text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
BBC Earth là một kênh truyền hình thuê bao tài liệu có chương trình thực tế cao cấp. Kênh này hoàn toàn thuộc sở hữu và điều hành bởi BBC Studios. Ban đầu được thiết lập để tung ra quốc tế vào năm 2014, sau đó được thông báo sẽ ra mắt vào năm 2015, bắt đầu từ Ba Lan. Tháng 10 năm 2013, BBC đã thông báo rằng vào năm 2014, họ sẽ giới thiệu thương hiệu mới BBC Earth, BBC First, và BBC Brit, với BBC Earth sẽ được dành riêng cho lập trình thực tế cao cấp. Sau đó đã được thông báo rằng các kênh phát sóng như Frozen Planet và Wonders of the Universe. Ngoài ra, khoảng 30 giờ nội dung mới sẽ được đặt hàng cho kênh trong năm đầu tiên. Kênh được thiết lập để thay thế BBC Knowledge; Tuy nhiên, nếu kênh hiện tại thành công một số thị trường nhất định, kênh có thể tiếp tục hoạt động. Triển khai quốc tế Ba Lan BBC Earth được công chiếu tại Ba Lan vào ngày tháng năm 2015, thay thế cho BBC Knowledge. Vùng Bắc Âu BBC Earth thay thế BBC Knowledge tại Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Iceland vào ngày 13 tháng năm 2015. Hungary BBC Earth thay thế BBC Knowledge vào ngày 14 tháng năm 2015. Romania Vào ngày 14 tháng năm 2015, BBC Earth đã được ra mắt tại Romania, thay thế BBC Knowledge. Thổ Nhĩ Kỳ BBC Earth ra mắt tại Thổ Nhĩ Kỳ, thay thế cho BBC Knowledge, vào ngày 14 tháng năm 2015. Mỹ Latin BBC Earth ra mắt tại các quốc gia Mỹ Latin như Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Cộng hòa Dominican, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru, Uruguay and Venezuela vào ngày thàng năm 2015, thay thế BBC HD. Vào ngày 13 tháng năm 2017, kênh đã ngừng truyền tải chỉ dành cho Mỹ Latin cùng với BBC Entertainment and CBeebies. *Danh sách kênh truyền hình tại Việt Nam BBC Earth Official Website | BBC Earth | |
Công Tôn Thuật (chữ Hán: 公孫述, 24 tháng 12, 36), tên tự là Tử Dương, người huyện Mậu Lăng, quận Phù Phong là thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán. Ông xưng đế được 12 năm (25 36), cát cứ Ích Châu 14 năm (23 36). Thời Hán Ai đế, Thuật nhờ cha là Công Tôn Nhân mà được làm Lang; sau đó Nhân làm Hà Nam đô úy, nên Thuật được bổ làm Thanh Thủy (huyện) trưởng. Vì ông còn nhỏ tuổi, nên Nhân sai Môn hạ duyện (các viên chức cấp phó) của mình đi theo. Hơn tháng, bọn họ xin về, nói với mọi người rằng: "Thuật chẳng cần dạy dỗ nữa!" Về sau thái thú thấy ông có năng lực, sai kiêm cả năm huyện. Thuật sửa sang chính sự, trộm cướp không còn, người trong quận cho là có quỷ thần. Sau khi Vương Mãng soán ngôi, ông làm Đạo Giang tốt chánh (tương đương thái thú), Lâm Cung, lại được tiếng là có năng lực. Khi Canh Thủy đế lên ngôi (23), các nơi khởi binh hưởng ứng, Thuật sai sứ nghênh đón người Nam Dương là Hổ nha tướng quân (tự xưng) Tông Thành Hán Trung. Thành đến Thành Đô, thả cho bộ hạ cướp bóc ngang ngược, ông có ghét, kêu gọi hào kiệt trong huyện khởi binh, trước là dẹp Thành, sau là giúp Hán, được mọi người ủng hộ. Thuật sai người trá làm sứ giả nhà Hán từ phương đông đến, cho ông làm Phụ Hán tướng quân, ban ấn thụ Thục Quận thái thú kiêm Ích Châu mục. Thuật tuyển hơn ngàn tinh binh, tây tiến tấn công Thành. Họ đến Thành Đô, lực lượng lên đến vài ngàn, bèn đánh thành, phá được. Tướng của Thành là Viên Phó giết Thành, đưa quân về hàng. Bản đồ tình hình quần hùng cát cứ cuối thời Tân Mùa thu năm 24, Canh Thủy đế sai Trụ Công hầu Lý Bảo, Ích Châu thứ sử Trương Trung đưa hơn vạn người trấn áp vùng Thục, Hán. Thuật cậy địa thế hiểm yếu, lại được nhiều người giúp rập, có chí tự lập, bèn sai em trai là Khôi Miên Trúc đánh Bảo, Trung, đánh đuổi được, nhờ đó oai lừng Ích Châu. Ông theo lời Công tào Lý Hùng, tự lập làm Thục vương, đóng đô Thành Đô. Đất Thục phì nhiêu, binh lực tinh cường, lắm kẻ sĩ nơi xa xôi theo về, thủ lĩnh các nước nhỏ Cung, Trách đều đến cống hiến. Thuật lại theo lời Lý Hùng, tháng năm 25, tự lập làm Thiên tử, hiệu Thành Gia, màu chủ đạo là trắng, đổi niên hiệu là Long Hưng; lấy Lý Hùng làm Đại tư đồ, em trai Quang làm Đại tư mã, Khôi làm Đại tư không. Đổi Ích Châu làm Tư lệ hiệu úy, Thục Quận làm đô doãn Người Việt Tây là Nhâm Quý giết Đại doãn nhà Tân dâng quận xin hàng. Thuật sai tướng quân Hầu Đan mở Bạch Thủy Quan, chiếm Nam Trịnh phía bắc; tướng quân Nhâm Mãn từ Lãng Trung xuống Giang Châu, ngăn Hãn Quan phía đông. Nhờ đó nắm hết đất đai Ích Châu. Sau khi Canh Thủy đế thất bại, mấy vạn quân của bọn Lữ Vị Quan Trung theo về với Thuật, được phong làm tướng quân. Ông làm doanh lũy lớn, bày ngựa xe, tập luyện chiến đấu; tập hợp mấy chục vạn binh giáp, tích lương Hán Trung, xây cung Nam Trịnh, lại chế tạo thuyền Bạch Lan 10 tầng lầu đỏ (Xích Lâu); khắc ấn chương mục, thú khắp thiên hạ, sắp đặt công khanh trăm quan; sai tướng quân Lý Dục, Trình đưa mấy vạn quân ra Trần Thương, cùng Lư Vị trấn áp Tam Phụ. Năm 27, Chinh tây tướng quân Phùng Dị của nhà Đông Hán đánh bại Vị, Dục Trần Thương, Vị, Dục chạy về Hán Trung. Năm 29, Duyên Sầm, Điền Nhung bị quân Hán đánh bại, đều chạy vào Thục. Khi ấy Thuật bỏ tiền đồng, đặt ra Thiết Quan (để đúc) tiền khiến cho tiền trong tay trăm họ không dùng được. Lòng người dao động, lại nhớ đến nhà Hán. Ông lục lọi trong sách vở xưa, phao lên rằng có sấm ký cho biết vận nhà Hán đã dứt. Quang Vũ đế lo lắng, gửi thư phản bác, Thuật không đáp lại Năm sau (30), Ngôi Hiêu xưng thần với Thuật, quân Hán đã gần dẹp xong phía đông, sắp tây tiến, người Bình Lăng là Kỵ đô úy Kinh Hàm đề nghị phát binh mở rộng địa bàn, những tướng lãnh về hàng là Duyên Sầm, Điền Nhung đều tán đồng, nhưng anh em của ông và quan viên người đất Thục lại phản đối. Cuối cùng Thuật quyết định không phát binh. Thuật tính hà khắc, chấp nhặt, hay giết người vì lỗi nhỏ. Ông cảm thấy giết chóc không đủ oai, bèn đổi tên quận, huyện. Thuật từ thời trẻ làm lang, nắm rõ lễ chế nhà Hán, nên thay đổi cờ xí, kiến trúc cho ra dáng hoàng đế; phong vương cho các con, thực ấp là mấy huyện thuộc các quận Kiền Vi, Quảng Hán. Quần thần can gián, ông không nghe, rồi chỉ tin dùng người họ Công Tôn, khiến mọi người oán thán. Năm 32, quân Hán đánh Ngôi Hiêu, Thuật sai Lý Dục đem hơn vạn người đi cứu. Sau khi Hiêu mất, bộ hạ của ông ta đầu hàng nhà Hán, đất Thục kinh hãi. Phía ngoài Thành Đô có một cái kho cũ được dựng vào đời Tần, bị bỏ không trong suốt đời Tân đến nay, ông đổi tên là kho Bạch Đế. Thuật sai người ngoa truyền rằng kho nứt ra cái hang như cái mả, trăm họ bỏ chợ đi xem. Ông nhân đó nói rằng kho nứt ra cái hang thì cũng như Ngô Hiêu đã bị phá diệt, đều là lời đồn không có căn cứ, như thế tạm yên được lòng người. Ít lâu sau, tướng của Hiêu là Vương Nguyên về hàng, cho làm tướng quân. Năm sau (33), Thuật sai Nguyên và lãnh quân Hoàn An giữ Hà Trì; lại sai Điền Nhung cùng đại tư đồ Nhiệm Mãn, Nam Quận thái thú Trình Phiếm đưa quân xuống Giang Quan, phá bọn Uy lỗ tướng quân Phùng Tuấn, lấy được thành cùng Di Lăng, Di Đạo, nhân đó ngăn giữ Kinh Môn. Năm 35, Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành của Đông Hán đánh Thuật, bọn Mãn đại bại, bộ tướng Vương Chánh chém Mãn để hàng Bành. Điền Nhung chạy đi Bảo Giang Châu. Thành ấp đều mở cửa xin hàng, Bành thẳng tiến đến Vũ Dương. Quang Vũ đế gửi thư khuyên hàng, hứa hẹn rất nhiều, lại khẳng định với ông rằng vua không nói chơi. Thuật xem thư thì than thở, đưa cho thân tín là thái thường Thường Thiếu, quang lộc huân Trương Long cùng xem. Bọn họ khuyên nghe theo, ông nói: "Được mất là do mệnh trời. Nào có thiên tử đầu hàng!" Không ai dám nói gì nữa. Trung lang tướng Lai Hấp đánh gấp Vương Nguyên, Hoàn An, An sai thích khách giết Hấp; Thuật lại lệnh cho hành thích Sầm Bành. Năm 36, tướng Hán là bọn Đại tư mã Ngô Hán, Phụ uy tướng quân Tang Cung đánh bại và giết chết em Thuật là Khôi, rể Thuật là Sử Hưng. Từ đây tướng lãnh của ông sợ hãi, tìm đường bỏ trốn, Thuật dù giết cả nhà họ vẫn không ngăn được. Quang Vũ đế lại hạ chiếu, hết sức khuyên hàng, nhưng ông rốt cục vẫn không chịu. Tháng 9, Ngô Hán chém Đại tư đồ Tạ Phong, Chấp kim ngô Viên Cát của Thuật, rồi tiến đánh Thành Đô. Ông theo kế của Duyên Sầm, đem vàng lụa ra mộ được hơn 5000 lính cảm tử, phối hợp với Sầm Thị Kiều. Quân Thục vờ giương cờ xí, nổi trống khiêu chiến, rồi ngầm tập kích phía sau quân Hán. Ngô Hán ngã xuống nước, nắm đuôi ngựa ngoi lên được, quân Hán thua một trận. Tháng 11, Tang Cung đến Hàm Môn. Thuật xem sách bói, thấy câu "giặc chết dưới thành", mừng lắm, cho rằng có thể địch nổi bọn Ngô Hán. Ngày Mậu Dần (18) tháng 11 (tức 24 tháng 12 theo dương lịch), ông tự đem mấy vạn quân ra đánh, sai Duyên Sầm chống lại Cung. Đôi bên đại chiến, Sầm thắng liền hiệp, nhưng quân Thục không được ăn, trở nên mệt mỏi, quân Hán xông lên, khiến cho quân Thục rối loạn, Thuật bị đâm vào ngực, ngã ngựa, được bộ hạ đưa vào thành. Ông giao lại quân đội cho Duyên Sầm, mất trong đêm. Sáng hôm sau, tức 25 tháng 12 dương lịch, Sầm ra hàng. Ngày Tân Tị (21) tháng 11 (tức 27 tháng 12 dương lịch), Ngô Hán giết cả họ của Thuật và Duyên Sầm, thả cho bộ hạ thiêu rụi cung thất, cướp bóc, hãm hiếp quan dân, không chừa một tội ác nào. Ba ngày sau, Quang Vũ đế gửi thư trách móc phó tướng của Hán là Lưu Thượng, Hán mới khiếp sợ dừng tay. Hậu Hán thư quyển 13, Liệt truyện 3, Công Tôn Thuật truyện Hậu Hán thư, sách đã dẫn: Đất Thục có lời đồng dao rằng: "Bò vàng bụng trắng, Ngũ Thù quay lại." (Nguyên văn: hoàng ngưu bạch phúc, Ngũ Thù đương phục) Người lắm chuyện bàn rằng Vương Mãng xưng "hoàng", Thuật tự đặt hiệu "Bạch", tiền Ngũ Thù do nhà Hán đặt ra, tức là thiên hạ sẽ trở về với họ Lưu. Thuật bày ra chuyện gặp điềm lành, được quỷ thần phù hộ, dẫn sằng sấm ký. Lấy từ ‘Xuân Thu’ của Khổng Tử, rằng Xích chế chia làm 12 công (tước) , nhà Hán cho đến Bình đế cũng được 12 đời , lịch số đã hết, một họ (chỉ họ Lưu) không được thụ mệnh trở lại. Lại dẫn ‘Lục vận pháp’ rằng: "Phế xương đế, lập Công Tôn"; ‘Quát địa tượng’ rằng: "Đế Hiên Viên thụ mệnh, Công Tôn thị ác" (tạm dịch: Hoàng đế Hiên Viên thụ mệnh, họ Công Tôn nắm lấy) ; ‘Viên thần khế’ rằng: "tây thái thủ, ất mão kim" cho rằng viên thái thú phương tây dẹp bỏ "mão kim" . Ngũ đức xoay vần , hoàng (vàng, mệnh Thổ, chỉ Vương Mãng) nối xích (đỏ, mệnh Hỏa, chỉ nhà Hán) mà bạch (trắng, mệnh Kim) kế hoàng, nay phương tây có Bạch đức, nên thay đổi dòng dõi đế vương, chính là hợp lẽ. Lại nói chỉ tay (của mình) có dấu lạ, rồi đến điềm lành rồng trỗi dậy (long hưng). (Thuật) mấy lần gởi thư sang Trung Nguyên, nhằm lay động lòng người. (Quang Vũ) đế lo lắng, viết thư cho Thuật rằng: "Đồ sấm (sấm tranh) nói ‘công tôn’, tức Tuyên đế vậy. Thay nhà Hán là Đương Đồ Cao, anh phải chăng thân thể cao (hơn người)? Còn việc dùng lại điềm lành chỉ tay, Vương Mãng bày trò chưa đủ ư? Anh không phải tặc thần loạn tử của tôi, người trong lúc thiếu chính chắn đều muốn làm vua, sao mà đếm xuể! Anh nay mai mất đi, vợ con còn nhỏ, hãy sớm mà định kế, để không phải lo. Thần khí của thiên hạ, không thể dùng sức mà tranh, nên nghĩ cho kỹ." đề gởi ‘Công Tôn hoàng đế’. Thuật không đáp lại. | Công Tôn Thuật | Quân phiệt đầu đời Đông Hán, Người Thiểm Tây, Năm sinh không rõ, Mất năm 36, Vua Trung Quốc, Nhà Tân |
Pueai Noi () là một huyện (amphoe) vùng tây nam của tỉnh Khon Kaen, đông bắc Thái Lan. Các huyện giáp ranh (từ phía nam theo chiều kim đồng hồ) Nong Song Hong và Ban Phai của tỉnh Khon Kaen, Kut Rang và Na Chueak của tỉnh Maha Sarakham. Tiểu huyện (king amphoe) Phueai Noi đã được thành lập vào ngày 17 tháng năm 1977, với hai tambon Phueai Noi and Wang Muang từ Ban Phai districts. Đơn vị hành chính này đã được nâng cấp thành huyện vào ngày tháng năm 1994. Huyện này được chia ra thành phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia thành 31 làng (muban). Pueai Noi là một thị trấn (thesaban tambon) nằm trên một phần của tambon Phueai Noi and Sa Kaeo. Có Tổ chức hành chính tambon. STT. Tên Tên Thái Số làng Dân số 1. Pueai Noi เปือยน้อย 4.477 2. Wang Muang วังม่วง 6.256 3. Kham Pom ขามป้อม 5.397 4. Sa Kaeo สระแก้ว 3.614 amphoe.com Pueai Noi | Pueai Noi | |
Chó chăn cừu Tatra (, là một giống chó được đưa vào Dãy núi Tatra của miền Nam Ba Lan. Chó chăn cừu Tatra chủ yếu được nuôi để bảo vệ vật nuôi. Bản năng của nó, qua hàng trăm năm sinh sản, là để bảo vệ vật nuôi, mặc dù nó dễ dàng được nuôi như một đàn. Nó là một con chó đồng hành tốt cũng như một con chó canh gác. Nó không phải là một con chó nguy hiểm, mà chỉ là đe dọa. Nó sủa rất lớn. Nó không có những tính khí tương tự của các chó núi khác như Kuvasz, Chó núi Pyrenees hay Maremma Sheepdog. Nó ít xa lánh hơn các giống khác, có khuynh hướng gắn kết tốt hơn vào việc nhân giống của chúng và không thuần hóa hoặc thuần chủng như một số người anh em của chúng. Mỹ, giống chó chăn cừu Tatra được coi là giống hiếm. Nó không được công nhận bởi AKC. nhỏ Chó chăn cừu Tatra, đôi khi được gọi là Owczarek Podhalanski hoặc Polish Mountain Sheepdog, có nguồn gốc từ Podhale, dãy núi Tatra Ba Lan. Loài này đã sống vùng núi Polish trong hàng ngàn năm, nhưng không có ghi chép cụ thể về ngày khởi nguồn của giống. Có một bí ẩn tương tự xung quanh những giống đã được lai tạo để tạo ra giống chó chăn cừu Tatra. Trong khi không ai chắc chắn, nhiều nhà lai tạo chó nói rằng giống chó chăn cừu Tatra được lai từ giống Chó ngao Anh. Loài này rất phổ biến trong số các công nhân leo núi trong nhiều thế kỷ, và cho đến ngày nay. Nó rất phổ biến bởi vì, như tên gọi của nó, nó là một con chó chăn cừu tuyệt vời. Thành công này trong việc chăn cừu là chủ yếu do trí thông minh cao của nó. Khi những kẻ săn mồi xung quanh cừu, Chó chăn cừu Tatra sẽ tập hợp những con cừu và đứng cạnh nó thay vì cố gắng tấn công kẻ săn mồi, điều này sẽ khiến con cừu mở ra các cuộc tấn công khác. Bộ lông trắng của nó cũng khiến chúng dễ phân biệt với một con gấu hay con sói. Ngoài ra, chủ của nó có thể cạo lông chó và sử dụng bộ lông của nó để sản xuất len. Ngoài chăn gia súc, Chúng thường được nuôi để canh gác và thường xuyên bảo vệ các nhà máy và tài sản cá nhân khác. Ngày nay, nó thường được lực lượng cảnh sát nuôi. Sau Chiến tranh thế giới, giống này đứng trước nghi cơ bị tuyệt chủng. Tổ chức Giống chó Thế giới, (FCI), sẽ không cho phép điều này xảy ra, vào những năm 1960 họ bắt đầu chăn nuôi chó chăn cừu ngày càng nhiều. Cách đây nhiều thế kỷ, vì danh tiếng của nó là giống chó chăn cừu tuyệt vời lan rộng, giống này lan truyền chậm trên khắp châu Âu, nhưng vào năm 1980, một nhân viên dịch vụ ngoại giao Mỹ đã đưa giống chó này sang Canada. Mặc dù được sinh sản thường xuyên hơn, giống chó chăn cừu Tatra là một giống rất hiếm. Hiện có khoảng 7500 con chó của giống chó này trên thế giới đã được đăng ký trên Phần lớn vẫn còn Ba Lan, với khoảng 600 con đó, còn Mỹ thì khoảng 300 con. các nước châu Âu khác, chẳng hạn như Pháp, giống này đang phát triển phổ biến, như năm 2003 đã có 150 con sinh đó. Hà Lan hiện có một doanh nghiệp chăn nuôi đang bùng nổ. Khoảng 150 trong số đó vẫn được sử dụng để chăn gia súc. Chó chăn cừu Tatra Chó con chăn cừu Tatra Chiều cao trung bình của con đực là 65–70 cm, trong khi đối với con cái là 60–65 cm. Bộ lông màu trắng tinh khiết có gợn sóng với đầu xoăn. Chó chăn cừu Tatra nói chung là một con chó rất khỏe mạnh với rất ít rủi ro về sức khỏe. Tuổi thọ trung bình của giống này thường là 10-12 tuổi. Như với hầu hết các giống chó lớn khác, chó chăn cừu Tatra có thể bị sản loạn hông. Chó chăn cừu Tatra sẽ không cắn một người lạ hoặc động vật khác trừ khi bị kích động liên tục, khiến nó được coi là rất thân thiện với động vật và chó. Từ hàng ngàn năm bảo vệ cừu, chúng rất thông minh, bình tĩnh và độc lập. Sau hàng ngàn năm chăn nuôi cừu, chó chăn cừu Tatra có một lượng năng lượng tốt và cần một sân rào lớn để chạy vòng quanh. Nó không phải là một con chó căn hộ tốt vì kích thước và lượng năng lượng của nó. Nó không phải là rất tích cực bên trong, nhưng rất tích cực bên ngoài. Đây là lý do tại sao đi dạo liên tục được khuyến khích. Vào cuối mùa xuân và đầu mùa đông, chó chăn cừu Tatrakhoe lông thú của nó một cách thô bạo, nhưng trong thời gian còn lại của năm nó vẫn sạch sẽ, do lớp tự làm sạch của nó. Ngoài ra, giống chó này không chảy nước dãi. Chó chăn cừu Tatra là rất thông minh, độc lập và cần một bàn tay mạnh mẽ để đào tạo. | Chó chăn cừu Tatra | Giống chó |
(tên khai sinh sinh ngày 13 tháng năm 1984) là một nhà văn, cựu diễn viên kiêm người mẫu. Anh xuất hiện trong nhiều bộ phim truyền hình của Nhật, như Hanazakari no Kimitachi e và Zettai Kareshi, trước khi từ bỏ nghiệp diễn xuất để theo con đường viết văn. Anh nổi tiếng với vai diễn chính trong loạt phim tokusatsu Kamen Rider Kabuto. Mizushima sinh Tokyo vào ngày 13 tháng năm 1984. Anh có một người chị. Khi anh lên tuổi, gia đình anh di cư từ Nhật Bản đến Thuỵ Sĩ vì công việc của bố anh. Anh sống Zurich, Thuỵ Sĩ năm, sau đó gia đình anh quay về Nhật Bản Mizushima xuất hiện đầu tiên trên truyền hình Nhật Bản là vào năm 2005, với vai diễn Hiro Misawa, một vai phụ trong mùa của loạt phim Gokusen. Cùng năm đó, anh đóng trong bộ phim Ame to Yume no Ato ni và một vai nhỏ bộ phim của TBS Brother Beat. Năm 2006, Mizushima trở thành nhân vật chính trong seri Kamen Rider Kabuto và bộ phim điện ảnh Kamen Rider Kabuto: God Speed Love. Anh cũng xuất hiện trong phim khác vào năm đó. Đầu năm 2007, Mizushima bắt đầu đảm nhận các vai lớn trong các tác phẩm nổi tiếng, như vai trong Hanazakari no Kimitachi e và vai chính Soshi Asamoto trong Zettai Kareshi. Mizushima cũng lồng tiếng Bruce Banner trong bộ phim được lồng tiếng Nhật The Incredible Hulk. Tháng 9, 2010, Mizushima rời khỏi công ty quản lý của mình, Ken-on, để theo đuổi sự nghiệp viết văn. Nhiều tuần sau đó, vào ngày 31 Tháng 10, 2010, Mizushima đã giành giải 5th Poplar Publishing Grand Prize for Fiction và nhận khoảng tiền 20 triệu yên Nhật cho tác phẩm đầu tay của mình, Kagerou, mà anh viết với bút danh Mizushima cho biết sẽ từ chối khoản tiền này. Sau năm theo đuổi nghiệp viết văn anh quyết định trở lại với nghiệp diễn. Bộ phim đánh dấu sự trở lại của anh là black butler (hắc quản gia) công chiếu vào năm 2014 Mizushima thông thạo cả Tiếng Nhật lẫn Tiếng Anh. Anh kết hôn với ca sĩ nhạc pop Ayaka ngày 22 tháng năm 2009 sau nhiều tháng hẹn hò. Mizushima đã tốt nghiệp từ Đại học Keio. *Gokusen (season 2) vai Hiro Misawa (2005) *Ame to Yume no Ato ni (tập 7) (2005) *Brother Beat vai Yoshi (2005) *Pink no Idenshi (tập 3) vai Ikushima Mizuki (2005) *Kamen Rider Kabuto vai Tendou Souji/Kusakabe Souji (2006) *Kanojo to no Tadashii Asobikata vai Fujiki Kyouji (2007) *Watashitachi no Kyokasho vai Yahata Daisuke (2007) *Hanazakari no Kimitachi e vai Nanba Minami (2007) *Gutannubo (Gout Temps Nouveau) Drama Special (2007) *Churaumi Kara no Nengajo vai Miyashita Kota (2007) *Zettai Kareshi vai Asamoto Soshi (2008) *Room of King as Moriji/Mori Jirou (2008) *Mei-chan no Shitsuji vai Shibata Rihito (2009) *Mr. Brain vai Hayashida Toranosuke (TBS, 2009) *Tokyo Dogs vai Maruo Kudo (Fuji TV, 2009) *Hatsukare vai Ibushi (2006) *Lovely Complex vai Ryoji Suzuki (2006) *Kamen Rider Kabuto: God Speed Love (2006) *100 Scene no Koi (2007) *GS Wonderland (2008) *Drop (Tháng 3, 2009) *BECK: Mongolian Chop Squad (2010) black butler(2014) *The Incredible Hulk (2008) Bruce Banner *Kagerou (2010) ISBN 978-4591122457 | null | Người Tokyo, Nhà văn Tokyo, Sinh năm 1984, Nhân vật còn sống, Cựu sinh viên Đại họcKeio, Nam diễn viên Nhật Bản, Diễn viên truyền hình Nhật Bản, Nam diễn viên từ Tokyo, Nhà văn từ Tokyo |
Michael Oliver (sinh ngày 20 tháng năm 1985) là một trọng tài chuyên nghiệp người Anh đến từ Ashington, Northumberland. Oliver thuộc Hiệp hội bóng đá Northumberland trực thuộc Liên đoàn Bóng đá Anh (FA). Oliver đã từng điều khiển các trận đấu: Siêu cúp Anh 2014, Chung kết World Cup U17 năm 2015, chung kết Cúp Liên đoàn Anh 2016, Chung kết Cúp FA 2018 và 2021. Ngày 11 tháng năm 2018, Oliver đã gây tranh cãi khi thổi cho Real Madrid quả phạt đền phút bù giờ hiệp hai trận lượt về tứ kết UEFA Champions League mùa giải 2017-18 (khi tỷ số lượt trận là 3-3), rút thẻ đỏ truất quyền thi đấu của thủ thành Gianluigi Buffon, sau đó Cristiano Ronaldo bên phía Real thực hiện thành công và chấm dứt hy vọng đi tiếp của Juventus. Sau trận đấu, anh đã bị Buffon chỉ trích thậm tệ. Siêu cúp Anh 2014 Ngày Trận SVĐ 10 tháng năm 2014 Arsenal Manchester City Sân vận động Wembley Chung kết Cúp EFL 2016 Ngày Trận SVĐ 28 tháng năm 2016 Liverpool Manchester City Sân vận động Wembley Chung kết Cúp FA 2018 Ngày Trận SVĐ 19 tháng năm 2018 Chelsea Manchester United Sân vận động Wembley Chung kết Cúp FA 2021 Ngày Trận SVĐ 15 tháng name 2021 Chelsea Leicester City Sân vận động Wembley *Mark Clattenburg Refworld.com Michael Oliver Referee Statistics at soccerbase.com | Michael Oliver | |
Makarba là một thị trấn thống kê (census town) của quận Ahmadabad thuộc bang Gujarat, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Makarba có dân số 18.090 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Makarba có tỷ lệ 60% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 69%, và tỷ lệ cho phái nữ là 51%. Tại Makarba, 16% dân số nhỏ hơn tuổi. | Makarba | |
Hồ Peipus, (; ozero), là hồ nước xuyên biên giới lớn nhất châu Âu trên biên giới giữa Estonia (một phần của liên minh châu Âu và Nga. Hồ lớn thứ năm châu Âu sau hồ Ladoga và hồ Onega Nga phía bắc St. Petersburg, hồ Vänern Thụy Điển, và hồ Saimaa Phần Lan. Hồ Peipus là một phần còn lại của một khu vực nước đã tồn tại khu vực này từ Thời kỳ Băng hà. Hồ có diện tích 3.555 km², và có độ sâu trung bình 7,1 m, điểm sâu nhất là 15 m. Hồ có nhiều đảo và có phần: *Hồ (, phần phía bắc của hồ với diện tích 2.611 km² (73%). *Hồ (, phần phía nam của hồ (với diện tích 708 km² hay 20%). *'''Hồ (, eo nối hai phần hồ diện tích 236 km² hay 7%. Hồ này được sử dụng để đánh bắt và giải trí, nhưng lại bị suy thoái môi trường từ thời đại nông nghiệp của Liên Xô. Có khoảng 30 con sông và suối đổ vào hồ Peipus. Các con sông lớn nhất là Emajõgi và sông Velikaya. Trong 1242, hồ là các nơi diễn ra trận chiến trên băng (Estonian: Jäälahing) giữa các Hiệp sĩ Teutonic và người Novgorodia dưới sự chỉ huy của Alexander Nevsky. 360° aerial panorama of Peipus and Piirissaar Peipsi Infokeskus Estonian tourist information website Settlements in the vicinity of Lake Peipsi Estonica | Hồ Peipus | Hồ Estonia, Hồ Nga |
Onychomys torridus là một loài động vật có vú trong họ Cricetidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Coues mô tả năm 1874. Loài chuột này được tìm thấy Mexico và Arizona, California, Nevada, New Mexico, Utah và tại Hoa Kỳ. Loài này có khả năng chống chịu với nọc độc, và thường giết chết và ăn bọ cạp vỏ cây Arizona, một loài bọ cạp có nọc rất độc. | ''Onychomys torridus | Onychomys, Động vật được mô tả năm 1874 |
Tillandsia compacta là một loài thuộc chi Tillandsia. Đây là loài bản địa của Bolivia, Venezuela và Ecuador. Checklist of Bolivian Bromeliaceae Truy cập 21 tháng 10 năm 2009 Checklist of Venezuelan Bromeliaceae with Notes on Species Distribution by State and Levels of Endemism truy cập tháng 11 năm 2009 Catalogue of Vascular Plants of Ecuador Truy cập 12 tháng 10 năm 2009 | ''Tillandsia compacta | |
Jamestown có thể chỉ đến: *Jamestown, South Australia *Holetown tại Saint James đôi khi được gọi là Jamestown *Jamestown, Laois *Jamestown, County Leitrim *Jamestown, Saint Helena *Jamestown, tỉnh Eastern Cape *Jamestown, tỉnh Western Cape, Stellenbosch còn gọi là Webersvalley *Jamestown, Rossshire, Scotland *Jamestown, West Dunbartonshire, Scotland *Jamestown, Fife, Scotland Jamestown, California Jamestown, Colorado Jamestown, Indiana, tại Quận Boone Jamestown, Quận Elkhart, Indiana Jamestown, Kansas Jamestown, Kentucky Jamestown, Louisiana Jamestown, Missouri Jamestown, New York Jamestown, Bắc Carolina Jamestown, Bắc Dakota Jamestown, Ohio Jamestown, Oklahoma Jamestown, Pennsylvania Jamestown, Rhode Island Jamestown, Nam Carolina Jamestown, Tennessee Jamestown, Virginia Jamestown, Tây Virginia Jamestown, Wisconsin James Town, Wyoming Xã Jamestown, Quận Steuben, Indiana Xã Đặc quyền Jamestown, Michigan Xã Jamestown, Minnesota Tiểu thuyết Jamestown năm 2007 của Matthew Sharpe | Jamestown | |
Dewoitine D.1 là một loại máy bay tiêm kích một chỗ của Pháp trong thập niên 1920, do công ty công nghiệp Dewoitine phát triển. ;D.1.01 ;D.1bis ;D.1ter ;D.1 ;AC.2 *Hải quân Pháp *Regia Aeronautica *Không quân Thụy Sĩ *Không quân Hoàng gia Nam Tư | Dewoitine D.1 | Máy bay quân sự Pháp thập niên 1920 D.001, Máy bay cánh trên, Máy bay Ansaldo, Máy bay chiến đấu, Máy bay tiêm kích Pháp, Máy bay một động cơ cánh quạt |
