn sách đã làm thay đổi đời sống của họ.
Một ông Bác sĩ giải phẫu tại Nữu Ước cho biết là ông luôn luôn thực tập quán niệm trong khi làm công việc giải phẫu.
(Tôi nghĩ là ông Bác sĩ này sẽ không bao giờ bỏ quên dao kéo trong bụng bệnh nhân!).
Trong những tháng đầu thực tập, có thể bạn có những thời gian bỏ lửng và quên lãng.
Nhưng bạn luôn luôn có thể bắt đầu trở lại.
Nếu trong gia đình hoặc ngoài xã hội có người cùng thực tập thì đó là một thiện duyên quý báu.
Những người thực tập thường nhắc nhở cho nhau, hỏi han nhau về những kinh nghiệm và những sự tiến bộ.
Bạn có thể tự nhắc bạn bằng những phương tiện do chính bạn tạo ra.
Ví dụ một tờ lá mùa thu bạn nhặt được trong vườn và bạn đã đem cài lên trên tấm kính trong phòng rửa mặt.
Một buổi sáng vào phòng rửa mặt, thấy tờ lá ấy, tự khắc bạn mỉm cười, trở lại với chánh niệm, và suốt trong thời gian đánh răng, cạo râu, rửa mặt và thay áo, bạn sống trong sự thung dung thoải mái của chánh niệm.
Tiếng chuông chùa chẳng hạn, cũng đã được dùng như một trong những phương tiện nhắc nhở quán niệm.
Người yêu ơi, em là ai?
Một hôm nào đó nếu cần đề tài thiền quán, bạn hãy chọn một đề tài thích hợp với bạn, nghĩa là một đề tài cho bạn nhiều cảm hứng và có thể thu hút được sức chú ý của bạn đến mức tối đa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhiều năm đã đi qua từ ngày cuốn sách được xuất bản, vậy mà tôi vẫn tiếp tục nhận thư của đọc giả từ nhiều nước gởi về.
Thơ nào cũng chỉ là để cảm ơn sự có mặt của quyển sách và cho tác giả biết là cuốn sách đã làm thay đổi đời sống của họ.
Một ông Bác sĩ giải phẫu tại Nữu Ước cho biết là ông luôn luôn thực tập quán niệm trong khi làm công việc giải phẫu.
(Tôi nghĩ là ông Bác sĩ này sẽ không bao giờ bỏ quên dao kéo trong bụng bệnh nhân!).
Trong những tháng đầu thực tập, có thể bạn có những thời gian bỏ lửng và quên lãng.
Nhưng bạn luôn luôn có thể bắt đầu trở lại.
Nếu trong gia đình hoặc ngoài xã hội có người cùng thực tập thì đó là một thiện duyên quý báu.
Những người thực tập thường nhắc nhở cho nhau, hỏi han nhau về những kinh nghiệm và những sự tiến bộ.
Bạn có thể tự nhắc bạn bằng những phương tiện do chính bạn tạo ra.
Ví dụ một tờ lá mùa thu bạn nhặt được trong vườn và bạn đã đem cài lên trên tấm kính trong phòng rửa mặt.
Một buổi sáng vào phòng rửa mặt, thấy tờ lá ấy, tự khắc bạn mỉm cười, trở lại với chánh niệm, và suốt trong thời gian đánh răng, cạo râu, rửa mặt và thay áo, bạn sống trong sự thung dung thoải mái của chánh niệm.
Tiếng chuông chùa chẳng hạn, cũng đã được dùng như một trong những phương tiện nhắc nhở quán niệm.
Người yêu ơi, em là ai?
Một hôm nào đó nếu cần đề tài thiền quán, bạn hãy chọn một đề tài thích hợp với bạn, nghĩa là một đề tài cho bạn nhiều cảm hứng và có thể thu hút được sức chú ý của bạn đến mức tối đa. | Một hôm nào đó nếu cần đề tài thiền quán, bạn hãy chọn một đề tài thích hợp với bạn, nghĩa là một đề tài cho bạn nhiều cảm hứng và có thể thu hút được sức chú ý của bạn đến mức tối đa.
Như tôi có nói ở phần trước, đề tài có thể là mặt trời, con sâu, chiếc lá, mặt mũi bạn khi bạn chưa sinh, thời gian, hoặc một hạt tuyết sa.
Tất cả mọi hiện tượng, cụ thể hay trừu tượng, vật lý, sinh lý, tâm lý hay siêu hình đều có thể là đề tài thiền quán.
Một khi chọn lựa rồi, bạn sẽ theo dõi nó ôm nó vào trong tâm, dành cho nó công trình ấp ủ cần thiết cũng như chiếc trứng cần sự ấp ủ của con gà mẹ để có thể nở thành gà con.
Bạn có thể lấy cái "ta" của bạn ra làm đề tài thiền quán, hoặc cái ta của người mình yêu mến nhất, hoặc cái "ta" của người mà bạn thù ghét nhất.
Ðề tài nào cũng có thể đưa đến sự giác ngộ, miễn là bạn ôm nó được trong chiều sâu của bản thể bạn.
Nếu đề tài chỉ được giao phó cho trí năng thì không chắc nó sẽ mang lại kết quả mà bạn mong muốn.
Mặt mũi của bạn chẳng hạn.
Bạn đã từng quán niệm về đề tài ấy chăng?
Trước khi cha mẹ sinh ra, bạn là ai?
Bạn chưa có hình tích, nhưng bạn đã có hay là chưa có?
Tại sao từ chỗ không có bạn lại có thể trở thành có?
Nếu ngày hôm ấy, cha mẹ của tôi không gặp nhau, thì bây giờ tôi là ai?
Nếu ngày hôm đó, nếu không phải là con tinh trùng ấy mà là một con tinh trùng khác đi vào tiểu noãn thì bây giờ tôi là ai?
Tôi là tôi hay tôi là một người anh, một người chị, hoặc một người em của tôi? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Một hôm nào đó nếu cần đề tài thiền quán, bạn hãy chọn một đề tài thích hợp với bạn, nghĩa là một đề tài cho bạn nhiều cảm hứng và có thể thu hút được sức chú ý của bạn đến mức tối đa.
Như tôi có nói ở phần trước, đề tài có thể là mặt trời, con sâu, chiếc lá, mặt mũi bạn khi bạn chưa sinh, thời gian, hoặc một hạt tuyết sa.
Tất cả mọi hiện tượng, cụ thể hay trừu tượng, vật lý, sinh lý, tâm lý hay siêu hình đều có thể là đề tài thiền quán.
Một khi chọn lựa rồi, bạn sẽ theo dõi nó ôm nó vào trong tâm, dành cho nó công trình ấp ủ cần thiết cũng như chiếc trứng cần sự ấp ủ của con gà mẹ để có thể nở thành gà con.
Bạn có thể lấy cái "ta" của bạn ra làm đề tài thiền quán, hoặc cái ta của người mình yêu mến nhất, hoặc cái "ta" của người mà bạn thù ghét nhất.
Ðề tài nào cũng có thể đưa đến sự giác ngộ, miễn là bạn ôm nó được trong chiều sâu của bản thể bạn.
Nếu đề tài chỉ được giao phó cho trí năng thì không chắc nó sẽ mang lại kết quả mà bạn mong muốn.
Mặt mũi của bạn chẳng hạn.
Bạn đã từng quán niệm về đề tài ấy chăng?
Trước khi cha mẹ sinh ra, bạn là ai?
Bạn chưa có hình tích, nhưng bạn đã có hay là chưa có?
Tại sao từ chỗ không có bạn lại có thể trở thành có?
Nếu ngày hôm ấy, cha mẹ của tôi không gặp nhau, thì bây giờ tôi là ai?
Nếu ngày hôm đó, nếu không phải là con tinh trùng ấy mà là một con tinh trùng khác đi vào tiểu noãn thì bây giờ tôi là ai?
Tôi là tôi hay tôi là một người anh, một người chị, hoặc một người em của tôi? | Tôi là tôi hay tôi là một người anh, một người chị, hoặc một người em của tôi?
Nếu ngày xưa cha tôi không cưới mẹ tôi mà cưới một người đàn bà khác thì bây giờ tôi là ai?
Hoặc nếu ngày xưa mẹ tôi không về với cha tôi mà về với một người đàn ông khác thì bây giờ tôi là ai?
Mỗi tế bào trong cơ thể bạn có một đời sống tự trị, mỗi tế bào của bạn có phải là một cái ta không?
Loại (espèce) nằm trong chủng (genre), mỗi loại có phải là một cái ta không?
Nếu bạn đem tất cả tâm tư, trí tuệ và tình cảm bạn mà hỏi bạn những câu như thế, nếu bạn đem những câu hỏi đó dìm xuống đáy tâm tư, một ngày kia bạn sẽ thấy những cái thấy bất ngờ.
Có khi nào bạn nhìn thẳng vào mắt người yêu và hỏi: "Em là ai?"
Hỏi để người yêu của bạn trả lời, và nhất là để bạn trả lời.
Ðừng bằng lòng với những câu trả lời thông tục.
Em là ai mà đã đến đây, lấy cái đau của tôi làm cái đau của em, lấy cái vui của tôi làm cái vui của em, lấy cái sống chết của tôi làm cái sống chết của em?
Em là ai mà cái ta đã cùng với cái ta của tôi trở nên như một?
Tại sao em không là một giọt sương, một cánh bướm, một chân chim hay là một cây thông?
Ðừng bằng lòng với những hình ảnh thi ca.
Hãy hỏi bằng tất cả tâm can, bằng tất cả những gì tạo nên con người bạn.
Bạn chưa từng hỏi người bạn thù ghét nhất (nếu có) một câu hỏi như thế.
Nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải hỏi người ấy một câu hỏi tương tự. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tôi là tôi hay tôi là một người anh, một người chị, hoặc một người em của tôi?
Nếu ngày xưa cha tôi không cưới mẹ tôi mà cưới một người đàn bà khác thì bây giờ tôi là ai?
Hoặc nếu ngày xưa mẹ tôi không về với cha tôi mà về với một người đàn ông khác thì bây giờ tôi là ai?
