instruction
stringclasses
1 value
input
stringlengths
1.12k
1.5k
output
stringlengths
181
1.5k
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thêm vào đó, cách đọc, cách hiểu và cách hành trì của những người ấy cũng cứng ngắc như thế. Cái thái độ cố chấp ấy làm người khác không thể chịu đựng được. Vì vậy mà khi các kinh điển Đại Thừa xuất hiện, người ta đã phải dùng những quả trọng pháo rất lớn mới có thể phá vỡ được thành trì của phái bảo thủ. Trong kinh điển Đại Thừa, nhất là trong các kinh điển xuất hiện lúc ban đầu, chúng ta thấy có những câu tuyên bố rất mạnh, có thể nói là gần như cực đoan. Ví dụ: · Khi một ông Vua không ngủ với Hoàng hậu, mà lại ngủ với một người đàn bà khác, thì đứa con sanh ra không thể nào làm Thái tử Đông cung được. · Những người Tiểu Thừa không có bồ đề tâm, không có chí nguyện lớn, họ không phải là con đích của Bụt, họ chỉ là con ghẻ thôi. · Những người Tiểu Thừa là những người chỉ chăm lo cho sự tư lợi của mình, mà không quan tâm tới cái tư lợi của người khác. · Những người Tiểu Thừa là những người chỉ muốn chấm dứt đau khổ mà không có khả năng tạo tác an lạc cho mình và cho mọi người. · Những người Tiểu Thừa chỉ làm thối nát những hạt giống tốt của đạo Bụt mà thôi v.v... Danh từ dùng trong đạo Bụt là Tiêu nha bại chủng. Nha là cái mầm, như trong danh từ mạch nha, chủng tức là hạt giống. Tiểu Thừa là những người tiếp nhận hạt giống từ bi, trí tuệ, giải thoát, an lạc từ đạo Bụt, mà không gieo trồng và phát triển để những hạt giống này trở thành những gì tốt đẹp cho nhân loại, thì họ chỉ làm cho hư thối những hạt giống của Phật Pháp mà thôi.
Đó là những câu nói rất nặng, chĩa mũi dùi về phe bảo thủ. Thoạt nghe, chúng ta nghĩ rằng những câu nói đó hơi quá đáng, thiếu từ bi, và không có ái ngữ. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu cho kỹ và khi thấy được cái thái độ bảo thủ, cứng ngắc của phái Tiểu Thừa, thì chúng ta có thể hiểu được tại sao. Trong lịch sử văn học của kinh điển Đại Thừa, kinh Bát Nhã xuất hiện trước nhất, rồi mới tới kinh Bảo Tích, kinh Hoa Nghiêm. Sau đó mới có những kinh khác như kinh Duy Ma Cật. Tôi không mê kinh Duy Ma Cật lắm, tại vì kinh Duy Ma có những đoạn đi quá đà. Kinh Duy Ma Cật đưa hình bóng của một vị tại gia, tên là Duy Ma Cật (Vimalakīrti), để so sánh với các vị thượng thủ trong giới xuất gia của Bụt, như tôn giả Trưởng lão Xá Lợi Phất (śāriputra). Trong sự so sánh này, ta thấy thầy Xá Lợi Phất là một chú bé con, rất dại khờ, ngây ngô, còn cư sĩ Duy Ma Cật lại là một người rất thông minh, một đại cư sĩ. Thành ra, kinh Duy Ma Cật đã đem đại đức Xá Lợi Phất ra làm trò cười cho thiên hạ. Đại đức Xá Lợi Phất là người anh cả của giáo đoàn khất sĩ, là người được xem là thông minh nhất trong hàng cao đệ của Bụt. Ấy vậy mà trong kinh Duy Ma, đại đức Xá Lợi Phất đã được đưa ra như là hình ảnh của sự nhỏ bé, của sự thiếu thông minh. Khi thấy người đại diện giáo đoàn của Bụt bị nhục mạ, thì mọi người trong giáo đoàn đều cảm thấy bị thương tích, bị xúc phạm. Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật có nhiều tư tưởng rất uyên áo, thâm sâu, như tư tưởng Bất nhị.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó là những câu nói rất nặng, chĩa mũi dùi về phe bảo thủ. Thoạt nghe, chúng ta nghĩ rằng những câu nói đó hơi quá đáng, thiếu từ bi, và không có ái ngữ. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu cho kỹ và khi thấy được cái thái độ bảo thủ, cứng ngắc của phái Tiểu Thừa, thì chúng ta có thể hiểu được tại sao. Trong lịch sử văn học của kinh điển Đại Thừa, kinh Bát Nhã xuất hiện trước nhất, rồi mới tới kinh Bảo Tích, kinh Hoa Nghiêm. Sau đó mới có những kinh khác như kinh Duy Ma Cật. Tôi không mê kinh Duy Ma Cật lắm, tại vì kinh Duy Ma có những đoạn đi quá đà. Kinh Duy Ma Cật đưa hình bóng của một vị tại gia, tên là Duy Ma Cật (Vimalakīrti), để so sánh với các vị thượng thủ trong giới xuất gia của Bụt, như tôn giả Trưởng lão Xá Lợi Phất (śāriputra). Trong sự so sánh này, ta thấy thầy Xá Lợi Phất là một chú bé con, rất dại khờ, ngây ngô, còn cư sĩ Duy Ma Cật lại là một người rất thông minh, một đại cư sĩ. Thành ra, kinh Duy Ma Cật đã đem đại đức Xá Lợi Phất ra làm trò cười cho thiên hạ. Đại đức Xá Lợi Phất là người anh cả của giáo đoàn khất sĩ, là người được xem là thông minh nhất trong hàng cao đệ của Bụt. Ấy vậy mà trong kinh Duy Ma, đại đức Xá Lợi Phất đã được đưa ra như là hình ảnh của sự nhỏ bé, của sự thiếu thông minh. Khi thấy người đại diện giáo đoàn của Bụt bị nhục mạ, thì mọi người trong giáo đoàn đều cảm thấy bị thương tích, bị xúc phạm. Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật có nhiều tư tưởng rất uyên áo, thâm sâu, như tư tưởng Bất nhị.
Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật có nhiều tư tưởng rất uyên áo, thâm sâu, như tư tưởng Bất nhị. Ngoài ra giáo lý kinh Duy Ma Cật còn được trình bày rất khéo léo, rất hay ho, rất đẹp đẽ. Hồi đó, ở Ấn độ có một phong trào văn hóa mới nổi lên, và có những kịch bản nổi tiếng như là Mahābhārata. Những người chép kinh thời đó cũng bị ảnh hưởng của phong trào văn hóa mới này, cho nên các kinh điển Đại Thừa được trình bày theo phương thức của những kịch bản, mỗi chương là một màn kịch. Kinh Duy Ma Cật đã được trình bày theo phương thức đó, và kinh Pháp Hoa sau này cũng được trình bày theo cùng một kỹ thuật. Kinh Duy Ma Cật và những kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó, đã dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn. Ngược lại, kinh Pháp Hoa là kinh Đại Thừa đầu tiên sử dụng ngôn từ hòa ái, chấp nhận mọi bộ phái và mọi khuynh hướng ở trong đạo Bụt. Vì vậy cho nên khi kinh Pháp Hoa ra đời như là có một làn gió mát, một cơn mưa rào, làm dịu lại cái không khí ngột ngạt, đôi co đang xảy ra giữa hai phái bảo thủ và tiến bộ. Vai trò kinh Pháp Hoa trong sự thành hình Đạo Bụt Đại Thừa Như đã nói ở trên, ngay từ kinh Bát Nhã, ta đã thấy những tư tưởng cực đoan, những ngôn từ rất mạnh. Đến khi kinh Duy Ma xuất hiện thì thái độ đó đã lên đến cường độ tột cao của nó. Những tư tưởng này biến thành những phương tiện để luận chiến với Giáo Hội truyền thống.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật có nhiều tư tưởng rất uyên áo, thâm sâu, như tư tưởng Bất nhị. Ngoài ra giáo lý kinh Duy Ma Cật còn được trình bày rất khéo léo, rất hay ho, rất đẹp đẽ. Hồi đó, ở Ấn độ có một phong trào văn hóa mới nổi lên, và có những kịch bản nổi tiếng như là Mahābhārata. Những người chép kinh thời đó cũng bị ảnh hưởng của phong trào văn hóa mới này, cho nên các kinh điển Đại Thừa được trình bày theo phương thức của những kịch bản, mỗi chương là một màn kịch. Kinh Duy Ma Cật đã được trình bày theo phương thức đó, và kinh Pháp Hoa sau này cũng được trình bày theo cùng một kỹ thuật. Kinh Duy Ma Cật và những kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó, đã dùng những quả trọng pháo rất lớn để bắn vào hàng ngũ của những người Thanh văn. Ngược lại, kinh Pháp Hoa là kinh Đại Thừa đầu tiên sử dụng ngôn từ hòa ái, chấp nhận mọi bộ phái và mọi khuynh hướng ở trong đạo Bụt. Vì vậy cho nên khi kinh Pháp Hoa ra đời như là có một làn gió mát, một cơn mưa rào, làm dịu lại cái không khí ngột ngạt, đôi co đang xảy ra giữa hai phái bảo thủ và tiến bộ. Vai trò kinh Pháp Hoa trong sự thành hình Đạo Bụt Đại Thừa Như đã nói ở trên, ngay từ kinh Bát Nhã, ta đã thấy những tư tưởng cực đoan, những ngôn từ rất mạnh. Đến khi kinh Duy Ma xuất hiện thì thái độ đó đã lên đến cường độ tột cao của nó. Những tư tưởng này biến thành những phương tiện để luận chiến với Giáo Hội truyền thống.
Đến khi kinh Duy Ma xuất hiện thì thái độ đó đã lên đến cường độ tột cao của nó. Những tư tưởng này biến thành những phương tiện để luận chiến với Giáo Hội truyền thống. Trên phương diện tư tưởng, chúng ta không có gì để trách móc cả, tại vì những tư tưởng đó rất uyên áo, rất liễu nghĩa, rất tròn đầy. Tuy nhiên, đứng trên phương diện thái độ, ta thấy cung cách đó không đủ tính bao dung, không có được phong thái Đại Thừa, vì lý do đã muốn gạt tất cả những thành phần Thanh văn ra khỏi gia đình của đạo Bụt. Đến khi kinh Pháp Hoa ra đời thì kinh áp dụng một phương thức mới: Rất từ bi, rất bao dung, và ôm lấy truyền thống của Giáo hội vào trọn trong vòng tay của Phật giáo Đại Thừa. Vì vậy, sự ra đời của kinh Pháp Hoa là một hiện tượng rất may mắn, rất đúng lúc cho sự thiết lập cơ sở của Phật giáo Đại Thừa. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và mới biến thành một Giáo hội thực sự. Trước đó thì tuy tư tưởng Đại Thừa đã được phát triển, đã được truyền bá, đã bắt đầu chinh phục được nhiều người, trong đó có cả những người thuộc phái Tiểu Thừa, nhưng giáo hội Đại Thừa chưa được thiết lập như là một tăng đoàn tu tập gồm những người vừa xuất gia vừa tại gia, và chưa có cơ sở tổ chức.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đến khi kinh Duy Ma xuất hiện thì thái độ đó đã lên đến cường độ tột cao của nó. Những tư tưởng này biến thành những phương tiện để luận chiến với Giáo Hội truyền thống. Trên phương diện tư tưởng, chúng ta không có gì để trách móc cả, tại vì những tư tưởng đó rất uyên áo, rất liễu nghĩa, rất tròn đầy. Tuy nhiên, đứng trên phương diện thái độ, ta thấy cung cách đó không đủ tính bao dung, không có được phong thái Đại Thừa, vì lý do đã muốn gạt tất cả những thành phần Thanh văn ra khỏi gia đình của đạo Bụt. Đến khi kinh Pháp Hoa ra đời thì kinh áp dụng một phương thức mới: Rất từ bi, rất bao dung, và ôm lấy truyền thống của Giáo hội vào trọn trong vòng tay của Phật giáo Đại Thừa. Vì vậy, sự ra đời của kinh Pháp Hoa là một hiện tượng rất may mắn, rất đúng lúc cho sự thiết lập cơ sở của Phật giáo Đại Thừa. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và mới biến thành một Giáo hội thực sự. Trước đó thì tuy tư tưởng Đại Thừa đã được phát triển, đã được truyền bá, đã bắt đầu chinh phục được nhiều người, trong đó có cả những người thuộc phái Tiểu Thừa, nhưng giáo hội Đại Thừa chưa được thiết lập như là một tăng đoàn tu tập gồm những người vừa xuất gia vừa tại gia, và chưa có cơ sở tổ chức.
Tuy trước khi kinh Pháp Hoa xuất hiện thì Đại Thừa cũng đã có mặt, nhưng có mặt với tính cách của một số cá nhân rời rạc, giới xuất gia cũng như giới cư sĩ, và nhất là chỉ có mặt trong lãnh vực tư tưởng và kinh điển, nhưng chưa có mặt với tư cách là một giáo đoàn, một tổ chức, một cơ sở. Cho đến khi kinh Pháp Hoa ra đời, với thái độ hòa hoãn, dung hợp, bao bọc, thì lúc đó Bồ Tát Thừa, tức là Đại Thừa, mới có tăng đoàn xuất gia và tăng đoàn tại gia. Sự thành công trong việc tạo dựng một Giáo hội trong đạo Bụt Đại Thừa, đã nhờ rất nhiều vào thái độ hòa giải, điều hợp của kinh Pháp Hoa. Vì vậy cho nên vai trò của kinh Pháp Hoa rất lớn ở trong truyền thống Đại Thừa. Nhận thức của Tông Thiên Thai về kinh Pháp Hoa Tên đầy đủ của kinh là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, tiếng Phạn là Saddharmapundarīka-sūtra. Pundarīka chúng ta thường phiên âm là Tôn-Đà-Lợi, tức là một loại hoa sen màu trắng. Diệu Pháp nghĩa là giáo Pháp mầu nhiệm. Trước chúng ta đã có nhiều nhà chú giải và nghiên cứu về kinh Pháp Hoa. Ở Trung Hoa có một tông phái chuyên môn nghiên cứu kinh Pháp Hoa, diễn dịch rất nhiều về tư tưởng Pháp Hoa và đặt cơ sở lý thuyết và thực hành của mình trên Pháp Hoa. Đó là Tông Thiên Thai (Thiên Thai Tông) mà người đại diện xứng đáng là thầy Trí Giả ở núi Thiên Thai. Trước đó đã có thầy Huệ Tư và kế đến là thầy Huệ Viễn. Sau này thì có thầy Trí Giả, người thiết lập ra những cơ sở vững chãi cho Tông Thiên Thai.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Tuy trước khi kinh Pháp Hoa xuất hiện thì Đại Thừa cũng đã có mặt, nhưng có mặt với tính cách của một số cá nhân rời rạc, giới xuất gia cũng như giới cư sĩ, và nhất là chỉ có mặt trong lãnh vực tư tưởng và kinh điển, nhưng chưa có mặt với tư cách là một giáo đoàn, một tổ chức, một cơ sở. Cho đến khi kinh Pháp Hoa ra đời, với thái độ hòa hoãn, dung hợp, bao bọc, thì lúc đó Bồ Tát Thừa, tức là Đại Thừa, mới có tăng đoàn xuất gia và tăng đoàn tại gia. Sự thành công trong việc tạo dựng một Giáo hội trong đạo Bụt Đại Thừa, đã nhờ rất nhiều vào thái độ hòa giải, điều hợp của kinh Pháp Hoa. Vì vậy cho nên vai trò của kinh Pháp Hoa rất lớn ở trong truyền thống Đại Thừa. Nhận thức của Tông Thiên Thai về kinh Pháp Hoa Tên đầy đủ của kinh là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, tiếng Phạn là Saddharmapundarīka-sūtra. Pundarīka chúng ta thường phiên âm là Tôn-Đà-Lợi, tức là một loại hoa sen màu trắng. Diệu Pháp nghĩa là giáo Pháp mầu nhiệm. Trước chúng ta đã có nhiều nhà chú giải và nghiên cứu về kinh Pháp Hoa. Ở Trung Hoa có một tông phái chuyên môn nghiên cứu kinh Pháp Hoa, diễn dịch rất nhiều về tư tưởng Pháp Hoa và đặt cơ sở lý thuyết và thực hành của mình trên Pháp Hoa. Đó là Tông Thiên Thai (Thiên Thai Tông) mà người đại diện xứng đáng là thầy Trí Giả ở núi Thiên Thai. Trước đó đã có thầy Huệ Tư và kế đến là thầy Huệ Viễn. Sau này thì có thầy Trí Giả, người thiết lập ra những cơ sở vững chãi cho Tông Thiên Thai.
Trước đó đã có thầy Huệ Tư và kế đến là thầy Huệ Viễn. Sau này thì có thầy Trí Giả, người thiết lập ra những cơ sở vững chãi cho Tông Thiên Thai. Trong những tác phẩm của thầy Trí Giả, có tác phẩm Đồng Mông Chỉ Quán mà tất cả các chú, các cô đi tu ở Việt-nam đều phải học. Đồng mông nghĩa là những chú bé và cô bé. Đây là một tác phẩm dạy phép tu thiền cho những người còn trẻ, mới bắt đầu tu. Sau khi đã tu lâu hơn, họ học những tác phẩm khác như Đại Thừa Chỉ Quán. Đứng về phương diện tư tưởng, thầy Trí Giả có tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa, trình bày về những ý nghĩa thâm huyền của kinh Pháp Hoa. Trong đó thầy cắt nghĩa rất dài dòng về khái niệm của thầy, và nhận thức của thầy về Phật Pháp. Chữ Pháp ở trong chữ Diệu Pháp đã được thầy đem ra mổ xẻ, phân tích và trình bày rất cặn kẽ. Các nhà nghiên cứu hiện đại thấy rằng con đường phân tích này không được thích hợp lắm, tại vì kinh Pháp Hoa không có mục đích diễn bày chân lý của thực tại như là một nền triết học. Chữ Pháp trong kinh Pháp Hoa không có nghĩa là những cố gắng để trình bày cái chân lý của thực tại. Ở đây, Diệu Pháp mầu nhiệm không phải là ở chỗ nó có thể trình bày được sự thực về vũ trụ, vạn hữu, và chân lý hiện tại như trong kinh Duy Ma hay kinh Bát Nhã. Chúng ta không thấy những khuynh hướng đó ở trong những phẩm của kinh Pháp Hoa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trước đó đã có thầy Huệ Tư và kế đến là thầy Huệ Viễn. Sau này thì có thầy Trí Giả, người thiết lập ra những cơ sở vững chãi cho Tông Thiên Thai. Trong những tác phẩm của thầy Trí Giả, có tác phẩm Đồng Mông Chỉ Quán mà tất cả các chú, các cô đi tu ở Việt-nam đều phải học. Đồng mông nghĩa là những chú bé và cô bé. Đây là một tác phẩm dạy phép tu thiền cho những người còn trẻ, mới bắt đầu tu. Sau khi đã tu lâu hơn, họ học những tác phẩm khác như Đại Thừa Chỉ Quán. Đứng về phương diện tư tưởng, thầy Trí Giả có tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa, trình bày về những ý nghĩa thâm huyền của kinh Pháp Hoa. Trong đó thầy cắt nghĩa rất dài dòng về khái niệm của thầy, và nhận thức của thầy về Phật Pháp. Chữ Pháp ở trong chữ Diệu Pháp đã được thầy đem ra mổ xẻ, phân tích và trình bày rất cặn kẽ. Các nhà nghiên cứu hiện đại thấy rằng con đường phân tích này không được thích hợp lắm, tại vì kinh Pháp Hoa không có mục đích diễn bày chân lý của thực tại như là một nền triết học. Chữ Pháp trong kinh Pháp Hoa không có nghĩa là những cố gắng để trình bày cái chân lý của thực tại. Ở đây, Diệu Pháp mầu nhiệm không phải là ở chỗ nó có thể trình bày được sự thực về vũ trụ, vạn hữu, và chân lý hiện tại như trong kinh Duy Ma hay kinh Bát Nhã. Chúng ta không thấy những khuynh hướng đó ở trong những phẩm của kinh Pháp Hoa.
Chúng ta không thấy những khuynh hướng đó ở trong những phẩm của kinh Pháp Hoa. Cái Pháp ở đây sở dĩ được gọi là Diệu Pháp là nhờ vào tính cách đại chúng, phổ thông và thực tế của nó, cũng như nhờ ở công năng có thể thực hiện được những điều mà những kinh khác chưa thực hiện được. Pháp này đã mở ra một con đường dung hợp được truyền thống với những tư tưởng mới của Đại Thừa, và tạo nên một không khí hài hòa, ấm áp, vui vẻ, thống nhất giữa Giáo hội Truyền thống và Giáo hội Tân lập. Nhận thức này của chúng ta không giống nhận thức của Tông Thiên Thai, tại vì thầy Trí Giả đã hiểu chữ Pháp như là một sự diễn bày có hệ thống, bằng hình thức triết học của sự thực về pháp giới, về vũ trụ, về vạn hữu. Ta có thể chứng minh điều này khi ta đi sâu vào kinh Pháp Hoa. Bây giờ ta chỉ đưa ra vài ý niệm tổng quát như vậy để khi đi sâu vào kinh thì sẽ không thấy bị lạc lõng. Văn thể và các giai đoạn hình thành của kinh Pháp Hoa Kinh Pháp Hoa có nhiều trùng tụng hơn kinh Duy Ma. Trùng tụng tức là phần kệ tụng ở trong kinh, tiếng Phạn là Geya, mình phiên âm là Già-đà. Kinh Duy Ma chỉ có hai đoạn trùng tụng mà thôi. Đoạn thứ nhất là ca ngợi Bụt, nói về Phật Thân Quang, đoạn thứ hai là nói về gia đình của Như Lai. Nếu đọc kinh Pháp Hoa quý vị sẽ thấy trùng tụng là những đoạn thi kệ lập lại những ý đã được nói trong phần trường hàng (Sūtra). Trường hàng tức là văn xuôi. Khi đọc các kinh Đại Thừa, ta thường có cảm tưởng phần kệ tụng là để tóm thâu lại phần trường hàng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chúng ta không thấy những khuynh hướng đó ở trong những phẩm của kinh Pháp Hoa. Cái Pháp ở đây sở dĩ được gọi là Diệu Pháp là nhờ vào tính cách đại chúng, phổ thông và thực tế của nó, cũng như nhờ ở công năng có thể thực hiện được những điều mà những kinh khác chưa thực hiện được. Pháp này đã mở ra một con đường dung hợp được truyền thống với những tư tưởng mới của Đại Thừa, và tạo nên một không khí hài hòa, ấm áp, vui vẻ, thống nhất giữa Giáo hội Truyền thống và Giáo hội Tân lập. Nhận thức này của chúng ta không giống nhận thức của Tông Thiên Thai, tại vì thầy Trí Giả đã hiểu chữ Pháp như là một sự diễn bày có hệ thống, bằng hình thức triết học của sự thực về pháp giới, về vũ trụ, về vạn hữu. Ta có thể chứng minh điều này khi ta đi sâu vào kinh Pháp Hoa. Bây giờ ta chỉ đưa ra vài ý niệm tổng quát như vậy để khi đi sâu vào kinh thì sẽ không thấy bị lạc lõng. Văn thể và các giai đoạn hình thành của kinh Pháp Hoa Kinh Pháp Hoa có nhiều trùng tụng hơn kinh Duy Ma. Trùng tụng tức là phần kệ tụng ở trong kinh, tiếng Phạn là Geya, mình phiên âm là Già-đà. Kinh Duy Ma chỉ có hai đoạn trùng tụng mà thôi. Đoạn thứ nhất là ca ngợi Bụt, nói về Phật Thân Quang, đoạn thứ hai là nói về gia đình của Như Lai. Nếu đọc kinh Pháp Hoa quý vị sẽ thấy trùng tụng là những đoạn thi kệ lập lại những ý đã được nói trong phần trường hàng (Sūtra). Trường hàng tức là văn xuôi. Khi đọc các kinh Đại Thừa, ta thường có cảm tưởng phần kệ tụng là để tóm thâu lại phần trường hàng.
Trường hàng tức là văn xuôi. Khi đọc các kinh Đại Thừa, ta thường có cảm tưởng phần kệ tụng là để tóm thâu lại phần trường hàng. Có rất nhiều thể tài của kinh điển, như Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Thí dụ, Nhân duyên, Vô vấn, Bản sanh, Bản sự v.v... Ở đây ta mới nói đến hai thể tài đầu của kinh điển đạo Bụt là Trường hàng và Trùng tụng. Ta có thể nghĩ rằng hai thể tài đó xuất hiện đồng thời. Khi còn trẻ tôi thường nghĩ rằng sở dĩ kinh có phần trùng tụng vì phần này dễ nhớ hơn, lý do là thi ca thì dễ đọc và dễ thuộc hơn văn xuôi. Điều đó cũng đúng, nhưng không đúng trong trường hợp này cho lắm. Lý do là lúc mới xuất hiện, kinh điển thường được viết bằng thi kệ mà không viết bằng văn xuôi. Tương tự như kho tàng ca dao tục ngữ của Việt-nam, được truyền lại bằng miệng, gọi là văn chương truyền khẩu. Kinh điển Đại Thừa cũng vậy. Ban đầu kinh xuất hiện dưới hình thức những bài kệ tụng truyền miệng. Do đó với kinh Pháp Hoa, những phần trùng tụng xuất hiện trước, và đó là giai đoạn đầu kinh Pháp Hoa xuất hiện. Ngôn ngữ mà những nhà tư tưởng này sử dụng để diễn bày kinh Pháp Hoa được gọi là tiếng Prakrit, một ngôn ngữ thông dụng trong xã hội Ấn độ thời đó, cho nên dễ hiểu và dễ học thuộc hơn. Ngôn ngữ này có luật lệ riêng của nó, cũng như thơ lục bát của Việt-nam: Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Rất dễ nhớ, rất dễ hiểu. Tuy nhiên, vì là một văn thể có những hình thức và luật lệ riêng, cho nên chữa lại bài văn vần thì hơi khó.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trường hàng tức là văn xuôi. Khi đọc các kinh Đại Thừa, ta thường có cảm tưởng phần kệ tụng là để tóm thâu lại phần trường hàng. Có rất nhiều thể tài của kinh điển, như Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Thí dụ, Nhân duyên, Vô vấn, Bản sanh, Bản sự v.v... Ở đây ta mới nói đến hai thể tài đầu của kinh điển đạo Bụt là Trường hàng và Trùng tụng. Ta có thể nghĩ rằng hai thể tài đó xuất hiện đồng thời. Khi còn trẻ tôi thường nghĩ rằng sở dĩ kinh có phần trùng tụng vì phần này dễ nhớ hơn, lý do là thi ca thì dễ đọc và dễ thuộc hơn văn xuôi. Điều đó cũng đúng, nhưng không đúng trong trường hợp này cho lắm. Lý do là lúc mới xuất hiện, kinh điển thường được viết bằng thi kệ mà không viết bằng văn xuôi. Tương tự như kho tàng ca dao tục ngữ của Việt-nam, được truyền lại bằng miệng, gọi là văn chương truyền khẩu. Kinh điển Đại Thừa cũng vậy. Ban đầu kinh xuất hiện dưới hình thức những bài kệ tụng truyền miệng. Do đó với kinh Pháp Hoa, những phần trùng tụng xuất hiện trước, và đó là giai đoạn đầu kinh Pháp Hoa xuất hiện. Ngôn ngữ mà những nhà tư tưởng này sử dụng để diễn bày kinh Pháp Hoa được gọi là tiếng Prakrit, một ngôn ngữ thông dụng trong xã hội Ấn độ thời đó, cho nên dễ hiểu và dễ học thuộc hơn. Ngôn ngữ này có luật lệ riêng của nó, cũng như thơ lục bát của Việt-nam: Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Rất dễ nhớ, rất dễ hiểu. Tuy nhiên, vì là một văn thể có những hình thức và luật lệ riêng, cho nên chữa lại bài văn vần thì hơi khó.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Rất dễ nhớ, rất dễ hiểu. Tuy nhiên, vì là một văn thể có những hình thức và luật lệ riêng, cho nên chữa lại bài văn vần thì hơi khó. Trong giai đoạn thứ hai của sự hình thành kinh Pháp Hoa, người ta thêm vào phần văn xuôi, tức là phần trường hàng, với mục đích làm cho những đoạn trùng tụng rõ nghĩa hơn lên. Ví dụ như hai câu ca dao kể trên, trong đó có nhiều chữ chiều, nhưng không phải mọi chữ chiều đều có cùng một nghĩa, vì vậy mà ta phải dông dài hơn để giải thích những đoạn thi kệ. Do đó tuy rằng anh chàng văn xuôi, anh chàng trường hàng xuất hiện sau anh chàng trùng tụng mà mình cứ tưởng là anh ta xuất hiện trước, rồi ta mới tóm tắt lại thành thơ cho dễ nhớ. Như vậy, trường hàng, trước tiên là được dùng để giải thích lời kinh. Trong kinh ta thường gặp những câu như: Bụt nói đến đây và muốn tóm tắt lại những nghĩa lý đã nói, nên liền đọc bài kệ sau đây... Đó là điều đã được người ta thêm vào sau, và không đúng với sự hình thành của kinh. Ta phải đổi lại rằng: Sau khi đã nói bài kệ rồi, Bụt thấy nghĩa lý hơi cô đọng nên Ngài thêm những lời giải thích sau đây..., thì đúng hơn. Đứng về phương diện khoa học để nghiên cứu thì ta mới thấy được những điều đó. Quí vị là những người được sống trong thế kỷ thứ hai mươi, đã được thụ hưởng phương pháp văn học sử mới, quý vị có thể khám phá và chấp nhận được những điều này.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Rất dễ nhớ, rất dễ hiểu. Tuy nhiên, vì là một văn thể có những hình thức và luật lệ riêng, cho nên chữa lại bài văn vần thì hơi khó. Trong giai đoạn thứ hai của sự hình thành kinh Pháp Hoa, người ta thêm vào phần văn xuôi, tức là phần trường hàng, với mục đích làm cho những đoạn trùng tụng rõ nghĩa hơn lên. Ví dụ như hai câu ca dao kể trên, trong đó có nhiều chữ chiều, nhưng không phải mọi chữ chiều đều có cùng một nghĩa, vì vậy mà ta phải dông dài hơn để giải thích những đoạn thi kệ. Do đó tuy rằng anh chàng văn xuôi, anh chàng trường hàng xuất hiện sau anh chàng trùng tụng mà mình cứ tưởng là anh ta xuất hiện trước, rồi ta mới tóm tắt lại thành thơ cho dễ nhớ. Như vậy, trường hàng, trước tiên là được dùng để giải thích lời kinh. Trong kinh ta thường gặp những câu như: Bụt nói đến đây và muốn tóm tắt lại những nghĩa lý đã nói, nên liền đọc bài kệ sau đây... Đó là điều đã được người ta thêm vào sau, và không đúng với sự hình thành của kinh. Ta phải đổi lại rằng: Sau khi đã nói bài kệ rồi, Bụt thấy nghĩa lý hơi cô đọng nên Ngài thêm những lời giải thích sau đây..., thì đúng hơn. Đứng về phương diện khoa học để nghiên cứu thì ta mới thấy được những điều đó. Quí vị là những người được sống trong thế kỷ thứ hai mươi, đã được thụ hưởng phương pháp văn học sử mới, quý vị có thể khám phá và chấp nhận được những điều này.
Quí vị là những người được sống trong thế kỷ thứ hai mươi, đã được thụ hưởng phương pháp văn học sử mới, quý vị có thể khám phá và chấp nhận được những điều này. Giai đoạn thứ ba của sự hình thành Pháp Hoa là sự phát triển thêm phần trường hàng, tức là phần văn xuôi. Tại vì khi so các bản tiếng Phạn với nhau, ta thấy có những bản trong đó phần trường hàng ngắn hơn phần trường hàng của những bản khác, nghĩa là kinh Pháp Hoa cũng đã mọc lên như một cây đại thọ, nẩy chồi, đâm nhánh. Giữa thế kỷ thứ hai nó còn thấp nhỏ, nhưng đến cuối thế kỷ thứ hai thì nó cao lớn hơn nhiều. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn kinh được thêm vào những phẩm mới. Trong bản chữ Hán, kinh Pháp Hoa có 28 phẩm và trong bản tiếng Phạn ta đang có, chỉ có 27 phẩm thôi. Sự tìm tòi nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng, kể từ phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới đã được thêm vào. Có thể là khi sử dụng, các thầy thấy có những khuyết điểm, nên họ đã thêm vào những phẩm sau. Trong những phẩm đầu, chúng ta thấy có tư tưởng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Bụt, nghĩa là mọi giới kể cả các vị Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát, ai cũng có khả năng tính thành Bụt. Đây là lý thuyết chủ yếu của kinh Pháp Hoa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Quí vị là những người được sống trong thế kỷ thứ hai mươi, đã được thụ hưởng phương pháp văn học sử mới, quý vị có thể khám phá và chấp nhận được những điều này. Giai đoạn thứ ba của sự hình thành Pháp Hoa là sự phát triển thêm phần trường hàng, tức là phần văn xuôi. Tại vì khi so các bản tiếng Phạn với nhau, ta thấy có những bản trong đó phần trường hàng ngắn hơn phần trường hàng của những bản khác, nghĩa là kinh Pháp Hoa cũng đã mọc lên như một cây đại thọ, nẩy chồi, đâm nhánh. Giữa thế kỷ thứ hai nó còn thấp nhỏ, nhưng đến cuối thế kỷ thứ hai thì nó cao lớn hơn nhiều. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn kinh được thêm vào những phẩm mới. Trong bản chữ Hán, kinh Pháp Hoa có 28 phẩm và trong bản tiếng Phạn ta đang có, chỉ có 27 phẩm thôi. Sự tìm tòi nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng, kể từ phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới đã được thêm vào. Có thể là khi sử dụng, các thầy thấy có những khuyết điểm, nên họ đã thêm vào những phẩm sau. Trong những phẩm đầu, chúng ta thấy có tư tưởng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Bụt, nghĩa là mọi giới kể cả các vị Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát, ai cũng có khả năng tính thành Bụt. Đây là lý thuyết chủ yếu của kinh Pháp Hoa.
Đây là lý thuyết chủ yếu của kinh Pháp Hoa. Nhưng cho đến phẩm 22 ta vẫn chưa thấy nữ giới thành Bụt, cho nên các tổ đã phải thêm vào một phẩm, đó là phẩm thứ 13, trong phẩm này bà dì của Bụt tức là Bà Ma-Ha-Bà-Xa-Bà-Đế Kiều-Đàm-Di và mẹ của La Hầu La , tức là người bạn đường của Bụt trước khi Ngài đi tu, bà Da-Du-Đà-La, cũng được thọ ký để thành Bụt. Tuy vậy phải đợi cho tới khi thấy được sự thiếu sót hay bị chỉ trích thì các thầy mới thêm vào phẩm ấy. Một phẩm khác, phẩm thứ 12, trong đó có nhân vật Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta), cũng đã được thêm vào sau này. Đề-Bà-Đạt-Đa là một người quấy phá Bụt từ lúc Ngài bắt đầu đi tu cho đến khi Ngài thành lập giáo đoàn, cho nên theo nguyên tắc thì ông này không thành Bụt được. Tuy vậy, tư tưởng Pháp Hoa là tư tưởng Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, nghĩa là mỗi chúng sanh đều có khả năng trở thành một người giác ngộ hoàn toàn. Vì vậy mà có một phẩm mới, nói về Đề-Bà-Đạt-Đa, trong đó Đề-Bà-Đạt-Đa cũng được thọ ký và thành Bụt sau này. Có như vậy mới đi tới được sự hoàn thành tư tưởng chính yếu của kinh Pháp Hoa. Đây là lý do của sự hình thành giai đoạn thứ tư của kinh Pháp Hoa, trong đó một số phẩm mới đã được thêm vào. Trong học giới Ấn Độ thời đó đã có một sự hưng thịnh lớn, đã có những lý thuyết mới, những tư trào văn minh mới, do đó nền văn học Phật giáo cũng phải có một hình thái mới.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đây là lý thuyết chủ yếu của kinh Pháp Hoa. Nhưng cho đến phẩm 22 ta vẫn chưa thấy nữ giới thành Bụt, cho nên các tổ đã phải thêm vào một phẩm, đó là phẩm thứ 13, trong phẩm này bà dì của Bụt tức là Bà Ma-Ha-Bà-Xa-Bà-Đế Kiều-Đàm-Di và mẹ của La Hầu La , tức là người bạn đường của Bụt trước khi Ngài đi tu, bà Da-Du-Đà-La, cũng được thọ ký để thành Bụt. Tuy vậy phải đợi cho tới khi thấy được sự thiếu sót hay bị chỉ trích thì các thầy mới thêm vào phẩm ấy. Một phẩm khác, phẩm thứ 12, trong đó có nhân vật Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta), cũng đã được thêm vào sau này. Đề-Bà-Đạt-Đa là một người quấy phá Bụt từ lúc Ngài bắt đầu đi tu cho đến khi Ngài thành lập giáo đoàn, cho nên theo nguyên tắc thì ông này không thành Bụt được. Tuy vậy, tư tưởng Pháp Hoa là tư tưởng Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, nghĩa là mỗi chúng sanh đều có khả năng trở thành một người giác ngộ hoàn toàn. Vì vậy mà có một phẩm mới, nói về Đề-Bà-Đạt-Đa, trong đó Đề-Bà-Đạt-Đa cũng được thọ ký và thành Bụt sau này. Có như vậy mới đi tới được sự hoàn thành tư tưởng chính yếu của kinh Pháp Hoa. Đây là lý do của sự hình thành giai đoạn thứ tư của kinh Pháp Hoa, trong đó một số phẩm mới đã được thêm vào. Trong học giới Ấn Độ thời đó đã có một sự hưng thịnh lớn, đã có những lý thuyết mới, những tư trào văn minh mới, do đó nền văn học Phật giáo cũng phải có một hình thái mới.
Trong học giới Ấn Độ thời đó đã có một sự hưng thịnh lớn, đã có những lý thuyết mới, những tư trào văn minh mới, do đó nền văn học Phật giáo cũng phải có một hình thái mới. Phật Pháp phải được trình bày dưới những hình thái văn chương, nghệ thuật thích hợp với đương thời thì mới được tuổi trẻ và giới trí thức chấp nhận, vì vậy mà đã có một số học giả nhuận kinh Pháp Hoa từ tiếng Prakrit, một ngôn ngữ rất bình dân, không có tính cách thông thái, thành một ngôn ngữ thường dùng trong giới bác học, văn chương, đó là tiếng Sanskrit tức là tiếng Phạn. Những tác phẩm triết học và văn học đương thời đều viết bằng tiếng Phạn. Tương tự như lúc người Pháp mới sang Việt-nam, chữ Nho và chữ Nôm bị mất vị thế, trong khi đó người nói được tiếng Tây mới được xem như là văn minh, mới được trọng vọng. Vì vậy mà có những bài thơ châm biếm: Nào có hay gì cái chữ Nho, Ông Nghè ông Cống cũng nằm co, Chi bằng đi học làm ông Phán, Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò. Prakrit và Sanskrit là hai thứ tiếng gần giống nhau, nhưng hình thái văn pháp và chữ nghĩa của Sanskrit rất khác với Prakrit. Cho nên, đứng về phương diện trường hàng tức là văn xuôi, thì việc nhuận văn rất dễ dàng, nhưng đứng về phương diện trùng tụng thì rất khó dịch. Vì vậy mà có nhiều đoạn trùng tụng đã không sửa lại được thành Sanskrit, nên vẫn phải để nguyên chữ Prakrit. Thành ra tiếng Phạn trong kinh Pháp Hoa cũng như trong một số kinh điển khác là tiếng Phạn lai, nghĩa là một ngôn ngữ trộn lẫn giữa Sanskrit và Prakrit.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong học giới Ấn Độ thời đó đã có một sự hưng thịnh lớn, đã có những lý thuyết mới, những tư trào văn minh mới, do đó nền văn học Phật giáo cũng phải có một hình thái mới. Phật Pháp phải được trình bày dưới những hình thái văn chương, nghệ thuật thích hợp với đương thời thì mới được tuổi trẻ và giới trí thức chấp nhận, vì vậy mà đã có một số học giả nhuận kinh Pháp Hoa từ tiếng Prakrit, một ngôn ngữ rất bình dân, không có tính cách thông thái, thành một ngôn ngữ thường dùng trong giới bác học, văn chương, đó là tiếng Sanskrit tức là tiếng Phạn. Những tác phẩm triết học và văn học đương thời đều viết bằng tiếng Phạn. Tương tự như lúc người Pháp mới sang Việt-nam, chữ Nho và chữ Nôm bị mất vị thế, trong khi đó người nói được tiếng Tây mới được xem như là văn minh, mới được trọng vọng. Vì vậy mà có những bài thơ châm biếm: Nào có hay gì cái chữ Nho, Ông Nghè ông Cống cũng nằm co, Chi bằng đi học làm ông Phán, Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò. Prakrit và Sanskrit là hai thứ tiếng gần giống nhau, nhưng hình thái văn pháp và chữ nghĩa của Sanskrit rất khác với Prakrit. Cho nên, đứng về phương diện trường hàng tức là văn xuôi, thì việc nhuận văn rất dễ dàng, nhưng đứng về phương diện trùng tụng thì rất khó dịch. Vì vậy mà có nhiều đoạn trùng tụng đã không sửa lại được thành Sanskrit, nên vẫn phải để nguyên chữ Prakrit. Thành ra tiếng Phạn trong kinh Pháp Hoa cũng như trong một số kinh điển khác là tiếng Phạn lai, nghĩa là một ngôn ngữ trộn lẫn giữa Sanskrit và Prakrit.
Thành ra tiếng Phạn trong kinh Pháp Hoa cũng như trong một số kinh điển khác là tiếng Phạn lai, nghĩa là một ngôn ngữ trộn lẫn giữa Sanskrit và Prakrit. Các học giả vào thế kỷ 19 và 20 thường gọi tiếng Phạn trong kinh điển đạo Bụt là Buddhist Hybrid Sanskrit, tức là tiếng Phạn lai của đạo Bụt. Sư Cô Chân Đức sẽ đọc cho quí vị nghe một đoạn trùng tụng bằng tiếng Phạn lai, và Sư Cô Viên Quang sẽ đọc cho quí vị nghe cũng đoạn kinh đó bằng tiếng Hán. Bản chữ Hán không lai và rất lưu loát vì được thầy Cưu Ma La Thập, một dịch giả đại tài thực hiện. Đó là bài kệ tụng tóm tắt lại nghĩa lý của Phẩm thứ hai gọi là Phẩm Phương Tiện. Phẩm này có thể xem như là cương lĩnh của kinh Pháp Hoa. Trong tất cả các phẩm, phẩm mà chúng ta phải học kỹ nhất là Phẩm Phương Tiện. Điều tôi vừa nói về hai chữ Diệu Pháp rất là quan trọng, nó cho chúng ta thấy kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa khác nhau. Một kinh đứng về phương diện chuyên môn và triết học, một kinh đứng về phương diện đại chúng và thực tiễn, và nhờ vào ưu điểm ấy mà kinh Pháp Hoa đã thực hiện được sự nghiệp rất lớn lao của mình. Hoa Sen và các tông phái trong đạo Bụt Nhật có một tông phái do Thầy Nhật Liên (Nichiren) thành lập, gọi là Nhật Liên Tông. Tông phái này lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản cho tư tưởng và sự thực hành. Đây là một tông phái nặng về thực hành, và phương pháp thực hành của họ là thay vì niệm Bụt, họ niệm Pháp. Ta biết rằng trong đạo Bụt có rất nhiều phương pháp tu học.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thành ra tiếng Phạn trong kinh Pháp Hoa cũng như trong một số kinh điển khác là tiếng Phạn lai, nghĩa là một ngôn ngữ trộn lẫn giữa Sanskrit và Prakrit. Các học giả vào thế kỷ 19 và 20 thường gọi tiếng Phạn trong kinh điển đạo Bụt là Buddhist Hybrid Sanskrit, tức là tiếng Phạn lai của đạo Bụt. Sư Cô Chân Đức sẽ đọc cho quí vị nghe một đoạn trùng tụng bằng tiếng Phạn lai, và Sư Cô Viên Quang sẽ đọc cho quí vị nghe cũng đoạn kinh đó bằng tiếng Hán. Bản chữ Hán không lai và rất lưu loát vì được thầy Cưu Ma La Thập, một dịch giả đại tài thực hiện. Đó là bài kệ tụng tóm tắt lại nghĩa lý của Phẩm thứ hai gọi là Phẩm Phương Tiện. Phẩm này có thể xem như là cương lĩnh của kinh Pháp Hoa. Trong tất cả các phẩm, phẩm mà chúng ta phải học kỹ nhất là Phẩm Phương Tiện. Điều tôi vừa nói về hai chữ Diệu Pháp rất là quan trọng, nó cho chúng ta thấy kinh Duy Ma và kinh Pháp Hoa khác nhau. Một kinh đứng về phương diện chuyên môn và triết học, một kinh đứng về phương diện đại chúng và thực tiễn, và nhờ vào ưu điểm ấy mà kinh Pháp Hoa đã thực hiện được sự nghiệp rất lớn lao của mình. Hoa Sen và các tông phái trong đạo Bụt Nhật có một tông phái do Thầy Nhật Liên (Nichiren) thành lập, gọi là Nhật Liên Tông. Tông phái này lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản cho tư tưởng và sự thực hành. Đây là một tông phái nặng về thực hành, và phương pháp thực hành của họ là thay vì niệm Bụt, họ niệm Pháp. Ta biết rằng trong đạo Bụt có rất nhiều phương pháp tu học.