Tập tin:Banded iron sắt (hệ tầng sắt phân dải) Tập Mangan Tập chì Tập vàng Tập chở quặng từ mỏ trưng bày bảo tàng khai thác mỏ Pachuca, México Quặng là các loại đất đá chứa khoáng chất như kim loại hoặc đá quý, được khai thác từ mỏ và chế biến để sử dụng. Mức độ tập trung khoáng vật quặng, kim loại, cũng như dạng xuất hiện của chúng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí khai thác quặng. Chi phí tách quặng phải tính đến giá trị kim loại chứa trong đá để xác định loại quặng nào khi khai thác có khả năng mang lại lợi nhuận và không có lợi. Các quặng kim loại thường là các oxide, sulfide, silicat, hoặc kim loại "tự sinh" (như đồng tự sinh) là những khoáng vật không tập trung phổ biến trong vỏ Trái Đất hoặc các kim loại "quý" (ít gặp dạng hợp chất) như vàng. Các quặng phải được xử lý để tách các kim loại cần lấy ra khỏi đá. Các thân quặng được hình thành bởi nhiều quá trình địa chất khác nhau gọi là quá trình sinh quặng. Quặng vàng được hiểu là các lớp bồi tích của vỏ Trái Đất sau sự vận động trong lòng đất và nhiệt độ nóng chảy phù hợp các nguyên tố vàng được liên kết với nhau và bị kéo dài theo sự vận động của vỏ Trái Đất. Vỉa vàng thường có hai loại, vỉa đứng và vỉa nằm. Quặng vàng thường có hai loại chính là quặng vàng và quặng kim loại vàng. Quặng vàng là quặng mà vàng đã đạt độ tinh khiết từ 75 đến 95%. Quặng loại này đã bị nóng chảy từ trong lòng đất và được đẩy lên theo sự vận động của vỏ Trái Đất. Có màu vàng dạng như kim tuyến hay như hạt tấm. Quặng kim loại vàng Việt Nam thường là quặng đa kim. Vàng chưa bị nóng chảy nên bị lẫn trong các kim loại khác như đồng, sắt, bạc... Để khai thác quặng vàng loại này người ta phải dùng đến các phương pháp tuyển vàng khác nhau, tùy theo tính chất của mỗi loại quặng bị nhiễm vàng. Kinh tế địa chất Phân cấp tài nguyên khoáng sản Sinh quặng Thạch học | Quặng | Kinh tế địa chất, Khai thác mỏ |
JDS Amatsukaze (DDG-163) (tiếng Nhật: あまつかぜ (護衛艦) là một tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây cũng là tàu chiến đầu tiên của Nhật Bản được trang bị tên lửa đất đối không. Tháng 11 năm 1957, trong một cuộc gặp mặt tại Tokyo, Tham mưu trưởng Lực lượng Phòng vệ trên Biển Nhật Bản Hiroshi Nagasawa đã đề cập với người đồng cấp Liên bang Mỹ Arleigh Burke về việc Mỹ chuyển giao cho JMSDF các loại tên lửa phòng không tiên tiến. Sau nhiều cuộc đàm phán liên tục, Nhật Bản đã rất khó khăn mới có thể nhận được sự đồng của Chính phủ Mỹ. Năm 1958, một thỏa thuận hợp tác quốc phòng đã được Quốc hội Mỹ thông qua. Sự kiện này đánh dấu Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia đồng minh đầu tiên của Mỹ được trang bị hệ thống RIM-24B Tartar của Mỹ (một trường hợp khác là lớp tàu khu trục T-47 của Pháp). Trong hai năm 1958 1959, JMSDF đã cử nhiều binh sĩ sang Mỹ tham gia các khóa huấn luyện cách vận hành hệ thống tên lửa đất đối không RIM-24B Tartar. Chương trình phát triển tàu khu trục mới đã được Chính phủ Nhật tiến hành phê chuẩn ngân sách tài chính vào năm 1960 (Chiêu Hòa 35) được định danh là lớp Amatsukaze. Thân tàu được đóng mới bởi Nhà máy đóng tàu và máy móc Nagasaki thuộc Mitsubishi Heavy Industries. Dự án đóng mới được khởi công ngày 29 tháng 11 năm 1962. Tàu được hạ thủy vào ngày tháng 10 năm 1963 và đi vào hoạt động ngày 15 tháng năm 1965, sau đó nó được biên chế cho Hải đoàn hộ vệ số 1. Ban đầu, Amatsukaze dự định được đóng như một biến thể tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) dựa trên nền tảng của lớp Akizuki. Nhật Bản sẽ đảm nhận phần đóng tàu, phía Mỹ lắp đặt các trang thiết bị điện tử và hệ thống vũ khí. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 1962, khi chương trình được bắt đầu, một vấn đề kỹ thuật nghiêm trọng đã xảy ra, hệ thống Tartar hóa ra lớn hơn so với các dự kiến của các kỹ sư JMSDF. Để khắc phục, phía Nhật đã cho thiết kế lại mới hoàn toàn Amatsukaze. Phần thân của tàu được mở rộng để lắp đặt các hệ thống vũ khí và hệ thống động lực 60.000 mã lực mới, cấu trúc thượng tầng được thiết kế lại dựa trên thiết kế của lớp Isuzu. Lượng giãn nước của tàu cũng vì thế mà tăng thêm khoảng 400 tấn so với ban đầu. Ngoài ra, do gánh nặng tài chính của các hệ thống vũ khí mới nên gần như phần lớn các thiết bị điện tử đều được Nhật Bản tận dụng lại từ thiết kế của lớp Ayanami. Hệ thống vũ khí RIM-24B Tatar đã để lại ấn tượng tích cực mạnh lên JMSDF, nhưng nó quá đắt đỏ để có thể trang bị cho chiếc DDG thứ hai. Sau đó, JMSDF đã phải chờ thêm 10 năm để đóng mới thêm tàu thứ hai của lớp này. Tuy nhiên, trong quá trình đóng, phát hiện ra là thiết kế của tàu có khả năng để tiếp tục phát triển. Kết quả là các tàu còn lại thuộc lớp Amatsukaze đã tiến hành cải tiến, nâng cấp và được đổi tên thành tàu khu trục lớp Tachikaze left Hệ thống tên lửa đất đối không tầm ngắn RIM-24 Tartar là hệ thống vũ khí chính của tàu, tên lửa được phóng từ bệ phóng Mk-13 mod nòng đôi bố trí phía sau đuôi tàu. Tên lửa Tartar được điều khiển bởi hệ thống kiểm soát tên lửa Mk-74 và radar kiểm soát hỏa lực AN/SPG-51B. Hệ thống cảm biến của tàu bao gồm radar cảnh giới trên không 3D AN/SPS-39 được lắp đặt phía trước ống khói thứ hai của tàu và radar tìm kiếm trên không tầm xa AN/SPS-29A lắp đặt phía trước của ống khói đầu tiên. Các radar này tạo thành một hệ thống tích hợp được kết nối trực tiếp với nhau bằng điện, đây là một bước đột phá, trái ngược với tất cả các hệ thống vũ khí khác thời đó được kết nối thông qua liên lạc nội bộ và vận hành bằng sức người. Thoạt tiên, Amatsukaze dự định được trang bị pháo hạm Mk-42 mod của Mỹ; nhưng sau đó, do vấn đề ngân sách, hai pháo phòng không nòng đôi Type 57 76mm và radar điều khiển hỏa lực Mk-63 mod 14 đã được bổ sung để thay thế. Về chống ngầm, tàu được lắp đặt các hệ thống sonar AN/SQS-4 và AN/SQR-8. AN/SQS-4 hoạt động trên tần số 14 kHz, cho phép phát hiện mục tiêu khoảng cách 4.600 mét, tại Mỹ các khu trục hạm lớp Dealey đã được trang bị loại sonar này vào năm 1954. Tàu còn được trang bị bệ súng cối chống ngầm Mk-15 Hedgehog xoay được và bệ phóng ngư lôi tầm ngắn ba ống phóng Mk-2 (dùng cho ngư lôi Mk-32).Trong tác chiến điện tử, tàu được lắp đặt hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ESM NOLR-1B do NEC sản xuất. NOLR-1B được dùng để dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu gây khó khăn cho đối phương trong việc phát hiện và tấn công tàu. = Tronh gia đoạn 1967-1968, các hệ thống AN/SQS-4 và AN/SQR-8 đã được loại bỏ và được thay thế bằng hệ thống sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm AN/SQS-23. AN/SQS-23 là loại sonar hoạt động trên tần số thấp. Anten của AN/SQS-23 được được gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước mũi tàu, anten được tách rời khỏi các khoang trên tàu bằng bộ phận cách âm, giảm tối thiểu nhiễu thủy âm khi sonar hoạt động. Ngoài ra, để tăng cường khả năng chống ngầm, các hệ thống vũ khí chống ngầm cũ được thay bằng cụm phóng ngư lôi với ống phóng 324mm Type 68 sử dụng ngư lôi Mk-46 và hệ thống ống phóng Mk-112 (tương thích với tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC), trong đó các cụm ống phóng có thể nâng hạ gần thẳng đứng để phóng tên lửa chống ngầm. = Radar cảnh giới trên không 3D AN/SPS-39 được thay thế bằng loại AN/SPS-39A. Ngoài ra, radar kiểm soát hỏa lực AN/SPG-51B cũng được thay thế bằng AN SPG-51C để tương thích với hệ thống tên lửa RIM-66A SM-1A mới. 1977-78 Chiêu Hòa 52-53 Các hệ thống kiểm soát tên lửa cũ được thay thế bằng các hệ thống Mk-152 và Mk-118 mới. = Trong các chương trình nâng cấp vào thập niên 1980, với sự phát triển của lớp tàu khu trục Hatsuyuki, nhiều hệ thống điện tử và vũ khí mới của lớp tàu này đã được tích hợp cho tàu Amatsukaze. Radar điều khiển hỏa lực FCS-2-21D do Nhật tự sản xuất trong nước được lắp đặt thay thế cho các hệ thống của Mỹ. Hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ESM NOLR-1B được thay thế bằng tổ hợp các hệ thống chiến tranh điện tử tích hợp ESM NOLR-6C, OLT-3 ECM và radar cảnh báo OLR-9B. Các hệ thống này được kết nối với nhau để thực hiện việc dò tìm tín hiệu vô tuyến phát từ radar tàu và tên lửa đối phương, đồng thời phát tín hiệu gây nhiễu làm nhiễu đầu dò radar của tên lửa chống hạm, khiến chúng bám theo các mục tiêu ảo hoặc giảm tầm hiệu quả của đầu dò, cho phép tàu tránh được tên lửa. Các hệ thống này thường kết hợp với hệ thống mồi bẫy Mk-36 SRBOC. Cơ chế hoạt động của nó là phóng ra các rocket thả lá nhôm, tạo ra mục tiêu giả, gây nhầm lẫn cho đầu dò của tên lửa đang hướng đến. Ngoài ra, anten của hệ thống liên lạc vệ tinh SUPERBIRD cũng được lắp đặt trong đợt bảo trì thường niên vào năm 1990. Hệ thống động lực của tàu khu trục lớp Amatsukaze gồm động cơ tuabin hơi nước IHI GE trục và nồi hơi IHI Model FWD2, có tổng công suất 60.000 mã lực. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt máy phát điện diesel và máy phát điện tuabin hơi nước công suất 250 kVA, bên cạnh đó còn có máy phát điện diesel phụ trợ, giúp tàu có thể hoạt động trong điều kiện không thể sử dụng các động cơ chính. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa 32 hải lý/giờ, phạm vi hoạt động 6000 hải lý với tốc độ 20 hải lý/giờ. Tàu Amatsukaze được đóng mới bởi Nhà máy đóng tàu và máy móc Nagasaki thuộc Mitsubishi Heavy Industries. Dự án đóng mới được khởi công ngày 29 tháng 11 năm 1962. Tàu được hạ thủy vào ngày tháng 10 năm 1963 và đi vào hoạt động ngày 15 tháng năm 1965, sau đó nó được biên chế cho Hải đoàn hộ vệ số 1. Từ ngày tháng đến ngày 31 tháng cùng năm, tàu tham gia tập trận tại Guam cùng với các tàu JDS Haruna, JDS Mochizuki và JDS Nagatsuki. Tham gia Cuộc tập trận RIMPAC 1980 từ ngày 26 tháng đến ngày 18 tháng 3, cuộc tập trận chung đầu tiên của JMSDF, với tàu JDS Hiei và máy bay tuần thám P-2J. Tàu quay trở lại Nhật Bản vào ngày tháng 4. Từ ngày tháng đến ngày 31 tháng năm 1992, tham gia tập trận tại Philippines cùng với các tàu JDS Setoyuki JDS Asayuki và JDS Mineyuki . Được loại khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 29 tháng 11 năm 1995. Sau đó, tàu bị đánh chìm bằng tên lửa chống hạm ngoài khơi Vịnh Wakasa. Hiện nay, một chân vịt của tàu đang được trưng bày tại Quân đoàn Huấn luyện Yokosuka, chân vịt mạn phải được đặt tại Căn cứ hải quân Yokosuka và mỏ neo được đặt tại Căn cứ hải quân Maizuru. Tập tin:JDS Shikinami Shikinami (DD-106) và JDS Amatsukaze (DDG-163). Tập tin:Main Anchor of JS at JMSDF Maizuru Naval Base July 27, 2014.jpg|Mỏ neo của JDS Amatsukaze được trưng bày tại Căn cứ Hải quân Maizuru. Tập tin:Screw of JS at JMSDF Yokosuka Naval Base June 1, 2008.jpg|Chân vịt mạn phải của JDS Amatsukaze được trưng bày tại Căn cứ Hải quân Yokosuka. | JDS ''Amatsukaze'' (DDG-163) (tiếng Nhật: あまつかぜ (護衛艦) | Lớp tàu khu trục |
Asplenium aprutianum là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Lovis mô tả khoa học đầu tiên năm 1966. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Asplenium aprutianum | Asplenium, Unresolved names |
Sonia Picado Sotela, (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1936, San José, Costa Rica), là một luật gia Costa Rica, chính trị gia và giáo sư đại học có kinh nghiệm trong lĩnh vực nhân quyền. Sotela đã giữ các chức vụ trong Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ, bao gồm Giám đốc Nội bộ (1983-1984); Giám đốc điều hành Attaches (1984-1987) và Giám đốc điều hành (1987-1994). Hiện tại, bà đang nắm giữ chức chủ tịch của IACHR, người phụ nữ đầu tiên tổ chức cuộc hẹn này. Trước đây, bà đã thành lập một phần của Tòa án Nhân quyền liên Mỹ, trong đó bà là một thẩm phán và, từ năm 1988 đến 1994, phó chủ tịch. Tương tự như vậy, bà là thành viên của Hội đồng quản lý trong an ninh con người của Liên hợp quốc, Tòa án Trọng tài thường trực tại Hague, và đối thoại liên Mỹ. Bà cũng từng là đại sứ của Costa Rica tại Hoa Kỳ từ năm 1994 đến năm 1998 và Nhà lập pháp năm 1998-2002 bởi Đảng Giải phóng Quốc gia. Từ đây, bà đã thực hiện các cuộc chiến quan trọng để kết hợp quan điểm giới tính với các dự án luật riêng biệt và thúc đẩy các lợi ích khác cho phụ nữ Costa Rica. Bà có một con đường được công nhận là người bảo vệ quyền con người, đặc biệt là trong việc thúc đẩy và đấu tranh để cải thiện nhân quyền cho phụ nữ. Ngoài nhiều bài báo được công bố cấp quốc gia và quốc tế, kiến của bà đã được thể hiện trong các tác phẩm sau: "Political Participation of Woman: challenge yesterday, today and always" (2001), "Woman and Politics" (2002) và "Human Security and Human rights" (2003). Hệ thống Nhân quyền liên Mỹ Tòa án Trọng tài thường trực, The Hague Đảng Giải phóng Quốc gia (Costa Rica) Giải thưởng Liên hợp quốc trong lĩnh vực Nhân quyền Tòa án Nhân quyền liên Mỹ Đối thoại giữa Mỹ Tiểu sử của Sonia Hammered Sotela trong trang INAMU, CR Dẫn trước bởi: Edelberto Castiblanco Vargas 1994-1998 Đại biểu Hội đồng lập pháp Costa Rica (9º địa điểm của tỉnh Saint José) 1998-2002 Thành công bởi: Epsy Campbell Barr 2002-2006 | Sonia Picado Sotela | Sinh năm 1936, Nữ chính khách Costa Rica, Nhân vật còn sống |
Weir là một thành phố thuộc quận Williamson, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 450 người. *Dân số năm 2000: 591 người. *Dân số năm 2010: 450 người. American Finder | Weir | |
là một thị xã panchayat của quận Tiruchirappalli thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Uppiliapuram có dân số 6697 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Uppiliapuram có tỷ lệ 65% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 74%, và tỷ lệ cho phái nữ là 55%. Tại Uppiliapuram, 10% dân số nhỏ hơn tuổi. | null | |
Liên đoàn bóng đá Brasil (CBF) (tiếng Bồ Đào Nha: Confederação Brasileira de Futebol) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá nước Brasil. CBF quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Brasil, Cúp bóng đá Brasil,.... Trụ sở của CBF Barra da Tijuca, gần Rio de Janeiro. *Álvaro Zamith (từ 20 tháng 11 năm 1915 đến tháng 11 năm 1916) *Arnaldo Guinle (từ tháng 11 năm 1916 đến tháng năm 1920) *Ariovisto de Almeida Rego (từ tháng năm 1920 đến 26 tháng năm 1921) *Oswaldo Gomes (từ 26 tháng năm 1921 đến 26 tháng năm 1924) *Ariovisto de Almeida Rego (từ 26 tháng năm 1924 đến 20 tháng năm 1924) *Wladimir Bernades (từ 20 tháng năm 1924 đến 19 tháng 12 năm 1924) *Oscar Rodrigues da Costa (từ 19 tháng 12 năm 1924 đến 13 tháng 10 năm 1927) *Renato Pacheco (từ 13 tháng 10 năm 1927 đến 23 tháng năm 1933) *Álvaro Catão (từ 23 tháng năm 1933 đến tháng năm 1936) *Luiz Aranha (từ tháng năm 1936 đến 28 tháng năm 1943) *Rivadávia Correa Meyer (từ 28 tháng năm 1943 đến 14 tháng năm 1955) *Sylvio Correa Pacheco (từ 14 tháng năm 1955 đến 14 tháng năm 1958) *João Havelange (từ 14 tháng năm 1958 đến 10 tháng năm 1975) *Heleno de Barros Nunes (từ 10 tháng năm 1975 đến 18 tháng năm 1980) *Giulite Coutinho (từ 18 tháng năm 1980 đến 17 tháng năm 1986) *Otávio Pinto Guimarães (từ 17 tháng năm 1986 đến 16 tháng năm 1989) *Ricardo Terra Teixeira (từ 16 tháng năm 1989 đến tháng 1, 2008) Trang chủ của Liên đoàn bóng đá Brasil (tiếng Bồ Đào Nha) Brasil | Liên đoàn bóng đá Brasil | Bóng đá Brasil, Brasil năm 1914 |
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1945: tháng Luftwaffe bắt đầu tấn công các sân bay của quân Đồng minh tại châu Âu trong "Chiến dịch Bodenplatte". 13 tháng 2-15 Máy bay ném bom của Đồng minh tấn công Dresden bằng các vũ khí gây cháy, phá hủy phần lớn thành phố và giết chết khoảng 50.000 người. 21 tháng Tàu sân bay USS Saratoga bị hư hại nặng bởi một cuộc tấn công do một kamikaze thực hiện. 13 tháng 3-14 Một chiếc Avro Lancaster thuộc Phi đội số 617 RAF thả quả bom Grand Slam nặng 22.000 lb (9.980 kg) lần đầu tiên. 21 tháng Loại vũ khí dành riêng cho các phi đội kamikaze, Ohka được sử dụng trong các cuộc tấn công lần đầu tiên, nhưng không thành công. 27 tháng Quả tên lửa V-2 cuối cùng tấn công vào Anh rơi xuống Kent. tháng Những chiếc Ohka làm tàu USS West Virginia và chiếc tàu hộ tống bị thương. 10 tháng Luftwaffe thực hiện chuyến bay xuất kích cuối cùng trên bầu trời nước Anh (với một chiếc Arado Ar 234 trong một nhiệm vụ do thám). 12 tháng Tàu USS Mannert L. Abele bị đánh đắm bởi một chiếc Ohka. 23 tháng Hải quân Hoa Kỳ sử dụng bom dẫn đường bằng radar đầu tiên, loại SWOD-9 "Bat", thả xuống từ những chiếc máy bay ném bom Consolidated PB4Y, vào tàu thuyền của Nhật trong cảng Balikpapan. Phi công "át" của Đức, một trong những người hạ nhiều máy bay nhất, Erich Hartmann đầu hàng quân Đồng minh. tháng Không quân Hoàng gia đánh chìm chiếc tàu ngầm cuối cùng của Đức trong chiến tranh. tháng VE Day Đức đầu hàng, kết thúc chiến tranh châu Âu. *12 tháng Hãng hàng không Eastern Air Lines thực hiện một chuyến bay từ Boston, Massachusetts đến Miami, dừng lại Washington, DC và Columbia, SC, sau đó nó va chạm với một chiếc máy bay ném bom B-25 Mitchell của Quân đội Mỹ độ cao 3.000 feet phía trên Syracuse, SC (khoảng 20 dặm từ Florence, SC). Phi công thương mại, G. D. Davis, đã hạ cánh chiếc máy bay hành khách trên một ruộng ngô gần đó. Một đứa bé đã thiệt mạng. Còn chiếc máy bay ném bom đã bị nổ; người chết và người nhảy dù an toàn. 28 tháng Một chiếc máy bay ném bom B-25 Mitchell đâm vào Tòa nhà Empire State. tháng Cuộc tấn công vào Toyama của USAAF, đã gây ra một tranh luận chỉ trích nhằm vào không quân, khi mà hầu hết thành phố đã bị phá hủy bởi các cuộc không kích. tháng Chiếc B-29 Superfortress mang tên gọi Enola Gay đã thả quả bom nguyên tử đầu tiên có tên gọi "Little Boy", đây cũng là vũ khí nguyên tử đầu tiên được sử dụng trong một cuộc chiến, nó được thả phía trên thành phố Hiroshima của Nhật Bản. tháng B-29 Bockscar thả một quả bom plutonium-239, có tên gọi là Fat Man, phía trên Nagasaki. 14 tháng VJ Day Nhật Bản đầu hàng, kết thúc Chiến tranh Thái Bình Dương, và Chiến tranh thế giới II. 15 tháng chiếc máy bay của Hải quân Thiên hoàng Nhật Bản thực hiện cuộc tấn công tự sát (kamikaze) cuối cùng trong chiến tranh. 19 tháng chiếc Mitsubishi G4M mang đoàn đại biểu của Nhật Bản tới Ie Shima. Một chiếc trực thăng Focke Achgelis Fa 223 chiến lợi phẩm thu được của Đức quốc xã đã thực hiện chuyến bay đầu tiên xuyên qua Kênh Anh. 20 tháng Một chiếc Gloster Meteor thử nghiệm với động cơ Rolls-Royce Trent, lần đầu tiên thực hiện chuyến bay với động cơ tuabin phản lực cánh quạt. tháng 10 Hội nghị thường niên của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tê bắt đầu được mở ra, nhóm họp tại Montreal, Canada. 24 tháng 10 Hãng hàng không American Export Airlines lần đầu tiên thực hiện các chuyến bay xuyên Đại Tây Dương bằng một chiếc Douglas C-54 Skymaster, giữa New York và Hurn, Anh. tháng 11 Gp Cpt H. J. Wilson lập một kỷ lục được công nhận chính thức về vận tốc, đạt 606 mph (976 km/h) trên một chiếc Gloster Meteor. Một kỷ lục vận tốc không chính thức của người Đức lập ra trên một chiếc Messerschmitt Me 163 với động cơ tên lửa trong suốt cuộc chiến đã vượt qua vận tốc 625 mph (1.000 km/h) *3 tháng 12 Một chiếc Mk5 Sea Vampire trở thành chiếc máy bay phản lực đầu tiên cất cánh và hạ cánh trên một chiếc tàu sân bay, chiếc, HMS Ocean. Thorp T-211 Tháng 1 26 tháng McDonnell XFD-1 Phantom, chiếc máy bay phản lực đầu tiên hoạt động trên một chiếc tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ Tháng 2 tháng Kawasaki Ki-100 tháng XP-81 21 tháng Hawker Sea Fury với mẫu thử nghiệm SR661 25 tháng Bell XP-83 Tháng 3 tháng Bachem Ba 349 tháng I-250 (N), máy bay động cơ phản lực đầu tiên của Liên Xô. 18 tháng Douglas XB2D-1, mẫu thử nghiệm của AD Skyraider Tháng 4 19 tháng de Havilland Sea Hornet với mẫu thử nghiệm PX212 27 tháng Pilatus P-2 Tháng 5 17 tháng Lockheed Neptune Bu48237 Tháng 6 10 tháng Ilyushin Il-16 14 tháng Avro Tudor G-AGPF 22 tháng Vickers Viking với mẫu thử nghiệm G-AGOK Tháng 8 tháng Kyūshū J7W Shinden tháng Nakajima Kikka, máy bay phản lực đầu tiên của Nhật Bản Tháng 10 27 tháng 10 Bristol Buckmaster 28 tháng 10 LWD Szpak Tháng 11 10 tháng 11 Yakovlev Yak-11 15 tháng 11 PZL S-1 20 tháng 11 Saab 91 Safir Tháng 12 tháng 12 Bristol 170 tháng 12 Bell 47 prototype NC1H 19 tháng 12- Grumman Guardian với mẫu thử nghiệm Bu90504 22 tháng 12 Beechcraft Bonanza Tháng 1 *Ilyushin Il-10 trong Không quân Xô viết Tháng 8 *Avro Lincoln trong Phi đội số 57 RAF Tháng 11 *Hawker Tempest II trong Phi đội số 54 RAF | VE Day | Hàng không năm 1945 |
Henri Hoppenot (25 tháng 10 năm 1891 10 tháng năm 1977) là một nhà ngoại giao Pháp, là Cao ủy Đông Dương từ năm 1955 đến 1956, và là người cuối cùng giữ chức vụ này. Ông cũng từng là chủ tịch Pháp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc từ năm 1952 đến 1955. Vào tháng năm 1914, ông bắt đầu tại Văn phòng Báo chí của Bộ Ngoại giao. Ông trở thành bạn với Alexis Leger (sau này là Saint-John Perse); họ sẽ duy trì tình bạn hơn sáu mươi năm. Khi họ vào bộ, đã có các nhà văn ngoại giao: Jean Giraudoux, Paul Morand và Paul Claudel. Ông là thủ thư cho Darius Milhaud. Năm 1917, ông là tùy viên tại Đại sứ quán Pháp tại Bern. Ông cưới Helena Delacour. Năm 1938, ông là Phó Giám đốc bộ phận Châu Âu tại Bộ Ngoại giao. Năm 1940, ông là Bộ trưởng Toàn quyền tại Montevideo. Ông tập hợp lại Pháp quốc Tự do; ông lãnh đạo các dịch vụ dân sự của phái bộ quân sự Washington, D.C.. Năm 1943, ông là Đại biểu của Chính phủ lâm thời Cộng hòa tại Hoa Kỳ. Từ năm 1945 đến 1952, ông là Đại sứ Pháp tại Bern, sau tám tháng trống. Ông nhằm mục đích khôi phục niềm tin giữa hai nước, được sự giúp đỡ của Tổng lãnh sự Pháp tại Genève, Xavier de Gaulle, người phục vụ từ năm 1944 đến 1953. Năm 1951, ông là Thành viên danh dự của Bảo tàng Mỹ thuật Bern. Từ 1952 đến 1955, ông là Đại diện thường trực của Pháp tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Từ 1955 đến 1956, ông là Tổng ủy viên Pháp tại Đông Dương. Từ năm 1956 đến 1964, ông là Thành viên của Hội đồng Nhà nước Pháp. Cùng với vợ Hélène, một nhiếp ảnh gia tài ba, Henri Hoppenot đã sản xuất cuốn sách (Ides et Calendes, 1951) với những bức ảnh được chụp Viễn Đông. (Cuốn sách nhiếp ảnh của Helene Hoppenot về Tunisia là: | Henri Hoppenot | Sinh năm 1891, Mất năm 1977, Đại sứ Pháp tại Uruguay, Đại diện thường trực của Pháp tại Liên Hợp Quốc |