Mỗi tế bào trong cơ thể bạn có một đời sống tự trị, mỗi tế bào của bạn có phải là một cái ta không?
Loại (espèce) nằm trong chủng (genre), mỗi loại có phải là một cái ta không?
Nếu bạn đem tất cả tâm tư, trí tuệ và tình cảm bạn mà hỏi bạn những câu như thế, nếu bạn đem những câu hỏi đó dìm xuống đáy tâm tư, một ngày kia bạn sẽ thấy những cái thấy bất ngờ.
Có khi nào bạn nhìn thẳng vào mắt người yêu và hỏi: "Em là ai?"
Hỏi để người yêu của bạn trả lời, và nhất là để bạn trả lời.
Ðừng bằng lòng với những câu trả lời thông tục.
Em là ai mà đã đến đây, lấy cái đau của tôi làm cái đau của em, lấy cái vui của tôi làm cái vui của em, lấy cái sống chết của tôi làm cái sống chết của em?
Em là ai mà cái ta đã cùng với cái ta của tôi trở nên như một?
Tại sao em không là một giọt sương, một cánh bướm, một chân chim hay là một cây thông?
Ðừng bằng lòng với những hình ảnh thi ca.
Hãy hỏi bằng tất cả tâm can, bằng tất cả những gì tạo nên con người bạn.
Bạn chưa từng hỏi người bạn thù ghét nhất (nếu có) một câu hỏi như thế.
Nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải hỏi người ấy một câu hỏi tương tự. | Bạn chưa từng hỏi người bạn thù ghét nhất (nếu có) một câu hỏi như thế.
Nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải hỏi người ấy một câu hỏi tương tự.
Anh là ai mà đã từng làm cho tôi khổ đau, căm giận và thù ghét, hay anh chính là nghiệp quả, là nhân duyên hoặc là ngọn lửa thử thách đã trui luyện nên tôi; nói một cách khác, hay anh cũng là tôi?
Bạn phải là người ấy, lo âu những nỗi lo âu của người ấy, khổ đau những nỗi khổ đau của người ấy, đau xót những cái đau xót của người ấy.
Bạn không thể thực sự "là hai" với người ấy.
Cái ta của bạn không phải nằm "bên ngoài" cái ta của người ấy.
Bạn chính là người ấy, cũng như chính bạn là người yêu của bạn, cũng như bạn là chính bạn.
Bạn quán niệm cho tới khi nào bạn thấy được nơi người lãnh tụ chính trị tàn ác nhất, nơi người tù nhân bị tra tấn dã man nhất, nơi người trưởng giả giàu sang nhất cũng như em bé nghèo ốm trơ xương nhất.
Bạn quán niệm cho tới khi bạn thấy bạn nơi hạt bụi hay nơi những tinh hà xa xôi nhất.
Tiêu chuẩn định hướng
Thiền quán sẽ làm nẩy nở cái thấy nơi bạn cũng như sẽ làm nẩy nở nơi bạn khả năng yêu thương, tha thứ, hoan hỷ và buông thả.
Bạn biết buông thả, vì bạn không còn cần nắm giữ riêng cho bạn, bởi vì bạn không còn là cái ta bé nhỏ dễ tan vỡ cần phải bảo trọng bằng đủ mọi cách nữa.
Bạn trở thành hoan hỷ, bởi vì cái vui của ai cũng là cái vui của bạn, bởi vì bạn không còn ganh ghét và ích kỷ nữa.
Bạn trở nên đầy tha thứ, bởi vì bạn không còn duy trì cố chấp và thành kiến. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn chưa từng hỏi người bạn thù ghét nhất (nếu có) một câu hỏi như thế.
Nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng sẽ phải hỏi người ấy một câu hỏi tương tự.
Anh là ai mà đã từng làm cho tôi khổ đau, căm giận và thù ghét, hay anh chính là nghiệp quả, là nhân duyên hoặc là ngọn lửa thử thách đã trui luyện nên tôi; nói một cách khác, hay anh cũng là tôi?
Bạn phải là người ấy, lo âu những nỗi lo âu của người ấy, khổ đau những nỗi khổ đau của người ấy, đau xót những cái đau xót của người ấy.
Bạn không thể thực sự "là hai" với người ấy.
Cái ta của bạn không phải nằm "bên ngoài" cái ta của người ấy.
Bạn chính là người ấy, cũng như chính bạn là người yêu của bạn, cũng như bạn là chính bạn.
Bạn quán niệm cho tới khi nào bạn thấy được nơi người lãnh tụ chính trị tàn ác nhất, nơi người tù nhân bị tra tấn dã man nhất, nơi người trưởng giả giàu sang nhất cũng như em bé nghèo ốm trơ xương nhất.
Bạn quán niệm cho tới khi bạn thấy bạn nơi hạt bụi hay nơi những tinh hà xa xôi nhất.
Tiêu chuẩn định hướng
Thiền quán sẽ làm nẩy nở cái thấy nơi bạn cũng như sẽ làm nẩy nở nơi bạn khả năng yêu thương, tha thứ, hoan hỷ và buông thả.
Bạn biết buông thả, vì bạn không còn cần nắm giữ riêng cho bạn, bởi vì bạn không còn là cái ta bé nhỏ dễ tan vỡ cần phải bảo trọng bằng đủ mọi cách nữa.
Bạn trở thành hoan hỷ, bởi vì cái vui của ai cũng là cái vui của bạn, bởi vì bạn không còn ganh ghét và ích kỷ nữa.
Bạn trở nên đầy tha thứ, bởi vì bạn không còn duy trì cố chấp và thành kiến. | Bạn trở thành hoan hỷ, bởi vì cái vui của ai cũng là cái vui của bạn, bởi vì bạn không còn ganh ghét và ích kỷ nữa.
Bạn trở nên đầy tha thứ, bởi vì bạn không còn duy trì cố chấp và thành kiến.
Bạn mở rộng lòng yêu thương, bởi vì bạn biết đau được nỗi đau khổ của muôn loài, và bạn làm hết tất cả những gì trong khả năng của bạn để làm vơi bớt những khổ đau ấy.
Bốn đức trên kia, được gọi là tứ vô lượng tâm, là từ, bi, hỷ, xả, hoa trái tự nhiên của cái thấy trùng trùng duyên khởi.
Sự phát triển của bốn đức ấy nơi bạn chứng tỏ bạn đang đi trên con dường thiền quán chân chính và bạn có khả năng hướng dẫn kẻ khác mà không sợ bị lầm lạc.
Lá tình thư
Bây giờ bạn đang ở đâu?
Ngoài ruộng đồng, trên núi rừng, nơi quân trường, trong hãng xưởng, trước bàn giấy, tại bệnh xá hoặc chốn lao tù?
Bạn hãy thở một hơi thở nhẹ nhàng, và thắp sáng mặt trời ý thức trong bạn.
Chúng ta bắt đầu bằng hơi thở ấy và ý thức ấy.
Cuộc đời như một ảo ảnh, một giấc mộng hay một thực tại nhiệm mầu, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn tùy thuộc nơi sự tỉnh thức của bạn.
Tỉnh thức là một phép lạ nhiệm mầu.
Cũng như một căn nhà tối ám đột nhiên sáng rỡ lên vì có ánh sáng của một ngọn đèn, đời sống sẽ trở thành mầu nhiệm khi mặt trời ý thức bắt đầu chiếu rạng.
Tôi có người bạn thi sĩ đã từng bị giam giữ bốn năm trời trong một trại học tập cải tạo trên một vùng rừng núi xa xôi.
Suốt bốn năm trời, anh đã thực tập thiền quán và đã giữ được sức khỏe và niềm vui sống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bạn trở thành hoan hỷ, bởi vì cái vui của ai cũng là cái vui của bạn, bởi vì bạn không còn ganh ghét và ích kỷ nữa.
Bạn trở nên đầy tha thứ, bởi vì bạn không còn duy trì cố chấp và thành kiến.
Bạn mở rộng lòng yêu thương, bởi vì bạn biết đau được nỗi đau khổ của muôn loài, và bạn làm hết tất cả những gì trong khả năng của bạn để làm vơi bớt những khổ đau ấy.
Bốn đức trên kia, được gọi là tứ vô lượng tâm, là từ, bi, hỷ, xả, hoa trái tự nhiên của cái thấy trùng trùng duyên khởi.
Sự phát triển của bốn đức ấy nơi bạn chứng tỏ bạn đang đi trên con dường thiền quán chân chính và bạn có khả năng hướng dẫn kẻ khác mà không sợ bị lầm lạc.
Lá tình thư
Bây giờ bạn đang ở đâu?
Ngoài ruộng đồng, trên núi rừng, nơi quân trường, trong hãng xưởng, trước bàn giấy, tại bệnh xá hoặc chốn lao tù?
Bạn hãy thở một hơi thở nhẹ nhàng, và thắp sáng mặt trời ý thức trong bạn.
Chúng ta bắt đầu bằng hơi thở ấy và ý thức ấy.
Cuộc đời như một ảo ảnh, một giấc mộng hay một thực tại nhiệm mầu, điều đó hoàn toàn tùy thuộc nơi bạn tùy thuộc nơi sự tỉnh thức của bạn.
Tỉnh thức là một phép lạ nhiệm mầu.
Cũng như một căn nhà tối ám đột nhiên sáng rỡ lên vì có ánh sáng của một ngọn đèn, đời sống sẽ trở thành mầu nhiệm khi mặt trời ý thức bắt đầu chiếu rạng.
Tôi có người bạn thi sĩ đã từng bị giam giữ bốn năm trời trong một trại học tập cải tạo trên một vùng rừng núi xa xôi.
Suốt bốn năm trời, anh đã thực tập thiền quán và đã giữ được sức khỏe và niềm vui sống. | Suốt bốn năm trời, anh đã thực tập thiền quán và đã giữ được sức khỏe và niềm vui sống.
Ra khỏi trại học tập, thân tâm trui luyện như một lưỡi thép, anh nói rằng trong bốn năm trời anh đã không mất mát gì, và trái lại.
Những gì mà anh "học tập" được không phải do cán bộ giảng dạy mà do chính công phu thiền tập của anh đưa tới.