Đây là một tông phái nặng về thực hành, và phương pháp thực hành của họ là thay vì niệm Bụt, họ niệm Pháp. Ta biết rằng trong đạo Bụt có rất nhiều phương pháp tu học. Phương pháp niệm có công năng thoa dịu những đau khổ, những nhọc nhằn, những vọng tưởng của mình. Âm thanh của Bụt về được với thân tâm ta thì ta sẽ thấy êm dịu nhẹ nhàng, thanh thoát. Nếu những năng lượng của Bụt như thức tỉnh và thương yêu về an trú trong ta và nếu ta tiếp nhận được chúng từ đáy tim, thì ta sẽ được khoẻ khoắn vô vàn. Niệm Bụt có thể dùng âm thanh, gọi là Trì danh, mà cũng có thể dùng hình ảnh, gọi là Quán tưởng. Niệm Bụt cũng có thể dùng hơi thở, gọi là Sổ tức. Đưa tất cả những tính chất của Bụt về trong tâm thức mình, hoặc bằng hình ảnh, âm thanh, hoặc bằng đức tính hay giáo pháp (recollections of the Buddha). Tuy vậy, phái Nhật Liên Tông không chủ trương niệm Bụt, mà lại chủ trương niệm Pháp, tại vì Pháp niệm là một trong nhiều phương pháp ānussati. Pháp của họ niệm là Pháp Hoa, và câu niệm của Tông phái Nhật Liên là Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Như ta đã biết, kinh Pháp Hoa đã đạt đến một địa vị rất lớn trong kho tàng kinh điển đạo Bụt, và thường được xem là Vua của các kinh, cho nên niệm kinh này là niệm tất cả các kinh. Kinh thì có chứa Bụt, vì vậy mà niệm Pháp cũng là niệm Bụt và đồng thời cũng là niệm Tăng. Niệm như vậy thì trong tâm sẽ có niềm tin. Câu niệm tiếng Nhật là Namu Myōhō Reng-kyō. Kyō là Kinh, Reng là Liên Hoa, và Myōhō là Diệu Pháp.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đây là một tông phái nặng về thực hành, và phương pháp thực hành của họ là thay vì niệm Bụt, họ niệm Pháp. Ta biết rằng trong đạo Bụt có rất nhiều phương pháp tu học. Phương pháp niệm có công năng thoa dịu những đau khổ, những nhọc nhằn, những vọng tưởng của mình. Âm thanh của Bụt về được với thân tâm ta thì ta sẽ thấy êm dịu nhẹ nhàng, thanh thoát. Nếu những năng lượng của Bụt như thức tỉnh và thương yêu về an trú trong ta và nếu ta tiếp nhận được chúng từ đáy tim, thì ta sẽ được khoẻ khoắn vô vàn. Niệm Bụt có thể dùng âm thanh, gọi là Trì danh, mà cũng có thể dùng hình ảnh, gọi là Quán tưởng. Niệm Bụt cũng có thể dùng hơi thở, gọi là Sổ tức. Đưa tất cả những tính chất của Bụt về trong tâm thức mình, hoặc bằng hình ảnh, âm thanh, hoặc bằng đức tính hay giáo pháp (recollections of the Buddha). Tuy vậy, phái Nhật Liên Tông không chủ trương niệm Bụt, mà lại chủ trương niệm Pháp, tại vì Pháp niệm là một trong nhiều phương pháp ānussati. Pháp của họ niệm là Pháp Hoa, và câu niệm của Tông phái Nhật Liên là Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Như ta đã biết, kinh Pháp Hoa đã đạt đến một địa vị rất lớn trong kho tàng kinh điển đạo Bụt, và thường được xem là Vua của các kinh, cho nên niệm kinh này là niệm tất cả các kinh. Kinh thì có chứa Bụt, vì vậy mà niệm Pháp cũng là niệm Bụt và đồng thời cũng là niệm Tăng. Niệm như vậy thì trong tâm sẽ có niềm tin. Câu niệm tiếng Nhật là Namu Myōhō Reng-kyō. Kyō là Kinh, Reng là Liên Hoa, và Myōhō là Diệu Pháp.
Niệm như vậy thì trong tâm sẽ có niềm tin. Câu niệm tiếng Nhật là Namu Myōhō Reng-kyō. Kyō là Kinh, Reng là Liên Hoa, và Myōhō là Diệu Pháp. Vì vậy mà ta thường thấy các thầy thuộc tông phái này tay cầm trống đánh nhịp, miệng niệm Namu Myōhō Reng-kyō theo từng bước chân. Đó là phương cách thực tập của họ, cũng giống như những người tu trong các đạo tràng tịnh độ của ta, tay lần tràng hạt, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Tôi thích lần chuỗi hạt hơn vì nó im lặng, dễ thương, còn đánh trống thì có thể làm bận tâm người nghe. Tuy vậy tiếng trống cũng có thể giúp người khác thức tỉnh và quay về với việc thực tập niệm Bụt. Hồi sang Ấn Độ hoằng Pháp, lúc viếng thăm thành phố Vaiśāli, mỗi buổi sáng tôi đều được nghe tiếng trống của một vị sư thuộc Nhật Liên Tông, từ chùa Nhật Bản đi sang Tháp Bụt, nằm bên hông của cư-xá nơi chúng tôi ở. Sáng nào đúng vào giờ đó, chúng tôi cũng được nghe tiếng trống tung, tung, tung hòa theo tiếng niệm Namu Myōhō Reng-kyō của vị Tăng người Nhật, rất thanh thoát trong buổi sáng tinh sương. Như vậy có những tông phái chuyên niệm Bụt, có những tông phái chuyên niệm Pháp, và chúng ta cần thêm một tông phái chuyên niệm Tăng, tại vì Tăng Bảo rất quan trọng mà mình thường coi nhẹ. Sở dĩ vậy là vì đôi khi mình thấy Tăng bảo làm cho mình buồn phiền. Thánh Tăng thì mình ít có dịp được tiếp xúc, còn trong phàm tăng thì thế nào cũng còn có những buồn, giận, ganh, ghét, cho nên mình không tin tưởng mấy.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Niệm như vậy thì trong tâm sẽ có niềm tin. Câu niệm tiếng Nhật là Namu Myōhō Reng-kyō. Kyō là Kinh, Reng là Liên Hoa, và Myōhō là Diệu Pháp. Vì vậy mà ta thường thấy các thầy thuộc tông phái này tay cầm trống đánh nhịp, miệng niệm Namu Myōhō Reng-kyō theo từng bước chân. Đó là phương cách thực tập của họ, cũng giống như những người tu trong các đạo tràng tịnh độ của ta, tay lần tràng hạt, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Tôi thích lần chuỗi hạt hơn vì nó im lặng, dễ thương, còn đánh trống thì có thể làm bận tâm người nghe. Tuy vậy tiếng trống cũng có thể giúp người khác thức tỉnh và quay về với việc thực tập niệm Bụt. Hồi sang Ấn Độ hoằng Pháp, lúc viếng thăm thành phố Vaiśāli, mỗi buổi sáng tôi đều được nghe tiếng trống của một vị sư thuộc Nhật Liên Tông, từ chùa Nhật Bản đi sang Tháp Bụt, nằm bên hông của cư-xá nơi chúng tôi ở. Sáng nào đúng vào giờ đó, chúng tôi cũng được nghe tiếng trống tung, tung, tung hòa theo tiếng niệm Namu Myōhō Reng-kyō của vị Tăng người Nhật, rất thanh thoát trong buổi sáng tinh sương. Như vậy có những tông phái chuyên niệm Bụt, có những tông phái chuyên niệm Pháp, và chúng ta cần thêm một tông phái chuyên niệm Tăng, tại vì Tăng Bảo rất quan trọng mà mình thường coi nhẹ. Sở dĩ vậy là vì đôi khi mình thấy Tăng bảo làm cho mình buồn phiền. Thánh Tăng thì mình ít có dịp được tiếp xúc, còn trong phàm tăng thì thế nào cũng còn có những buồn, giận, ganh, ghét, cho nên mình không tin tưởng mấy.
Thánh Tăng thì mình ít có dịp được tiếp xúc, còn trong phàm tăng thì thế nào cũng còn có những buồn, giận, ganh, ghét, cho nên mình không tin tưởng mấy. Tuy nhiên nếu không có Tăng thì Bụt và Pháp cũng không có, và chính nhờ những phàm tăng mà mình mới có cơ hội nhìn vào để tự tu sửa, mà chuyển hóa chính mình. Vì vậy các Thầy, các Sư Cô, Sư Chú sau này nên ráng lập nên một tông phái, gọi là Tông phái niệm Tăng, Sanghanussati. Phái Nhật Liên Tông, tiếng Nhật là Nichiren-shū,sau này được cải cách, và một tông phái mới ra đời gọi là Nhật-Liên Chân-Tông (Nichiren-shō-shū). Từ đây đã phát xuất ra những giáo phái hiện đang hoạt động rất mạnh tại Nhật Bản, ví dụ như Sáng-Giá-Học-Hội (Sōkagakkai), một giáo phái rất mạnh, đã làm nơi nương tựa cho một đảng chính trị rất bề thế ở Nhật. Một tông phái lớn mạnh khác đã từng mời tôi sang giảng diễn là tông phái Lập-Chính Giải-Chính (Risshō Koseikai), họ có đại biểu trong quốc hội. Đời Hậu Lê, miền Bắc Việt-nam có một tông phái gọi là Liên Tông, do một vị trong Hoàng phái là Lân Giác Đại Sĩ thành lập. Tục truyền rằng lúc đào đất để làm hồ và xây nhà, đại sĩ tìm thấy một cọng sen ở trong đất. Ngài nghĩ rằng đây là ý của Bụt, Pháp và Tăng muốn mình lập một ngôi chùa ở đây, cho nên đã cho xây Chùa và thành lập một thiền phái để tu học, gọi là Liên Tông. Nếu có thì giờ, quí vị nên sưu tầm, nghiên cứu thêm về tông phái Phật Giáo này. Trong Việt-nam Phật Giáo Sử Luận, quyển III có một ít tài liệu về phái Liên Tông.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thánh Tăng thì mình ít có dịp được tiếp xúc, còn trong phàm tăng thì thế nào cũng còn có những buồn, giận, ganh, ghét, cho nên mình không tin tưởng mấy. Tuy nhiên nếu không có Tăng thì Bụt và Pháp cũng không có, và chính nhờ những phàm tăng mà mình mới có cơ hội nhìn vào để tự tu sửa, mà chuyển hóa chính mình. Vì vậy các Thầy, các Sư Cô, Sư Chú sau này nên ráng lập nên một tông phái, gọi là Tông phái niệm Tăng, Sanghanussati. Phái Nhật Liên Tông, tiếng Nhật là Nichiren-shū,sau này được cải cách, và một tông phái mới ra đời gọi là Nhật-Liên Chân-Tông (Nichiren-shō-shū). Từ đây đã phát xuất ra những giáo phái hiện đang hoạt động rất mạnh tại Nhật Bản, ví dụ như Sáng-Giá-Học-Hội (Sōkagakkai), một giáo phái rất mạnh, đã làm nơi nương tựa cho một đảng chính trị rất bề thế ở Nhật. Một tông phái lớn mạnh khác đã từng mời tôi sang giảng diễn là tông phái Lập-Chính Giải-Chính (Risshō Koseikai), họ có đại biểu trong quốc hội. Đời Hậu Lê, miền Bắc Việt-nam có một tông phái gọi là Liên Tông, do một vị trong Hoàng phái là Lân Giác Đại Sĩ thành lập. Tục truyền rằng lúc đào đất để làm hồ và xây nhà, đại sĩ tìm thấy một cọng sen ở trong đất. Ngài nghĩ rằng đây là ý của Bụt, Pháp và Tăng muốn mình lập một ngôi chùa ở đây, cho nên đã cho xây Chùa và thành lập một thiền phái để tu học, gọi là Liên Tông. Nếu có thì giờ, quí vị nên sưu tầm, nghiên cứu thêm về tông phái Phật Giáo này. Trong Việt-nam Phật Giáo Sử Luận, quyển III có một ít tài liệu về phái Liên Tông.
Nếu có thì giờ, quí vị nên sưu tầm, nghiên cứu thêm về tông phái Phật Giáo này. Trong Việt-nam Phật Giáo Sử Luận, quyển III có một ít tài liệu về phái Liên Tông. Tư tưởng về Hoa Sen cũng đã có từ đời nhà Lý. Một hôm vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát đưa cho một cành sen, thức dậy, vua bàn với các quan trong triều và các quan đề nghị nên xây một ngôi chùa có hình thái hoa sen để thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì vậy năm 1049 vua đã cho xây Chùa Diên Hựu, tức là Chùa Một Cột ngày nay. Hoa sen trắng tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh, cho cái Phật tánh mà ai cũng có trong người của mình. Vì vậy cho nên thông điệp chính của kinh Pháp Hoa là tất cả mọi người đều có hạt giống giác ngộ, hạt giống Bụt trong lòng: Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, ai cũng có thể trở nên một vị toàn giác, một vị Bụt. Tư tưởng này tiềm tàng trong các kinh Nguyên Thủy và các kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó. Mãi cho đến khi kinh Pháp Hoa ra đời thì tư tưởng đó mới thật sự biểu hiện một cách tuyệt đối. Đạo Bụt Đại Thừa chống báng việc thần thánh hóa Bụt Thích Ca Ta nên biết rằng khi Bụt nhập diệt rồi thì có một niềm thương tiếc rất lớn lao phát sinh trong giáo đoàn. Ai cũng thấy có một khoảng trống rất lớn. Điều này cũng đã xảy ra trong lịch sử của Ki-tô Giáo. Khi Chúa mất đi, sự thương tiếc và quí trọng Chúa cũng đã trở nên rất lớn lao. Đối với đạo Bụt, chính nhờ sự nhập diệt mà nhiều vị đệ tử của Ngài mới thấy được giá trị của Bụt Thích Ca.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nếu có thì giờ, quí vị nên sưu tầm, nghiên cứu thêm về tông phái Phật Giáo này. Trong Việt-nam Phật Giáo Sử Luận, quyển III có một ít tài liệu về phái Liên Tông. Tư tưởng về Hoa Sen cũng đã có từ đời nhà Lý. Một hôm vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy đức Quán Thế Âm Bồ Tát đưa cho một cành sen, thức dậy, vua bàn với các quan trong triều và các quan đề nghị nên xây một ngôi chùa có hình thái hoa sen để thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì vậy năm 1049 vua đã cho xây Chùa Diên Hựu, tức là Chùa Một Cột ngày nay. Hoa sen trắng tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh, cho cái Phật tánh mà ai cũng có trong người của mình. Vì vậy cho nên thông điệp chính của kinh Pháp Hoa là tất cả mọi người đều có hạt giống giác ngộ, hạt giống Bụt trong lòng: Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, ai cũng có thể trở nên một vị toàn giác, một vị Bụt. Tư tưởng này tiềm tàng trong các kinh Nguyên Thủy và các kinh Đại Thừa xuất hiện trước đó. Mãi cho đến khi kinh Pháp Hoa ra đời thì tư tưởng đó mới thật sự biểu hiện một cách tuyệt đối. Đạo Bụt Đại Thừa chống báng việc thần thánh hóa Bụt Thích Ca Ta nên biết rằng khi Bụt nhập diệt rồi thì có một niềm thương tiếc rất lớn lao phát sinh trong giáo đoàn. Ai cũng thấy có một khoảng trống rất lớn. Điều này cũng đã xảy ra trong lịch sử của Ki-tô Giáo. Khi Chúa mất đi, sự thương tiếc và quí trọng Chúa cũng đã trở nên rất lớn lao. Đối với đạo Bụt, chính nhờ sự nhập diệt mà nhiều vị đệ tử của Ngài mới thấy được giá trị của Bụt Thích Ca.
Khi Chúa mất đi, sự thương tiếc và quí trọng Chúa cũng đã trở nên rất lớn lao. Đối với đạo Bụt, chính nhờ sự nhập diệt mà nhiều vị đệ tử của Ngài mới thấy được giá trị của Bụt Thích Ca. Sự thương tiếc, quí trọng đó đã được biểu hiện trên mọi hình thức. Hình thức đầu tiên là phải lập Tháp để thờ. Hình thức thứ hai là thần thánh hóa Bụt, trang sức cho Bụt bằng những phép thần thông, những khả năng mà người thường không thể đạt được. Như vậy, do sự thương tiếc, quí trọng, yêu mến mà người ta đã đem những phép tắc thần thông phủ trùm lên con người của Bụt, và từ một con người, Bụt biến thành một Siêu nhân, một Superman. Khi vòng hào quang phủ nhiều quá lên người, thì Bụt mất đi cái tính cách người của Bụt, cho nên giữa Bụt và chúng ta có một sự xa cách. Đó là một điểm tuy tích cực nhưng cũng là tiêu cực, vì từ đó mà có một số đông người đã cho rằng những điều Bụt làm, chỉ có Bụt mới làm được, còn chúng ta thì đành bó tay! Trong khi đó thì tinh thần giáo lý Nguyên Thủy của Bụt không phải như vậy. Khi cái quan niệm về Bụt đã đạt tới độ cho Bụt là một siêu nhân, thì tự nhiên trong giáo hội phát sinh ra niềm tin rằng Bụt là một người rất đặc biệt, không phải là người thường, chúng ta là học trò của Ngài thì không thể nào thực hiện được những gì Bụt đã thực hiện. Khi mình nói tôi không thể nào thành Bụt được hay tôi không cần phải thành Bụt vì tôi hiện cũng đang có nhiều hạnh phúc, thì khi đó mình là những người có mặc cảm tự ty, và chống đối lại tinh thần Nguyên Thủy của Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Khi Chúa mất đi, sự thương tiếc và quí trọng Chúa cũng đã trở nên rất lớn lao. Đối với đạo Bụt, chính nhờ sự nhập diệt mà nhiều vị đệ tử của Ngài mới thấy được giá trị của Bụt Thích Ca. Sự thương tiếc, quí trọng đó đã được biểu hiện trên mọi hình thức. Hình thức đầu tiên là phải lập Tháp để thờ. Hình thức thứ hai là thần thánh hóa Bụt, trang sức cho Bụt bằng những phép thần thông, những khả năng mà người thường không thể đạt được. Như vậy, do sự thương tiếc, quí trọng, yêu mến mà người ta đã đem những phép tắc thần thông phủ trùm lên con người của Bụt, và từ một con người, Bụt biến thành một Siêu nhân, một Superman. Khi vòng hào quang phủ nhiều quá lên người, thì Bụt mất đi cái tính cách người của Bụt, cho nên giữa Bụt và chúng ta có một sự xa cách. Đó là một điểm tuy tích cực nhưng cũng là tiêu cực, vì từ đó mà có một số đông người đã cho rằng những điều Bụt làm, chỉ có Bụt mới làm được, còn chúng ta thì đành bó tay! Trong khi đó thì tinh thần giáo lý Nguyên Thủy của Bụt không phải như vậy. Khi cái quan niệm về Bụt đã đạt tới độ cho Bụt là một siêu nhân, thì tự nhiên trong giáo hội phát sinh ra niềm tin rằng Bụt là một người rất đặc biệt, không phải là người thường, chúng ta là học trò của Ngài thì không thể nào thực hiện được những gì Bụt đã thực hiện. Khi mình nói tôi không thể nào thành Bụt được hay tôi không cần phải thành Bụt vì tôi hiện cũng đang có nhiều hạnh phúc, thì khi đó mình là những người có mặc cảm tự ty, và chống đối lại tinh thần Nguyên Thủy của Bụt.
Đây là thái độ mà Phật giáo Đại Thừa công phá kịch liệt, vì người ta đưa Bụt lên cao quá, vẽ ra nhiều hào quang chói sáng quá quanh Bụt, làm cho Bụt mất hết bản chất con người của Ngài. Khi viết cuốn Đường Xưa Mây Trắng, tôi đã cố gắng tháo gỡ những hào quang đó để đưa Bụt về như một con người gần gũi chúng ta, để chúng ta có thể thấy được Bụt là một người anh, một người thầy, một người bạn, một người cha. Trong Ki-tô giáo ta cũng thấy những hiện tượng tương tự. Khi đức Ki-tô còn sống, có lẽ người ta đã không quí trọng Ngài bằng lúc Ngài đã qua đời. Lúc đó mười mấy đệ tử của Ngài và những người đã được gần gũi Chúa mới giật mình. Bấy giờ họ mới nhận thức được rằng những giây phút mình được gần Chúa, được ngồi ăn cơm với Chúa là những giây phút rất quí báu. Những tiếc thương đó làm cho niềm tin, làm cho năng lượng ở trong những đệ tử của Chúa trở nên rất lớn lao. Hồi đó Ki-tô giáo chưa có giáo hội, chỉ mới có những người mang tư tưởng mình là người theo Chúa Ki-tô thôi. Nhưng vì những tiếc thương đó mà người ta muốn thành lập một truyền thống. Hồi đó Ki-tô giáo bị cấm đoán vì chính quyền không nhìn nhận Chúa, và cũng không cho phép nhóm người có cảm tình với Chúa hoạt động. Họ bị xem là nhóm gây xáo trộn trong xã hội. Chúng ta biết rằng Bụt cũng là một nhà cách mạng, Bụt đã công kích chế độ giai cấp và sự kỳ thị phụ nữ, chống đối tới cùng những tư tưởng của Bà La Môn Giáo. Nhưng Bụt đã may mắn hơn Chúa Ki-tô, Ngài không bị đóng đinh.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đây là thái độ mà Phật giáo Đại Thừa công phá kịch liệt, vì người ta đưa Bụt lên cao quá, vẽ ra nhiều hào quang chói sáng quá quanh Bụt, làm cho Bụt mất hết bản chất con người của Ngài. Khi viết cuốn Đường Xưa Mây Trắng, tôi đã cố gắng tháo gỡ những hào quang đó để đưa Bụt về như một con người gần gũi chúng ta, để chúng ta có thể thấy được Bụt là một người anh, một người thầy, một người bạn, một người cha. Trong Ki-tô giáo ta cũng thấy những hiện tượng tương tự. Khi đức Ki-tô còn sống, có lẽ người ta đã không quí trọng Ngài bằng lúc Ngài đã qua đời. Lúc đó mười mấy đệ tử của Ngài và những người đã được gần gũi Chúa mới giật mình. Bấy giờ họ mới nhận thức được rằng những giây phút mình được gần Chúa, được ngồi ăn cơm với Chúa là những giây phút rất quí báu. Những tiếc thương đó làm cho niềm tin, làm cho năng lượng ở trong những đệ tử của Chúa trở nên rất lớn lao. Hồi đó Ki-tô giáo chưa có giáo hội, chỉ mới có những người mang tư tưởng mình là người theo Chúa Ki-tô thôi. Nhưng vì những tiếc thương đó mà người ta muốn thành lập một truyền thống. Hồi đó Ki-tô giáo bị cấm đoán vì chính quyền không nhìn nhận Chúa, và cũng không cho phép nhóm người có cảm tình với Chúa hoạt động. Họ bị xem là nhóm gây xáo trộn trong xã hội. Chúng ta biết rằng Bụt cũng là một nhà cách mạng, Bụt đã công kích chế độ giai cấp và sự kỳ thị phụ nữ, chống đối tới cùng những tư tưởng của Bà La Môn Giáo. Nhưng Bụt đã may mắn hơn Chúa Ki-tô, Ngài không bị đóng đinh.
Nhưng Bụt đã may mắn hơn Chúa Ki-tô, Ngài không bị đóng đinh. Các đệ tử của Chúa và những vị đã được gặp Chúa, đã được nghe Chúa nói chuyện, cùng nhau thành lập một Giáo hội tư, nghĩa là không chính thức. Họ tổ chức hội họp với nhau, ôn lại những lời Chúa Ki-tô đã nói và thực tập theo lời Chúa Ki-tô dạy. Họ dùng hình tượng của con cá như một dấu hiệu bí mật để tụ họp. Trong Thánh Kinh có đoạn nói rằng: Này các vị, đừng đánh cá nữa, hãy đi theo tôi để "đánh cá người" nghĩa là để giúp người trở về với chân lý, tung ra một màng lưới cứu người. Vì vậy mà hình tượng của con cá rất quan trọng ở trong đạo Ki-tô. Khi đi dọc bờ biển trong vùng, thỉnh thoảng người ta thấy được hình dáng một con cá vẽ rất đơn sơ. Nếu đi theo những hình vẽ trên bãi cát hay trên mỏm đá, chúng ta có thể tới nơi hội họp bí mật của những đệ tử đầu tiên của Chúa. Cũng trong cái tâm trạng thương tiếc và kính phục đó, những đệ tử đầu tiên của Chúa đã khoác lên người của Chúa những vòng hào quang rất lớn. Họ cũng làm giống hệt như bên đạo Bụt, cho rằng tuy Bụt đã mất rồi, nhưng Ngài vẫn còn sống hoài với chúng ta. Chúa Ki-tô cũng vậy, Chúa tuy đã bị giết rồi, nhưng Chúa đã sống lại và Chúa bất tử. Tuy nhiên hai tôn giáo rất khác nhau. Bên đạo Bụt có quan niệm Pháp thân thường tại, còn bên đạo Chúa có quan niệm Chúa vĩnh cửu, Chúa thường hằng ở trên đời, The Living Christ. Ai cũng muốn Bụt của mình, Chúa của mình vừa vĩnh viễn, vừa có hào quang.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nhưng Bụt đã may mắn hơn Chúa Ki-tô, Ngài không bị đóng đinh. Các đệ tử của Chúa và những vị đã được gặp Chúa, đã được nghe Chúa nói chuyện, cùng nhau thành lập một Giáo hội tư, nghĩa là không chính thức. Họ tổ chức hội họp với nhau, ôn lại những lời Chúa Ki-tô đã nói và thực tập theo lời Chúa Ki-tô dạy. Họ dùng hình tượng của con cá như một dấu hiệu bí mật để tụ họp. Trong Thánh Kinh có đoạn nói rằng: Này các vị, đừng đánh cá nữa, hãy đi theo tôi để "đánh cá người" nghĩa là để giúp người trở về với chân lý, tung ra một màng lưới cứu người. Vì vậy mà hình tượng của con cá rất quan trọng ở trong đạo Ki-tô. Khi đi dọc bờ biển trong vùng, thỉnh thoảng người ta thấy được hình dáng một con cá vẽ rất đơn sơ. Nếu đi theo những hình vẽ trên bãi cát hay trên mỏm đá, chúng ta có thể tới nơi hội họp bí mật của những đệ tử đầu tiên của Chúa. Cũng trong cái tâm trạng thương tiếc và kính phục đó, những đệ tử đầu tiên của Chúa đã khoác lên người của Chúa những vòng hào quang rất lớn. Họ cũng làm giống hệt như bên đạo Bụt, cho rằng tuy Bụt đã mất rồi, nhưng Ngài vẫn còn sống hoài với chúng ta. Chúa Ki-tô cũng vậy, Chúa tuy đã bị giết rồi, nhưng Chúa đã sống lại và Chúa bất tử. Tuy nhiên hai tôn giáo rất khác nhau. Bên đạo Bụt có quan niệm Pháp thân thường tại, còn bên đạo Chúa có quan niệm Chúa vĩnh cửu, Chúa thường hằng ở trên đời, The Living Christ. Ai cũng muốn Bụt của mình, Chúa của mình vừa vĩnh viễn, vừa có hào quang.
Ai cũng muốn Bụt của mình, Chúa của mình vừa vĩnh viễn, vừa có hào quang. Vì vậy cho nên tôn giáo thường được thiết lập trên sự thương tiếc, mến chuộng, và sự thần thánh hóa vị Giáo chủ của mình. Bên đạo Bụt, có khuyết điểm là cái mặc cảm rằng mình không bao giờ có thể làm được như Bụt, và mình không cần làm như Bụt mà cũng được sung sướng chán. Bên Ki-tô giáo cũng có một khuyết điểm, đó là họ đã coi cái chết của Chúa quan trọng hơn cái sống của Chúa. Trong sự thực tập của những người Ki-tô, họ không quí trọng và đem áp dụng lời dạy của Chúa nhiều bằng việc nghĩ đến chuyện sau khi chết mình sẽ đi về đâu, nghĩa là họ lo chuyện tương lai nhiều hơn chuyện hiện tại. Và đa số giáo điều của giáo hội được thiết lập quanh cái chết của Chúa. Khi sinh tiền, Chúa đã dạy rất nhiều điều, từ bài giảng trên núi, cho đến những bài giảng ở đồng bằng, giảng bằng lời nói, bằng hành động của chính Chúa. Đó là tinh hoa của đạo Ki-tô, cũng như những điều Bụt đã dạy trong kinh, và đời sống của Bụt là tinh hoa của đạo Bụt. Phật tử cũng có nhiều người đi tìm cái tinh hoa của đạo Bụt ở chỗ khác, ví dụ như họ đi tìm hạnh phúc tương lai ở một cõi như cõi cực lạc. Thay vì học lời dạy của Bụt, học cách hành xử, cách sống của Bụt để mình có thể sống cuộc sống hiện tại, thì họ tin ở một cõi và một vị Bụt siêu xuất thế gian nhiều hơn. Họ ưa đi theo một vị Bụt có hào quang, một vị Bụt vĩnh viễn. Bên đạo Ki-tô cũng có hiện tượng tương tự.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ai cũng muốn Bụt của mình, Chúa của mình vừa vĩnh viễn, vừa có hào quang. Vì vậy cho nên tôn giáo thường được thiết lập trên sự thương tiếc, mến chuộng, và sự thần thánh hóa vị Giáo chủ của mình. Bên đạo Bụt, có khuyết điểm là cái mặc cảm rằng mình không bao giờ có thể làm được như Bụt, và mình không cần làm như Bụt mà cũng được sung sướng chán. Bên Ki-tô giáo cũng có một khuyết điểm, đó là họ đã coi cái chết của Chúa quan trọng hơn cái sống của Chúa. Trong sự thực tập của những người Ki-tô, họ không quí trọng và đem áp dụng lời dạy của Chúa nhiều bằng việc nghĩ đến chuyện sau khi chết mình sẽ đi về đâu, nghĩa là họ lo chuyện tương lai nhiều hơn chuyện hiện tại. Và đa số giáo điều của giáo hội được thiết lập quanh cái chết của Chúa. Khi sinh tiền, Chúa đã dạy rất nhiều điều, từ bài giảng trên núi, cho đến những bài giảng ở đồng bằng, giảng bằng lời nói, bằng hành động của chính Chúa. Đó là tinh hoa của đạo Ki-tô, cũng như những điều Bụt đã dạy trong kinh, và đời sống của Bụt là tinh hoa của đạo Bụt. Phật tử cũng có nhiều người đi tìm cái tinh hoa của đạo Bụt ở chỗ khác, ví dụ như họ đi tìm hạnh phúc tương lai ở một cõi như cõi cực lạc. Thay vì học lời dạy của Bụt, học cách hành xử, cách sống của Bụt để mình có thể sống cuộc sống hiện tại, thì họ tin ở một cõi và một vị Bụt siêu xuất thế gian nhiều hơn. Họ ưa đi theo một vị Bụt có hào quang, một vị Bụt vĩnh viễn. Bên đạo Ki-tô cũng có hiện tượng tương tự.
Họ ưa đi theo một vị Bụt có hào quang, một vị Bụt vĩnh viễn. Bên đạo Ki-tô cũng có hiện tượng tương tự. Hiện nay trong giới Thần học có một khuynh hướng gọi là Secular Christianity, chủ trương trở về học giáo lý của đức Ki-tô dạy trong kinh điển và sống như đức Ki-tô đã sống, hơn là đi tìm một sự giải thoát ở mai hậu, ở trong một nước thiên đường. Các hiện tượng tương tự cũng đang xảy ra trong lĩnh vực đạo Bụt. Trong giáo hội Phật giáo cũng như trong Ki-tô giáo có những giáo điều mới, không phải là căn bản, nhưng người ta cho là căn bản. Ví dụ như tin rằng Chúa đã sống dậy, tin rằng đức Mẹ Maria là một trinh nữ v.v... Nếu không tin vào những điều đó thì không được chính thức làm học trò của Chúa. Tôi không nghĩ những điều đó là căn bản của đạo Ki-tô. Điều căn bản là phương thức sống mà Chúa đã dạy ở trong kinh điển, không chỉ dạy bằng lời nói mà còn bằng cách sống của Chúa. Nghiên cứu truyền thống của hai tôn giáo, ta thấy có hai khuynh hướng tương tự như nhau, có ưu điểm nhưng cũng có khuyết điểm. Vì vậy khi học Cơ Đốc giáo, người Phật tử mới thấy được sự hình thành của Cơ Đốc giáo cũng tương tự như tiến trình của Phật giáo. Ngược lại, khi người con Chúa nghiên cứu về Phật giáo, thì họ cũng thấy được những khuynh hướng tương đồng giữa hai tôn giáo lớn này. Sự phân định các phẩm trong kinh Pháp Hoa Người xưa phân kinh Pháp Hoa ra làm hai phần. Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần thứ hai gọi là Bản Môn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Họ ưa đi theo một vị Bụt có hào quang, một vị Bụt vĩnh viễn. Bên đạo Ki-tô cũng có hiện tượng tương tự. Hiện nay trong giới Thần học có một khuynh hướng gọi là Secular Christianity, chủ trương trở về học giáo lý của đức Ki-tô dạy trong kinh điển và sống như đức Ki-tô đã sống, hơn là đi tìm một sự giải thoát ở mai hậu, ở trong một nước thiên đường. Các hiện tượng tương tự cũng đang xảy ra trong lĩnh vực đạo Bụt. Trong giáo hội Phật giáo cũng như trong Ki-tô giáo có những giáo điều mới, không phải là căn bản, nhưng người ta cho là căn bản. Ví dụ như tin rằng Chúa đã sống dậy, tin rằng đức Mẹ Maria là một trinh nữ v.v... Nếu không tin vào những điều đó thì không được chính thức làm học trò của Chúa. Tôi không nghĩ những điều đó là căn bản của đạo Ki-tô. Điều căn bản là phương thức sống mà Chúa đã dạy ở trong kinh điển, không chỉ dạy bằng lời nói mà còn bằng cách sống của Chúa. Nghiên cứu truyền thống của hai tôn giáo, ta thấy có hai khuynh hướng tương tự như nhau, có ưu điểm nhưng cũng có khuyết điểm. Vì vậy khi học Cơ Đốc giáo, người Phật tử mới thấy được sự hình thành của Cơ Đốc giáo cũng tương tự như tiến trình của Phật giáo. Ngược lại, khi người con Chúa nghiên cứu về Phật giáo, thì họ cũng thấy được những khuynh hướng tương đồng giữa hai tôn giáo lớn này. Sự phân định các phẩm trong kinh Pháp Hoa Người xưa phân kinh Pháp Hoa ra làm hai phần. Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần thứ hai gọi là Bản Môn.
Sự phân định các phẩm trong kinh Pháp Hoa Người xưa phân kinh Pháp Hoa ra làm hai phần. Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần thứ hai gọi là Bản Môn. Phần Tích môn nói về những gì đã xảy ra trong thời Bụt Thích Ca còn tại thế, một đức Bụt của lịch sử, nhìn qua con mắt thông tục của con người, tức là con mắt của người trần mắt thịt. Họ thấy Bụt có sinh ra, có lớn lên, có tu học, có hoằng Pháp, có thọ ký cho một số người thành Bụt sau này, trong đó có anh chàng rất khó tính Đề-Bà-Đạt-Đa, và có nhập diệt. Phần thứ hai là phần Bản môn, mở cho ta thấy Bụt trên một bình diện khác, vượt thời gian và không gian, Bụt của thực thể, Bụt của Pháp thân, tương đương với The Living Christ trong Ki-tô giáo. Có người nghĩ rằng nếu Bụt còn ở tại đời này, thì Bụt sẽ chứng minh rằng sau này tôi sẽ thành Bụt, Bụt có thể thọ ký cho tôi, nhưng nếu Bụt nhập diệt rồi thì ai có khả năng làm điều đó cho tôi? Các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều đã được thọ ký, còn tôi sanh ra hơn 2500 năm về sau, thì ai chứng nhận được cho tôi? Vì vậy mà kinh phải khai mở Bản môn, nghĩa là phải chỉ cho ta thấy rằng Bụt Thích Ca vẫn còn ngồi đó, và Ngài nói với mình rằng: Con ơi, con cũng có thể thành Bụt được như tất cả mọi người. Nghĩa là mình không cần phải trở về 2500 năm trước mới được nghe Bụt Thích Ca nói câu đó. Ngồi đây và mình chỉ cần lắng lòng là mình nghe được câu nói đó của Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Sự phân định các phẩm trong kinh Pháp Hoa Người xưa phân kinh Pháp Hoa ra làm hai phần. Phần đầu gồm 14 phẩm, gọi là Tích môn. Phần thứ hai gọi là Bản Môn. Phần Tích môn nói về những gì đã xảy ra trong thời Bụt Thích Ca còn tại thế, một đức Bụt của lịch sử, nhìn qua con mắt thông tục của con người, tức là con mắt của người trần mắt thịt. Họ thấy Bụt có sinh ra, có lớn lên, có tu học, có hoằng Pháp, có thọ ký cho một số người thành Bụt sau này, trong đó có anh chàng rất khó tính Đề-Bà-Đạt-Đa, và có nhập diệt. Phần thứ hai là phần Bản môn, mở cho ta thấy Bụt trên một bình diện khác, vượt thời gian và không gian, Bụt của thực thể, Bụt của Pháp thân, tương đương với The Living Christ trong Ki-tô giáo. Có người nghĩ rằng nếu Bụt còn ở tại đời này, thì Bụt sẽ chứng minh rằng sau này tôi sẽ thành Bụt, Bụt có thể thọ ký cho tôi, nhưng nếu Bụt nhập diệt rồi thì ai có khả năng làm điều đó cho tôi? Các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều đã được thọ ký, còn tôi sanh ra hơn 2500 năm về sau, thì ai chứng nhận được cho tôi? Vì vậy mà kinh phải khai mở Bản môn, nghĩa là phải chỉ cho ta thấy rằng Bụt Thích Ca vẫn còn ngồi đó, và Ngài nói với mình rằng: Con ơi, con cũng có thể thành Bụt được như tất cả mọi người. Nghĩa là mình không cần phải trở về 2500 năm trước mới được nghe Bụt Thích Ca nói câu đó. Ngồi đây và mình chỉ cần lắng lòng là mình nghe được câu nói đó của Bụt.
Nghĩa là mình không cần phải trở về 2500 năm trước mới được nghe Bụt Thích Ca nói câu đó. Ngồi đây và mình chỉ cần lắng lòng là mình nghe được câu nói đó của Bụt. Như vậy trong phần Bản môn của kinh, chúng ta không thấy Bụt trong khung thời gian và không gian nữa, mà thấy Bụt vượt thoát thời gian và không gian. Tuy vậy, đó là những cái thấy của người xưa. Đọc kinh, chúng ta có thể thấy khác, vì vậy tôi muốn quí vị tự đọc kinh Pháp Hoa trước khi nghe giảng. Bản kinh Pháp Hoa [3] mà quý vị sẽ đọc là do Thầy Thích Trí Tịnh dịch từ nguyên bản chữ Hán của thầy Cưu-Ma-La-Thập. Khi đọc trước như vậy, mình có thể có những khám phá độc lập và tự do của mình, không bị nô lệ vào cái thấy hoặc sự giải thích của các vị Tổ Sư. Trong khóa học này, tôi sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong mỗi Phẩm, để quý vị có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên tôi sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, trong khóa An cư Kiết Đông năm nay, tôi cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này. Những chìa khóa cần có trước khi tụng đọc kinh Pháp Hoa
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nghĩa là mình không cần phải trở về 2500 năm trước mới được nghe Bụt Thích Ca nói câu đó. Ngồi đây và mình chỉ cần lắng lòng là mình nghe được câu nói đó của Bụt. Như vậy trong phần Bản môn của kinh, chúng ta không thấy Bụt trong khung thời gian và không gian nữa, mà thấy Bụt vượt thoát thời gian và không gian. Tuy vậy, đó là những cái thấy của người xưa. Đọc kinh, chúng ta có thể thấy khác, vì vậy tôi muốn quí vị tự đọc kinh Pháp Hoa trước khi nghe giảng. Bản kinh Pháp Hoa [3] mà quý vị sẽ đọc là do Thầy Thích Trí Tịnh dịch từ nguyên bản chữ Hán của thầy Cưu-Ma-La-Thập. Khi đọc trước như vậy, mình có thể có những khám phá độc lập và tự do của mình, không bị nô lệ vào cái thấy hoặc sự giải thích của các vị Tổ Sư. Trong khóa học này, tôi sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong mỗi Phẩm, để quý vị có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên tôi sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, trong khóa An cư Kiết Đông năm nay, tôi cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này. Những chìa khóa cần có trước khi tụng đọc kinh Pháp Hoa
Những chìa khóa cần có trước khi tụng đọc kinh Pháp Hoa Tôi xin trao cho quí vị hai cái chìa khóa để khi đi vào thăm viếng Pháp Hoa, quí vị có thể tự mình thấy được cái Diệu Pháp, để hành trì kinh một cách có lợi lạc. Chìa khóa số 1: Nhận diện Tích môn và Bản môn Như đã nói ở trên, tổng quát, kinh có thể được chia ra làm hai phần, một phần có dính líu nhiều đến Đức Bụt của lịch sử, gọi là Tích môn. Phần thứ hai nói về kinh lý muôn đời, về giáo pháp vượt khỏi thời gian và không gian, trình bày cái bản chất của Pháp, gọi là Bản môn. Chìa khóa để giúp quý vị khi đọc Pháp Hoa có thể nhận ra cảnh giới mình đang tiếp xúc là: Trong kinh Pháp Hoa, khi nào mắt của mọi người nhìn xuống đất, nhìn vào cây cối, vào đồi núi, vào nhau, thì lúc đó ta biết mọi người đang ở trong thế giới sinh diệt Tích môn. Khi tầm mắt mọi người nhìn lên không trung, thì lúc đó mình bắt đầu đi vào thế giới vô sinh vô diệt của Bản môn. Chỉ cần nhớ như vậy thì khi đọc kinh Pháp Hoa, ta sẽ không thấy bị ngỡ ngàng, phân vân. Ví dụ, khi thấy Hội Pháp Hoa diễn ra trên Núi Thứu, mọi người ngồi trên mặt đất, ta biết nó đã xảy ra trong thế giới Tích môn. Nhưng khi thính chúng nhìn lên tháp Đa Bảo ở trên không, thì mình biết rằng kinh đang trình bày những hiện tượng thuộc về Bản môn. Nhận ra được thế giới mà kinh đang diễn bày, ta sẽ không phân vân, ngỡ ngàng với ngôn từ trong kinh, đặc biệt là trong Bản môn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Những chìa khóa cần có trước khi tụng đọc kinh Pháp Hoa Tôi xin trao cho quí vị hai cái chìa khóa để khi đi vào thăm viếng Pháp Hoa, quí vị có thể tự mình thấy được cái Diệu Pháp, để hành trì kinh một cách có lợi lạc. Chìa khóa số 1: Nhận diện Tích môn và Bản môn Như đã nói ở trên, tổng quát, kinh có thể được chia ra làm hai phần, một phần có dính líu nhiều đến Đức Bụt của lịch sử, gọi là Tích môn. Phần thứ hai nói về kinh lý muôn đời, về giáo pháp vượt khỏi thời gian và không gian, trình bày cái bản chất của Pháp, gọi là Bản môn. Chìa khóa để giúp quý vị khi đọc Pháp Hoa có thể nhận ra cảnh giới mình đang tiếp xúc là: Trong kinh Pháp Hoa, khi nào mắt của mọi người nhìn xuống đất, nhìn vào cây cối, vào đồi núi, vào nhau, thì lúc đó ta biết mọi người đang ở trong thế giới sinh diệt Tích môn. Khi tầm mắt mọi người nhìn lên không trung, thì lúc đó mình bắt đầu đi vào thế giới vô sinh vô diệt của Bản môn. Chỉ cần nhớ như vậy thì khi đọc kinh Pháp Hoa, ta sẽ không thấy bị ngỡ ngàng, phân vân. Ví dụ, khi thấy Hội Pháp Hoa diễn ra trên Núi Thứu, mọi người ngồi trên mặt đất, ta biết nó đã xảy ra trong thế giới Tích môn. Nhưng khi thính chúng nhìn lên tháp Đa Bảo ở trên không, thì mình biết rằng kinh đang trình bày những hiện tượng thuộc về Bản môn. Nhận ra được thế giới mà kinh đang diễn bày, ta sẽ không phân vân, ngỡ ngàng với ngôn từ trong kinh, đặc biệt là trong Bản môn.
Nhận ra được thế giới mà kinh đang diễn bày, ta sẽ không phân vân, ngỡ ngàng với ngôn từ trong kinh, đặc biệt là trong Bản môn. Vì trong đó mọi Pháp đều vượt thoát thời gian và không gian, cho nên ta thấy kinh thường nói đến những con số rất lớn, như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. Tất cả những ngôn từ đó đều dùng để diễn bày cái ý niệm về thời gian vô tận và không gian vô biên ở trong pháp giới Bản môn, không giống như trong thế giới Tích môn, tức là cõi ta bà. Ví dụ như trong phẩm thứ 16, Như Lai Thọ Lượng, đoạn thứ hai, Bụt nói: Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần, qua phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho đến hết vi trần đó. Và ở đoạn 3, Bụt nói tiếp: Các thế giới đó hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một vi trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ kiếp. Đây chỉ là một phương tiện để diễn bày cái ý niệm về thọ lượng của Như Lai trong cái không gian vô biên và thời gian vô tận ở trong pháp giới Bản môn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nhận ra được thế giới mà kinh đang diễn bày, ta sẽ không phân vân, ngỡ ngàng với ngôn từ trong kinh, đặc biệt là trong Bản môn. Vì trong đó mọi Pháp đều vượt thoát thời gian và không gian, cho nên ta thấy kinh thường nói đến những con số rất lớn, như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. Tất cả những ngôn từ đó đều dùng để diễn bày cái ý niệm về thời gian vô tận và không gian vô biên ở trong pháp giới Bản môn, không giống như trong thế giới Tích môn, tức là cõi ta bà. Ví dụ như trong phẩm thứ 16, Như Lai Thọ Lượng, đoạn thứ hai, Bụt nói: Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần, qua phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho đến hết vi trần đó. Và ở đoạn 3, Bụt nói tiếp: Các thế giới đó hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một vi trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ kiếp. Đây chỉ là một phương tiện để diễn bày cái ý niệm về thọ lượng của Như Lai trong cái không gian vô biên và thời gian vô tận ở trong pháp giới Bản môn.