Chủng tộc bất tử (tựa gốc tiếng Anh: là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ năm 2021 dựa trên chủng tộc cùng tên của Marvel Comics. Được sản xuất bởi Marvel Studios và phân phối bởi Walt Disney Studios Motion Pictures, đây là bộ phim thứ 26 trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU). Bộ phim được đạo diễn bởi Chloé Zhao, người đã viết kịch bản cùng với Patrick Burleigh, Ryan Firpo và Kaz Firpo. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm Gemma Chan, Richard Madden, Kumail Nanjiani, Lia McHugh, Brian Tyree Henry, Lauren Ridloff, Barry Keoghan, Don Lee, Kit Harington, Salma Hayek và Angelina Jolie. Trong phim, các Eternals, những sinh vật ngoài hành tinh bất tử, xuất hiện từ nơi ẩn náu sau hàng nghìn năm để bảo vệ Trái đất khỏi các đối tác cổ xưa của họ, Deviants. Vào tháng năm 2018, chủ tịch Marvel Studios Kevin Feige thông báo rằng một bộ phim dựa trên Eternals đã bắt đầu được phát triển, với Ryan và Kaz Firpo được thuê để viết kịch bản vào tháng Năm. Zhao được chỉ định đạo diễn bộ phim vào cuối tháng và được trao quyền tự do sáng tạo đáng kể với bộ phim, dẫn đến việc quay phim tại địa điểm nhiều hơn các bộ phim MCU trước đây. Zhao đã viết lại kịch bản, mà Burleigh sau đó được cho là cũng đã đóng góp. Chụp ảnh chính diễn ra từ tháng năm 2019 đến tháng năm 2020, tại Pinewood Studios cũng như tại địa điểm London và Oxford, Anh và Quần đảo Canary. Eternals được công chiếu lần đầu tại Los Angeles vào ngày 18 tháng 10 năm 2021 và được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày tháng 11, như một phần của Giai đoạn Bốn của MCU. Bộ phim đã thu về 402 triệu đô la trên toàn thế giới. Phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình, những người khen ngợi chủ đề và hình ảnh của nó, nhưng lại chỉ trích kịch bản, nhịp độ, thời lượng và sự phát triển của nhân vật. Vào năm 5000 trước Công nguyên, mười Eternals siêu mạnh Ajak, Sersi, Ikaris, Kingo, Sprite, Phastos, Makkari, Druig, Gilgamesh và Thena được Celestial Arishem gửi đến Trái đất trên phi thuyền của họ, Domo, để tiêu diệt những kẻ xâm lược Deviants. Những Deviants cuối cùng rõ ràng đã bị giết vào năm 1521, khi kiến của nhóm khác nhau về mối quan hệ tiếp tục của họ với loài người. Trong năm trăm năm tiếp theo, họ hầu như sống xa nhau, chờ đợi mệnh lệnh của Arishem. thời hiện đại, Sersi và Sprite sống cùng nhau London. Sau khi Ikaris, đối tác của Sersi, rời bỏ cô ấy nhiều thế kỷ trước, cô ấy hiện đang có mối quan hệ với một con người tên Dane Whitman người làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Khi bộ ba bị Deviant Kro tấn công, Ikaris đến và đuổi sinh vật đó đi. Ba Eternals đến Nam Dakota để đoàn tụ với thủ lĩnh của họ, Ajak, chỉ tìm thấy cô đã chết. Sersi sau khi được Ajak chọn làm người kế vị, cho cô khả năng giao tiếp với Arishem. Sersi biết rằng sứ mệnh của Eternals thực sự là chuẩn bị cho Trái đất cho Sự ra đời. Arishem giải thích rằng, trong hàng triệu năm, ông ta đã gieo hạt giống của các Celestial bên trong các hành tinh nơi năng lượng từ các quần thể lớn cho phép các Celestial mới được sinh ra. Các Deviant được cử đi tiêu diệt những kẻ săn mồi đỉnh cao của mỗi hành tinh để đảm bảo sự phát triển của sự sống thông minh, nhưng khi các Deviant tiến hóa và bắt đầu săn lùng các quần thể bản địa của các hành tinh, Arishem đã tạo ra các Eternal để chống lại chúng. Với sự đảo ngược của Cú nháy, Trái đất đã đạt đến dân số cần thiết cho sự ra đời của Celestial Tiamut, điều này sẽ dẫn đến sự hủy diệt của Trái đất. Với hy vọng trì hoãn Sự xuất hiện, các Eternals tái hợp. Tại nơi của Druig trong rừng nhiệt đới Amazon họ bị tấn công bởi Deviants. Họ giết tất cả ngoại trừ Kro, người đã giết Gilgamesh trước khi bỏ trốn. Phastos đề xuất Uni-Mind, một kết nối giữa tất cả các Eternals sẽ cung cấp cho Druig đủ sức mạnh để đưa Tiamut vào giấc ngủ bằng sức mạnh kiểm soát tâm trí của anh ta. Tuy nhiên, Ikaris tiết lộ rằng Ajak đã nói với anh ta về Sự xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước. Khi Ajak nói với anh ấy rằng cô ấy muốn ngăn chặn Sự xuất hiện, anh ấy đã dẫn cô ấy đến gặp những kẻ đã giết cô ấy. Sprite gia nhập Ikaris vì tình yêu đơn phương của cô ấy dành cho anh ấy trong khi Kingo quyết định rời đi. Makkari xác định vị trí của Sự xuất hiện, một ngọn núi lửa đang hoạt động Ấn Độ Dương nơi Ikaris và Sprite cố gắng ngăn chặn chúng. Druig hạ gục Sprite và Phastos khống chế Ikaris. Kro đến và bị giết bởi Thena. Druig không thể đưa Tiamut vào giấc ngủ và thay vào đó, Sersi cố gắng biến anh ta thành đá cẩm thạch. Ikaris thoát khỏi sự kiềm chế của mình và định giết Sersi, nhưng thấy mình không thể làm được vì tình yêu của anh dành cho cô. Cả anh ấy và Sprite đều tham gia cùng với những người khác trong Uni-Mind và Sersi có đủ sức mạnh để biến Tiamut thành đá cẩm thạch. Mặc cảm tội lỗi, Ikaris bay vào Mặt trời. Theo yêu cầu của Sprite, Sersi sử dụng năng lượng còn lại từ Uni-Mind để biến Sprite thành người, chấm dứt trạng thái trẻ con vĩnh viễn của cô bé. Thena, Druig và Makkari khởi hành trên Domo để tìm các Eternals trên các hành tinh khác và cảnh báo họ về Sự xuất hiện trong khi Sersi, Phastos và Kingo vẫn lại Trái đất. Dane thổ lộ tình yêu của mình với Sersi và chuẩn bị tiết lộ bí mật về lịch sử gia đình anh thì cô, Phastos và Kingo được Arishem đưa vào không gian. Không hài lòng với sự phản bội của họ, Arishem nói rằng anh ta sẽ tha thứ cho nhân loại nếu ký ức của các Eternals cho thấy con người đáng được sống. Thề sẽ trở lại để phán xét, anh ta đưa bộ ba đi cùng mình vào một điểm kỳ dị. Trong một cảnh mid-credit, Thena, Makkari và Druig gặp Eternal Eros anh trai của Thanos và trợ lý của hắn là Pip the Troll, người đã đề nghị giúp đỡ họ. Trong một cảnh post-credit, Dane mở một chiếc hộp chứa Ebony Blade và một người giấu mặt hỏi liệu anh ta đã sẵn sàng chưa. Gemma Chan vai Sersi: Một Eternal đồng cảm, yêu thương loài người, có khả năng điều khiển và biến đổi vật chất. Trong phiên bản điện ảnh lần này, cô và Ikaris đã từng yêu nhau trong hàng thế kỷ và hiện Sersi đang ẩn mình dưới vỏ bọc là một nhân viên quản lý bảo tàng trên Trái Đất. Kevin Feige mô tả rằng Sersi sẽ là nhân vật trung tâm của phim. Richard Mal khác về mặt chiến thuật. Anh siêu khoẻ, có khả năng bay lượn và phóng ra tia năng lượng vũ trụ từ mắt. Kumail Nanjiani vai Kingo: Một Eternal có khả năng bắn ra những viên đạn năng lượng vũ trụ từ tay. Vì muốn có được danh vọng, Kingo quyết định trở thành một ngôi sao điện ảnh Bollywood nổi tiếng để hoà mình vào cuộc sống trên Trái Đất. Kumail Nanjiani chia sẻ rằng vai diễn của anh là kết hợp từ sự khôn ngoan của nhân vật John McClane trong loạt phim Die Hard với ngoại hình của Hrithik Roshan (một diễn viên Bollywood nổi tiếng). Lia McHugh vai Sprite: Một Eternal có khả năng thao túng tâm trí của người khác và tạo ra những ảo ảnh sống động như thật. Sprite có ngoại hình như một đứa trẻ 12 tuổi, nhưng cô nhiều tuổi, khoẻ và thông minh hơn so với vẻ bề ngoài. Brian Tyree Henry vai Phastos: Một Eternal kiêm nhà phát minh thông thái. Anh đã bí mật đưa nguồn năng lượng vũ trụ xuống Trái Đất để giúp đỡ loài người phát triển, tiến bộ về mặt công nghệ. Anh là siêu anh hùng đồng tính đầu tiên của MCU. Lauren Ridloff vai Makkari: Một Eternal sở hữu siêu tốc độ. Cô thường sử dụng tốc độ siêu nhanh của mình để thám hiểm các hành tinh ngoài vũ trụ. Bên cạnh đó, Makkari cũng là siêu anh hùng khiếm thính đầu tiên của MCU và vì thế nên cô không bị ảnh hưởng bởi những tiếng nổ siêu thanh do chính mình tạo ra. Barry Keoghan vai Druig: Một Eternal không ưa và cũng không quan tâm đến loài người. Anh có khả năng sử dụng năng lượng vũ trụ để thao túng, chi phối và điều khiển tâm trí người khác. Anh rời bỏ các Eternal vì bất đồng chính kiến cũng như không đồng với việc họ gần gũi, tương tác và hỗ trợ cho loài người. Don Lee vai Gilgamesh: Eternal khoẻ nhất trong nhóm, anh sở hữu siêu sức khỏe, siêu sức bền và đồng thời có khả năng tạo ra những lớp giáp siêu cứng từ năng lượng vũ trụ. Anh trở thành bạn đồng hành của Thena khi họ tách nhóm, rời khỏi các Eternal khác. Kit Harington vai Dane Whitman (Black Knight): Một chiến binh loài người mang theo mình thanh kiếm bị nguyền rủa Ebony Blade. Anh là hậu duệ của Sir Percy of Scandia Black Night đầu tiên, Hiệp sĩ từng phục vụ dưới trướng vua Arthur. Salma Hayek vai Ajak: Một Eternal thông thái lãnh đạo các Eternal khác về mặt tâm linh. Bà luôn giúp đỡ, dẫn dắt các nền văn minh của nhân loại tiến bộ hơn qua từng thời kỳ. Ajak có khả năng chữa lành vết thương và giao tiếp với những thực thể bên ngoài vũ trụ đặc biệt là các Celestials. Angelina Jolie vai Thena: Một chiến binh Eternal có khả năng sử dụng năng lượng vũ trụ để tạo ra bất kỳ loại vũ khí nào mình muốn. Cô có mối liên kết gần gũi với Gilgamesh xuyên suốt qua hàng thế kỷ. Ngoài ra, Deviant Kro được lồng tiếng bởi Bill Skarsgård, trong khi David Kaye lồng tiếng cho Celestial Arishem. Harish Patel xuất hiện trong vai Karun, người hầu của Kingo. Haaz Sleiman và Esai Daniel Cross lần lượt đóng vai Ben và Jack, chồng và con trai của Phastos; và Zain Al Rafeea miêu tả một dân làng tình cờ gặp các Eternals khi họ đến Trái đất. Harry Styles xuất hiện trong cảnh mid-credit của phim với vai Eros Starfox, anh trai của Thanos, trong khi Patton Oswalt lồng tiếng cho trợ lý Pip the Troll Mahershala Ali có một vai khách mời lồng tiếng chưa được công nhận với vai Blade trong cảnh post-credits, trước khi đóng vai chính trong bộ phim của chính anh ấy. Siêu sao WWE Becky Lynch ban đầu có một vai trong một cảnh được quay cho một đoạn giới thiệu sau cảnh post-credits, nhưng nó đã bị xóa khỏi bản cắt cuối cùng do được cho là "quá buồn". Tháng năm 2018, chủ tịch Marvel Kevin Feige thông báo rằng một bộ phim về chủng loài Eternals đang trong quá trình sản xuất. Matthew và Ryan Firpo được mời để viết kịch bản cho dự án lần này vào tháng cùng năm. Cuối tháng năm 2018, Marvel Studios tiếp tục mời Triệu Đình làm đạo diễn. Dàn diễn viên được chính thức công bố tại sự kiện San Diego Comic-Con vào tháng năm 2019 và quá trình quay phim bắt đầu vào tháng cùng năm Pinewood Studios tại Vương quốc Anh. Ban đầu, ngày công chiếu của phim là ngày tháng 11 năm 2020, nhưng bị lùi do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Bộ phim mới được ra mắt tại Los Angeles hôm 19/10/2021. Chủng tộc bất tử được dự kiến khởi chiếu tại thị trường Mỹ vào ngày tháng 11 năm 2021 sau một thời gian bị trì hoãn bởi đại dịch COVID-19. Ban đầu, ngày công chiếu của phim là ngày tháng 11 năm 2020, nhưng bị lùi do những tác động và ảnh hưởng của đại dịch. Phim sẽ thuộc vào Giai đoạn của Vũ trụ Điện ảnh Marvel. at Marvel.com | ''Chủng tộc bất tử | Phim của Vũ trụ Điện ảnh Marvel, Phim dựa theo truyện tranh, Phim dựa theo truyện tranh Mỹ, Phim dựa theo truyện tranh Marvel, Phim quay tại Vương quốc Liên hiệp Anh, Phim quay tại Pinewood Studios, Phim Mỹ, Phim tiếng Anh, Phim siêu anh hùng, Phim siêu anh hùng của Mỹ, Phim khoa học viễn tưởng, Phim khoa học viễn tưởng Mỹ, Phim khoa học viễn tưởng thập niên 2020, Phim về đời sống ngoài Trái Đất, Phim về cuộc xâm lược của người ngoài hành tinh, Phim năm 2021, Phim liên quan đến LGBT của Mỹ, Phim quay tại Luân Đôn, Phim siêu anh hùng năm 2021, Phim siêu anh hùng thập niên 2020 |
Chủ nghĩa duy tâm: Một khái niệm triết học về xu hướng tin tưởng vào sự tồn tại của thượng đế hay xu hương tin tưởng vào Tâm linh Duy tâm (phật học): Danh từ Phật giáo đồng nghĩa với Duy thức ám chỉ rằng ''mọi thứ đều do tâm thức con người mà ra'. | null | |
Hội An có thể là một trong số các địa danh sau: Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam với phố cổ Hội An là di sản văn hóa của UNESCO từ năm 1999 Thị trấn Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang Xã Hội An Đông, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. *An Hội (định hướng) | Hội An | |
Địa vật lý hố khoan còn gọi là địa vật lý lỗ khoan, địa vật lý giếng khoan (tiếng Anh: Borehole Logging hay Well Logging), là một lĩnh vực của Địa vật lý thăm dò, thực hiện các quan sát đo đạc địa vật lý trong hố khoan, từ đó phân tích, giải đoán tài liệu để phân chia đất đá trong không gian quanh hố khoan theo thành phần, tính chất, trạng thái, và xác định các tham số vật lý của chúng. Kết quả phân tích được liên kết với cột địa tầng hố khoan và biểu diễn báo cáo dạng Biểu đồ địa vật lý hố khoan, còn gọi là Băng ghi địa vật lý hố khoan. Địa vật lý hố khoan được dùng trong khảo sát địa chất tổng quát, trong tìm kiếm dầu khí, khoáng sản, nước ngầm, nước khoáng, địa nhiệt, địa chất công trình, địa chất môi trường tai biến tự nhiên. Tại Việt Nam nhiều người gọi nó là là cách gọi theo tiếng Nga Каротаж khi kỹ thuật địa chất từ Liên Xô (cũ) nhập vào miền bắc Việt Nam hồi những năm 1957-1965. Đây vốn là thuật ngữ có gốc là tiếng Pháp Carottage. Hiện nay tại Nga thiên về dùng thuật ngữ Геофизические исследования скважин, và tại Pháp thì dùng Diagraphie để chỉ Địa vật lý hố khoan. Băng ghi tập hợp địa vật lý hố khoan Lisburn 1, do Husky Oil khoan tại Alaska Petroleum Reserve, 1980 Conrad và Marcel Schlumberger, người sáng lập Schlumberger Ltd vào năm 1926, được coi là phát minh của địa vật lý điện hố khoan. Vào ngày 05/09/1927 một thành viên đội thăm dò đã thả các điện cực xuống hố khoan Pechelbronn, Alsace, Pháp, thu được kết quả địa vật lý hố khoan (logging) đầu tiên. Đo địa vật lý hố khoan bằng bộ máy Matrix Borehole Logging Systems tại Vĩnh Hải, Ninh Thuận, Việt Nam. Các thiết bị địa vật lý hố khoan có thành phần chính: Đầu đo (Probe) trong hố khoan, nơi thực thi các đo đạc theo cơ sở lý thuyết của từng phương pháp nhưng được thu gọn trong ống đo để hoạt động được lỗ có đường kính nhỏ nhất cỡ 50 mm (2 inch) và chịu áp suất cao. Hệ tời và cáp bọc sợi thép, để nối đầu đo, cấp nguồn điện và truyền tín hiệu. Tời có gắn cảm biến độ sâu loại đo hướng và dộ dài cáp kéo qua, để xác định độ sâu của đầu đo. Khối điều khiển và ghi tài liệu, thực hiện điều khiển kéo cáp, cấp nguồn điện cho đầu đo, gửi các lệnh tới đầu đo nếu cần, thu nhận tín hiệu do đầu đo gửi lên và ghi vào băng ghi hoặc cơ sở dữ liệu. Yêu cầu chịu áp suất của đầu đo được đặc trưng bằng độ sâu làm việc lớn nhất, và dẫn đến ngày nay có các hệ thống đo ≤150 (ít dùng), ≤500 m, ≤1000 m, ≤1500 và ≥1500 m. Trong thời gian dài từ lúc ra đời đến những năm 1970 (tại Việt Nam thì đến 1995), các đầu đo thực hiện đo tín hiệu tương tự, truyền tín hiệu bằng cáp nhiều ruột, dẫn lên máy ghi bút mực trên băng giấy. Số đường ghi đồng thời lúc đầu là 2, sau tăng lên 4. Thiết bị thì rất cồng kềnh, còn việc đo đạc tốn nhiều thời gian, đặc biệt là phải đo lại khi số liệu tràn thang hoặc quá nhỏ. Tiếp theo là thời kỳ mã hóa tín hiệu thành xung tần số (Biến đổi A-F) truyền lên bằng cáp đồng trục với kênh đo, phân biệt nhau bằng cực tính và biên độ, và có điều phối tránh mất xung. Khối điều khiển trên mặt đất thực hiện tách xung, đếm tần số xung, lưu trữ trên băng cassette số, và ghi băng ghi giấy kiểm tra. Tài liệu bắt đầu được phân tích bằng phần mềm trên máy tính lớn. Đây là bước chuyển đổi mang tính cách mạng, giảm trọng lượng thiết bị xuống mức có thể mang vác, và đã tránh được việc đo lại do lỗi chọn thang đo. Từ cuối những năm 1980 các đầu đo (Sensor) được modul hóa, thực hiện số hóa tại chỗ và chuyển tới khối giao tiếp, từ đó truyền lên bằng cáp đồng trục theo giao thức số, qua khối điều khiển tới máy tính, lúc đầu là máy chuyên dụng và nay là laptop. Một lần đo có thể ghép nhiều modul, thực hiện hàng chục kênh đo nếu ghép được về nguyên lý đo, còn người đo máy có thể chỉ cần đo một lần cho nhóm phương pháp đó. Ví dụ Matrix Borehole Logging Systems, sản phẩm liên kết của Advanced Logic Technology (Luxembourg) và Mount Sopris Instruments Co. (Mỹ). Tài liệu được phân tích bằng phần mềm chạy trên PC như WellCAD. Đồng thời, kỹ thuật Đo đạc trong khi khoan (Logging while drilling LWD) được phát triển trong thăm dò dầu khí, sử dụng các công cụ và thiết bị đo đạc gắn vào đầu khoan (Bottom hole assembly BHA), với hai dạng: Truyền số liệu lên trong khi khoan bằng dây, hoặc bằng sóng áp suất trong dung dịch khoan, thường với lưu tốc 10 bits/sec. Lưu số liệu trong bộ nhớ đầu đo và lấy ra khi kéo lên, và được gọi là Memory log. Các phương pháp đo được thực thi đầu đo. Cùng với phương pháp truyền thống, thì những phương pháp mới đang được nghiên cứu phát triển. Các trang web giới thiệu về các phương tiện điển hình cho thăm dò khoáng sản có Downhole Probes của hãng Mount Sopris Instruments hay Robertson Geologging Ltd, và cho thăm dò dầu khí có Schlumberger, Surface and Downhole Logging. = Đo điện trở suất hố khoan (Resistivity log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò Điện trở, bố trí hệ điện cực trong đầu đo hố khoan, nhằm thu được thông tin điện trở suất của đất đá. Nó là một trong các phép đo chủ chốt có mặt trong hầu hết các chuyến đo địa vật lý hố khoan, góp phần khẳng định hay hiệu đính cột địa tầng hố khoan. Vì khi khoan, đất đá quanh thành hố khoan bị nứt vỡ với mức độ khác nhau. Sau đó sự xâm nhập của nước làm điện trở suất giảm tùy theo mức nứt vỡ quanh hố khoan. Để xác định điện trở suất của đới đất đá nguyên dạng, cũng như bán kính các đới nứt vỡ quanh hố khoan, thì dùng Đầu đo điện đa điểm với các phân bố cực đo 8-16-32-64 inch. Ví dụ đầu đo QL40-ELOG 8-16-32-64” normal resistivity probe" cho ra số liệu SP và số liệu điện trở suất của khoảng thu phát 8-16-32-64". Đo điện trở suất và phân cực kích thích thực hiện với hệ đo cực, lưỡng cực MN dưới, các cực trên, còn cực trên mặt đất, đặt nơi tiếp đất tốt và cách xa miệng hố khoan cỡ trên chục mét. Mặt khác để thuận tiện cho đo đạc, người ta tráo đổi cực thu phát và dùng dòng đảo chiều có kỳ nghỉ, phát vào lưỡng cực MN và quan sát thế các cực A1, A2,... so với cực B. Nó đảm bảo điều kiện tiếp địa cực phát dòng thực tế không bị thăng giáng, và cho phép đo đồng thời các điện thế điện trở, cũng như tách được điện thế thiên nhiên SP. Khi có nhiều "cực A" thì điện thế SP chỉ lấy điện cực, và trong lý lịch đầu đo sẽ chỉ rõ vị trí "điểm đo" SP, và độ dịch so với điểm đo của điện trở suất là vị trí giữa của các cực MN. = Đo ảnh điện trở suất hố khoan (Resistivity Imaging) thực hiện theo phương pháp Mặt cắt ảnh điện Imaging) trong Thăm dò Điện trở, với cáp đo đa cực chế riêng cho hố khoan. Giãn cách điện cực cỡ 0,2 m. Đo ghi thực hiện bằng máy đo điện đa cực mặt đất. Kết quả giải ra phân bố điện trở suất tỏa tròn quanh hố khoan với bán kính tương tự "độ sâu khảo sát" của hệ cực đã chọn, và không phân biệt được hướng tồn tại dị thường. Nó được ứng dụng cho hố khoan không quá sâu trong tìm kiếm khoáng sản, địa chất thủy văn, địa chất công trình. = Đo điện trở dung dịch hố khoan (Fluid Resistivity log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò Điện trở, với hệ vi điện cực bố trí trong đầu đo hố khoan, nhằm thu được thông tin điện trở suất của dung dịch khoan, từ đó đánh giá tình trạng thủy văn của đất đá quanh hố khoan. Nó được ứng dụng cho hố khoan không quá sâu trong tìm kiếm nước ngầm, địa chất thủy văn, địa chất công trình. = Đo điện phân cực kích thích hố khoan (Induced polarization log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện phân cực kích thích, bố trí hệ điện cực trong đầu đo hố khoan, nhằm thu được thông tin độ nạp (Chargeability) của đất đá. Kết quả được dùng cho đánh giá bản chất và mức độ triển vọng của đối tượng tìm kiếm các tầng đất đá quan tâm. Nó được ứng dụng cho hố khoan không quá sâu trong tìm kiếm khoáng sản có tính oxy hóa cao như pyrit, graphit, galena, bornit, magnetit, đồng chì kẽm,..., trong tìm kiếm nước ngầm, địa chất thủy văn, địa chất công trình. Ví dụ đầu đo QL40-IP Induced Polarization. Đầu này đo đồng thời điện trở suất theo phân bố cực 8-16-32-64", độ nạp tại cực 16" và 64" với 10 cửa sổ, điện trường thiên nhiên (SP) và trở tiếp địa (SPR) tại cực phát A. = Đo điện trường thiên nhiên hố khoan (Spontaneous potential log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò điện trường thiên nhiên, đo điện thế giữa điện cực đầu đo và điện cực trên mặt đất. Các điện cực làm bằng vòng chì. Trong thực tế nhiều bộ máy nó được đo đồng thời với đo điện trở suất. Các dị thường SP liên quan đến quặng có tính oxy hóa, hoặc nước ngầm thấm lọc. = Đo cảm ứng điện từ hố khoan (Induction log) thực hiện theo cơ sở của Phương pháp điện từ, phát trường điện từ vào đất đá và thu nhận cảm ứng các khoảng cách thu khác nhau. Kết quả thu được là độ dẫn điện tính ra mS/m, đặc trưng cho đới quanh thành hố khoan bán kính tùy theo tần số làm việc và khoảng cách phát-thu. Ví dụ đầu đo QL40-IND Dual Induction Probe, dùng tần 100 KHz, đo hai khoảng cách 50 và 80 cm. = Đo gamma tự nhiên hố khoan (Gamma ray log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò phóng xạ, đo cường độ bức xạ gamma trong dải năng lượng 0,4 2,8 MeV nhằm phát hiện và đánh giá mức độ chứa nguyên tố phóng xạ của đất đá. Ngoài các vùng mỏ phóng xạ urani và thori, thì kali là thành phần của rất nhiều khoáng vật như biotit, mica, muscovit, các khoáng vật sét,... và là nguồn tia gamma tự nhiên phổ biến. Vì thế đo gamma tự nhiên là một trong các phép đo chủ chốt, phục vụ cho phân chia đất đá theo thành phần và địa tầng trong các khảo sát địa chất. Ví dụ đầu đo QL40-GR Natural Gamma. = Đo phổ gamma tự nhiên hố khoan (Gamma ray spectrometry log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò phóng xạ, đo tại hố khoan vùng mỏ để đánh giá mức độ chứa kali mỏ Kali, hoặc urani hay thori mỏ chất phóng xạ. Vì tốc độ đo rất chậm nên có thể chỉ đo tại đoạn quan tâm trong hố khoan. Đầu đo phân tích phổ gamma bố trí các cửa sổ phổ: Kali: đỉnh năng lượng đặc trưng 1,46 MeV của K40, cửa sổ 1,37 1,57 MeV. Urani: đỉnh năng lượng đặc trưng 1,76 MeV của Bi214, cửa sổ 1.66 1.86 MeV. Thori: đỉnh năng lượng đặc trưng 2,62 MeV của Tl208, cửa sổ 2,4 2,8 MeV. Kênh đo tổng: 0,4 2,8 MeV. Kết quả hiển thị dạng xung đếm được cũng như trị số hàm lượng quy ước. Ví dụ đầu đo QL40-SGR Spectral Gamma. Để kết quả thu được chính xác, hệ thống đo phải được định kỳ kiểm chuẩn hệ số hàm lượng. Tại Việt Nam có bố trí Trạm kiểm chuẩn xã Tân Vinh, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. = Đo mật độ hố khoan còn gọi là đo gamma-gamma (Density log) thực hiện theo cơ sở lý thuyết của Thăm dò phóng xạ, dùng nguồn tia gamma thường là Cesium Cs137 chiếu vào đất đá. Các tia gamma thứ cấp phát sinh theo Tán xạ Compton (Compton scattering) và Hiệu ứng quang điện (Photoelectric effect) trên các nguyên tử môi trường. Các đất đá có mật độ cao thì phát sinh tia gamma thứ cấp nhiều hơn. Đo gamma các khoảng cách gần nguồn và xa nguồn, sẽ xác định được mức độ kích thích này, từ đó tính ra mật độ. Máy sử dụng các khối mẫu phân cỡ để thực hiện thủ tục phân cỡ (Calibration), từ đó xác định hệ số phân cỡ dùng cho tính và hiện kết quả trực tiếp mật độ đất đá quanh hố khoan ra g/cm³. Độ chính xác đo mật độ phụ thuộc cường độ nguồn chiếu. Các nguồn dưới 20 mCurie cho kết quả định tính, nguồn từ 100 mCurie trở lên cho kết quả định lượng cao. Ví dụ đầu đo QL40-DEN Compensated Dual Density Caliper. = Đo độ rỗng neutron hố khoan (Neutron porosity log) dùng nguồn neutron chiếu vào đất đá, rồi đo các khoảng cách đến nguồn khác nhau của tia gamma, neutron nhiệt tán xạ hay neutron năng lượng cao tán xạ. Sự tán xạ nhạy với lượng hydro trong đất đá, và nó gắn với dầu khí hay nước, mà lượng này gắn liền với độ rỗng. Dị thường giả có thể có nơi có nhiều sét vốn không rỗng nhưng bắt giữ nước cao (Xem thêm: Formation evaluation neutron porosity). Đầu dò thường đặt cách nguồn từ 30 cm (12") đến 40 cm (16"). Nếu có hai đầu dò thì cái thứ hai nằm khoảng 60 cm (24") để thu mức phông. Ví dụ đầu đo QL40-NEU Neutron Thermal Neutron, dùng nguồn neutron loại Am241Be cường độ đến Curie, khoảng cách đầu dò 35 cm. = Đo độ từ cảm hố khoan (Magnetic Susceptibility log) được thực hiện bằng cách phát trường điện từ xoay chiều cỡ KHz vào đất đá và đo tín hiệu cảm ứng, từ đó tính ra độ từ cảm biểu kiến. Dải đo của đầu đo thường là 10−5 đến 10−1 cgs. Phương pháp được dùng cho phân chia địa tầng, đặc biệt là đới chứa quặng nhiễm từ. Ví dụ đầu đo Bartington BSS-02B Borehole Magnetic Susceptibility Sonde. Kết quả đo âm thanh hố khoan thông thường (Sonic log) Đầu đo âm thanh hố khoan kênh, nhưng có nhóm phát thu đối nhau = Đo âm thanh hố khoan (Sonic log) thực hiện phát sóng âm vào thành hố khoan, và thu nhận sóng các khoảng cách nhất định. Các đầu thu phát (probe) được chế tùy theo yêu cầu và mức độ chi tiết nghiên cứu cần đạt được, và thường được các hãng chế tạo thành probe thương phẩm. Phần lớn các đo đạc thực hiện xác định sóng đến đầu tiên, tức sóng dọc P. Từ thời gian truyền sóng xác định ra tốc độ truyền sóng V, là đại lượng có quan hệ trực tiếp với độ rỗng đất đá. Nó phục vụ nghiên cứu địa tầng, đánh giá mức độ chứa dầu khí, và xác định tham số đàn hồi trong địa chất công trình,... Hệ thu phát thường có ít nhất điểm thu đặt các khoảng cách khác nhau. Có các biến thể chính: Loại xác định ra thời gian truyền sóng dọc là chính, thì thường dùng siêu âm, đầu thu và phát bằng gốm áp điện, trong đó đầu thu thường gọi là đầu thu sóng địa chấn trong nước (hydrophone). Thu toàn sóng (Full Waveform) tại nhiều điểm, từ đó cho ra hình ảnh hồi âm quanh hố khoan. Ví dụ đầu đo QL40-FWS Full Waveform Sonic thu sóng kênh. Dùng nguồn phát sóng ngang, và thu sóng dọc bằng hydrophone, thu sóng ngang bằng đầu thu sóng địa chấn cơ điện, để tính ra tốc độ truyền sóng tương ứng, từ đó xác định tham số đàn hồi phục vụ khảo sát địa chất công trình. = Suspension PS Logging hay PS Log là một hệ thống đo thí nghiệm địa chấn trong hố khoan sâu trên 50m, nơi phép đo với nguồn trên mặt đất khó với tới được. Nó được các nhà nghiên cứu của OYO Corporation (Nhật Bản) phát triển vào giữa những năm 1970. Đầu đo gồm có nguồn phát sóng và các đầu thu lắp theo giãn cách cỡ 1m, tổng bề dài 6-7m, nối lên mặt đất bằng cáp nhiều ruột. Khoảng nối các phần tử trên làm bằng vật liệu cách âm (Filter tubes) để ngăn sóng truyền trực tiếp theo đầu đo. Nó không có càng ép thành hố khoan, nên chỉ làm việc đoạn có dung dịch khoan. Nguồn phát sóng là một búa điện (Solenoid hammer) phát xung có băng tần 100–1000 Hz, đặt dưới cùng. Khi sóng này gặp thành hố khoan sẽ phát sinh trao đổi sóng, cho ra sóng dọc và sóng ngang SH, lan trong đất đá và khúc xạ về các đầu thu. Kết quả ghi tại mỗi điểm độ sâu là băng ghi, được vạch sóng xác định thời gian truyền tp, ts. Tốc độ truyền sóng được tính cho hai điểm thu cạnh nhau, và tùy theo offset sẽ phản ánh cho đới xa gần quanh thành hố khoan. Gồm những dạng đo có thể không có nội dung vật lý, nhưng được thực hiện bởi khối điều khiển và tời cáp của hệ thống đo địa vật lý hố khoan. = Đo đường kính hố khoan (Caliper log) bằng đầu đo Caliper, thường có dạng cần chìa ra ba hướng với góc 120°. Đầu đo khép cần được thả xuống đáy hố khoan, sau đó mở cần rồi đo trong hành trình kéo lên. Nó phát hiện các đoạn lở thành do đất yếu, do dung dịch khoan không phù hợp. Ví dụ QL40-CAL 3-Arm Caliper dùng cho hố khoan đường kính 50 736 mm (2" 29"). = Đo độ lệch hố khoan (Deviation log) nhằm xác định độ nghiêng (Inclination) và phương vị (Azimuth) thực tế của từng đoạn hố khoan. Nó phục vụ giám sát các hố khoan nghiêng, hoặc để hiệu chỉnh độ sâu cho hố khoan thẳng đứng nhưng thi công bị lệch. Các máy thế hệ mới dùng máy đo từ fluxgate ba thành phần để xác định phương vị, và gia tốc kế (accelerometer) ba thành phần để xác định độ nghiêng, cho ra số đo liên tục, được số hóa và truyền lên mặt đất. Ví dụ đầu đo Mount Sopris QL40-DEV Borehole Deviation. Đo nhiệt độ hố khoan (Temperature log) nhằm xác định tình trạng nhiệt trong hố khoan. Tại các hố khoan địa chất thủy văn (tìm kiếm hoặc quan trắc nước ngầm) thì nhiệt độ liên quan đến dòng chảy và thấm lọc nước. Ví dụ đầu đo QL40-FTC Fluid Temperature Conductivity Probe. = Chụp ảnh thành hố khoan (Borehole Wall Imaging hay Borehole image logs) thực hiện chụp ảnh dọc thành hố khoan và cho ra ảnh trực quan về thành phần và trạng thái đất đá thành hố khoan. Chụp ảnh thực hiện trong hố khoan khô hoặc nước trong không chống. Hệ thống quan sát như đầu chụp ảnh QL40-OBI-2G Optical Televiewer gồm có camera dạng vành tròn (360°), lăng kính và đèn chiếu LED để thu nhận ảnh. Đầu đo còn có đầu dò độ lệch (Deviation) bằng máy từ fluxgate để định hướng, đảm bảo quét được ảnh liên tục và có số liệu phương vị rõ ràng. Nó cung cấp cả số liệu độ nghiêng và phương vị thực tế của từng đoạn. = Lấy mẫu thành hố khoan dùng ống chứa dãy các đầu đạn có đầu rỗng và dây giữ, đặt trong chứa thuốc súng và kíp điện nhỏ, thả xuống độ sâu quan tâm rồi điểm hỏa. Đầu đạn cắm vào thành hố khoan, thu giữ cỡ cm³ đất đá. Nếu đá cứng thì đầu đạn bị "bẹp đầu". Nó được thực hiện nơi khoan bị thiếu mẫu, hoặc có sự thiếu tương hợp giữa địa tầng khoan và kết quả đo địa vật lý hố khoan. Việc lấy mẫu phải quyết định ngay trước khi rời hiện trường. Ngày nay ít dùng vì các phương pháp khác đủ thông tin để thay thế. Xử lý phân tích là chủ đề rộng như số phương cách đo đạc được áp dụng vào hố khoan. Ngày nay hỗ trợ phân tích được tích hợp trong phần mềm phân tích, như WellCAD, hiện có version 5.2 (năm 2017), nên công đoạn này được thực hiện nhanh chóng. Khi đo hố khoan, số liệu thô (Raw Data) được ghi trong Cơ sở dữ liệu theo độ sâu quy ước. Đó là giá trị được tính theo cảm biến độ sâu cho điểm tính độ sâu quy ước, trong khi dãy các đầu đo lắp nối tiếp nhau, thì vị trí điểm đo vật lý đã cách đó vài mét. Điểm tính độ sâu quy ước tùy thuộc người đo chọn, chẳng hạn chọn là đầu nối cáp khi nó nằm miệng hố thì có độ sâu =0. Hiệu đính độ sâu chỉnh cho số liệu vật lý cụ thể về vị trí đặc trưng của nó, dựa theo độ dịch vị trí của điểm đo với điểm tính độ sâu quy ước trên dãy đầu đo. Xác định ranh giới vật lý-địa chất bằng các điểm đặc trưng tại vị trí có giá trị thay đổi mạnh. Nếu ranh giới theo các quan sát khác nhau bị lệch nhau thì phải tìm nguyên nhân. Trong thực tế thì có thể xảy ra địa vật lý, hoặc riêng phép đo nào đó, bị sai do lỗi thi công nào đó. Các phân tích định lượng thì theo quy trình của phương pháp cụ thể. Chẳng hạn kết quả đo phổ gamma chi tiết được dùng cho tính hàm lượng nguyên tố trong mỏ. Kết quả của tất cả các phép đo, cùng với cột địa tầng hố khoan đã hiệu chỉnh theo địa vật lý, được biểu diễn thành Băng ghi địa vật lý hố khoan. Hố khoan Đo đạc trong khi khoan Society of Petrophysicists Well Log Analysts Log I/O Java/.Net library for accessing files of common log formats like LAS, LIS, DLIS, CSV etc. | Địa vật lý hố khoan | Địa vật lý thăm dò, Hố khoan, Kinh tế địa chất, Địa chất công trình, Sản xuất dầu mỏ |