Tôi muốn những dòng chữ này, viết như viết một bức thư tình, tới được dưới mắt của những người anh em của tôi, quen hay lạ, trong những hoàn cảnh mà thường thường người ta nghĩ là bi đát và nhiều thất vọng nhất, để mỗi người anh em tôi có thể làm sống dậy được nghị lực sẵn có trong tự thân.
Muốn an lạc thì tự khắc được an lạc
Năm 1972, tôi viết bốn chữ nho dục an tắc an trên một cái chóa đèn bằng giấy bồi mà tôi đã tự tay làm lấy và đặt trên bàn viết của tôi, tôi nghĩ rằng mình sẽ có dịp thực nghiệm về đề tài này.
Dục an tắc an có nghĩa là nếu anh muốn được an lạc thì tức khắc anh được an lạc, ngay trong giờ phút này.
Khoảng 1976 - 77, hồi tôi còn điều khiển chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình cứu trợ tại Tân Gia Ba, tôi đã có dịp thực tập đề tài thiền quán ấy.
Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là chương trình cứu trợ người tỵ nạn trên biển, thực hiện hồi mà trên thế giới dư luận chưa biết tới sự có mặt của các "thuyền nhân".
Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình hoạt động không công khai, bởi vì các nước Thái Lan, Mã lai và Tân Gia Ba hồi đó không cho phép người tỵ nạn lên bộ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Suốt bốn năm trời, anh đã thực tập thiền quán và đã giữ được sức khỏe và niềm vui sống.
Ra khỏi trại học tập, thân tâm trui luyện như một lưỡi thép, anh nói rằng trong bốn năm trời anh đã không mất mát gì, và trái lại.
Những gì mà anh "học tập" được không phải do cán bộ giảng dạy mà do chính công phu thiền tập của anh đưa tới.
Tôi muốn những dòng chữ này, viết như viết một bức thư tình, tới được dưới mắt của những người anh em của tôi, quen hay lạ, trong những hoàn cảnh mà thường thường người ta nghĩ là bi đát và nhiều thất vọng nhất, để mỗi người anh em tôi có thể làm sống dậy được nghị lực sẵn có trong tự thân.
Muốn an lạc thì tự khắc được an lạc
Năm 1972, tôi viết bốn chữ nho dục an tắc an trên một cái chóa đèn bằng giấy bồi mà tôi đã tự tay làm lấy và đặt trên bàn viết của tôi, tôi nghĩ rằng mình sẽ có dịp thực nghiệm về đề tài này.
Dục an tắc an có nghĩa là nếu anh muốn được an lạc thì tức khắc anh được an lạc, ngay trong giờ phút này.
Khoảng 1976 - 77, hồi tôi còn điều khiển chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình cứu trợ tại Tân Gia Ba, tôi đã có dịp thực tập đề tài thiền quán ấy.
Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là chương trình cứu trợ người tỵ nạn trên biển, thực hiện hồi mà trên thế giới dư luận chưa biết tới sự có mặt của các "thuyền nhân".
Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình hoạt động không công khai, bởi vì các nước Thái Lan, Mã lai và Tân Gia Ba hồi đó không cho phép người tỵ nạn lên bộ. | Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình hoạt động không công khai, bởi vì các nước Thái Lan, Mã lai và Tân Gia Ba hồi đó không cho phép người tỵ nạn lên bộ.
Chúng tôi thuê hai chiếc tàu, một chiếc tên Leapdal và một chiếc tên Roland đi vớt người trên biển và hai chiếc tàu nhỏ nữa tên Sài Gòn 200 và Blackmart để liên lạc và chuyên chở thực phẩm.
Hễ hai tàu lớn mà đầy thì chúng tôi chở đồng bào đi Úc hoặc đi đảo Guam.
Vào lúc hai chiếc tàu lớn vớt được trên 800 người thì chương trình bị phát giác, và hai giờ khuya cảnh sát có lệnh đến vây nhà tôi, vào nhà lục soát.
Một người chận cửa trước, một người chận cửa sau và bốn người xông vào.
Sau khi lục soát hết mọi ngõ ngách và hộc tủ, họ xét giấy tờ tôi và ra lệnh cho tôi phải rời lãnh thổ Tân Gia Ba trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Trong lúc ấy hai chiếc Sài Gòn 200 và Blackmark không được phép rời bến để tiếp tế cho người tỵ nạn trên hai chiếc lớn, và các nước Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương cũng không cho tôi đặt chân trên lãnh thổ họ.
Chiếc Roland có đủ nhiên liệu có thể lên đường đi Perth với điều kiện là chúng tôi có thể tiếp tế thực phẩm từ Nam Dương, nhưng chiếc này đột nhiên bị hỏng máy.
Biển động mạnh và Mã Lai không cho phép nó xáp vào hải phận để tránh gió.
Vào một tình trạng như thế, tuy ngồi trên đất liền, tôi cũng thấy tôi lênh đênh trên biển, và sinh mạng tôi là một với sinh mạng của 800 người tị nạn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chương trình "Máu chảy ruột mềm" là một chương trình hoạt động không công khai, bởi vì các nước Thái Lan, Mã lai và Tân Gia Ba hồi đó không cho phép người tỵ nạn lên bộ.
Chúng tôi thuê hai chiếc tàu, một chiếc tên Leapdal và một chiếc tên Roland đi vớt người trên biển và hai chiếc tàu nhỏ nữa tên Sài Gòn 200 và Blackmart để liên lạc và chuyên chở thực phẩm.
Hễ hai tàu lớn mà đầy thì chúng tôi chở đồng bào đi Úc hoặc đi đảo Guam.
Vào lúc hai chiếc tàu lớn vớt được trên 800 người thì chương trình bị phát giác, và hai giờ khuya cảnh sát có lệnh đến vây nhà tôi, vào nhà lục soát.
Một người chận cửa trước, một người chận cửa sau và bốn người xông vào.
Sau khi lục soát hết mọi ngõ ngách và hộc tủ, họ xét giấy tờ tôi và ra lệnh cho tôi phải rời lãnh thổ Tân Gia Ba trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Trong lúc ấy hai chiếc Sài Gòn 200 và Blackmark không được phép rời bến để tiếp tế cho người tỵ nạn trên hai chiếc lớn, và các nước Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương cũng không cho tôi đặt chân trên lãnh thổ họ.
Chiếc Roland có đủ nhiên liệu có thể lên đường đi Perth với điều kiện là chúng tôi có thể tiếp tế thực phẩm từ Nam Dương, nhưng chiếc này đột nhiên bị hỏng máy.
Biển động mạnh và Mã Lai không cho phép nó xáp vào hải phận để tránh gió.
Vào một tình trạng như thế, tuy ngồi trên đất liền, tôi cũng thấy tôi lênh đênh trên biển, và sinh mạng tôi là một với sinh mạng của 800 người tị nạn. | Vào một tình trạng như thế, tuy ngồi trên đất liền, tôi cũng thấy tôi lênh đênh trên biển, và sinh mạng tôi là một với sinh mạng của 800 người tị nạn.
Tôi đã thực tập đề tài thiền quán dục an tắc an, và tôi đã ngạc nhiên thấy mình trở nên an tĩnh một cách lạ lùng.
Trong lúc ấy, tôi không thấy có niềm lo sợ nào nữa.
Tâm trạng tôi lúc đó không phải là tâm trạng liều.
Tôi đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và không bao giờ tôi quên được những phút thiền tọa, những hơi thở và những bước chân quán niệm trong thời gian hai mươi bốn giờ ngắn ngủi kia.
Bạn hỏi hai mươi bốn giờ đồng hồ giải quyết bấy nhiêu việc, thì giờ đâu mà thiền tập?
Câu hỏi này quan trọng lắm đấy, bởi vì trong suốt cuộc sống mà ta gọi là "cuộc trăm năm" của chúng ta, chúng ta cũng thường than phiền là "không có thời giờ" mà, có phải không?
Tôi không đưa ra cho bạn một câu trả lời đâu.
Tôi chỉ có thể nói với bạn sở dĩ tôi thành công được là vì tôi đã nêu ra cho tôi một thử thách lớn: tôi tự bảo, nếu tôi không thành công bây giờ thì không bao giờ tôi thành công được cả; nếu tôi không đạt tới sự an lạc ngay trong gian nguy này thì sự an lạc trong những lúc không gian nguy có thể là sự an lạc giả tạo.
Hồi đó, nếu không có dịp gian nguy kia thì chưa chắc tôi đã thành công trong việc thiền tập về đề tài dục an tắc an, và nếu tôi không thực tập thiền quán pháp "dục an tắc an" lúc đó thì tôi cũng đã không có được sự trầm tĩnh an lạc để có thể giải quyết từng ấy công việc trong khoảnh khắc cấp bách đó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vào một tình trạng như thế, tuy ngồi trên đất liền, tôi cũng thấy tôi lênh đênh trên biển, và sinh mạng tôi là một với sinh mạng của 800 người tị nạn.
Tôi đã thực tập đề tài thiền quán dục an tắc an, và tôi đã ngạc nhiên thấy mình trở nên an tĩnh một cách lạ lùng.
Trong lúc ấy, tôi không thấy có niềm lo sợ nào nữa.
Tâm trạng tôi lúc đó không phải là tâm trạng liều.
Tôi đã vượt qua giai đoạn khó khăn đó và không bao giờ tôi quên được những phút thiền tọa, những hơi thở và những bước chân quán niệm trong thời gian hai mươi bốn giờ ngắn ngủi kia.
Bạn hỏi hai mươi bốn giờ đồng hồ giải quyết bấy nhiêu việc, thì giờ đâu mà thiền tập?
Câu hỏi này quan trọng lắm đấy, bởi vì trong suốt cuộc sống mà ta gọi là "cuộc trăm năm" của chúng ta, chúng ta cũng thường than phiền là "không có thời giờ" mà, có phải không?
Tôi không đưa ra cho bạn một câu trả lời đâu.