Đây chỉ là một phương tiện để diễn bày cái ý niệm về thọ lượng của Như Lai trong cái không gian vô biên và thời gian vô tận ở trong pháp giới Bản môn. Tương tự như vậy, trong phẩm thứ 15, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, khi hàng triệu vị Bồ Tát thân đẹp như vàng ròng, từ dưới đất trồi lên, an trú trong hư không, và dùng những âm thanh rất vi diệu để ca ngợi Bụt và sự ca ngợi đó kéo dài đến năm mươi tỉ kiếp, thì đây cũng là một cách để diễn đạt về bản chất của thời gian ở trong Bản môn: một giây phút chứa đựng cả ngàn đời, và thiên thu cũng chỉ là một giây phút. Chìa khóa số 2: Lãnh ý buông lời Tất cả những tư tưởng uyên áo và đặc thù của kinh Pháp Hoa đều được trình bày bằng các bức tranh có tính cách thực tiễn. Ngôn ngữ hội họa và điêu khắc của đạo Bụt đã được tận dụng để diễn bày ý kinh. Người sử dụng những hình ảnh này để nói lên những ý tưởng thâm diệu trong đạo Bụt, phải là một thi sĩ rất lớn. Nhiều khi những hình ảnh này có tính cách thần thông, nhưng tất cả chỉ là phương tiện quyền xảo của người chép kinh, sử dụng ngôn ngữ hội họa và điêu khắc của đạo Bụt để diễn đạt những tư tưởng uyên áo mà kinh muốn diễn bày. Đó là một điểm rất đặc thù của kinh Pháp Hoa. Vì vậy khi tụng đọc, chúng ta phải thấy cho được ý kinh và đừng bị kẹt vào lời kinh, nếu không thì khi đọc, ta chỉ thấy toàn các phép thần thông mà chẳng học được gì từ kinh Pháp Hoa cả.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đây chỉ là một phương tiện để diễn bày cái ý niệm về thọ lượng của Như Lai trong cái không gian vô biên và thời gian vô tận ở trong pháp giới Bản môn. Tương tự như vậy, trong phẩm thứ 15, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, khi hàng triệu vị Bồ Tát thân đẹp như vàng ròng, từ dưới đất trồi lên, an trú trong hư không, và dùng những âm thanh rất vi diệu để ca ngợi Bụt và sự ca ngợi đó kéo dài đến năm mươi tỉ kiếp, thì đây cũng là một cách để diễn đạt về bản chất của thời gian ở trong Bản môn: một giây phút chứa đựng cả ngàn đời, và thiên thu cũng chỉ là một giây phút. Chìa khóa số 2: Lãnh ý buông lời Tất cả những tư tưởng uyên áo và đặc thù của kinh Pháp Hoa đều được trình bày bằng các bức tranh có tính cách thực tiễn. Ngôn ngữ hội họa và điêu khắc của đạo Bụt đã được tận dụng để diễn bày ý kinh. Người sử dụng những hình ảnh này để nói lên những ý tưởng thâm diệu trong đạo Bụt, phải là một thi sĩ rất lớn. Nhiều khi những hình ảnh này có tính cách thần thông, nhưng tất cả chỉ là phương tiện quyền xảo của người chép kinh, sử dụng ngôn ngữ hội họa và điêu khắc của đạo Bụt để diễn đạt những tư tưởng uyên áo mà kinh muốn diễn bày. Đó là một điểm rất đặc thù của kinh Pháp Hoa. Vì vậy khi tụng đọc, chúng ta phải thấy cho được ý kinh và đừng bị kẹt vào lời kinh, nếu không thì khi đọc, ta chỉ thấy toàn các phép thần thông mà chẳng học được gì từ kinh Pháp Hoa cả.
Vì vậy khi tụng đọc, chúng ta phải thấy cho được ý kinh và đừng bị kẹt vào lời kinh, nếu không thì khi đọc, ta chỉ thấy toàn các phép thần thông mà chẳng học được gì từ kinh Pháp Hoa cả. Ví dụ như trong Phẩm thứ 21, Phẩm Như Lai Thần Lực, đoạn thứ hai, chúng ta thấy Bụt thực hiện một phép thần thông lớn, Ngài lè lưỡi ra, và lưỡi của Ngài che lấp cả tam thiên đại thiên thế giới, rồi từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, và những tia sáng đó cho ta thấy được tất cả các cõi nước trong mười phương. Chủ ý của bức tranh này là để diễn bày cái khả năng lớn lao của một vị toàn giác. Trong kinh điển Đại Thừa cũng như Nguyên Thủy, ánh sáng tượng trưng cho sự giác ngộ. Bụt Thích Ca là ánh sáng chánh niệm, và ánh sáng đó phát tỏa ra từ Pháp thân của Ngài. Cho nên từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, chỉ là một nghệ thuật trình bày, một bức tranh diễn tả cái ánh sáng chánh niệm rất lớn, rất mạnh, tỏa chiếu ra từ Pháp thân của đức Như Lai. Nó cũng giống như trong các tranh hay tượng mình thường thấy, để cực tả cái khả năng an tọa của Bụt, người ta đã đặt Ngài ngồi trên một đóa hoa sen. Mặt khác, lưỡi của Ngài che lấp cả tam thiên đại thiên thế giới, đây là hình ảnh của Quảng trường Thiệt tướng, tức là cái lưỡi lớn và dài, một trong 32 tướng tốt của đức Bụt. Bức tranh này là để diễn tả một người chỉ nói sự thật tuyệt đối, chỉ nói đệ nhất nghĩa đế mà thôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Vì vậy khi tụng đọc, chúng ta phải thấy cho được ý kinh và đừng bị kẹt vào lời kinh, nếu không thì khi đọc, ta chỉ thấy toàn các phép thần thông mà chẳng học được gì từ kinh Pháp Hoa cả. Ví dụ như trong Phẩm thứ 21, Phẩm Như Lai Thần Lực, đoạn thứ hai, chúng ta thấy Bụt thực hiện một phép thần thông lớn, Ngài lè lưỡi ra, và lưỡi của Ngài che lấp cả tam thiên đại thiên thế giới, rồi từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, và những tia sáng đó cho ta thấy được tất cả các cõi nước trong mười phương. Chủ ý của bức tranh này là để diễn bày cái khả năng lớn lao của một vị toàn giác. Trong kinh điển Đại Thừa cũng như Nguyên Thủy, ánh sáng tượng trưng cho sự giác ngộ. Bụt Thích Ca là ánh sáng chánh niệm, và ánh sáng đó phát tỏa ra từ Pháp thân của Ngài. Cho nên từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, chỉ là một nghệ thuật trình bày, một bức tranh diễn tả cái ánh sáng chánh niệm rất lớn, rất mạnh, tỏa chiếu ra từ Pháp thân của đức Như Lai. Nó cũng giống như trong các tranh hay tượng mình thường thấy, để cực tả cái khả năng an tọa của Bụt, người ta đã đặt Ngài ngồi trên một đóa hoa sen. Mặt khác, lưỡi của Ngài che lấp cả tam thiên đại thiên thế giới, đây là hình ảnh của Quảng trường Thiệt tướng, tức là cái lưỡi lớn và dài, một trong 32 tướng tốt của đức Bụt. Bức tranh này là để diễn tả một người chỉ nói sự thật tuyệt đối, chỉ nói đệ nhất nghĩa đế mà thôi.
Bức tranh này là để diễn tả một người chỉ nói sự thật tuyệt đối, chỉ nói đệ nhất nghĩa đế mà thôi. Đây là một hình ảnh của văn hóa Ấn độ, nó không phải chỉ có trong đạo Bụt mà nó có trong những truyền thống có trước đạo Bụt, những người nói sự thật, thường có lưỡi rất lớn. Trong những bài Pháp thoại kế tiếp, tôi sẽ diễn bày ý chính của từng phẩm, hầu giúp quí vị dễ dàng hiểu thấu ý kinh trong khi tụng đọc, mà hành trì Pháp Hoa một cách có lợi lạc hơn. Kinh Pháp Hoa đang được oai thần hỗ-trợ truyền-trì của Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Dược Vương, cùng vô số chư vị Bồ Tát trong cõi ta bà. Đó là ý nghĩa của các phẩm thứ 28 (Phổ Hiền Bồ Tát), phẩm thứ 23 (Dược Vương Bồ Tát), và phẩm thứ 15 (Tùng Địa Dũng Xuất). Vì vậy cho nên khi tụng đọc và hành trì Pháp Hoa đúng theo chánh Pháp, thì không thể nào ta lại không tạo được vô lượng phước duyên. Muốn tụng đọc và hành trì Pháp Hoa đúng theo chánh Pháp, trước tiên ta phải hiểu kinh Pháp Hoa. Phần 2: Kiến Giải Kinh Pháp Hoa Không như kinh Duy Ma, kinh Pháp Hoa có nhiều nguyên bản bằng tiếng Phạn còn được duy trì cho tới ngày nay. Người ta tìm được rất nhiều bản Phạn ngữ từ Nepal, Kashmir (Pakistan), và từ Trung Á (Central Asia). Cũng có bản được tìm thấy ở Tây Tạng, và gần đây có một bản được tìm ra ở Khotan (còn gọi là Kustana ở Turkestan, trung tâm Phật giáo phồn thịnh nhất ở Trung Á cho đến khi bị người Hồi xâm chiếm. Đạo Bụt được du nhập vào đất này từ khoảng thế kỷ thứ hai trước tây lịch).
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Bức tranh này là để diễn tả một người chỉ nói sự thật tuyệt đối, chỉ nói đệ nhất nghĩa đế mà thôi. Đây là một hình ảnh của văn hóa Ấn độ, nó không phải chỉ có trong đạo Bụt mà nó có trong những truyền thống có trước đạo Bụt, những người nói sự thật, thường có lưỡi rất lớn. Trong những bài Pháp thoại kế tiếp, tôi sẽ diễn bày ý chính của từng phẩm, hầu giúp quí vị dễ dàng hiểu thấu ý kinh trong khi tụng đọc, mà hành trì Pháp Hoa một cách có lợi lạc hơn. Kinh Pháp Hoa đang được oai thần hỗ-trợ truyền-trì của Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Dược Vương, cùng vô số chư vị Bồ Tát trong cõi ta bà. Đó là ý nghĩa của các phẩm thứ 28 (Phổ Hiền Bồ Tát), phẩm thứ 23 (Dược Vương Bồ Tát), và phẩm thứ 15 (Tùng Địa Dũng Xuất). Vì vậy cho nên khi tụng đọc và hành trì Pháp Hoa đúng theo chánh Pháp, thì không thể nào ta lại không tạo được vô lượng phước duyên. Muốn tụng đọc và hành trì Pháp Hoa đúng theo chánh Pháp, trước tiên ta phải hiểu kinh Pháp Hoa. Phần 2: Kiến Giải Kinh Pháp Hoa Không như kinh Duy Ma, kinh Pháp Hoa có nhiều nguyên bản bằng tiếng Phạn còn được duy trì cho tới ngày nay. Người ta tìm được rất nhiều bản Phạn ngữ từ Nepal, Kashmir (Pakistan), và từ Trung Á (Central Asia). Cũng có bản được tìm thấy ở Tây Tạng, và gần đây có một bản được tìm ra ở Khotan (còn gọi là Kustana ở Turkestan, trung tâm Phật giáo phồn thịnh nhất ở Trung Á cho đến khi bị người Hồi xâm chiếm. Đạo Bụt được du nhập vào đất này từ khoảng thế kỷ thứ hai trước tây lịch).
Đạo Bụt được du nhập vào đất này từ khoảng thế kỷ thứ hai trước tây lịch). Về bản dịch bằng tiếng Hán, nghe nói tất cả có đến 17 bản. Có những bản dịch đủ, có những bản dịch thiếu, nhưng trong Đại Tạng, bây giờ chỉ có ba bản là đầy đủ, và bản dịch lưu loát nhất là bản dịch của thầy Cưu-Ma La-Thập (Kumārajiva). Khi đọc tác phẩm Đại Trí Độ Luận của Thầy Long Thọ, ta thấy rằng bản kinh Pháp Hoa mà Thầy Long Thọ sử dụng là một bản nằm giữa bản của Thầy La Thập dịch và bản của Thầy Pháp Hộ dịch, tên là Chánh Pháp Hoa Kinh. Khi nghiên cứu hai bản này bằng chữ Hán, ta thấy bản mà chúng ta đọc ở trong Đại Trí Độ Luận, tuổi tác của nó nằm giữa nguyên bản tiếng Phạn mà thầy La Thập dùng, và nguyên bản tiếng Phạn mà thầy Pháp Hộ dùng. Nên biết rằng có nhiều nguyên bản tiếng Phạn của kinh Pháp Hoa, có những bản còn trẻ, có bản đã rất già. Kinh Pháp Hoa đã mọc lên như một cây đại thụ, và các thầy đã dịch từ những nguyên bản khác nhau, Thầy Cưu-Ma-La-Thập căn cứ vào một bản, còn thầy Pháp Hộ dịch từ một bản khác. Đứng về phương diện thể tài tức là hình thức trình bày, thì kinh Pháp Hoa cũng thừa hưởng được hình thức của kinh Duy Ma, nghĩa là trình bày như là một vở kịch, có nhiều màn khác nhau, rất là hấp dẫn. Có thể còn hấp dẫn hơn kinh Duy Ma nữa, vì những màn kịch trong kinh Pháp Hoa dễ hiểu hơn, và kinh Pháp Hoa sử dụng rất nhiều ví dụ. Nghe lý thuyết cao siêu lâu quá thì đại chúng thường mỏi mệt, vì vậy mà ví dụ vừa hay, vừa hấp dẫn và vừa dễ hiểu thì người nghe dễ thâu nhận hơn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đạo Bụt được du nhập vào đất này từ khoảng thế kỷ thứ hai trước tây lịch). Về bản dịch bằng tiếng Hán, nghe nói tất cả có đến 17 bản. Có những bản dịch đủ, có những bản dịch thiếu, nhưng trong Đại Tạng, bây giờ chỉ có ba bản là đầy đủ, và bản dịch lưu loát nhất là bản dịch của thầy Cưu-Ma La-Thập (Kumārajiva). Khi đọc tác phẩm Đại Trí Độ Luận của Thầy Long Thọ, ta thấy rằng bản kinh Pháp Hoa mà Thầy Long Thọ sử dụng là một bản nằm giữa bản của Thầy La Thập dịch và bản của Thầy Pháp Hộ dịch, tên là Chánh Pháp Hoa Kinh. Khi nghiên cứu hai bản này bằng chữ Hán, ta thấy bản mà chúng ta đọc ở trong Đại Trí Độ Luận, tuổi tác của nó nằm giữa nguyên bản tiếng Phạn mà thầy La Thập dùng, và nguyên bản tiếng Phạn mà thầy Pháp Hộ dùng. Nên biết rằng có nhiều nguyên bản tiếng Phạn của kinh Pháp Hoa, có những bản còn trẻ, có bản đã rất già. Kinh Pháp Hoa đã mọc lên như một cây đại thụ, và các thầy đã dịch từ những nguyên bản khác nhau, Thầy Cưu-Ma-La-Thập căn cứ vào một bản, còn thầy Pháp Hộ dịch từ một bản khác. Đứng về phương diện thể tài tức là hình thức trình bày, thì kinh Pháp Hoa cũng thừa hưởng được hình thức của kinh Duy Ma, nghĩa là trình bày như là một vở kịch, có nhiều màn khác nhau, rất là hấp dẫn. Có thể còn hấp dẫn hơn kinh Duy Ma nữa, vì những màn kịch trong kinh Pháp Hoa dễ hiểu hơn, và kinh Pháp Hoa sử dụng rất nhiều ví dụ. Nghe lý thuyết cao siêu lâu quá thì đại chúng thường mỏi mệt, vì vậy mà ví dụ vừa hay, vừa hấp dẫn và vừa dễ hiểu thì người nghe dễ thâu nhận hơn.
Nghe lý thuyết cao siêu lâu quá thì đại chúng thường mỏi mệt, vì vậy mà ví dụ vừa hay, vừa hấp dẫn và vừa dễ hiểu thì người nghe dễ thâu nhận hơn. Đó là một lợi điểm của kinh Pháp Hoa. Phẩm Thứ Nhất: Tựa Trước hết chúng ta hãy vào viếng phẩm thứ nhất, tức là Phẩm Tựa. Ta có thể gọi phẩm này là Phẩm Tổng Tự (General Introduction). Phẩm này là một cửa ngõ để ta đi vào kinh Pháp Hoa, mở ra cho ta thấy cái không khí, cái khung cảnh trong đó kinh Pháp Hoa được thuyết giảng. Ta đã biết rằng trên bình diện tổng quát, kinh có thể được chia ra làm hai phần, một có dính líu nhiều đến Đức Bụt của lịch sử, mà người xưa thường gọi là Tích môn. Tích là những gì đã xảy ra trong thời gian, như trong danh từ di tích. Phần thứ hai nói về chân lý muôn đời, về giáo pháp vượt khỏi thời gian và không gian, trình bày cái bản chất của Pháp, gọi là Bản môn. Khi Hội Pháp Hoa diễn ra trên Núi Thứu, ta biết nó đã xảy ra trong Tích môn, và khi sự chú ý của đại chúng đưa lên không gian, thì ta biết rằng kinh đang trình bày Bản môn. Ta có thể nói rằng Tích môn là đứng về mặt hiện tượng mà nói, như sóng biển, còn Bản môn là đứng về phương diện bản thể mà nói, như nước biển. Trong lĩnh vực của Tích môn thì Bụt chỉ sống có 80 năm, nhưng trong lĩnh vực của Bản môn thì Ngài sống muôn đời. Nói vậy là đơn giản hóa để chúng ta dễ hiểu. Bài tựa này không phải là bài tựa riêng cho Tích môn mà là cho cả Bản môn nữa, cho nên ta gọi là tổng tự. Trong phẩm tựa này ta thấy Bụt đang ở Núi Thứu, gần thành Vương Xá.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nghe lý thuyết cao siêu lâu quá thì đại chúng thường mỏi mệt, vì vậy mà ví dụ vừa hay, vừa hấp dẫn và vừa dễ hiểu thì người nghe dễ thâu nhận hơn. Đó là một lợi điểm của kinh Pháp Hoa. Phẩm Thứ Nhất: Tựa Trước hết chúng ta hãy vào viếng phẩm thứ nhất, tức là Phẩm Tựa. Ta có thể gọi phẩm này là Phẩm Tổng Tự (General Introduction). Phẩm này là một cửa ngõ để ta đi vào kinh Pháp Hoa, mở ra cho ta thấy cái không khí, cái khung cảnh trong đó kinh Pháp Hoa được thuyết giảng. Ta đã biết rằng trên bình diện tổng quát, kinh có thể được chia ra làm hai phần, một có dính líu nhiều đến Đức Bụt của lịch sử, mà người xưa thường gọi là Tích môn. Tích là những gì đã xảy ra trong thời gian, như trong danh từ di tích. Phần thứ hai nói về chân lý muôn đời, về giáo pháp vượt khỏi thời gian và không gian, trình bày cái bản chất của Pháp, gọi là Bản môn. Khi Hội Pháp Hoa diễn ra trên Núi Thứu, ta biết nó đã xảy ra trong Tích môn, và khi sự chú ý của đại chúng đưa lên không gian, thì ta biết rằng kinh đang trình bày Bản môn. Ta có thể nói rằng Tích môn là đứng về mặt hiện tượng mà nói, như sóng biển, còn Bản môn là đứng về phương diện bản thể mà nói, như nước biển. Trong lĩnh vực của Tích môn thì Bụt chỉ sống có 80 năm, nhưng trong lĩnh vực của Bản môn thì Ngài sống muôn đời. Nói vậy là đơn giản hóa để chúng ta dễ hiểu. Bài tựa này không phải là bài tựa riêng cho Tích môn mà là cho cả Bản môn nữa, cho nên ta gọi là tổng tự. Trong phẩm tựa này ta thấy Bụt đang ở Núi Thứu, gần thành Vương Xá.
Bài tựa này không phải là bài tựa riêng cho Tích môn mà là cho cả Bản môn nữa, cho nên ta gọi là tổng tự. Trong phẩm tựa này ta thấy Bụt đang ở Núi Thứu, gần thành Vương Xá. Hôm đó có mười hai ngàn khất sĩ và sáu ngàn nữ khất sĩ, trong đó có mẹ của La Hầu La, cùng với rất nhiều đại Bồ Tát cùng về tham dự Đại Hội Pháp Hoa. Trong những kinh Đại Thừa xuất hiện lúc ban đầu mà ta gọi là Đại Thừa Nguyên Thủy, ta thấy số các vị Bồ Tát tham dự còn ít, còn số các vị Thanh văn thì nhiều. Từ từ, trong những kinh điển xuất hiện sau đó, số lượng các vị Bồ Tát nhiều lên và số lượng các vị Thanh văn ít lại. Cho nên chỉ căn cứ vào dữ kiện này thôi, ta cũng biết được tuổi của các kinh Đại Thừa. Ngoài các vị kể trên, còn có các vị Thiên tử, Vua Trời, Long Vương, Khẩn-Na-La-Vương, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, tức là có rất nhiều giới có mặt tại Hội Pháp Hoa. Lúc đó cũng có Vua Ajātaśatru tức là Vua A- Xà-Thế, con của bà Vi-Đề-Hy đến tham dự. Chi tiết này cho ta thấy rằng Bụt đã nói kinh Pháp Hoa vào khoảng thời gian lúc Ngài gần nhập diệt, vì lúc đó Vua Tần-Bà-Xa-La (Bimbisāra), vua xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) đã qua đời và con Vua là Vua A-Xà-Thế có mặt. Hôm đó Bụt nói một kinh Đại Thừa gọi là kinh Vô Lượng Nghĩa. Sau khi nói xong kinh này thì Bụt nhập vào một chánh định, một Samyak-Samādhi gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Bài tựa này không phải là bài tựa riêng cho Tích môn mà là cho cả Bản môn nữa, cho nên ta gọi là tổng tự. Trong phẩm tựa này ta thấy Bụt đang ở Núi Thứu, gần thành Vương Xá. Hôm đó có mười hai ngàn khất sĩ và sáu ngàn nữ khất sĩ, trong đó có mẹ của La Hầu La, cùng với rất nhiều đại Bồ Tát cùng về tham dự Đại Hội Pháp Hoa. Trong những kinh Đại Thừa xuất hiện lúc ban đầu mà ta gọi là Đại Thừa Nguyên Thủy, ta thấy số các vị Bồ Tát tham dự còn ít, còn số các vị Thanh văn thì nhiều. Từ từ, trong những kinh điển xuất hiện sau đó, số lượng các vị Bồ Tát nhiều lên và số lượng các vị Thanh văn ít lại. Cho nên chỉ căn cứ vào dữ kiện này thôi, ta cũng biết được tuổi của các kinh Đại Thừa. Ngoài các vị kể trên, còn có các vị Thiên tử, Vua Trời, Long Vương, Khẩn-Na-La-Vương, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, tức là có rất nhiều giới có mặt tại Hội Pháp Hoa. Lúc đó cũng có Vua Ajātaśatru tức là Vua A- Xà-Thế, con của bà Vi-Đề-Hy đến tham dự. Chi tiết này cho ta thấy rằng Bụt đã nói kinh Pháp Hoa vào khoảng thời gian lúc Ngài gần nhập diệt, vì lúc đó Vua Tần-Bà-Xa-La (Bimbisāra), vua xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) đã qua đời và con Vua là Vua A-Xà-Thế có mặt. Hôm đó Bụt nói một kinh Đại Thừa gọi là kinh Vô Lượng Nghĩa. Sau khi nói xong kinh này thì Bụt nhập vào một chánh định, một Samyak-Samādhi gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Hôm đó Bụt nói một kinh Đại Thừa gọi là kinh Vô Lượng Nghĩa. Sau khi nói xong kinh này thì Bụt nhập vào một chánh định, một Samyak-Samādhi gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ. Trong định ấy, Bụt phóng ra một luồng hào quang từ giữa chặn lông mày, chiếu sáng khắp tất cả các cõi phương Đông, chiếu luôn tới địa ngục A Tì, và phía trên thì chiếu suốt thấu tới trời Sắc Cứu Cánh. Trong lúc đó tất cả đại chúng bao quanh Bụt đều thấy những cõi ấy hiện ra rất rõ ràng, và ai ai cũng lấy làm ngạc nhiên vì những mầu nhiệm đang xảy ra quanh mình. Họ thấy tất cả các cõi ấy, và thấy các đức Bụt trong các cõi ấy đang thuyết pháp. Họ còn thấy luôn đại chúng ở các cõi ấy, có đủ khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ, mọi người đang thính pháp, và đang thực tập giống hệt như ở cõi ta bà. Khi hiện tượng mầu nhiệm đó xảy ra thì Bồ Tát Di Lặc, tiếng Phạn là Maitreya, Ngài còn có tên là Năng-Vô-Thắng (Ajita) thầm nói, hôm nay chắc là đức Thế Tôn sắp làm một điều gì rất đặc biệt, nên Ngài mới phóng hào quang và làm ra phép lạ này. Lúc đó Bồ Tát Di Lặc mới nghĩ rằng muốn biết có điều gì sẽ xảy ra hôm nay thì ta nên hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī Bodhisattva), vì Bồ Tát đã từng gần gũi với Bụt và cũng đã từng phụng sự vô lượng vô số Bụt trong các đời quá khứ. Thế nào Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử cũng có thể nói cho mình nghe điều gì sắp xảy ra.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Hôm đó Bụt nói một kinh Đại Thừa gọi là kinh Vô Lượng Nghĩa. Sau khi nói xong kinh này thì Bụt nhập vào một chánh định, một Samyak-Samādhi gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ. Trong định ấy, Bụt phóng ra một luồng hào quang từ giữa chặn lông mày, chiếu sáng khắp tất cả các cõi phương Đông, chiếu luôn tới địa ngục A Tì, và phía trên thì chiếu suốt thấu tới trời Sắc Cứu Cánh. Trong lúc đó tất cả đại chúng bao quanh Bụt đều thấy những cõi ấy hiện ra rất rõ ràng, và ai ai cũng lấy làm ngạc nhiên vì những mầu nhiệm đang xảy ra quanh mình. Họ thấy tất cả các cõi ấy, và thấy các đức Bụt trong các cõi ấy đang thuyết pháp. Họ còn thấy luôn đại chúng ở các cõi ấy, có đủ khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, cận sự nữ, mọi người đang thính pháp, và đang thực tập giống hệt như ở cõi ta bà. Khi hiện tượng mầu nhiệm đó xảy ra thì Bồ Tát Di Lặc, tiếng Phạn là Maitreya, Ngài còn có tên là Năng-Vô-Thắng (Ajita) thầm nói, hôm nay chắc là đức Thế Tôn sắp làm một điều gì rất đặc biệt, nên Ngài mới phóng hào quang và làm ra phép lạ này. Lúc đó Bồ Tát Di Lặc mới nghĩ rằng muốn biết có điều gì sẽ xảy ra hôm nay thì ta nên hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī Bodhisattva), vì Bồ Tát đã từng gần gũi với Bụt và cũng đã từng phụng sự vô lượng vô số Bụt trong các đời quá khứ. Thế nào Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử cũng có thể nói cho mình nghe điều gì sắp xảy ra.
Thế nào Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử cũng có thể nói cho mình nghe điều gì sắp xảy ra. Nghĩ vậy, Bồ Tát Di Lặc liền tới gần Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi và hỏi: Thưa Bồ Tát, hôm nay vì lý do gì mà Bụt hiện thần biến tướng như vậy, chắc Bồ Tát biết điều gì sẽ xảy ra trong chốc lát, xin Bồ Tát cho hay. Lúc đó Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trả lời rằng: "Trong quá khứ tôi đã có lần thấy các vị Bụt hiện thần biến tướng như thế này, phóng những luồng hào quang từ giữa chặn lông mày và chiếu đến tất cả các cõi trời, phía trên, phía dưới, và như vậy là dấu diệu hôm nay Bụt sẽ bắt đầu tuyên thuyết một bài Pháp rất quan trọng.” "Như chỗ tôi biết thì ngày hôm nay đức Thế Tôn muốn nói một Pháp lớn, muốn làm rơi xuống một trận mưa Pháp lớn, muốn thổi vào một cái loa Pháp lớn, muốn đánh vào một trống Pháp lớn, và muốn nói một Pháp nghĩa rất lớn". Bồ Tát Văn Thù nói thêm, "Ngày xưa, có lần tôi được thân cận một đức Bụt tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hôm đó Bụt cũng nói Kinh Vô Lượng Nghĩa Xứ, cũng đi vào trong định, rồi trên trời cũng mưa xuống những loại hoa như Mạn Đà La, Mạn Phù Sa rồi cũng từ nhục-kế [4], Bụt phóng ra một luồng hào quang, làm sáng tỏ tất cả những cõi Bụt trên và dưới, sau đó thì Bụt thuyết kinh Pháp Hoa. Vì vậy hôm nay tôi tin rằng đức Thế Tôn, thầy của chúng ta, thế nào cũng thuyết kinh Pháp Hoa". Đó là đại ý của phẩm này.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thế nào Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử cũng có thể nói cho mình nghe điều gì sắp xảy ra. Nghĩ vậy, Bồ Tát Di Lặc liền tới gần Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi và hỏi: Thưa Bồ Tát, hôm nay vì lý do gì mà Bụt hiện thần biến tướng như vậy, chắc Bồ Tát biết điều gì sẽ xảy ra trong chốc lát, xin Bồ Tát cho hay. Lúc đó Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trả lời rằng: "Trong quá khứ tôi đã có lần thấy các vị Bụt hiện thần biến tướng như thế này, phóng những luồng hào quang từ giữa chặn lông mày và chiếu đến tất cả các cõi trời, phía trên, phía dưới, và như vậy là dấu diệu hôm nay Bụt sẽ bắt đầu tuyên thuyết một bài Pháp rất quan trọng.” "Như chỗ tôi biết thì ngày hôm nay đức Thế Tôn muốn nói một Pháp lớn, muốn làm rơi xuống một trận mưa Pháp lớn, muốn thổi vào một cái loa Pháp lớn, muốn đánh vào một trống Pháp lớn, và muốn nói một Pháp nghĩa rất lớn". Bồ Tát Văn Thù nói thêm, "Ngày xưa, có lần tôi được thân cận một đức Bụt tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hôm đó Bụt cũng nói Kinh Vô Lượng Nghĩa Xứ, cũng đi vào trong định, rồi trên trời cũng mưa xuống những loại hoa như Mạn Đà La, Mạn Phù Sa rồi cũng từ nhục-kế [4], Bụt phóng ra một luồng hào quang, làm sáng tỏ tất cả những cõi Bụt trên và dưới, sau đó thì Bụt thuyết kinh Pháp Hoa. Vì vậy hôm nay tôi tin rằng đức Thế Tôn, thầy của chúng ta, thế nào cũng thuyết kinh Pháp Hoa". Đó là đại ý của phẩm này.
Vì vậy hôm nay tôi tin rằng đức Thế Tôn, thầy của chúng ta, thế nào cũng thuyết kinh Pháp Hoa". Đó là đại ý của phẩm này. Chủ ý của phẩm này là chuẩn bị tâm lý cho thính chúng, để người ta biết rằng mình sắp được nghe một Pháp rất là quan trọng, một điều rất mới mẻ mà lâu nay mình chưa được nghe. Các vị đại đệ tử, các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di Lặc là những người đã thực tập, học hỏi rất nhiều từ Bụt, nhưng có lẽ cũng chưa được nghe pháp này lần nào. Chỉ có Bồ Tát Văn Thù là đã được nghe. Như vậy, mục đích đầu của Phẩm tựa này là dùng Tích môn để chuẩn bị tinh thần cho người nghe, để họ sẵn sàng tiếp nhận giáo pháp mầu nhiệm gọi là Diệu Pháp. Chủ ý thứ hai có dính líu tới Bản môn, nghĩa là trong quá khứ, Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã từng thuyết về kinh Pháp Hoa, chuyện xảy ra hôm nay chẳng qua chỉ là sự lặp lại của chuyện hôm qua mà thôi, không có gì mới cả. Có mới là mới ở trong lịch sử đối với những người hôm nay, nhưng đứng về phương diện bản thể, vượt thời gian và không gian thì không có gì mới cả. Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh đã thuyết kinh Pháp Hoa, và biết đâu Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca Mâu Ni ngày nay. Sự thật thì đúng như vậy, hai đức Bụt cũng là một. Ngoài ra, giữa hai vị Bụt này còn có một vị Bụt nữa sẽ xuất hiện trong kinh, đó là Bụt Đa Bảo, ngày xưa cũng đã thuyết Pháp Hoa Kinh. Như vậy Bụt Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Vì vậy hôm nay tôi tin rằng đức Thế Tôn, thầy của chúng ta, thế nào cũng thuyết kinh Pháp Hoa". Đó là đại ý của phẩm này. Chủ ý của phẩm này là chuẩn bị tâm lý cho thính chúng, để người ta biết rằng mình sắp được nghe một Pháp rất là quan trọng, một điều rất mới mẻ mà lâu nay mình chưa được nghe. Các vị đại đệ tử, các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di Lặc là những người đã thực tập, học hỏi rất nhiều từ Bụt, nhưng có lẽ cũng chưa được nghe pháp này lần nào. Chỉ có Bồ Tát Văn Thù là đã được nghe. Như vậy, mục đích đầu của Phẩm tựa này là dùng Tích môn để chuẩn bị tinh thần cho người nghe, để họ sẵn sàng tiếp nhận giáo pháp mầu nhiệm gọi là Diệu Pháp. Chủ ý thứ hai có dính líu tới Bản môn, nghĩa là trong quá khứ, Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã từng thuyết về kinh Pháp Hoa, chuyện xảy ra hôm nay chẳng qua chỉ là sự lặp lại của chuyện hôm qua mà thôi, không có gì mới cả. Có mới là mới ở trong lịch sử đối với những người hôm nay, nhưng đứng về phương diện bản thể, vượt thời gian và không gian thì không có gì mới cả. Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh đã thuyết kinh Pháp Hoa, và biết đâu Bụt Nhật Nguyệt Đăng Minh ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca Mâu Ni ngày nay. Sự thật thì đúng như vậy, hai đức Bụt cũng là một. Ngoài ra, giữa hai vị Bụt này còn có một vị Bụt nữa sẽ xuất hiện trong kinh, đó là Bụt Đa Bảo, ngày xưa cũng đã thuyết Pháp Hoa Kinh. Như vậy Bụt Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay.
Như vậy Bụt Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay. Đứng trên phương diện Tích môn hay lịch sử mà xét, thì Bụt Thích Ca chỉ là Bụt Thích Ca, người đang thuyết pháp vào ngày hôm nay, tại cõi ta bà này. Nhưng đứng trên phương diện Bản môn thì Bụt Thích Ca là Bụt Đa Bảo, là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, đã từng thuyết pháp ngày xưa và chưa bao giờ ngưng thuyết pháp. Bông hoa vẫn chưa bao giờ ngừng hát ca. Quí vị có biết bài Bông thược dược của Quách Thoại không? Đứng yên ngoài hàng dậu, Em mỉm nụ nhiệm mầu, Lặng nhìn em kinh ngạc, Vừa thoáng nghe em hát, Lời ca em thiên thâu, Ta sụp lạy cúi đầu. Buổi sáng, nhờ phước đức của ông bà để lại, thi sĩ đi ngang qua hàng rào, thấy một bông hoa thược dược và thấy một cách rất sâu sắc, như chưa bao giờ từng thấy. Đứng lặng nhìn và nghe bông hoa đang hát, và thấy rõ rằng bông hoa không phải mới hát ngày hôm nay, mà đã hát từ muôn đời, bông hoa chưa bao giờ ngưng hát. Lời ca em thiên thâu, thiên thâu nghĩa là từ quá khứ cho đến tương lai, không bao giờ ngừng lại cả. Đó là thuộc về Bản môn. Đứng về phương diện thời gian và không gian thì bông hoa mới nở sáng hôm nay, và hôm nay tác giả mới trông thấy nó. Nhận ra bông hoa đó là Bụt Thích Ca, cho nên ta sụp lạy cúi đầu. Đứng về phương diện Bản môn, thì Bụt Thích Ca Mâu Ni là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, cũng là Bụt Đa Bảo, và chưa có giây phút nào Bụt Thích Ca Mâu Ni ngừng nói kinh Pháp Hoa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Như vậy Bụt Đa Bảo ngày xưa cũng chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay. Đứng trên phương diện Tích môn hay lịch sử mà xét, thì Bụt Thích Ca chỉ là Bụt Thích Ca, người đang thuyết pháp vào ngày hôm nay, tại cõi ta bà này. Nhưng đứng trên phương diện Bản môn thì Bụt Thích Ca là Bụt Đa Bảo, là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, đã từng thuyết pháp ngày xưa và chưa bao giờ ngưng thuyết pháp. Bông hoa vẫn chưa bao giờ ngừng hát ca. Quí vị có biết bài Bông thược dược của Quách Thoại không? Đứng yên ngoài hàng dậu, Em mỉm nụ nhiệm mầu, Lặng nhìn em kinh ngạc, Vừa thoáng nghe em hát, Lời ca em thiên thâu, Ta sụp lạy cúi đầu. Buổi sáng, nhờ phước đức của ông bà để lại, thi sĩ đi ngang qua hàng rào, thấy một bông hoa thược dược và thấy một cách rất sâu sắc, như chưa bao giờ từng thấy. Đứng lặng nhìn và nghe bông hoa đang hát, và thấy rõ rằng bông hoa không phải mới hát ngày hôm nay, mà đã hát từ muôn đời, bông hoa chưa bao giờ ngưng hát. Lời ca em thiên thâu, thiên thâu nghĩa là từ quá khứ cho đến tương lai, không bao giờ ngừng lại cả. Đó là thuộc về Bản môn. Đứng về phương diện thời gian và không gian thì bông hoa mới nở sáng hôm nay, và hôm nay tác giả mới trông thấy nó. Nhận ra bông hoa đó là Bụt Thích Ca, cho nên ta sụp lạy cúi đầu. Đứng về phương diện Bản môn, thì Bụt Thích Ca Mâu Ni là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, cũng là Bụt Đa Bảo, và chưa có giây phút nào Bụt Thích Ca Mâu Ni ngừng nói kinh Pháp Hoa.
Đứng về phương diện Bản môn, thì Bụt Thích Ca Mâu Ni là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, cũng là Bụt Đa Bảo, và chưa có giây phút nào Bụt Thích Ca Mâu Ni ngừng nói kinh Pháp Hoa. Nhưng đứng về phương diện Tích môn thì Bụt Thích Ca đã thuyết những Pháp nhỏ trong vòng bốn mươi năm rồi, đến bây giờ mới bắt đầu nói đến Pháp lớn. Mình phải thấy điều đó và mình phải thấy cái tài năng xuất chúng của người chép kinh. Từ bài tựa họ đã mở ra hai cánh cửa: Cửa thứ nhất là cửa lịch sử và cửa thứ hai là cửa chân lý, vượt ra ngoài thời gian và không gian, mà sau này thầy Thiên Thai gọi là Tích môn và Bản môn. Người chép kinh đã không dùng những danh từ đó. Phẩm thứ hai: Phương tiện Bây giờ chúng ta đi sang phẩm Phương tiện, phẩm quan trọng nhất của kinh. Phẩm Phương tiện là phẩm thứ hai và ta có thể nói đây là phẩm cương lĩnh của kinh Pháp Hoa. Phương tiện là những cái khéo léo mà mình dùng để có thể hoàn tất được cái ý định của mình. Tiếng Pháp dịch là Moyen habile. Trong bản dịch tiếng Anh, phẩm Phương tiện được dịch là Experience device, Skillful means, tiếng Phạn là Upāyakauśalya, còn tiếng Hán là Phương tiện quyền xảo. Trong kinh ta chỉ thấy dùng chữ Phương tiện thôi. Khi cầm một chiếc áo tràng lên thì chỗ ta nên cầm nhất là cái sống áo. Cương lĩnh cũng vậy, nắm được cương lĩnh tức là nắm được toàn bộ kinh Pháp Hoa. Cố nhiên kinh Pháp Hoa còn nhiều phẩm khác, nhưng các phẩm đó là để giúp phẩm này nói ra sự thật, nói ra điều quan trọng mà kinh muốn nêu lên.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đứng về phương diện Bản môn, thì Bụt Thích Ca Mâu Ni là Bụt Nhật Nguyệt Đăng, cũng là Bụt Đa Bảo, và chưa có giây phút nào Bụt Thích Ca Mâu Ni ngừng nói kinh Pháp Hoa. Nhưng đứng về phương diện Tích môn thì Bụt Thích Ca đã thuyết những Pháp nhỏ trong vòng bốn mươi năm rồi, đến bây giờ mới bắt đầu nói đến Pháp lớn. Mình phải thấy điều đó và mình phải thấy cái tài năng xuất chúng của người chép kinh. Từ bài tựa họ đã mở ra hai cánh cửa: Cửa thứ nhất là cửa lịch sử và cửa thứ hai là cửa chân lý, vượt ra ngoài thời gian và không gian, mà sau này thầy Thiên Thai gọi là Tích môn và Bản môn. Người chép kinh đã không dùng những danh từ đó. Phẩm thứ hai: Phương tiện Bây giờ chúng ta đi sang phẩm Phương tiện, phẩm quan trọng nhất của kinh. Phẩm Phương tiện là phẩm thứ hai và ta có thể nói đây là phẩm cương lĩnh của kinh Pháp Hoa. Phương tiện là những cái khéo léo mà mình dùng để có thể hoàn tất được cái ý định của mình. Tiếng Pháp dịch là Moyen habile. Trong bản dịch tiếng Anh, phẩm Phương tiện được dịch là Experience device, Skillful means, tiếng Phạn là Upāyakauśalya, còn tiếng Hán là Phương tiện quyền xảo. Trong kinh ta chỉ thấy dùng chữ Phương tiện thôi. Khi cầm một chiếc áo tràng lên thì chỗ ta nên cầm nhất là cái sống áo. Cương lĩnh cũng vậy, nắm được cương lĩnh tức là nắm được toàn bộ kinh Pháp Hoa. Cố nhiên kinh Pháp Hoa còn nhiều phẩm khác, nhưng các phẩm đó là để giúp phẩm này nói ra sự thật, nói ra điều quan trọng mà kinh muốn nêu lên.
Cố nhiên kinh Pháp Hoa còn nhiều phẩm khác, nhưng các phẩm đó là để giúp phẩm này nói ra sự thật, nói ra điều quan trọng mà kinh muốn nêu lên. Sau khi đọc phẩm Phương tiện tức là phẩm cương lĩnh, chúng ta sẽ đọc những phẩm tiếp theo, từ phẩm thứ ba đến phẩm thứ chín, gọi là bảy phẩm tường thuyết. Tường thuyết tức là nói rõ ra. Như vậy, sau phẩm thứ hai, kinh có bảy phẩm khác để làm sáng tỏ thêm Phẩm Phương tiện. Biết vậy thì khi tụng đọc quý vị sẽ dễ theo dõi hơn. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn xuất định và bảo thầy Xá Lợi Phất: Nầy Xá Lợi Phất, cái thấy của các đức Bụt không thể nào đo lường được. Cái thấy đó, những người đã chứng quả Thanh văn, Bích chi, và Duyên giác, không có khả năng đạt tới. Ngay trong câu đầu ta đã thấy trình bày cái ý tưởng quan trọng của kinh Pháp Hoa. Vừa mới xuất định, Bụt nhìn một người đứng cạnh đó là thầy Xá Lợi Phất. Bụt không nhìn một vị Bồ Tát, dầu đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, hay Bồ Tát Di Lặc, mà Bụt nhìn người đệ tử của mình, đại biểu cho giới khất sĩ. Đây là một điều rất quan trọng. Trong kinh Duy-Ma-Cật, cái địa vị của Thầy Xá Lợi Phất tồi tệ bao nhiêu thì trong kinh Pháp Hoa cái địa vị của Thầy nó quan trọng bấy nhiêu. Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai. Đây là một chi tiết mà chúng ta phải chú ý.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Cố nhiên kinh Pháp Hoa còn nhiều phẩm khác, nhưng các phẩm đó là để giúp phẩm này nói ra sự thật, nói ra điều quan trọng mà kinh muốn nêu lên. Sau khi đọc phẩm Phương tiện tức là phẩm cương lĩnh, chúng ta sẽ đọc những phẩm tiếp theo, từ phẩm thứ ba đến phẩm thứ chín, gọi là bảy phẩm tường thuyết. Tường thuyết tức là nói rõ ra. Như vậy, sau phẩm thứ hai, kinh có bảy phẩm khác để làm sáng tỏ thêm Phẩm Phương tiện. Biết vậy thì khi tụng đọc quý vị sẽ dễ theo dõi hơn. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn xuất định và bảo thầy Xá Lợi Phất: Nầy Xá Lợi Phất, cái thấy của các đức Bụt không thể nào đo lường được. Cái thấy đó, những người đã chứng quả Thanh văn, Bích chi, và Duyên giác, không có khả năng đạt tới. Ngay trong câu đầu ta đã thấy trình bày cái ý tưởng quan trọng của kinh Pháp Hoa. Vừa mới xuất định, Bụt nhìn một người đứng cạnh đó là thầy Xá Lợi Phất. Bụt không nhìn một vị Bồ Tát, dầu đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, hay Bồ Tát Di Lặc, mà Bụt nhìn người đệ tử của mình, đại biểu cho giới khất sĩ. Đây là một điều rất quan trọng. Trong kinh Duy-Ma-Cật, cái địa vị của Thầy Xá Lợi Phất tồi tệ bao nhiêu thì trong kinh Pháp Hoa cái địa vị của Thầy nó quan trọng bấy nhiêu. Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai. Đây là một chi tiết mà chúng ta phải chú ý.
Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai. Đây là một chi tiết mà chúng ta phải chú ý. Điều Bụt nói là cái thấy của Bụt, trí giác của Bụt rất là sâu, khó đo lường, vì vậy mà những người có tư tưởng Thanh văn và Duyên giác không thể đo lường được cái tri kiến của Bụt. Tại vì Bụt là một người đã từng gần gũi với vô số các đức Bụt khác, đã tu theo vô lượng phương pháp của các đức Bụt khác, vì vậy cho nên cái thấy của Bụt thâm sâu vô cùng, đừng nghĩ rằng mình hiểu được. Nếu nhìn Bụt bằng cặp mắt của một vị Thanh văn, mình chỉ thấy Bụt là một vị Thanh văn; nếu nhìn Bụt với đôi mắt của một vị Duyên giác, mình chỉ thấy Bụt là một vị Duyên giác. Nhưng Bụt lớn hơn như vậy nhiều; đem con mắt gì để nhìn, mình chỉ thấy bằng con mắt đó mà thôi. Như vậy có nghĩa là nếu có tham vọng thì khi nhìn, mình thấy ai cũng có tham vọng cả, nếu nhìn bằng con mắt giận hờn và nhỏ mọn thì mình thấy ai cũng giận hờn và nhỏ mọn hết. Vì vậy mà đem con mắt của Thanh văn và Duyên giác mà nhìn Bụt thì không thể thấy Bụt chân thật được, mà chỉ có thể thấy được Thanh văn và Duyên giác mà thôi. Sau khi nói vậy rồi thì Bụt nghĩ rằng: “Nói vậy để làm gì? chắc thầy không hiểu được đâu!”. Chi tiết này chỉ là phương tiện của Bụt mà thôi. Giáo pháp quí giá như vậy mà đem bán rẻ thì mất giá trị của giáo pháp ấy. Vì vậy mà người tu phải cẩn thận, không phải ai đến mình cũng đem Phật Pháp ra để trình bày.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong Duy-Ma-Cật, đối tượng đó là để nhục mạ, trong kinh Pháp Hoa đối tượng đó là để mà săn sóc, thương yêu, để mà đầu tư giáo pháp vào trong tương lai. Đây là một chi tiết mà chúng ta phải chú ý. Điều Bụt nói là cái thấy của Bụt, trí giác của Bụt rất là sâu, khó đo lường, vì vậy mà những người có tư tưởng Thanh văn và Duyên giác không thể đo lường được cái tri kiến của Bụt. Tại vì Bụt là một người đã từng gần gũi với vô số các đức Bụt khác, đã tu theo vô lượng phương pháp của các đức Bụt khác, vì vậy cho nên cái thấy của Bụt thâm sâu vô cùng, đừng nghĩ rằng mình hiểu được. Nếu nhìn Bụt bằng cặp mắt của một vị Thanh văn, mình chỉ thấy Bụt là một vị Thanh văn; nếu nhìn Bụt với đôi mắt của một vị Duyên giác, mình chỉ thấy Bụt là một vị Duyên giác. Nhưng Bụt lớn hơn như vậy nhiều; đem con mắt gì để nhìn, mình chỉ thấy bằng con mắt đó mà thôi. Như vậy có nghĩa là nếu có tham vọng thì khi nhìn, mình thấy ai cũng có tham vọng cả, nếu nhìn bằng con mắt giận hờn và nhỏ mọn thì mình thấy ai cũng giận hờn và nhỏ mọn hết. Vì vậy mà đem con mắt của Thanh văn và Duyên giác mà nhìn Bụt thì không thể thấy Bụt chân thật được, mà chỉ có thể thấy được Thanh văn và Duyên giác mà thôi. Sau khi nói vậy rồi thì Bụt nghĩ rằng: “Nói vậy để làm gì? chắc thầy không hiểu được đâu!”. Chi tiết này chỉ là phương tiện của Bụt mà thôi. Giáo pháp quí giá như vậy mà đem bán rẻ thì mất giá trị của giáo pháp ấy. Vì vậy mà người tu phải cẩn thận, không phải ai đến mình cũng đem Phật Pháp ra để trình bày.
Giáo pháp quí giá như vậy mà đem bán rẻ thì mất giá trị của giáo pháp ấy. Vì vậy mà người tu phải cẩn thận, không phải ai đến mình cũng đem Phật Pháp ra để trình bày. Chỉ khi nào người ta đạt tới một trình độ khao khát chín muồi rồi thì mình mới đem Phật Pháp ra để trao truyền cho họ. Điều đó cũng có nguyên do, tại vì trong số những người ngồi quanh Bụt, có kẻ tuy đã được chuẩn bị rồi, nhưng vẫn chưa có khả năng tiếp nhận được tư tưởng mới. Thế nào cũng có người hò hét, phản đối, có người liệng cà chua và trứng thối. Khi nói Pháp trước mấy chục ngàn người như vậy, thì thế nào cũng có người phản đối những tư tưởng mình đưa ra. Trong đại chúng ngày hôm đó thế nào cũng có người chưa chín, chưa có khả năng chấp nhận được sự thật ngày hôm nay, cho nên Bụt đã không nói liền mà Ngài phải chuẩn bị thêm tư tưởng cho họ, tuy rằng phẩm tựa tự nó đã là một sự chuẩn bị rồi. Bụt nói với thầy Xá Lợi Phất "Thôi ta chỉ nói vậy thôi, có lẽ ta không nên nói thêm nữa, vì nói cũng vô ích thôi. Pháp này khó thấy, khó hiểu và khó nhận lắm". Trang 58 , ta đọc đoạn thứ hai, đoạn được Tông Thiên Thai coi như là chủ chốt của tư tưởng Pháp Hoa: Thôi thầy Xá Lợi Phất, chẳng cần phải nói thêm nữa, tại vì sao? Tại cái Pháp này thậm thâm khó hiểu và ít có, cái Pháp vô thượng mà Bụt đã thực hiện hoàn toàn đó, là chỉ có chư Bụt mới hiểu được thôi, chỉ có Bụt mới hiểu được Bụt thôi. Tại vì chỉ có Bụt mới thấy được cái tướng chân thật của các Pháp.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Giáo pháp quí giá như vậy mà đem bán rẻ thì mất giá trị của giáo pháp ấy. Vì vậy mà người tu phải cẩn thận, không phải ai đến mình cũng đem Phật Pháp ra để trình bày. Chỉ khi nào người ta đạt tới một trình độ khao khát chín muồi rồi thì mình mới đem Phật Pháp ra để trao truyền cho họ. Điều đó cũng có nguyên do, tại vì trong số những người ngồi quanh Bụt, có kẻ tuy đã được chuẩn bị rồi, nhưng vẫn chưa có khả năng tiếp nhận được tư tưởng mới. Thế nào cũng có người hò hét, phản đối, có người liệng cà chua và trứng thối. Khi nói Pháp trước mấy chục ngàn người như vậy, thì thế nào cũng có người phản đối những tư tưởng mình đưa ra. Trong đại chúng ngày hôm đó thế nào cũng có người chưa chín, chưa có khả năng chấp nhận được sự thật ngày hôm nay, cho nên Bụt đã không nói liền mà Ngài phải chuẩn bị thêm tư tưởng cho họ, tuy rằng phẩm tựa tự nó đã là một sự chuẩn bị rồi. Bụt nói với thầy Xá Lợi Phất "Thôi ta chỉ nói vậy thôi, có lẽ ta không nên nói thêm nữa, vì nói cũng vô ích thôi. Pháp này khó thấy, khó hiểu và khó nhận lắm". Trang 58 , ta đọc đoạn thứ hai, đoạn được Tông Thiên Thai coi như là chủ chốt của tư tưởng Pháp Hoa: Thôi thầy Xá Lợi Phất, chẳng cần phải nói thêm nữa, tại vì sao? Tại cái Pháp này thậm thâm khó hiểu và ít có, cái Pháp vô thượng mà Bụt đã thực hiện hoàn toàn đó, là chỉ có chư Bụt mới hiểu được thôi, chỉ có Bụt mới hiểu được Bụt thôi. Tại vì chỉ có Bụt mới thấy được cái tướng chân thật của các Pháp.
Tại vì chỉ có Bụt mới thấy được cái tướng chân thật của các Pháp. Các Pháp có cái tướng như vậy, cái tánh như vậy, cái thể như vậy, cái lực như vậy, cái tác như vậy, cái nhơn như vậy, cái duyên như vậy, cái quả như vậy, cái báo như vậy, và cái bản mạt cứu cánh như vậy. Mười cái "như vậy" này được gọi là Thập như thị. Có nhiều học giả, nhiều vị Pháp sư cho đoạn Thập như thị này là tinh hoa của kinh Pháp Hoa. Như thị tướng, như thị tánh v.v... Như thị bản mạt cứu cánh, tức là trước sau rốt ráo. Có người đã để ra rất nhiều giấy mực và thì giờ để cắt nghĩa về mười như thị này, và cho rằng đây là triết lý căn bản của kinh Pháp Hoa. Nhưng trong những bản tiếng Phạn, có bản không nói tới mười như thị đó, và có bản chỉ nói tới ba hay bốn như thị! Xét cho kỹ thì ta thấy đây không phải là cái gì quá sâu sắc, không phải là cái tinh túy của tư tưởng Pháp Hoa. Như thị tướng là cái tướng trạng của các pháp nó như vậy; như thị tánh là cái thể tánh của các pháp nó như vậy; như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh cũng chỉ có nghĩa đó. Nó chỉ có nghĩa rằng tri kiến của Bụt là một tri kiến rất sâu sắc, có thể thấy được cái chân tướng, chân thể của vũ trụ, của vạn vật trong thời gian, trong không gian, trên phương diện hiện tượng và dưới phương diện bản thể.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Tại vì chỉ có Bụt mới thấy được cái tướng chân thật của các Pháp. Các Pháp có cái tướng như vậy, cái tánh như vậy, cái thể như vậy, cái lực như vậy, cái tác như vậy, cái nhơn như vậy, cái duyên như vậy, cái quả như vậy, cái báo như vậy, và cái bản mạt cứu cánh như vậy. Mười cái "như vậy" này được gọi là Thập như thị. Có nhiều học giả, nhiều vị Pháp sư cho đoạn Thập như thị này là tinh hoa của kinh Pháp Hoa. Như thị tướng, như thị tánh v.v... Như thị bản mạt cứu cánh, tức là trước sau rốt ráo. Có người đã để ra rất nhiều giấy mực và thì giờ để cắt nghĩa về mười như thị này, và cho rằng đây là triết lý căn bản của kinh Pháp Hoa. Nhưng trong những bản tiếng Phạn, có bản không nói tới mười như thị đó, và có bản chỉ nói tới ba hay bốn như thị! Xét cho kỹ thì ta thấy đây không phải là cái gì quá sâu sắc, không phải là cái tinh túy của tư tưởng Pháp Hoa. Như thị tướng là cái tướng trạng của các pháp nó như vậy; như thị tánh là cái thể tánh của các pháp nó như vậy; như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh cũng chỉ có nghĩa đó. Nó chỉ có nghĩa rằng tri kiến của Bụt là một tri kiến rất sâu sắc, có thể thấy được cái chân tướng, chân thể của vũ trụ, của vạn vật trong thời gian, trong không gian, trên phương diện hiện tượng và dưới phương diện bản thể.
Chỉ có vậy thôi, tại sao lại vẽ rắn thêm chân, phải cắt nghĩa dông dài mười như thị này để cho rộn lòng người học, trong khi tư tưởng chủ yếu của kinh Pháp Hoa lại nằm ở chỗ khác! Đây là một điểm bất đồng của chúng ta đối với Tông Thiên Thai. Nói tóm lại, ý của đoạn kinh này nói rằng tri kiến của Bụt rất sâu, Bụt thấy được tất cả, vì vậy mà nếu một người không có tầm mức tinh thần như Bụt thì khó có thể hiểu được tri kiến đó. Vì vậy mà Bụt bảo: Này Xá Lợi Phất, tốt hơn hết là mình đừng nói Pháp đó nữa. Lúc bấy giờ thầy Xá Lợi Phất trong lòng rất xôn xao, thầy nghĩ rằng mình là học trò giỏi, học trò cưng của Bụt mà không được nghe Bụt nói điều này thì uổng quá. Trong bốn chúng, xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ, ai cũng muốn được nghe mà bây giờ sau khi Bụt nhấn mạnh tới cái tri kiến vô thượng đó rồi Bụt lại không nói, làm sao mình chịu nổi? Thà rằng Bụt đừng nói tới, nhưng nay Bụt đã đề cập đến, rồi không nói thì có phải là đau khổ cho nhiều người không? Vì vậy thầy Xá Lợi Phất bèn quì xuống, chấp tay và thưa rằng: Xin Thầy dạy cho chúng con. Bụt lắc đầu: Thôi, có lẽ không nên nói nữa, vì nói ra có thể có người, có chư thiên sẽ phát tâm sợ hãi, nghi ngờ, phỉ báng, chê bai, tại vì khả năng của họ chưa tới. Đó là nội dung đoạn thứ 9, trang 65. Vì quá ao ước được nghe, thầy Xá Lợi Phất liền đọc một bài kệ để xin Bụt nói ra điều mà Bụt đã muốn nói.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chỉ có vậy thôi, tại sao lại vẽ rắn thêm chân, phải cắt nghĩa dông dài mười như thị này để cho rộn lòng người học, trong khi tư tưởng chủ yếu của kinh Pháp Hoa lại nằm ở chỗ khác! Đây là một điểm bất đồng của chúng ta đối với Tông Thiên Thai. Nói tóm lại, ý của đoạn kinh này nói rằng tri kiến của Bụt rất sâu, Bụt thấy được tất cả, vì vậy mà nếu một người không có tầm mức tinh thần như Bụt thì khó có thể hiểu được tri kiến đó. Vì vậy mà Bụt bảo: Này Xá Lợi Phất, tốt hơn hết là mình đừng nói Pháp đó nữa. Lúc bấy giờ thầy Xá Lợi Phất trong lòng rất xôn xao, thầy nghĩ rằng mình là học trò giỏi, học trò cưng của Bụt mà không được nghe Bụt nói điều này thì uổng quá. Trong bốn chúng, xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ, ai cũng muốn được nghe mà bây giờ sau khi Bụt nhấn mạnh tới cái tri kiến vô thượng đó rồi Bụt lại không nói, làm sao mình chịu nổi? Thà rằng Bụt đừng nói tới, nhưng nay Bụt đã đề cập đến, rồi không nói thì có phải là đau khổ cho nhiều người không? Vì vậy thầy Xá Lợi Phất bèn quì xuống, chấp tay và thưa rằng: Xin Thầy dạy cho chúng con. Bụt lắc đầu: Thôi, có lẽ không nên nói nữa, vì nói ra có thể có người, có chư thiên sẽ phát tâm sợ hãi, nghi ngờ, phỉ báng, chê bai, tại vì khả năng của họ chưa tới. Đó là nội dung đoạn thứ 9, trang 65. Vì quá ao ước được nghe, thầy Xá Lợi Phất liền đọc một bài kệ để xin Bụt nói ra điều mà Bụt đã muốn nói.
Đó là nội dung đoạn thứ 9, trang 65. Vì quá ao ước được nghe, thầy Xá Lợi Phất liền đọc một bài kệ để xin Bụt nói ra điều mà Bụt đã muốn nói. Trang 66, Bụt bảo: Không được đâu thầy Xá Lợi Phất ơi, nếu nói chuyện đó ra thì một số rất lớn trong cõi đời này, trong đó có chư Thiên, Nhân, A-tu-la đều sẽ hoảng sợ, nhất là những vị khất sĩ đã tự cho rằng mình giác ngộ rồi, không cần phải học hỏi thêm nữa, họ sẽ sa vào cái hố của sự nghi kỵ, của sự kiêu mạn. Câu kệ đức Thế Tôn đã nói là: Chỉ chỉ bất tu thuyết, Ngã Pháp diệu nan tư. Thôi thôi chẳng nên nói, Pháp ta thâm diệu, khó tư duy. Ai tụng kinh Pháp Hoa cũng thuộc lòng mười chữ này hết. Cố nhiên là thầy Xá Lợi Phất đâu có chịu, nên thầy quỳ xuống và cầu xin lần thứ ba. Thường thường trong nghi lễ là phải xin ba lần, ít hơn ba lần là không được. Sau khi thầy Xá Lợi Phất cầu thỉnh tới ba lần rồi thì Bụt nói: Thầy đã ba lần yêu cầu, lý đâu tôi không nói. Khi nghe Bụt chấp nhận nói rồi thì có 5000 người đứng dậy, bỏ chỗ ngồi và rời đại chúng đi xuống núi, trong đó có các vị khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, và cận sự nữ. Chuyện này cũng xảy ra rất thường. Nhiều khi đi diễn thuyết, tôi bước lên diễn đàn, tuyên bố đề tài bài giảng, thì có một số người đứng dậy bỏ ra, tại vì họ không muốn nghe những điều sẽ nói. Sau khi các người này đã đi rồi, Bụt mới nói với thầy Xá Lợi Phất: Bây giờ ở đây không còn cành, còn lá nữa mà chỉ còn những hạt rắn chắc mà thôi, và bây giờ tôi có thể chia xẻ cái thấy đó với các vị được.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó là nội dung đoạn thứ 9, trang 65. Vì quá ao ước được nghe, thầy Xá Lợi Phất liền đọc một bài kệ để xin Bụt nói ra điều mà Bụt đã muốn nói. Trang 66, Bụt bảo: Không được đâu thầy Xá Lợi Phất ơi, nếu nói chuyện đó ra thì một số rất lớn trong cõi đời này, trong đó có chư Thiên, Nhân, A-tu-la đều sẽ hoảng sợ, nhất là những vị khất sĩ đã tự cho rằng mình giác ngộ rồi, không cần phải học hỏi thêm nữa, họ sẽ sa vào cái hố của sự nghi kỵ, của sự kiêu mạn. Câu kệ đức Thế Tôn đã nói là: Chỉ chỉ bất tu thuyết, Ngã Pháp diệu nan tư. Thôi thôi chẳng nên nói, Pháp ta thâm diệu, khó tư duy. Ai tụng kinh Pháp Hoa cũng thuộc lòng mười chữ này hết. Cố nhiên là thầy Xá Lợi Phất đâu có chịu, nên thầy quỳ xuống và cầu xin lần thứ ba. Thường thường trong nghi lễ là phải xin ba lần, ít hơn ba lần là không được. Sau khi thầy Xá Lợi Phất cầu thỉnh tới ba lần rồi thì Bụt nói: Thầy đã ba lần yêu cầu, lý đâu tôi không nói. Khi nghe Bụt chấp nhận nói rồi thì có 5000 người đứng dậy, bỏ chỗ ngồi và rời đại chúng đi xuống núi, trong đó có các vị khất sĩ, nữ khất sĩ, cận sự nam, và cận sự nữ. Chuyện này cũng xảy ra rất thường. Nhiều khi đi diễn thuyết, tôi bước lên diễn đàn, tuyên bố đề tài bài giảng, thì có một số người đứng dậy bỏ ra, tại vì họ không muốn nghe những điều sẽ nói. Sau khi các người này đã đi rồi, Bụt mới nói với thầy Xá Lợi Phất: Bây giờ ở đây không còn cành, còn lá nữa mà chỉ còn những hạt rắn chắc mà thôi, và bây giờ tôi có thể chia xẻ cái thấy đó với các vị được.
Ở đoạn thứ 15, trang 68: Lúc bấy giờ Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất, “Trong đại chúng đây không còn những thành phần cành lá nữa mà chỉ còn hạt giống rắn chắc, này thầy Xá Lợi Phất, những thành phần tăng thượng mạn đã rút lui rồi, như vậy cũng chỉ là tốt thôi, giờ đây quí vị hãy lắng nghe lời tôi nói”. Đây là một khuyết điểm của kinh Pháp Hoa mà chúng ta chưa thấy bây giờ, nhưng sẽ thấy khi đọc đến các Phẩm sau này. Chúng ta biết rằng trong kinh Đại Bảo Tích cũng có một số Tì kheo tăng thượng mạn bỏ thính chúng đi ra, tại vì Bụt nói kinh Đại Thừa. Tuy vậy, lúc đó có một vị Bồ Tát tên là Võng-Minh, hóa hiện ra hai vị khất sĩ, đi theo họ để mà đàm luận, tìm cách đưa các vị tì kheo đó trở lại, và cuối cùng thì Bồ Tát đã thành công. Khi đọc hết kinh Pháp Hoa, ta không thấy chuyện đó xảy ra, tức là không có ai hóa hiện đi theo 5000 người này để tìm cách đưa họ trở về với Bụt và với giáo pháp mới. Đây là một lỗ hổng, một khuyết điểm của kinh Pháp Hoa. Kinh đã không thừa hưởng được phương pháp của kinh Đại Bảo Tích. Kinh Pháp Hoa là một kinh chủ trương rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, cố nhiên trên quan điểm đó, Thanh văn, Duyên giác cũng thành Phật được, đàn ông, đàn bà, trẻ con trai hoặc gái đều cũng có thể thành Bụt được cả. Sau này trong những phẩm mới thêm vào, ví dụ như Phẩm thứ 12, Đề-Bà-Đạt-Đa, những người phạm tội ngỗ nghịch vẫn có thể được thành Bụt, và phẩm thứ 13, trong đó các vị Tì Kheo Ni cũng được Bụt thọ ký.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ở đoạn thứ 15, trang 68: Lúc bấy giờ Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất, “Trong đại chúng đây không còn những thành phần cành lá nữa mà chỉ còn hạt giống rắn chắc, này thầy Xá Lợi Phất, những thành phần tăng thượng mạn đã rút lui rồi, như vậy cũng chỉ là tốt thôi, giờ đây quí vị hãy lắng nghe lời tôi nói”. Đây là một khuyết điểm của kinh Pháp Hoa mà chúng ta chưa thấy bây giờ, nhưng sẽ thấy khi đọc đến các Phẩm sau này. Chúng ta biết rằng trong kinh Đại Bảo Tích cũng có một số Tì kheo tăng thượng mạn bỏ thính chúng đi ra, tại vì Bụt nói kinh Đại Thừa. Tuy vậy, lúc đó có một vị Bồ Tát tên là Võng-Minh, hóa hiện ra hai vị khất sĩ, đi theo họ để mà đàm luận, tìm cách đưa các vị tì kheo đó trở lại, và cuối cùng thì Bồ Tát đã thành công. Khi đọc hết kinh Pháp Hoa, ta không thấy chuyện đó xảy ra, tức là không có ai hóa hiện đi theo 5000 người này để tìm cách đưa họ trở về với Bụt và với giáo pháp mới. Đây là một lỗ hổng, một khuyết điểm của kinh Pháp Hoa. Kinh đã không thừa hưởng được phương pháp của kinh Đại Bảo Tích. Kinh Pháp Hoa là một kinh chủ trương rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, cố nhiên trên quan điểm đó, Thanh văn, Duyên giác cũng thành Phật được, đàn ông, đàn bà, trẻ con trai hoặc gái đều cũng có thể thành Bụt được cả. Sau này trong những phẩm mới thêm vào, ví dụ như Phẩm thứ 12, Đề-Bà-Đạt-Đa, những người phạm tội ngỗ nghịch vẫn có thể được thành Bụt, và phẩm thứ 13, trong đó các vị Tì Kheo Ni cũng được Bụt thọ ký.
Sau này trong những phẩm mới thêm vào, ví dụ như Phẩm thứ 12, Đề-Bà-Đạt-Đa, những người phạm tội ngỗ nghịch vẫn có thể được thành Bụt, và phẩm thứ 13, trong đó các vị Tì Kheo Ni cũng được Bụt thọ ký. Như vậy, trong những phẩm mới thêm, kinh Pháp Hoa đã lấp được nhiều hố của sự khiếm khuyết, trừ cái hố vừa nói ở trên, chưa được lấp lại. Không biết chúng ta có phải là những người trong số 5000 người đã rời bỏ hội Pháp Hoa hay không mà mãi tới 2500 năm sau mới được đọc kinh Pháp Hoa! Trong đoạn 16 trang 68, Bụt bắt đầu khai mở cái chân lý mới. Bụt nói rằng giáo pháp tuy là mầu nhiệm vô cùng nhưng phải đợi đến đúng lúc mới nên đem ra chia xẻ với mọi loài. Thành ra cái tinh hoa của kinh Pháp Hoa mà tôi (Bụt) đã có trong tâm từ khi tôi giác ngộ, nhưng tôi chưa bao giờ đem dạy quý vị, tại vì nó chưa đến lúc, cũng như loài hoa Linh Thoại, đến lúc nở thì nó mới nở, nó không thể nở trước. Sự có mặt của tôi trên cuộc đời này, thầy Xá Lợi Phất nên biết, là chỉ vì một lý do duy nhất, đó là chỉ cho quý vị thấy được cái tri kiến vô cùng thâm sâu của Bụt. Do đó cố nhiên là tôi phải nói, tôi phải chia xẻ, nhưng sở dĩ tôi chưa chia xẻ là tại chưa tới thời, là tại tôi chưa có dịp để làm tròn nhiệm vụ của một vị Bụt. Hôm nay chính là ngày sung sướng nhất trong cuộc đời của tôi, tại vì thời gian đã tới và tôi có thể chia xẻ được với quý vị kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là sự thật tuyệt đối.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Sau này trong những phẩm mới thêm vào, ví dụ như Phẩm thứ 12, Đề-Bà-Đạt-Đa, những người phạm tội ngỗ nghịch vẫn có thể được thành Bụt, và phẩm thứ 13, trong đó các vị Tì Kheo Ni cũng được Bụt thọ ký. Như vậy, trong những phẩm mới thêm, kinh Pháp Hoa đã lấp được nhiều hố của sự khiếm khuyết, trừ cái hố vừa nói ở trên, chưa được lấp lại. Không biết chúng ta có phải là những người trong số 5000 người đã rời bỏ hội Pháp Hoa hay không mà mãi tới 2500 năm sau mới được đọc kinh Pháp Hoa! Trong đoạn 16 trang 68, Bụt bắt đầu khai mở cái chân lý mới. Bụt nói rằng giáo pháp tuy là mầu nhiệm vô cùng nhưng phải đợi đến đúng lúc mới nên đem ra chia xẻ với mọi loài. Thành ra cái tinh hoa của kinh Pháp Hoa mà tôi (Bụt) đã có trong tâm từ khi tôi giác ngộ, nhưng tôi chưa bao giờ đem dạy quý vị, tại vì nó chưa đến lúc, cũng như loài hoa Linh Thoại, đến lúc nở thì nó mới nở, nó không thể nở trước. Sự có mặt của tôi trên cuộc đời này, thầy Xá Lợi Phất nên biết, là chỉ vì một lý do duy nhất, đó là chỉ cho quý vị thấy được cái tri kiến vô cùng thâm sâu của Bụt. Do đó cố nhiên là tôi phải nói, tôi phải chia xẻ, nhưng sở dĩ tôi chưa chia xẻ là tại chưa tới thời, là tại tôi chưa có dịp để làm tròn nhiệm vụ của một vị Bụt. Hôm nay chính là ngày sung sướng nhất trong cuộc đời của tôi, tại vì thời gian đã tới và tôi có thể chia xẻ được với quý vị kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là sự thật tuyệt đối.
Hôm nay chính là ngày sung sướng nhất trong cuộc đời của tôi, tại vì thời gian đã tới và tôi có thể chia xẻ được với quý vị kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là sự thật tuyệt đối. Đó là lý do xuất hiện của tất cả các vị Bụt, nếu không làm việc này thì tôi không có lý do gì để xuất hiện cả. Mục đích xuất hiện của tất cả các vị Bụt ở trên cõi đời này là để mở ra và chỉ cho người ta thấy được cái tri kiến của Bụt, giúp cho người ta bừng tỉnh, thấy được cái tri kiến đó và cuối cùng là chứng nghiệm được cái tri kiến đó. Đó là những câu quan trọng của đoạn thứ 17 mà quý vị phải học thuộc lòng. Ở trang 69, hàng thứ 8 có chữ khai, gạch dưới chữ khai; cách đó hai hàng có chữ chỉ, gạch dưới chữ chỉ; cách hai hàng nữa, có chữ ngộ, gạch dưới chữ ngộ; cách dưới một hàng nữa có chữ chứng, gạch dưới chữ chứng. Bốn chữ trong nguyên văn là Khai, Thị, Ngộ, Nhập mà thầy Trí Tịnh dịch là Khai, Chỉ, Ngộ, Chứng. Khai có nghĩa là mở ra, như là một kho tàng phải có người mở ra mới được. Khai Phật tri kiến tức là mở kho tàng tri kiến của Bụt ra. Kho tàng đó là cái thấy và cái biết của Bụt mà trong này dùng danh từ tri kiến. Thị tức là chỉ cho người ta thấy, here it is! Dùng ngón tay chỉ cho rõ ràng thì gọi là thị. Thị Phật tri kiến tức là chỉ cho người ta thấy cái kho tri kiến của Bụt. Ngộ tức là bừng tỉnh dậy mà thấy được một sự thực nào đó, cũng giống như khi thở mà mình biết mình đang còn sống hiện giờ và ở đây. Ngộ Phật tri kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến của Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Hôm nay chính là ngày sung sướng nhất trong cuộc đời của tôi, tại vì thời gian đã tới và tôi có thể chia xẻ được với quý vị kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức là sự thật tuyệt đối. Đó là lý do xuất hiện của tất cả các vị Bụt, nếu không làm việc này thì tôi không có lý do gì để xuất hiện cả. Mục đích xuất hiện của tất cả các vị Bụt ở trên cõi đời này là để mở ra và chỉ cho người ta thấy được cái tri kiến của Bụt, giúp cho người ta bừng tỉnh, thấy được cái tri kiến đó và cuối cùng là chứng nghiệm được cái tri kiến đó. Đó là những câu quan trọng của đoạn thứ 17 mà quý vị phải học thuộc lòng. Ở trang 69, hàng thứ 8 có chữ khai, gạch dưới chữ khai; cách đó hai hàng có chữ chỉ, gạch dưới chữ chỉ; cách hai hàng nữa, có chữ ngộ, gạch dưới chữ ngộ; cách dưới một hàng nữa có chữ chứng, gạch dưới chữ chứng. Bốn chữ trong nguyên văn là Khai, Thị, Ngộ, Nhập mà thầy Trí Tịnh dịch là Khai, Chỉ, Ngộ, Chứng. Khai có nghĩa là mở ra, như là một kho tàng phải có người mở ra mới được. Khai Phật tri kiến tức là mở kho tàng tri kiến của Bụt ra. Kho tàng đó là cái thấy và cái biết của Bụt mà trong này dùng danh từ tri kiến. Thị tức là chỉ cho người ta thấy, here it is! Dùng ngón tay chỉ cho rõ ràng thì gọi là thị. Thị Phật tri kiến tức là chỉ cho người ta thấy cái kho tri kiến của Bụt. Ngộ tức là bừng tỉnh dậy mà thấy được một sự thực nào đó, cũng giống như khi thở mà mình biết mình đang còn sống hiện giờ và ở đây. Ngộ Phật tri kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến của Bụt.
Ngộ tức là bừng tỉnh dậy mà thấy được một sự thực nào đó, cũng giống như khi thở mà mình biết mình đang còn sống hiện giờ và ở đây. Ngộ Phật tri kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến của Bụt. Cuối cùng là Nhập Phật tri kiến. Nhập có nghĩa là đi vào, tiếng Anh là Penetrating. Mình chứng nghiệm chứ không phải mình chỉ đứng ở ngoài mà dòm ngó. Mình nếm được cái Pháp vị thì gọi là chứng. Khi mời một đại đức uống nước cam, nếu mình nói: Mời đại đức chứng nước cam, tức là mình mong đại đức đừng nhìn nước cam, mà thực sự uống nước cam để làm cho nước cam với đại đức thành một. Ta phải học thuộc lòng bốn chữ Khai, Thị, Ngộ, Nhập - Mở ra, Chỉ rõ, Làm cho thấy được, và Đi vào làm một với nó. Vậy thì này thầy Xá Lợi Phất, cái sứ mạng của các vị Như Lai là chỉ để làm bốn việc: Khai, Thị, Ngộ, Nhập cái tri kiến của Bụt cho chúng sanh, và dạy cho các vị Bồ Tát cùng làm công việc đó. Bây giờ chúng ta đọc đoạn 18: “Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất, các vị Bụt Như Lai nếu hướng dẫn và giáo hóa cho các vị Bồ Tát những điều mà quý vị thực tập, là chỉ quy vào một việc là đem cái thấy của Bụt mà chỉ cho tất cả mọi loài chúng sanh thấy, để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Bụt. Này thầy Xá Lợi Phất, đức Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa mà nói Pháp cho chúng sanh, không có thừa thứ hai và thứ ba.” Thừa ở đây là cỗ xe, là con đường. Ba con đường tu học Có ba khuynh hướng tu học ở trong đạo Bụt. Khuynh hướng đầu là khuynh hướng Thanh văn, thứ hai là khuynh hướng Duyên giác, và thứ ba là khuynh hướng Bồ Tát.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ngộ tức là bừng tỉnh dậy mà thấy được một sự thực nào đó, cũng giống như khi thở mà mình biết mình đang còn sống hiện giờ và ở đây. Ngộ Phật tri kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến của Bụt. Cuối cùng là Nhập Phật tri kiến. Nhập có nghĩa là đi vào, tiếng Anh là Penetrating. Mình chứng nghiệm chứ không phải mình chỉ đứng ở ngoài mà dòm ngó. Mình nếm được cái Pháp vị thì gọi là chứng. Khi mời một đại đức uống nước cam, nếu mình nói: Mời đại đức chứng nước cam, tức là mình mong đại đức đừng nhìn nước cam, mà thực sự uống nước cam để làm cho nước cam với đại đức thành một. Ta phải học thuộc lòng bốn chữ Khai, Thị, Ngộ, Nhập - Mở ra, Chỉ rõ, Làm cho thấy được, và Đi vào làm một với nó. Vậy thì này thầy Xá Lợi Phất, cái sứ mạng của các vị Như Lai là chỉ để làm bốn việc: Khai, Thị, Ngộ, Nhập cái tri kiến của Bụt cho chúng sanh, và dạy cho các vị Bồ Tát cùng làm công việc đó. Bây giờ chúng ta đọc đoạn 18: “Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất, các vị Bụt Như Lai nếu hướng dẫn và giáo hóa cho các vị Bồ Tát những điều mà quý vị thực tập, là chỉ quy vào một việc là đem cái thấy của Bụt mà chỉ cho tất cả mọi loài chúng sanh thấy, để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Bụt. Này thầy Xá Lợi Phất, đức Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa mà nói Pháp cho chúng sanh, không có thừa thứ hai và thứ ba.” Thừa ở đây là cỗ xe, là con đường. Ba con đường tu học Có ba khuynh hướng tu học ở trong đạo Bụt. Khuynh hướng đầu là khuynh hướng Thanh văn, thứ hai là khuynh hướng Duyên giác, và thứ ba là khuynh hướng Bồ Tát.
Ba con đường tu học Có ba khuynh hướng tu học ở trong đạo Bụt. Khuynh hướng đầu là khuynh hướng Thanh văn, thứ hai là khuynh hướng Duyên giác, và thứ ba là khuynh hướng Bồ Tát. Cái quan niệm về Tam Thừa (Triyāna) đã cũ như trái đất, nghĩa là từ những ngày Bụt còn tại thế thì đã có quan niệm về Tam Thừa. Trước hết, Thanh văn, là những người được nghe giáo lý của đạo Bụt mà tu học để thành đạo. Họ theo một con đường gọi là Thanh văn Thừa (Srāvakayāna). Con đường thứ hai là con đường Duyên giác, gồm những người, tuy không được nghe Bụt giảng dạy, nhưng nhờ quán chiếu duyên sinh, và cũng có thể thành đạo, cho nên gọi là Duyên giác Thừa (Pratyekabuddhayāna), hay là Độc giác thừa. Độc là một mình, độc giác là chỉ đơn phương, tự mình đạt đến giác ngộ, chứ không phải do nghe pháp và học pháp mới giác ngộ được. Con đường thứ ba là Bồ Tát Thừa (Bodhisattvayāna), con đường của những người phát nguyện tu tập, hành đạo, và đạt tới sự giải thoát không phải chỉ cho mình, mà cho tất cả mọi người. Trong đạo Bụt Nguyên Thủy danh từ Bồ Tát đã được sử dụng rồi, nhưng chỉ được sử dụng để gọi Bụt khi Ngài chưa đạt tới quả vị toàn giác. Nghĩa là đối với Tiểu Thừa chỉ có một Bồ Tát, đó là tiền thân của Bụt Thích Ca. Nhưng vì chính Bụt Thích Ca đã nói rằng, trong thế giới có nhiều vị Bụt, cho nên cái kết luận tất nhiên đi tới là nếu trong thế giới có nhiều Bụt, thì trong thế giới cũng có nhiều Bồ Tát. Và ý niệm có hằng hà sa số các vị Bụt và Bồ Tát đã phát xuất từ căn bản đó.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ba con đường tu học Có ba khuynh hướng tu học ở trong đạo Bụt. Khuynh hướng đầu là khuynh hướng Thanh văn, thứ hai là khuynh hướng Duyên giác, và thứ ba là khuynh hướng Bồ Tát. Cái quan niệm về Tam Thừa (Triyāna) đã cũ như trái đất, nghĩa là từ những ngày Bụt còn tại thế thì đã có quan niệm về Tam Thừa. Trước hết, Thanh văn, là những người được nghe giáo lý của đạo Bụt mà tu học để thành đạo. Họ theo một con đường gọi là Thanh văn Thừa (Srāvakayāna). Con đường thứ hai là con đường Duyên giác, gồm những người, tuy không được nghe Bụt giảng dạy, nhưng nhờ quán chiếu duyên sinh, và cũng có thể thành đạo, cho nên gọi là Duyên giác Thừa (Pratyekabuddhayāna), hay là Độc giác thừa. Độc là một mình, độc giác là chỉ đơn phương, tự mình đạt đến giác ngộ, chứ không phải do nghe pháp và học pháp mới giác ngộ được. Con đường thứ ba là Bồ Tát Thừa (Bodhisattvayāna), con đường của những người phát nguyện tu tập, hành đạo, và đạt tới sự giải thoát không phải chỉ cho mình, mà cho tất cả mọi người. Trong đạo Bụt Nguyên Thủy danh từ Bồ Tát đã được sử dụng rồi, nhưng chỉ được sử dụng để gọi Bụt khi Ngài chưa đạt tới quả vị toàn giác. Nghĩa là đối với Tiểu Thừa chỉ có một Bồ Tát, đó là tiền thân của Bụt Thích Ca. Nhưng vì chính Bụt Thích Ca đã nói rằng, trong thế giới có nhiều vị Bụt, cho nên cái kết luận tất nhiên đi tới là nếu trong thế giới có nhiều Bụt, thì trong thế giới cũng có nhiều Bồ Tát. Và ý niệm có hằng hà sa số các vị Bụt và Bồ Tát đã phát xuất từ căn bản đó.
Và ý niệm có hằng hà sa số các vị Bụt và Bồ Tát đã phát xuất từ căn bản đó. Chính Bụt Thích Ca đã nói rằng trước Ngài đã có nhiều vị Bụt khác ra đời, và sau Ngài cũng sẽ có nhiều vị Bụt khác ra đời. Căn cứ trên câu nói đó mà người ta đi đến kết luận rằng, nếu có nhiều Bụt, thì cũng có nhiều Bồ Tát. Vì vậy mà cái ý niệm hằng hà sa số Bụt và hằng hà sa số Bồ Tát cũng đã bắt nguồn từ đạo Bụt Nguyên Thủy. Trong hàng ngũ của những người Thanh văn, thường thường người ta nghĩ rằng mục đích của sự tu học là để chấm dứt khổ đau của mình, và để đạt tới một quả vị gọi là A La Hán (Arhat). Chỉ khi nào đạt tới quả vị A La Hán, người ta mới chấm dứt được sự sinh, tử, luân hồi cho chính bản thân mình. Vì vậy mà quả vị A La Hán là cái ước mong cao nhất của những người Thanh văn. Trong con người Thanh văn có một cái mặc cảm là mình không thể nào thành Bụt được, cái tối đa mà mình có thể thực hiện là thành A La Hán thôi. Đó là điều mà mình thấy được trong tâm của những người học trò của Bụt. Họ nghĩ rằng Bụt là một người rất đặc biệt trên cõi đời, chỉ có một người như Bụt thôi, còn tất cả chúng ta, tối đa là đạt tới quả vị A La Hán. Đó là mặc cảm của thời đại. Tôi không thể thành Bụt, tôi chỉ có thể thành A La Hán thôi, mà tôi cũng không cần phải thành Bụt, tại tôi đau khổ nhiều quá, cho nên cái nhu yếu cấp thiết và duy nhất của tôi là chấm dứt đau khổ. Chấm dứt khổ đau là tôi đã sung sướng lắm rồi. Đó là hai cái tư tưởng của Thanh văn Thừa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Và ý niệm có hằng hà sa số các vị Bụt và Bồ Tát đã phát xuất từ căn bản đó. Chính Bụt Thích Ca đã nói rằng trước Ngài đã có nhiều vị Bụt khác ra đời, và sau Ngài cũng sẽ có nhiều vị Bụt khác ra đời. Căn cứ trên câu nói đó mà người ta đi đến kết luận rằng, nếu có nhiều Bụt, thì cũng có nhiều Bồ Tát. Vì vậy mà cái ý niệm hằng hà sa số Bụt và hằng hà sa số Bồ Tát cũng đã bắt nguồn từ đạo Bụt Nguyên Thủy. Trong hàng ngũ của những người Thanh văn, thường thường người ta nghĩ rằng mục đích của sự tu học là để chấm dứt khổ đau của mình, và để đạt tới một quả vị gọi là A La Hán (Arhat). Chỉ khi nào đạt tới quả vị A La Hán, người ta mới chấm dứt được sự sinh, tử, luân hồi cho chính bản thân mình. Vì vậy mà quả vị A La Hán là cái ước mong cao nhất của những người Thanh văn. Trong con người Thanh văn có một cái mặc cảm là mình không thể nào thành Bụt được, cái tối đa mà mình có thể thực hiện là thành A La Hán thôi. Đó là điều mà mình thấy được trong tâm của những người học trò của Bụt. Họ nghĩ rằng Bụt là một người rất đặc biệt trên cõi đời, chỉ có một người như Bụt thôi, còn tất cả chúng ta, tối đa là đạt tới quả vị A La Hán. Đó là mặc cảm của thời đại. Tôi không thể thành Bụt, tôi chỉ có thể thành A La Hán thôi, mà tôi cũng không cần phải thành Bụt, tại tôi đau khổ nhiều quá, cho nên cái nhu yếu cấp thiết và duy nhất của tôi là chấm dứt đau khổ. Chấm dứt khổ đau là tôi đã sung sướng lắm rồi. Đó là hai cái tư tưởng của Thanh văn Thừa.
Chấm dứt khổ đau là tôi đã sung sướng lắm rồi. Đó là hai cái tư tưởng của Thanh văn Thừa. Vì vậy mà trong tâm địa của người Thanh văn không có một ý chí lớn, một cái gọi là Bồ đề tâm, muốn đem lại sự giải thoát và an lạc cho cả thế gian. Vì lý do đó cho nên phải khơi mở Bồ Tát Thừa, đem Bồ đề tâm vào trong trái tim của tất cả mọi người. Khi một người có chí nguyện lớn đó, có cái Bồ đề tâm đó, thì họ được gọi là Bồ Tát. Bồ Tát là con đường lớn, là chiếc xe lớn có thể chở được nhiều người cùng một lúc, chứ không phải như những người chỉ lo chuyện giải thoát cho bản thân. Đó là tư tưởng căn bản của Đạo Bụt Đại Thừa. Ngay trong số chúng ta những người cùng tu học với nhau, cũng có người có ý định cao, có người có ý định thấp hơn, có mục đích nhỏ hẹp hơn. Ví dụ có người chỉ muốn giải tỏa một vài niềm đau nỗi khổ của mình, nên đến Làng Mai để dự khóa tu. Có người có ý nguyện lớn hơn, như sau này sẽ tổ chức những trung tâm tu học để chia xẻ phép tu với thật nhiều người. Ở đây cũng vậy, Bụt không có ý niệm rằng chỉ nên chứng quả A La Hán rồi nhập vào Niết Bàn vắng lặng -vắng cái xôn xao của ngũ dục, của cái tưởng- để đừng bị vướng víu vào cái đau khổ triền miên của cuộc đời. Bụt không nghĩ như vậy, nhưng có những vị Thanh văn nghĩ như vậy, và do đó mà con đường Thanh Văn là một con đường, tuy không hẳn là con đường đẹp nhất mà Bụt muốn dạy, nhưng vì có người muốn vậy, nên Bụt chỉ dẫn cho như vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chấm dứt khổ đau là tôi đã sung sướng lắm rồi. Đó là hai cái tư tưởng của Thanh văn Thừa. Vì vậy mà trong tâm địa của người Thanh văn không có một ý chí lớn, một cái gọi là Bồ đề tâm, muốn đem lại sự giải thoát và an lạc cho cả thế gian. Vì lý do đó cho nên phải khơi mở Bồ Tát Thừa, đem Bồ đề tâm vào trong trái tim của tất cả mọi người. Khi một người có chí nguyện lớn đó, có cái Bồ đề tâm đó, thì họ được gọi là Bồ Tát. Bồ Tát là con đường lớn, là chiếc xe lớn có thể chở được nhiều người cùng một lúc, chứ không phải như những người chỉ lo chuyện giải thoát cho bản thân. Đó là tư tưởng căn bản của Đạo Bụt Đại Thừa. Ngay trong số chúng ta những người cùng tu học với nhau, cũng có người có ý định cao, có người có ý định thấp hơn, có mục đích nhỏ hẹp hơn. Ví dụ có người chỉ muốn giải tỏa một vài niềm đau nỗi khổ của mình, nên đến Làng Mai để dự khóa tu. Có người có ý nguyện lớn hơn, như sau này sẽ tổ chức những trung tâm tu học để chia xẻ phép tu với thật nhiều người. Ở đây cũng vậy, Bụt không có ý niệm rằng chỉ nên chứng quả A La Hán rồi nhập vào Niết Bàn vắng lặng -vắng cái xôn xao của ngũ dục, của cái tưởng- để đừng bị vướng víu vào cái đau khổ triền miên của cuộc đời. Bụt không nghĩ như vậy, nhưng có những vị Thanh văn nghĩ như vậy, và do đó mà con đường Thanh Văn là một con đường, tuy không hẳn là con đường đẹp nhất mà Bụt muốn dạy, nhưng vì có người muốn vậy, nên Bụt chỉ dẫn cho như vậy.