Lăng mộ Humayun (Hindustan: Maqbara-i Humayun) là lăng mộ của hoàng đế Mogul Humayun nằm Đông Nizamuddin, New Delhi, Ấn Độ. Lăng mộ được ủy quyền bởi hoàng hậu Bega Begum vào năm 1569-70 và được thiết kế bởi Mirak Mirza Ghiyas và con trai ông, Sayyid Muhammad, là những kiến trúc sư được hoàng hậu lựa chọn. Đây là lăng mộ trong vườn đầu tiên tiểu lục địa Ấn Độ nằm gần thành phố pháo đài Purana Qila, nơi mà lăng mộ được tìm thấy vào năm 1533. Đây là công trình đầu tiên sử dụng đá sa thạch đỏ có quy mô lớn như vậy. Lăng mộ được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1993 và kể từ đó lăng mộ này trải qua quá trình trùng tu trên diện rộng đã hoàn thành. Bên cạnh lăng mộ chính thì còn có một số di tích nhỏ nằm dọc theo con đường dẫn vào lăng mộ từ hướng tây bao gồm ngôi mộ thậm chí còn có niên đại trước cả lăng mộ chính khoảng 20 năm. Đó là quần thể lăng mộ của Isa Khan Niazi xây dựng năm 1547, một quý tộc người Pashtun dưới triều đại của vua Sher Shah Suri nhà Sur, người đã chiến đấu chống lại đế quốc Mogul. Quần thể lăng mộ bao gồm lăng mộ chính của Hoàng đế Humayun, nơi lưu giữ mộ của hoàng hậu Bega Begum, Hamida Begum, và cả Dara Shikoh, cháu của hoàng đế và là con trai của Shah Jahan cùng nhiều hoàng đế Mogul sau này khác như Jahandar Shah, Farrukhsiyar, Rafi Ul-Darjat, Rafi Ud-Daulat, Muhammad Kam Bakhsh và Alamgir II. Công trình đại diện cho bước nhảy vọt của kiến trúc Mogul, cùng với vườn Charbagh điển hình của vườn Ba Tư chưa từng thấy trước đó Ấn Độ tạo thành quần thể kiến trúc bước ngoặt cho kiến trúc Mogul tiếp sau đó. Lăng mộ Humayun được cho là sự khởi đầu rõ nét hơn từ lăng mộ khiêm tốn của cha ông là hoàng đế Babur được chôn cất Bagh-e Babur tại Kabul, Afghanistan. Mặc dù hoàng đế Babur vẫn được coi là người đầu tiên bắt đầu truyền thống được chôn cất tại một khu vườn thiên đường. Xa hơn nữa là Gur-e-Amir, lăng mộ tổ tiên của các hoàng đế Mogul và người chinh phục châu Á, hoàng đế Timur Samarkand, tạo tiền lệ cho kiến trúc Mogul của các lăng mộ hoàng gia, và đỉnh cao của kiến trúc này là Taj Mahal tại Agra. Địa điểm lựa chọn xây dựng lăng mộ là bên bờ sông Yamuna, do nằm gần Nizamuddin Dargah, lăng mộ của Nizamuddin Auliya là một vị thánh Sufi giáo nổi tiếng Delhi, người được những nhà cai trị Delhi tôn kính và sinh sống tại Chilla Nizamuddin Auliya phía đông bắc lăng mộ. Trong lịch sử của Mogul, hoàng đế cuối cùng của đế quốc là Bahadur Shah Zafar đã từng lánh nạn đây trong Cuộc nổi loạn Ấn Độ 1857, cùng với ba hoàng tử bị Đại úy Hodson bắt giữ trước khi bị đày tới Rangoon. Dưới thời triều đại Mamluk, khu vực này nằm dưới pháo đài KiloKheri, kinh đô của Sultan Kequbad, con trai của Nasiruddin. Quần thể lăng mộ Battashewala nằm trong vùng đệm di sản thế giới của lăng mộ Humayun. Hai khu vực ngăn cách bởi một con đường riêng biệt nhưng được bao bọc trong các bức tường. Taj Mahal Kiến trúc Ấn Độ Vườn Mogul Humayun | Lăng mộ Humayun | Kiến trúc Mogul, Delhi Humayun, Kiến trúc Hồi giáo, Khởi đầu năm 1572 Ấn Độ, Lịch sử thiết kế phong cảnh |
là một xã thuộc tỉnh Seine-Maritime trong vùng Normandie miền bắc nước Pháp. Lịch sử dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 2006 107 123 115 132 130 128 154 Từ năm 1962: Dân số không tính trùng *Xã của tỉnh Seine-Maritime *Seine-Maritime *Normandy INSEE on the Quid website | null | Xã của Seine-Maritime |
Armstrong Whitworth A.W.41 Albemarle là một loại máy bay vận tải quân sự hai động cơ của Anh trong Chiến tranh thế giới II. Albemarle ban đầu được thiết kế làm máy bay ném bom hạng trung, nhưng không được đưa vào trang bị. Thay vào đó nó được dùng cho các nhiệm vụ vận tải thông thường và đặc biệt, chở lính dù, kéo theo tàu lượn. *ST Mk I 99 chiếc *GT Mk I 69 *ST Mk II 99 *Mk III mẫu thử. *Mk IV mẫu thử. *ST Mk V 49 *ST Mk VI 133 *GT Mk VI 117 Albemarle Mk III và Mk IV là các dự án phát triển thử nghiệm động cơ: trước dùng động cơ Rolls-Royce Merlin III, và sau dùng loại 1,600 hp (1,190 kW) Wright Double Cyclone. Không quân Hoàng gia thumb ;Ghi chú ;Tài liệu Bowyer, Michael J.F. Aircraft for the Royal Air Force: The "Griffon" Spitfire, The Albemarle Bomber and the Shetland Flying-Boat. London: Faber Faber, 1980. ISBN 0-571-11515-2. Buttler, Tony. British Secret Projects: Fighters and Bombers 1935-1950. Hinckley, UK: Midland Publishing, 2004. ISBN 1-85780-179-2. Mason, Francis K. The British Bomber since 1914. London: Putnam Aeronautical Books. 1994. ISBN 0-85177-861-5. Morgan, Eric B. "Albemarle". Twentyfirst Profile, Volume 1, No. 11. New Milton, Hants, UK: 21st Profile Ltd. ISBN 0-9618210-0-4 Tapper, Oliver. Armstrong Whitworth Aircraft since 1913. London: Putnam, 1988. ISBN 0-85177-826-7. Williams, Ray. "The Unloved Albemarle". Air Enthusiast, Thurty-nine, May–August 1989, pp. 29–42. ISSN 0143-5450. "Armstrong Whitworth Albemarle", Flight. ngày 27 tháng năm 1944. pp. 87–91. "Whitley and Albemarle", Flight ngày tháng năm 1946 Albemarle | Armstrong Whitworth A.W.41 Albemarle | Máy bay quân sự Anh thập niên 1940, Máy bay chiến đấu, Máy bay quân sự, Máy bay ném bom, Máy bay vận tải, Máy bay hai động cơ cánh quạt, Máy bay cánh giữa |
là một chi ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống biển trong họ Buccinidae. Các loài thuộc chi Volutopsius gồm: Volutopsius castaneus Volutopsius deformis (Reeve, 1847) Volutopsius norvegicus Volutopsius norwegicus (Gmelin, 1791) Four new species found off Scottish coast Volutopsius scotiae Robin McKie, The Guardian, 28 tháng 12, 2013 Phát hiện loài sinh vật biển mới tại cùng một khu vực Volutopsius scotiae, Hồng Duy, Zing 20:12 NGÀY 29/12/2013 Thể | null | |
Hội chứng Cotard (hoặc ảo tưởng Cotard, hội chứng xác chết biết đi, zombie, cotard delusion và walking corpse syndrome), là một dạng rối loạn tâm thần hiếm gặp, trong đó bệnh nhân có ảo tưởng rằng mình "thật sự" đã chết, cơ thể thối rữa, hoặc đã mất máu hoặc các cơ quan nội tạng. Phân tích thống kê của một đoàn hệ hàng trăm bệnh nhân chỉ ra rằng việc phủ nhận sự tồn tại của bản thân có trong 45% các trường hợp mắc hội chứng Cotard; 55% bệnh nhân còn lại có ảo tưởng về sự bất tử. Năm 1880, nhà thần kinh học tình trạng được mô tả là ("Mê sảng của phủ định"), một hội chứng tâm thần với mức độ nghiêm trọng khác nhau. Một trường hợp nhẹ được đặc trưng bởi sự tuyệt vọng và ghê tởm bản thân, trong khi một trường hợp nặng được đặc trưng bởi ảo tưởng phủ định dữ dội và trầm cảm tâm thần mãn tính. Trường hợp của "Mademoiselle X" mô tả một người phụ nữ từ chối sự tồn tại của các bộ phận trên cơ thể và nhu cầu ăn của cô ấy. Cô nói rằng cô đã bị kết án đời đời nguyền rủa và do đó không thể chết một cái chết tự nhiên. Trong quá trình đau khổ "mê sảng phủ định", Mademoiselle chết vì đói. Chứng ảo tưởng của Cotard không được đề cập trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM) hoặc ấn bản thứ mười của Phân loại Thống kê Quốc tế về Bệnh tật và Các vấn đề Sức khỏe Liên quan (ICD-10) của Tổ chức tế Thế giới. Ảo tưởng phủ định là triệu chứng trung tâm trong hội chứng Cotard. Bệnh nhân thường phủ nhận sự tồn tại của chính họ, sự tồn tại của một bộ phận cơ thể nào đó, hoặc sự tồn tại của một phần cơ thể của họ. Hội chứng Cotard tồn tại trong ba giai đoạn: (i) Giai đoạn nảy mầm: xuất hiện các triệu chứng rối loạn tâm thần và chứng đạo đức giả; (ii) Giai đoạn nở rộ: phát triển đầy đủ hội chứng và ảo tưởng phủ định; và (iii) Giai đoạn mãn tính: tiếp tục hoang tưởng nghiêm trọng cùng với trầm cảm tâm thần mãn tính. Hội chứng Cotard đẩy người đau khổ tách rời khỏi những người khác do bỏ bê vệ sinh cá nhân và sức khỏe thể chất của họ. Ảo tưởng phủ định bản thân khiến bệnh nhân không thể hiểu được thực tại bên ngoài, từ đó tạo ra cái nhìn méo mó về thế giới bên ngoài. Những ảo tưởng về sự phủ định như vậy thường thấy bệnh tâm thần phân liệt. Mặc dù chẩn đoán hội chứng Cotard không yêu cầu bệnh nhân phải có ảo giác, nhưng ảo tưởng phủ định mạnh có thể so sánh được với bệnh nhân tâm thần phân liệt. Bài báo Betwixt Life and Death: Case Studies of the Cotard Delusion (1996) mô tả một trường hợp hiện đại về chứng ảo tưởng của Cotard xảy ra một người Scotland bị hỏng não trong một vụ tai nạn xe máy: Bài báo Trầm cảm vị trí tái phát với chứng ảo tưởng Cotard (2005) mô tả trường hợp của một cậu bé mười bốn tuổi mắc hội chứng Cotard sau cơn động kinh. Tiền sử sức khỏe tâm thần của bệnh nhân là một cậu bé thể hiện các chủ đề về cái chết, nỗi buồn kinh niên, giảm hoạt động thể chất trong thời gian vui chơi, rút lui xã hội và rối loạn chức năng sinh học. Khoảng hai lần một năm, cậu bé bị các đợt kéo dài từ ba tuần đến ba tháng. Trong mỗi khoảng thời gian đó, cậu bé nói rằng mọi người và mọi thứ đều đã chết (kể cả cây cối), tự mô tả mình như một xác chết và cảnh báo rằng thế giới sẽ bị hủy diệt trong vòng vài giờ. Trong suốt khoảng thời gian này, cậu bé không phản ứng với những kích thích thú vị và không quan tâm đến các hoạt động xã hội. | Hội chứng Cotard | |
Tập đoàn Tata là một trong những tập đoàn công ty lớn nhất của Ấn Độ có trụ sở tại Mumbai, Maharashtra, Ấn Độ. Nó có thu nhập năm 2005-2006 là 967,229 triệu rupi (21,9 tỷ USD) tương đương với 2.8% GDP của Ấn Độ và thị trường vốn khoảng 57,6 tỷ USD (chỉ 28 trong số 96 công ty trong tập đoàn Tata được niêm yết chứng khoán). Tập đoàn đã hoạt động trên hơn 40 quốc gia trên lục địa, Sản phẩm xuất khẩu và dịch vụ của công ty đến hơn 140 quốc gia. Tập đoàn mang tên người thành lập là Jamshedji Tata, ông là chủ tịch tập đoàn và dẫn dắt công ty từ năm 1868.Tập đoàn có 96 công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Tập đoàn Tata đầu tư khoảng 3,5 tỷ USD vào lĩnh vực thép của Việt Nam. Tata Group collected news and commentary at BloombergQuint | Tập đoàn Tata | Công ty Ấn Độ, Khởi đầu năm 1868 |
NSND Tiến sĩ Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là "Cải lương chi bảo". Trước năm 1975, bà kết hợp cùng nghệ sĩ Hùng Cường tạo thành "Cặp sóng thần" cực kì nổi tiếng của sân khấu cải lương thời đó. Bà cũng là Tiến sĩ Nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam tại hai viện hàn lâm Anh quốc và Bulgaria với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam với điều kiện sinh hoạt hiện đại của khán giả thế kỷ thứ 21". Bà còn viết lời vọng cổ cho các bài tân nhạc với bút danh là Nguyễn Thị Khánh An. Bà tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Đốc (nay thuộc Khánh An, An Phú), tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ. Mồ côi mẹ khi tuổi (1955), và bắt đầu đi hát những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như Nắng đẹp miền Nam, Làng tôi, Tiếng còi trong sương đêm,... Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, Thanh Nga nói với Bạch Tuyết rằng "Em đi hát đi, chứ mặt em mà đi hát thì em nổi tiếng dữ lắm", lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng. Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. Nhờ đó, tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này. Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở "Lá thắm chỉ hồng", cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở "Kiếp chồng chung", "Suối mơ rền áo cưới",... Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở "Tiếng hát Muồng Tênh", tên tuổi bà bắt đầu được chú ý. Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế để đi học. Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau, bà đoạt Giải Thanh Tâm cho Diễn viên triển vọng. Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở Tần nương thất đã mang lại cho bà Huy chương Vàng giải Thanh Tâm cho Diễn viên xuất sắc. Cũng trong năm này, bà được soạn giả Hoa Phượng và giới báo chí tặng cho danh xưng "Cải lương chi bảo" do sự thành công của vai diễn Lê Thị Trường An trong vở "Tuyệt tình ca". Danh xưng này gắn liền với tên tuổi bà đến tận bây giờ. Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành một cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả, được báo chí thời đó phong tặng là "Cặp sóng thần" vì sức hút và độ ăn khách của họ vô cùng mãnh liệt. Bà lại đoàn Dạ Lý Hương thêm năm nữa. Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, bà cùng với Hùng Cường mở gánh hát Hùng Cường Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Cung thương sầu nguyệt hạ,... Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật. Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn. Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia. Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á" và trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn phát triển văn hóa văn hóa dân tộc của Trường Đại học Bình Dương, bà đã tổ chức nhiều chương trình sân khấu có giá trị về nghệ thuật dân tộc. Hằng tháng, trung tâm này kết hợp cùng Đài Truyền hình Bình Dương thực hiện chương trình "Chân dung đối thoại" với mục đích phổ biến, đề cao văn hóa nghệ thuật dân tộc. Luôn đau đáu với sự nghiệp phát triển cải lương, bà ôm ấp kế hoạch xây dựng những "trường ca cải lương" và âm thầm bắt tay vào viết những trường ca chuyển thể từ tác phẩm Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Bút quan hoài (Trần Tuấn Khải),… Hiện tác phẩm chuyển thể Kinh Pháp Cú thành trường ca cải lương của bà với nhiều bài bản dễ nhớ, dễ hát, dễ thuộc đã được tái bản nhiều lần qua hình thức VCD, được khán giả đón nhận và khen ngợi… Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân lần xét duyệt thứ (năm 2011). Những người bà có dịp ca diễn chung: Thanh Sang, Bảo Quốc, Ngọc Giàu, Thanh Tuấn, Lệ Thủy, Diệp Lang, Minh Phụng, Minh Vương, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn,... Bà từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với bà để lại ấn tượng sâu sắc nhất vẫn là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi "sóng thần" cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960. Vào năm 2022, cùng với Hoàng Dũng, ca khúc Về nghe mẹ ru đã đoạt giải TikTok Awards Việt Nam hạng mục Âm nhạc của năm. Bà có rất nhiều vai diễn trên sân khấu cải lương, những vai nổi tiếng của bà: Kiều Nguyệt Nga, Thái hậu Dương Vân Nga, Đời cô Lựu,... Cho trọn cuộc tình (vai Thuý An) Chuyện tình Hàn Mặc Tử (vai Mộng Cầm) Dốc sương mù (vai Lan) Đoạn tuyệt (vai Loan) Đời cô Lựu (vai cô Lựu) Kim Vân Kiều (vai Thúy Kiều) Lục Vân Tiên (vai Kiều Nguyệt Nga) Mùa thu lá bay (vai Hàn Ni) Mưa rừng (vai Tuyền) Nguyệt khuyết (vai bà Xinh) Nửa đời hương phấn (vai Diệu) (sau này khi diễn lại là vai The/Hương) Tần nương thất (hay Nỗi buồn con gái) (vai Tần) Thái hậu Dương Vân Nga (vai Dương Vân Nga) Tuyệt tình ca (vai Lê Thị Trường An) Kim Vân Kiều Kinh Pháp Cú Đức Phật Thích ca Kiều Nguyệt Nga Đời cô Lựu Thái hậu Dương Vân Nga Mùa thu lá bay CD Cải Lương Thính Phòng "Tân cổ nhạc Trịnh". Cải lương thính phòng "Gợi giấc mơ xưa" 24 giờ phép (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo) 100 phần trăm (Tân nhạc: Tuấn Hải, Ngọc Sơn) Bạch Thu Hà (Tác giả: NSND Viễn Châu) Bông hồng cài áo (Tân nhạc: Phạm Thế Mỹ; cổ nhạc: Nguyễn Thị Khánh An) Chuyến tàu hoàng hôn (Tân nhạc: Hoài Linh, Minh Kỳ; cổ nhạc: Nguyễn Thị Khánh An) Chuyến xe thơ mộng Dạ cổ hoài lang (Tác giả: Cao Văn Lầu) Đau xót lý chim quyên (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển; lời vọng cổ: Nguyễn Thị Khánh An) Đêm nhớ người tình (Tân nhạc: Đài Phương Trang; cổ nhạc: NSND Viễn Châu) Đêm Gành hào nghe điệu hoài lang (Nhạc: Vũ Đức Sao Biển) Đón xuân này nhớ xuân xưa (Nhạc: Châu Kỳ; lời vọng cổ: Loan Thảo) Dương Quý Phi (Sáng tác: NSND Viễn Châu) Giết người anh yêu (Nhạc: Vinh Sử; lời vọng cổ: NSND Viễn Châu) Giọng ca dĩ vãng (Tân nhạc: Bảo Thu; cổ nhạc: Loan Thảo) Hoa tím em cài lên áo chiến Kẻ miền xa (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo) Lối mộng thiền xưa (Tác giả: Nguyễn Thị Khánh An) Miền nhớ (Tác giả: Lê Duy Hạnh) Món quà giáng sinh (Sáng tác: Loan Thảo) Núm ruột quê hương (Sáng tác: Hải Đăng) Thêu áo như lai (Tác giả: Nguyễn Thị Khánh An) Thương màu áo lam (Tân nhạc: Vũ Ngọc Toản; cổ nhạc: Nguyễn Thị Khánh An) Tình ca đất phương Nam (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển Lư Nhất Vũ Lê Giang; cổ nhạc: Nguyễn Thị Khánh An) Tình ca quê hương (Nhạc: Việt Lang; lời vọng cổ: Nguyễn Thị Khánh An) Tình sầu (Nhạc: Trịnh Công Sơn; lời vọng cổ: Nguyễn Thị Khánh An) Tình sơn nữ (Tác giả: Chương Đài) Xin anh giữ trọn tình quê (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: Loan Thảo) Xin đừng trách anh *... Như hạt mưa sa (1971) Như giọt sương khuya (1972) Lan và Điệp Con ma nhà họ Hứa (1973) Thạch Thảo (2018) Biệt đội rất ổn Với bút danh: Nguyễn Thị Khánh An Hơn 300 bài tân cổ do bà tự sáng tác. Bông hồng cài áo Thêu áo như lai Thương màu áo lam Miền nhớ Tình ca đất phương Nam Chuyến tàu hoàng hôn Mưa nửa đêm Tình ca quê hương Chuyến tàu hoàng hôn Đau xót lý chim quyên Trăng về thôn dã *... Ba người mẹ (kịch bản: Khưu Ngọc) Dấu chân cỏ dại (kịch bản: Nguyễn Chí Trung, chyển thể cải lương: Nguyễn Thị Khánh An) Đài Trang Đêm của bóng tối (kịch bản: Lê Chí Trung) Dung Lệ Hoàng hậu của hai vua (kịch bản: Lê Duy Hạnh) Hương trầm cho mẹ (kịch bản: Khưu Ngọc) Một chồng (Tiểu thuyết: Ngọc Linh, chuyển thể cùng Hồ Công Thành) Mùa thu trong mắt mẹ Ngôi nhà không có đàn ông (kịch bản: Ngọc Linh, chyển thể cải lương: Nguyễn Thị Khánh An) Tình xa nghĩa lạ'' Bà từng tìm cách quyên sinh lần nhưng bất thành. Bà từng quy Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc tại chùa Sắc Tứ (Tiền Giang) do Sư bà Thông Huệ quy y. Bà học Thiền với hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ (Thiền phái Trúc Lâm yên tử) Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Dù ly dị nhưng sau này người vẫn dành cho nhau những lời tốt đẹp. Sau khi ly dị, cũng trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ với ông Charles Nguyễn Văn Đức, một Việt kiều quốc tịch Pháp. Hai người có với nhau người con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang làm việc Mỹ. Hiện tại bà có cháu nội trai đang học tập sinh sống tại Mỹ. Riêng bà vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Phỏng vấn Nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết: Cải lương là bài giảng pháp đẹp nhất Kim Yến thực hiện | NSND Tiến sĩ Bạch Tuyết | Người An Giang, Nghệ sĩ cải lương, Nữ diễn viên sân khấu Việt Nam, Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam, Phật tử Việt Nam, Nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam, Nhà viết kịch Việt Nam, Soạn giả cải lương, Nhà soạn kịch thế kỷ 20, Nhà soạn kịch thế kỷ 21, Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 20, Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 21, Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Nhạc sĩ Việt Nam thế kỷ 20, Nhạc sĩ Việt Nam thế kỷ 21, Người họ Nguyễn |
Nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Apink trực thuộc công ty giải trí Plan Entertainment được thành lập vào ngày 19 tháng năm 2011. Kể từ khi ra mắt công chúng với EP Seven Springs of Apink, nhóm đã phát hành album phòng thu, album đặc biệt, EP tại thị trường Hàn Quốc. Tại thị trường Nhật Bản, nhóm đã phát hành album phòng thu, album tổng hợp. Nhan đề Chi tiết Vị trícao nhất Doanh số Hàn Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ Tiếng Hàn Une Annee Phát hành: tháng năm 2012 Nhãn đĩa: Cube Entertainment, CJ E&M Music and Live Định dạng: CD, tải nhạc số Hàn Quốc: 40.510+ Pink Memory Phát hành: 21 tháng năm 2015 Nhãn đĩa: Cube Entertainment, LOEN Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số 36 Hàn Quốc: 90.080+ Nhật Bản: 3.756+ Pink Revolution Phát hành: 26 tháng năm 2016 Nhãn đĩa: Plan Entertainment, LOEN Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số 39 12 Hàn Quốc: 50.375+ Nhật Bản: 2.631+ Tiếng Nhật Pink Season Phát hành: 26 tháng năm 2015 Nhãn đĩa: Universal Music Japan Định dạng: CD, tải nhạc số Nhật Bản: 12.624+ Pink Doll Phát hành: 21 tháng 12 năm 2016 Nhãn đĩa: Universal Music Japan Định dạng: CD, tải nhạc số 10 Nhật Bản: 11.430+ Pink Stories Phát hành: 27 tháng 12 năm 2017 Nhãn đĩa: Universal Music Japan Định dạng: CD, tải nhạc số 20 Nhật Bản: 3.898+ "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó Nhan đề Chi tiết Vị trícao nhất Doanh số Hàn Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ Dear Phát hành: 15 tháng 12 năm 2016 Nhãn đĩa: Plan Entertainment, LOEN Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số 61 Hàn Quốc: 31.077+ Nhật Bản: 1.723+ MIRACLE Phát hành: 19 tháng năm 2018 *Nhãn đĩa: Play M(PlanA) Entertaiment, KakaoM Entertaiment Định dạng: CD, tải nhạc số 10 "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó Nhan đề Chi tiết Vị trícao nhất Doanh số Hàn Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ Nhật Bản 2011-2014 Best Of Apink Phát hành: 17 tháng 12 năm 2014 Nhãn đĩa: Universal Music Japan Định dạng: CD 56 Nhật Bản: 3.229+ Pink LUV Blossom Phát hành: tháng 10 năm 2015 Nhãn đĩa: Universal Music Ltd. Định dạng: tải nhạc số *— "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó Nhan đề Chi tiết Vị trí cao nhất Doanh số Nhật Bản APINK 1st Concert PINK PARADISE Phát hành: 24 tháng năm 2015 (NB) Nhãn đĩa: Copan Global Định dạng: DVD 22 Apink 1st Live Tour 2015 PINK SEASON Phát hành: 10 tháng năm 2016 Nhãn đĩa: Copan Global Định dạng: DVD, Blu-ray 17 (DVD) 11 (Blu-ray) APINK 2nd Concert Pink Island Phát hành: tháng năm 2016 (NB) Nhãn đĩa: Copan Global Định dạng: DVD 23 Apink 2nd Live Tour 2016 PINK SUMMER Phát hành: 16 tháng 10 năm 2016 (NB) Nhãn đĩa: Copan Global Định dạng: DVD, Blu-ray (DVD) (Blu-ray) *Nhật Bản: 2.763+ Nhan đề Chi tiết Vị trícao nhất Doanh số Hàn Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ Seven Springs of Apink *Phát hành: 19 tháng năm 2011 *Nhãn đĩa: Cube Entertainment, CJ E&M Music and Live *Định dạng: CD, tải nhạc số Hàn Quốc: 16.365+ Snow Pink *Phát hành: 22 tháng 11 năm 2011 *Nhãn đĩa: Cube Entertainment, CJ E&M Music and Live *Định dạng: CD, tải nhạc số Hàn Quốc: 25.701+ Secret Garden *Phát hành: tháng năm 2013 *Nhãn đĩa: Cube Entertainment, CJ E&M Music and Live *Định dạng: CD, tải nhạc số 81 Hàn Quốc: 71.247+ Nhật Bản: 3.480+ Pink Blossom *Phát hành: 31 tháng năm 2014 *Nhãn đĩa: Cube Entertainment, LOEN Entertainment *Định dạng: CD, tải nhạc số 59 Hàn Quốc: 76.307+ Nhật Bản: 6.139+ Pink Luv Phát hành: 24 tháng 11 năm 2014 Nhãn đĩa: Cube Entertainment, LOEN Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số 53 Hàn Quốc: 80.698+ Nhật Bản: 4.805+ Pink Up Phát hành: 26 tháng năm 2017 Nhãn đĩa: Plan Entertainment, LOEN Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số 49 14 Hàn Quốc: 54.681+ Nhật Bản: 1.556+ ONE&SIX *Phát hành: tháng năm 2018 Nhãn đĩa: Play (PlanA) Entertainment, KakaoM Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số *Hàn Quốc: 64.010+ Nhật Bản: update PERCENT *Phát hành: tháng năm 2019 Nhãn đĩa: Play (PlanA) Entertainment, KakaoM Entertainment Định dạng: CD, tải nhạc số *Hàn Quốc: 40.000+ Nhật Bản: update "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó Nhan đề Năm Vị trí cao nhất Doanh số Album Gaon Billboard Oricon Billboard Tiếng Hàn "I Don't Know" 2011 20 Hàn Quốc: 999.637+ Seven Springs of Apink "It Girl" (Remix Version) 47 Hàn Quốc: 425.781+ "My My" 16 16 Hàn Quốc: 1.906.585+ Snow Pink "April 19th" 2012 44 35 Hàn Quốc: 149.514+ Une Annee "Hush" 11 13 Hàn Quốc: 1.280.030+ "Bubibu" (Remix Version) 20 18 Hàn Quốc: 501.234+ "NoNoNo" 2013 Hàn Quốc: 1.786.623+ Secret Garden "Good Morning Baby" 2014 11 Hàn Quốc: 457.087+ Pink Luv "Mr. Chu" (On Stage) Hàn Quốc: 1.580.825+ Pink Blossom "My Darling" (Apink BnN) 22 17 Hàn Quốc: 100.271+ Pink Luv "Luv" Hàn Quốc: 1.490.824+ "Promise U" 2015 16 Hàn Quốc: 72.460+ Pink Memory "Remember" Hàn Quốc: 1.111.701+ "The Wave" () 2016 16 Hàn Quốc: 154.085+ Pink Revolution "Only One" () Hàn Quốc: 449.622+ "Cause You're My Star" () 25 Hàn Quốc: 142.763+ Dear "Always" 2017 32 Hàn Quốc: 50.855+ Pink Up "Five" Hàn Quốc: 609.147+ "Miracle" 2018 Miracle "I'm so sick" ONE&SIX "Eung Eung(%%)" 2019 17 PERCENT Everybody Ready 2019 Tiếng Nhật "NoNoNo" 2014 Nhật Bản: 39.217+ Pink Season "Mr. Chu" 2015 Nhật Bản: 59.460+ "Luv" Nhật Bản: 47.100+ "Sunday Monday" 19 Nhật Bản: 18.591+ Pink Doll "Brand New Days" 2016 11 26 *Nhật Bản: 10.737+ "Summer Time" *Nhật Bản: 41.12+ "Bye Bye" 2017 16 *Nhật Bản: 23.220+ 27 *Nhật Bản: 13.465+ Orio "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó Nhan đề Năm Album "Let Us Just Love" () 2011 Protect the Boss "Christmas Song" ()(cùng các nghệ sĩ của United Cube) 2013 Bài hát Năm Vị trí cao nhất Doanh số(Nhạc số) Album Hàn Quốc "Cat" 2012 175 Une Annee "Step" 170 "Boy" 189 "I Got You" 187 "Up To The Sky" () 156 "U You" 2013 42 Hàn Quốc: 120.018+ Secret Garden "Lovely Day" 67 Hàn Quốc: 55.619+ "I Need You" () 127 Hàn Quốc: 21.216+ "Secret Garden" 136 Hàn Quốc: 21.349+ "Sunday Monday" 2014 22 Hàn Quốc: 59.490 Pink Blossom "Fairytale Love" () 24 Hàn Quốc: 45.262+ "So Long" 30 Hàn Quốc: 38.354+ "Crystal" 32 Hàn Quốc: 37.845+ "Mr. Chu" 52 Hàn Quốc: 27.380+ "Secret" 14 Hàn Quốc: 146.444+ Pink Luv "Wanna Be" 37 Hàn Quốc: 46.760+ "Not an Angel" () 39 Hàn Quốc: 45.527+ "Love Like Fairytale" () 45 Hàn Quốc: 42.166+ "Perfume" 2015 92 Hàn Quốc: 28.540+ Pink Memory "Attracted to U"() 63 Hàn Quốc: 42.436+ "Dejavu" 95 Hàn Quốc: 28.566+ "Petal" () 70 Hàn Quốc: 38.444+ "A Wonderful Love" Hàn Quốc: 26.685+ "I DO" Hàn Quốc: 26.116+ "What Boy Wants" Hàn Quốc: 25.431+ "Boom Pow Love" 2016 46 Hàn Quốc: 24.186+ Pink Revolution "Ding Dong" 56 Hàn Quốc: 21.992+ "Oh Yes" 62 Hàn Quốc: 20.036+ "Fairy" 83 Hàn Quốc: 17.819+ "To. Us" 84 Hàn Quốc: 17.731+ "Catch Me" 91 Hàn Quốc: 16.586+ "Eyes" 2017 75 Hàn Quốc: 32.163+ Pink Up "Kok Kok" 97 Hàn Quốc: 25.055+ Hàn Quốc: 22.329+ "—" nghĩa là không được xếp hạng hoặc không được phát hành tại vùng lãnh thổ đó. Năm Bài hát Thành viên Nghệ sĩ Album 2011 "Skinny Baby" Apink Beast 2012 "Love Day" (Tiếng Hàn Quốc: Jung Eunji Yang Yo-seob (Beast) A Cube for Season #Green 2013 "A Year Ago" (Tiếng Hàn Quốc: Jung Eunji,Kim Namjoo Jang Hyun-seung (Beast) A Cube for Season #White "5! My Baby" Apink Beast "Short Hair" (Tiếng Hàn Quốc: Jung Eunji Huh Gak A Cube for Season #Blue "Know We're Going to Break Up" (Tiếng Hàn Quốc: Huh Gak Little Giant "One Minute Ago" Kang Ho-dong Barefooted Friends OST "Fanta Time" Lee Kwang-soo, Niel (Teen Top) "Mini" (Tiếng Hàn Quốc: Apink B.A.P "Let's Talk About You" (Tiếng Hàn Quốc: Yoon Bomi M.I.B The Maginot Line "Christmas Song" (Tiếng Hàn Quốc: Apink United Cube 2014 "Break Up To Make Up" Jung Eunji Huh Gak A Cube for Season #Sky-Blue "The Best Thing Did" (Tiếng Hàn Quốc: Oh Hayoung Jiggy Dogg The Best Thing Did "My Darling"(Tiếng Hàn Quốc: Yoon Bomi, Kim Namjoo Brave Brothers 10th Anniversary Project Part By Brave Brothers 2015 "Photograph" (Tiếng Hàn Quốc: Kim Namjoo Yook Sung-jae A Cube for Season #Blue Season 2 "I Know Know" (Tiếng Hàn Quốc: Yoon Bomi David Oh Singing Begins "Lovely" (Tiếng Hàn Quốc: Lim Seul-ong Some Guys, Some Girls OST "Let's Eat Together" (Tiếng Hàn Quốc: Yoon Hyun-sang "Sweet Now" (Tiếng Hàn Quốc:) Kim Namjoo Damiano Sweet Now 2016 "Ocean"(Tiếng Hàn Quốc: Jung Eunji Huh Gak Plan First Episode "One Night Is More Beautiful Than Day Summer"(Tiếng Hàn Quốc: Yoon Bomi, Kim Namjoo Various Artists Merry Summer "Summer Ice Cream"(Tiếng Hàn Quốc: Jung Eunji Hanhae "Visual Gangster"(Tiếng Hàn Quốc: MC MONG U.F.O "The Reason Got Pretty"(Tiếng Hàn Quốc: Park Ji-hyo Ben Inkigayo Music Crush Part 1 Năm Bài hát Thành viên Album 2011 우리 그냥 사랑하게 해주세요 (Please Let Us Love) Apink Protect the Boss OST 2012 All For You (với Seo In Guk) Jung Eunji Reply 1997 OST 우리 사랑 이대로 (Just The Way We Love) (với Seo In Guk) 2013 One Minute Ago (với Kang Ho Dong) Barefooted Friends OST 2014 그대라구요 (It's You) Three Days OST 2015 Lovely해 (Lovely) Yoon Bomi Some Guys, Some Girls OST 2015 잊었니 (Did You Forget) Apink BnN Two Yoo Project Sugarman OST Part 1 2016 Brand New Days Apink Rilu Rilu Fairilu ~Yousei no Door~ OST 그녀의 연인에게 (For Her Lover) Jung Eunji Two Yoo Project Sugarman OST Part 19 스위티 (Sweety) Yoon Bomi Two Yoo Project Sugarman OST Part 33 사랑 앞에서 (A Love Before) Jung Eunji Entertainer OST Without You Yoon Bomi Cinderella and Four Knights OST 2017 그대란 정원 (You're My Garden) Jung Eunji Strong Woman Do Bong Soon OST Part 1 Papipupe Pon! Apink Rilu Rilu Fairilu ~Yousei no Door~ Season OST Pray You Apink BnN School 2017 OST Part.6 You Are My Garden Jung EunJi Strong Woman Do Bong Soon 2018 Stay Jung EunJi Suit OST Part 2 Năm MV Ghi chú 2011 "I Don't Know" () Khách mời: Lee Gi-kwang "Wishlist" "It Girl" "My My" "Skinny Baby" với Beast (Skoolooks CF) 2012 "Hush" "Cat" Video không chính thức, được sản xuất bởi các thành viên Apink 2013 "5! My Baby" với Beast (Skoolooks CF) "NoNoNo" Phiên bản tiếng Hàn "Secret Garden" "U You" "Mini" với B.A.P (Skoolooks CF) 2014 "Good Morning Baby" Kỷ niệm 1000 ngày debut "Mr. Chu" "Crystal" "NoNoNo" Phiên bản tiếng Nhật "Luv" 2015 "Mr. Chu" Phiên bản tiếng Nhật "Promise U" Kỷ niệm năm debut "Luv" Phiên bản tiếng Nhật "Remember" "Petal" () "Sunday Monday" Phiên bản tiếng Nhật 2016 "Brand New Days" "The Wave" (네가 손짓해주면) Kỷ niệm năm debut "Summer Time" (サマータイム!) "April 19th" Phiên bản tiếng Nhật "My My" Phiên bản tiếng Nhật "Only One" (내가 설렐 있게) "Cause You're My Star" (별의 별) 2017 "Bye Bye" "FIVE" (もっとGO!GO!) "Always" Kỷ niệm năm Debut "Orion" 2018 "I’m So Sick" "Miracle" Kỷ niệm năm Debut 2019 "Eung Eung (%%)" "Everybody Ready" Kỷ niệm năm Debut Năm MV Nghệ sĩ Thành viên 2010 "Breath" () Beast Son Naeun "Beautiful" Tất cả 2011 "Shock" (Japanese Version) Park Chorong "I Like You the Best" () Son Naeun 2012 "Insane" BTOB Park Chorong "A Person Used to Love" () Huh Gak Son Naeun "It Hurts" () "Mayday" Mario Tất cả (ngoại trừ Jung Eunji) 2013 "Christmas Song" () United Cube Tất cả "That's My Fault" () Speed Son Naeun "It's Over" "1440" Huh Gak Oh Hayoung "Frozen" () Shin Bora Oh Hayoung "Marry Me" K-Hunter Yoon Bo-mi 2014 "Shall We Dance With Dr. Lim" Im Chang-jung Yoon Bomi Park Chorong Oh Hayoung 2016 "One Night Is More Beautiful Than Day Summer" (우리의 밤은 당신의 낮보다 아름답다) Various Artists Yoon Bomi Kim Namjoo "I'm Fine" (아무렇지 않은 척) Victon Son Naeun 2017 "Miss You" (혼자, 한잔) Huh Gak Park Chorong "New Face" PSY Son Naeun "Oasis" () Plan Family Tất cả Ngày phát hành Định dạng Tựa đề 10 tháng năm 2015 DVD Apink JAPAN Fanmeeting 2015 -Pink Valentine with U- 24 tháng năm 2015 DVD Apink 1st Concert Live "PINK PARADISE" 10 tháng năm 2016 DVD/Bluray Apink 1st Live Tour 2015 -Pink Season- tháng năm 2016 DVD Apink 2nd Concert Live "PINK ISLAND" 26 tháng 10 năm 2016 DVD/Bluray Apink 2nd Live Tour 2015 -Pink Summer- | null | Apink Apink |
(85532) 1997 WD21 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Yoshisada Shimizu và Takeshi Urata Đài thiên văn Nachi-Katsuura Nachikatsuura, Wakayama, Nhật Bản, ngày 23 tháng 11 năm 1997. *Danh sách các tiểu hành tinh: 85001–86000 | (85532) 1997 WD21 | Được phát hiện bởi Takeshi Urata, Được phát hiện bởi Yoshisada Shimizu |
'Parinari là một loài thực vật có hoa trong họ Cám. Loài này được Planch. ex Benth. mô tả khoa học đầu tiên năm 1849. Tập tin:Parinari curatellifolia 1.jpg Tập tin:Parinari curatellifolia (bark).jpg | null | Parinari |
Quốc hội Hoa Kỳ là cơ quan lập pháp lưỡng viện của Hoa Kỳ, gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện có 435 Hạ nghị sĩ, Thượng viện có 100 Thượng nghĩ sĩ. Nghị sĩ Quốc hội do người dân bầu trực tiếp, nhưng thống đốc các bang có quyền bổ khuyết Thượng nghị sĩ. Phó tổng thống Hoa Kỳ chủ tọa các phiên họp của Thượng viện, nhưng chỉ được biểu quyết khi số phiếu tán thành bằng số phiếu không tán thành. Hạ viện có sáu đại biểu không biểu quyết. Quốc hội Hoa Kỳ họp Nhà Quốc hội tại Washington, D.C. Thời gian một khóa Quốc hội là hai năm, bắt đầu từ tháng 1. Bầu cử Quốc hội được tổ chức vào năm số chẵn vào thứ Ba tiếp theo sau thứ Hai thứ nhất trong tháng 11. Nhiệm kỳ của Hạ viện là hai năm. Pháp luật quy định số hạ nghị sĩ là 435, mỗi khu vực bầu cử bầu một hạ nghị sĩ. Mỗi bang được phân bổ một số hạ nghị sĩ nhất định, được quyết định theo dân số của mỗi bang căn cứ kết quả Điều tra dân số Hoa Kỳ, nhưng mỗi bang được ít nhất một hạ nghị sĩ. Cứ mười năm phân bổ lại số hạ nghị sĩ. Thượng nghị sĩ do người dân toàn bang bầu, nhiệm kỳ sáu năm. Cứ hai năm bầu khoảng một phần ba số thượng nghị sĩ. Mỗi bang có hai thượng nghị sĩ, bất kể dân số hay diện tích. Hiện tại, có 100 thượng nghị sĩ. Hạ nghị sĩ phải là công dân Hoa Kỳ trong bảy năm và đủ 25 tuổi trở lên. Thượng nghị sĩ phải là công dân Hoa Kỳ trong chín năm và đủ 30 tuổi trở lên. Nghị sĩ phải thường trú bang bầu họ. Nghị sĩ được tái cử không giới hạn số lần. Quốc hội Hoa Kỳ do Hiến pháp Hoa Kỳ thành lập thay thế Quốc hội Hợp bang. Quốc hội họp lần đầu tiên vào năm 1789. Kể từ thế kỷ 19, nghị sĩ Quốc hội thường là đảng viên Đảng Dân chủ hoặc Đảng Cộng hòa, hiếm khi là đảng viên những đảng khác hoặc không đảng phái. Nghị sĩ không đảng phái có thể liên minh với những nghị sĩ có đảng tịch. Nghị sĩ cũng có thể tùy nghi đổi đảng tịch, nhưng trường hợp này khá hiếm. Thư viện Quốc hội thuyết minh Quốc hội Hoa Kỳ thực hiện quyền lập pháp. Hạ viện và Thượng viện ngang quyền: luật phải được Hạ viện và Thượng viện thông qua. Mỗi viện có một số đặc quyền. Thượng viện phê chuẩn điều ước và đề nghị bổ nhiệm của tổng thống. Hạ viện được trình dự án luật thu ngân sách trước. Năm 1868, ủy ban hạ nghị sĩ này luận tội Tổng thống Andrew Johnson, nhưng Thượng viện không kết tội ông. Hạ viện đề xuất luận tội, Thượng viện quyết định luận tội. Kết tội phải được hai phần ba tổng số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Công chức bị Thượng viện kết tội bị cách chức. Thời gian một khóa Quốc hội là hai năm. Tu chính án XX Hiến pháp Hoa Kỳ quy định mỗi khóa Quốc hội bắt đầu và kết thúc vào buổi trưa ngày thứ ba trong tháng Giêng vào mỗi năm lẻ. Quốc hội Hoa Kỳ luôn luôn thay đổi. Gần đây, miền Nam và miền Tây Hoa Kỳ được phân bổ nhiều hạ nghị sĩ hơn do dân số gia tăng. Quốc hội ngày càng nhiều nghị sĩ phụ nữ và thiểu số. Nghị sĩ Quốc hội thay mặt hai nhóm khác nhau: hạ nghị sĩ thay mặt địa phương, thượng nghị sĩ thay mặt bang. Hầu hết các nghị sĩ đương nhiệm đều ứng cử lại. Căn cứ sử liệu, cứ mười nghị sĩ thì hơn chín người tái đắc cử. Thủ đô Washington, D.C. trực thuộc Quốc hội Hoa Kỳ. Các đại biểu của mười hai trong Mười ba thuộc địa Mỹ họp lần đầu Hội nghị Lục địa khóa Một. Ngày tháng năm 1776, Hội nghị Lục địa khóa Hai thông qua Tuyên ngôn Độc lập, sáng lập nước "Hợp chúng quốc Mỹ". Hội nghị Lục địa khóa Hai ban hành Điều khoản Hợp bang, thành lập Quốc hội Hợp bang. Quốc hội Hợp bang gồm đại biểu các bang, mỗi bang được số đại biểu bằng nhau, đại biểu mỗi bang có quyền phủ quyết hầu hết các quyết định của Quốc hội Hợp bang. Quốc hội Hợp bang có quyền hành pháp, nhưng không có quyền lập pháp, quyền cưỡng chế thu thuế, quản lý nền kinh tế hay thi hành luật. Tư pháp thì Quốc hội Hợp bang chỉ được thành lập tòa án hàng hải. Cảnh ký Hiến pháp Hoa Kỳ, tranh năm 1940, vẽ George Washington chủ trì buổi ký Hiến pháp Hoa Kỳ. Đối mặt sự bất lực của chính phủ trung ương, đại biểu các bang họp Hội nghị Lập hiến vào năm 1787. Đại biểu trình dự thảo hiến pháp cải tổ Quốc hội hợp bang thành Quốc hội gồm hai viện, bởi vì chế độ lưỡng viện hoạt động tốt trong chính quyền các bang. Những bang thưa dân chủ trương mỗi bang có số nghị sĩ bằng nhau. Những bang đông dân chủ trương phân bổ số nghị sĩ theo dân số. Các đại biểu thỏa hiệp rằng hạ nghị sĩ được phân bổ theo dân số, mỗi bang có hai thượng nghị sĩ do chính quyền bang cử. Hội nghị Lập hiến ban hành Hiến pháp Hoa Kỳ, thành lập chế độ liên bang gồm chính phủ liên bang và chính phủ các bang. Quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khống chế lẫn nhau theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Hai viện Quốc hội khống chế lẫn nhau. Hiến pháp Hoa Kỳ có hiệu lực vào năm 1789. Các đảng chính trị bắt đầu định hình. Phe ủng hộ Hiến pháp Hoa Kỳ thành lập Đảng Liên bang. Phe đối lập vào Đảng phản chính quyền do James Madison và Thomas Jefferson sáng lập, là tiền thân của Đảng Dân chủ Cộng hòa. Đảng phản chính quyền phản đối chính sách của Bộ trưởng Tài chính Alexander Hamilton. Đảng Liên bang và Đảng Dân chủ Cộng hòa tranh giành chính quyền. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, Thomas Jefferson thuộc Đảng Dân chủ Cộng hòa đánh bại John Adams thuộc Đảng Liên bang. Năm 1803, Tòa án tối cao ra quyết định rằng Tòa án Tối cao có quyền hủy bỏ luật của Quốc hội. Các đảng chính trị tăng thế lực. Sự kiện bước ngoặt của thời kỳ này là Nội chiến Hoa Kỳ: chế độ nô lệ bị thủ tiêu, chính phủ liên bang được củng cố, chính quyền các bang bị suy yếu. Vào Thời kỳ mạ vàng (1877–1901), Đảng Cộng hòa thống trị Quốc hội. Hoạt động vận động hành lang trở nên mạnh mẽ. Ví dụ: vào thời chính quyền Tổng thống Ulysses S. Grant, những nhóm lợi ích vận động chính phủ trợ cấp ngành đường sắt và đánh thuế quan đối với len nhập khẩu. Dân số Hoa Kỳ tăng chóng mặt do tỷ lệ nhập cư và sinh đẻ cao. Vào Thời kỳ Tiến bộ, hai đảng lãnh đạo Quốc hội một cách hiệu quả. Những nhóm cải cách kêu gọi cải cách chính trị xã hội, chỉ trích các nhóm vận động hành lang thao túng chính trị. Quyền thế của Chủ tịch Hạ viện trở nên cực kỳ lớn mạnh. Thượng viện chịu sự kiểm soát của nửa tá thượng nghị sĩ. Quốc hội Hoa Kỳ vào khoảng năm 1915 Trong Quốc hội, những nghị sĩ càng thâm niên càng dễ được bầu vào ủy ban, phân nhiệm vụ quan trọng, cho nên nghị sĩ của cả hai đảng thường xuyên ứng cử lại. Chủ nhiệm ủy ban của hai viện có thế lực lớn cho đến khi Quốc hội thông qua cải cách vào thập kỷ 1970. Tu chính án XVII quy định bầu cử trực tiếp thượng nghị sĩ. Một mặt, các thượng nghị sĩ nhạy cảm hơn đối với dư luận. Mặt khác, chính quyền các bang bị suy yếu do mất quyền lựa chọn thượng nghị sĩ. Tu chính án 20 quy định khóa cũ Quốc hội kết thúc cùng ngày khóa mới bắt đầu, giảm quyền lực của những nghị sĩ Quốc hội thất cử. Tòa án tối cao mở rộng quyền hạn quản lý nền kinh tế của Quốc hội. Vào thời kỳ Đại khủng hoảng, Đảng Dân chủ chiếm đa số trong cả Quốc hội. Sau khi đắc cử tổng thống vào năm 1932, Franklin D. Roosevelt bắt đầu tập trung quyền hạn vào tay tổng thống để thi hành chính sách kinh tế mới. Tổng thống Roosevelt cắt cử nhân viên vào những ủy ban Thượng viện để dễ thực hiện chương trình nghị sự của mình trong Quốc hội. Đảng Cộng hòa liên minh với phe bảo thủ miền nam trong Đảng Dân chủ để chống Roosevelt. Suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ giữ được đa số trong Quốc hội. Sau khi chiến tranh kết thúc, Quốc hội vừa tinh giản số ủy ban để tăng hiệu quả làm việc, vừa thành lập những ủy ban về những vấn đề mới như hàng không vũ trụ và năng lượng hạt nhân. Phe miền nam trong Đảng Dân chủ vào được nhiều ủy ban quan trọng. Từ cuối thập niên 40 tới đầu thập niên 50, Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy lợi dụng tâm lý chống cộng của dân Mỹ để lên truyền hình vu khống người khác. Năm 1960, John F. Kennedy đắc cử tổng thống, chính quyền lại về tay Đảng Dân chủ tới năm 1994. Biều đồ đảng nào kiểm soát Thượng viện, Hạ viện và Nhà Trắng. Từ năm 1980, Đảng Dân chủ kiểm soát Nhà Trắng được bốn nhiệm kỳ, nhưng chỉ thi hành chính sách được hai năm do bị Đảng Cộng hòa trong Thượng viện cản trở. Đảng Cộng hòa chịu nghịch cảnh giống vậy lúc cầm quyền. Từ năm 1964 tới năm 1965, Quốc hội thông qua chương trình giảm nghèo của Tổng thống Lyndon B. Johnson. Sau vụ bê bối Watergate, Quốc hội bắt đầu tăng cường giám sát đối với chính phủ. Năm 1971, Quốc hội thông qua luật hạn chế việc quyên góp tiền cho các ứng viên, nhưng các nhóm vận động lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật để tiếp tục tài trợ những ứng viên mà ảnh hưởng kết quả bầu cử cho có lợi cho mình. Từ năm 1974 tới năm 1984, tổng số tiền quyên góp tăng từ 12,5 triệu đô la Mỹ tới 120 triệu đô la Mỹ. Năm 2002, Quốc hội tiếp tục thông qua luật hạn chế tài chính tranh cử. Từ năm 2007 tới năm 2008, có 175 nghị sĩ Quốc hội nhận "ít nhất một nửa số tiền tranh cử" từ các nhóm vận động. Năm 2009, có 4,600 nhóm vận động, bao gồm nhóm của luật sư, thợ điện và môi giới nhà đất. Từ năm 1970, Puerto Rico, Washington, D.C., Quần đảo Virgin, Guam, Samoa và Quần đảo Bắc Mariana lần lượt được cử một đại biểu vào Hạ viện. Sáu đại biểu này có quyền đề nghị dự án luật, dự thảo nghị quyết và bỏ phiếu trong các ủy ban Hạ viện. Mỗi đại biểu được cấp văn phòng gần Quốc hội, nhân viên và hai dịp thăm bốn học viện quân sự của Hoa Kỳ mỗi năm. Đại biểu không được biểu quyết đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết. Năm 1989, Sở đúc tiền Hoa Kỳ phát hành đồng tiền kỷ niệm tròn 200 năm ngày thành lập Quốc hội Từ cuối thế kỷ 20, báo chí bắt đầu ảnh hưởng đến công tác của Quốc hội. Hiện tượng "báo lá cải hóa" chỉ nhấn mạnh tiêu cực trong Quốc hội và tạo cơ hội cho một nghị sĩ bất kỳ tác động quá đáng đến quyết định của Quốc hội. Tháng 10 năm 2013, Quốc hội không kịp nâng trần nợ chính phủ, khiến cho cả chính phủ liên bang ngừng hoạt động một vài tuần và gây ra nguy cơ vỡ nợ nghiêm trọng. Dư luận cực kỳ bất bình: 60% người dân trả lời thăm dò rằng họ sẵn lòng "đuổi việc tất cả các nghị sĩ Quốc hội", kể cả nghị sĩ do họ bầu lên; chỉ 5% tán thành công tác của Quốc hội. Hiện nay dư luận vẫn không tán thành tác phong của Quốc hội. Ngày tháng năm 2021, những người ủng hộ tổng thống thất cử Donald Trump xông vào Quốc hội lúc Quốc hội đang kiểm phiếu xác nhận Joe Biden đắc cử tổng thống, khiến cho các nghị sĩ Quốc hội phải sơ tán. Đám đông lại Quốc hội tới khi bị cảnh sát giải tán. Đây là lần đầu tiên Quốc hội Hoa Kỳ bị chiếm đóng kể từ Trận đốt cháy Washington. = Quốc hội có quyền đánh thuế, quyết định ngân sách và phát hành tiền. Điều Hiến pháp Hoa Kỳ quy định tổ chức và quyền hạn của Quốc hội. Khoản 1-6 quy định cách bầu và tổ chức của Hạ viện, Thượng viện. Khoản quy định quy trình lập pháp. Khoản liệt kê những quyền hạn của Quốc hội. Khoản liệt kê giới hạn đối với quyền của Quốc hội. Khoản 10 quy định quyền hạn của Quốc hội đối với các bang. Quốc hội được những tu chính án bổ sung quyền hạn. Ngoài quyền hạn được liệt kê ra thì Quốc hội có những quyền hạn cần thiết để thực hiện những quyền hạn được liệt kê. Quốc hội quy định các thứ thuế, thuế quan và thuế môn bài. Tu chính án XVI cho phép Quốc hội đánh thuế thu nhập mà không cần phải phân bổ giữa các bang theo dân số. Quốc hội quyết định ngân sách nhà nước, là một trong những cơ chế chính để kiểm soát chính phủ. Quốc hội có quyền vay tiền, quy định về thương mại với nước ngoài, giữa các bang và phát hành tiền. Ngân sách nhà nước phải trình lên Hạ viện trước. Quốc hội quyết định ngân sách quốc phòng. Ví dụ: USS Bon Homme Richard (CV-31). Quốc hội quyết định tuyên chiến, kinh phí quân sự và các quy chế về quân đội. Trước đây, tổng thống yêu cầu Quốc hội tuyên chiến trước khi động binh, ví dụ như Chiến tranh Hoa Kỳ–Anh Quốc, Chiến tranh Hoa Kỳ–México, Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Tuy nhiên, có nhận định rằng Quốc hội đã bị tổng thống lấn quyền. Khi quân Mỹ tham dự Chiến tranh Triều Tiên, Tổng thống Harry S. Truman không yêu cầu Quốc hội tuyên chiến mà gọi nó là "chiến dịch trị an". Năm 1970, tạp chí Time thống kê rằng các tổng thống Mỹ đã động binh mà không được Quốc hội cho phép tổng cộng 149 lần. Suốt lịch sử Hoa Kỳ luôn có tranh luận về quyền hạn của Quốc hội và tổng thống đối với vấn đề chiến tranh. Quốc hội quyết định thành lập các bưu điện và mạng lưới bưu điện, quy định về quyền sở hữu trí tuệ, xác định tiêu chuẩn đo lường, thành lập các tòa án dưới quyền của Tòa án tối cao và làm những luật cần thiết để thực hiện quyền hạn của Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ. Điều IV quy định Quốc hội quyết định kết nạp bang mới. Ủy ban Thượng viện điều tra vụ bê bối Watergate vào năm 1973–74. Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ. Ủy ban Quốc hội có quyền triệu tập người ra ủy ban để phục vụ điều tra về một vấn đề nhất định. Quốc hội đã bị chỉ trích do lỏng lẻo trong việc giám sát chính phủ, tuy có điều tra về tính hợp pháp của những quyết định của tổng thống. Một nguyên nhân có thể là các nghị sĩ không thể tranh cử thành công bằng thành tích giám sát nên không tích cực yêu cầu Quốc hội thực hiện quyền giám sát. Quốc hội có quyền cách chức tổng thống, thẩm phán và những công chức khác. Có nhận định rằng những tổng thống gần đây đã lấn quyền của Quốc hội bằng những thủ đoạn như thi hành luật theo mình mà không kể tới dự định làm luật của Quốc hội. Ví dụ: những tổng thống Ronald Reagan, George H. W. Bush, Bill Clinton và George W. Bush đều tuyên bố cách hiểu của mình về luật của Quốc hội khi công bố luật. = Tu chính án XIII, XIV và XV cho phép Quốc hội làm luật bảo đảm quyền lợi của người Mỹ gốc Phi, bao gồm quyền bầu cử, quyền bình đẳng trước pháp luật và các quyền lợi chính đáng. = Quốc hội có những quyền hạn phái sinh từ các quyền hạn được liệt kê. Nhờ tòa án giải thích rộng rãi những quyền hạn phái sinh và quyền quản lý thương mại mà Quốc hội đã được mở rộng quyền hạn lập pháp của mình vượt dự định của Khoản 8. = Quốc hội trực tiếp quản lý thủ đô Washington, D.C., Guam, Samoa thuộc Mỹ, Puerto Rico, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ và Quần đảo Bắc Mariana. Quốc hội đã thành lập chính quyền địa phương các khu vực này, gồm hội đồng lập pháp và thống đốc dân cử (D.C. thì là thị trưởng). Mỗi lãnh thổ và Washington D.C. được cử một đại biểu vào Hạ viện. Đại biểu có các quyền giống như hạ nghị sĩ, trừ quyền biểu quyết ra. Ví dụ: đại biểu có quyền tiến cử người vào bốn học viện của Lục quân, Hải quân, Không quân và Tuần duyên Hoa Kỳ. Đại biểu được cấp văn phòng và nhân viên. Quốc hội Hoa Kỳ nhìn từ Tòa án tối cao Hoa Kỳ Hiến pháp Hoa Kỳ quy định các cơ chế cho quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khống chế lẫn nhau. Các nhà lập hiến dự liệu cho Quốc hội có quyền lực cao nhất. Ảnh hưởng của Quốc hội đối với tổng thống thay đổi tùy theo những nhân tố như lãnh đạo trong Quốc hội, thế lực của tổng thống, bối cảnh lịch sử và nỗ lực của các nghị sĩ Quốc hội. Sau khi Quốc hội đàn hặc Tổng thống Andrew Johnson, tổng thống chịu lép vế Quốc hội trong khoảng thời gian dài. Vào thế kỷ 20 và 21, một loạt tổng thống như Theodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin D. Roosevelt, Richard Nixon, Ronald Reagan và George W. Bush bắt đầu tập trung quyền hạn lại vào tay tổng thống. Quốc hội đối phó với tổng thống bằng cách tăng cường quyền hạn của mình đối với ngân sách nhà nước và vấn đề chiến tranh. Tuy nhiên, tổng thống hiện nay vẫn có nhiều quyền hạn hơn thế kỷ 19. Quốc hội và tổng thống hiếm tin tưởng nhau: chính phủ thì sợ báo cáo thông tin bí mật cho Quốc hội sẽ bị lộ, Quốc hội thì thấy chính phủ ngại báo cáo mà đâm nghi có điều mờ ám. Phiên luận tội Tổng thống Bill Clinton vào năm 1999, do Chánh án Tòa án tối cao William Rehnquist chủ trì Hạ viện quyết định đàn hặc tổng thống, phó tổng thống và những công chức liên bang khác khi có ít nhất đa số hạ nghị sĩ biểu quyết tán thành. Thượng viện luận tội các công chức bị đàn hặc. Trường hợp kết tội phải được ít nhất hai phần ba số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Công chức mà bị kết tội thì tất nhiên bị cách chức. Thượng viện có quyền cấm người bị cách chức giữ chức vụ khác. Xưa nay 16 người đã bị đàn hặc, bảy người đã bị cách chức, một người từ chức trước khi Thượng viện bắt đầu luận tội. Chỉ có ba tổng thống bị đàn hặc: Andrew Johnson vào năm 1868, Bill Clinton vào năm 1999, Donald Trump vào năm 2019 và 2021. Không tổng thống nào bị kết tội; Johnson thoát án chỉ nhờ Thượng viện thiếu một phiếu để kết tội. Tổng thống Richard Nixon từ chức vào năm 1974 sau khi thấy rằng Quốc hội sẽ cách chức ông do vụ bê bối Watergate. Thượng viện phê chuẩn bổ nhiệm bộ trưởng, thẩm phán và những công chức khác của tổng thống. Thượng viện phê chuẩn điều ước quốc tế do tổng thống ký khi có ít nhất hai phần ba số thượng nghị sĩ biểu quyết tán thành. Hạ viện không có vai trò trong việc phê chuẩn bổ nhiệm hay phê chuẩn điều ước. Tuy nhiên, trường hợp khuyết phó tổng thống thì mỗi viện phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm phó tổng thống của tổng thống. Quyền lập pháp của Quốc hội bị các tòa án hạn chế. Án lệ Marbury v. Madison năm 1803 xác định quyền giám sát hiến pháp của tòa án các cấp, tuy Hiến pháp Hoa Kỳ không quy định thành văn. Những quốc phụ của Hoa Kỳ đã nói tới quyền giám sát hiến pháp trong lúc tranh luận soạn thảo hiến pháp mới. Năm 1857, Tòa án tối cao ra quyết định hủy bỏ luật cấm chế độ nô lệ của Quốc hội là vi hiến. Một mặt quyền giám sát hiến pháp hạn chế phạm vi lập pháp của Quốc hội, một mặt các tòa án có thể mở rộng quyền hạn của Quốc hội bằng cách giải thích rộng rãi các điều khoản hiến pháp. Quốc hội lần đầu tiên thực hiện quyền giám sát đối với chính phủ vào năm 1791 sau khi quân đội Hoa Kỳ thua trận trước người Mỹ bản địa. Ủy ban Quốc hội có quyền tổ chức phiên điều trần và triệu tập người ra điều trần trước ủy ban. Người nào mà không chịu hầu ủy ban hay khai man thì có thể bị phạt. Phần lớn các phiên điều trần đều công khai, trừ phiên điều trần của ủy ban tình báo hai viện ra. Quốc hội công bố kết quả điều tra, nghiên cứu của các ủy ban và có cơ sở dữ liệu lưu trữ các ấn phẩm điện tử. Sau cuộc bầu cử tổng thống, Quốc hội họp kiểm phiếu bầu vào ngày tháng theo thường lệ. Trường hợp không có ứng viên được đa số phiếu thì Quốc hội bầu tổng thống. Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện và Thượng viện thành lập các ủy ban về những vấn đề chuyên môn. Ngoài ra, Quốc hội có các cơ quan giúp việc như Phòng Trách vấn chính phủ và Thư viện Quốc hội phụ trách cung cấp thông tin cho Quốc hội. Nghị sĩ Quốc hội được cấp văn phòng và nhân viên. Video của Thư viện Quốc hội giải thích nhiệm vụ của ủy ban Quốc hội Phòng họp ủy ban trong trụ sở cũ của Quốc hội Philadelphia = Ủy ban Quốc hội điều tra, nghiên cứu những vấn đề chuyên môn và báo cáo Quốc hội. Thượng viện, hai thượng nghị sĩ của mỗi bang thường vào ủy ban khác nhau để tránh bị trùng lặp. Một số ủy ban có ảnh hưởng lớn đối với tất cả dự án luật Quốc hội. Ví dụ: Ủy ban Thuế vụ của Hạ viện thẩm tra các dự án luật về thuế. = Ủy ban Quốc hội soạn thảo, thẩm tra các dự án luật. Dự án luật phải được ủy ban Quốc hội thẩm tra trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận, trừ trường hợp thủ tục đặc biệt ra. Mỗi ủy ban Quốc hội gồm các tiểu ban được phân công nhiệm vụ giấy tờ, giám sát và lập pháp. = Đầu mỗi khóa Quốc hội, Hạ viện bầu Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch Hạ viện là lãnh đạo của đảng đa số trong Hạ viện nhưng thường không chủ trì phiên họp Hạ viện. Thượng viện, Phó Tổng thống đương nhiên là Chủ tịch Thượng viện. Ngoài ra, Thượng viện bầu Chủ tịch Thượng viện tạm quyền, thường là thượng nghị sĩ thâm niên nhất thuộc đảng đa số trong Thượng viện. Người chủ trì phiên họp Hạ viện và Thượng viện thường là nghị sĩ mới thuộc đảng đa số, mục đích là tập cho quen nội quy của viện. = Thư viện Quốc hội Thư viện Quốc hội được thành lập vào năm 1800. Trụ sở chính của Thư viện Quốc hội gồm ba tòa nhà đặt Đồi Quốc hội, ngoài ra còn có những cơ sở khác Washington, D.C., Culpeper, Virginia, Fort Meade, Maryland và các văn phòng nước ngoài. Năm 1812, Thư viện Quốc hội bị quân Anh thiêu trụi nhưng về sau được khôi phục và mở rộng nhờ Quốc hội mua lại thư viện riêng của Thomas Jefferson. Thư viện Quốc hội là thư viện lớn nhất trên thế giới, có gần 150 triệu tư liệu trong 470 thứ tiếng bao gồm sách, bản thảo, bản đồ, hình vẻ, phim ảnh và nhạc. = nhỏ Phòng Nghiên cứu Quốc hội thuộc Thư viện Quốc hội có nhiệm vụ cung cấp thông tin chi tiết, chính xác và khách quan cho các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ. Phòng Nghiên cứu Quốc hội có khoảng 900 nhân viên. = Phòng Ngân sách Quốc hội có nhiệm vụ cung cấp thông tin về kinh tế và ngân sách cho Quốc hội. Phòng Ngân sách Quốc hội được thành lập vào năm 1974. Phòng Ngân sách Quốc hội ước tính dự toán thu ngân sách nhà nước và những số liệu khác như nợ chính phủ và kinh phí của các dự án luật. Hàng năm Phòng Nghiên cứu Quốc hội trình báo cáo về triển vọng kinh tế và ngân sách lên Quốc hội. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định Quốc hội họp ít nhất một lần mỗi năm và cấm Hạ viện hoặc Thượng viện họp nơi khác mà chưa có viện kia cho phép. Một khóa Quốc hội gồm hai kỳ họp. Mỗi kỳ họp khai mạc vào ngày tháng 1, trừ phi Quốc hội quyết định thời gian khác. Quốc hội họp bất thường theo lệnh triệu tập của tổng thống. Quốc hội họp chung trong những trường hợp như kiểm phiếu bầu tổng thống sau cuộc bầu cử và nghe Thông điệp Liên bang của tổng thống. Phiên họp chung của Quốc hội thường do Chủ tịch Hạ viện chủ trì. Trường hợp kiểm phiếu bầu tổng thống thì Chủ tịch Thượng viện chủ trì. Thí dụ luật của Quốc hội Hoa Kỳ. Phiên họp Ủy ban Tài chính Hạ viện. Thành viên ủy ban ngồi trên hàng ghế cao, người điều trần và công chúng ngồi trên hàng ghế thấp. Chỉ nghị sĩ Quốc hội có quyền trình dự án luật và nghị quyết nhưng thực tế là hầu hết các dự án luật đều do chính phủ hay các nhóm lợi ích soạn trước rồi đưa cho nghị sĩ trình Quốc hội. Có bốn loại dự án trình Quốc hội: Dự án luật Nghị quyết chung: nghị quyết chung có hiệu lực pháp lý và cần phải được tổng thống ký. Nghị quyết lưỡng viện: nghị quyết lưỡng viện chỉ điều chỉnh hai viện và không cần tổng thống ký. Nghị quyết đơn viện: nghị quyết đơn viện chỉ điều chỉnh một trong hai viện. Dự án luật được ủy ban của mỗi viện thẩm tra và lấy kiến của Phòng Giám sát Chính phủ. Hạ viện có 20 ủy ban, Thượng viện có 16 ủy ban. Ủy ban Quốc họp họp ít nhất một lần mỗi tháng. Phiên họp ủy ban Quốc hội phải công khai, trừ phi các thành viên yêu cầu họp kín. Chủ nhiệm ủy ban Quốc hội là thành viên thuộc đảng đa số. Ủy ban mời công chúng dự họp đối với những dự án luật quan trọng và có thể gọi chuyên gia ra ủy ban góp kiến về dự án luật. Thành viên ủy ban thảo luận dự án luật và có thể đề nghị sửa đổi nhưng mỗi viện có quyền bác bỏ đề nghị của ủy ban. Sau khi thảo luận thì ủy ban biểu quyết trình dự án luật lên toàn viện. Hạ viện và Thượng viện có thủ tục đặc biệt cho phép bỏ qua giai đoạn thẩm tra của ủy ban nhưng hiếm khi áp dụng. Sau khi được một viện thông qua thì dự án luật được chuyển đến viện kia. Hạ viện và Thượng viện phải thông qua cùng nội dung. Trường hợp viện kia sửa đổi dự án luật thì Quốc hội thành lập một ủy ban hiệp thương gồm những hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ để thống nhất nội dung dự án luật. Trường hợp Hạ viện và Thượng viện tán thành dự thảo của ủy ban hiệp thương thì dự án luật được thông qua. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định cần phải có ít nhất đa số nghị sĩ của mỗi viện có mặt để tiến hành thảo luận. Tuy nhiên, nội quy là trừ phi có yêu cầu điểm danh thì mặc nhiên có đủ nghị sĩ nên mỗi viện thường thảo luận mà không có đa số nghị sĩ có mặt. Biểu quyết Quốc hội có nhiều hình thức. Hạ viện và Thượng viện phần lớn biểu quyết bằng miệng, nghị sĩ chủ trì công bố phiên họp kết quả biểu quyết. Trường hợp ít nhất một phần năm số nghị sĩ có mặt yêu cầu hay biểu quyết chống phủ quyết của tổng thống thì mỗi viện ghi sổ biểu quyết của từng nghị sĩ. Biểu quyết Thượng viện thường bằng hình thức điểm danh. Trường hợp ngang phiếu thì Phó Tổng thống được biểu quyết. Biểu quyết Hạ viện thường bằng thẻ nghị sĩ Quốc hội: sau khi cắm thẻ vào khe cắm thẻ thì nghị sĩ có thể biểu quyết tán thành, không tán thành hoặc không biểu quyết. Chỉ biểu quyết bằng điểm danh đối với các vấn đề nghiêm trang nhất do có tới 435 hạ nghị sĩ. Đôi khi có biểu quyết bằng phiếu giấy. Nghị sĩ không được ủy quyền nghị sĩ khác biểu quyết. Kết quả biểu quyết Hạ viện và Thượng viện được công bố. Sau khi được Hạ viện và Thượng viện thông qua thì luật được chuyển lên tổng thống. Tổng thống hoặc công bố hoặc phủ quyết luật mà trả về Quốc hội kèm kiến của mình. Trường hợp Hạ viện và Thượng viện thông qua luật có hai phần ba số nghị sĩ biểu quyết tán thành thì luật tất nhiên được công bố. Trường hợp tổng thống không công bố hay trả luật về Quốc hội thì luật tất nhiên được công bố sau mười ngày (không tính chủ nhật), trừ phi Quốc hội đang hoãn họp thì luật không được công bố. Không được bắt nghị sĩ Quốc hội trong thời gian Quốc hội họp hoặc trong lúc nghị sĩ đi họp hay đi họp về, trừ trường hợp phạm tội phản quốc, tội gây rối trật tự công cộng và trọng tội khác. Sự "bắt" được hiểu rộng là bao gồm việc bị cảnh sát giam giữ, bị triệu hầu tòa và bị triệu điều trần. Hạ nghị sĩ không được tự từ bỏ đặc quyền của mình mà phải xin phép Hạ viện. Thượng nghị sĩ thì không cần phải xin phép Thượng viện. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định nghị sĩ Quốc hội không thể bị truy cứu trách nhiệm về ngôn luận Quốc hội nên nghị sĩ không thể bị kiện vu khống. Tuy nhiên, mỗi viện có quyền kỷ luật nghị sĩ có ngôn luận phản cảm. Người nào mà cản trở công việc của Quốc hội thì bị phạt tù đến một năm. Một nghị sĩ bất kỳ có quyền yêu cầu công tố viên khởi tố người cản trở công việc của Quốc hội. Nghị sĩ Quốc hội được miễn bưu phí khi gửi thư từ cho cử tri, trừ phi là thư từ tranh cử, nhưng thực tế là các nghị sĩ đều vận động cử tri qua bưu điện, nhất là trước những cuộc bầu cử ngang sức. Từ năm 1789 đến năm 1815, nghị sĩ Quốc hội được trả đô la Mỹ mỗi ngày trong lúc Quốc hội họp. Từ năm 1815 đến năm 1817, được nhận mức lương hàng năm 1.500 đô la Mỹ. Từ năm 1818 đến năm 1855, được nhận công tác phí đô la Mỹ mỗi ngày. Kể từ năm 1855, nghị sĩ Quốc hội chỉ được hưởng lương hàng năm. Năm 1855, mức lương hàng năm là 3.000 đô la Mỹ. Năm 1907, được tăng đến 7.500 đô la Mỹ mỗi năm, bằng 173.000 đô la Mỹ vào năm 2010. Năm 2006, mức lương là 165.200 đô la Mỹ. Năm 2008, tăng đến 169.300 đô la Mỹ. Chủ tịch Hạ viện được hưởng mức lương 212.100 đô la Mỹ, Chủ tịch Thượng viện tạm quyền được hưởng mức lương 183.500 đô la Mỹ. Kể từ năm 1984, nghị sĩ Quốc hội được hưởng chế độ hưu trí. Nghị sĩ Quốc hội đóng 1,3% vào quỹ hưu trí, 6,2% vào bảo hiểm xã hội và được bảo hiểm tế trả hai phần ba chi phí khám, chữa bệnh. Mức lương hưu của nghị sĩ Quốc hội phụ thuộc vào số năm nhiệm kỳ và trung bình ba năm mức lương cao nhất. Mức lương hưu hàng năm không được vượt quá 80% mức lương cuối cùng của nghị sĩ Năm 2018, mức lương hưu hàng năm của các nghị sĩ dưới chế độ hưu trí cũ là 75.528 đô la Mỹ, dưới chế độ hiện tại là 41.208 đô la Mỹ. Nghị sĩ Quốc hội được cấp công tác phí để đi nước ngoài nhưng đã bị chỉ trích vì lãng phí tiền của vào các chuyến công du vô bổ. Ví dụ: năm 2009, nghị sĩ Quốc hội đi công tác nước ngoài chi tiền vào spa, phòng khách sạn trống và mua sắm. Tu chính án XVII quy định việc tăng giảm mức lương của nghị sĩ Quốc hội không được áp dụng đối với khóa Quốc hội đó. Tuy nhiên, Quốc hội được điều chỉnh mức lương cho theo kịp chi phí sinh hoạt. Danh sách Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đương nhiệm Điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ (Legislative procedure, informal practices, and other information) *Baker, Ross K. (2000). House and Senate, 3rd ed. New York: W. W. Norton. (Procedural, historical, and other information about both houses) *Barone, Michael and Richard E. Cohen. The Almanac of American Politics, 2006 (2005), elaborate detail on every district and member; 1920 pages Richard E. (2001). Explanation of the types of Sessions of Congress (Term of Congress) *Berman, Daniel M. (1964). In Congress Assembled: The Legislative Process in the National Government. London: The Macmillan Company. (Legislative procedure) *Bianco, William T. (2000) Congress on Display, Congress at Work, University of Michigan Press. *Hamilton, Lee H. (2004) How Congress Works and Why You Should Care, Indiana University Press. *Imbornoni, Ann-Marie, David Johnson, and Elissa Haney. (2005). "Famous Firsts by American Women". Infoplease. *Lee, Frances and Bruce Oppenheimer. (1999). Sizing Up the Senate: The Unequal Consequences of Equal University of Chicago Press: Chicago. (Equal representation in the Senate) *Rimmerman, Craig A. (1990). "Teaching Legislative Politics and Policy Making". Political Science Teacher, 3(Winter): 16–18. *Ritchie, Donald A. (2010). The U.S. Congress: Very Short Introduction. (History, representation, and legislative procedure) (Legislative procedure, informal practices, and other information) *Story, Joseph. (1891). Commentaries on the Constitution of the United States. (2 vols). Boston: Brown Little. (History, constitution, and general legislative procedure) *Tarr, David R. and Ann O'Connor. Congress to Z (CQ Congressional Quarterly) (4th 2003) 605pp *Wilson, Woodrow. (1885). Congressional Government. New York: Houghton Mifflin. *Some information in this article has been provided by the Senate Historical Office''. U.S. House of Representatives U.S. Senate | Quốc hội Hoa Kỳ | Lập pháp lưỡng viện, Cơ quan lập pháp quốc gia, Nhánh lập pháp chính phủ Hoa Kỳ |
Penna in Teverina là một đô thị tỉnh Terni trong vùng Umbria của Ý, có cự ly khoảng 70 km về phía nam của Perugia và khoảng 25 km về phía tây nam của Terni. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.070 người và diện tích là 10,0 km². Penna in Teverina giáp các đô thị: Amelia, Giove, Orte. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:2000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:712 bar:1871 from: till:842 bar:1881 from: till:877 bar:1901 from: till:878 bar:1911 from: till:899 bar:1921 from: till:982 bar:1931 from: till:1051 bar:1936 from: till:1116 bar:1951 from: till:1123 bar:1961 from: till:1050 bar:1971 from: till:852 bar:1981 from: till:926 bar:1991 from: till:1006 bar:2001 from: till:1045 PlotData= bar:1861 at:712 fontsize:XS text: 712 shift:(-8,5) bar:1871 at:842 fontsize:XS text: 842 shift:(-8,5) bar:1881 at:877 fontsize:XS text: 877 shift:(-8,5) bar:1901 at:878 fontsize:XS text: 878 shift:(-8,5) bar:1911 at:899 fontsize:XS text: 899 shift:(-8,5) bar:1921 at:982 fontsize:XS text: 982 shift:(-8,5) bar:1931 at:1051 fontsize:XS text: 1051 shift:(-8,5) bar:1936 at:1116 fontsize:XS text: 1116 shift:(-8,5) bar:1951 at:1123 fontsize:XS text: 1123 shift:(-8,5) bar:1961 at:1050 fontsize:XS text: 1050 shift:(-8,5) bar:1971 at:852 fontsize:XS text: 852 shift:(-8,5) bar:1981 at:926 fontsize:XS text: 926 shift:(-8,5) bar:1991 at:1006 fontsize:XS text: 1006 shift:(-8,5) bar:2001 at:1045 fontsize:XS text: 1045 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT | Penna in Teverina | Đô thị tỉnh Terni |
Sông Hyeongsan là một con sông đông nam Hàn Quốc. Sông này chảy từ Doseo-myeon, Ulju-gun Ulsan vào Biển Nhật Bản, dài tổng cộng 62 km. Lưu vực sông Hyeongsan rộng 1.167 km² (Jo 1987:35). Sông Hyeongsan chảy theo hướng bắc từ gần biên giới phía bắc vùng đô thị Ulsan vào thành phố Gyeongju nơi nó đổ vào lư vực Gyeongju và được tiếp thêm nước từ suối Bukcheon. Sông này tiếp tục chảy theo hướng bắc vào thành phố Pohang. | Sông Hyeongsan | Sông Hàn Quốc |
Monze là một xã của Pháp, nằm tỉnh Aude trong vùng Occitanie. Người dân địa phương trong tiếng Pháp gọi là Monzois. Monze nằm thung lũng Bretonne, dưới chân Montagne d'Alaric. Monze có cự ly km so với Trèbes, 11 km so với Capendu, 14 km so với Carcassonne và 22 km so với Lagrasse. File:Monze Tour horloge.JPG File:Monze Pont.JPG Graphique de l'évolution de la population 1794-1999 Monze sur la carte de Cassini Monze trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Monze sur Viamichelin Monze | Monze | |
Cyclosorus dewevrei là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Adams Alston mô tả khoa học đầu tiên năm 1955. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Cyclosorus dewevrei | Cyclosorus, Unresolved names |
là một xã của Pháp,tọa lạc tỉnh Yonne trong vùng Bourgogne. là một phần của vùng đô thị Auxerre, đây là một đơn vị thành phần của Cộng đồng các xã Auxerrois. mars 2001 Jean-François Flèche-Loisy Biến động dân số 1962 1968 1975 1982 1990 1999 87 99 132 187 243 246 Số liệu lấy từ năm 1962: Dân số không tính hai trùng Xã của Yonne Trang mạng chính thức de la Communauté de l'Auxerrois trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia trên trang mạng của Insee sur le site du Quid Localisation de sur une carte de France et communes limitrophes Plan de sur Mapquest | null | Xã của Yonne |
là album phòng thu thứ hai của ban nhạc Mỹ Deafheaven. Album được thu âm vào tháng năm 2013 và phát hành 11 tháng năm 2013 bởi Deathwish Inc. Album nhận được phản hồi cực kỳ tích cực bởi các nhà phê bình. Album được phát hành dưới sự cho phép của Creative Commons (BY-NC-SA). Bìa đĩa Sunbather được thiết kế bởi Nick Steinhardt của Touché Amoré, người cũng thiết kế album bìa cho đầu tay 2011 Roads to Judah. Sunbather nhận được đánh giá cực kỳ tích cực bởi các nhà phê bình. Metacritic, trên thang điểm 100, album nhận được điểm trung bình 92, dựa trên 18 bài đánh giá. Trên Pitchfork, Brandon Stosuy chọn Sunbather là "Album mới hay nhất" và ghi rằng: "Với Sunbather, Deafheaven đã làm nên một trong những album hay nhất năm, gây ấn tượng bởi tỉ lệ của nó, cùng một cách với The Seer của Swans làm năm ngoái 2012. Giống kiệt tác của M. Gira, nó có khả năng chiếm được sự chú của những người không thường nghe thứ âm nhạc nặng heavy music." "—" biểu thị cho các danh sách không xếp theo theo thứ tự. Công bố Quốc gia Tác phẩm Giải Năm Vị trí Spin US Sunbather 50 album hay nhất 2013 2013 22 Stereogum US Sunbather 50 album hay nhất 2013 2013 Rock Sound UK Sunbather 50 album hay nhất 2013 2013 13 The A.V. Club US Sunbather 23 album hay nhất 2013 2013 Exclaim! Canada Sunbather Top 10 album Metal Hardcore 2013 2013 Spin US Sunbather 20 album Metal hay nhất 2013 2013 NPR US Sunbather 50 album yêu thích của NPR Music 2013 2013 Stereogum US Sunbather 50 album Metal hay nhất 2013 2013 Rolling Stone US Sunbather 20 album Metal hay nhất 2013 2013 Pitchfork US Sunbather Top 50 album hay nhất 2013 2013 Treble US Sunbather 50 album hay nhất 2013 2013 Metacritic International Sunbather Album hay nhất 2013 2013 Metacritic International Sunbather Top 10 album được các nhà phê bình đánh giá cao năm 2013 2013 16 Sputnikmusic US Sunbather Top 50 album 2013 2013 AbsolutePunk US Sunbather Top 30 album 2013 2013 Decibel US Sunbather Top 40 album 2013 2013 11 ChartAttack Canada Sunbather Các Album định nghĩa nhạc Indie 2013 2013 Pitchfork US Sunbather Top 40 album Metal 2013 2013 Pitchfork US Sunbather 100 album hay nhất thập kỷ tính tới nay (2010-2014) 2014 26 PopMatters US "Dream House" 75 bài hát hay nhất 2013 2013 25 Consequence of Sound US "Dream House" Top 50 bài hát 2013 2013 18 Rolling Stone US "Dream House" 100 bài hát hay nhất 2013 2013 92 Pitchfork US "Dream House" Top 100 bài hát 2013 2013 ChartAttack Canada "Sunbather" 50 bài hát hay nhất 2013 2013 Pitchfork US cover art Top 25 bìa album 2013 2013 Album đạt vị trí #130 trên Billboard 200 và #10 trên Hard Rock Albums với 3,720 bản bán được trong tuần đầu tại Mỹ. Album bán được hơn 30,000 bản tại Mỹ tính đến 2014. Tất cả nhạc phẩm được sáng tác và soạn bởi Deafheaven. "Dream House" 9:15 "Irresistible" 3:13 "Sunbather" 10:17 "Please Remember" 6:26 "Vertigo" 14:37 "Windows" 4:43 "The Pecan Tree" 11:27 #"Punk Rock Cody" (bản gốc của Mogwai) 10:37 Sunbather personnel adapted from liner notes. ;Deafheaven George Clarke hát, piano Kerry McCoy guitar, bass guitar Daniel Tracy trống ;Nghệ sĩ khác Stéphane "Neige" Paut (Alcest) nói trong "Please Remember" ;Sản xuất và thu âm Deafheaven thu âm Jack Shirley sản xuất, thu âm, chỉnh sửa, phối khí, điều khiển ;Ảnh bìa Ryan Aylsworth ảnh Sara Mohr vẽ mẫu Nick Steinhardt (Touché Amoré) chỉ đạo bìa, thiết kế BXH (2013) Vị trícao nhất US Billboard 200 130 US Billboard Hard Rock Albums 10 US Billboard Heatseekers US Billboard Independent Albums 23 US Billboard Top Rock Albums 40 US Billboard Tastemaker Albums 18 | null | Album năm 2013, Album của Deafheaven |
Pescara là một thành phố tỉnh Pescara, vùng Abruzzo của Ý. Đô thị này có diện tích 33 km², dân số 122.402 người. Các làng trực thuộc:. Các đô thị giáp ranh gồm: Thành phố này có các làng ngoại vi: Colle della Pietra, Colle di Mezzo, Colle Marino, Colle San Donato, Collescorrano, Fontanelle, Fontanelle Alta, Madonna del Fuoco, San Donato, San Silvestro, San Silvestro Spiaggia, Santa Filomena. Pescara giáp các đô thị: Chieti (CH), Francavilla al Mare (CH), Montesilvano (PE), San Giovanni Teatino (CH), Spoltore, Tollo (CH). Gabriele d'Annunzio: nhà văn Ennio Flaiano: ký giả Jarno Trulli: tuyển thủ công thứ Piero Mazzocchetti, ca sĩ Fabio Grosso: cầu thử bóng đã Massimo Oddo: cầu thủ bóng đá (Milan AC, serie A) Maurizio Costanzo: người dẫn chương trình CANALE Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.7) id:sfondo id:barra ImageSize width:600 height:373 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:150000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:50000 start:0 ScaleMinor increment:10000 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from:0 till:9449 bar:1871 from:0 till:11566 bar:1881 from:0 till:12561 bar:1901 from:0 till:16165 bar:1911 from:0 till:21564 bar:1921 from:0 till:26073 bar:1931 from:0 till:37966 bar:1936 from:0 till:45445 bar:1951 from:0 till:65466 bar:1961 from:0 till:87436 bar:1971 from:0 till:122470 bar:1981 from:0 till:131330 bar:1991 from:0 till:122236 bar:2001 from:0 till:116286 PlotData= bar:1861 at: 9449 fontsize:S text:9.449 shift:(-8,5) bar:1871 at: 11566 fontsize:S text:11.566 shift:(-10,5) bar:1881 at: 12561 fontsize:S text:12.561 shift:(-10,5) bar:1901 at: 16165 fontsize:S text:16.165 shift:(-10,5) bar:1911 at: 21564 fontsize:S text:21.564 shift:(-10,5) bar:1921 at: 26073 fontsize:S text:26.073 shift:(-10,5) bar:1931 at: 37966 fontsize:S text:37.966 shift:(-10,5) bar:1936 at: 45445 fontsize:S text:45.445 shift:(-10,5) bar:1951 at: 65466 fontsize:S text:65.466 shift:(-10,5) bar:1961 at: 87436 fontsize:S text:87.436 shift:(-10,5) bar:1971 at: 122470 fontsize:S text:122.470 shift:(-10,5) bar:1981 at: 131330 fontsize:S text:131.330 shift:(-10,5) bar:1991 at: 122236 fontsize:S text:122.236 shift:(-10,5) bar:2001 at: 116286 fontsize:S text:116.286 shift:(-10,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:fonte ISTAT elaborazione grafica cura di Wikipedia | Pescara | Đô thị tỉnh Pescara |