Tôi chỉ có thể nói với bạn sở dĩ tôi thành công được là vì tôi đã nêu ra cho tôi một thử thách lớn: tôi tự bảo, nếu tôi không thành công bây giờ thì không bao giờ tôi thành công được cả; nếu tôi không đạt tới sự an lạc ngay trong gian nguy này thì sự an lạc trong những lúc không gian nguy có thể là sự an lạc giả tạo.
Hồi đó, nếu không có dịp gian nguy kia thì chưa chắc tôi đã thành công trong việc thiền tập về đề tài dục an tắc an, và nếu tôi không thực tập thiền quán pháp "dục an tắc an" lúc đó thì tôi cũng đã không có được sự trầm tĩnh an lạc để có thể giải quyết từng ấy công việc trong khoảnh khắc cấp bách đó. | Quả theo liền với nhân
An lạc là một cái gì có thể hiện hữu trong giờ phút hiện tại.
Bạn đừng nói: đợi khi tôi làm xong cái này (và cái này) rồi thì tôi mới "khỏe" được, mới "an lạc" được.
Cái này là cái gì vậy?
Một mảnh bằng, một sở làm, một cái nhà hay sự thanh toán một món nợ?
Như vậy thì bạn không bao giờ có an lạc đâu, bởi vì sau cái này sẽ có cái khác.
An lạc là an lạc ngay từ bây giờ, nếu không thì không bao giờ an lạc hết.
Nếu bạn thực sự muốn an lạc, thì bạn có thể an lạc ngay trong giờ phút này.
Nếu không thì bạn chỉ có thể sống với "hy vọng sẽ được an lạc trong tương lai" mà thôi.
Bạn tôi, người thi sĩ, đã không đợi đến hết bốn năm học tập mới chịu an lạc.
Y nào có biết là y sẽ ở đó bốn năm.
Có người ở đó hơn sáu năm rồi mà đã được về đâu.
Chắc y đã thực hành một thiền pháp nào đó tương tự với thiền pháp dục an tắc an.
Bạn cũng thử ngồi lại đi và tìm một thiền pháp như thế, để đạt được sự an lạc của chính bạn.
Bạn chớ cho là cần phải có công phu lâu ngày chày tháng.
Quan trọng nhất là cái muốn của bạn, là ý chí của bạn.
Ý chí ấy mà lớn thì quả đi theo liền với nhân, mau hơn một tia chớp giật.
Và bạn phải biết nắm lấy và duy trì sự an lạc đó, bằng hơi thở, bằng bước chân, bằng nụ cười, bằng cái nhìn, bằng cái nghe và cái cảm.
Cho đến khi bạn là một sự an lạc.
Tất cả tùy thuộc vào hạnh phúc của bạn
Nếu thân thể ta là trái đất thì ta sẽ cảm nhận thấy một cách rõ ràng hơn bao nhiêu vùng đau nhức xót xa trên cơ thể ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Quả theo liền với nhân
An lạc là một cái gì có thể hiện hữu trong giờ phút hiện tại.
Bạn đừng nói: đợi khi tôi làm xong cái này (và cái này) rồi thì tôi mới "khỏe" được, mới "an lạc" được.
Cái này là cái gì vậy?
Một mảnh bằng, một sở làm, một cái nhà hay sự thanh toán một món nợ?
Như vậy thì bạn không bao giờ có an lạc đâu, bởi vì sau cái này sẽ có cái khác.
An lạc là an lạc ngay từ bây giờ, nếu không thì không bao giờ an lạc hết.
Nếu bạn thực sự muốn an lạc, thì bạn có thể an lạc ngay trong giờ phút này.
Nếu không thì bạn chỉ có thể sống với "hy vọng sẽ được an lạc trong tương lai" mà thôi.
Bạn tôi, người thi sĩ, đã không đợi đến hết bốn năm học tập mới chịu an lạc.
Y nào có biết là y sẽ ở đó bốn năm.
Có người ở đó hơn sáu năm rồi mà đã được về đâu.
Chắc y đã thực hành một thiền pháp nào đó tương tự với thiền pháp dục an tắc an.
Bạn cũng thử ngồi lại đi và tìm một thiền pháp như thế, để đạt được sự an lạc của chính bạn.
Bạn chớ cho là cần phải có công phu lâu ngày chày tháng.
Quan trọng nhất là cái muốn của bạn, là ý chí của bạn.
Ý chí ấy mà lớn thì quả đi theo liền với nhân, mau hơn một tia chớp giật.
Và bạn phải biết nắm lấy và duy trì sự an lạc đó, bằng hơi thở, bằng bước chân, bằng nụ cười, bằng cái nhìn, bằng cái nghe và cái cảm.
Cho đến khi bạn là một sự an lạc.
Tất cả tùy thuộc vào hạnh phúc của bạn
Nếu thân thể ta là trái đất thì ta sẽ cảm nhận thấy một cách rõ ràng hơn bao nhiêu vùng đau nhức xót xa trên cơ thể ta. | Cho đến khi bạn là một sự an lạc.
Tất cả tùy thuộc vào hạnh phúc của bạn
Nếu thân thể ta là trái đất thì ta sẽ cảm nhận thấy một cách rõ ràng hơn bao nhiêu vùng đau nhức xót xa trên cơ thể ta.
Nơi đây chiến tranh tàn phá, chốn kia bạo lực đè nén, vùng nọ đói khổ lan tràn.
Biết bao nhiêu trẻ em bị mù chỉ vì thiếu chất dinh dưỡng.
Bao nhiêu bàn tay trẻ thơ đang tìm moi những đống rác để tìm những vật khả dĩ có thể đem đổi lấy vài chục gam thực phẩm.
Bao nhiêu kẻ đang rên xiết trong chốn lao tù.
Bao nhiêu kẻ khác đã bị thủ tiêu vì dám chống đối bạo lực.
Thế giới không thể ngừng được sự chế tạo thêm vũ khí độc hại, dù số lượng vũ khí hiện giờ đã có đủ sức tiêu diệt mấy mươi lần nhân loại.
Vậy thì tại sao ta có thể rút lui vào rừng sâu hoặc đóng chặt cửa phòng ta mà ngồi thiền quán để tìm sự an lạc của riêng ta, có người sẽ hỏi bạn như thế.
Nhưng bạn cũng đã biết rồi, sự an lạc ấy nếu có cũng không phải là của riêng bạn.
Chính nhờ sự an lạc đó mà bạn có thể là một với tất cả những kẻ đang khốn khổ; chính nhờ sự an lạc đó mà bạn có thể là một cái gì cho nhân loại, nghĩa là cho chính bạn.
Tôi biết có bao người trẻ có chí, có lòng; không muốn lẩn trốn trong hoàn cảnh giả tạo của mình, họ đã dấn thân vào cuộc đời để mong chuyển đổi cuộc đời, chuyển đổi xã hội.
Họ có nhận thức vững chãi về tình trạng xã hội, họ biết những gì họ muốn; tuy nhiên sau một thời gian tranh đấu họ đã nản lòng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cho đến khi bạn là một sự an lạc.
Tất cả tùy thuộc vào hạnh phúc của bạn
Nếu thân thể ta là trái đất thì ta sẽ cảm nhận thấy một cách rõ ràng hơn bao nhiêu vùng đau nhức xót xa trên cơ thể ta.
Nơi đây chiến tranh tàn phá, chốn kia bạo lực đè nén, vùng nọ đói khổ lan tràn.
Biết bao nhiêu trẻ em bị mù chỉ vì thiếu chất dinh dưỡng.
Bao nhiêu bàn tay trẻ thơ đang tìm moi những đống rác để tìm những vật khả dĩ có thể đem đổi lấy vài chục gam thực phẩm.
Bao nhiêu kẻ đang rên xiết trong chốn lao tù.
Bao nhiêu kẻ khác đã bị thủ tiêu vì dám chống đối bạo lực.
Thế giới không thể ngừng được sự chế tạo thêm vũ khí độc hại, dù số lượng vũ khí hiện giờ đã có đủ sức tiêu diệt mấy mươi lần nhân loại.
Vậy thì tại sao ta có thể rút lui vào rừng sâu hoặc đóng chặt cửa phòng ta mà ngồi thiền quán để tìm sự an lạc của riêng ta, có người sẽ hỏi bạn như thế.
Nhưng bạn cũng đã biết rồi, sự an lạc ấy nếu có cũng không phải là của riêng bạn.
Chính nhờ sự an lạc đó mà bạn có thể là một với tất cả những kẻ đang khốn khổ; chính nhờ sự an lạc đó mà bạn có thể là một cái gì cho nhân loại, nghĩa là cho chính bạn.
Tôi biết có bao người trẻ có chí, có lòng; không muốn lẩn trốn trong hoàn cảnh giả tạo của mình, họ đã dấn thân vào cuộc đời để mong chuyển đổi cuộc đời, chuyển đổi xã hội.
Họ có nhận thức vững chãi về tình trạng xã hội, họ biết những gì họ muốn; tuy nhiên sau một thời gian tranh đấu họ đã nản lòng. | Họ có nhận thức vững chãi về tình trạng xã hội, họ biết những gì họ muốn; tuy nhiên sau một thời gian tranh đấu họ đã nản lòng.
Chính vì họ thiếu sự an lạc, một sự an lạc không thể để lại sau lưng mà phải đem theo vào cuộc đời tranh đấu.
Sức mạnh của chúng ta không phải là vũ khí, không phải là tiền bạc, không phải là quyền thế: sức mạnh của chúng ta là sự an lạc.
Sự an lạc này mà ta mang trong ta giúp ta trở nên bất hoại trong ngọn lửa thử thách.
Ta phải có hạnh phúc trong khi lo lắng cho những kẻ mà ta thương yêu, cho những kẻ mà ta muốn bênh vực.
Tôi đã từng gặp trên bước đường tôi đi những người có được sự an lạc ấy.
Thì giờ và tâm lực của họ, họ đã để dành rất nhiều trong công việc bênh vực kẻ yếu, vun trồng thương yêu và sự hiểu biết khắp nơi.
Họ thuộc về những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau và họ đã đạt được sự an lạc của họ bằng cách nào tôi không được biết [31].
Nhưng tôi nhận ra được sự an lạc đó trong khi tôi tiếp xúc với họ.