Bụt nói rằng muốn bớt khổ thì hãy thực tập đi, nhưng giáo pháp của ta không phải chỉ nhắm tới sự diệt khổ. Giáo Pháp ta còn có mục tiêu cao siêu hơn nữa. Con đường Duyên giác cũng là con đường lành, nhờ quán chiếu về 12 nhân duyên mà vượt thoát được những sự ràng buộc và thấy thảnh thơi trong người thì điều đó cũng tốt, quý vị cứ thực tập như vậy đi. Tuy vậy tôi nghĩ rằng quý vị có thể làm khá hơn, nghĩa là có thể đạt được quả vị giác ngộ cao tột. Đối với con đường của chư vị Bồ Tát thì lại khác. Bồ Tát phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, và muốn cho tất cả mọi loài đều được thừa hưởng kết quả của sự thực tập và chứng ngộ của mình. Thoạt nghe thì giống như có sự kỳ thị giữa ba con đường, và vị Bồ Tát nào chưa thực tập được sâu sắc trên con đường tu tập thì thường nhìn các vị Thanh văn và Duyên giác bằng con mắt khinh thị. Sự kỳ thị, chê bai đó có thật, và nó được biểu lộ qua một số hình thức, bằng lời nói, bằng văn từ và ít nhiều điều đó đã được thể hiện trong những kinh điển Đại Thừa xuất hiện trước kinh Pháp Hoa. Thanh văn, Duyên giác, thôi để họ đi chỗ khác, đây chỉ là chỗ dành cho Bồ Tát! Đó là thái độ của kinh Hoa Nghiêm, vì kinh không đá động gì tới các vị Thanh văn và Duyên giác cả. Những thái độ đó chưa hoàn toàn biểu lộ được cái đại từ, đại bi và cái sự ôm trọn tất cả mọi loài vào vòng tay của Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Bụt nói rằng muốn bớt khổ thì hãy thực tập đi, nhưng giáo pháp của ta không phải chỉ nhắm tới sự diệt khổ. Giáo Pháp ta còn có mục tiêu cao siêu hơn nữa. Con đường Duyên giác cũng là con đường lành, nhờ quán chiếu về 12 nhân duyên mà vượt thoát được những sự ràng buộc và thấy thảnh thơi trong người thì điều đó cũng tốt, quý vị cứ thực tập như vậy đi. Tuy vậy tôi nghĩ rằng quý vị có thể làm khá hơn, nghĩa là có thể đạt được quả vị giác ngộ cao tột. Đối với con đường của chư vị Bồ Tát thì lại khác. Bồ Tát phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, và muốn cho tất cả mọi loài đều được thừa hưởng kết quả của sự thực tập và chứng ngộ của mình. Thoạt nghe thì giống như có sự kỳ thị giữa ba con đường, và vị Bồ Tát nào chưa thực tập được sâu sắc trên con đường tu tập thì thường nhìn các vị Thanh văn và Duyên giác bằng con mắt khinh thị. Sự kỳ thị, chê bai đó có thật, và nó được biểu lộ qua một số hình thức, bằng lời nói, bằng văn từ và ít nhiều điều đó đã được thể hiện trong những kinh điển Đại Thừa xuất hiện trước kinh Pháp Hoa. Thanh văn, Duyên giác, thôi để họ đi chỗ khác, đây chỉ là chỗ dành cho Bồ Tát! Đó là thái độ của kinh Hoa Nghiêm, vì kinh không đá động gì tới các vị Thanh văn và Duyên giác cả. Những thái độ đó chưa hoàn toàn biểu lộ được cái đại từ, đại bi và cái sự ôm trọn tất cả mọi loài vào vòng tay của Bụt.
Những thái độ đó chưa hoàn toàn biểu lộ được cái đại từ, đại bi và cái sự ôm trọn tất cả mọi loài vào vòng tay của Bụt. Kinh Pháp Hoa đã làm được một việc mà tất cả các kinh khác chưa làm được, vì vậy mà kinh Pháp Hoa được xem như là Vua của tất cả các kinh, chứ không phải là vì kinh trình bày những lý thuyết mầu nhiệm hơn, sâu sắc hơn, và thâm ảo hơn, mà Kinh trở thành quan trọng. Trong câu nói này, Bụt chấp nhận rằng con đường của Thanh văn và của Duyên giác, là chính do Ngài đã vì phương tiện mà tạo ra. Ngài thú nhận, khi quý vị mới đến tu học với tôi, tôi dạy cái giáo lý sơ đẳng, đó là giáo lý Tam Thừa. Bây giờ quý vị đã giỏi rồi, đã trưởng thành rồi, cho nên hôm nay tôi chỉ cho quý vị thấy rằng sở dĩ có ba con đường, chẳng qua chỉ là vì cái trình độ, cái điều kiện, và cái thời gian mà thôi. Rốt cuộc thì tôi cũng phải dạy cái cứu cánh, cái tuyệt đối. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường Phật Thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy cho nên cái triết lý này, cái con đường này mới được gọi là Khai tam hiển nhất, nghĩa là mở ra ba cái nhưng cho thấy đó chẳng qua chỉ là một cái mà thôi. Khai tam hiển nhất còn được gọi là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái, tức là cái Diệu Pháp mà Bụt sắp nói ngày hôm nay. Đó mới chính là Diệu Pháp, chứ không phải những ý niệm Như thị tướng, Như thị tánh v.v... là Diệu Pháp.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Những thái độ đó chưa hoàn toàn biểu lộ được cái đại từ, đại bi và cái sự ôm trọn tất cả mọi loài vào vòng tay của Bụt. Kinh Pháp Hoa đã làm được một việc mà tất cả các kinh khác chưa làm được, vì vậy mà kinh Pháp Hoa được xem như là Vua của tất cả các kinh, chứ không phải là vì kinh trình bày những lý thuyết mầu nhiệm hơn, sâu sắc hơn, và thâm ảo hơn, mà Kinh trở thành quan trọng. Trong câu nói này, Bụt chấp nhận rằng con đường của Thanh văn và của Duyên giác, là chính do Ngài đã vì phương tiện mà tạo ra. Ngài thú nhận, khi quý vị mới đến tu học với tôi, tôi dạy cái giáo lý sơ đẳng, đó là giáo lý Tam Thừa. Bây giờ quý vị đã giỏi rồi, đã trưởng thành rồi, cho nên hôm nay tôi chỉ cho quý vị thấy rằng sở dĩ có ba con đường, chẳng qua chỉ là vì cái trình độ, cái điều kiện, và cái thời gian mà thôi. Rốt cuộc thì tôi cũng phải dạy cái cứu cánh, cái tuyệt đối. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường Phật Thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy cho nên cái triết lý này, cái con đường này mới được gọi là Khai tam hiển nhất, nghĩa là mở ra ba cái nhưng cho thấy đó chẳng qua chỉ là một cái mà thôi. Khai tam hiển nhất còn được gọi là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái, tức là cái Diệu Pháp mà Bụt sắp nói ngày hôm nay. Đó mới chính là Diệu Pháp, chứ không phải những ý niệm Như thị tướng, Như thị tánh v.v... là Diệu Pháp.
Đó mới chính là Diệu Pháp, chứ không phải những ý niệm Như thị tướng, Như thị tánh v.v... là Diệu Pháp. Kinh Bát Nhã là một trong những kinh đầu tiên xuất hiện thuyên giải về tư tưởng Đại Thừa, trong đó có những lời mà chúng ta thấy là quá mạnh. Ví như nói các vị Thanh văn không phải là con đích thực của Bụt mà chỉ là con ghẻ! Thái độ đó không ngọt ngào, không bao dung, không có tính cách từ bi. Cố nhiên thái độ và ngôn ngữ đó đã tạo ra sự chống báng, kỳ thị, cho nên tinh thần Đại Thừa hồi đó chưa đạt tới mức mà nó cần đạt tới. Có lẽ tại trong buổi đầu khi muốn xướng minh một đạo lý, mình phải nêu ra những cái khuyết điểm, những cái tệ đoan mà mình thấy ở trong đoàn thể, ở trong lề lối hành trì. Điều đó, chính chúng ta đôi khi cũng không tránh được. Ví dụ như hôm đó tôi có nói với một Sư chú rằng: Thầy không ưa cách tu lim dim. Nói như vậy nó cũng có nghĩa là chê bai, chưa chấp nhận được sự lim dim, và chưa thấy là đôi khi lim dim cũng là một trong những thừa có thể đưa tới chuyện không lim dim sau này. Nhìn vào bản thân, ta thấy đôi khi ta cũng mắc phải những lỗi lầm như vậy. Ngày xưa khi nhìn vào trong cách tu hành của truyền thống, các thầy thấy có nhiều điều sai lầm, không đúng với chân-tinh-thần của Bụt, cho nên đã bắn vào những quả trọng pháo. Những quả pháo đó không có tính cách phá hoại. Tuy nhiên phá hoại để xây dựng cũng có cái lý của nó, vì vậy mà những kinh điển đầu của Đại Thừa, đã là những đại trọng pháo, như kinh Duy Ma chẳng hạn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó mới chính là Diệu Pháp, chứ không phải những ý niệm Như thị tướng, Như thị tánh v.v... là Diệu Pháp. Kinh Bát Nhã là một trong những kinh đầu tiên xuất hiện thuyên giải về tư tưởng Đại Thừa, trong đó có những lời mà chúng ta thấy là quá mạnh. Ví như nói các vị Thanh văn không phải là con đích thực của Bụt mà chỉ là con ghẻ! Thái độ đó không ngọt ngào, không bao dung, không có tính cách từ bi. Cố nhiên thái độ và ngôn ngữ đó đã tạo ra sự chống báng, kỳ thị, cho nên tinh thần Đại Thừa hồi đó chưa đạt tới mức mà nó cần đạt tới. Có lẽ tại trong buổi đầu khi muốn xướng minh một đạo lý, mình phải nêu ra những cái khuyết điểm, những cái tệ đoan mà mình thấy ở trong đoàn thể, ở trong lề lối hành trì. Điều đó, chính chúng ta đôi khi cũng không tránh được. Ví dụ như hôm đó tôi có nói với một Sư chú rằng: Thầy không ưa cách tu lim dim. Nói như vậy nó cũng có nghĩa là chê bai, chưa chấp nhận được sự lim dim, và chưa thấy là đôi khi lim dim cũng là một trong những thừa có thể đưa tới chuyện không lim dim sau này. Nhìn vào bản thân, ta thấy đôi khi ta cũng mắc phải những lỗi lầm như vậy. Ngày xưa khi nhìn vào trong cách tu hành của truyền thống, các thầy thấy có nhiều điều sai lầm, không đúng với chân-tinh-thần của Bụt, cho nên đã bắn vào những quả trọng pháo. Những quả pháo đó không có tính cách phá hoại. Tuy nhiên phá hoại để xây dựng cũng có cái lý của nó, vì vậy mà những kinh điển đầu của Đại Thừa, đã là những đại trọng pháo, như kinh Duy Ma chẳng hạn.
Những quả pháo đó không có tính cách phá hoại. Tuy nhiên phá hoại để xây dựng cũng có cái lý của nó, vì vậy mà những kinh điển đầu của Đại Thừa, đã là những đại trọng pháo, như kinh Duy Ma chẳng hạn. Sau khi công việc công phá đã hoàn thành rồi thì cố nhiên phải có những kinh khác xuất hiện để làm việc hòa giải. Tại vì sau khi tấn công rồi thì mình phải mở cho người ta một con đường, nếu không thì không thể nào gọi là từ bi được cả. Khi học trò làm lầm lỗi thì quí vị cũng phải rầy la. Nhưng rầy la xong rồi thì phải chỉ cho học trò của mình một con đường, nếu không thì họ sẽ bí, và họ sẽ bó tay. Kinh Pháp Hoa ra đời để làm tròn phận sự đó. Ở đây ta thấy Bụt ôm lấy các vị Thanh văn, các vị Duyên giác, và công nhận rằng các vị đều là con của tôi. Sở dĩ tôi chưa dạy quí vị điều đó là tại chưa tới thời, thành ra quí vị chẳng có lỗi gì cả. Chỉ vì chưa tới thời để tôi đem cái giáo pháp Đại Thừa để dạy cho quí vị mà thôi. Lời nói này tràn đầy từ bi, và sự thành công của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó. Trang 70 ta thấy danh từ Nhất thiết chủng trí, mà nghĩa lý cũng tương đương với tri kiến của Bụt, với cái thấy, cái trí tuệ của Bụt. Đó là cái trí tuệ cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những người tu học. Bản hoài của Bụt là trao truyền cái đó, chứ không phải trao truyền một cái gì ít giá trị hơn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Những quả pháo đó không có tính cách phá hoại. Tuy nhiên phá hoại để xây dựng cũng có cái lý của nó, vì vậy mà những kinh điển đầu của Đại Thừa, đã là những đại trọng pháo, như kinh Duy Ma chẳng hạn. Sau khi công việc công phá đã hoàn thành rồi thì cố nhiên phải có những kinh khác xuất hiện để làm việc hòa giải. Tại vì sau khi tấn công rồi thì mình phải mở cho người ta một con đường, nếu không thì không thể nào gọi là từ bi được cả. Khi học trò làm lầm lỗi thì quí vị cũng phải rầy la. Nhưng rầy la xong rồi thì phải chỉ cho học trò của mình một con đường, nếu không thì họ sẽ bí, và họ sẽ bó tay. Kinh Pháp Hoa ra đời để làm tròn phận sự đó. Ở đây ta thấy Bụt ôm lấy các vị Thanh văn, các vị Duyên giác, và công nhận rằng các vị đều là con của tôi. Sở dĩ tôi chưa dạy quí vị điều đó là tại chưa tới thời, thành ra quí vị chẳng có lỗi gì cả. Chỉ vì chưa tới thời để tôi đem cái giáo pháp Đại Thừa để dạy cho quí vị mà thôi. Lời nói này tràn đầy từ bi, và sự thành công của kinh Pháp Hoa là ở chỗ đó. Trang 70 ta thấy danh từ Nhất thiết chủng trí, mà nghĩa lý cũng tương đương với tri kiến của Bụt, với cái thấy, cái trí tuệ của Bụt. Đó là cái trí tuệ cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những người tu học. Bản hoài của Bụt là trao truyền cái đó, chứ không phải trao truyền một cái gì ít giá trị hơn.
Đó là cái trí tuệ cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những người tu học. Bản hoài của Bụt là trao truyền cái đó, chứ không phải trao truyền một cái gì ít giá trị hơn. Thế nhưng nếu người ta chưa có điều kiện để tiếp nhận điều đó, thì mình phải dùng những cái gọi là phương tiện để giúp cho họ từ từ tiến tới, để một ngày nào đó họ có cái khả năng, họ hội đủ duyên để tiếp nhận được điều quí nhất mà họ có quyền tiếp nhận. Vì thế cho nên nếu Bụt đã khai mở ra làm ba con đường, chẳng qua đó chỉ là phương mà tiện thôi. Do đó mà phẩm này được gọi là Phẩm Phương tiện. Muốn thực hiện một điều gì mà thời gian cũng như không gian chưa thuận tiện, thì mình phải dùng những phương tiện này, phương tiện kia để làm cho những điều kiện hội đủ. Khi có đủ phương tiện rồi thì mình mới có thể thực hiện điều chính yếu. Những phương tiện này, phương tiện kia là những cách mà chư Bụt trong quá khứ đã dùng, và chư Bụt trong tương lai cũng sẽ dùng, chứ không phải chỉ có Bụt Thích Ca Mâu Ni mới dùng. Trang 71 ghi rằng: Các vị Bụt đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, dùng những nhân duyên, những lời lẽ, những thí dụ, mà diễn nói Pháp mầu cho các chúng sanh. Thì tuy rằng dùng nhiều phương tiện như vậy, nhưng mục đích chánh cũng chỉ là đưa tới một cái gọi là Phật Thừa, tức là con đường duy nhất. Và mục đích của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất thiết chủng trí.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó là cái trí tuệ cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những người tu học. Bản hoài của Bụt là trao truyền cái đó, chứ không phải trao truyền một cái gì ít giá trị hơn. Thế nhưng nếu người ta chưa có điều kiện để tiếp nhận điều đó, thì mình phải dùng những cái gọi là phương tiện để giúp cho họ từ từ tiến tới, để một ngày nào đó họ có cái khả năng, họ hội đủ duyên để tiếp nhận được điều quí nhất mà họ có quyền tiếp nhận. Vì thế cho nên nếu Bụt đã khai mở ra làm ba con đường, chẳng qua đó chỉ là phương mà tiện thôi. Do đó mà phẩm này được gọi là Phẩm Phương tiện. Muốn thực hiện một điều gì mà thời gian cũng như không gian chưa thuận tiện, thì mình phải dùng những phương tiện này, phương tiện kia để làm cho những điều kiện hội đủ. Khi có đủ phương tiện rồi thì mình mới có thể thực hiện điều chính yếu. Những phương tiện này, phương tiện kia là những cách mà chư Bụt trong quá khứ đã dùng, và chư Bụt trong tương lai cũng sẽ dùng, chứ không phải chỉ có Bụt Thích Ca Mâu Ni mới dùng. Trang 71 ghi rằng: Các vị Bụt đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, dùng những nhân duyên, những lời lẽ, những thí dụ, mà diễn nói Pháp mầu cho các chúng sanh. Thì tuy rằng dùng nhiều phương tiện như vậy, nhưng mục đích chánh cũng chỉ là đưa tới một cái gọi là Phật Thừa, tức là con đường duy nhất. Và mục đích của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất thiết chủng trí.
Và mục đích của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất thiết chủng trí. Ta bỏ một đoạn để đi xuống đoạn kế: Này Thầy Xá Lợi Phất, bây giờ đây tôi cũng làm giống như các vị Bụt trong quá khứ. Tôi biết rằng trong tâm của các loài chúng sanh có nhiều điều ưa muốn, những điều mê chấp, và tôi tùy thuận theo các căn cơ đó mà dùng những món nhơn duyên, lời lẽ, những ví dụ, những phương tiện mà dắt dẫn họ tới với Pháp. Như vậy, không phải là tôi đã cho họ những món ăn chưa đúng mức, mà là từ từ để đưa họ tới lúc mà tôi có thể trao cho họ cái Phật Thừa, tức là cái Nhất Thiết Chủng Trí. Sang trang 72, cũng cùng ý đó: Này thầy Xá Lợi Phất, các đức Bụt xuất hiện trong cõi đời ác, có năm trược là kiến trược, kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, và mạng trược. Các chúng sanh đó vì vậy mà bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét, cùng nhiều các thứ phiền não và họ có nhiều bất thiện căn. Vì đó mà các đức Bụt trong quá khứ mới dùng phương tiện, nói ra một giáo lý, mà khi phân tích ra thì nó có Tam Thừa, kỳ thật nó chỉ có một Phật Thừa mà thôi. Đến đoạn 21, chúng ta mới thấy có định nghĩa thế nào là A La Hán và Duyên giác: Thầy Xá Lợi Phất, nếu một người đệ tử của tôi mà tự cho mình là A La Hán hay Duyên giác, và nếu người đó không biết được chí nguyện của Bụt và của các vị Bồ Tát thì những người đó không thực sự là A La Hán và Duyên giác. Đây là định nghĩa của chính Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Và mục đích của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất thiết chủng trí. Ta bỏ một đoạn để đi xuống đoạn kế: Này Thầy Xá Lợi Phất, bây giờ đây tôi cũng làm giống như các vị Bụt trong quá khứ. Tôi biết rằng trong tâm của các loài chúng sanh có nhiều điều ưa muốn, những điều mê chấp, và tôi tùy thuận theo các căn cơ đó mà dùng những món nhơn duyên, lời lẽ, những ví dụ, những phương tiện mà dắt dẫn họ tới với Pháp. Như vậy, không phải là tôi đã cho họ những món ăn chưa đúng mức, mà là từ từ để đưa họ tới lúc mà tôi có thể trao cho họ cái Phật Thừa, tức là cái Nhất Thiết Chủng Trí. Sang trang 72, cũng cùng ý đó: Này thầy Xá Lợi Phất, các đức Bụt xuất hiện trong cõi đời ác, có năm trược là kiến trược, kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, và mạng trược. Các chúng sanh đó vì vậy mà bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét, cùng nhiều các thứ phiền não và họ có nhiều bất thiện căn. Vì đó mà các đức Bụt trong quá khứ mới dùng phương tiện, nói ra một giáo lý, mà khi phân tích ra thì nó có Tam Thừa, kỳ thật nó chỉ có một Phật Thừa mà thôi. Đến đoạn 21, chúng ta mới thấy có định nghĩa thế nào là A La Hán và Duyên giác: Thầy Xá Lợi Phất, nếu một người đệ tử của tôi mà tự cho mình là A La Hán hay Duyên giác, và nếu người đó không biết được chí nguyện của Bụt và của các vị Bồ Tát thì những người đó không thực sự là A La Hán và Duyên giác. Đây là định nghĩa của chính Bụt.
Đây là định nghĩa của chính Bụt. A La Hán hay Duyên giác phải thực sự là những người có bồ đề tâm, nếu không, họ chưa thực sự là A La Hán hay là Duyên giác. Lại nữa, những vị khất sĩ và nữ khất sĩ cho mình đã là A La Hán, chỉ lo tu tập xong kiếp cuối cùng để đi vào Niết Bàn mà không có chí nguyện cầu Nhất thiết chủng trí, thì họ cũng không phải là A La Hán, không phải thực sự đi vào Niết Bàn, mà họ chỉ là những người tăng thượng mạn. Đoạn kinh này cho ta thấy Bụt định nghĩa A La Hán đích thực là phải có lòng từ bi, phải có cái thái độ dấn thân để cứu khổ, còn cái thái độ trốn tránh những khổ đau trong cuộc đời, thì không phải là A La Hán đích thực, không thể đạt Niết Bàn đích thực. Vì vậy nếu phân chia ra và cho rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ, và các vị Bồ Tát là những vị lo độ cho người, là một sự phân biệt hời hợt. Trong các kinh xuất hiện trước đó, có thể đã có ý niệm rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ, còn Bồ Tát là những người lo độ tha. Ở kinh Pháp Hoa chúng ta thấy một quan điểm khác, đó là A La Hán đích thực cũng độ tha, nếu chưa có cái tâm niệm độ tha thì họ chưa phải là A La Hán đích thực. Ta đi sang phần trùng tụng, trang 73, tức là phần kệ tụng. Phần này quí vị có thể học bằng tiếng Việt, hoặc chữ Hán. Đoạn thứ 23, ta đọc một vài câu kệ: Xá Lợi Phất khéo nghe! Pháp của các Phật được, Vô lượng sức phương tiện, Mà vì chúng sanh nói, Tâm của chúng sanh nghĩ, Các món đạo ra làm, Bao nhiêu những tánh dục, Nghiệp lành, dữ đời trước...
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đây là định nghĩa của chính Bụt. A La Hán hay Duyên giác phải thực sự là những người có bồ đề tâm, nếu không, họ chưa thực sự là A La Hán hay là Duyên giác. Lại nữa, những vị khất sĩ và nữ khất sĩ cho mình đã là A La Hán, chỉ lo tu tập xong kiếp cuối cùng để đi vào Niết Bàn mà không có chí nguyện cầu Nhất thiết chủng trí, thì họ cũng không phải là A La Hán, không phải thực sự đi vào Niết Bàn, mà họ chỉ là những người tăng thượng mạn. Đoạn kinh này cho ta thấy Bụt định nghĩa A La Hán đích thực là phải có lòng từ bi, phải có cái thái độ dấn thân để cứu khổ, còn cái thái độ trốn tránh những khổ đau trong cuộc đời, thì không phải là A La Hán đích thực, không thể đạt Niết Bàn đích thực. Vì vậy nếu phân chia ra và cho rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ, và các vị Bồ Tát là những vị lo độ cho người, là một sự phân biệt hời hợt. Trong các kinh xuất hiện trước đó, có thể đã có ý niệm rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ, còn Bồ Tát là những người lo độ tha. Ở kinh Pháp Hoa chúng ta thấy một quan điểm khác, đó là A La Hán đích thực cũng độ tha, nếu chưa có cái tâm niệm độ tha thì họ chưa phải là A La Hán đích thực. Ta đi sang phần trùng tụng, trang 73, tức là phần kệ tụng. Phần này quí vị có thể học bằng tiếng Việt, hoặc chữ Hán. Đoạn thứ 23, ta đọc một vài câu kệ: Xá Lợi Phất khéo nghe! Pháp của các Phật được, Vô lượng sức phương tiện, Mà vì chúng sanh nói, Tâm của chúng sanh nghĩ, Các món đạo ra làm, Bao nhiêu những tánh dục, Nghiệp lành, dữ đời trước...
Xá Lợi Phất khéo nghe! Pháp của các Phật được, Vô lượng sức phương tiện, Mà vì chúng sanh nói, Tâm của chúng sanh nghĩ, Các món đạo ra làm, Bao nhiêu những tánh dục, Nghiệp lành, dữ đời trước... Quí vị có thấy dễ hiểu không? Bản chữ Hán là: Xá Lợi Phất thiện thính, Chư Phật sở đắc Pháp Vô lượng phương tiện lực Nhi vị chúng sanh thuyết (Này Xá Lợi Phất, thầy nghe cho kỹ, nghe cho khéo, cái Pháp mà chư Bụt đã đạt được ấy, các Ngài đã dùng vô lượng những phương tiện để thuyết cho chúng sanh nghe) Chúng sanh tâm sở niệm Chủng chủng sở hành đạo Nhược can chi dục tánh Tiên thế thiện ác nghiệp... (Cái tâm niệm của chúng sanh họ đi vào trong những con đường khác nhau, và nếu có những tánh dục khác nhau là vì những ác nghiệp hoặc thiện nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời trước). Bụt biết như thế nên dùng những thí dụ, những phương tiện để làm cho tất cả những người đó được hoan hỉ. Hoặc diễn thuyết bằng khế kinh, tức là trường hàng, hoặc diễn thuyết bằng cô khởi, hoặc bằng bổn sự, hoặc diễn thuyết bằng bổn sinh, vị tằng hữu, nhân duyên, thí dụ, trùng tụng, luận nghị, tất cả có vào khoảng chín thể tài. Những điều này mình không thấy rõ trong phần trường hàng, và đây lại là một lý do cho ta thấy phần trùng tụng là phần có trước. Sau này chúng ta thấy liệt kê ra 12 thể tài. Hồi nhỏ tôi cũng học 12 thể tài, nhưng trong kinh này mới nói đến chín thể tài thôi, đó là: 1. Trường hàng, tiếng Phạn là Sūtra 2. Geya cũng là một loại kệ tụng. Cô khởi hay Phúng tụng, Gāthā 4. Luận nghị, Upadeśa
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Xá Lợi Phất khéo nghe! Pháp của các Phật được, Vô lượng sức phương tiện, Mà vì chúng sanh nói, Tâm của chúng sanh nghĩ, Các món đạo ra làm, Bao nhiêu những tánh dục, Nghiệp lành, dữ đời trước... Quí vị có thấy dễ hiểu không? Bản chữ Hán là: Xá Lợi Phất thiện thính, Chư Phật sở đắc Pháp Vô lượng phương tiện lực Nhi vị chúng sanh thuyết (Này Xá Lợi Phất, thầy nghe cho kỹ, nghe cho khéo, cái Pháp mà chư Bụt đã đạt được ấy, các Ngài đã dùng vô lượng những phương tiện để thuyết cho chúng sanh nghe) Chúng sanh tâm sở niệm Chủng chủng sở hành đạo Nhược can chi dục tánh Tiên thế thiện ác nghiệp... (Cái tâm niệm của chúng sanh họ đi vào trong những con đường khác nhau, và nếu có những tánh dục khác nhau là vì những ác nghiệp hoặc thiện nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời trước). Bụt biết như thế nên dùng những thí dụ, những phương tiện để làm cho tất cả những người đó được hoan hỉ. Hoặc diễn thuyết bằng khế kinh, tức là trường hàng, hoặc diễn thuyết bằng cô khởi, hoặc bằng bổn sự, hoặc diễn thuyết bằng bổn sinh, vị tằng hữu, nhân duyên, thí dụ, trùng tụng, luận nghị, tất cả có vào khoảng chín thể tài. Những điều này mình không thấy rõ trong phần trường hàng, và đây lại là một lý do cho ta thấy phần trùng tụng là phần có trước. Sau này chúng ta thấy liệt kê ra 12 thể tài. Hồi nhỏ tôi cũng học 12 thể tài, nhưng trong kinh này mới nói đến chín thể tài thôi, đó là: 1. Trường hàng, tiếng Phạn là Sūtra 2. Geya cũng là một loại kệ tụng. Cô khởi hay Phúng tụng, Gāthā 4. Luận nghị, Upadeśa
1. Trường hàng, tiếng Phạn là Sūtra 2. Geya cũng là một loại kệ tụng. Cô khởi hay Phúng tụng, Gāthā 4. Luận nghị, Upadeśa Ba thể tài khác là: 10. Vô vấn hay Tự thuyết, Udāna; và 12. Chúng ta hãy đọc thêm vài hàng nữa: Căn độn ưa pháp nhỏ, Tham chấp nơi sinh tử, Nói vô lượng đức Phật, Chẳng tu đạo sâu mầu, Bị các khổ não loạn, Vì đó nói Niết Bàn, Ta bày phương tiện để, Khiến đều vào huệ Phật, Chưa từng nói các ông, Sẽ được thành Phật đạo, Sở dĩ chưa từng nói, Vì giờ nói chưa đến, Nay chính là đến giờ, Quyết định nói Đại Thừa. Vì căn tánh còn nhỏ hẹp, đần độn, nên chúng sanh ưa những pháp nhỏ, không có tham vọng lớn. Họ tham chấp nơi sanh tử, tham sống sợ chết là tại vì trong quá khứ, ngang qua thời gian của vô lượng các đức Bụt, các chúng sanh đó không tu tập đạo lý sâu sắc, mầu nhiệm, cho nên bị những khổ đau làm cho điêu đứng. Vì vậy tôi đã dạy cho họ về Niết Bàn, nơi trú ẩn để thoát khỏi đau khổ. Trong quá khứ, tôi chỉ đưa Niết Bàn vắng lặng, an tĩnh ra để làm mục đích cho quí vị thôi. Và quí vị đã nghĩ rằng Niết Bàn đó là cái mục đích cuối cùng của sự thực tập của quí vị. Nhưng đó chỉ mới là phương tiện. Tôi bày cái phương tiện Niết Bàn đó ra để cho quí vị có thể nương vào mà từ từ đi vào trong tri kiến thâm sâu của Bụt. Vì vậy trong gần 40 năm nay tôi chưa từng nói là các vị cũng sẽ được thành Bụt như tôi. Sở dĩ tôi chưa nói là vì chưa tới lúc, hôm nay giây phút đó đã tới, cho nên tôi quyết định nói Đại Thừa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
1. Trường hàng, tiếng Phạn là Sūtra 2. Geya cũng là một loại kệ tụng. Cô khởi hay Phúng tụng, Gāthā 4. Luận nghị, Upadeśa Ba thể tài khác là: 10. Vô vấn hay Tự thuyết, Udāna; và 12. Chúng ta hãy đọc thêm vài hàng nữa: Căn độn ưa pháp nhỏ, Tham chấp nơi sinh tử, Nói vô lượng đức Phật, Chẳng tu đạo sâu mầu, Bị các khổ não loạn, Vì đó nói Niết Bàn, Ta bày phương tiện để, Khiến đều vào huệ Phật, Chưa từng nói các ông, Sẽ được thành Phật đạo, Sở dĩ chưa từng nói, Vì giờ nói chưa đến, Nay chính là đến giờ, Quyết định nói Đại Thừa. Vì căn tánh còn nhỏ hẹp, đần độn, nên chúng sanh ưa những pháp nhỏ, không có tham vọng lớn. Họ tham chấp nơi sanh tử, tham sống sợ chết là tại vì trong quá khứ, ngang qua thời gian của vô lượng các đức Bụt, các chúng sanh đó không tu tập đạo lý sâu sắc, mầu nhiệm, cho nên bị những khổ đau làm cho điêu đứng. Vì vậy tôi đã dạy cho họ về Niết Bàn, nơi trú ẩn để thoát khỏi đau khổ. Trong quá khứ, tôi chỉ đưa Niết Bàn vắng lặng, an tĩnh ra để làm mục đích cho quí vị thôi. Và quí vị đã nghĩ rằng Niết Bàn đó là cái mục đích cuối cùng của sự thực tập của quí vị. Nhưng đó chỉ mới là phương tiện. Tôi bày cái phương tiện Niết Bàn đó ra để cho quí vị có thể nương vào mà từ từ đi vào trong tri kiến thâm sâu của Bụt. Vì vậy trong gần 40 năm nay tôi chưa từng nói là các vị cũng sẽ được thành Bụt như tôi. Sở dĩ tôi chưa nói là vì chưa tới lúc, hôm nay giây phút đó đã tới, cho nên tôi quyết định nói Đại Thừa.
Vì vậy trong gần 40 năm nay tôi chưa từng nói là các vị cũng sẽ được thành Bụt như tôi. Sở dĩ tôi chưa nói là vì chưa tới lúc, hôm nay giây phút đó đã tới, cho nên tôi quyết định nói Đại Thừa. Người đầu tiên được Bụt thọ ký là thầy Xá Lợi Phất, tiêu biểu cho giới Thanh văn. Khi đại chúng nghe thầy Xá Lợi Phất được thọ ký thì tất cả đều rộn ràng, hoan hỉ, sung sướng quá chừng, cho nên mọi người ai có cái gì trong tay, đều tung cả lên trời để cúng dường Bụt. Đang mặc y trên, họ tháo y quăng lên, đang đội nón, họ gỡ nón tung lên, đang đeo tràng hoa, họ tháo tràng hoa tung lên trời để chứng tỏ sự vui mừng, hoan hỉ của họ. Các vị khất sĩ, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà v.v... cũng vậy, khi thấy thầy Xá Lợi Phất được thọ ký để thành một vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, họ đều vui mừng hớn hở. Các vị Thiên vương, Phạm vương cũng hớn hở vui mừng theo. Thầy Xá Lợi Phất được, tức là mình cũng được. Lúc đó thì tam thiên đại thiên thế giới rúng động, người ta nghe âm nhạc ở trên không trung, một nỗi vui mừng lớn của Nhân và Thiên, và trong không trung vang lên một tiếng nói: Đây là lần thứ hai Bụt chuyển Pháp luân. Ngày xưa, sau khi thành đạo, Bụt đã chuyển pháp luân lần thứ nhất tại Vườn Ba la Nại (Bānaras), và giờ đây trên đỉnh Núi Thứu (Grdhrakūta) là lần chuyển pháp luân thứ hai. Tuy rằng thọ ký cho một người, nhưng mọi người đều vui mừng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Vì vậy trong gần 40 năm nay tôi chưa từng nói là các vị cũng sẽ được thành Bụt như tôi. Sở dĩ tôi chưa nói là vì chưa tới lúc, hôm nay giây phút đó đã tới, cho nên tôi quyết định nói Đại Thừa. Người đầu tiên được Bụt thọ ký là thầy Xá Lợi Phất, tiêu biểu cho giới Thanh văn. Khi đại chúng nghe thầy Xá Lợi Phất được thọ ký thì tất cả đều rộn ràng, hoan hỉ, sung sướng quá chừng, cho nên mọi người ai có cái gì trong tay, đều tung cả lên trời để cúng dường Bụt. Đang mặc y trên, họ tháo y quăng lên, đang đội nón, họ gỡ nón tung lên, đang đeo tràng hoa, họ tháo tràng hoa tung lên trời để chứng tỏ sự vui mừng, hoan hỉ của họ. Các vị khất sĩ, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà v.v... cũng vậy, khi thấy thầy Xá Lợi Phất được thọ ký để thành một vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, họ đều vui mừng hớn hở. Các vị Thiên vương, Phạm vương cũng hớn hở vui mừng theo. Thầy Xá Lợi Phất được, tức là mình cũng được. Lúc đó thì tam thiên đại thiên thế giới rúng động, người ta nghe âm nhạc ở trên không trung, một nỗi vui mừng lớn của Nhân và Thiên, và trong không trung vang lên một tiếng nói: Đây là lần thứ hai Bụt chuyển Pháp luân. Ngày xưa, sau khi thành đạo, Bụt đã chuyển pháp luân lần thứ nhất tại Vườn Ba la Nại (Bānaras), và giờ đây trên đỉnh Núi Thứu (Grdhrakūta) là lần chuyển pháp luân thứ hai. Tuy rằng thọ ký cho một người, nhưng mọi người đều vui mừng.
Tuy rằng thọ ký cho một người, nhưng mọi người đều vui mừng. Lý do là sự thọ ký chứng tỏ rằng tất cả chúng ta đều có thể được như vậy, tại vì chúng ta phần lớn đều ở trong hàng Thanh văn, Duyên giác, và Bụt nói rằng không ai trong chúng hội này mà đã không gieo trồng những hạt giống Bồ đề ở trong quá khứ. Vì thầy Xá Lợi Phất được nên chúng ta cũng sẽ được, cho nên nỗi vui mừng đó là nỗi vui mừng chung. Trong những phẩm kế tiếp chúng ta sẽ thấy Bụt thọ ký cho các thầy khác, trong đó có những thầy rất trẻ như thầy A Nan (Ọnanda), thầy La Hầu La. Bụt còn thọ ký cho bên nữ, tuy rằng thọ ký hơi trễ một tí. Bụt cũng thọ ký luôn cho những người có ác tâm như Đề-Bà-Đạt-Đa, và có một lần Ngài thọ ký cho cả 500 vị đệ tử cùng một lượt. Năm trăm vị đó sẽ thành Bụt với cùng một danh hiệu, như vậy công tác thọ ký là một công tác hoằng pháp, gieo đức tin, gieo sự quyết tâm vào trong lòng người. Vì vậy cho nên trong thời gian còn tại thế, Bụt đã thọ ký càng nhiều càng tốt. Nếu được gần Bụt có lẽ mình cũng sẽ được thọ ký. Đó là đứng về phương diện lịch sử hay Tích môn mà nói. Chúng ta là những người sanh ra sau khi Bụt đã nhập diệt, vậy thì ai sẽ thọ ký cho chúng ta bây giờ? Chúng ta phân bì, chúng ta nói rằng Bụt Thích Ca không công bình! Bụt chỉ thọ ký cho những người đồng thời với Bụt mà thôi, còn chúng ta vì vô phước sanh ra sau Ngài nên không được Ngài thọ ký! Như vậy thì ta biết nương vào đâu, biết lấy năng lượng từ đâu để có thể thành đạt được như các vị đệ tử cùng thời với Bụt?
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Tuy rằng thọ ký cho một người, nhưng mọi người đều vui mừng. Lý do là sự thọ ký chứng tỏ rằng tất cả chúng ta đều có thể được như vậy, tại vì chúng ta phần lớn đều ở trong hàng Thanh văn, Duyên giác, và Bụt nói rằng không ai trong chúng hội này mà đã không gieo trồng những hạt giống Bồ đề ở trong quá khứ. Vì thầy Xá Lợi Phất được nên chúng ta cũng sẽ được, cho nên nỗi vui mừng đó là nỗi vui mừng chung. Trong những phẩm kế tiếp chúng ta sẽ thấy Bụt thọ ký cho các thầy khác, trong đó có những thầy rất trẻ như thầy A Nan (Ọnanda), thầy La Hầu La. Bụt còn thọ ký cho bên nữ, tuy rằng thọ ký hơi trễ một tí. Bụt cũng thọ ký luôn cho những người có ác tâm như Đề-Bà-Đạt-Đa, và có một lần Ngài thọ ký cho cả 500 vị đệ tử cùng một lượt. Năm trăm vị đó sẽ thành Bụt với cùng một danh hiệu, như vậy công tác thọ ký là một công tác hoằng pháp, gieo đức tin, gieo sự quyết tâm vào trong lòng người. Vì vậy cho nên trong thời gian còn tại thế, Bụt đã thọ ký càng nhiều càng tốt. Nếu được gần Bụt có lẽ mình cũng sẽ được thọ ký. Đó là đứng về phương diện lịch sử hay Tích môn mà nói. Chúng ta là những người sanh ra sau khi Bụt đã nhập diệt, vậy thì ai sẽ thọ ký cho chúng ta bây giờ? Chúng ta phân bì, chúng ta nói rằng Bụt Thích Ca không công bình! Bụt chỉ thọ ký cho những người đồng thời với Bụt mà thôi, còn chúng ta vì vô phước sanh ra sau Ngài nên không được Ngài thọ ký! Như vậy thì ta biết nương vào đâu, biết lấy năng lượng từ đâu để có thể thành đạt được như các vị đệ tử cùng thời với Bụt?
Như vậy thì ta biết nương vào đâu, biết lấy năng lượng từ đâu để có thể thành đạt được như các vị đệ tử cùng thời với Bụt? Đọc tiếp các phẩm sau này, ví dụ như Phẩm Hiện Bảo Tháp, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời của câu hỏi đó. Trong lúc Bụt thọ ký cho các đệ tử, thì tất cả mọi người đều ngồi chân chấm đất ở trên Núi Thứu, và chúng ta đang ở trên bình diện lịch sử hay Tích môn. Tích là di tích, là những gì xảy ra trong thời gian. Để trả lời câu hỏi mà chúng ta vừa đưa ra: Những người ở trong những thời gian khác, địa phương khác thì làm sao họ được thọ ký, được hưởng sự công bình đó? Ngay lúc đó, cánh cửa của Bản môn được mở ra: Từ dưới đất xuất hiện một bảo tháp, và trong bảo tháp đó có tiếng Bụt Đa Bảo thốt lên: Hay lắm, hay lắm Bụt Thích Ca, Người nói kinh Pháp Hoa hay lắm. Lúc đó, tất cả mọi cặp mắt đều hướng lên trời và thấy bảo tháp của Bụt Đa Bảo an trú lơ lửng trong không trung. Khi đó đại chúng biết rằng trong bảo tháp có một vị Bụt ngày xưa đã tu tập và đã thành đạo, đã thuyết kinh Pháp Hoa, và đã lập nguyện rằng, mỗi khi ở đâu có một vị Bụt thuyết Pháp Hoa Kinh thì bảo tháp đó sẽ hiển hiện, và sẽ có lời khen ngợi hay thay, hay thay từ trong bảo tháp phát ra. Lúc này đại chúng được đưa lên bình diện của Bản môn, và nếu có một chút thông minh, chúng ta sẽ thấy Bụt Đa Bảo ngày xưa chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay, và Bụt Thích Ca không phải chỉ mới thành đạo cách đây 40 năm ở dưới cây bồ đề, mà đã thành đạo từ vô lượng vô biên kiếp trước.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Như vậy thì ta biết nương vào đâu, biết lấy năng lượng từ đâu để có thể thành đạt được như các vị đệ tử cùng thời với Bụt? Đọc tiếp các phẩm sau này, ví dụ như Phẩm Hiện Bảo Tháp, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời của câu hỏi đó. Trong lúc Bụt thọ ký cho các đệ tử, thì tất cả mọi người đều ngồi chân chấm đất ở trên Núi Thứu, và chúng ta đang ở trên bình diện lịch sử hay Tích môn. Tích là di tích, là những gì xảy ra trong thời gian. Để trả lời câu hỏi mà chúng ta vừa đưa ra: Những người ở trong những thời gian khác, địa phương khác thì làm sao họ được thọ ký, được hưởng sự công bình đó? Ngay lúc đó, cánh cửa của Bản môn được mở ra: Từ dưới đất xuất hiện một bảo tháp, và trong bảo tháp đó có tiếng Bụt Đa Bảo thốt lên: Hay lắm, hay lắm Bụt Thích Ca, Người nói kinh Pháp Hoa hay lắm. Lúc đó, tất cả mọi cặp mắt đều hướng lên trời và thấy bảo tháp của Bụt Đa Bảo an trú lơ lửng trong không trung. Khi đó đại chúng biết rằng trong bảo tháp có một vị Bụt ngày xưa đã tu tập và đã thành đạo, đã thuyết kinh Pháp Hoa, và đã lập nguyện rằng, mỗi khi ở đâu có một vị Bụt thuyết Pháp Hoa Kinh thì bảo tháp đó sẽ hiển hiện, và sẽ có lời khen ngợi hay thay, hay thay từ trong bảo tháp phát ra. Lúc này đại chúng được đưa lên bình diện của Bản môn, và nếu có một chút thông minh, chúng ta sẽ thấy Bụt Đa Bảo ngày xưa chính là Bụt Thích Ca ngày hôm nay, và Bụt Thích Ca không phải chỉ mới thành đạo cách đây 40 năm ở dưới cây bồ đề, mà đã thành đạo từ vô lượng vô biên kiếp trước.