Sĩ Ưởng (chữ Hán: 士鞅, bính âm: Shì Yǎng) hay Phạm Ưởng (范鞅), tức Phạm Hiến tử (范献子), là vị tông chủ thứ tư của họ Phạm, một trong lục khanh nước Tấn thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Sĩ Ưởng là con của Sĩ Mang, tức Phạm Tuyên tử, vị tông chủ thứ ba của họ Phạm. Năm 559 TCN, Tấn Điệu công hội 13 nước chư hầu là Tề, Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh, Tào, Cử, Chu, Đằng, Tiết (薛), Kỉ, Tiểu Chu (小邾) đánh nước Tần, Sĩ Ưởng cùng phụ thân là Sĩ Mang cũng tham gia vào trận chiến. Khi ra trận, Sĩ Ưởng cùng Loan Châm mang quân tấn công vào đại doanh của quân Tần, Loan Châm tử trận. Con của Loan Châm xúi Loan Yểm (tức Loan Hoàn tử, anh Loan Châm lúc đó làm Hạ quân tướng, đã lấy em gái Sĩ Ưởng là Phạm Kì) đổ tội cho Sĩ Ưởng, bắt Sĩ Mang giết Sĩ Ưởng, Sĩ Ưởng trốn nước Tần, từ đó cũng nảy sinh oán hận với họ Loan. Sau Sĩ Ưởng thuyết phục Tần Cảnh công cho mình về nước, Cảnh công nghe theo. Năm 556 TCN, Tề Linh công lấn chiếm biên giới phía bắc nước Lỗ. Tấn Bình công sai cha con Sĩ Ưởng và Tuân Yển tập hợp quân các nước chư hầu đánh Tề, giành thắng lợi. Năm 552 TCN, Loan Yểm chết, con của Loan Yểm với Phạm Kì (con Sĩ Mang, chị Sĩ Ưởng) là Loan Doanh lên thế tập. Sĩ Ưởng vốn mang lòng thù oán họ Loan, bèn gièm pha với Tấn Bình công rằng Loan Doanh có làm phản, Loan Doanh sợ tội bèn chạy sang nước Tề, nương nhờ Tề Trang công. Năm 550 TCN, Tề Trang công giúp quân cho Loan Doanh lẻn về thành Khúc Ốc; vua Tề mang quân theo sau, tiến tới núi Thái Hàng, vào Mãnh Môn. Loan Doanh tập hợp lực lượng thành Khúc Ốc. Nhiều người trong thành Khúc Ốc ủng hộ Loan Doanh. Loan Doanh ngầm sai người về Giáng đô nhờ Ngụy Thư giúp làm nội ứng. Tháng năm 550 TCN, Loan Doanh mang quân đánh úp Giáng đô. Giáng đô không kịp phòng bị nên thất thủ. Sĩ Mang đưa Tấn Bình công chạy sang Cố cung. Sĩ Ưởng dò biết Ngụy Thư định giúp cho Loan Doanh, tìm cách ngăn trở khiến Ngụy Thư bị giữ chân trong triều, không thể ra mặt điều quân giúp họ Loan. Dưới trướng Loan Doanh có vũ sĩ Đốc Nhung rất khỏe. Đầy tớ của Sĩ Mang là Phi Báo đang bị tù tội, xin được xóa án để ra đánh Đốc Nhung. Sĩ Mang nhận lời. Phi Báo ra đánh với Đốc Nhung một lúc rồi vờ thua chạy, nhằm bức tường nhảy qua núp chờ. Đốc Nhung hăng hái nhảy qua tường tìm Phi Báo, bị Phi Báo đâm từ phía sau chết tại trận. Nhân lúc quân Loan Doanh nhụt chí, cha con Sĩ Mang điều quân ra đánh. Loan Doanh bại trận, bỏ chạy về Khúc Ốc cố thủ. Cha con Sĩ Mang và Ngụy Thư mang quân đánh Khúc Ốc. Được hơn tháng, quân Tấn hạ được thành Khúc Ốc, diệt tộc họ Loan. Năm 548 TCN, Sĩ Mang qua đời, Sĩ Ưởng lên thế tập ngôi thủ lĩnh họ Loan, được phong Hạ quân tá. Năm 517 TCN, Lỗ Chiêu công mâu thuẫn với các họ quý tộc trong nước, bị Quý tôn Như đuổi, phải bỏ chạy sang nước Tề. Năm 516 TCN, Vệ Linh công và Tống Cảnh công sai sứ sang Tấn, đề nghị vua Tấn giúp Lỗ Chiêu công trị tội họ Quý. Quý tôn Như bèn sai sứ sang đút lót cho Sĩ Ưởng nhờ giúp. Sĩ Ưởng tâu với Tấn Khoảnh công rằng họ Quý không có lỗi. Vì vậy nước Tấn không giúp Lỗ Chiêu công. Năm 511 TCN, thấy Tấn Định công lại muốn giúp Lỗ Chiêu công về nước, Quý tôn Như tiếp tục đến đút lót cho Sĩ Ưởng và Tuân Lịch, các đại phu nước Tấn lại nói giúp họ Quý nên Tấn Định công cũng không giúp Lỗ Chiêu công, khiến vua Lỗ đến hết đời vẫn không được về nước. Năm 509 TCN, Chính khanh Trung quân tướng nước Tấn là Ngụy Thư triệu tập các đại phu xây thành cho nhà Chu, trên đường về thì bệnh mất, Sĩ Ưởng lên kế tập làm Chính khanh Trung quân tướng. Năm 506 TCN, Sái Chiêu công không chấp nhận hối lộ tướng quốc nước Sở là Nang Ngõa, bị bắt giữ năm, nên oán Nang Ngõa, xin Tấn Định công đem quân giúp mình đánh Sở. Sĩ Ưởng hội chư hầu Chiêu Lăng định đánh Sở, tuy nhiên đại phu Tuân Dần (Trung Hàng Dần) lại đòi hối lộ Sái Chiêu công, vua Sái không chịu, Tuân Dân bèn khuyên Sĩ Ưởng không nên đánh Sở, Sĩ Ưởng từ tạ Sái Chiêu công rồi rút quân về. Năm 502 TCN, Sĩ Ưởng đem quân đánh nước Trịnh và nước Vệ. Năm 501 TCN, Sĩ Ưởng qua đời. Con ông là Sĩ Cát Xạ lên thế tập. *Sĩ Mang *Loan Doanh *Lỗ Chiêu công *Sĩ Cát Xạ *Quý tôn Như *Sử ký Tư Mã Thiên, các thiên **Tấn thế gia **Tề Thái công thế gia **Lỗ Chu công thế gia **Quản Sái thế gia **Khổng Tử (2002), Xuân Thu tam truyện, tập 4,5, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh | Sĩ Ưởng | Người nhà Chu, Nhân vật chính trị Xuân Thu, Nhân vật quân sự Xuân Thu, Năm sinh thiếu, Mất năm 501 TCN, Nước Tấn |
Thủy tinh vẽ màu là các bức họa được vẽ lên thủy tinh bởi màu chuyên dùng công nghiệp, hoặc họa sĩ tự pha chế. Nó là bản sao của kính ghép màu nhưng có tuổi thọ màu sắc kém hơn, không thể chịu mưa, và nắng. Sản phẩm thủy tinh vẽ được biết đến và thông dụng nhất châu Âu. Tại Việt Nam vẽ thủy tinh đã có từ lâu, nhưng để phát triển thành một trường phái hội họa trên thủy tinh mang tính nghệ thuật cao thì lần đầu tiên được biết đến là họa sĩ Nguyễn Anh Vũ. ... | Thủy tinh vẽ màu | |
Hệ thống các giải bóng đá Nigeria là một chuỗi các giải bóng đá liên kết với nhau dành cho các câu lạc bộ bóng đá Nigeria. Giải đấu cao nhất là Giải bóng đá ngoại hạng Nigeria, sau đó là Nigeria National League chia thành hai bảng, tiếp đó là Nigeria Nationwide League, chia ra thành Nigeria Nationwide League Division One và Nigeria Nationwide League Division Two. Cấp độ Giải đấu 1 Giải bóng đá ngoại hạng Nigeria 20 hạng đội 2 Nigeria National League 32 hạng đội, xuống hạng đội 3 Nigeria Nationwide League 40 hạng đội, xuống hạng đội | Hệ thống các giải bóng đá Nigeria | Bóng đá Nigeria, Giải bóng đá Nigeria Nigeria |
Googol là một số tự nhiên rất lớn, được viết bằng 10100 (10 lũy thừa 100) trong hệ thập phân, hay có một trăm chữ số theo sau chữ số Thuật ngữ này được Milton Sirotta (1911–1981) đưa ra năm 1920 khi cậu mới tuổi, cậu là cháu trai của nhà toán học người Mỹ Edward Kasner. Kasner đã đưa số này vào trong cuốn sách toán học thường thức của ông là Mathematics and the Imagination (1940). Googol còn được gọi là 10 trong quy mô ngắn, 10 nghìn sexdecillion trong quy mô dài, hay 10 sexdecilliard. Googol có giá trị xấp xỉ 70! (70 giai thừa). Đây chính là từ sau này đã thay đổi công cụ tìm kiếm từ Googolplex đến Google. Google Googolplex *Vô tận Bài này có sử dụng tài liệu từ googol tại PlanetMath, với giấy phép sử dụng GFDL | Googol | Số tự nhiên, Số nguyên lớn |
Hirochika Miyoshi (sinh ngày 17 tháng năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Hirochika Miyoshi đã từng chơi cho Blaublitz Akita và Fujieda MYFC. | Hirochika Miyoshi | Sinh năm 1987, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá Blaublitz Akita, Cầu thủ bóng đá Fujieda MYFC, Cầu thủ bóng đá J3 League, Cầu thủ bóng đá Japan Football League |
Ngô Chí Quốc (1929-1956) là một anh hùng liệt sĩ người Việt Nam. Ông được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngô Chí Quốc sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê xã Hiệp Bình, huyện Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, sinh trưởng trong một gia đình đánh cá nghèo. Ông nhập ngũ tháng năm 1946. Khi hy sinh ông là Tiểu đội phó trinh sát tiểu đoàn 303, đại đoàn 330, chủ lực Đông Nam bộ; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1947, ông tìm súng đạn của Nhật dưới sông Sài Gòn đoạn Thị Nghè, góp phần giải quyết về nạn thiếu vũ khí. Tháng năm 1949, trong trận đánh đồn Lái Thiêu, ông phụ trách một mũi, vượt qua nhiều lớp rào, dùng lưu đạn diệt gọn tiểu đội Trong trận Cầu Đinh (tháng năm 1952) Ngô Chí Quốc bị thương nặng chưa kịp ra, địch bắt được tra tấn dã man, ông vẫn không khai, luôn luôn tìm cách vượt ngục. Lần vượt ngục 2, ông đã đưa được cán bộ cùng thoát về đơn vị an toàn. Trận Cầu Đinh lần thứ hai (ngày 01 tháng năm 1954), Ngô Chí Quốc chỉ huy tiểu đội bộc phá đánh vào đến hàng rào thứ 3, bị dịch bắn thương nặng ngã xuống. Ngô Chí Quốc giao súng cho thành viên khác, lăn chếch sang hướng khác, hô lớn: "Xung phong!" Quân Pháp tưởng quân cách mạng chuyển hướng nên tập trung hỏa lực bắn về phía đó. Ngô Chí Quốc đã anh dũng hy sinh, nhưng đơn vị đã tiến vào và tiêu diệt được toàn bộ đồn này. năm tháng gia chiến đấu chiến trường Đông Nam Bộ, ông đã tham gia đánh trên 100 trận, cùng đơn vị diệt 941 lính đối phương, bắt sống 38 lính, thu 231 súng các loại. Ông được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 2, Huân chương Chiến công hạng nhất. Sau khi ông hi sinh, tháng năm 1956, ông được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tên ông được đặt tên cho đường phố, và trường học tại Thủ Đức, TP HCM. | Ngô Chí Quốc | Người Sài Gòn, Huân chương Quân công, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Sinh năm 1929, Mất năm 1954 |
"Touch of My Hand" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears, nằm trong album phòng thu thứ tư của cô In the Zone (2003). Bài hát được sáng tác bởi Spears, Jimmy Harry, Balewa Muhammad và Sheppard Solomon, và do Harry và Solomon sản xuất. Đây là bài hát đầu tiên được thu âm cho album, với phần âm nhạc có chứa những yếu tố của âm nhạc Trung Đông. Nó nhận được những kiến đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình đương đại. Mặc dù không được phát hành làm đĩa đơn, những bản phối chính thức của bài hát đã được thực hiện và phát hành. Spears đã trình diễn "Touch of My Hands" trong các chuyến lưu diễn The Onyx Hotel Tour (2004), The Circus Starring Britney Spears (2009) và trong lượt mới của chương trình biểu diễn cư trú của Spears Las Vegas, Britney: Piece of Me (2016-17). | Touch of My Hand | Bài hát của Britney Spears, Bài hát năm 2003 |
Vật lý xã hội là một lĩnh vực khoa học trong đó sử dụng các công cụ toán học lấy cảm hứng từ vật lý để hiểu được hành vi của đám đông. Trong một sử dụng thương mại hiện đại, nó cũng có thể đề cập đến việc phân tích các hiện tượng xã hội với dữ liệu lớn. Vật lý xã hội có liên quan chặt chẽ với vật lý kinh tế trong đó các nhà nghiên cứu sử dụng các phương pháp vật lý để mô tả kinh tế. Các yếu tố đầu tiên của vật lý xã hội đã được phác thảo trong cuốn sách đầu tiên của nhà tư tưởng xã hội học người Pháp, Henri de Saint-Simon, cuốn sách 1803 Lettres d'un Habitant de Geneve, đưa ra tưởng mô tả xã hội bằng cách sử dụng các định luật tương tự như khoa học vật lý và sinh học. Sinh viên và cộng tác viên của ông là Auguste Comte, một triết gia người Pháp được coi là người sáng lập xã hội học, người đầu tiên định nghĩa thuật ngữ vật lý xã hội trong một bài luận xuất hiện trong Le Producteur, một dự án tạp chí của Saint-Simon. Comte định nghĩa vật lý xã hội là Vật lý xã hội là khoa học chiếm lĩnh các hiện tượng xã hội, được coi trong cùng một ánh sáng với các hiện tượng thiên văn, vật lý, hóa học và sinh lý, nghĩa là phải tuân theo các quy luật tự nhiên và bất biến, phát hiện ra nó là đối tượng đặc biệt của nghiên cứu của nó. Sau Saint-Simon và Comte, nhà thống kê người Bỉ Adolphe Quetelet, đề xuất rằng xã hội được mô hình hóa bằng xác suất toán học và thống kê xã hội. Cuốn sách năm 1835 của Quetelet, Tiểu luận về Vật lý xã hội: Con người và sự phát triển của các Khoa của ông, phác thảo dự án vật lý xã hội được đặc trưng bởi các biến đo lường theo phân phối bình thường và thu thập dữ liệu về nhiều biến số như vậy. Một giai thoại thường xuyên được nhắc tới là khi phát hiện ra rằng Comte Quetelet đã chiếm đoạt thuật ngữ 'vật lý xã hội', ông thấy cần phải phát minh ra một thuật ngữ mới 'sociologie' (xã hội học) vì ông không đồng với bộ sưu tập các thống kê của Quetelet. Đã có một vài thế hệ khác của các nhà vật lý xã hội. Thế hệ đầu tiên bắt đầu với Saint-Simon, Comte và Quetelet, và kết thúc vào cuối những năm 1800 với nhà sử học Henry Adams. Vào giữa thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu như nhà vật lý thiên văn người Mỹ John Q. Stewart và nhà địa lý người Thụy Điển Reino Ajo, đã chỉ ra rằng sự phân bố không gian của các tương tác xã hội có thể được mô tả bằng mô hình trọng lực. Các nhà vật lý như Arthur Iberall sử dụng một cách tiếp cận homeokinetics để nghiên cứu các hệ thống xã hội như hệ thống tự tổ chức phức tạp. Ví dụ, phân tích gia đình của xã hội cho thấy rằng người ta phải tính đến các biến dòng chảy như dòng năng lượng, vật liệu, hành động, tốc độ tái tạo và trao đổi giá trị. Gần đây đã có một số lượng lớn các giấy tờ khoa học xã hội có sử dụng toán học một cách rộng rãi tương tự như vật lý, và được mô tả như là khoa học xã hội tính toán ". | Vật lý xã hội | Vật lý học |
Isasca là một đô thị tại tỉnh Cuneo trong vùng Piedmont của Italia, vị trí cách khoảng 60 km về phía tây nam của Torino và khoảng 25 km về phía tây bắc của Cuneo. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 97 người và diện tích 5,3 km². Isasca giáp các đô thị: Brondello, Brossasco, Martiniana Po và Venasca. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:1000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:421 bar:1871 from: till:439 bar:1881 from: till:461 bar:1901 from: till:491 bar:1911 from: till:493 bar:1921 from: till:390 bar:1931 from: till:371 bar:1936 from: till:348 bar:1951 from: till:297 bar:1961 from: till:250 bar:1971 from: till:182 bar:1981 from: till:146 bar:1991 from: till:115 bar:2001 from: till:112 PlotData= bar:1861 at:421 fontsize:XS text: 421 shift:(-8,5) bar:1871 at:439 fontsize:XS text: 439 shift:(-8,5) bar:1881 at:461 fontsize:XS text: 461 shift:(-8,5) bar:1901 at:491 fontsize:XS text: 491 shift:(-8,5) bar:1911 at:493 fontsize:XS text: 493 shift:(-8,5) bar:1921 at:390 fontsize:XS text: 390 shift:(-8,5) bar:1931 at:371 fontsize:XS text: 371 shift:(-8,5) bar:1936 at:348 fontsize:XS text: 348 shift:(-8,5) bar:1951 at:297 fontsize:XS text: 297 shift:(-8,5) bar:1961 at:250 fontsize:XS text: 250 shift:(-8,5) bar:1971 at:182 fontsize:XS text: 182 shift:(-8,5) bar:1981 at:146 fontsize:XS text: 146 shift:(-8,5) bar:1991 at:115 fontsize:XS text: 115 shift:(-8,5) bar:2001 at:112 fontsize:XS text: 112 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT | Isasca | Đô thị tỉnh Cuneo |
'Solanum là một loài thực vật thuộc họ Solanaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Montúfar, R. Pitman, N. 2004. ''Solanum 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | null | |
Pokémon Crystal là một trò chơi nhập vai RPG phát triển bởi Game Freak và phát hành bởi Nintendo cho hệ máy Game Boy Color. Tựa game là bản mở rộng của Pokémon Gold và Silver và là một phần của thế hệ thứ hai của dòng game Pokémon. Được phát hành vào ngày 14 tháng 12 năm 2000 tại Nhật Bản, ngày 29 tháng năm 2001 tại Bắc Mỹ và ngày tháng 11 năm 2001 tại châu Âu. Vào ngày 26 tháng Một năm 2018, Pokémon Crystal được tái phát hành toàn cầu cho hệ máy Nintendo 3DS thông qua giả lập Cách chơi của Pokémon Crystal gần như tương tự với Gold and Silver, mặc dù vẫn có những nét mới. Đây là tựa game Pokémon đầu tiên cho phép người chơi chọn giới tính của nhân vật, trong khi các phiên bản trước mặc định là nhân vật nam. Pokémon được thêm các họa tiết hoạt hình, ví dụ khi một con Cyndaquil tham gia vào trận chiến thì ngọn lửa trên thân nó sẽ bập bùng. Những họa tiết này không được sử dụng trong Pokémon Ruby and Sapphire và Pokémon FireRed and LeafGreen, nhưng sẽ được sử dụng lại trong tất cả các bản sau bắt đầu từ bản Pokémon Emerald. Ngoài ra, chi tiết được phụ được thêm vào: sự xuất hiện của Pokémon huyền thoại Suicune, xuất hiện mặt trước của bìa game và Pokémon Unown. Sự cải tiến lớn nhất là việc thêm vào Battle Tower, một công trình cho phép người chơi tham gia chiến đấu trong đấu trường Pokémon. Tại Nhật Bản, game được đi kèm với Mobile Adapter GB, một thiết bị cho phép việc kết nối với những người chơi khác thông qua điện thoại di động. Phần lớn giống như Pokémon Gold và Silver. | Pokémon Crystal | |
Tân Khánh là một xã thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Xã giáp với các xã Minh Thuận, Hiển Khánh, Minh Tân Xã tiếp giáp với huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam và huyện Yên, tỉnh Nam Định với ranh giới tự nhiên là con sông Sắt. Xã có diện tích 9,61 km², dân số năm 1999 là 6.232 người, mật độ dân số đạt 648 người/km². Xã gồm thôn: Phú Thôn, Bàn Kết, Nhị Thôn, Hạ Xá, Thọ Trường, Trại Dầu, Việt An, Đống Lương, Phong Cốc. Thôn Phú Thôn gồm có các xóm như Xóm Trại, Xóm Đình, Xóm Cầu... Thôn Việt An gồm các xóm: Xóm Trên, Xóm Giữa, Xóm Ngoài, Xóm Bờ Sông. | Tân Khánh | |
Thành phố Cao Hùng (chữ Hoa phồn thể:高雄市, bính âm thông dụng: Gaosyóng, bính âm Hán ngữ: Gāoxióng, POJ: Ko-hiông; tọa độ 22°38'N, 120°16'E) là một thành phố nằm tại miền Nam Đài Loan. Đây là thành phố lớn thứ tại Đài Loan với số dân 1,51 triệu người, và là một trong sáu thành phố trực thuộc Trung ương của Đài Loan. Thành phố có 11 quận, mỗi quận có một văn phòng quận quản lý công việc hàng ngày giữa chính quyền thành phố và công dân của mình. Cao Hùng là trung tâm chế tạo, lọc dầu và vận tải lớn của Đài Loan. Không giống như Đài Bắc, các đường phố của Cao Hùng rộng rãi và giao thông thông suốt hơn. Tuy nhiên, nhiễm không khí của các khu vực xung quanh Cao Hùng thì khá tệ do các ngành công nghiệp nặng gây ra. Cảng Cao Hùng là cảng chính của Đài Loan mà phần lớn dầu mỏ của Đài Loan được nhập khẩu. Cao Hùng có một khu chế xuất sản xuất nhôm, gỗ, và giấy, phân đạm, xi-măng, kim loại, máy móc và tàu biển. Cảng Cao Hùng là một trong cảng lớn nhất thế giới và Cao Hùng là trung tâm ngành công nghiệp đóng tàu của Đài Loan và cũng là căn cứ hải quân lớn của Trung Hoa Dân Quốc. Hệ thống tàu điện ngầm và MRT sẽ vận hành trong năm 2006. Thành phố Cao Hùng đã tổ chức World Games 2009 một thế vận hội cơ bản không có những môn được thi đấu trong Thế Vận Hội. Cảng Đả Cẩu, 1893 Cao Hùng được thành lập vào gần cuối thế kỷ 17, ngôi làng khi đó được gọi là Đả Cẩu () bởi những người nhập cư Phúc Kiến vào thời kỳ đầu. Tên gọi này bắt nguồn từ ngôn ngữ Makatao của thổ dân bản địa và có nghĩa là "rừng tre". Người Hà Lan đã xây dựng nên phào đài Zeelandia vào năm 1624 và đánh bại các bộ lạc thổ dân bản địa vào năm 1635. Họ gọi khu vực này là Tancoia. Trịnh Thành Công đã trục xuất người Hà Lan và lập nên một chính quyền phục Minh vào năm 1662. Trịnh Kinh, con trai của Trịnh Thành Công, đã đổi tên làng thành Vạn Niên Châu () vào năm 1664. Tên gọi Đả Cẩu lại được phục hồi vào cuối thập niên 1670, khi khu vực được mở mang một cách đột ngột với những người nhập cư đến từ Trung Quốc đại lục. Năm 1684, nhà Thanh đã sáp nhập Đài Loan và đổi tên khu vực bao gồm Cao Hùng ngày nay thành huyện Phượng Sơn (), là một phần của phủ Đài Loan. Khu vực Cao Hùng ngày nay đã lần đầu tiên được phát triển như một khu vực cảng vào thập niên 1680. Năm 1895, Đài Loan bị nhượng cho Nhật Bản theo các điều khoản của Hiệp ước Shimonoseki. Vào thời kỳ này, tên gọi của thành phố chuyển từ Đả Cẩu (打狗) (tiếng Đài Loan: Táⁿ-káu) thành Cao Hùng (高雄, romaji: Takao). Mặc dù hai tên gọi phát âm tương tự trong tiếng Nhật, song ngữ nghĩa của nó đã thay đổi từ "đánh chó" sang "cao lớn hùng vĩ". Người Nhật phát triển Takao, đặc biệt là cảng. Do là một căn cứ quân sự và trung tâm công nghiệp quan trọng, thành phố đã bị quân đội Hoa Kỳ ném bom rất nhiều trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát Đài Loan vào năm 1945, tên gọi bằng Hán tự mà người Nhật đặt cho thành phố vẫn được sử dụng, chính quyền sử dụng phiên âm Latinh theo hệ Wade-Giles là "Kao-hsiung". Cao Hùng được Hành chính viện phê chuẩn trở thành một thành phố đặc biệt vào ngày tháng năm 1979. Sau khi sáp nhập với huyện Cao Hùng, Cao Hùng hiện có 38 khu (區). Mỗi khu lại được chia thành các lý (里), và được chia tiếp thành các lân (鄰). Chính phủ Trung ương Đài Loan công nhận hệ thống bính âm Hán ngữ làm chuẩn để phiên âm Latinh tương tự như tại Trung Quốc đại lục, còn chính quyền Cao Hùng, vốn do đảng Dân Tiến nắm quyền, lấy phương pháp bính âm thông dụng làm chuẩn phiên âm. Số Tiếng Việt Chữ Hánphồn thể Diện tích(km²) SốLý Dân số(2010) Diêm Trình 鹽埕區 1,4161 21 27.651 Cổ Sơn 鼓山區 14,7458 38 129.521 Tả Doanh 左營區 19,3888 44 189.944 Nam Tử 楠梓區 25,8276 37 171.906 Tam Dân 三民區 19,7866 88 355.097 Tân Hưng 新興區 1,9764 32 55.744 Tiền Kim 前金區 1,8573 20 29.208 Linh Nhã 苓雅區 8,1522 69 185.021 Tiền Trấn 前鎮區 19,1207 61 199.951 10 Kỳ Tân 旗津區 1,4639 13 29.975 11 Tiểu Cảng 小港區 39,8573 38 153.896 12 Phượng Sơn 鳳山區 26,7590 78 339.952 13 Lâm Viên 林園區 32,2860 24 70.770 14 Đại Liêu 大寮區 71,0400 25 109.257 15 Đại Thụ 大樹區 66,9811 18 44.230 16 Đại Xã 大社區 26,5848 32.808 17 Nhân Vũ 仁武區 36,0808 16 70.242 18 Điểu Tùng 鳥松區 24,5927 42.135 19 Cương Sơn 岡山區 47,9421 33 97.095 20 Kiều Đầu 橋頭區 25,9379 17 36.284 21 Yên Sào 燕巢區 65,3950 11 31.059 22 Điền Liêu 田寮區 92,6802 10 8.325 23 Liên 阿蓮區 34,6164 12 30.613 24 Lộ Trúc 路竹區 48,4348 20 54.137 25 Hồ Nội 湖內區 20,1615 14 28.697 26 Gia Định 茄萣區 15,7624 15 31.583 27 Vĩnh An 永安區 22,6141 14.253 28 Di Đà 彌陀區 14,7772 12 20.613 29 Tử Quan 梓官區 11,5967 15 36.867 30 Kỳ Sơn 旗山區 94,6122 21 40.368 31 Mỹ Nùng 美濃區 120,0316 19 43.444 32 Lục Khưu 六龜區 194,1584 12 15.354 33 Giáp Tiên 甲仙區 124,0340 7.616 34 Sam Lâm 杉林區 104,0036 11.102 35 Nội Môn 內門區 95,6224 18 16.085 36 Mậu Lâm 茂林區 194,0000 1.850 37 Đào Nguyên 桃源區 928,9800 4.777 38 Na Mã Hạ 那瑪夏區 252,9895 3.457 450px Đơn vị hành chính Cao Hùng Hai hòn đảo tại biển Đông do thành phố Cao Hùng quản lý được giao cho khu Kỳ Tân quản lý: Đảo Ba Bình () Quần đảo Đông Sa () Ái Hà (愛河) Quảng trường Đông Đế Sĩ 85 (東帝士85國際廣場) Chợ đêm Lục Hợp (六合夜市) Hồ sen Tả Doanh (左營蓮池潭) Bảo tàng mỹ thuật thành phố Cao Hùng (高雄市立美術館) Pháo đài Kỳ Hậu (旗後砲台) Phà Kỳ Tân (旗津渡輪) Hiện là nước chủ nhà của World Pool Championships Thành cổ Phượng Sơn (鳳山舊城) Phật Quang Sơn (佛光山) Lãnh sự quán Anh Quốc Tiền Thanh (前清英國領事館) Nhà thờ Tiền Kim (前金天主堂) Viện bảo tàng khoa học và công nghệ quốc gia (Đài Loan) (國立科學工藝博物館) Bến Ngư phủ Cao Hùng (漁人碼頭) Bảo tàng Lịch sử Cao Hùng (高雄市立歷史博物館) Ga tàu hỏa cũ Cao Hùng (台鐵舊高雄車站) Khu phong cảnh vịnh Tây Tử (西子灣風景區) Đại học học Cao Hùng (高雄醫學大學) Đại học Quốc gia Trung Sơn (國立中山大學) Đại học quốc lập Cao Hùng (國立高雄大學) Trung học cao cấp thành phố Cao Hùng (高雄市立高雄高級中學) Đại học quốc lập Khoa học và Công nghệ Cao Hùng Đệ Nhất (國立高雄科技大學) Đại học quốc lập Hàng hải Cao Hùng (國立高雄海洋科技大學) Đại học quốc lập Sư phạm Cao Hùng (國立高雄師範大學) Đại học ngoại ngữ Văn Tảo (文藻外語大學) Đại học quốc lập Khoa học ứng dụng Cao Hùng (國立高雄應用科技大學) Học viện quốc lập Cao Hùng (國立高雄餐旅學院) Trung học cao cấp nữ sinh Cao Hùng (高雄女高級中學) 20px Kaohsiung American School (美國學校) 20px Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ 20px Macon, Georgia, Hoa Kỳ 20px Tulsa, Oklahoma, Hoa Kỳ 20px Colorado Springs, Colorado, Hoa Kỳ 20px Miami, Florida, Hoa Kỳ 20px San Antonio, Texas, Hoa Kỳ 20px Seattle, Washington, Hoa Kỳ 20px Knoxville, Tennessee, Hoa Kỳ 20px Plains, Georgia, Hoa Kỳ 20px Pensacola, Florida, Hoa Kỳ 20px Mobile, Alabama, Hoa Kỳ 20px Little Rock, Arkansas, Hoa Kỳ 20px Portland, Oregon, Hoa Kỳ 20px Busan, Hàn Quốc 20px Cebu, Philippines 20px Đà Nẵng, Việt Nam 20px Barranquilla, Colombia 20px Cartago, Costa Rica 20px Durban, Nam Phi 20px Blantyre, Malawi 20px Brisbane, Queensland, Australia *Tỉnh Phúc Kiến (Trung Hoa Dân Quốc) *Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc *Vị thế chính trị của Đài Loan *Đài Loan độc lập *Trung Hoa Đài Bắc *Tỉnh Đài Loan (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) *Quốc Dân Đảng Trung Quốc Kaohsiung City Government Official Website Connect Kaohsiung website | Cao Hùng | |
Sylvester Lý Kiến Đường (1925 2017, tiếng tiếng Anh: Sylvester Li Jian-tang) là một giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Thái Nguyên từ năm 1994 đến năm 2013. Tổng giám mục Đường sinh năm 1925 tại Trung Quốc. Sau quá trình tu tập, năm 1956, ông thụ phong chức vụ linh mục, khi đã 41 tuổi, mức tuổi khá lớn với cùng chức vụ trong thời gian này. Trong khoảng thời gian từ năm năm 1966 đến năm 1980, ông bị chính quyền Trung Quốc cầm tù tại một trại lao động. Sau năm 1980, linh mục họ Đường quay trở lại phục vụ giáo phận. Ngày 18 tháng 12 năm 1994, lễ tấn phong cho Tân giám mục Sylvester Lý Kiến Đường được tổ chức. Ngày 23 tháng 11 năm 2013, ông trao lại giáo phận cho tổng giám mục kế vị Phaolô Mạnh Ninh Hữu. Sau khi được tấn phong, trong khoảng thời gian sau đó, từ năm 1996 đến năm 2008, ông góp mặt trong hội đồng giám đốc của chủng viện Sơn Tây. Từ năm 2000 đến năm 2001, ông là Giám đốc Đại chủng viện Sơn Tây. Đại chủng viện sau đó bị đóng cửa vào năm 2012. Ngoài các chức nhiệm trên, giám mục Lý Kiến Đường cũng là người thành lập Tiểu chủng viện Thái Nguyên và Tu viện Sự Thương Khó Của Mẹ Maria thuộc Tổng giáo phận Thái Nguyên. Ngày 13 tháng năm 2017, ông qua đời. Lễ an táng diễn ra sau đó vào ngày 17 tháng tại nhà thờ Thái nguyên, sau đó thi hài cố giám mục được đưa về quê hương ông là làng La Nhị Cẩu (Gong'ergou.). Một tang lễ khác được tổ chức vào ngày 19 tại giáo xứ La Nhị Cẩu, trước khi ông được an táng tại nghĩa trang giáo phận. | Sylvester Lý Kiến Đường | Giám mục Công giáo người Trung Quốc, Sinh năm 1925, Mất năm 2017 |