Bạn cũng vậy, nếu để ý một chút, bạn cũng nhận được sự an lạc trong họ.
Và bạn biết rằng cái an lạc ấy không phải là một thứ ngục tù giam hãm bạn trong sự vị kỷ hoặc trốn tránh.
Chính nó đưa bạn vào đời để làm được gì mà bạn đã làm.
Hoặc để tranh đấu cho công bình xã hội, hoặc để san bằng bớt hố sai biệt Bắc Nam [32], hoặc chận đứng đà thi đua chế tạo vũ khí, hoặc để đả phá tâm trạng kỳ thị, gieo rắc thêm sự hiểu biết, ý chí hòa giải hoặc tình thương yêu.
Tại trận tuyến nào bạn cũng cần có ý chí kiên trì và quyết thắng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Họ có nhận thức vững chãi về tình trạng xã hội, họ biết những gì họ muốn; tuy nhiên sau một thời gian tranh đấu họ đã nản lòng.
Chính vì họ thiếu sự an lạc, một sự an lạc không thể để lại sau lưng mà phải đem theo vào cuộc đời tranh đấu.
Sức mạnh của chúng ta không phải là vũ khí, không phải là tiền bạc, không phải là quyền thế: sức mạnh của chúng ta là sự an lạc.
Sự an lạc này mà ta mang trong ta giúp ta trở nên bất hoại trong ngọn lửa thử thách.
Ta phải có hạnh phúc trong khi lo lắng cho những kẻ mà ta thương yêu, cho những kẻ mà ta muốn bênh vực.
Tôi đã từng gặp trên bước đường tôi đi những người có được sự an lạc ấy.
Thì giờ và tâm lực của họ, họ đã để dành rất nhiều trong công việc bênh vực kẻ yếu, vun trồng thương yêu và sự hiểu biết khắp nơi.
Họ thuộc về những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau và họ đã đạt được sự an lạc của họ bằng cách nào tôi không được biết [31].
Nhưng tôi nhận ra được sự an lạc đó trong khi tôi tiếp xúc với họ.
Bạn cũng vậy, nếu để ý một chút, bạn cũng nhận được sự an lạc trong họ.
Và bạn biết rằng cái an lạc ấy không phải là một thứ ngục tù giam hãm bạn trong sự vị kỷ hoặc trốn tránh.
Chính nó đưa bạn vào đời để làm được gì mà bạn đã làm.
Hoặc để tranh đấu cho công bình xã hội, hoặc để san bằng bớt hố sai biệt Bắc Nam [32], hoặc chận đứng đà thi đua chế tạo vũ khí, hoặc để đả phá tâm trạng kỳ thị, gieo rắc thêm sự hiểu biết, ý chí hòa giải hoặc tình thương yêu.
Tại trận tuyến nào bạn cũng cần có ý chí kiên trì và quyết thắng. | Tại trận tuyến nào bạn cũng cần có ý chí kiên trì và quyết thắng.
Thiếu sự an lạc, bạn không duy trì được ý chí đó.
Vì vậy cho nên bạn cần có chánh niệm và thiền tập ngay trong đời sống hàng ngày của bạn, dù là đời sống tranh đấu.
Bồ tát lấy con mắt từ bi để nhìn mọi loài
Sự an lạc và tình yêu thương, như tôi đã nói một lần, luôn luôn đi đôi với sự hiểu biết và không kỳ thị.
Có kỳ thị là còn phân biệt, còn phe phái.
Chỉ có con mắt thương yêu thực sự mới có khả năng nhìn được thực tại từ mọi quan điểm.
Người biết thương yêu có thể thấy mình có mặt nơi một người, và vì có thể nhìn từ mọi quan điểm cho nên có thể vượt được mọi quan điểm để thiết lập được loại hành động phù hợp nhất với đại bi tâm.
Ý nghĩa cao cả nhất của hai tiếng hòa giải là ở chỗ đó.
Hòa giải không có nghĩa là thỏa hợp với mê vọng và sự tàn ác; trái lại, hòa giải là chống đối thường trực với mọi hình thức mê vọng và tàn ác nhưng với tâm đại bi và cái nhìn siêu việt phe phái.
Phần đông trong chúng ta đều theo phe phái, đều thiết lập chính tà căn cứ trên những dữ kiện ít ỏi mà ta thu lượm được, hoặc trực tiếp, hoặc qua các hoạt động tuyên truyền.
Chúng ta thường cần một sự bất bình trong lòng mới hành động mạnh dạn được, dù là một sự bất bình chánh đáng.
Thế giới chúng ta không thiếu người dấn thân hoạt động. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tại trận tuyến nào bạn cũng cần có ý chí kiên trì và quyết thắng.
Thiếu sự an lạc, bạn không duy trì được ý chí đó.
Vì vậy cho nên bạn cần có chánh niệm và thiền tập ngay trong đời sống hàng ngày của bạn, dù là đời sống tranh đấu.
Bồ tát lấy con mắt từ bi để nhìn mọi loài
Sự an lạc và tình yêu thương, như tôi đã nói một lần, luôn luôn đi đôi với sự hiểu biết và không kỳ thị.
Có kỳ thị là còn phân biệt, còn phe phái.
Chỉ có con mắt thương yêu thực sự mới có khả năng nhìn được thực tại từ mọi quan điểm.
Người biết thương yêu có thể thấy mình có mặt nơi một người, và vì có thể nhìn từ mọi quan điểm cho nên có thể vượt được mọi quan điểm để thiết lập được loại hành động phù hợp nhất với đại bi tâm.
Ý nghĩa cao cả nhất của hai tiếng hòa giải là ở chỗ đó.
Hòa giải không có nghĩa là thỏa hợp với mê vọng và sự tàn ác; trái lại, hòa giải là chống đối thường trực với mọi hình thức mê vọng và tàn ác nhưng với tâm đại bi và cái nhìn siêu việt phe phái.
Phần đông trong chúng ta đều theo phe phái, đều thiết lập chính tà căn cứ trên những dữ kiện ít ỏi mà ta thu lượm được, hoặc trực tiếp, hoặc qua các hoạt động tuyên truyền.
Chúng ta thường cần một sự bất bình trong lòng mới hành động mạnh dạn được, dù là một sự bất bình chánh đáng.
Thế giới chúng ta không thiếu người dấn thân hoạt động. | Chúng ta thường cần một sự bất bình trong lòng mới hành động mạnh dạn được, dù là một sự bất bình chánh đáng.
Thế giới chúng ta không thiếu người dấn thân hoạt động.
Thế giới chúng ta chỉ thiếu người có nhận thức rộng rãi để có thể thương yêu, để có thể từ bỏ phe phái mà ôm trọn được cả thực tại nhân loại trong lòng như một gà mẹ ấp ủ tất cả gà con của mình dưới hai cánh xòe rộng.
Quán niệm về "trùng trùng duyên khởi" là một trong những phương tiện đi vào nhận thức ấy.
Có nhận thức ấy rồi bạn sẽ không còn dễ dãi vung gươm phân biệt lên để chia cắt thực tại nữa.
Bạn sẽ vượt được ranh giới phe phái, thoát khỏi bức tường chánh tà, và thấy được rằng phương tiện và cứu cánh chỉ là một.
Bạn hãy quan sát cho đến khi nào bạn có thể thấy rằng khuôn mặt nào trên xe điện ngầm (métro) cũng là khuôn mặt bạn, thân hình trẻ con gầy đét nào ở Nicaragua cũng là thân hình bạn, cho đến khi nào bạn có thể đói có thể đau trong cơ thể của mọi loài thì bạn thực hiện cái thấy vô phân biệt và đại bi tâm.
Lấy con mắt thương yêu mà nhìn mọi loài, mọi người (từ nhãn thị chúng sanh - Kinh Pháp Hoa), đó là khả năng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Trên đường đời, chúng ta đã có duyên gặp được những con người biết nhìn đời bằng con mắt từ bi: Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt nơi họ Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có mặt nơi ta mỗi khi ta quán niệm về sự thực thứ nhất trong bốn sự thực mầu nhiệm về cuộc đời.
Ai nói cầu đức Quán Thế Âm là không linh ứng?
Quan thế Âm hiện tới trong bạn cả trước khi bạn mở miệng nguyện cầu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta thường cần một sự bất bình trong lòng mới hành động mạnh dạn được, dù là một sự bất bình chánh đáng.
Thế giới chúng ta không thiếu người dấn thân hoạt động.
Thế giới chúng ta chỉ thiếu người có nhận thức rộng rãi để có thể thương yêu, để có thể từ bỏ phe phái mà ôm trọn được cả thực tại nhân loại trong lòng như một gà mẹ ấp ủ tất cả gà con của mình dưới hai cánh xòe rộng.
Quán niệm về "trùng trùng duyên khởi" là một trong những phương tiện đi vào nhận thức ấy.
Có nhận thức ấy rồi bạn sẽ không còn dễ dãi vung gươm phân biệt lên để chia cắt thực tại nữa.
Bạn sẽ vượt được ranh giới phe phái, thoát khỏi bức tường chánh tà, và thấy được rằng phương tiện và cứu cánh chỉ là một.
Bạn hãy quan sát cho đến khi nào bạn có thể thấy rằng khuôn mặt nào trên xe điện ngầm (métro) cũng là khuôn mặt bạn, thân hình trẻ con gầy đét nào ở Nicaragua cũng là thân hình bạn, cho đến khi nào bạn có thể đói có thể đau trong cơ thể của mọi loài thì bạn thực hiện cái thấy vô phân biệt và đại bi tâm.
Lấy con mắt thương yêu mà nhìn mọi loài, mọi người (từ nhãn thị chúng sanh - Kinh Pháp Hoa), đó là khả năng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Trên đường đời, chúng ta đã có duyên gặp được những con người biết nhìn đời bằng con mắt từ bi: Bồ Tát Quán Thế Âm có mặt nơi họ Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có mặt nơi ta mỗi khi ta quán niệm về sự thực thứ nhất trong bốn sự thực mầu nhiệm về cuộc đời.
Ai nói cầu đức Quán Thế Âm là không linh ứng?