Nếu sự thật là tất cả các pháp đều an trú sẵn trong Niết Bàn, thì tất cả chúng ta đã là Bụt rồi, không cần có sự đi tìm cầu nữa, đó là đứng về phương diện Bản môn mà nói. Vì vậy nếu quí vị muốn được thọ ký thì Bụt luôn luôn có mặt tại đó để thọ ký cho quí vị, quí vị không cần phải trở về 2500 năm trước mới được thọ ký. Tại vì Bụt đang có mặt trong giờ phút hiện tại. Bụt của Bản môn đang an trú trong giờ phút hiện tại, và nếu lắng tâm thì quí vị sẽ nghe tiếng của Bụt, và Bụt đang thọ ký cho mình ngay trong giây phút này. Đó là đứng về phương diện Bản môn mà nói, rất mầu nhiệm. Kinh Pháp Hoa không phải chỉ đưa chúng ta vào thế giới của Tích môn. Sau khi đưa chúng ta vào thế giới của Tích môn để thấy thầy Xá Lợi Phất được thọ ký, thì kinh đưa ta vào Bản môn và chính bản thân của chúng ta cũng được Bụt thọ ký. Đây là một khía cạnh mầu nhiệm khác của kinh Pháp Hoa mà tinh chất đó đã ảnh hưởng một cách rất sâu đậm tới tâm hồn của Phật tử người Việt. Khi các vị đọc thơ của tôi viết từ hồi 20 tuổi tới giờ, nếu quí vị không có một căn bản về Phật Pháp, không đọc kinh Pháp Hoa, không hiểu về tư tưởng Tích môn và Bản môn, thì tôi không nghĩ là quí vị có thể hiểu được những bài thơ đó. Đọc thử một vài câu quí vị sẽ thấy điều tôi nói. Ví dụ bài Tiếng gọi tôi làm năm 1966 trong lần thăm viếng Úc châu, đăng trong cuốn Thử tìm Dấu Chân Trên Cát [5] : Sáng hôm nay Tới đây Chén trà nóng Bãi cỏ xanh Bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước Bàn tay gió Dáng vẫy gọi Một chồi non xanh mướt
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nếu sự thật là tất cả các pháp đều an trú sẵn trong Niết Bàn, thì tất cả chúng ta đã là Bụt rồi, không cần có sự đi tìm cầu nữa, đó là đứng về phương diện Bản môn mà nói. Vì vậy nếu quí vị muốn được thọ ký thì Bụt luôn luôn có mặt tại đó để thọ ký cho quí vị, quí vị không cần phải trở về 2500 năm trước mới được thọ ký. Tại vì Bụt đang có mặt trong giờ phút hiện tại. Bụt của Bản môn đang an trú trong giờ phút hiện tại, và nếu lắng tâm thì quí vị sẽ nghe tiếng của Bụt, và Bụt đang thọ ký cho mình ngay trong giây phút này. Đó là đứng về phương diện Bản môn mà nói, rất mầu nhiệm. Kinh Pháp Hoa không phải chỉ đưa chúng ta vào thế giới của Tích môn. Sau khi đưa chúng ta vào thế giới của Tích môn để thấy thầy Xá Lợi Phất được thọ ký, thì kinh đưa ta vào Bản môn và chính bản thân của chúng ta cũng được Bụt thọ ký. Đây là một khía cạnh mầu nhiệm khác của kinh Pháp Hoa mà tinh chất đó đã ảnh hưởng một cách rất sâu đậm tới tâm hồn của Phật tử người Việt. Khi các vị đọc thơ của tôi viết từ hồi 20 tuổi tới giờ, nếu quí vị không có một căn bản về Phật Pháp, không đọc kinh Pháp Hoa, không hiểu về tư tưởng Tích môn và Bản môn, thì tôi không nghĩ là quí vị có thể hiểu được những bài thơ đó. Đọc thử một vài câu quí vị sẽ thấy điều tôi nói. Ví dụ bài Tiếng gọi tôi làm năm 1966 trong lần thăm viếng Úc châu, đăng trong cuốn Thử tìm Dấu Chân Trên Cát [5] : Sáng hôm nay Tới đây Chén trà nóng Bãi cỏ xanh Bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước Bàn tay gió Dáng vẫy gọi Một chồi non xanh mướt
Sáng hôm nay Tới đây Chén trà nóng Bãi cỏ xanh Bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước Bàn tay gió Dáng vẫy gọi Một chồi non xanh mướt Nụ hoa nào Hạt sỏi nào Ngọn lá nào Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh. Đó là những gì xảy ra trong lịch sử. Bây giờ và ở đây có chén trà nóng, có bãi cỏ xanh, nếu mình sống sâu sắc với những cái thuộc về Tích môn đó, thì tự nhiên cái Bản môn nó phát hiện. Bóng hình em ngày trước tức là Bản môn, là Niết Bàn, là chân như thật tánh, nghĩa là cái mà mình có thể sờ mó được trong giây phút hiện tại nếu mình quả thật tiếp xúc được với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Thành ra nếu mình sống có chánh niệm, nếu mình tiếp xúc được với chén trà nóng, với bãi cỏ xanh một cách sâu sắc, thì mình tiếp xúc được với cái tự tánh chân như, và cái Niết Bàn nó có mặt trong những thực thể đó. Như vậy, sờ vào Tích môn, ta tiếp xúc được với Bản môn. Cái nếp sống có tu học của người Phật tử là trong khi sống đời sống hàng ngày, mình phải học tiếp xúc với Bản môn. Nói vậy có nghĩa là khi ăn cơm, khi uống trà, khi đi thiền hành, khi nói chuyện, khi cầm tay nhau, chúng ta phải tiếp xúc được với cái Bản môn. Tích môn tiếng Anh là Historical dimension, còn Bản môn là Ultimate dimension. Thành ra khi quí vị uống trà thì đừng nên uống trà một cách hời hợt, vì như vậy thì quí vị chỉ có thể tiếp xúc được với cái vỏ của Tích môn. Uống trà một cách sâu sắc thì mình tiếp xúc được với Bản môn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Sáng hôm nay Tới đây Chén trà nóng Bãi cỏ xanh Bỗng dưng hiện bóng hình em ngày trước Bàn tay gió Dáng vẫy gọi Một chồi non xanh mướt Nụ hoa nào Hạt sỏi nào Ngọn lá nào Cũng thuyết Pháp Hoa Kinh. Đó là những gì xảy ra trong lịch sử. Bây giờ và ở đây có chén trà nóng, có bãi cỏ xanh, nếu mình sống sâu sắc với những cái thuộc về Tích môn đó, thì tự nhiên cái Bản môn nó phát hiện. Bóng hình em ngày trước tức là Bản môn, là Niết Bàn, là chân như thật tánh, nghĩa là cái mà mình có thể sờ mó được trong giây phút hiện tại nếu mình quả thật tiếp xúc được với những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Thành ra nếu mình sống có chánh niệm, nếu mình tiếp xúc được với chén trà nóng, với bãi cỏ xanh một cách sâu sắc, thì mình tiếp xúc được với cái tự tánh chân như, và cái Niết Bàn nó có mặt trong những thực thể đó. Như vậy, sờ vào Tích môn, ta tiếp xúc được với Bản môn. Cái nếp sống có tu học của người Phật tử là trong khi sống đời sống hàng ngày, mình phải học tiếp xúc với Bản môn. Nói vậy có nghĩa là khi ăn cơm, khi uống trà, khi đi thiền hành, khi nói chuyện, khi cầm tay nhau, chúng ta phải tiếp xúc được với cái Bản môn. Tích môn tiếng Anh là Historical dimension, còn Bản môn là Ultimate dimension. Thành ra khi quí vị uống trà thì đừng nên uống trà một cách hời hợt, vì như vậy thì quí vị chỉ có thể tiếp xúc được với cái vỏ của Tích môn. Uống trà một cách sâu sắc thì mình tiếp xúc được với Bản môn.
Uống trà một cách sâu sắc thì mình tiếp xúc được với Bản môn. Mình chỉ cần uống một lần như vậy thì mình đã có thể tiếp xúc được với Niết Bàn, với cái bản thể, với cái không sanh và không diệt của vạn vật. Đó là cách sống của người Phật tử. Tiếp xúc với sanh, lão, bệnh, tử, với vô thường, vô ngã một cách sâu sắc, tiếp xúc trong sự có mặt đích thực, thì đồng thời ta cũng tiếp xúc được với cái bất sinh, bất diệt, với Niết Bàn. Giá trị của sự thực tập là ở chỗ đó. Hàng ngày, ta cũng ăn cơm, uống nước, đi chơi như mọi người, nhưng ta có thể sống với cái muôn đời trong cuộc sống. Ta đâu cần trở về với Tích môn, trở về cái bình diện lịch sử, đi lùi lại 2500 năm, mới nghe được kinh Pháp Hoa? Nếu ta tiếp xúc được với Bản môn thì chính trong giờ phút này và ở tại ngay đây, cái nụ hoa kia, cái hạt sỏi kia, cái ngọn lá kia chúng cũng đang thuyết Pháp Hoa, và chúng cũng đang thọ ký cho ta. Bụt Thích Ca và Bụt Đa Bảo cũng đang làm công việc đó ngay trong giờ phút hiện tại. Thành ra câu hỏi Ai sẽ thọ ký cho mình? đã được trả lời bằng phần sau của kinh Pháp Hoa: Bụt của Bản môn thọ ký cho mình. Nếu không có cái chất của Pháp Hoa ở trong người thì khi đọc bài thơ đó, tuy quí vị cũng thấy hay hay, nhưng không thấy được rằng những bài thơ như bài thơ đó chứa đựng được cái truyền thống Phật giáo của dân tộc Việt-nam. Khi đọc bài thơ này, ta có thể thấy được kinh Pháp Hoa, thấy được bài thơ và kinh Pháp Hoa không phải là hai thực thể riêng biệt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Uống trà một cách sâu sắc thì mình tiếp xúc được với Bản môn. Mình chỉ cần uống một lần như vậy thì mình đã có thể tiếp xúc được với Niết Bàn, với cái bản thể, với cái không sanh và không diệt của vạn vật. Đó là cách sống của người Phật tử. Tiếp xúc với sanh, lão, bệnh, tử, với vô thường, vô ngã một cách sâu sắc, tiếp xúc trong sự có mặt đích thực, thì đồng thời ta cũng tiếp xúc được với cái bất sinh, bất diệt, với Niết Bàn. Giá trị của sự thực tập là ở chỗ đó. Hàng ngày, ta cũng ăn cơm, uống nước, đi chơi như mọi người, nhưng ta có thể sống với cái muôn đời trong cuộc sống. Ta đâu cần trở về với Tích môn, trở về cái bình diện lịch sử, đi lùi lại 2500 năm, mới nghe được kinh Pháp Hoa? Nếu ta tiếp xúc được với Bản môn thì chính trong giờ phút này và ở tại ngay đây, cái nụ hoa kia, cái hạt sỏi kia, cái ngọn lá kia chúng cũng đang thuyết Pháp Hoa, và chúng cũng đang thọ ký cho ta. Bụt Thích Ca và Bụt Đa Bảo cũng đang làm công việc đó ngay trong giờ phút hiện tại. Thành ra câu hỏi Ai sẽ thọ ký cho mình? đã được trả lời bằng phần sau của kinh Pháp Hoa: Bụt của Bản môn thọ ký cho mình. Nếu không có cái chất của Pháp Hoa ở trong người thì khi đọc bài thơ đó, tuy quí vị cũng thấy hay hay, nhưng không thấy được rằng những bài thơ như bài thơ đó chứa đựng được cái truyền thống Phật giáo của dân tộc Việt-nam. Khi đọc bài thơ này, ta có thể thấy được kinh Pháp Hoa, thấy được bài thơ và kinh Pháp Hoa không phải là hai thực thể riêng biệt.
Khi đọc bài thơ này, ta có thể thấy được kinh Pháp Hoa, thấy được bài thơ và kinh Pháp Hoa không phải là hai thực thể riêng biệt. Chúng ta thử đọc một vài câu trong bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng để thấy thêm về sự liên hệ giữa thế giới Tích môn và pháp giới Bản môn. Tôi không bao giờ khôn lớn Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm Khôn lớn là đứng về phương diện Tích môn mà nói. Mình được mẹ sinh ra, lớn lên năm tuổi, bảy tuổi rồi 30, 40 tuổi. Vì vậy khi đọc câu Tôi không bao giờ khôn lớn, kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, thì mình có thể nói, chà cái ông này không muốn lớn mà chỉ muốn làm con nít hoài! Như vậy là mình chỉ quanh quẩn trong Tích môn, và làm sao mình hiểu được bài thơ đó! Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng Mẹ và em còn đó Gió chiều như hơi thở Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? Đứng trên bình diện Tích môn thì mình nghĩ về tương lai, mình muốn thành đạt, muốn có bằng Tiến sĩ, Cử nhân. Nhưng khi tiếp xúc được với Bản môn thì ta thấy những cái đẹp đó không phải thuộc về quá khứ. Tất cả những cái đẹp đó nó đang nằm trong hiện tại, trong giờ phút này. Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? nghĩa là không còn chạy nữa. Đó là vô tác, tiếng Anh là Aimlessness, there is nothing to be realised. Cái hiện tại đó là hạnh phúc, là an lạc. Đầu còn gối trên Thánh Kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Khi đọc bài thơ này, ta có thể thấy được kinh Pháp Hoa, thấy được bài thơ và kinh Pháp Hoa không phải là hai thực thể riêng biệt. Chúng ta thử đọc một vài câu trong bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng để thấy thêm về sự liên hệ giữa thế giới Tích môn và pháp giới Bản môn. Tôi không bao giờ khôn lớn Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm Khôn lớn là đứng về phương diện Tích môn mà nói. Mình được mẹ sinh ra, lớn lên năm tuổi, bảy tuổi rồi 30, 40 tuổi. Vì vậy khi đọc câu Tôi không bao giờ khôn lớn, kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, thì mình có thể nói, chà cái ông này không muốn lớn mà chỉ muốn làm con nít hoài! Như vậy là mình chỉ quanh quẩn trong Tích môn, và làm sao mình hiểu được bài thơ đó! Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng Mẹ và em còn đó Gió chiều như hơi thở Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? Đứng trên bình diện Tích môn thì mình nghĩ về tương lai, mình muốn thành đạt, muốn có bằng Tiến sĩ, Cử nhân. Nhưng khi tiếp xúc được với Bản môn thì ta thấy những cái đẹp đó không phải thuộc về quá khứ. Tất cả những cái đẹp đó nó đang nằm trong hiện tại, trong giờ phút này. Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? nghĩa là không còn chạy nữa. Đó là vô tác, tiếng Anh là Aimlessness, there is nothing to be realised. Cái hiện tại đó là hạnh phúc, là an lạc. Đầu còn gối trên Thánh Kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng
Cái hiện tại đó là hạnh phúc, là an lạc. Đầu còn gối trên Thánh Kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng Chung quanh chúng ta, người nào cũng đang hăng hái, siêng năng như những con ong đang xây dựng cái thiên đường của tương lai. Công trình xây dựng ngàn đời, Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất. Câu thứ nhất nói về Tích môn. It takes one thousand years in order to build what you want to build, but in fact, what you intended to build is already built. Làm sao hiểu được những câu đó khi mình không thấy được Tích môn và Bản môn là một? và như vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được câu thứ hai Công trình xây dựng ngàn đời, nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất? Mình không cầu thành Bụt nữa, mình đã là Bụt rồi, You are already what you want to become! Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới, Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt tự ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu. Mình phải xúc tiếp với Bản môn. Đọc đoạn chót mình có thể hiểu lầm rằng tác giả đang mơ tưởng những cái đẹp trong quá khứ. Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu Nắng sớm mùa thu Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa Những cây ổi trái chín thơm Những lá bàng khô thắm Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẵng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Cái hiện tại đó là hạnh phúc, là an lạc. Đầu còn gối trên Thánh Kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng Chung quanh chúng ta, người nào cũng đang hăng hái, siêng năng như những con ong đang xây dựng cái thiên đường của tương lai. Công trình xây dựng ngàn đời, Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất. Câu thứ nhất nói về Tích môn. It takes one thousand years in order to build what you want to build, but in fact, what you intended to build is already built. Làm sao hiểu được những câu đó khi mình không thấy được Tích môn và Bản môn là một? và như vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được câu thứ hai Công trình xây dựng ngàn đời, nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất? Mình không cầu thành Bụt nữa, mình đã là Bụt rồi, You are already what you want to become! Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới, Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt tự ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu. Mình phải xúc tiếp với Bản môn. Đọc đoạn chót mình có thể hiểu lầm rằng tác giả đang mơ tưởng những cái đẹp trong quá khứ. Tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu Nắng sớm mùa thu Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa Những cây ổi trái chín thơm Những lá bàng khô thắm Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẵng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua
Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẵng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua Mới thấy đây chứ không phải chúng là những hình ảnh của quá khứ. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa, Rất rõ, đây không phải là những hình ảnh của sự tiếc thương, mà là những hình ảnh mình thấy ngay trong hiện tại, không có gì đã qua và đã mất. Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là mấy câu trong bài Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng, cũng trong cuốn Thử tìm dấu chân trên cát. Trong bài thơ đó ta cũng thấy được cái tâm này. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây hôm nay và ngày mai nữa, Đến đây Khi khát ta cùng uống một giếng nước thơm trong. Giếng đó là giếng của Bản môn. Ta phải tập uống nước giếng của Bản môn, chứ đừng chỉ uống nước giếng ở Tích môn. Nếu chỉ biết uống nước ở Tích môn thì ta còn nhớ còn thương, còn thiếu còn thừa. Uống được nước giếng của Bản môn thì mình sẽ có hạnh phúc đầy đủ. Ai nói cho em nghe rằng Thượng đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người? Chúng ta đã cùng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, Khổ đau vì không tự biết là lá, là hoa Em hát ca đi. Bông Cúc cười theo em bên hàng dậu,
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẵng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua Mới thấy đây chứ không phải chúng là những hình ảnh của quá khứ. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa, Rất rõ, đây không phải là những hình ảnh của sự tiếc thương, mà là những hình ảnh mình thấy ngay trong hiện tại, không có gì đã qua và đã mất. Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là mấy câu trong bài Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng, cũng trong cuốn Thử tìm dấu chân trên cát. Trong bài thơ đó ta cũng thấy được cái tâm này. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây hôm nay và ngày mai nữa, Đến đây Khi khát ta cùng uống một giếng nước thơm trong. Giếng đó là giếng của Bản môn. Ta phải tập uống nước giếng của Bản môn, chứ đừng chỉ uống nước giếng ở Tích môn. Nếu chỉ biết uống nước ở Tích môn thì ta còn nhớ còn thương, còn thiếu còn thừa. Uống được nước giếng của Bản môn thì mình sẽ có hạnh phúc đầy đủ. Ai nói cho em nghe rằng Thượng đế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người? Chúng ta đã cùng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, Khổ đau vì không tự biết là lá, là hoa Em hát ca đi. Bông Cúc cười theo em bên hàng dậu,
Chúng ta đã cùng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, Khổ đau vì không tự biết là lá, là hoa Em hát ca đi. Bông Cúc cười theo em bên hàng dậu, Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát, Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Nếu ta bị cột vào trong những mưu toan, những dự án xây dựng cho tương lai, thì có thể là ta đang tự lập ra những nhà tù để giam hãm mình, vì vậy phải thoát ra khỏi thế giới ràng buộc bằng cách đừng sống một cách ơ thờ ở trong bình diện của lịch sử, của Tích môn, mà phải biết đặt chân vào, phải biết nếm, phải biết tiếp xúc với bình diện của Bản môn. Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát, những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Những ngôi sao kia rất tự do, tại vì chúng ở trong Bản môn, không bị những lo tính, những mưu toan giam hãm. Đây là một bài thơ khác, tôi xin đọc một bài mà trước đây chính quyền Sài gòn đã kiểm duyệt, không cho xuất bản. Vì không hiểu bài thơ, nên họ tưởng tôi nói về chính trị. Bài này tựa là Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng. Bắn một mũi tên ta làm rơi hai lá cờ ảo tượng cùng một lần. Họ nghĩ rằng bài thơ này có lập trường trung lập, tại vì theo họ, hai lá cờ ảo tượng này, một là Quốc gia, và một là Cộng sản. Ông tác giả này đòi bắn rớt cả hai, không theo bên nào hết, thì đúng ông ta mơ ước trung lập, không thể được! Thật ra bài này không có dính líu chút nào đến chính trị cả, nhưng vì cái nhìn của người ta như vậy nên họ mới thấy như vậy.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chúng ta đã cùng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp, Khổ đau vì không tự biết là lá, là hoa Em hát ca đi. Bông Cúc cười theo em bên hàng dậu, Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát, Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Nếu ta bị cột vào trong những mưu toan, những dự án xây dựng cho tương lai, thì có thể là ta đang tự lập ra những nhà tù để giam hãm mình, vì vậy phải thoát ra khỏi thế giới ràng buộc bằng cách đừng sống một cách ơ thờ ở trong bình diện của lịch sử, của Tích môn, mà phải biết đặt chân vào, phải biết nếm, phải biết tiếp xúc với bình diện của Bản môn. Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát, những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình. Những ngôi sao kia rất tự do, tại vì chúng ở trong Bản môn, không bị những lo tính, những mưu toan giam hãm. Đây là một bài thơ khác, tôi xin đọc một bài mà trước đây chính quyền Sài gòn đã kiểm duyệt, không cho xuất bản. Vì không hiểu bài thơ, nên họ tưởng tôi nói về chính trị. Bài này tựa là Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng. Bắn một mũi tên ta làm rơi hai lá cờ ảo tượng cùng một lần. Họ nghĩ rằng bài thơ này có lập trường trung lập, tại vì theo họ, hai lá cờ ảo tượng này, một là Quốc gia, và một là Cộng sản. Ông tác giả này đòi bắn rớt cả hai, không theo bên nào hết, thì đúng ông ta mơ ước trung lập, không thể được! Thật ra bài này không có dính líu chút nào đến chính trị cả, nhưng vì cái nhìn của người ta như vậy nên họ mới thấy như vậy.
Thật ra bài này không có dính líu chút nào đến chính trị cả, nhưng vì cái nhìn của người ta như vậy nên họ mới thấy như vậy. Ban đầu ta nghe tiếng nói của người em, than thở rằng ngày mai thế nào anh cũng chết và em sẽ bơ vơ, vì vậy xin anh thâu lại giọng của anh trong một cuộn băng này để mai đây khi anh chết đi, em sẽ còn cuốn băng để vẫn còn được nghe anh nói. Đây là một cách diễn tả tâm trạng của đệ tử Bụt trước khi Ngài nhập diệt, hay là tâm trạng của những người thấy thầy của mình hay người hướng dẫn mình, mai đây sẽ không còn nữa. Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng bắt đầu bằng những câu: Cũng như dòng suối về gặp đại dương Ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới Tiếng hát kia vẳng lại sẽ đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường Tội nghiệp. Đi thì đi, nhưng anh hãy hát lớn lên để khi anh mất đi rồi thì anh vẫn có thể còn hướng dẫn tôi thêm một đoạn đường nữa. Trả lời: Tôi sẽ không ra đi Hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến Nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím. Làm sao hiểu được bài thơ này nếu không thấm nhuần tư tưởng của đạo Bụt Đại Thừa? tôi sẽ không ra đi hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến, đó là cái thấy vô khứ vô lai. Như Lai có nghĩa là không từ đâu tới cả và cũng sẽ không đi về đâu. Nơi khởi hành có trăng, mây, gió, nước, rất là đẹp, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím, hoa vàng trúc tím cũng đẹp như trăng mây gió nước.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thật ra bài này không có dính líu chút nào đến chính trị cả, nhưng vì cái nhìn của người ta như vậy nên họ mới thấy như vậy. Ban đầu ta nghe tiếng nói của người em, than thở rằng ngày mai thế nào anh cũng chết và em sẽ bơ vơ, vì vậy xin anh thâu lại giọng của anh trong một cuộn băng này để mai đây khi anh chết đi, em sẽ còn cuốn băng để vẫn còn được nghe anh nói. Đây là một cách diễn tả tâm trạng của đệ tử Bụt trước khi Ngài nhập diệt, hay là tâm trạng của những người thấy thầy của mình hay người hướng dẫn mình, mai đây sẽ không còn nữa. Một mũi tên rơi hai cờ ảo tượng bắt đầu bằng những câu: Cũng như dòng suối về gặp đại dương Ngày mai ra đi anh nhớ hát lên khúc ca mùa mới Tiếng hát kia vẳng lại sẽ đủ sức tiễn tôi trên một đoạn đường Tội nghiệp. Đi thì đi, nhưng anh hãy hát lớn lên để khi anh mất đi rồi thì anh vẫn có thể còn hướng dẫn tôi thêm một đoạn đường nữa. Trả lời: Tôi sẽ không ra đi Hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến Nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím. Làm sao hiểu được bài thơ này nếu không thấm nhuần tư tưởng của đạo Bụt Đại Thừa? tôi sẽ không ra đi hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến, đó là cái thấy vô khứ vô lai. Như Lai có nghĩa là không từ đâu tới cả và cũng sẽ không đi về đâu. Nơi khởi hành có trăng, mây, gió, nước, rất là đẹp, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím, hoa vàng trúc tím cũng đẹp như trăng mây gió nước.
Nơi khởi hành có trăng, mây, gió, nước, rất là đẹp, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím, hoa vàng trúc tím cũng đẹp như trăng mây gió nước. Tại đây cũng có trăng mây gió nước, cũng có hoa vàng trúc tím, và nơi tôi đến cũng có các thứ nhiệm mầu, đẹp đẽ kia. Như vậy thì tôi đâu có đến, tôi đâu có đi. Nơi nào, lúc nào cũng có các thứ đó. Trong thi ca Đại Thừa có hai câu: Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân Trúc biếc hoa vàng đều là chân như, và trăng sáng, mây trắng đều là bản thể. Thành ra đi đâu anh cũng gặp các thứ đó, nên anh không tới cũng không đi! Tôi sẽ không ra đi, hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến, nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím. Trả lời người em mà trả lời như vậy thì còn đòi hỏi gì nữa? Là lá, là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi Nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi. Người em nhỏ luôn luôn sợ một mai anh mình sẽ chết, nên cứ nói rằng mai này khi anh chết rồi, em sẽ ở lại một mình, yếu đuối, chắc em sẽ không sống nổi! Người anh mới nói cho biết Là lá, là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ. Quí vị đã đọc truyện Tố thì biết. Người anh có mặt trong người em, không thể nào lấy người anh ra khỏi người em được, vậy mà người em cứ mãi sợ người anh sẽ ra đi! Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi. Hãy nhìn lên trời xanh thì biết trời xanh có ngay trong đôi mắt mình.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nơi khởi hành có trăng, mây, gió, nước, rất là đẹp, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím, hoa vàng trúc tím cũng đẹp như trăng mây gió nước. Tại đây cũng có trăng mây gió nước, cũng có hoa vàng trúc tím, và nơi tôi đến cũng có các thứ nhiệm mầu, đẹp đẽ kia. Như vậy thì tôi đâu có đến, tôi đâu có đi. Nơi nào, lúc nào cũng có các thứ đó. Trong thi ca Đại Thừa có hai câu: Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân Trúc biếc hoa vàng đều là chân như, và trăng sáng, mây trắng đều là bản thể. Thành ra đi đâu anh cũng gặp các thứ đó, nên anh không tới cũng không đi! Tôi sẽ không ra đi, hoặc sẽ ra đi nhưng không bao giờ tôi đến, nơi khởi hành có trăng mây gió nước, và nơi tôi đến đón chờ cũng sẽ có hoa vàng trúc tím. Trả lời người em mà trả lời như vậy thì còn đòi hỏi gì nữa? Là lá, là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi Nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi. Người em nhỏ luôn luôn sợ một mai anh mình sẽ chết, nên cứ nói rằng mai này khi anh chết rồi, em sẽ ở lại một mình, yếu đuối, chắc em sẽ không sống nổi! Người anh mới nói cho biết Là lá, là hoa, em đã có tôi từ vô thỉ. Quí vị đã đọc truyện Tố thì biết. Người anh có mặt trong người em, không thể nào lấy người anh ra khỏi người em được, vậy mà người em cứ mãi sợ người anh sẽ ra đi! Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi. Hãy nhìn lên trời xanh thì biết trời xanh có ngay trong đôi mắt mình.
Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi. Hãy nhìn lên trời xanh thì biết trời xanh có ngay trong đôi mắt mình. Nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi. Tôi đọc tiếp để quí vị nghe: Sáng nay sau giấc ngủ của trăng sao, vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê, Êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp. Khóc thì khóc, khóc thì cũng đẹp thôi, tại vì đứng về phương diện Bản môn thì nước mắt cũng như là sương rơi, không có gì có thể làm động được lòng tôi. Nước mắt sẽ biến hồn hoang-vu thành nơi vườn quê tươi sáng, Thanh lương thấm lòng trái đất, nâng niu lộc mướt chồi non, Ngày xưa những khi ngồi nhìn em khóc, tôi cũng đã ưng khóc để được dỗ dành, Tất cả những hình ảnh này đều thuộc về thế giới Tích môn. Ôi thiên nhiên Bà mẹ tóc xanh, xanh mướt đất trời, nụ cười đem về đầy bướm chim hoa lá Là lá, là hoa em đã có tôi từ vô thỉ Và trong nhận thức mong manh, em, tôi thực chưa bao giờ từng hiện hữu, tử sinh. Tôi thoát ra khỏi cái sanh và cái diệt, nhưng vì chỉ thấy tôi qua cái sanh và cái diệt nên em cảm thấy buồn khổ. Em có nhớ ngày đầu tiên khi Mẹ đưa tôi về, nhờ năm nhóm nhiệm mầu, em mới trông thấy bóng hình tôi hiển lộ? Tôi hiển lộ nhờ vào ngũ uẩn, và vì tưởng rằng tôi bắt đầu có mặt từ lúc đó, nên em nghĩ rằng tôi sẽ mất đi từ một giây phút nào trong tương lai. Ngày mai bóng hình mất đi Em hãy mỉm cười Và bình thản tìm tôi trở lại Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực Chưa bao giờ đi
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Và màu xanh trời cao trong mắt em sẽ còn mãi mãi. Hãy nhìn lên trời xanh thì biết trời xanh có ngay trong đôi mắt mình. Nhưng vì không thấy, thương tôi, em đã bao lần nhắc chuyện ra đi. Tôi đọc tiếp để quí vị nghe: Sáng nay sau giấc ngủ của trăng sao, vũ trụ làm rơi những giọt nước mắt trong như pha lê, Êm dịu sương khuya, hãy khóc cho hồn ngươi thêm đẹp. Khóc thì khóc, khóc thì cũng đẹp thôi, tại vì đứng về phương diện Bản môn thì nước mắt cũng như là sương rơi, không có gì có thể làm động được lòng tôi. Nước mắt sẽ biến hồn hoang-vu thành nơi vườn quê tươi sáng, Thanh lương thấm lòng trái đất, nâng niu lộc mướt chồi non, Ngày xưa những khi ngồi nhìn em khóc, tôi cũng đã ưng khóc để được dỗ dành, Tất cả những hình ảnh này đều thuộc về thế giới Tích môn. Ôi thiên nhiên Bà mẹ tóc xanh, xanh mướt đất trời, nụ cười đem về đầy bướm chim hoa lá Là lá, là hoa em đã có tôi từ vô thỉ Và trong nhận thức mong manh, em, tôi thực chưa bao giờ từng hiện hữu, tử sinh. Tôi thoát ra khỏi cái sanh và cái diệt, nhưng vì chỉ thấy tôi qua cái sanh và cái diệt nên em cảm thấy buồn khổ. Em có nhớ ngày đầu tiên khi Mẹ đưa tôi về, nhờ năm nhóm nhiệm mầu, em mới trông thấy bóng hình tôi hiển lộ? Tôi hiển lộ nhờ vào ngũ uẩn, và vì tưởng rằng tôi bắt đầu có mặt từ lúc đó, nên em nghĩ rằng tôi sẽ mất đi từ một giây phút nào trong tương lai. Ngày mai bóng hình mất đi Em hãy mỉm cười Và bình thản tìm tôi trở lại Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực Chưa bao giờ đi
Ngày mai bóng hình mất đi Em hãy mỉm cười Và bình thản tìm tôi trở lại Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực Chưa bao giờ đi Chưa bao giờ đến Qua thời gian, qua nhận thức, qua chủ khách tồn sinh. Đó là những lời chỉ dạy cho người em tiếp xúc với Bản môn. Tìm tôi và tiện dịp em tìm em Hai người là một, mình với Bụt là một. Khi tìm được Bụt, thì đồng thời mình cũng tìm ra được mình. Nét khám phá nguyên sơ Chỉ cho em thấy rằng em là bất diệt Em sẽ thấy Không có gì đi, mất Và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyễn tượng Chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh. Tìm tôi thì em tìm ra được em, và với một mũi tên ta bắn rơi một lần hai lá cờ ảo tượng. Lá cờ ảo tượng thứ nhất là tôi có sanh và tôi có chết, lá cờ ảo tượng thứ hai là em có sanh và em có chết. Hai lá cờ đã rơi thì chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh. Tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại Nụ cười nở mãi trong bài ca mùa Xuân bất tận là tại vì khi đó mình đã đặt hai chân lên bình diện của Bản môn rồi. Trong nụ cười kia em cũng sẽ thấy em còn mãi Bởi vì em quả thực chưa bao giờ hiện hữu trong ảo tưởng tồn sinh. Nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai Tận cuối đường ảo tượng Không có gì đã qua và đã mất Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là ba câu tôi đã trích khi giảng bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng, Không có gì đã qua và đã mất.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ngày mai bóng hình mất đi Em hãy mỉm cười Và bình thản tìm tôi trở lại Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực Chưa bao giờ đi Chưa bao giờ đến Qua thời gian, qua nhận thức, qua chủ khách tồn sinh. Đó là những lời chỉ dạy cho người em tiếp xúc với Bản môn. Tìm tôi và tiện dịp em tìm em Hai người là một, mình với Bụt là một. Khi tìm được Bụt, thì đồng thời mình cũng tìm ra được mình. Nét khám phá nguyên sơ Chỉ cho em thấy rằng em là bất diệt Em sẽ thấy Không có gì đi, mất Và với một mũi tên thôi, em bắn rơi một lần hai lá cờ huyễn tượng Chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh. Tìm tôi thì em tìm ra được em, và với một mũi tên ta bắn rơi một lần hai lá cờ ảo tượng. Lá cờ ảo tượng thứ nhất là tôi có sanh và tôi có chết, lá cờ ảo tượng thứ hai là em có sanh và em có chết. Hai lá cờ đã rơi thì chân như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh. Tôi đang mỉm cười an nhiên trong phút giây hiện tại Nụ cười nở mãi trong bài ca mùa Xuân bất tận là tại vì khi đó mình đã đặt hai chân lên bình diện của Bản môn rồi. Trong nụ cười kia em cũng sẽ thấy em còn mãi Bởi vì em quả thực chưa bao giờ hiện hữu trong ảo tưởng tồn sinh. Nụ cười hôm nay, ta sẽ nhìn thấy ngày mai Tận cuối đường ảo tượng Không có gì đã qua và đã mất Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là ba câu tôi đã trích khi giảng bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng, Không có gì đã qua và đã mất.
Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là ba câu tôi đã trích khi giảng bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng, Không có gì đã qua và đã mất. Đó là Bụt Thích Ca, ta phải thấy được điều đó, và mình đừng than thở rằng Bụt đã qua đời rồi, bây giờ không có ai thọ ký cho mình! Chồi lá non xanh sáng hôm nay, tiếng chim sáng hôm nay đang thọ ký cho mình, và mình có thể tiếp xúc được với Bụt Thích Ca, Bụt Đa Bảo ngay trong giờ phút hiện tại. Nụ hoa nào, ngọn lá nào, hạt sỏi nào cũng thuyết Pháp Hoa Kinh. Thuyết Pháp Hoa Kinh tức là thọ ký. Thành ra sự thực tập của mình là gì? Be a singing flower, hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca. Đó là câu chót của bài thơ. Hương vị này bắt nguồn từ những tư tưởng mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa. Bài thơ nói rằng: Tất cả những gì cần làm là mỉm cười, như một bông hoa, và sống cho thật sâu sắc trong giờ phút hiện tại, để tiếp xúc cho được với cái thực tại của chân như, của Bản môn. Thông điệp thứ nhất của Pháp Hoa: Chỉ có một Pháp gọi là Phật Thừa Trang 76, đoạn 25: Trong cõi Phật mười phương, chỉ có một thừa Pháp, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói. Nguyên bản bằng chữ Hán: Thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa Pháp, vô nhị diệt vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết. Trong tất cả cõi Bụt ở mười phương, chỉ có một cái Pháp Nhất Thừa mà thôi. Câu này nếu dịch theo văn pháp Việt thì mình phải dịch là chỉ có Pháp Một Thừa. “Một Thừa Pháp” thì làm sao ta hiểu được?
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Không có gì sẽ qua và sẽ mất Và suối chim khuyên em hôm nay “Hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca.” Đó là ba câu tôi đã trích khi giảng bài Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng, Không có gì đã qua và đã mất. Đó là Bụt Thích Ca, ta phải thấy được điều đó, và mình đừng than thở rằng Bụt đã qua đời rồi, bây giờ không có ai thọ ký cho mình! Chồi lá non xanh sáng hôm nay, tiếng chim sáng hôm nay đang thọ ký cho mình, và mình có thể tiếp xúc được với Bụt Thích Ca, Bụt Đa Bảo ngay trong giờ phút hiện tại. Nụ hoa nào, ngọn lá nào, hạt sỏi nào cũng thuyết Pháp Hoa Kinh. Thuyết Pháp Hoa Kinh tức là thọ ký. Thành ra sự thực tập của mình là gì? Be a singing flower, hãy vẫn cứ là bông hoa hát ca. Đó là câu chót của bài thơ. Hương vị này bắt nguồn từ những tư tưởng mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa. Bài thơ nói rằng: Tất cả những gì cần làm là mỉm cười, như một bông hoa, và sống cho thật sâu sắc trong giờ phút hiện tại, để tiếp xúc cho được với cái thực tại của chân như, của Bản môn. Thông điệp thứ nhất của Pháp Hoa: Chỉ có một Pháp gọi là Phật Thừa Trang 76, đoạn 25: Trong cõi Phật mười phương, chỉ có một thừa Pháp, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói. Nguyên bản bằng chữ Hán: Thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa Pháp, vô nhị diệt vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết. Trong tất cả cõi Bụt ở mười phương, chỉ có một cái Pháp Nhất Thừa mà thôi. Câu này nếu dịch theo văn pháp Việt thì mình phải dịch là chỉ có Pháp Một Thừa. “Một Thừa Pháp” thì làm sao ta hiểu được?
Trong tất cả cõi Bụt ở mười phương, chỉ có một cái Pháp Nhất Thừa mà thôi. Câu này nếu dịch theo văn pháp Việt thì mình phải dịch là chỉ có Pháp Một Thừa. “Một Thừa Pháp” thì làm sao ta hiểu được? Bản dịch của Thầy Trí Tịnh tuy khá chính xác nhưng vẫn có chỗ chưa thoát khỏi văn pháp chữ Hán, vì vậy có khi đọc khó hiểu. Chỉ có cái Pháp gọi là Nhất Thừa mà thôi, không có Pháp Nhị Thừa, cũng không có Pháp Tam Thừa, chỉ trừ khi Bụt dùng phương tiện mà đặt bày ra như vậy. Nghĩa là trên phương diện sự thật, thì chỉ có một con đường duy nhất, không có con đường thứ hai, cũng không có con đường thứ ba. Vì vậy cho nên khi nói có một đường, hai đường và ba đường thì đó là bày đặt ra để mà nói, tức là dùng phương tiện, còn sự thật tuyệt đối thì chỉ có một con đường mà thôi. Chúng ta cũng còn bị kẹt vào cách dịch này, Nhất Thừa mà dịch là Một Thừa thì không hay lắm. Thừa tức là con đường, là cỗ xe, tiếng Phạn là Yāna. Nhất Thừa là Ekayāna, Eka có nghĩa là một. Chúng ta biết Kinh Niệm Xứ có khi được Bụt gọi là Kinh Nhất Thừa, tại vì trong bản tiếng Phạn cũng nói rằng có một con đường duy nhất để thành tựu đạo nghiệp, đưa tới giải thoát, đó là con đường Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Chữ Ekayāna,cũng được dùng trong trường hợp ấy. Có nhiều khi trong kinh chép Ekayānā,nghĩa hơi khác.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong tất cả cõi Bụt ở mười phương, chỉ có một cái Pháp Nhất Thừa mà thôi. Câu này nếu dịch theo văn pháp Việt thì mình phải dịch là chỉ có Pháp Một Thừa. “Một Thừa Pháp” thì làm sao ta hiểu được? Bản dịch của Thầy Trí Tịnh tuy khá chính xác nhưng vẫn có chỗ chưa thoát khỏi văn pháp chữ Hán, vì vậy có khi đọc khó hiểu. Chỉ có cái Pháp gọi là Nhất Thừa mà thôi, không có Pháp Nhị Thừa, cũng không có Pháp Tam Thừa, chỉ trừ khi Bụt dùng phương tiện mà đặt bày ra như vậy. Nghĩa là trên phương diện sự thật, thì chỉ có một con đường duy nhất, không có con đường thứ hai, cũng không có con đường thứ ba. Vì vậy cho nên khi nói có một đường, hai đường và ba đường thì đó là bày đặt ra để mà nói, tức là dùng phương tiện, còn sự thật tuyệt đối thì chỉ có một con đường mà thôi. Chúng ta cũng còn bị kẹt vào cách dịch này, Nhất Thừa mà dịch là Một Thừa thì không hay lắm. Thừa tức là con đường, là cỗ xe, tiếng Phạn là Yāna. Nhất Thừa là Ekayāna, Eka có nghĩa là một. Chúng ta biết Kinh Niệm Xứ có khi được Bụt gọi là Kinh Nhất Thừa, tại vì trong bản tiếng Phạn cũng nói rằng có một con đường duy nhất để thành tựu đạo nghiệp, đưa tới giải thoát, đó là con đường Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Chữ Ekayāna,cũng được dùng trong trường hợp ấy. Có nhiều khi trong kinh chép Ekayānā,nghĩa hơi khác.
Chữ Ekayāna,cũng được dùng trong trường hợp ấy. Có nhiều khi trong kinh chép Ekayānā,nghĩa hơi khác. Nhưng trong tụng bản của Đại Chúng Bộ thì kinh Niệm Xứ được gọi là kinh Nhất Nhập Đạo, tức là kinh nói về một con đường duy nhất để đi vào đạo, và như vậy thì ý niệm Nhất Thừa đã có ngay trong đạo Bụt Nguyên Thủy, vì vậy mà danh từ Nhất Thừa dùng trong Đại Thừa cũng không phải là hoàn toàn mới. Từ lâu người ta đã quan niệm có ba con đường, con đường của Thanh văn, là yāna thứ nhất, con đường của Duyên giác, là yāna thứ hai, và con đường của Bồ Tát, là yānathứ ba, đó là Tam Thừa. Khi kinh Pháp Hoa ra đời, nói rằng ý niệm Tam Thừa là một ý niệm tạm, kỳ thực chỉ có một con đường chung cho mọi người thôi, đó gọi là Nhất Thừa, và con đường đó mới thật là con đường, còn ba đường kia chẳng qua chỉ là phương tiện bày ra để dễ hướng dẫn, để tạm dùng như vậy, tạm nói như vậy thôi. Như vậy danh từ Nhất Thừa, có khi được gọi là Phật Thừa có nghĩa không phải là Thanh văn Thừa, Duyên giác Thừa, hay Bồ Tát Thừa, mà là Phật Thừa, Buddha-yāna. Danh từ Bồ Tát Thừa là để phân biệt với Thanh văn Thừa và Duyên giác Thừa, nhưng danh từ Phật Thừa bao gồm cả ba thừa kể trên. Vì vậy chúng ta đừng nên đồng nhất Bồ Tát Thừa với Phật Thừa. Khi đã đưa ra Nhất Thừa hay là Phật Thừa làm con đường duy nhất rồi, Bụt nói rằng tôi cũng có nói đến con đường thứ nhất tức là Thanh văn Thừa, con đường thứ hai là Duyên giác Thừa, và con đường thứ ba là Bồ Tát Thừa, nhưng đó là vì tôi tạm sử dụng phương tiện.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chữ Ekayāna,cũng được dùng trong trường hợp ấy. Có nhiều khi trong kinh chép Ekayānā,nghĩa hơi khác. Nhưng trong tụng bản của Đại Chúng Bộ thì kinh Niệm Xứ được gọi là kinh Nhất Nhập Đạo, tức là kinh nói về một con đường duy nhất để đi vào đạo, và như vậy thì ý niệm Nhất Thừa đã có ngay trong đạo Bụt Nguyên Thủy, vì vậy mà danh từ Nhất Thừa dùng trong Đại Thừa cũng không phải là hoàn toàn mới. Từ lâu người ta đã quan niệm có ba con đường, con đường của Thanh văn, là yāna thứ nhất, con đường của Duyên giác, là yāna thứ hai, và con đường của Bồ Tát, là yānathứ ba, đó là Tam Thừa. Khi kinh Pháp Hoa ra đời, nói rằng ý niệm Tam Thừa là một ý niệm tạm, kỳ thực chỉ có một con đường chung cho mọi người thôi, đó gọi là Nhất Thừa, và con đường đó mới thật là con đường, còn ba đường kia chẳng qua chỉ là phương tiện bày ra để dễ hướng dẫn, để tạm dùng như vậy, tạm nói như vậy thôi. Như vậy danh từ Nhất Thừa, có khi được gọi là Phật Thừa có nghĩa không phải là Thanh văn Thừa, Duyên giác Thừa, hay Bồ Tát Thừa, mà là Phật Thừa, Buddha-yāna. Danh từ Bồ Tát Thừa là để phân biệt với Thanh văn Thừa và Duyên giác Thừa, nhưng danh từ Phật Thừa bao gồm cả ba thừa kể trên. Vì vậy chúng ta đừng nên đồng nhất Bồ Tát Thừa với Phật Thừa. Khi đã đưa ra Nhất Thừa hay là Phật Thừa làm con đường duy nhất rồi, Bụt nói rằng tôi cũng có nói đến con đường thứ nhất tức là Thanh văn Thừa, con đường thứ hai là Duyên giác Thừa, và con đường thứ ba là Bồ Tát Thừa, nhưng đó là vì tôi tạm sử dụng phương tiện.
Thật ra chỉ có một thừa mà thôi, gọi là đạo lý Nhất Thừa. Ta dịch là Pháp Nhất Thừa. Bài kệ bốn câu này có nhiều người thuộc vì nó là tinh yếu của Phẩm thứ hai và cũng là tinh yếu của kinh Pháp Hoa: Thập phương Phật độ trung, Duy hữu Nhất Thừa Pháp, Vô nhị diệt vô tam, Trừ Phật phương tiện thuyết. Dịch ra cho rõ là: Trong các cõi Bụt ở mười phương, chỉ có Pháp Nhất Thừa thôi, không có thừa thứ hai, cũng không có thừa thứ ba, chỉ trừ khi Bụt dùng phương tiện để tuyên thuyết. Đến đây chúng ta thấy ngôn từ của kinh điển Đại Thừa đã ngọt ngào, đã bao dung, và không có ý định muốn đẩy Nhị Thừa ra khỏi vòng tay ấm áp của đạo Bụt nữa. Trước kinh Pháp Hoa, chúng ta nghe những ngôn ngữ rất nặng, ví dụ nói rằng những người Thanh văn và Duyên giác không phải là con đích tử của Bụt, mà là những người có thể làm hư thối hạt giống của Phật Pháp. Nhưng từ khi kinh Pháp Hoa xuất hiện thì chúng ta lại nghe nói rằng Thanh văn và Duyên giác cũng đều là con Bụt, chính Bụt đã dạy như vậy, chính Bụt đã dùng phương tiện để mà hướng dẫn như vậy. Do đó mà Phẩm này được gọi là Phẩm Phương tiện. Phương tiện là những cách thức mình sử dụng để đạt được mục đích của mình. Kinh Pháp Hoa nói rằng Nhị Thừa là do Bụt phương tiện dạy ra. Ngày xưa, khi mới xuất hiện, Đại Thừa đã từng nói rằng các vị trong Thanh văn Thừa đã làm cho hạt giống Phật pháp hư thối, nhưng bây giờ thì không nói vậy nữa, mà nói rằng hạt giống đó còn tốt, không sao đâu, miễn là quý vị biết sử dụng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thật ra chỉ có một thừa mà thôi, gọi là đạo lý Nhất Thừa. Ta dịch là Pháp Nhất Thừa. Bài kệ bốn câu này có nhiều người thuộc vì nó là tinh yếu của Phẩm thứ hai và cũng là tinh yếu của kinh Pháp Hoa: Thập phương Phật độ trung, Duy hữu Nhất Thừa Pháp, Vô nhị diệt vô tam, Trừ Phật phương tiện thuyết. Dịch ra cho rõ là: Trong các cõi Bụt ở mười phương, chỉ có Pháp Nhất Thừa thôi, không có thừa thứ hai, cũng không có thừa thứ ba, chỉ trừ khi Bụt dùng phương tiện để tuyên thuyết. Đến đây chúng ta thấy ngôn từ của kinh điển Đại Thừa đã ngọt ngào, đã bao dung, và không có ý định muốn đẩy Nhị Thừa ra khỏi vòng tay ấm áp của đạo Bụt nữa. Trước kinh Pháp Hoa, chúng ta nghe những ngôn ngữ rất nặng, ví dụ nói rằng những người Thanh văn và Duyên giác không phải là con đích tử của Bụt, mà là những người có thể làm hư thối hạt giống của Phật Pháp. Nhưng từ khi kinh Pháp Hoa xuất hiện thì chúng ta lại nghe nói rằng Thanh văn và Duyên giác cũng đều là con Bụt, chính Bụt đã dạy như vậy, chính Bụt đã dùng phương tiện để mà hướng dẫn như vậy. Do đó mà Phẩm này được gọi là Phẩm Phương tiện. Phương tiện là những cách thức mình sử dụng để đạt được mục đích của mình. Kinh Pháp Hoa nói rằng Nhị Thừa là do Bụt phương tiện dạy ra. Ngày xưa, khi mới xuất hiện, Đại Thừa đã từng nói rằng các vị trong Thanh văn Thừa đã làm cho hạt giống Phật pháp hư thối, nhưng bây giờ thì không nói vậy nữa, mà nói rằng hạt giống đó còn tốt, không sao đâu, miễn là quý vị biết sử dụng.
Tiêu nha bại chủng là hư thối hạt giống. Nha tức là cái mầm, còn chủng là hạt giống. Làm cho tiêu trừ cái mầm, và làm cho thất bại cái hạt giống, đó gọi là tiêu nha bại chủng. Hạt lúa khi mình ngâm vào nước sẽ mọc ra mầm gọi là mạch nha, còn nguyên hạt thì gọi là chủng. Những kinh Đại Thừa xuất hiện đầu tiên mô tả những người Tiểu Thừa làm cho mầm thối và hạt giống hư. Bây giờ thì kinh Pháp Hoa không nói vậy nữa, mà nói rằng các vị trong Thanh văn Thừa cũng là anh em của tôi, quí vị chỉ cần thay đổi cái nhận thức một chút là quí vị sẽ trở thành Bồ Tát, bởi vì trong bản chất, quí vị đều là Bồ Tát cả. Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết ra chân lý ấy, nói rằng tất cả mọi người đều là Bồ Tát, và có dẫn chứng đàng hoàng. Sang trang 77, hai câu chót của đoạn 25: Đấng Vô Thượng chúng trọng, vì nói thực tướng ấn. “Đấng Vô Thượng chúng trọng” nghe khó hiểu quá! Đọc bản chữ Nho, ta hiểu dễ dàng hơn: Vô lượng chúng sở tôn, vị thuyết thật tướng ấn. Vô lượng chúng sở tôn tức là người được vô lượng vô biên chúng sanh tôn trọng, đấng được vô lượng vô biên chúng sanh tôn trọng, dịch cho dễ hiểu là Đấng chúng sanh tôn trọng. Vì nói thực tướng ấn, thực tướng ấn là một danh từ mới. Ấn (Mudrā) là một khuôn dấu, khuôn dấu này chứng tỏ pháp này đích thực là Phật Pháp, không phải là tà thuyết. Trong đạo Bụt truyền thống, chúng ta có quan niệm Tam Pháp Ấn, tức là ba khuôn dấu chứng thực được tính cách chánh tông của đạo Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Tiêu nha bại chủng là hư thối hạt giống. Nha tức là cái mầm, còn chủng là hạt giống. Làm cho tiêu trừ cái mầm, và làm cho thất bại cái hạt giống, đó gọi là tiêu nha bại chủng. Hạt lúa khi mình ngâm vào nước sẽ mọc ra mầm gọi là mạch nha, còn nguyên hạt thì gọi là chủng. Những kinh Đại Thừa xuất hiện đầu tiên mô tả những người Tiểu Thừa làm cho mầm thối và hạt giống hư. Bây giờ thì kinh Pháp Hoa không nói vậy nữa, mà nói rằng các vị trong Thanh văn Thừa cũng là anh em của tôi, quí vị chỉ cần thay đổi cái nhận thức một chút là quí vị sẽ trở thành Bồ Tát, bởi vì trong bản chất, quí vị đều là Bồ Tát cả. Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết ra chân lý ấy, nói rằng tất cả mọi người đều là Bồ Tát, và có dẫn chứng đàng hoàng. Sang trang 77, hai câu chót của đoạn 25: Đấng Vô Thượng chúng trọng, vì nói thực tướng ấn. “Đấng Vô Thượng chúng trọng” nghe khó hiểu quá! Đọc bản chữ Nho, ta hiểu dễ dàng hơn: Vô lượng chúng sở tôn, vị thuyết thật tướng ấn. Vô lượng chúng sở tôn tức là người được vô lượng vô biên chúng sanh tôn trọng, đấng được vô lượng vô biên chúng sanh tôn trọng, dịch cho dễ hiểu là Đấng chúng sanh tôn trọng. Vì nói thực tướng ấn, thực tướng ấn là một danh từ mới. Ấn (Mudrā) là một khuôn dấu, khuôn dấu này chứng tỏ pháp này đích thực là Phật Pháp, không phải là tà thuyết. Trong đạo Bụt truyền thống, chúng ta có quan niệm Tam Pháp Ấn, tức là ba khuôn dấu chứng thực được tính cách chánh tông của đạo Bụt.
Trong đạo Bụt truyền thống, chúng ta có quan niệm Tam Pháp Ấn, tức là ba khuôn dấu chứng thực được tính cách chánh tông của đạo Bụt. Tam Pháp Ấn là chư pháp vô thường (hay chư hạnh vô thường); chư pháp vô ngã; và Niết Bàn tịch tĩnh. Đứng về phương diện Đại Thừa thì không cần đến ba ấn mà chỉ cần một thôi, gọi là Nhất Thật Tướng Ấn, tức là nhất ấn thay vì tam ấn. Từ sự quán chiếu về tự tánh vô thường và vô ngã của sự vật, mà người quán chiếu tìm tới cái tính chất bất sanh bất diệt của vạn pháp. Khi đi vào tới cái tính cách bất sanh bất diệt của vạn pháp rồi thì những danh từ vô thường, vô ngã không còn đủ để diễn tả cái chân tướng của sự vật nữa, tại vì sự vật không sanh, không diệt, không vô thường, cũng không không vô thường, không vô ngã cũng không không vô ngã. Tất cả những ý niệm và những ngôn từ thường dùng để diễn tả đều không còn công hiệu. Cái đó có thể gọi là không, có thể gọi là thật tướng. Trong truyền thống, ta gọi là Ba Pháp Ấn. Ở đây ta gọi là Một Pháp Ấn, tức là Nhất Thật Tướng Ấn. Thật tướng tức là khuôn mặt đích thật của thực tại. Thông điệp thứ hai của Pháp Hoa: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh Sang trang 79, đoạn 27: Cho nên Xá Lợi Phất, ta vì bày phương tiện, nói các đạo dứt khổ, chỉ cho đó Niết Bàn, ta dầu nói Niết Bàn, cũng chẳng phải thật diệt, các pháp từ bản lai, tướng thường tự vắng lặng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong đạo Bụt truyền thống, chúng ta có quan niệm Tam Pháp Ấn, tức là ba khuôn dấu chứng thực được tính cách chánh tông của đạo Bụt. Tam Pháp Ấn là chư pháp vô thường (hay chư hạnh vô thường); chư pháp vô ngã; và Niết Bàn tịch tĩnh. Đứng về phương diện Đại Thừa thì không cần đến ba ấn mà chỉ cần một thôi, gọi là Nhất Thật Tướng Ấn, tức là nhất ấn thay vì tam ấn. Từ sự quán chiếu về tự tánh vô thường và vô ngã của sự vật, mà người quán chiếu tìm tới cái tính chất bất sanh bất diệt của vạn pháp. Khi đi vào tới cái tính cách bất sanh bất diệt của vạn pháp rồi thì những danh từ vô thường, vô ngã không còn đủ để diễn tả cái chân tướng của sự vật nữa, tại vì sự vật không sanh, không diệt, không vô thường, cũng không không vô thường, không vô ngã cũng không không vô ngã. Tất cả những ý niệm và những ngôn từ thường dùng để diễn tả đều không còn công hiệu. Cái đó có thể gọi là không, có thể gọi là thật tướng. Trong truyền thống, ta gọi là Ba Pháp Ấn. Ở đây ta gọi là Một Pháp Ấn, tức là Nhất Thật Tướng Ấn. Thật tướng tức là khuôn mặt đích thật của thực tại. Thông điệp thứ hai của Pháp Hoa: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh Sang trang 79, đoạn 27: Cho nên Xá Lợi Phất, ta vì bày phương tiện, nói các đạo dứt khổ, chỉ cho đó Niết Bàn, ta dầu nói Niết Bàn, cũng chẳng phải thật diệt, các pháp từ bản lai, tướng thường tự vắng lặng.
Bản chữ Hán là: Thị cố Xá Lợi Phất, ngã vị thiết phương tiện, thiết chư tận khổ đạo, thị chi dĩ Niết Bàn, ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng. Có nghĩa là: Này thầy Xá Lợi Phất, tôi đã vì chúng sanh thiết lập ra những phương tiện và nói ra những con đường dẫn tới sự diệt khổ, do đó mà tôi đã có nói tới Niết Bàn. Tôi có chỉ bày cho chúng sanh hình ảnh của Niết Bàn. Niết Bàn trong ngữ nguyên của nó có nghĩa là vắng lặng, tịch diệt, tắt ngấm. Ví dụ như cây đèn cầy bị mình thổi tắt. Nirvana có nghĩa là sự tắt ngấm đó. Tắt ngấm ở đây là tắt ngấm sự khổ đau, tắt ngấm vô minh. Nhưng Ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, tôi dầu có nói đến Niết Bàn, nói đến sự vắng lặng tịch diệt, nhưng kỳ thực đó không phải là sự tịch diệt thật sự, tức là không phải cái Không tiêu cực. Trong bản chữ Hán chúng ta thấy Ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, tuy rằng tôi có nói tới Niết Bàn thật đó, nhưng trong đó chưa có sự tịch diệt chân thật. Tại vì: Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Tất cả mọi sự, mọi vật từ xưa cho đến nay, (tùng bản lai tức là từ gốc ngọn cho đến giờ), cái tự tánh, cái bản chất của chúng đã là Niết Bàn rồi. Tất cả các pháp đều tự an trú sẵn trong tính chất Niết Bàn của chúng rồi, thành ra ta không thể đi tìm Niết Bàn ở ngoài các pháp. Hai câu này nổi tiếng lắm. Hồi còn trẻ tôi rất thích hai câu này, Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Bản chữ Hán là: Thị cố Xá Lợi Phất, ngã vị thiết phương tiện, thiết chư tận khổ đạo, thị chi dĩ Niết Bàn, ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng. Có nghĩa là: Này thầy Xá Lợi Phất, tôi đã vì chúng sanh thiết lập ra những phương tiện và nói ra những con đường dẫn tới sự diệt khổ, do đó mà tôi đã có nói tới Niết Bàn. Tôi có chỉ bày cho chúng sanh hình ảnh của Niết Bàn. Niết Bàn trong ngữ nguyên của nó có nghĩa là vắng lặng, tịch diệt, tắt ngấm. Ví dụ như cây đèn cầy bị mình thổi tắt. Nirvana có nghĩa là sự tắt ngấm đó. Tắt ngấm ở đây là tắt ngấm sự khổ đau, tắt ngấm vô minh. Nhưng Ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, tôi dầu có nói đến Niết Bàn, nói đến sự vắng lặng tịch diệt, nhưng kỳ thực đó không phải là sự tịch diệt thật sự, tức là không phải cái Không tiêu cực. Trong bản chữ Hán chúng ta thấy Ngã tuy thuyết Niết Bàn, thị diệt phi chân diệt, tuy rằng tôi có nói tới Niết Bàn thật đó, nhưng trong đó chưa có sự tịch diệt chân thật. Tại vì: Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Tất cả mọi sự, mọi vật từ xưa cho đến nay, (tùng bản lai tức là từ gốc ngọn cho đến giờ), cái tự tánh, cái bản chất của chúng đã là Niết Bàn rồi. Tất cả các pháp đều tự an trú sẵn trong tính chất Niết Bàn của chúng rồi, thành ra ta không thể đi tìm Niết Bàn ở ngoài các pháp. Hai câu này nổi tiếng lắm. Hồi còn trẻ tôi rất thích hai câu này, Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng.
Hai câu này nổi tiếng lắm. Hồi còn trẻ tôi rất thích hai câu này, Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Depuis le non-commencement, toute chose est déjà nirvanisée. Như vậy thì không phải là nhờ sự tu học của mình mà mình mới có Niết Bàn, các pháp đã nằm sẵn trong tự tánh Niết Bàn của chúng rồi. Quí vị cũng đang ở trong Niết Bàn, không cần chạy đi đâu để tìm Niết Bàn nữa. Cây thông, cây tùng, cây trúc, cây mai đều ở trong Niết Bàn cả, thường tự tịch diệt tướng là như vậy. Có một vị Tổ sư khi đọc hai câu này xong Ngài thích quá bèn thêm vào hai câu nữa: Xuân đáo bách hoa khai, hoàng oanh đề liễu thượng, tức là mỗi khi Xuân đến thì một trăm thứ hoa nở ra, và con chim hoàng oanh ca hát trên cành liễu. Vì vậy mà ta có một bài thơ hay: Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng, Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề Liễu thượng. Hồi hai mươi mấy tuổi, tôi dịch bài này sang tiếng Việt: Các pháp từ xưa nay, Bản tánh thường vắng lặng, Xuân đến trăm hoa mừng, Oanh vàng ca liễu thắm. Đoạn 29 trang 80, và trong các đoạn kế tiếp, những bài kệ chứng minh cho chúng ta thấy rằng tất cả chúng sanh, dầu là bê bối cách mấy trên phương diện hình thức, cũng đã gieo trồng những hạt giống của giác ngộ, của giải thoát trong quá khứ, và một ngày nào đó, sẽ thành Bụt.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Hai câu này nổi tiếng lắm. Hồi còn trẻ tôi rất thích hai câu này, Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Depuis le non-commencement, toute chose est déjà nirvanisée. Như vậy thì không phải là nhờ sự tu học của mình mà mình mới có Niết Bàn, các pháp đã nằm sẵn trong tự tánh Niết Bàn của chúng rồi. Quí vị cũng đang ở trong Niết Bàn, không cần chạy đi đâu để tìm Niết Bàn nữa. Cây thông, cây tùng, cây trúc, cây mai đều ở trong Niết Bàn cả, thường tự tịch diệt tướng là như vậy. Có một vị Tổ sư khi đọc hai câu này xong Ngài thích quá bèn thêm vào hai câu nữa: Xuân đáo bách hoa khai, hoàng oanh đề liễu thượng, tức là mỗi khi Xuân đến thì một trăm thứ hoa nở ra, và con chim hoàng oanh ca hát trên cành liễu. Vì vậy mà ta có một bài thơ hay: Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng, Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề Liễu thượng. Hồi hai mươi mấy tuổi, tôi dịch bài này sang tiếng Việt: Các pháp từ xưa nay, Bản tánh thường vắng lặng, Xuân đến trăm hoa mừng, Oanh vàng ca liễu thắm. Đoạn 29 trang 80, và trong các đoạn kế tiếp, những bài kệ chứng minh cho chúng ta thấy rằng tất cả chúng sanh, dầu là bê bối cách mấy trên phương diện hình thức, cũng đã gieo trồng những hạt giống của giác ngộ, của giải thoát trong quá khứ, và một ngày nào đó, sẽ thành Bụt.
Nếu có những loài chúng sanh trong quá khứ đã thường gặp các vị Bụt, hoặc thường nghe nói về pháp bố thí, hoặc trì giới, hoặc nhẫn nhục, hoặc tinh tấn, thiền định, hay trí tuệ, trong số những người như vậy đã có người thành Bụt rồi. Vì vậy cho nên vô tình mà nghe được một bài kệ, hay một chút Phật Pháp, là đã có gieo trồng trong tâm thức những hạt giống để sau này có thể thành Bụt. Người nào cũng vậy, tại vì trong chúng ta ai cũng đã trải qua vô lượng vô biên kiếp, thì không thể nào đã không nghe một câu nói về chân lý của một đức Bụt, một vị Bồ Tát, hay một đức Bụt tương lai. Mà Bụt tương lai thì lúc nào và ở đâu cũng có. Trong một trăm câu nói, thế nào cũng có được một câu, hay nửa câu phù hợp với chánh pháp. Nghe được câu đó tức là ươm vào một hạt giống bồ đề, và vì vậy mà không có chúng sanh nào lại không có hạt giống bồ đề ở trong tâm, để sau này có thể thành Bụt. Đoạn 30, chúng ta đọc bốn câu cuối: Nhẫn đến đồng tử giỡn, Nhóm cát thành tháp Phật, Những hạng người như thế, Đều đã thành Phật đạo. Có thể có những chú bé con trong khi chơi giỡn, lấy cát xây thành một tháp Bụt, rồi hai tay chắp lại cúi đầu, thì hành động đó cũng là gieo một hạt giống bồ đề, và những chú bé đó đã có thể thành Bụt, hoặc nếu chưa thành thì sau này thế nào cũng sẽ thành Bụt. Vì vậy mà ta không cần lo lắng gì hết, tất cả chúng ta đều sẽ là Bụt. Trong suốt nhiều trang kinh, Bụt tiếp tục dùng những ví dụ tương tự để chứng tỏ rằng người nào cũng có những hạt giống tốt, cũng có thiện căn.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nếu có những loài chúng sanh trong quá khứ đã thường gặp các vị Bụt, hoặc thường nghe nói về pháp bố thí, hoặc trì giới, hoặc nhẫn nhục, hoặc tinh tấn, thiền định, hay trí tuệ, trong số những người như vậy đã có người thành Bụt rồi. Vì vậy cho nên vô tình mà nghe được một bài kệ, hay một chút Phật Pháp, là đã có gieo trồng trong tâm thức những hạt giống để sau này có thể thành Bụt. Người nào cũng vậy, tại vì trong chúng ta ai cũng đã trải qua vô lượng vô biên kiếp, thì không thể nào đã không nghe một câu nói về chân lý của một đức Bụt, một vị Bồ Tát, hay một đức Bụt tương lai. Mà Bụt tương lai thì lúc nào và ở đâu cũng có. Trong một trăm câu nói, thế nào cũng có được một câu, hay nửa câu phù hợp với chánh pháp. Nghe được câu đó tức là ươm vào một hạt giống bồ đề, và vì vậy mà không có chúng sanh nào lại không có hạt giống bồ đề ở trong tâm, để sau này có thể thành Bụt. Đoạn 30, chúng ta đọc bốn câu cuối: Nhẫn đến đồng tử giỡn, Nhóm cát thành tháp Phật, Những hạng người như thế, Đều đã thành Phật đạo. Có thể có những chú bé con trong khi chơi giỡn, lấy cát xây thành một tháp Bụt, rồi hai tay chắp lại cúi đầu, thì hành động đó cũng là gieo một hạt giống bồ đề, và những chú bé đó đã có thể thành Bụt, hoặc nếu chưa thành thì sau này thế nào cũng sẽ thành Bụt. Vì vậy mà ta không cần lo lắng gì hết, tất cả chúng ta đều sẽ là Bụt. Trong suốt nhiều trang kinh, Bụt tiếp tục dùng những ví dụ tương tự để chứng tỏ rằng người nào cũng có những hạt giống tốt, cũng có thiện căn.
Trong suốt nhiều trang kinh, Bụt tiếp tục dùng những ví dụ tương tự để chứng tỏ rằng người nào cũng có những hạt giống tốt, cũng có thiện căn. Thiện căn tiếng Phạn là Kuśala-mūla. Trang 82 đoạn 31: Nhẫn đến đồng tử giỡn, Hoặc cỏ cây và bút, Hoặc lấy móng tay mình, Mà vẽ làm tượng Phật, Những hạng người như thế, Lần lần chứa công đức, Đầy đủ tâm đại bi, Đều đã thành Phật đạo. Có những đứa trẻ con khi đùa giỡn, dùng một cành củi khô, một cọng cỏ hay một cây bút, hoặc lấy chính móng tay của mình mà vẽ ra một hình tượng Bụt, thì trong tâm của em bé đó đã có gieo giống Phật pháp, và chính nhờ những hạt giống ấy mà những người kia đã có thể thành Bụt, hoặc sẽ thành Bụt trong tương lai. Thành ra chúng ta không nên có mặc cảm. Ý niệm Nhất xiễn đề tức là ý niệm có những kẻ không thể nào thành Bụt được, là sai lầm, không ai mà không sẽ thành Bụt. Vì vậy ở Phẩm Phương tiện này, ngoài cái ý niệm chỉ có một thừa là Phật Thừa, còn có ý niệm tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là không ai trong chúng ta mà sẽ không thành Bụt. Sang đoạn 33: Hoặc có người lễ lạy, Hoặc lại chỉ chấp tay, Nhẫn đến giơ một tay, Hoặc lại hơi cúi đầu, Dùng đây cúng dường tượng, Lần thấy vô lượng Phật, Tự thành đạo vô thượng. Nghĩa là nếu dùng những phương cách như vậy (dùng đây) để cúng dường Bụt thì cũng sẽ đạt được đạo vô thượng, sẽ được thành Bụt. Bốn câu gần cuối: Nếu người lòng tán loạn, Vào nơi trong tháp miếu, Một xưng Nam Mô Phật, Đều đã thành Phật đạo.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong suốt nhiều trang kinh, Bụt tiếp tục dùng những ví dụ tương tự để chứng tỏ rằng người nào cũng có những hạt giống tốt, cũng có thiện căn. Thiện căn tiếng Phạn là Kuśala-mūla. Trang 82 đoạn 31: Nhẫn đến đồng tử giỡn, Hoặc cỏ cây và bút, Hoặc lấy móng tay mình, Mà vẽ làm tượng Phật, Những hạng người như thế, Lần lần chứa công đức, Đầy đủ tâm đại bi, Đều đã thành Phật đạo. Có những đứa trẻ con khi đùa giỡn, dùng một cành củi khô, một cọng cỏ hay một cây bút, hoặc lấy chính móng tay của mình mà vẽ ra một hình tượng Bụt, thì trong tâm của em bé đó đã có gieo giống Phật pháp, và chính nhờ những hạt giống ấy mà những người kia đã có thể thành Bụt, hoặc sẽ thành Bụt trong tương lai. Thành ra chúng ta không nên có mặc cảm. Ý niệm Nhất xiễn đề tức là ý niệm có những kẻ không thể nào thành Bụt được, là sai lầm, không ai mà không sẽ thành Bụt. Vì vậy ở Phẩm Phương tiện này, ngoài cái ý niệm chỉ có một thừa là Phật Thừa, còn có ý niệm tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là không ai trong chúng ta mà sẽ không thành Bụt. Sang đoạn 33: Hoặc có người lễ lạy, Hoặc lại chỉ chấp tay, Nhẫn đến giơ một tay, Hoặc lại hơi cúi đầu, Dùng đây cúng dường tượng, Lần thấy vô lượng Phật, Tự thành đạo vô thượng. Nghĩa là nếu dùng những phương cách như vậy (dùng đây) để cúng dường Bụt thì cũng sẽ đạt được đạo vô thượng, sẽ được thành Bụt. Bốn câu gần cuối: Nếu người lòng tán loạn, Vào nơi trong tháp miếu, Một xưng Nam Mô Phật, Đều đã thành Phật đạo.
Bốn câu gần cuối: Nếu người lòng tán loạn, Vào nơi trong tháp miếu, Một xưng Nam Mô Phật, Đều đã thành Phật đạo. Khi lòng mình tán loạn, tới chùa, hay đi một mình vào tháp, khởi lên một sự cung kính, niệm lên một câu Namo Buddhaya, đó cũng đủ là gốc rễ để sau này thành một bậc Toàn Giác. Trang 84, đoạn 34: Các Phật đời vị lai, Dầu nói trăm ngàn ức, Vô số các pháp môn, Kỳ thực vị Nhất Thừa. Tôi biết rằng các vị Bụt sẽ xuất hiện trong tương lai, dầu các Ngài có nói ra trăm ngàn muôn ức giáo lý và thi thiết vô số các pháp môn, thì tất cả những giáo lý và pháp môn đó đều sẽ chỉ gom vào cái ý niệm Nhất Thừa mà thôi. Các Phật Lưỡng Túc Tôn, Biết pháp thường không tánh, Giống Phật theo duyên sanh, Cho nên nói Nhất Thừa. Các vị Bụt danh xưng là Lưỡng Túc Tôn, biết rằng các pháp đều không có tự tánh, và hạt giống của Bụt trong mình cũng vâng theo luật duyên khởi, vì vậy cho nên đã nói pháp Nhất Thừa. Hạt giống Bụt trong ta là một hạt giống đã được gieo, và sẽ phát triển theo luật duyên khởi. Pháp đó trụ ngôi pháp, Tướng thế gian thường còn, đây cũng là hai câu rất nổi tiếng. Nguyên chữ Hán là: Thị pháp trú pháp vị, Thế gian tướng thường trú. Hai câu này được các vị Tổ sư giải nghĩa khác nhau. Thị pháp là pháp đó, trú pháp vị tức là an trú trong cái địa vị của nó nơi các pháp. Chữ vị ở đây có nghĩa là cái địa vị, cái chỗ đứng, cái situation của nó. Thế gian tướng thường trú tức là vĩnh viễn còn mãi trong hình tướng của các pháp thế gian.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Bốn câu gần cuối: Nếu người lòng tán loạn, Vào nơi trong tháp miếu, Một xưng Nam Mô Phật, Đều đã thành Phật đạo. Khi lòng mình tán loạn, tới chùa, hay đi một mình vào tháp, khởi lên một sự cung kính, niệm lên một câu Namo Buddhaya, đó cũng đủ là gốc rễ để sau này thành một bậc Toàn Giác. Trang 84, đoạn 34: Các Phật đời vị lai, Dầu nói trăm ngàn ức, Vô số các pháp môn, Kỳ thực vị Nhất Thừa. Tôi biết rằng các vị Bụt sẽ xuất hiện trong tương lai, dầu các Ngài có nói ra trăm ngàn muôn ức giáo lý và thi thiết vô số các pháp môn, thì tất cả những giáo lý và pháp môn đó đều sẽ chỉ gom vào cái ý niệm Nhất Thừa mà thôi. Các Phật Lưỡng Túc Tôn, Biết pháp thường không tánh, Giống Phật theo duyên sanh, Cho nên nói Nhất Thừa. Các vị Bụt danh xưng là Lưỡng Túc Tôn, biết rằng các pháp đều không có tự tánh, và hạt giống của Bụt trong mình cũng vâng theo luật duyên khởi, vì vậy cho nên đã nói pháp Nhất Thừa. Hạt giống Bụt trong ta là một hạt giống đã được gieo, và sẽ phát triển theo luật duyên khởi. Pháp đó trụ ngôi pháp, Tướng thế gian thường còn, đây cũng là hai câu rất nổi tiếng. Nguyên chữ Hán là: Thị pháp trú pháp vị, Thế gian tướng thường trú. Hai câu này được các vị Tổ sư giải nghĩa khác nhau. Thị pháp là pháp đó, trú pháp vị tức là an trú trong cái địa vị của nó nơi các pháp. Chữ vị ở đây có nghĩa là cái địa vị, cái chỗ đứng, cái situation của nó. Thế gian tướng thường trú tức là vĩnh viễn còn mãi trong hình tướng của các pháp thế gian.
Chữ vị ở đây có nghĩa là cái địa vị, cái chỗ đứng, cái situation của nó. Thế gian tướng thường trú tức là vĩnh viễn còn mãi trong hình tướng của các pháp thế gian. Cái pháp Nhất Thừa mà Bụt muốn nói đó, cái chân lý mà Bụt muốn tuyên thuyết đó, sẽ còn ở mãi nơi địa vị của nó, và ta có thể nhận thức được sự có mặt của nó trong các pháp thế gian. Ví dụ pháp đó là pháp Vô thường, hay Vô ngã, hay Niết Bàn, pháp Không, Vô tướng, hay Vô tác, hay Nhất Thừa. Các pháp ấy mãi mãi còn đó, mình có thể nhìn thấy chúng được, có thể chứng nghiệm được, tại vì chúng luôn luôn còn ở trong địa vị của chúng, gọi là Thị pháp trú pháp vị. Tướng thế gian thường còn, tức là bao giờ những pháp của thế gian còn thị hiện cho ta thấy, thì ta còn thấy được các pháp đó, and we can recognize that Dharma in the presence of what we would see around us now. Ví dụ như khi nhìn vào một lá cây mùa thu, thì lá đó là một thế gian pháp, là một thế gian tướng. Khi nhìn chiếc lá cho sâu sắc, ta sẽ thấy pháp Vô thường, pháp Vô ngã, pháp Niết Bàn, pháp Không, Vô tướng, Vô tác, và pháp Nhất Thừa trong đó. Như thế thì ngoài chiếc lá đó, nghĩa là nếu không có lá đó, ta sẽ không thấy cái pháp mầu nhiệm của Bụt. Vô thường nghĩa là cái lá vô thường, Vô ngã nghĩa là cái lá vô ngã, nếu không có cái lá thì mình sẽ không thấy được cái bản tánh vô thường và vô ngã của chiếc lá. Chính nhờ các Pháp vô thường và vô ngã, phải có các Pháp vô thường, vô ngã, ta mới thấy được đạo lý vô thường, vô ngã.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chữ vị ở đây có nghĩa là cái địa vị, cái chỗ đứng, cái situation của nó. Thế gian tướng thường trú tức là vĩnh viễn còn mãi trong hình tướng của các pháp thế gian. Cái pháp Nhất Thừa mà Bụt muốn nói đó, cái chân lý mà Bụt muốn tuyên thuyết đó, sẽ còn ở mãi nơi địa vị của nó, và ta có thể nhận thức được sự có mặt của nó trong các pháp thế gian. Ví dụ pháp đó là pháp Vô thường, hay Vô ngã, hay Niết Bàn, pháp Không, Vô tướng, hay Vô tác, hay Nhất Thừa. Các pháp ấy mãi mãi còn đó, mình có thể nhìn thấy chúng được, có thể chứng nghiệm được, tại vì chúng luôn luôn còn ở trong địa vị của chúng, gọi là Thị pháp trú pháp vị. Tướng thế gian thường còn, tức là bao giờ những pháp của thế gian còn thị hiện cho ta thấy, thì ta còn thấy được các pháp đó, and we can recognize that Dharma in the presence of what we would see around us now. Ví dụ như khi nhìn vào một lá cây mùa thu, thì lá đó là một thế gian pháp, là một thế gian tướng. Khi nhìn chiếc lá cho sâu sắc, ta sẽ thấy pháp Vô thường, pháp Vô ngã, pháp Niết Bàn, pháp Không, Vô tướng, Vô tác, và pháp Nhất Thừa trong đó. Như thế thì ngoài chiếc lá đó, nghĩa là nếu không có lá đó, ta sẽ không thấy cái pháp mầu nhiệm của Bụt. Vô thường nghĩa là cái lá vô thường, Vô ngã nghĩa là cái lá vô ngã, nếu không có cái lá thì mình sẽ không thấy được cái bản tánh vô thường và vô ngã của chiếc lá. Chính nhờ các Pháp vô thường và vô ngã, phải có các Pháp vô thường, vô ngã, ta mới thấy được đạo lý vô thường, vô ngã.
Chính nhờ các Pháp vô thường và vô ngã, phải có các Pháp vô thường, vô ngã, ta mới thấy được đạo lý vô thường, vô ngã. Vì thấy được các pháp, nên ta mới thấy được tự tánh của các pháp là tự tánh Niết Bàn, tự tánh duyên sinh. Vì vậy mà các pháp đã nằm sẵn trong tự tánh Niết Bàn của nó, Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng. Khi nhìn vào các pháp ngay trong giờ phút hiện tại, chung quanh mình và nhìn vào chính bản thân mình, mình thấy được tất cả các pháp Vô thường, Vô ngã, Niết Bàn, Không, Nhất Thừa và Tịch diệt. Sang trang 86 đoạn 36, Bụt kể lại chuyện xưa của Ngài: Xưa, tu ngồi đạo tràng, Xem cây cùng kinh hành, Trong hai mươi mốt ngày, Suy nghĩ việc như vầy, Trí tuệ của ta được, Vi diệu rất thứ nhất, Chúng sanh các căn chậm, Tham vui si làm mù, Các hạng người như thế, Làm sao mà độ được? Bụt kể chuyện lại sau khi thành chánh quả, ngồi ở dưới cây bồ đề, nhìn cây, ngắm cảnh và đi bộ trong chánh niệm suốt hai mươi mốt ngày, để thưởng thức cái Niết Bàn của tự tâm, và cái Niết Bàn của thực tại. Trong hai mươi mốt ngày nhìn cây, nhìn trời, đi kinh hành, đi tắm, và chơi với trẻ con, Bụt mới suy nghĩ rằng, cái tri kiến mà Ngài đã đạt tới, nó rất là vi diệu, rất là đệ nhất, nhưng vì chúng sanh căn cơ chậm chạp và bị tham sân si làm cho mờ mắt đi, đối với những người như vậy làm sao mình có thể chia xẻ cái thấy sâu sắc và vĩ đại này với họ được? Đó là câu Bụt tự hỏi mình trong vòng 21 ngày sau khi Ngài thành đạo.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Chính nhờ các Pháp vô thường và vô ngã, phải có các Pháp vô thường, vô ngã, ta mới thấy được đạo lý vô thường, vô ngã. Vì thấy được các pháp, nên ta mới thấy được tự tánh của các pháp là tự tánh Niết Bàn, tự tánh duyên sinh. Vì vậy mà các pháp đã nằm sẵn trong tự tánh Niết Bàn của nó, Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng. Khi nhìn vào các pháp ngay trong giờ phút hiện tại, chung quanh mình và nhìn vào chính bản thân mình, mình thấy được tất cả các pháp Vô thường, Vô ngã, Niết Bàn, Không, Nhất Thừa và Tịch diệt. Sang trang 86 đoạn 36, Bụt kể lại chuyện xưa của Ngài: Xưa, tu ngồi đạo tràng, Xem cây cùng kinh hành, Trong hai mươi mốt ngày, Suy nghĩ việc như vầy, Trí tuệ của ta được, Vi diệu rất thứ nhất, Chúng sanh các căn chậm, Tham vui si làm mù, Các hạng người như thế, Làm sao mà độ được? Bụt kể chuyện lại sau khi thành chánh quả, ngồi ở dưới cây bồ đề, nhìn cây, ngắm cảnh và đi bộ trong chánh niệm suốt hai mươi mốt ngày, để thưởng thức cái Niết Bàn của tự tâm, và cái Niết Bàn của thực tại. Trong hai mươi mốt ngày nhìn cây, nhìn trời, đi kinh hành, đi tắm, và chơi với trẻ con, Bụt mới suy nghĩ rằng, cái tri kiến mà Ngài đã đạt tới, nó rất là vi diệu, rất là đệ nhất, nhưng vì chúng sanh căn cơ chậm chạp và bị tham sân si làm cho mờ mắt đi, đối với những người như vậy làm sao mình có thể chia xẻ cái thấy sâu sắc và vĩ đại này với họ được? Đó là câu Bụt tự hỏi mình trong vòng 21 ngày sau khi Ngài thành đạo.
Đó là câu Bụt tự hỏi mình trong vòng 21 ngày sau khi Ngài thành đạo. Lúc bấy giờ các vị Phạm Vương, các vị Thiên Vương, Đại-Tự-Tại Thiên, và các Thiên chúng khác mới hiện xuống, chấp tay cung kính lễ Bụt, và xin Bụt bắt đầu thuyết pháp. Lúc đó Bụt tự nói rằng, nếu ta chỉ nói về Nhất Thừa hay Phật Thừa thì chúng sanh chưa thể am hiểu và tu tập được, vì vậy ta sẽ không vội nói Nhất Thừa, ta hãy chỉ cho họ những con đường dễ dàng hơn, đó là con đường Thanh văn và con đường Duyên giác. Vì nếu nói Phật Thừa mà chúng sanh vẫn không đủ sức thu thập và vẫn đau khổ, thì chi bằng ta nhập Niết Bàn cho rồi, đừng nói Pháp nữa. Nếu chỉ khen Phật Thừa, chúng sanh chìm nơi khổ, không thể tin pháp đó, do phá pháp không tin, rớt trong ba đường dữ, ta thà không nói pháp, mau vào cõi Niết Bàn. Nói chân lý nhiệm mầu này ra thì chúng sanh sẽ không đủ sức để tin, mà họ còn bài báng, và do đó sẽ rơi vào ba đường ác đạo. Chi bằng ta nhập Niết Bàn là hay hơn. Khi tư tưởng đó tới, Bụt mới nhớ rằng ngày xưa các đức Bụt quá khứ, sau khi thành đạo luôn luôn tạo ra phương tiện để thuyết pháp, vì vậy mà Bụt đã làm như các đức Bụt ngày xưa, nghĩa là bắt đầu dạy pháp Tam Thừa. Sang trang 88: Liền nhớ Phật quá khứ, Thực hành sức phương tiện, Ta nay chứng được đạo, Cũng nên nói ba thừa. Đoạn này có nghĩa là lúc đó ta nhớ đến các Bụt quá khứ, các Bụt đã tạo ra nhiều phương tiện để nói pháp Thanh văn và pháp Duyên giác.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó là câu Bụt tự hỏi mình trong vòng 21 ngày sau khi Ngài thành đạo. Lúc bấy giờ các vị Phạm Vương, các vị Thiên Vương, Đại-Tự-Tại Thiên, và các Thiên chúng khác mới hiện xuống, chấp tay cung kính lễ Bụt, và xin Bụt bắt đầu thuyết pháp. Lúc đó Bụt tự nói rằng, nếu ta chỉ nói về Nhất Thừa hay Phật Thừa thì chúng sanh chưa thể am hiểu và tu tập được, vì vậy ta sẽ không vội nói Nhất Thừa, ta hãy chỉ cho họ những con đường dễ dàng hơn, đó là con đường Thanh văn và con đường Duyên giác. Vì nếu nói Phật Thừa mà chúng sanh vẫn không đủ sức thu thập và vẫn đau khổ, thì chi bằng ta nhập Niết Bàn cho rồi, đừng nói Pháp nữa. Nếu chỉ khen Phật Thừa, chúng sanh chìm nơi khổ, không thể tin pháp đó, do phá pháp không tin, rớt trong ba đường dữ, ta thà không nói pháp, mau vào cõi Niết Bàn. Nói chân lý nhiệm mầu này ra thì chúng sanh sẽ không đủ sức để tin, mà họ còn bài báng, và do đó sẽ rơi vào ba đường ác đạo. Chi bằng ta nhập Niết Bàn là hay hơn. Khi tư tưởng đó tới, Bụt mới nhớ rằng ngày xưa các đức Bụt quá khứ, sau khi thành đạo luôn luôn tạo ra phương tiện để thuyết pháp, vì vậy mà Bụt đã làm như các đức Bụt ngày xưa, nghĩa là bắt đầu dạy pháp Tam Thừa. Sang trang 88: Liền nhớ Phật quá khứ, Thực hành sức phương tiện, Ta nay chứng được đạo, Cũng nên nói ba thừa. Đoạn này có nghĩa là lúc đó ta nhớ đến các Bụt quá khứ, các Bụt đã tạo ra nhiều phương tiện để nói pháp Thanh văn và pháp Duyên giác.
Ta nay chứng được đạo, Cũng nên nói ba thừa. Đoạn này có nghĩa là lúc đó ta nhớ đến các Bụt quá khứ, các Bụt đã tạo ra nhiều phương tiện để nói pháp Thanh văn và pháp Duyên giác. Bây giờ ta đã chứng được đạo rồi, ta cũng nên làm như chư Bụt trong quá khứ, nghĩa là ta cũng phải nói về ba thừa. Lúc tư tưởng đó hiện ra trong tâm ta thì từ mười phương, các Đức Bụt đều hiện ra và dùng ngôn từ rất mầu nhiệm để hổ trợ ta. Các Ngài nói, hay lắm Bụt Thích Ca, cái tư tưởng đó rất hay, rất chính xác, chúng tôi trong quá khứ cũng đã thành Bụt và cũng đã dùng phương tiện để nói ba thừa, tại vì những người căn tánh chậm lụt, trí tuệ kém cỏi, thì chỉ ưa pháp nhỏ mà bây giờ mình không cho họ pháp nhỏ thì họ sẽ không bao giờ có cơ hội nắm lấy được pháp lớn. Hay thay Đức Thích Ca, Bậc Đạo Sư thứ nhất, Được pháp vô thượng ấy, Tùy theo tất cả Phật, Mà dùng sức phương tiện, Chúng ta cũng đều được, Pháp tối diệu thứ nhất, Vì các loại chúng sanh, Phân biệt nói ba thừa, Trí kém ưa pháp nhỏ, Chẳng tự tin thành Phật, Cho nên dùng phương tiện, Phân biệt nói các quả, Dầu lời nói ba thừa, Chỉ vì dạy Bồ Tát. Quí vị nên đọc cho hết phần kệ tụng của phẩm này để biết thêm các chi tiết khác. Phẩm thứ ba: Thí dụ Chúng ta hãy đi sang phẩm thứ ba là Phẩm Thí Dụ. Phẩm này gọi là thí dụ, nhưng thật ra không phải là phẩm duy nhất có nói về thí dụ. Trong toàn bộ kinh Pháp Hoa chúng ta còn thấy rất nhiều thí dụ trong các phẩm khác nữa.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ta nay chứng được đạo, Cũng nên nói ba thừa. Đoạn này có nghĩa là lúc đó ta nhớ đến các Bụt quá khứ, các Bụt đã tạo ra nhiều phương tiện để nói pháp Thanh văn và pháp Duyên giác. Bây giờ ta đã chứng được đạo rồi, ta cũng nên làm như chư Bụt trong quá khứ, nghĩa là ta cũng phải nói về ba thừa. Lúc tư tưởng đó hiện ra trong tâm ta thì từ mười phương, các Đức Bụt đều hiện ra và dùng ngôn từ rất mầu nhiệm để hổ trợ ta. Các Ngài nói, hay lắm Bụt Thích Ca, cái tư tưởng đó rất hay, rất chính xác, chúng tôi trong quá khứ cũng đã thành Bụt và cũng đã dùng phương tiện để nói ba thừa, tại vì những người căn tánh chậm lụt, trí tuệ kém cỏi, thì chỉ ưa pháp nhỏ mà bây giờ mình không cho họ pháp nhỏ thì họ sẽ không bao giờ có cơ hội nắm lấy được pháp lớn. Hay thay Đức Thích Ca, Bậc Đạo Sư thứ nhất, Được pháp vô thượng ấy, Tùy theo tất cả Phật, Mà dùng sức phương tiện, Chúng ta cũng đều được, Pháp tối diệu thứ nhất, Vì các loại chúng sanh, Phân biệt nói ba thừa, Trí kém ưa pháp nhỏ, Chẳng tự tin thành Phật, Cho nên dùng phương tiện, Phân biệt nói các quả, Dầu lời nói ba thừa, Chỉ vì dạy Bồ Tát. Quí vị nên đọc cho hết phần kệ tụng của phẩm này để biết thêm các chi tiết khác. Phẩm thứ ba: Thí dụ Chúng ta hãy đi sang phẩm thứ ba là Phẩm Thí Dụ. Phẩm này gọi là thí dụ, nhưng thật ra không phải là phẩm duy nhất có nói về thí dụ. Trong toàn bộ kinh Pháp Hoa chúng ta còn thấy rất nhiều thí dụ trong các phẩm khác nữa.