Quan thế Âm hiện tới trong bạn cả trước khi bạn mở miệng nguyện cầu. | Ai nói cầu đức Quán Thế Âm là không linh ứng?
Quan thế Âm hiện tới trong bạn cả trước khi bạn mở miệng nguyện cầu.
Con hãy nhìn bàn tay con
Một anh họa sĩ bạn của tôi xa nhà đã gần ba mươi năm trời nói với tôi là mỗi lần nhớ mẹ, anh chỉ đưa bàn tay của anh lên nhìn là thấy đỡ nhớ.
Mẹ của anh là một người đàn bà Việt Nam của nền văn hóa cũ; bà chỉ võ vẽ đọc được chữ nho mà chưa hề đọc sách triết học và khoa học Tây Phương.
Trước khi anh rời quê hương, bà đã nắm lấy tay anh mà nói: "Khi nào con nhớ mẹ, thì con cứ đưa bàn tay con lên nhìn, là tự khắc con thấy mẹ".
Ðậm đà thay câu nói chân tình đó.
Trong gần ba mươi năm, anh họa sĩ đã đưa bàn tay mình lên ngắm không biết bao nhiêu lần.
Sự có mặt của bà trong anh không phải chỉ thuần là một sự có mặt theo nghĩa di truyền học.
Tâm hồn bà, mơ ước bà, sự sống của chính bà đều có mặt trong anh.
Theo tôi biết, anh họa sĩ này có thực hành thiền tập.
Tôi không rõ anh đã đưa đề tài "nhìn bàn tay" lên địa vị một công án thiền hay chưa, bởi vì tôi nghĩ đề tài ấy, đối với anh, có thể đưa anh đi xa lắm trên bước đường thiền quán.
Từ bàn tay của anh, anh sẽ đi thấu suốt vào thực tại vô thỉ vô chung.
Anh sẽ nhận thấy trăm ngàn thế hệ đi trước anh hiện giờ đang là anh và trăm ngàn thế hệ đi sau anh bây giờ cũng đang là anh.
Từ kiếp xa xưa nào đến giờ dòng sinh mạng của anh chưa bao giờ dứt đoạn, vì vậy cho nên bàn tay anh còn hiện hữu đó, như một thực tại bất sinh bất diệt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ai nói cầu đức Quán Thế Âm là không linh ứng?
Quan thế Âm hiện tới trong bạn cả trước khi bạn mở miệng nguyện cầu.
Con hãy nhìn bàn tay con
Một anh họa sĩ bạn của tôi xa nhà đã gần ba mươi năm trời nói với tôi là mỗi lần nhớ mẹ, anh chỉ đưa bàn tay của anh lên nhìn là thấy đỡ nhớ.
Mẹ của anh là một người đàn bà Việt Nam của nền văn hóa cũ; bà chỉ võ vẽ đọc được chữ nho mà chưa hề đọc sách triết học và khoa học Tây Phương.
Trước khi anh rời quê hương, bà đã nắm lấy tay anh mà nói: "Khi nào con nhớ mẹ, thì con cứ đưa bàn tay con lên nhìn, là tự khắc con thấy mẹ".
Ðậm đà thay câu nói chân tình đó.
Trong gần ba mươi năm, anh họa sĩ đã đưa bàn tay mình lên ngắm không biết bao nhiêu lần.
Sự có mặt của bà trong anh không phải chỉ thuần là một sự có mặt theo nghĩa di truyền học.
Tâm hồn bà, mơ ước bà, sự sống của chính bà đều có mặt trong anh.
Theo tôi biết, anh họa sĩ này có thực hành thiền tập.
Tôi không rõ anh đã đưa đề tài "nhìn bàn tay" lên địa vị một công án thiền hay chưa, bởi vì tôi nghĩ đề tài ấy, đối với anh, có thể đưa anh đi xa lắm trên bước đường thiền quán.
Từ bàn tay của anh, anh sẽ đi thấu suốt vào thực tại vô thỉ vô chung.
Anh sẽ nhận thấy trăm ngàn thế hệ đi trước anh hiện giờ đang là anh và trăm ngàn thế hệ đi sau anh bây giờ cũng đang là anh.
Từ kiếp xa xưa nào đến giờ dòng sinh mạng của anh chưa bao giờ dứt đoạn, vì vậy cho nên bàn tay anh còn hiện hữu đó, như một thực tại bất sinh bất diệt. | Từ kiếp xa xưa nào đến giờ dòng sinh mạng của anh chưa bao giờ dứt đoạn, vì vậy cho nên bàn tay anh còn hiện hữu đó, như một thực tại bất sinh bất diệt.
Mặt mũi anh năm trăm triệu năm về trước, và mặt mũi anh năm năm triệu năm về sau, anh có thể nhận ra được.
Anh có mặt không phải chỉ như một truyền thống chủng loại xuôi chảy theo trục thời gian; anh còn có mặt như một hệ thống duyên khởi từng từng lớp lớp giao nhau trong không gian nữa, và vì thế mỗi tế bào nơi anh đều bất sinh bất diệt như anh.
Ðề tài "nhìn bàn tay" của anh, trong trường hợp anh, có thể có tác dụng lớn gấp mấy lần đề tài "tiếng vỗ tay của một bàn tay" do thiền sư Tiên Nhai đề khởi.
Mùa hè năm ngoái khi con cháu của tôi từ một xứ xa về thăm tôi tại Phương Vân Am, tôi đã trao cho nó đề tài "nhìn bàn tay" để nó gìn giữ như một đề tài thiền quán.
Tôi có cho nó biết là mỗi hạt sỏi, mỗi chiếc lá và mỗi con sâu trên đồi Phương Vân đều có mặt trong bàn tay nó.
Mới mấy tháng trước đây, giới thân cận chính quyền ở thành phố Hồ Chí Minh có đưa ra tin là sau một trận đau tim, tôi đã qua đời.
Tin này gây xáo trộn khá nhiều và làm lợi cho sở vô tuyến viễn thông không ít.
mới cho tôi biết là tin này tới Ni viện Từ Nghiêm vào lúc ni sư đang giảng học trong một lớp ni sinh trẻ tuổi.
Cả lớp lặng đi khi nghe tin này và trong số các ni sinh có một cô ngất xỉu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Từ kiếp xa xưa nào đến giờ dòng sinh mạng của anh chưa bao giờ dứt đoạn, vì vậy cho nên bàn tay anh còn hiện hữu đó, như một thực tại bất sinh bất diệt.
Mặt mũi anh năm trăm triệu năm về trước, và mặt mũi anh năm năm triệu năm về sau, anh có thể nhận ra được.
Anh có mặt không phải chỉ như một truyền thống chủng loại xuôi chảy theo trục thời gian; anh còn có mặt như một hệ thống duyên khởi từng từng lớp lớp giao nhau trong không gian nữa, và vì thế mỗi tế bào nơi anh đều bất sinh bất diệt như anh.
Ðề tài "nhìn bàn tay" của anh, trong trường hợp anh, có thể có tác dụng lớn gấp mấy lần đề tài "tiếng vỗ tay của một bàn tay" do thiền sư Tiên Nhai đề khởi.
Mùa hè năm ngoái khi con cháu của tôi từ một xứ xa về thăm tôi tại Phương Vân Am, tôi đã trao cho nó đề tài "nhìn bàn tay" để nó gìn giữ như một đề tài thiền quán.
Tôi có cho nó biết là mỗi hạt sỏi, mỗi chiếc lá và mỗi con sâu trên đồi Phương Vân đều có mặt trong bàn tay nó.
Mới mấy tháng trước đây, giới thân cận chính quyền ở thành phố Hồ Chí Minh có đưa ra tin là sau một trận đau tim, tôi đã qua đời.
Tin này gây xáo trộn khá nhiều và làm lợi cho sở vô tuyến viễn thông không ít.
mới cho tôi biết là tin này tới Ni viện Từ Nghiêm vào lúc ni sư đang giảng học trong một lớp ni sinh trẻ tuổi.
Cả lớp lặng đi khi nghe tin này và trong số các ni sinh có một cô ngất xỉu. | mới cho tôi biết là tin này tới Ni viện Từ Nghiêm vào lúc ni sư đang giảng học trong một lớp ni sinh trẻ tuổi.
Cả lớp lặng đi khi nghe tin này và trong số các ni sinh có một cô ngất xỉu.
Tôi bị đày ra khỏi xứ đã mười mấy năm vì những hoạt động hòa bình, chắc chắn là tôi không quen biết vị ni sinh trẻ tuổi này, cũng như tôi chưa được quen biết cả thế hệ tăng sinh và ni sinh trẻ tuổi mới lớn lên bây giờ.
Sống chết là chuyện giả trá bề ngoài, tại sao cô khóc?
Cô đang học Phật và đang làm những chuyện tôi làm thì cô còn đó là tôi còn đó.
Ðã không thì không bao giờ trở thành có, đã có thì không bao giờ trở thành không, cô có thấy điều đó chưa?
Nếu một hạt bụi mà ta không thể làm cho nó từ có trở thành không thì một con người cũng thế.
Trên thế giới, người ta đã tìm cách thủ tiêu bao nhiêu người từng tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do và bình đẳng xã hội, nhưng không ai thực sự thủ tiêu được ai.
Những người họ muốn thủ tiêu vẫn có mặt hoài hoài, và khắp nơi, cô có biết không?
Chúa Ki Tô, thánh Gandhi, Lambrakis, Mục sư Martin Luther King, cô nghĩ họ là "những người chết" hay sao?
Cô mang trong họ từng tế bào của cô.
Lần sau, cô có nghe một cái tin như thế thì cô phải mỉm cười mới được.
Nụ cười lặng lẽ của cô sẽ chứng tỏ rằng cô có trí tuệ và nghị lực lớn.
Ðạo Pháp và nhân loại trông đợi rất nhiều nơi cô.
Tất cả nằm ở trong một cái biết
Tôi có người bạn là nhà khảo cứu khoa học, hiện đang hướng dẫn cho nhiều sinh viên làm luận án tiến sĩ khoa học, làm gì cũng muốn cho scientifique. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | mới cho tôi biết là tin này tới Ni viện Từ Nghiêm vào lúc ni sư đang giảng học trong một lớp ni sinh trẻ tuổi.
Cả lớp lặng đi khi nghe tin này và trong số các ni sinh có một cô ngất xỉu.
Tôi bị đày ra khỏi xứ đã mười mấy năm vì những hoạt động hòa bình, chắc chắn là tôi không quen biết vị ni sinh trẻ tuổi này, cũng như tôi chưa được quen biết cả thế hệ tăng sinh và ni sinh trẻ tuổi mới lớn lên bây giờ.
Sống chết là chuyện giả trá bề ngoài, tại sao cô khóc?
Cô đang học Phật và đang làm những chuyện tôi làm thì cô còn đó là tôi còn đó.
Ðã không thì không bao giờ trở thành có, đã có thì không bao giờ trở thành không, cô có thấy điều đó chưa?
Nếu một hạt bụi mà ta không thể làm cho nó từ có trở thành không thì một con người cũng thế.
Trên thế giới, người ta đã tìm cách thủ tiêu bao nhiêu người từng tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do và bình đẳng xã hội, nhưng không ai thực sự thủ tiêu được ai.
Những người họ muốn thủ tiêu vẫn có mặt hoài hoài, và khắp nơi, cô có biết không?
Chúa Ki Tô, thánh Gandhi, Lambrakis, Mục sư Martin Luther King, cô nghĩ họ là "những người chết" hay sao?
Cô mang trong họ từng tế bào của cô.
Lần sau, cô có nghe một cái tin như thế thì cô phải mỉm cười mới được.
Nụ cười lặng lẽ của cô sẽ chứng tỏ rằng cô có trí tuệ và nghị lực lớn.
Ðạo Pháp và nhân loại trông đợi rất nhiều nơi cô.
Tất cả nằm ở trong một cái biết
Tôi có người bạn là nhà khảo cứu khoa học, hiện đang hướng dẫn cho nhiều sinh viên làm luận án tiến sĩ khoa học, làm gì cũng muốn cho scientifique. | Tất cả nằm ở trong một cái biết
Tôi có người bạn là nhà khảo cứu khoa học, hiện đang hướng dẫn cho nhiều sinh viên làm luận án tiến sĩ khoa học, làm gì cũng muốn cho scientifique.
Nhưng ông bạn này lại làm thơ, thành ra nhiều khi anh ấy không được scientifique cho lắm.
Mùa Ðông năm ngoái, ông bạn của tôi trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần khá lớn.
Biết được tình trạng nghiêm trọng, tôi gởi lên cho anh một bức họa nhỏ trong đó chỉ có hình một con sóng vươn đầu trên nước bạc, và một hàng chữ tôi viết bên dưới: "tự bao giờ, sóng vẫn sống đời sống của sóng và đời sống của nước cùng một lúc và anh thở là thở cho tất cả chúng tôi".
Viết câu ấy cho ông bạn khoa học gia có nghĩa là tôi cùng bơi với anh để vượt qua giai đoạn khó khăn.
May mắn cho chúng tôi là cái phao ấy đã giúp nhiều cho tôi và cho ông bạn.
Phần đông chúng ta chỉ thấy rằng chúng ta là sóng mà quên rằng chúng ta là nước.
Chúng ta quen sống với sinh diệt mà không quen sống với bất sinh và bất diệt.
Sóng sống đời sống của nước hoặc ta sống đời sống của bất sinh bất diệt, điều ấy nào có lạ lùng gì, nào có khó khăn gì.
Thì bao giờ mà sóng chẳng sống đời sống của nước, ta chẳng sống đời sống của bất sinh bất diệt?
Chỉ cần biết là ta đang sống trong đời sống của bất sinh bất diệt mà thôi.
Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm.
Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tất cả nằm ở trong một cái biết
Tôi có người bạn là nhà khảo cứu khoa học, hiện đang hướng dẫn cho nhiều sinh viên làm luận án tiến sĩ khoa học, làm gì cũng muốn cho scientifique.
Nhưng ông bạn này lại làm thơ, thành ra nhiều khi anh ấy không được scientifique cho lắm.
Mùa Ðông năm ngoái, ông bạn của tôi trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần khá lớn.
Biết được tình trạng nghiêm trọng, tôi gởi lên cho anh một bức họa nhỏ trong đó chỉ có hình một con sóng vươn đầu trên nước bạc, và một hàng chữ tôi viết bên dưới: "tự bao giờ, sóng vẫn sống đời sống của sóng và đời sống của nước cùng một lúc và anh thở là thở cho tất cả chúng tôi".
Viết câu ấy cho ông bạn khoa học gia có nghĩa là tôi cùng bơi với anh để vượt qua giai đoạn khó khăn.
May mắn cho chúng tôi là cái phao ấy đã giúp nhiều cho tôi và cho ông bạn.
Phần đông chúng ta chỉ thấy rằng chúng ta là sóng mà quên rằng chúng ta là nước.
Chúng ta quen sống với sinh diệt mà không quen sống với bất sinh và bất diệt.
Sóng sống đời sống của nước hoặc ta sống đời sống của bất sinh bất diệt, điều ấy nào có lạ lùng gì, nào có khó khăn gì.
Thì bao giờ mà sóng chẳng sống đời sống của nước, ta chẳng sống đời sống của bất sinh bất diệt?
Chỉ cần biết là ta đang sống trong đời sống của bất sinh bất diệt mà thôi.
Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm.
Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta. | Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm.
Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta.
Trong Duy Thức Học, nếu niệm đi với định và tuệ, thì thất niệm đi với tán loạn và bất chánh tri.
Tán loạn và bất chánh tri chỉ là những gì ngược lại với định và tuệ.
Niệm, định và tuệ là ba trong số năm tâm sở biệt cảnh, còn thất niệm, tán loạn và bất chánh tri là ba trong số hai mươi sáu tâm sở bất thiện.
Fritjob Capra, The Tao of Physics, The Chancer Press, Suffolk.
"Tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương?
Phi tư lương tức ngọa thiền chi yếu giả".
Satipatthan sutta, kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh, được xem như là kinh căn bản về thiền quán của Nam Tông.
Bạn có thể tìm thấy bản dịch Việt Ngữ trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức, Lá Bối, Paris 1976.
"Les termes objectif et subjectif ne designent que des cas limites.
Par la mécanique quantique, nous savons qúil ne peut exister aucun phénomène totalement objectif, c'est à dire independant de l'état de l'observateur.
Corrélativement, tout phenomène subjectif présente une face objective".
(Brian D. Josephson, Science et Conscience, Stock, Paris 1980)
[7].
Thực tại không thể chứa đựng trong khuôn khổ các ý niệm phân biệt
[8].
A lại gia, thức thứ tám, có tác dụng hàm tàng, tức là cất chứa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tất cả nằm trong một tiếng biết, mà biết tức là nhận ra, là chánh niệm.
Bao nhiêu công phu của thiền quán chỉ là để tỉnh dậy mà biết một điều đó: sinh diệt đâu có động gì được đến ta.
Trong Duy Thức Học, nếu niệm đi với định và tuệ, thì thất niệm đi với tán loạn và bất chánh tri.
Tán loạn và bất chánh tri chỉ là những gì ngược lại với định và tuệ.
Niệm, định và tuệ là ba trong số năm tâm sở biệt cảnh, còn thất niệm, tán loạn và bất chánh tri là ba trong số hai mươi sáu tâm sở bất thiện.
Fritjob Capra, The Tao of Physics, The Chancer Press, Suffolk.
"Tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương?
Phi tư lương tức ngọa thiền chi yếu giả".
Satipatthan sutta, kinh thứ 10 trong Trung Bộ Kinh, được xem như là kinh căn bản về thiền quán của Nam Tông.
Bạn có thể tìm thấy bản dịch Việt Ngữ trong cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức, Lá Bối, Paris 1976.
"Les termes objectif et subjectif ne designent que des cas limites.
Par la mécanique quantique, nous savons qúil ne peut exister aucun phénomène totalement objectif, c'est à dire independant de l'état de l'observateur.
Corrélativement, tout phenomène subjectif présente une face objective".
(Brian D. Josephson, Science et Conscience, Stock, Paris 1980)
[7].
Thực tại không thể chứa đựng trong khuôn khổ các ý niệm phân biệt
[8].
A lại gia, thức thứ tám, có tác dụng hàm tàng, tức là cất chứa. | [7].
Thực tại không thể chứa đựng trong khuôn khổ các ý niệm phân biệt
[8].
A lại gia, thức thứ tám, có tác dụng hàm tàng, tức là cất chứa.
Ý niệm về hàm tàng được diễn tả bằng các danh từ năng tàng (khả năng hàm chứa), sở tàng (nội dung được hàm chứa) và ngã ái chất tàng (bị thức thứ bảy là mạt-na bám lấy cho là cái ta).
A lại gia lại còn có tác dụng trì chủng, nghĩa là duy trì tất cả các chủng tử (tức là năng lượng) của vạn pháp, và tác dụng dị thục nghĩa là chuyển biến và chín muồi để làm phát hiện ra các hiện tượng sinh lý, tâm lý và vật lý.
Mạt-na, thức thứ bảy, là một tác dụng bám chặt lấy một phần của A lại Gia mà cho là ngã _ tác dụng nầy gọi là tư lượng.
Yêm-ma-la-thức là tên của thức A-lại-gia khi thức này đã thoát khỏi sự níu kéo của thức mạt na.
Rất nhiều người nghĩ rằng đi vào tứ thiền và tứ không định là đi vào trạng thái tâm không còn đối tượng.
Thực ra tâm lúc nào cũng có đối tượng, nếu không, tâm không phải là tâm.
Trong tứ không định, đối tượng của tâm là sự vô biên của không gian, sự vô biên của thức, tính cách vô sở hữu của vạn vật hoặc tính cách vừa có vừa không của ý thức.
Ðịnh chỉ là trạng thái của nhận thức trong đó không có sự phân biệt chủ thể và đối tượng, nghĩa là trong đó tướng phần của thức không bị kiến phần của thức đối tượng hóa, cho là độc lập ngoài nó.