Phẩm này gọi là thí dụ, nhưng thật ra không phải là phẩm duy nhất có nói về thí dụ. Trong toàn bộ kinh Pháp Hoa chúng ta còn thấy rất nhiều thí dụ trong các phẩm khác nữa. Sau khi thầy Xá Lợi Phất nghe Bụt nói về đạo Nhất Thừa, và về sự thực tất cả mọi người đều có hạt giống Bụt, và có thể thành Bụt, thì thầy rất lấy làm sung sướng. Thầy liền phát tâm Đại Thừa, và mặc cảm tự ti của thầy tiêu tan. Thầy biết rằng trong tương lai mình sẽ thành Bụt và sẽ chuyển pháp luân vô thượng để giáo hóa các vị Bồ Tát giống hệt như Bụt bây giờ vậy. Đó là đại ý của bốn hàng chót, trang 103: Con quyết sẽ thành Phật, Được trời, người cung kính, Chuyển pháp luân vô thượng, Giáo hóa các Bồ Tát. Trước đó thì thầy Xá Lợi Phất nghĩ rằng giáo lý của Bụt nói ra vi diệu quá, nên lúc đầu thầy đã nghĩ rằng đây có thể là ma hiện ra làm Bụt để nói cái tư tưởng tất cả chúng sanh đều có thể thành Bụt, và chỉ có một thừa là Phật Thừa. Nhưng sau khi chiêm nghiệm kỹ càng thì thầy thấy đây đích thật là Bụt nói, ma không thể nói được những giáo pháp vi diệu như vậy. Khoảng giữa trang 103: Thế Tôn nói đạo thực, Ba Tuần không nói được Vì thế con định biết Không phải ma giả Phật Con sa vào lưới nghi Cho là ma làm ra Thế Tôn nói về đạo chân thực, đạo đó Ma-Vương cõi dục [6] tên là Ba-Tuần không làm sao mà nói được? Vì vậy nên con biết không phải là ma giả Phật. Con đã sa vào lưới nghi ngờ, cho là ma làm ra. Đây là điều thầy Xá Lợi Phất nói thay cho một số người rất đông trong truyền thống.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Phẩm này gọi là thí dụ, nhưng thật ra không phải là phẩm duy nhất có nói về thí dụ. Trong toàn bộ kinh Pháp Hoa chúng ta còn thấy rất nhiều thí dụ trong các phẩm khác nữa. Sau khi thầy Xá Lợi Phất nghe Bụt nói về đạo Nhất Thừa, và về sự thực tất cả mọi người đều có hạt giống Bụt, và có thể thành Bụt, thì thầy rất lấy làm sung sướng. Thầy liền phát tâm Đại Thừa, và mặc cảm tự ti của thầy tiêu tan. Thầy biết rằng trong tương lai mình sẽ thành Bụt và sẽ chuyển pháp luân vô thượng để giáo hóa các vị Bồ Tát giống hệt như Bụt bây giờ vậy. Đó là đại ý của bốn hàng chót, trang 103: Con quyết sẽ thành Phật, Được trời, người cung kính, Chuyển pháp luân vô thượng, Giáo hóa các Bồ Tát. Trước đó thì thầy Xá Lợi Phất nghĩ rằng giáo lý của Bụt nói ra vi diệu quá, nên lúc đầu thầy đã nghĩ rằng đây có thể là ma hiện ra làm Bụt để nói cái tư tưởng tất cả chúng sanh đều có thể thành Bụt, và chỉ có một thừa là Phật Thừa. Nhưng sau khi chiêm nghiệm kỹ càng thì thầy thấy đây đích thật là Bụt nói, ma không thể nói được những giáo pháp vi diệu như vậy. Khoảng giữa trang 103: Thế Tôn nói đạo thực, Ba Tuần không nói được Vì thế con định biết Không phải ma giả Phật Con sa vào lưới nghi Cho là ma làm ra Thế Tôn nói về đạo chân thực, đạo đó Ma-Vương cõi dục [6] tên là Ba-Tuần không làm sao mà nói được? Vì vậy nên con biết không phải là ma giả Phật. Con đã sa vào lưới nghi ngờ, cho là ma làm ra. Đây là điều thầy Xá Lợi Phất nói thay cho một số người rất đông trong truyền thống.
Vì vậy nên con biết không phải là ma giả Phật. Con đã sa vào lưới nghi ngờ, cho là ma làm ra. Đây là điều thầy Xá Lợi Phất nói thay cho một số người rất đông trong truyền thống. Họ nghĩ rằng tất cả các kinh Đại Thừa đều do ma thuyết. Đây là dấu tích của sự bài bác đó, và chính ngày nay cũng vậy. Trong những học phái Theravada và những học phái khác, vẫn có người cho rằng Đại Thừa không phải là Phật thuyết, mà là do ma thuyết. Sáu câu trên diễn tả cái ý này. Nhưng sau khi thầy Xá Lợi Phất chiêm nghiệm lại thì thầy thấy rằng ma làm sao mà nói được giọng điệu đó, nói được những tư tưởng cao siêu đó, thành ra đây không phải là ma mà đây chính là Bụt. Bài kệ nói tiếp: Nghe tiếng Phật êm dịu, Sâu xa rất nhiệm mầu, Nói suốt pháp thanh tịnh, Tâm con rất vui mừng, Nghi hối đã hết hẳn, An trú trong thực trí. Con nghe Bụt nói bằng giọng rất êm dịu, những pháp rất nhiệm mầu, và những lý luận rất vững chãi, thì tâm con rất vui mừng và con không còn nghi rằng đó là ma hiện ra mà chính thực là Bụt, thầy của chúng con đang nói pháp này. Đứng về phương diện tâm lý mà nói, đoạn này diễn tả được tâm trạng của con người thời đó, tức là thời kinh Pháp Hoa xuất hiện, và cả tâm trạng của con người trong thời đại bây giờ nữa. Cố nhiên những người đã ở trong truyền thống Đại Thừa lâu năm thì không mang tâm trạng nghi ngờ đó, nhưng những người chưa ở trong tuyền thống Đại Thừa, vẫn có thể còn tư tưởng kinh Đại Thừa không phải là do Bụt nói.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Vì vậy nên con biết không phải là ma giả Phật. Con đã sa vào lưới nghi ngờ, cho là ma làm ra. Đây là điều thầy Xá Lợi Phất nói thay cho một số người rất đông trong truyền thống. Họ nghĩ rằng tất cả các kinh Đại Thừa đều do ma thuyết. Đây là dấu tích của sự bài bác đó, và chính ngày nay cũng vậy. Trong những học phái Theravada và những học phái khác, vẫn có người cho rằng Đại Thừa không phải là Phật thuyết, mà là do ma thuyết. Sáu câu trên diễn tả cái ý này. Nhưng sau khi thầy Xá Lợi Phất chiêm nghiệm lại thì thầy thấy rằng ma làm sao mà nói được giọng điệu đó, nói được những tư tưởng cao siêu đó, thành ra đây không phải là ma mà đây chính là Bụt. Bài kệ nói tiếp: Nghe tiếng Phật êm dịu, Sâu xa rất nhiệm mầu, Nói suốt pháp thanh tịnh, Tâm con rất vui mừng, Nghi hối đã hết hẳn, An trú trong thực trí. Con nghe Bụt nói bằng giọng rất êm dịu, những pháp rất nhiệm mầu, và những lý luận rất vững chãi, thì tâm con rất vui mừng và con không còn nghi rằng đó là ma hiện ra mà chính thực là Bụt, thầy của chúng con đang nói pháp này. Đứng về phương diện tâm lý mà nói, đoạn này diễn tả được tâm trạng của con người thời đó, tức là thời kinh Pháp Hoa xuất hiện, và cả tâm trạng của con người trong thời đại bây giờ nữa. Cố nhiên những người đã ở trong truyền thống Đại Thừa lâu năm thì không mang tâm trạng nghi ngờ đó, nhưng những người chưa ở trong tuyền thống Đại Thừa, vẫn có thể còn tư tưởng kinh Đại Thừa không phải là do Bụt nói.
Riêng đối với thầy Xá Lợi Phất, khi những nghi hối đã hết rồi thì thầy an trú trong thực trí, và: Con quyết sẽ thành Phật, Được trời, người cung kính Chuyển pháp luân vô thượng Giáo hóa các Bồ Tát Con sẽ làm như Bụt, đó là cái quyết định, là cái thấy mới của thầy Xá Lợi Phất. Thầy đã thành một vị Bồ Tát với lời tuyên bố này. Lúc đó Bụt nói: Thầy Xá Lợi Phất, trong những kiếp trước, thầy đã từng được theo học với tôi rồi, và tôi đã từng dạy cho thầy đạo Bồ Tát, nhưng vì thầy quên, nên thầy tưởng thầy đã đạt được cứu cánh của sự tu học, tức là Niết Bàn. Giờ đây tôi đã nhắc được cho thầy biết là thầy đã có cơ hội học đạo Bồ Tát, và thầy có khả năng trở nên một vị Bụt toàn giác, nhắc bằng cách nói cho thầy nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mầu nhiệm này. Bây giờ thầy hãy nghe tôi nói đây: Trong tương lai thầy sẽ thành một vị Bụt tên là Hoa Quang Như Lai, và thầy sẽ tạo lập một tịnh độ gọi là Tịnh độ Ly Cấu (Ly Cấu tức là không còn những ô nhiễm nữa). Thầy cũng sẽ như tôi, sẽ dùng giáo lý ba thừa để dẫn dắt chúng sanh, và cuối cùng thầy cũng nói giáo lý Nhất Thừa như tôi bây giờ vậy. Như thế gọi là thọ ký. Thọ ký có nghĩa là nói cho người đó biết trước rằng người đó sẽ thành Bụt, và người đó sẽ giáo hóa theo một con đường nào đó. Thọ ký tức là nhìn vào nơi căn tánh, nơi khả năng của một người để thấy được những gì người đó có thể thực hiện được trong tương lai, và sẽ thực hiện theo con đường nào.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Riêng đối với thầy Xá Lợi Phất, khi những nghi hối đã hết rồi thì thầy an trú trong thực trí, và: Con quyết sẽ thành Phật, Được trời, người cung kính Chuyển pháp luân vô thượng Giáo hóa các Bồ Tát Con sẽ làm như Bụt, đó là cái quyết định, là cái thấy mới của thầy Xá Lợi Phất. Thầy đã thành một vị Bồ Tát với lời tuyên bố này. Lúc đó Bụt nói: Thầy Xá Lợi Phất, trong những kiếp trước, thầy đã từng được theo học với tôi rồi, và tôi đã từng dạy cho thầy đạo Bồ Tát, nhưng vì thầy quên, nên thầy tưởng thầy đã đạt được cứu cánh của sự tu học, tức là Niết Bàn. Giờ đây tôi đã nhắc được cho thầy biết là thầy đã có cơ hội học đạo Bồ Tát, và thầy có khả năng trở nên một vị Bụt toàn giác, nhắc bằng cách nói cho thầy nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mầu nhiệm này. Bây giờ thầy hãy nghe tôi nói đây: Trong tương lai thầy sẽ thành một vị Bụt tên là Hoa Quang Như Lai, và thầy sẽ tạo lập một tịnh độ gọi là Tịnh độ Ly Cấu (Ly Cấu tức là không còn những ô nhiễm nữa). Thầy cũng sẽ như tôi, sẽ dùng giáo lý ba thừa để dẫn dắt chúng sanh, và cuối cùng thầy cũng nói giáo lý Nhất Thừa như tôi bây giờ vậy. Như thế gọi là thọ ký. Thọ ký có nghĩa là nói cho người đó biết trước rằng người đó sẽ thành Bụt, và người đó sẽ giáo hóa theo một con đường nào đó. Thọ ký tức là nhìn vào nơi căn tánh, nơi khả năng của một người để thấy được những gì người đó có thể thực hiện được trong tương lai, và sẽ thực hiện theo con đường nào.
Thọ ký tức là nhìn vào nơi căn tánh, nơi khả năng của một người để thấy được những gì người đó có thể thực hiện được trong tương lai, và sẽ thực hiện theo con đường nào. Tại vì tất cả chúng sanh đều được thành Bụt, nhưng mỗi người thành Bụt một cách khác nhau, và phương pháp giáo hóa cũng khác nhau. Một bậc thầy có trí tuệ nhìn vào học trò mình có thể thấy được người đó sau này đi theo con đường nào, thành tựu được những gì, rồi nói cho người học trò đó biết để người ấy có thêm đức tin. Hôm trước ngồi uống trà với nhau ở Cốc Ngồi Yên, tôi có nói chuyện về Sư cô Bảo Nghiêm, và bảo rằng Sư cô Bảo Nghiêm sau này sẽ giáo hóa Phật tử như thế nào, sẽ đi theo con đường tu tập nào. Đó cũng là một hình thức thọ ký. Tuy không ở trên bình diện cao siêu như Bụt, nhưng nó cũng nằm ở bình diện rất thực tế của mình. Khi nhìn vào các Sư chú Pháp Đăng, Vô Ngại, Nguyện Hải, Sư cô Viên Quang v.v..., tôi đều thấy được một số những điều về quí vị đó. Căn cứ vào những cái thấy đó, tôi có thể có một hình ảnh trong đầu, và tôi nói cho các vị đó biết về những hình ảnh đó để họ có thêm đức tin và vững chãi thêm. Vậy thì thọ ký là một hình thái trao truyền năng lực. Trong phẩm Phương tiện, chúng ta đã được chứng kiến cảnh Bụt thọ ký cho thầy Xá Lợi Phất. Trong phẩm này, trang 110: Đại trí Xá Lợi Phất, Nay được lãnh Phật ký, Chúng ta cũng như vậy, Quyết sẽ được thành Phật.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Thọ ký tức là nhìn vào nơi căn tánh, nơi khả năng của một người để thấy được những gì người đó có thể thực hiện được trong tương lai, và sẽ thực hiện theo con đường nào. Tại vì tất cả chúng sanh đều được thành Bụt, nhưng mỗi người thành Bụt một cách khác nhau, và phương pháp giáo hóa cũng khác nhau. Một bậc thầy có trí tuệ nhìn vào học trò mình có thể thấy được người đó sau này đi theo con đường nào, thành tựu được những gì, rồi nói cho người học trò đó biết để người ấy có thêm đức tin. Hôm trước ngồi uống trà với nhau ở Cốc Ngồi Yên, tôi có nói chuyện về Sư cô Bảo Nghiêm, và bảo rằng Sư cô Bảo Nghiêm sau này sẽ giáo hóa Phật tử như thế nào, sẽ đi theo con đường tu tập nào. Đó cũng là một hình thức thọ ký. Tuy không ở trên bình diện cao siêu như Bụt, nhưng nó cũng nằm ở bình diện rất thực tế của mình. Khi nhìn vào các Sư chú Pháp Đăng, Vô Ngại, Nguyện Hải, Sư cô Viên Quang v.v..., tôi đều thấy được một số những điều về quí vị đó. Căn cứ vào những cái thấy đó, tôi có thể có một hình ảnh trong đầu, và tôi nói cho các vị đó biết về những hình ảnh đó để họ có thêm đức tin và vững chãi thêm. Vậy thì thọ ký là một hình thái trao truyền năng lực. Trong phẩm Phương tiện, chúng ta đã được chứng kiến cảnh Bụt thọ ký cho thầy Xá Lợi Phất. Trong phẩm này, trang 110: Đại trí Xá Lợi Phất, Nay được lãnh Phật ký, Chúng ta cũng như vậy, Quyết sẽ được thành Phật.
Trong phẩm này, trang 110: Đại trí Xá Lợi Phất, Nay được lãnh Phật ký, Chúng ta cũng như vậy, Quyết sẽ được thành Phật. Tất cả các vị Thanh văn đều lấy làm vui mừng, vì họ thấy nếu thầy Xá Lợi Phất được Bụt thọ ký thì chính họ cũng sẽ được như vậy, và tất cả chúng sanh cũng có thể thành Bụt. Tự nhiên một niềm tin vĩ đại phát sinh trong tâm của mọi người. Lúc đó thầy Xá Lợi Phất mới bạch với Bụt rằng: Bạch Đức Thế Tôn, bây giờ con đã hết mọi nghi ngờ. Con đã được đối diện Bụt, được thọ ký để sau này thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tuy vậy, có một số khá đông trong đại chúng này, tuy là đã vượt được ngã chấp, ngã dục, chấp có, chấp không; tuy nghĩ rằng mình đã nắm được tịch diệt Niết Bàn, nhưng những điều mà Thế Tôn vừa nói đó, có thể họ chưa nắm được, cho nên họ có thể còn sa vào cái hố nghi lầm, vì vậy xin Bụt dùng những phương tiện nói thêm, giảng thêm để cho họ có thể hiểu được. Nhờ lời xin đó mà Bụt mới đưa ra một thí dụ rất hay để chứng tỏ rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả mọi người đều có thể thành Bụt, và món quà của Bụt trao tặng mọi người không phải là một món quà có ít giá trị hơn món quà Nhất Thừa. Ví dụ này là ví dụ Nhà lửa, The house in fire. Chúng ta thường nghe tám chữ Tam giới bất an do như hỏa trạch, tức là ba cõi không yên nên giống như một căn nhà cháy. Ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, đầy dẫy những cạm bẫy, những nguy hiểm, cả ba cõi đang ở trong tình trạng của một ngôi nhà bị cháy, vì vậy mà cả ba cõi đều bất an.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Trong phẩm này, trang 110: Đại trí Xá Lợi Phất, Nay được lãnh Phật ký, Chúng ta cũng như vậy, Quyết sẽ được thành Phật. Tất cả các vị Thanh văn đều lấy làm vui mừng, vì họ thấy nếu thầy Xá Lợi Phất được Bụt thọ ký thì chính họ cũng sẽ được như vậy, và tất cả chúng sanh cũng có thể thành Bụt. Tự nhiên một niềm tin vĩ đại phát sinh trong tâm của mọi người. Lúc đó thầy Xá Lợi Phất mới bạch với Bụt rằng: Bạch Đức Thế Tôn, bây giờ con đã hết mọi nghi ngờ. Con đã được đối diện Bụt, được thọ ký để sau này thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tuy vậy, có một số khá đông trong đại chúng này, tuy là đã vượt được ngã chấp, ngã dục, chấp có, chấp không; tuy nghĩ rằng mình đã nắm được tịch diệt Niết Bàn, nhưng những điều mà Thế Tôn vừa nói đó, có thể họ chưa nắm được, cho nên họ có thể còn sa vào cái hố nghi lầm, vì vậy xin Bụt dùng những phương tiện nói thêm, giảng thêm để cho họ có thể hiểu được. Nhờ lời xin đó mà Bụt mới đưa ra một thí dụ rất hay để chứng tỏ rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả mọi người đều có thể thành Bụt, và món quà của Bụt trao tặng mọi người không phải là một món quà có ít giá trị hơn món quà Nhất Thừa. Ví dụ này là ví dụ Nhà lửa, The house in fire. Chúng ta thường nghe tám chữ Tam giới bất an do như hỏa trạch, tức là ba cõi không yên nên giống như một căn nhà cháy. Ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, đầy dẫy những cạm bẫy, những nguy hiểm, cả ba cõi đang ở trong tình trạng của một ngôi nhà bị cháy, vì vậy mà cả ba cõi đều bất an.
Ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, đầy dẫy những cạm bẫy, những nguy hiểm, cả ba cõi đang ở trong tình trạng của một ngôi nhà bị cháy, vì vậy mà cả ba cõi đều bất an. Trong ví dụ Bụt đưa ra, có một ông trưởng giả tuổi đã lớn, giàu có vô lượng, có nhiều ruộng, nhiều tôi tớ, nhà của ông rất rộng nhưng chỉ có một cái cửa để ra vào, trong đó có rất đông người ở. Tuy giàu nhưng gần trăm năm rồi mà căn nhà chưa được tu bổ, thành ra đã hư nát. Một hôm lửa bừng lên làm cháy nhà. Vị trưởng giả thấy nhà cháy mới nghĩ rằng, nguy quá, ta có nhiều con đang ở trong đó, có thể có 10, 20 người con, hoặc 30 người con đang ở trong đó. Ngày xưa, các trưởng giả có nhiều vợ, cho nên họ có thể có nhiều con, cũng như các vị Vua, mỗi vị có thể có đến ba bốn trăm người con. Ông trưởng giả rất thương con, không muốn con chết cháy, nên tìm cách la lên để các con biết nhà cháy, mà chạy ra. Nhưng mấy đứa bé lại ham chơi, không nghe lời ông, và không muốn chạy ra khỏi cái nhà lửa đó, tại vì trong nhà có nhiều trò chơi, và chính chúng cũng đã tạo thêm nhiều trò chơi ở trong đó. Chúng bị kẹt vào những trò chơi, cho nên dù nhà cháy chúng cũng không biết, và khi nghe người ta nói nhà đang cháy, chúng cũng không sợ, tại vì chúng nó đang mê mệt vào những trò chơi nhỏ bé của chúng trong căn nhà đang bị cháy.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Ba cõi là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, đầy dẫy những cạm bẫy, những nguy hiểm, cả ba cõi đang ở trong tình trạng của một ngôi nhà bị cháy, vì vậy mà cả ba cõi đều bất an. Trong ví dụ Bụt đưa ra, có một ông trưởng giả tuổi đã lớn, giàu có vô lượng, có nhiều ruộng, nhiều tôi tớ, nhà của ông rất rộng nhưng chỉ có một cái cửa để ra vào, trong đó có rất đông người ở. Tuy giàu nhưng gần trăm năm rồi mà căn nhà chưa được tu bổ, thành ra đã hư nát. Một hôm lửa bừng lên làm cháy nhà. Vị trưởng giả thấy nhà cháy mới nghĩ rằng, nguy quá, ta có nhiều con đang ở trong đó, có thể có 10, 20 người con, hoặc 30 người con đang ở trong đó. Ngày xưa, các trưởng giả có nhiều vợ, cho nên họ có thể có nhiều con, cũng như các vị Vua, mỗi vị có thể có đến ba bốn trăm người con. Ông trưởng giả rất thương con, không muốn con chết cháy, nên tìm cách la lên để các con biết nhà cháy, mà chạy ra. Nhưng mấy đứa bé lại ham chơi, không nghe lời ông, và không muốn chạy ra khỏi cái nhà lửa đó, tại vì trong nhà có nhiều trò chơi, và chính chúng cũng đã tạo thêm nhiều trò chơi ở trong đó. Chúng bị kẹt vào những trò chơi, cho nên dù nhà cháy chúng cũng không biết, và khi nghe người ta nói nhà đang cháy, chúng cũng không sợ, tại vì chúng nó đang mê mệt vào những trò chơi nhỏ bé của chúng trong căn nhà đang bị cháy.
Nghe ra thì thấy câu chuyện giống như câu chuyện của con nít, không thật, nhưng nhìn lại tâm trạng và hoàn cảnh của chúng ta, thì ta thấy cái ví dụ này nói đúng được sự thật mà trong đó chúng ta đang lâm vào. Trong cõi tam giới đầy sự bất an như một căn nhà cháy, chúng ta đang tổ chức những cuộc vui, hoặc chúng ta muốn làm Hội trưởng, muốn làm Giám đốc, muốn làm Tổng thống, muốn làm Trú trì, muốn làm Hòa thượng, muốn xây chùa, muốn mua xe hơi đẹp. Chúng ta đang tham đắm vào những kế hoạch này, và những thiết kế nọ. Chúng ta say mê trong những việc đó mà không biết rằng thế giới của chúng ta là một ngôi nhà đang bốc lửa. Nó cũng tương tự như mấy con gà đang bị nhốt trong lồng, đang tranh nhau ăn thóc, ăn bắp và đàm luận với nhau rằng bắp này ngon hay lúa kia ngon hơn, rồi tranh giành, mổ cắn nhau, không biết rằng trong vài giờ nữa chúng sẽ bị đem ra làm thịt. Chúng ta cũng tương tự như vậy, sống trong một thế giới bất an, có thể tan hoại bất cứ lúc nào, đứng về phương diện môi trường, nhân mạng hay chiến tranh. Chúng ta có nhiều sự đe dọa như sự đe dọa của chiến tranh nguyên tử, ngồi trên những trái bom nổ chậm như vậy mà chúng ta vẫn cảm thấy an ổn, và say mê trong những cuộc chơi nho nhỏ của chúng ta. Nếu quí vị nhìn vào kinh và viết lại cái tình trạng tam giới bất an với cái nhận thức trong thế giới hiện tình của mình, thì quí vị sẽ thấy rằng cái ví dụ này nó cực tả được cái tình trạng trong đó chúng ta đang sống.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nghe ra thì thấy câu chuyện giống như câu chuyện của con nít, không thật, nhưng nhìn lại tâm trạng và hoàn cảnh của chúng ta, thì ta thấy cái ví dụ này nói đúng được sự thật mà trong đó chúng ta đang lâm vào. Trong cõi tam giới đầy sự bất an như một căn nhà cháy, chúng ta đang tổ chức những cuộc vui, hoặc chúng ta muốn làm Hội trưởng, muốn làm Giám đốc, muốn làm Tổng thống, muốn làm Trú trì, muốn làm Hòa thượng, muốn xây chùa, muốn mua xe hơi đẹp. Chúng ta đang tham đắm vào những kế hoạch này, và những thiết kế nọ. Chúng ta say mê trong những việc đó mà không biết rằng thế giới của chúng ta là một ngôi nhà đang bốc lửa. Nó cũng tương tự như mấy con gà đang bị nhốt trong lồng, đang tranh nhau ăn thóc, ăn bắp và đàm luận với nhau rằng bắp này ngon hay lúa kia ngon hơn, rồi tranh giành, mổ cắn nhau, không biết rằng trong vài giờ nữa chúng sẽ bị đem ra làm thịt. Chúng ta cũng tương tự như vậy, sống trong một thế giới bất an, có thể tan hoại bất cứ lúc nào, đứng về phương diện môi trường, nhân mạng hay chiến tranh. Chúng ta có nhiều sự đe dọa như sự đe dọa của chiến tranh nguyên tử, ngồi trên những trái bom nổ chậm như vậy mà chúng ta vẫn cảm thấy an ổn, và say mê trong những cuộc chơi nho nhỏ của chúng ta. Nếu quí vị nhìn vào kinh và viết lại cái tình trạng tam giới bất an với cái nhận thức trong thế giới hiện tình của mình, thì quí vị sẽ thấy rằng cái ví dụ này nó cực tả được cái tình trạng trong đó chúng ta đang sống.
Khi ông trưởng giả la lớn lên rằng: "Các con mau mau chạy ra kẻo nguy hiểm lắm! nhà đang cháy, nhà sẽ sập, các con sẽ bị cháy hết". Các con của ông đã không hiểu, vẫn tiếp tục vui chơi, không tin và không sợ. Chúng bảo rằng tại sao phải ra? nhà đẹp vậy tại sao lại gọi là đang bị cháy, có gì nguy hại đâu? và chúng tiếp tục chạy chơi, từ góc này sang góc nọ, tham dự từ trò chơi này đến trò chơi khác. Vì vậy ông trưởng giả rất đau buồn. Đó là tâm trạng của Bụt đối với chúng ta. Trong cơn đau buồn đó, ông trưởng giả mới tìm được một giải pháp, ông nghĩ rằng mấy đứa con này dại quá, chúng ham chơi quá, thành ra bây giờ mình phải dùng một phương tiện để đánh động vào chuyện ham chơi của chúng thì họa may mới cứu được chúng. Biết rằng bọn này ưa chơi xe, nên ông bèn bảo rằng, này các con, bên ngoài kia cha đã sắm được cho các con những chiếc xe rất đẹp, có xe do những con dê kéo, có xe do những con ngựa kéo, có xe do những con lừa kéo, đủ màu, đủ sắc hết. Ra ngoài đó thế nào các con mỗi đứa cũng sẽ được một món quà như món quà sinh nhật vậy. Các con ông nghe vậy thích quá bèn cùng ùa nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Giống hệt như chúng ta vậy! Vì quá ham chuyện này, chuyện kia, nên đối với chúng ta, giải thoát và Niết Bàn cũng chỉ là một thứ xe mình ham, cho nên được hứa hẹn giải thoát và Niết Bàn thì mình cũng muốn chạy theo. Nhờ thấy được cái tâm niệm ham chơi đó của các con, mà vị trưởng giả đã thiết kế được một phương pháp để dụ chúng ra khỏi cái nhà lửa và cứu được chúng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Khi ông trưởng giả la lớn lên rằng: "Các con mau mau chạy ra kẻo nguy hiểm lắm! nhà đang cháy, nhà sẽ sập, các con sẽ bị cháy hết". Các con của ông đã không hiểu, vẫn tiếp tục vui chơi, không tin và không sợ. Chúng bảo rằng tại sao phải ra? nhà đẹp vậy tại sao lại gọi là đang bị cháy, có gì nguy hại đâu? và chúng tiếp tục chạy chơi, từ góc này sang góc nọ, tham dự từ trò chơi này đến trò chơi khác. Vì vậy ông trưởng giả rất đau buồn. Đó là tâm trạng của Bụt đối với chúng ta. Trong cơn đau buồn đó, ông trưởng giả mới tìm được một giải pháp, ông nghĩ rằng mấy đứa con này dại quá, chúng ham chơi quá, thành ra bây giờ mình phải dùng một phương tiện để đánh động vào chuyện ham chơi của chúng thì họa may mới cứu được chúng. Biết rằng bọn này ưa chơi xe, nên ông bèn bảo rằng, này các con, bên ngoài kia cha đã sắm được cho các con những chiếc xe rất đẹp, có xe do những con dê kéo, có xe do những con ngựa kéo, có xe do những con lừa kéo, đủ màu, đủ sắc hết. Ra ngoài đó thế nào các con mỗi đứa cũng sẽ được một món quà như món quà sinh nhật vậy. Các con ông nghe vậy thích quá bèn cùng ùa nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Giống hệt như chúng ta vậy! Vì quá ham chuyện này, chuyện kia, nên đối với chúng ta, giải thoát và Niết Bàn cũng chỉ là một thứ xe mình ham, cho nên được hứa hẹn giải thoát và Niết Bàn thì mình cũng muốn chạy theo. Nhờ thấy được cái tâm niệm ham chơi đó của các con, mà vị trưởng giả đã thiết kế được một phương pháp để dụ chúng ra khỏi cái nhà lửa và cứu được chúng.
Nhờ thấy được cái tâm niệm ham chơi đó của các con, mà vị trưởng giả đã thiết kế được một phương pháp để dụ chúng ra khỏi cái nhà lửa và cứu được chúng. Nhưng khi ra khỏi nhà, chúng nó không thấy xe ngựa, xe lừa gì cả mà chỉ thấy một thứ xe tuyệt vời là xe do những con trâu mập, lông trắng như tuyết, kéo. Đây là loại xe mà chúng không thể tưởng tượng rằng có thể có được trước khi ra khỏi ngôi nhà cháy. Chúng đã tưởng tượng ra những xe kéo bằng các con dê, con lừa, nhưng không bao giờ tưởng tượng được có những chiếc xe đẹp quá chừng như vầy, có những con trâu lông trắng như tuyết kéo như vậy. Thành ra tất cả đều thích chí leo lên chiếc xe trâu đó. Bụt nói thêm: Xá Lợi Phất, có phải vị trưởng giả đó là một người nói dối không? tại sao ông đã hứa cho các con nào là xe dê, xe ngựa, xe lừa, mà bây giờ ông lại cho một thứ xe rất sang trọng do những con trâu trắng kéo? Tại vì ông ta giàu quá cho nên ông nghĩ rằng những đứa con mà mình thương yêu đến mức cùng cực thì chỉ có những chiếc xe lộng lẫy, kéo bằng những con trâu trắng mới xứng đáng là món quà cho chúng. Vì vậy ông chỉ cho chúng một loại xe duy nhất là xe trâu trắng. Vậy thì ông trưởng giả đó có phải là người nó dối không? Thầy Xá Lợi Phất thưa không phải, tại vì do lòng thương nên vị trưởng giả đó mới cho các con mình cái quí giá nhất của mình, như vậy không phải là ông ta nói dối. Sở dĩ ông nói có đủ loại xe như vậy là để cho các con ưa thích thôi.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nhờ thấy được cái tâm niệm ham chơi đó của các con, mà vị trưởng giả đã thiết kế được một phương pháp để dụ chúng ra khỏi cái nhà lửa và cứu được chúng. Nhưng khi ra khỏi nhà, chúng nó không thấy xe ngựa, xe lừa gì cả mà chỉ thấy một thứ xe tuyệt vời là xe do những con trâu mập, lông trắng như tuyết, kéo. Đây là loại xe mà chúng không thể tưởng tượng rằng có thể có được trước khi ra khỏi ngôi nhà cháy. Chúng đã tưởng tượng ra những xe kéo bằng các con dê, con lừa, nhưng không bao giờ tưởng tượng được có những chiếc xe đẹp quá chừng như vầy, có những con trâu lông trắng như tuyết kéo như vậy. Thành ra tất cả đều thích chí leo lên chiếc xe trâu đó. Bụt nói thêm: Xá Lợi Phất, có phải vị trưởng giả đó là một người nói dối không? tại sao ông đã hứa cho các con nào là xe dê, xe ngựa, xe lừa, mà bây giờ ông lại cho một thứ xe rất sang trọng do những con trâu trắng kéo? Tại vì ông ta giàu quá cho nên ông nghĩ rằng những đứa con mà mình thương yêu đến mức cùng cực thì chỉ có những chiếc xe lộng lẫy, kéo bằng những con trâu trắng mới xứng đáng là món quà cho chúng. Vì vậy ông chỉ cho chúng một loại xe duy nhất là xe trâu trắng. Vậy thì ông trưởng giả đó có phải là người nó dối không? Thầy Xá Lợi Phất thưa không phải, tại vì do lòng thương nên vị trưởng giả đó mới cho các con mình cái quí giá nhất của mình, như vậy không phải là ông ta nói dối. Sở dĩ ông nói có đủ loại xe như vậy là để cho các con ưa thích thôi.
Sở dĩ ông nói có đủ loại xe như vậy là để cho các con ưa thích thôi. Bụt bảo rằng: Đúng như vậy, các con của ông có đứa ưa xe này, có đứa ưa xe khác, cho nên ông phải nói rằng nếu con muốn đi xe lừa thì có xe lừa, muốn xe dê thì có xe dê, muốn xe ngựa thì có xe ngựa, có đủ loại hết. Nói vậy là để cho chúng bằng lòng, ruốt cuộc thì vị Trưởng giả chỉ cho một loại xe, loại xe quí nhất, sang trọng nhất do những con trâu trắng kéo. Chúng sanh cũng vậy, họ có thể ưa những chiếc xe Thanh văn Thừa, Duyên giác Thừa, hay Bồ Tát Thừa, nhưng rốt cuộc thì cỗ xe mà Bụt ban tặng là cỗ xe vượt thoát tất cả cỗ xe khác, gọi là cỗ xe Phật Thừa. Thành ra, ta đã không nói dối với các ngươi, tuy rằng ta đã từng nói về ba thừa, nhưng kỳ thật thì chỉ có một thừa thôi. Trang 117 hàng thứ 7, kinh ghi Bụt nói rằng: Bụt là cha của tất cả các loài chúng sanh. Cha ở đây là biểu tượng của tình thương, biết lo lắng cho con, tìm đủ mọi phương tiện để đưa con ra khỏi những hiểm nguy, vì vậy mà có khi ta xưng Bụt là Từ Phụ, tức là người cha hiền. Cố nhiên ta phải so sánh chữ Cha ở đây và chữ Cha dùng trong Cơ đốc giáo, trong danh từ Đức Chúa Cha. Chúng ta thấy rằng chữ cha ở đây nó chỉ có tính cách biểu tượng, không phải là cha đẻ, không phải là đấng sáng tạo. Cũng có những nhà thần học Cơ đốc giáo, nói rằng danh từ Cha trong Cơ đốc giáo cũng chỉ có tính cách biểu tượng thôi. Nếu quả là vậy thì không có gì khác biệt cả. Tuy nhiên có người không nghĩ vậy, họ nghĩ rằng cha là cha, không phải là một biểu tượng.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Sở dĩ ông nói có đủ loại xe như vậy là để cho các con ưa thích thôi. Bụt bảo rằng: Đúng như vậy, các con của ông có đứa ưa xe này, có đứa ưa xe khác, cho nên ông phải nói rằng nếu con muốn đi xe lừa thì có xe lừa, muốn xe dê thì có xe dê, muốn xe ngựa thì có xe ngựa, có đủ loại hết. Nói vậy là để cho chúng bằng lòng, ruốt cuộc thì vị Trưởng giả chỉ cho một loại xe, loại xe quí nhất, sang trọng nhất do những con trâu trắng kéo. Chúng sanh cũng vậy, họ có thể ưa những chiếc xe Thanh văn Thừa, Duyên giác Thừa, hay Bồ Tát Thừa, nhưng rốt cuộc thì cỗ xe mà Bụt ban tặng là cỗ xe vượt thoát tất cả cỗ xe khác, gọi là cỗ xe Phật Thừa. Thành ra, ta đã không nói dối với các ngươi, tuy rằng ta đã từng nói về ba thừa, nhưng kỳ thật thì chỉ có một thừa thôi. Trang 117 hàng thứ 7, kinh ghi Bụt nói rằng: Bụt là cha của tất cả các loài chúng sanh. Cha ở đây là biểu tượng của tình thương, biết lo lắng cho con, tìm đủ mọi phương tiện để đưa con ra khỏi những hiểm nguy, vì vậy mà có khi ta xưng Bụt là Từ Phụ, tức là người cha hiền. Cố nhiên ta phải so sánh chữ Cha ở đây và chữ Cha dùng trong Cơ đốc giáo, trong danh từ Đức Chúa Cha. Chúng ta thấy rằng chữ cha ở đây nó chỉ có tính cách biểu tượng, không phải là cha đẻ, không phải là đấng sáng tạo. Cũng có những nhà thần học Cơ đốc giáo, nói rằng danh từ Cha trong Cơ đốc giáo cũng chỉ có tính cách biểu tượng thôi. Nếu quả là vậy thì không có gì khác biệt cả. Tuy nhiên có người không nghĩ vậy, họ nghĩ rằng cha là cha, không phải là một biểu tượng.
Nếu quả là vậy thì không có gì khác biệt cả. Tuy nhiên có người không nghĩ vậy, họ nghĩ rằng cha là cha, không phải là một biểu tượng. Thường thường trong văn học Phật giáo, Bụt được miêu tả là thầy của loài người và loài trời, thiên nhân sư. Bụt không bao giờ được mô tả là một vị thượng đế tạo dựng ra vũ trụ. Bụt được tôn xưng là một người cha hiền, và ý niệm về cha hiền này phát xuất từ những kinh như kinh Pháp Hoa. Không phải chỉ có người cha mới có thể sinh con, một người thầy cũng có thể sinh con được, một bà mẹ cũng có thể sinh ra con được. Vì vậy mà Bát Nhã Ba La Mật tức là Trí Tuệ Lớn, đôi khi cũng được diễn tả như là bà mẹ của các vị Bụt. Là học trò của Bụt, chúng ta đều là con tinh thần của Bụt. Cha mẹ sinh chúng ta ra, nhưng đó là sanh ra thể chất của chúng ta. Đến khi tu học thì đời sống tâm linh của chúng ta là do Bụt sinh ra. Như vậy chúng ta được Bụt sinh ra một lần nữa, lần này thì ta được sinh ra từ miệng của Bụt, tại vì từ miệng của Bụt phát ra âm thanh của chánh pháp, từ đó ta có đời sống tâm linh. Đó là một hình ảnh rất đẹp, nó cũng có nguồn gốc từ trong truyền thống Ấn độ giáo. Đó là ý nghĩa của chữ Cha trong đạo Bụt, cha mà sanh con ra bằng miệng. Chúng ta biết rằng ý niệm về cha ở trong đạo Bụt không giống ý niệm về cha ở trong Ki-tô giáo.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Nếu quả là vậy thì không có gì khác biệt cả. Tuy nhiên có người không nghĩ vậy, họ nghĩ rằng cha là cha, không phải là một biểu tượng. Thường thường trong văn học Phật giáo, Bụt được miêu tả là thầy của loài người và loài trời, thiên nhân sư. Bụt không bao giờ được mô tả là một vị thượng đế tạo dựng ra vũ trụ. Bụt được tôn xưng là một người cha hiền, và ý niệm về cha hiền này phát xuất từ những kinh như kinh Pháp Hoa. Không phải chỉ có người cha mới có thể sinh con, một người thầy cũng có thể sinh con được, một bà mẹ cũng có thể sinh ra con được. Vì vậy mà Bát Nhã Ba La Mật tức là Trí Tuệ Lớn, đôi khi cũng được diễn tả như là bà mẹ của các vị Bụt. Là học trò của Bụt, chúng ta đều là con tinh thần của Bụt. Cha mẹ sinh chúng ta ra, nhưng đó là sanh ra thể chất của chúng ta. Đến khi tu học thì đời sống tâm linh của chúng ta là do Bụt sinh ra. Như vậy chúng ta được Bụt sinh ra một lần nữa, lần này thì ta được sinh ra từ miệng của Bụt, tại vì từ miệng của Bụt phát ra âm thanh của chánh pháp, từ đó ta có đời sống tâm linh. Đó là một hình ảnh rất đẹp, nó cũng có nguồn gốc từ trong truyền thống Ấn độ giáo. Đó là ý nghĩa của chữ Cha trong đạo Bụt, cha mà sanh con ra bằng miệng. Chúng ta biết rằng ý niệm về cha ở trong đạo Bụt không giống ý niệm về cha ở trong Ki-tô giáo.
Đó là ý nghĩa của chữ Cha trong đạo Bụt, cha mà sanh con ra bằng miệng. Chúng ta biết rằng ý niệm về cha ở trong đạo Bụt không giống ý niệm về cha ở trong Ki-tô giáo. Cái ý niệm tất cả các chúng sanh đều là con của Bụt nó chỉ có một giá trị biểu tượng duy nhất mà thôi, đó là Bụt là một người có lòng thương lớn, lòng thương đó bao trùm tất cả mọi loài, và chính vì chất liệu từ bi đó nên Bụt được nhận là người cha. Danh từ cha ở đây nó chỉ biểu tượng lòng thương mà thôi, nó không biểu tượng cho uy quyền. Người cha này không nổi cơn thịnh nộ, người cha này không trừng phạt, không bỏ mình xuống địa ngục, người cha này chỉ thương mà thôi. Vì thương cho nên bày ra nhiều cách để cứu con, trong đó có những thứ như xe dê, xe lừa, nhưng thật ra, vì thương con quá cho nên trong lòng chỉ muốn cho con thứ xe đẹp nhất mà mình có thể có, đó là xe trâu trắng. Trong phẩm này chúng ta thấy rất rõ là chúng sanh ham vui, chúng sanh mê muội, chúng sanh ham chơi và không thấy được cái nguy hại của tình trạng cháy bỏng trong thế giới. Vì vậy mà Bụt đã dùng đủ mọi cách, trong đó có cả cách dụ con nít, tại vì đối với Bụt, chúng ta chỉ là những đứa con nít mà thôi. Trang 137, bốn hàng chót: Các đức Phật Thế Tôn, Dầu dùng chước phương tiện, Mà chúng sanh được độ, Đều là Bồ Tát cả, có nghĩa là không có đức Bụt nào mà không dùng những phương thức ấy, tại vì chúng sanh dại quá, nếu không dùng chước mà cứ giảng dạy chánh pháp một cách thẳng thừng, thì chúng sanh sẽ không đủ sức để chấp nhận.
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh
Đó là ý nghĩa của chữ Cha trong đạo Bụt, cha mà sanh con ra bằng miệng. Chúng ta biết rằng ý niệm về cha ở trong đạo Bụt không giống ý niệm về cha ở trong Ki-tô giáo. Cái ý niệm tất cả các chúng sanh đều là con của Bụt nó chỉ có một giá trị biểu tượng duy nhất mà thôi, đó là Bụt là một người có lòng thương lớn, lòng thương đó bao trùm tất cả mọi loài, và chính vì chất liệu từ bi đó nên Bụt được nhận là người cha. Danh từ cha ở đây nó chỉ biểu tượng lòng thương mà thôi, nó không biểu tượng cho uy quyền. Người cha này không nổi cơn thịnh nộ, người cha này không trừng phạt, không bỏ mình xuống địa ngục, người cha này chỉ thương mà thôi. Vì thương cho nên bày ra nhiều cách để cứu con, trong đó có những thứ như xe dê, xe lừa, nhưng thật ra, vì thương con quá cho nên trong lòng chỉ muốn cho con thứ xe đẹp nhất mà mình có thể có, đó là xe trâu trắng. Trong phẩm này chúng ta thấy rất rõ là chúng sanh ham vui, chúng sanh mê muội, chúng sanh ham chơi và không thấy được cái nguy hại của tình trạng cháy bỏng trong thế giới. Vì vậy mà Bụt đã dùng đủ mọi cách, trong đó có cả cách dụ con nít, tại vì đối với Bụt, chúng ta chỉ là những đứa con nít mà thôi. Trang 137, bốn hàng chót: Các đức Phật Thế Tôn, Dầu dùng chước phương tiện, Mà chúng sanh được độ, Đều là Bồ Tát cả, có nghĩa là không có đức Bụt nào mà không dùng những phương thức ấy, tại vì chúng sanh dại quá, nếu không dùng chước mà cứ giảng dạy chánh pháp một cách thẳng thừng, thì chúng sanh sẽ không đủ sức để chấp nhận.
Đó là ý nghĩa của hai câu đầu. Bụt bảo rằng, không phải chỉ một mình tôi làm như vậy đâu, các đức Bụt trước tôi, và chính quí vị sau này thành Bụt, quí vị cũng sẽ làm y hệt như tôi vậy, tại vì chúng sanh khờ dại lắm. Hai câu sau nói về một chân lý khác: Mà chúng sanh được độ, đều là Bồ Tát cả, có nghĩa là tuy chúng sanh khờ dại như vậy, ham chơi như vậy, nhưng họ sẽ được độ và tất cả đều trở thành Bồ Tát hết. Vì vậy mà hai ý này là hai ý rất là quan trọng của Phẩm thứ ba, và đây cũng là những ý rất quan trọng của Phẩm thứ hai. Trong đoạn thứ 32 của Phẩm này, Bụt nói chúng sanh vì quá mê mờ nơi ái dục nên bị đau khổ, cho nên Ngài cũng đã từng dạy về Tứ đế, tức là Bốn sự thật. Ở đây Bụt dạy về sự thật thứ ba: Nguồn gốc của mọi đau khổ là tham dục. Nguyên nhân có các khổ: Tham dục là cội gốc. Nếu dứt được tham dục, Khổ không chỗ nương tựa, Dứt hết hẳn các khổ, Gọi là đế thứ ba. Con đường Bốn sự thật này có thể đưa con người xa lìa những hư vọng và nhờ vậy mà họ được giải thoát khỏi mọi khổ đau: Chỉ xa rời hư vọng, Gọi đó là giải thoát, Kỳ thực đó chưa thực sự là giải thoát, đó chỉ là một phần giải thoát mà chưa phải là giải thoát toàn diện: Kỳ thực chưa phải được, Giải thoát hẳn tất cả Nguyên bản chữ Hán là: Đản ly hư vọng, Danh vi giải thoát, Kỳ thật vị đắc, Nhất thiết giải thoát, (chỉ cần lìa xa hư vọng, đó gọi là giải thoát, sự thật là chưa đạt được tới toàn bộ của sự giải thoát).