Tướng phần (nimittabhāga) và kiến phần (darśanabhāga) là hai yếu tố chủ thể và đối tượng tương sinh tương thành của thức, không thể tồn tại ngoài nhau. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | [7].
Thực tại không thể chứa đựng trong khuôn khổ các ý niệm phân biệt
[8].
A lại gia, thức thứ tám, có tác dụng hàm tàng, tức là cất chứa.
Ý niệm về hàm tàng được diễn tả bằng các danh từ năng tàng (khả năng hàm chứa), sở tàng (nội dung được hàm chứa) và ngã ái chất tàng (bị thức thứ bảy là mạt-na bám lấy cho là cái ta).
A lại gia lại còn có tác dụng trì chủng, nghĩa là duy trì tất cả các chủng tử (tức là năng lượng) của vạn pháp, và tác dụng dị thục nghĩa là chuyển biến và chín muồi để làm phát hiện ra các hiện tượng sinh lý, tâm lý và vật lý.
Mạt-na, thức thứ bảy, là một tác dụng bám chặt lấy một phần của A lại Gia mà cho là ngã _ tác dụng nầy gọi là tư lượng.
Yêm-ma-la-thức là tên của thức A-lại-gia khi thức này đã thoát khỏi sự níu kéo của thức mạt na.
Rất nhiều người nghĩ rằng đi vào tứ thiền và tứ không định là đi vào trạng thái tâm không còn đối tượng.
Thực ra tâm lúc nào cũng có đối tượng, nếu không, tâm không phải là tâm.
Trong tứ không định, đối tượng của tâm là sự vô biên của không gian, sự vô biên của thức, tính cách vô sở hữu của vạn vật hoặc tính cách vừa có vừa không của ý thức.
Ðịnh chỉ là trạng thái của nhận thức trong đó không có sự phân biệt chủ thể và đối tượng, nghĩa là trong đó tướng phần của thức không bị kiến phần của thức đối tượng hóa, cho là độc lập ngoài nó.
Tướng phần (nimittabhāga) và kiến phần (darśanabhāga) là hai yếu tố chủ thể và đối tượng tương sinh tương thành của thức, không thể tồn tại ngoài nhau. | Tướng phần (nimittabhāga) và kiến phần (darśanabhāga) là hai yếu tố chủ thể và đối tượng tương sinh tương thành của thức, không thể tồn tại ngoài nhau.
Cả hai cùng có một bản thể: đó là tự thể phần hoặc tự chứng phần, tức là bản chất của thức.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, quê làng Uy Viễn ở Hà Tĩnh.
Walt Whitman, Song of myself: "Do it contradict myself?
Very well then... I contradict myself I am larger... I contain multitudes".
"Il s'agit ici au contraire de pousser jusqu'au bout la conception des particules en tant que réseau d'interconnexions relationnelles.
La philosophie du bootstrap renonce non seulement à l'idée de "briques" élémentaires de la matière, mais à quelque entité fondamentale que ce soit: lois, équations ou principes.
Pour elle, l'univers est un tissu dynamique d'évènements interdépendants.
Aucune propriété d'une quelconque partie de ce tissus n'a valeur de base: toutes résultent des propriétés des autres parties, et c'est la cohérence globale de leurs relations mutuelles qui détermine la structure de tout le tissụ" Fritjob Capra, Le Tao de la Physique, bài tham luận tại tọa đàm Cordue, in trong Science et Conscience, les deux lectures de 'Univers, Stock, Paris, 1980.
L'imagination et L'Ordre Impliqué, bà tham luận của David Bohm tại cuộc tọa đàm Cordoue (tr.
453, Science et Conscience, Stock, Paris, 1976).
Erwin Schrodinger, My view of the world, Cambridge Univ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tướng phần (nimittabhāga) và kiến phần (darśanabhāga) là hai yếu tố chủ thể và đối tượng tương sinh tương thành của thức, không thể tồn tại ngoài nhau.
Cả hai cùng có một bản thể: đó là tự thể phần hoặc tự chứng phần, tức là bản chất của thức.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, quê làng Uy Viễn ở Hà Tĩnh.
Walt Whitman, Song of myself: "Do it contradict myself?
Very well then... I contradict myself I am larger... I contain multitudes".
"Il s'agit ici au contraire de pousser jusqu'au bout la conception des particules en tant que réseau d'interconnexions relationnelles.
La philosophie du bootstrap renonce non seulement à l'idée de "briques" élémentaires de la matière, mais à quelque entité fondamentale que ce soit: lois, équations ou principes.
Pour elle, l'univers est un tissu dynamique d'évènements interdépendants.
Aucune propriété d'une quelconque partie de ce tissus n'a valeur de base: toutes résultent des propriétés des autres parties, et c'est la cohérence globale de leurs relations mutuelles qui détermine la structure de tout le tissụ" Fritjob Capra, Le Tao de la Physique, bài tham luận tại tọa đàm Cordue, in trong Science et Conscience, les deux lectures de 'Univers, Stock, Paris, 1980.
L'imagination et L'Ordre Impliqué, bà tham luận của David Bohm tại cuộc tọa đàm Cordoue (tr.
453, Science et Conscience, Stock, Paris, 1976).
Erwin Schrodinger, My view of the world, Cambridge Univ. | L'imagination et L'Ordre Impliqué, bà tham luận của David Bohm tại cuộc tọa đàm Cordoue (tr.
453, Science et Conscience, Stock, Paris, 1976).
Erwin Schrodinger, My view of the world, Cambridge Univ.
Pháp Tướng Tông: một tông phái Phật Giáo chuyên tham khảo về tướng trạng của vạn pháp.
Những tiếng vô cùng và vô tận vì tạm dùng nên được đặt trong vòng kép.
Các độc giả không quen thuộc với thuyết tương đối có thể chưa hiểu được thế nào là cái liên hệ không-thời-gian bốn chiều mà Einstein nói đến.
Trước Einstein, nhà toán học Ðức Minkowski đã từng nói là nếu tách biệt khỏi nhau, không gian và thời gian chỉ là những bóng ma không có thực, chỉ khi nào hai thứ đó phối hợp với nhau thì chúng mới diễn bày một thực tại.
Thuyết tương đối cho rằng tất cả mọi hiện tượng vật lý đang di động (tất cả mọi tảng đá trên trái đất cũng đang di động theo trái đất) đều chỉ có thể tự xác định cùng một lúc trong không gian và thời gian.
Ví dụ một chiếc máy bay cất cánh từ Paris để đi New Delhi: người kiểm soát phi vụ dưới mặt đất không những phải biết vĩ tuyến x, kinh tuyến y, cao độ z mà thôi; ông ta cũng phải biết thời gian t nữa thì mới đoán định được vị trí của chiếc máy bay trong suốt lộ trình.
Thời gian ở đây là chiều thứ tư vậy.
Không gian, thời gian, vật thể và sự di động liên đới với nhau mà hiện hữu, và khi mật độ (densité) của vật chất lớn thì không gian gần đó cong lại. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | L'imagination et L'Ordre Impliqué, bà tham luận của David Bohm tại cuộc tọa đàm Cordoue (tr.
453, Science et Conscience, Stock, Paris, 1976).
Erwin Schrodinger, My view of the world, Cambridge Univ.
Pháp Tướng Tông: một tông phái Phật Giáo chuyên tham khảo về tướng trạng của vạn pháp.
Những tiếng vô cùng và vô tận vì tạm dùng nên được đặt trong vòng kép.
Các độc giả không quen thuộc với thuyết tương đối có thể chưa hiểu được thế nào là cái liên hệ không-thời-gian bốn chiều mà Einstein nói đến.
Trước Einstein, nhà toán học Ðức Minkowski đã từng nói là nếu tách biệt khỏi nhau, không gian và thời gian chỉ là những bóng ma không có thực, chỉ khi nào hai thứ đó phối hợp với nhau thì chúng mới diễn bày một thực tại.
Thuyết tương đối cho rằng tất cả mọi hiện tượng vật lý đang di động (tất cả mọi tảng đá trên trái đất cũng đang di động theo trái đất) đều chỉ có thể tự xác định cùng một lúc trong không gian và thời gian.
Ví dụ một chiếc máy bay cất cánh từ Paris để đi New Delhi: người kiểm soát phi vụ dưới mặt đất không những phải biết vĩ tuyến x, kinh tuyến y, cao độ z mà thôi; ông ta cũng phải biết thời gian t nữa thì mới đoán định được vị trí của chiếc máy bay trong suốt lộ trình.
Thời gian ở đây là chiều thứ tư vậy.
Không gian, thời gian, vật thể và sự di động liên đới với nhau mà hiện hữu, và khi mật độ (densité) của vật chất lớn thì không gian gần đó cong lại. | Thời gian ở đây là chiều thứ tư vậy.
Không gian, thời gian, vật thể và sự di động liên đới với nhau mà hiện hữu, và khi mật độ (densité) của vật chất lớn thì không gian gần đó cong lại.
Ánh sánh tinh tú đi ngang những khối vật chất như mặt trời đi theo một đường cong, bởi vì không gian ở đây cong hơn những nơi mà mật độ vật chất yếu.
Ánh sáng là năng lượng vì vậy nó cũng có chất lượng (masse), bởi vì vật chất và năng lượng là một, theo công thức trứ danh e = mc2, trong đó e là năng lượng, m là chất lượng và c là tốc độ ánh sáng.
Sự có mặt của vật chất kéo theo tính cách "cong" của không gian, và vì vậy trong thuyết tương đối, không có ý niệm về đường thẳng tuyệt đối theo kiểu toán học của Euclide nữa.
"L'électron ne possède pas de propriétes indépendantes de mon esprit" Fritjof Capra, Le Tao de la Physique, bài tham luận tại tọa dàm Cordoue, (Science et Conscience, Stock, Paris 1980)
[21].
"Il faut considérer la matière sous ses deux aspects complémentaires, onde et particule, et renoncer à ces objects ou à ces choses dont était constituée pour nous depuis toujours la nature"(Alfred Kastler, Cette Étranger Matière, Stock, Paris, 1976)
[22]. |