Carpeneto là một đô thị tỉnh Alessandria trong vùng Piedmont của Italia, có vị trí cách khoảng 80 km về phía đông nam của Torino và khoảng 25 km về phía nam của Alessandria. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 923 người và diện tích là 13,6 km². Carpeneto giáp các đô thị: Montaldo Bormida, Predosa, Rocca Grimalda, Sezzadio, và Trisobbio. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:3000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:1731 bar:1871 from: till:1830 bar:1881 from: till:1962 bar:1901 from: till:2242 bar:1911 from: till:2216 bar:1921 from: till:2183 bar:1931 from: till:1900 bar:1936 from: till:1798 bar:1951 from: till:1613 bar:1961 from: till:1498 bar:1971 from: till:1355 bar:1981 from: till:1152 bar:1991 from: till:959 bar:2001 from: till:913 PlotData= bar:1861 at:1731 fontsize:XS text: 1731 shift:(-8,5) bar:1871 at:1830 fontsize:XS text: 1830 shift:(-8,5) bar:1881 at:1962 fontsize:XS text: 1962 shift:(-8,5) bar:1901 at:2242 fontsize:XS text: 2242 shift:(-8,5) bar:1911 at:2216 fontsize:XS text: 2216 shift:(-8,5) bar:1921 at:2183 fontsize:XS text: 2183 shift:(-8,5) bar:1931 at:1900 fontsize:XS text: 1900 shift:(-8,5) bar:1936 at:1798 fontsize:XS text: 1798 shift:(-8,5) bar:1951 at:1613 fontsize:XS text: 1613 shift:(-8,5) bar:1961 at:1498 fontsize:XS text: 1498 shift:(-8,5) bar:1971 at:1355 fontsize:XS text: 1355 shift:(-8,5) bar:1981 at:1152 fontsize:XS text: 1152 shift:(-8,5) bar:1991 at:959 fontsize:XS text: 959 shift:(-8,5) bar:2001 at:913 fontsize:XS text: 913 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT | Carpeneto | Đô thị tỉnh Alessandria |
là một trong những ca sĩ hát chính trong nhóm Berryz Koubou của Hello! Project. Sugaya Risako đã gia nhập Hello! Project với tư cách là một trong 15 thành viên của Hello! Project Kids. Lần biểu diễn đầu tiên của cô ấy là trong bộ phim Minimoni ja Movie Okashi na Daibouken! với tư cách là một thành viên của 4KIDS, sau đó là trong Single 6th single của Minimoni. Sugaya là một trong những nhân vật chính bộ phim Hotaru no Hoshi và bắt đầu lên vở kịch, Shonan Kawarayane Monogatari. Cô ấy cũng từng làm người mẫu cho Pichi Lemon, một tạp chí thời trang dành cho lứa tuổi học trung học, từ tháng 2, năm 2006 đến tháng 6, năm 2006. Vào năm 2004, Sugaya là một trong thành viên được chọn để hợp thành Berryz Koubou. Cô ấy là người trẻ nhất trong nhóm và cũng là một trong những ca sĩ hát chính. Cô ấy là một thành viên của Little Gatas và bây giờ cô ấy là thành viên dự bị cho Gatas Brilhantes H.P. 2006.10.11 Risako 2007.07.20 pure+ 2008.02.06 Ring3~リンリンリンッ!~ (Ring3 ~Rin Rin Rin!~) 2002 (Minimoni ja Movie Okashi na Daibouken!) 2004 ほたるの星 (Hotaru no Hoshi) 2002 湘南瓦屋根物語 (Shonan Kawarayane Monogatari) 2003 日本食肉消費総合センター (Japan Meat Information Service Center) Hello! Project Kids Audition song: Minimoni. Hinamatsuri! (Minimoni) Rất giỏi trong trò Puyo Puyo (một seri Video Game), và đã từng chiến thắng Kajiwara trong Music Fighter. Cô bạn thân nhất trong nhóm Berryz Koubou là Ishimura Maiha cho đến khi cô ấy rời khỏi nhóm vào năm 2005. Nghe đồn đến giờ Sugaya vẫn còn rất thân với Ishimura, dù trong nhóm Berrz Koubou cô ấy thân với Kumai Yurina. Có một cậu em trai. Nghệ sĩ ưa thích của cô ấy là UNJASH. Lần đầu tiên đến với buổi thử giọng của Hello! Project Kids, cô ấy đã xuất hiện với một cánh tay bó bột. Cô ấy đã "bị" chú khi làm rối tên mình trong lúc tự giới thiệu vì đã nói quá nhanh. Lúc đó cô ấy đã thốt ra từ "Sugaaskkodesu" hay gì đó. Cô ấy đã bị buộc phải lặp lại tên mình trên truyền hình, và cũng đã từng bị phê bình về việc đó trên phần phát sóng cuối cùng của Gyao's Hello Pro Hour. Cùng với Yajima Maimi, cô ấy là một trong hai thành viên của Hello! Project Kids xuất hiện trên tạp chí lớn. Cô ấy cũng là bạn thân của Suzuki Airi. Kể từ lúc Ishimura Maiha rời nhóm, Sugaya là một trong những thành viên của Berryz Koubou phải tốn nhiều thời gian vào vũ đạo. Trong Solo Event đầu tiên của mình, cô ấy nói rằng người đầu tiên mà cô ấy bắt chuyện trong buổi thử giọng của Hello! Project Kids chính là Suzuki Airi. Trang của Fan hâm mộ Hello! Project Kids Phần của Risako Sugaya-chan Hỏi đáp với Sugaya Risako B.L.T. U-17 Berryz Kobo: Official Hello! Project profile Sugaya Risako trên Internet Movie Database Kpopwiki:Sugaya Risako | Sugaya Risako | Sinh năm 1994, Nữ ca sĩ Nhật Bản, Nhân vật còn sống, Nữ ca sĩ thế kỷ 21 |
Trung đoàn Bộ binh Kentucky 29 là một trung đoàn bộ binh Kentucky đã không hoàn thành tổ chức của mình để phục vụ trong Quân đội Liên minh trong Nội chiến Hoa Kỳ. Những người lính nhập ngũ đã được chuyển đến Trung đoàn Bộ binh Tình nguyện Kentucky. Dyer, Frederick H. (1959). A Compendium of the War of the Rebellion. New York and London. Thomas Yoseloff, Publisher. LCCN 59-12963. Unknown. (2006). Civil War Regiments from Kentucky and Tennessee. eBookOnDisk.com Pensacola, Florida. | Trung đoàn Bộ binh Kentucky 29 | |
Chòm sao Hồ Ly, (chữ Hán: 狐狸, nghĩa: con cáo; tiếng La Tinh: là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con cáo. Chòm sao này có diện tích 278 độ vuông, nằm trên thiên cầu bắc, chiếm vị trí thứ 54 trong danh sách các chòm sao theo diện tích. Chòm sao Hồ Ly nằm kề các chòm sao Thiên Nga, Thiên Cầm, Vũ Tiên, Thiên Tiễn, Hải Đồn, Phi Mã. Các thiên thể đáng quan tâm Tinh vân hành tinh Quả Tạ, ký hiệu: 27 Cụm sao mở NGC 6940, Cr399 The Deep Photographic Guide to the Constellations: Vulpecula Vulpecula page at SEDS (Students for the Exploration and Development of Space) M-27 page at SEDS Star Tales Vulpecula | Hồ Ly | Chòm sao Hồ Ly, Chòm sao phương bắc |
Ba Phnum (tiếng là một huyện của tỉnh Prey Veng Campuchia. Vyadhapura, kinh đô đầu tiên của Đế quốc Phù Nam, được cho là huyện Ba Phnum ngày nay. Huyện Ba Phnum gồm xã: *Boeng Preah: Angkrong, Ruessei K'aek, Svay Ta Ni, Prasrae, Ta Ma, Kbal Damrei, Lpeach, Dei Thoy, Ruessei Chuor, Ta Chey, Ta Mau, Kandal, Boeng Preah, Snae Rean *Cheung Phnum: Moat Prey, Pou Andaot, Phlov Roluos, Boeng Roka, Andoung, Svay Samseb, Roung Damrei *Chheu Kach: Chheu Kach, Kamhaeng Reach, Kraol Kou, Prey Kduoch, Trea, Tuol Khpos, Tnaot, Kandal, Angkanh, Trapeang Sala, Khleang, Svay Prakal, Boeng Prasrae, Kruos *Reaks Chey: Kouk Sandaek, Khsach, Traeuy Ngor, Thma Treang, Thmei Krau, Ta Pech Cheung, Ta Pech Tboung, Reaks Chey, Ta Uok, Chruol Thum, Chruol Thmei, Chheu Traeng *Roung Damrei: Kdei Doung, Pong Pos, Ty Ta Ngaeuy, Svay Khnei, Prey Phngeam, Chi Roung, Roveang Chum, Traok, Voa Yeav, Tnaot Svay, Kantrean, Cheung Tuek *Sdau Kaong: Ta Kouk, Trapeang Sekar, Siem, Thmei, Krang Chen, Sempoli, Trabaek, Thnong, Prey Phdau, Chun Mea, Chrak Svay, Prey Kantrong, Boeng Trabar, Tong Neak, Trapeang Svay *Spueu Ka: Snuol, Krang, Svay Pok, Kalei Cheung, Kalei Tboung, Ta Laon, Prech, Sdau Kaong, Spueu Kaeut, Spueu Lech *Spueu Kha: Prey Chamkar, Chan Ra Ka, Chan Ra Kha, Prey Prang, Prey Sva, Thlok *Theay: Chak, Pou Phluk, Kamraeng, Lvea, Krang, Prey Phchet, Ta Sou, Angkal, Snuol, Snae, Kampong Slaeng, Theay, Toap Sdach, Khvet, Sdau, Pranhang, Svay Kab, Ti Leng. Dữ liệu về huyện Ba Phnum năm 2009. | Ba Phnum | Huyện Campuchia |
Dương Lợi Vĩ (giản thể: 杨利伟, phồn thể: 楊利偉, sinh 1965) là một nhà du hành vũ trụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông đã là người đầu tiên được đưa vào vũ trụ bởi Chương trình Không gian Trung Quốc và chuyến đi của ông trên tàu Thần Châu khiến cho Trung Quốc trở thành quốc gia thứ trên thế giới đưa người vào vũ trụ một cách độc lập. Dương Lợi Vĩ sinh ngày 21 tháng năm 1965 tại huyện Tuy Trung thuộc thành phố Hồ Lô Đảo tỉnh Liêu Ninh, một vùng công nghiệp Đông Bắc Trung Quốc. Mẹ của Dương Lợi Vĩ là một cô giáo, bố là một nhân viên kế toán một công ty nông nghiệp quốc doanh. Vợ của Vĩ cũng là một sĩ quan của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và họ có với nhau một con trai. Vĩ có điểm các môn học trung bình nhưng ông lại xuất sắc về các môn khoa học. Ông thích bơi lội và trượt pa tanh và giỏi các môn ngoài trời. Dương Lợi Vĩ đã gia nhập Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc lúc 18 tuổi và lên đến hàm đại tá (sau khi trở về từ không gian). Dương Lợi Vĩ vào học Cao đẳng Hàng không số của Không quân Trung Quốc năm 1987 và lấy bằng cử nhân. Ông đã đạt được 1350 giờ bay như một phi công chiến đấu trước khi được đào tạo huấn luyện bay vào không gian. Ông là người Trung Quốc đầu tiên bay vào không gian khi ông 38 tuổi, và ông đã trên không gian khoảng 21 tiếng. Đặt dấu mốc quan trọng giúp Trung Quốc trở thành nước thứ trên thế giới có thể tổ chức độc lập các chuyến bay có người lái vào không gian. Ông được thăng quân hàm Thiếu tướng ngày 22 tháng năm 2008. 今将出征". 中国新闻网. 2008-07-19. Truy cập 2008-07-19. 新华网. ngày 29 tháng năm 2007. Truy cập ngày tháng năm 2008. China Daily. 北方网. ngày 22 tháng năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng năm 2008. | Dương Lợi Vĩ | Nhà du hành vũ trụ Trung Quốc, Chương trình Thần Châu, Sinh năm 1965, Nhân vật còn sống |
Rhian Joel Brewster (sinh ngày tháng năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh, chơi vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Liverpool đang chơi tại Ngoại hạng Anh và đội tuyển U18 Anh. Năm 2017, anh là một phần của đội tuyển Anh đã giành chiến thắng FIFA U-17 World Cup Ấn Độ và được trao giải Chiếc giày vàng vì là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu. Brewster từng lần được bình chọn vào Bảng xếp hạng "Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm" (NxGn), đứng trong top 50 của năm 2018 và xếp vị trí thứ 31 trong năm 2019. Sinh Chadwell Heath, Đại Luân Đôn, Brewster đã học tại trường tiểu học Chadwell Heath trước khi gia nhập Học viện Chadwell Heath và Shield YFC. Năm tuổi, anh được các đại diện của Chelsea, Arsenal, West Ham United và Charlton Athletic theo dõi. Cuối cùng anh gia nhập Chelsea, nơi anh phát triển trình độ của mình dưới thời HLV Michael Beale trong học viện của câu lạc bộ cho đến năm 14 tuổi, sau đó anh rời khỏi để gia nhập đại kình địch Premier League Liverpool. Vào năm 2015, Liverpool đã ký hợp đồng với Brewster từ Chelsea theo lời giới thiệu của Beale. Quyết định thực hiện chuyển sang đội bóng khác của Brewster được thúc đẩy một phần bởi ảnh hưởng của cha anh, người tin rằng anh có cơ hội thông qua học viện của Liverpool hơn là của Chelsea. Ban đầu anh gia nhập đội U18 của câu lạc bộ trước khi được thăng hạng vào đội U23, nơi anh ghi bàn trong trận ra mắt trước Ipswich Town. Trong thời gian học viện, Brewster được đặt vào một chế độ đào tạo đặc biệt bao gồm các buổi một đấu với cựu cầu thủ chạy cánh của Liverpool và Real Madrid, Steve McManaman. Sau đó, Brewster đã được HLV Jürgen Klopp triệu tập vào đội chính vào tháng 10 và tháng 11 năm 2016, trong đó anh ấy đã lập một hat-trick trước Accrington Stanley. Cuối mùa giải đó, anh được ghi tên trên băng ghế dự bị cho trận đấu tại Premier League của Liverpool với Crystal Palace vào ngày 23 tháng năm 2017. Mùa giải tiếp theo, trong trận đấu tại UEFA Youth League của Liverpool với Spartak Moscow, Brewster là nạn nhân của những bình luận phân biệt chủng tộc từ đội trưởng của Spartak, Leonid Mironov. Một cuộc điều tra về vụ việc đã được UEFA mở ra sau trận đấu và sau đó, Brewster đã nói trong một cuộc phỏng vấn với The Guardian rằng đây là trường hợp thứ bảy mà anh từng trải qua. UEFA sau đó phán quyết rằng không có đủ bằng chứng để có hành động tiếp theo khởi tố Mironov. Vào ngày 12 tháng năm 2018, trong trận đấu của U23 với Manchester City, Brewster đã nhận được hỗ trợ oxy và phải thay ra khỏi sân sau khi đáp xuống lúng túng sau cú bật trên không. Sau đó anh được chẩn đoán bị bong gân mắt cá chân và tổn thương dây chằng và được loại phần còn lại của mùa giải. Vào tháng 3, anh ta đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật thứ hai cho đầu gối mà anh phải chịu trong cùng một sự cố trên. Đến cuối mùa giải, Brewster là chủ đề của những đồn đoán chuyển nhượng dữ dội mà đỉnh điểm là Liverpool hủy trận giao hữu theo lịch trình với Borussia Mönchengladbach sau khi câu lạc bộ Đức bị cáo buộc đã Vào tháng năm 2018, Brewster đã ký hợp đồng chuyên nghiệp năm năm với Liverpool. Anh có tên trong đội hình trận đấu cho trận lượt về vòng bán kết UEFA Champions League 2018-19 của Liverpool với Barcelona vào ngày tháng năm 2019, nhưng vẫn là không sử dụng trong đội hình thay người. Mặc dù chưa bao giờ chơi trong một trận đấu cho câu lạc bộ nhưng Brewster lại ngồi trên băng ghế dự bị trong trận Chung kết UEFA Champions League 2019 với Tottenham Hotspur vào ngày tháng năm 2019 vì vậy đã giành được huy chương khi Liverpool giành chiến thắng 2-0. Anh ra mắt thi đấu cho câu lạc bộ vào ngày 25 tháng năm 2019 trong trận đấu với EFL Cup trước Milton Keynes Dons. Brewster là người Anh và đã đại diện cho quốc gia thi đấu nhiều cấp độ thanh thiếu niên khác nhau nhưng vẫn đủ điều kiện chơi cho Thổ Nhĩ Kỳ vì mẹ anh là người Thổ Nhĩ Kỳ-Síp. Đã từng đại diện cho Anh cấp độ U16, Brewster đã ghi sáu bàn sau năm lần ra sân cho U17 Anh năm 2016, bao gồm một cú hat-trick vào lưới Croatia và cú đúp vào lưới Đức. Sau đó, anh đã mở đầu cuộc tấn công tại Giải vô địch bóng đá châu Âu U-17 và góp mặt trong trận chung kết với Tây Ban Nha. Anh cuối cùng đã thất bại trên chấm phạt đền, một trong những cầu thủ đã bỏ lỡ quả đá phạt của mình. Anh kết thúc giải đấu với ba bàn thắng sau sáu lần ra sân. Cuối năm đó, Brewster được báo chí chú rộng rãi sau khi lập hat-trick liên tiếp trước Mỹ và Brasil trong trận tứ kết và bán kết Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới. Sau đó, anh đã ghi bàn thắng mở màn của Anh trong trận chung kết khi đội bóng vượt qua Tây Ban Nha 5-2 để giành chiếc cúp. bàn thắng cho giải đấu đã giúp anh giành được giải thưởng Chiếc giày vàng cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu và anh cũng được trao Quả bóng đồng cho màn trình diễn cá nhân của mình. Vào tháng 12 năm 2017, Brewster tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn với The Guardian rằng đồng đội của anh ta Morgan Gibbs-White đã bị một cầu thủ Tây Ban Nha lạm dụng chủng tộc trong trận đấu sau báo cáo sự cố cho FIFA. Vào ngày 30 tháng năm 2019, lần đầu tiên Brewster được đưa vào đội tuyển U21 Anh và ra mắt khi được thay người phút thứ 79 trong chiến thắng 3-2 tại vòng loại U22 Euro U21 trước Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày tháng năm 2019. +Số trận và bàn thắng của câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu Câu lạc bộ Mùa giải Giải đâu Cúp FA EFL Cup Châu Âu Khác Tổng cộng Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Liverpool 2018-19 Premier League 2019-20 Premier League Tổng cộng Liverpool UEFA Champions League: 2018-19 Siêu cúp bóng đá châu Âu: 2019 U17 Anh Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới: 2017 Giải vô địch bóng đá châu Âu U-17 hạng nhì: 2017 Cá nhân Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới Chiếc giày vàng: 2017 Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới Quả bóng đồng: 2017 Profile at the Liverpool F.C. website | Rhian Joel Brewster | Sinh năm 2000, Nhân vật còn sống, Người từ Chadwell Heath, Cầu thủ bóng đá khu Đại Luân Đôn, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh, Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh, Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C., Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C., Cầu thủ bóng đá chiến thắng UEFA Champions League, Người Anh gốc Thổ Nhĩ Kỳ, Người Anh gốc Thổ Nhĩ Kỳ-Síp |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2007 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo dài trong suốt năm 2007 với phần lớn các cơn bão hình thành từ tháng đến tháng 11. Bài viết này chỉ đề cập đến các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương, có cơ quan khí tượng hoạt động độc lập nhau, nên một cơn bão có thể có tên gọi khác nhau. JMA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi sức gió duy trì trong vòng 10 phút đạt ít nhất 65 km/h, (40 mph) bất kỳ nơi đây trong vùng đã đề cập trên. Trong Khi đó, PAGASA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi nó hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trong phạm vi giám sát của họ giữa 135°Đ và 115°Đ và giữa 5°B-25°B thậm chí JMA đã đặt tên cho nó. Các áp thấp nhiệt đới được JTWC theo dõi và đặt tên có ký tự "W" phía trước một con số. ImageSize width:800 height:220 PlotArea top:10 bottom:80 right:20 left:20 Legend columns:3 left:30 top:58 columnwidth:270 AlignBars early DateFormat dd/mm/yyyy Period from:01/03/2007 till:31/12/2007 TimeAxis ScaleMinor grid:black unit:month increment:1 Colors id:canvas id:GP value:red id:TD id:TS id:ST id:TY canvas:canvas BarData bar:Month PlotData= width:10 align:left fontsize:S shift:(4,-4) anchor:till from:30/03/2007 till:06/04/2007 color:TY text:"Kong-rey" from:16/05/2007 till:23/05/2007 color:TY text:"Yutu" from:04/07/2007 till:05/07/2007 color:TS text:"Toraji" from:07/07/2007 till:17/07/2007 color:TY text:"Man-yi" from:28/07/2007 till:02/08/2007 color:TY text:"Usagi" from:02/08/2007 till:07/08/2007 color:TD text:"06W" from:05/08/2007 till:09/08/2007 color:TY text:"Pabuk" from:08/08/2007 till:09/08/2007 color:TS text:"Wutip" barset:break from:12/08/2007 till:19/08/2007 color:TY text:"Sepat" from:28/08/2007 till:08/09/2007 color:TY text:"Fitow" from:07/09/2007 till:11/09/2007 color:ST text:"Danas" from:13/09/2007 till:17/09/2007 color:TY text:"Nari" from:15/09/2007 till:19/09/2007 color:TY text:"Wipha" from:20/09/2007 till:21/09/2007 color:TD text:"14W" from:23/09/2007 till:25/09/2007 color:TS from:27/09/2007 till:04/10/2007 color:ST text:"Lekima" barset:break from:30/09/2007 till:08/10/2007 color:TY text:"Krosa" from:05/10/2007 till:06/10/2007 color:TS text:"Haiyan" from:06/10/2007 till:07/10/2007 color:ST text:"Podul" from:12/10/2007 till:15/10/2007 color:TS text:"Lingling" from:19/10/2007 till:22/10/2007 color:TY text:"Kajiki" from:26/10/2007 till:27/10/2007 color:ST text:"Faxai" from:03/11/2007 till:09/11/2007 color:TY text:"Peipah" from:11/11/2007 till:13/11/2007 color:TS text:"Tapah" barset:break from:18/11/2007 till:28/11/2007 color:TY text:"Hagibis" from:20/11/2007 till:27/11/2007 color:TY text:"Mitag" from:26/11/2007 till:27/11/2007 color:TD text:"25W" from:28/11/2007 till:29/11/2007 color:TD text:"26W" barset:skip bar:Month width:5 align:center fontsize:S shift:(0,-20) anchor:middle color:canvas from:01/03/2007 till:31/03/2007 text:tháng from:01/04/2007 till:30/04/2007 text:tháng from:01/05/2007 till:31/05/2007 text:tháng from:01/06/2007 till:30/06/2007 text:tháng from:01/07/2007 till:31/07/2007 text:tháng from:01/08/2007 till:31/08/2007 text:tháng from:01/09/2007 till:30/09/2007 text:tháng from:01/10/2007 till:31/10/2007 text:tháng 10 from:01/11/2007 till:30/11/2007 text:tháng 11 from:01/12/2007 till:31/12/2007 text:tháng 12 Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 cấp 14 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 80 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:960 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 100 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 3. Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 130 hải lý giờ siêu bão cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:994 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 135 hải lý giờ siêu bão cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 cấp 15 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 90 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:945 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 120 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 cấp 13 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý giờ -bão cuồng phong. Áp suất:975 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 70 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:990 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 17 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 110 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:910 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý giờ siêu bão cấp 5. Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 70 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:965 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 80 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 cấp 11 bão nhiệt đới dữ dội. Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý giờ bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:990 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 65 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 cấp 16 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 cấp 16 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:925 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 135 hải lý giờ siêu bão cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Áp suất:994 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:990 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 60 hải lý giờ bão NĐ dữ dội. Áp suất:975 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp 16 cấp 17 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 105 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:925 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 130 hải lý giờ siêu bão cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:994 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 bão nhiệt đới dữ dội. Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý giờ bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:985 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo. Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:994 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 cấp 15 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 90 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:945 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 115 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 4. Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 cấp 11 bão nhiệt đới dữ dội. Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý giờ bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:975 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 70 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Áp suất:996 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý giờ bão nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 80 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 70 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 1. Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 cấp 14 bão cuồng phong. Cấp bão (Nhật Bản): 80 hải lý giờ bão cuồng phong. Áp suất:955 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 95 hải lý giờ bão cuồng phong cấp 2. Cấp bão (Việt Nam): cấp áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 25 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1004 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 25 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Việt Nam): cấp áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 25 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa). Cấp bão (Hoa Kỳ): 25 hải lý giờ áp thấp nhiệt đới. Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm khí tượng khu vực chuyên biệt Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến độ mạnh của bão. Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó. Sau đây là các tên gọi đã đặt cho các cơn bão năm 2007. Kong-rey (0701) Yutu (0702) Toraji (0703) Man-yi (0704) Usagi (0705) Pabuk (0706) Wutip (0707) Sepat (0708) Fitow (0709) Danas (0710) Nari (0711) Wipha (0712) Francisco (0713) Lekima (0714) Krosa (0715) Haiyan (0716) Podul (0717) Lingling (0718) Kajiki (0719) Faxai (0720) Peipah (0721) Tapah (0722) Hagibis (0723) Mitag (0724) Việt Nam một cơn bão được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 10 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2,... Dưới đây là các cơn bão đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia Việt Nam đặt số hiệu trong năm 2007: (kèm vùng đổ bộ). *Bão số (Toraji) (đổ bộ vào Quảng Ninh) *Bão số (áp thấp nhiệt đới 06W) (đổ bộ phía Nam tỉnh Hà Tĩnh) *Bão số (Pabuk) (đổ bộ Nam Trung Quốc) *Bão số (Francisco) (đổ bộ Thái Bình) *Bão số (Lekima) (đổ bộ phía Bắc tỉnh Quảng Bình) *Bão số (Peipah) (đổ bộ Khánh Hòa) *Bão số (Hagibis) (bị kéo ngược ra khỏi biển Đông) Khi một xoáy thuận nhiệt đới đi vào khu vực PAGASA theo dõi sẽ được đặt tên bằng danh sách tên bão riêng của họ Cơ quan Pagasa sử dụng chương trình đặt tên riêng của mình cho cơn bão nhiệt đới trong khu vực theo dõi của họ. Pagasa đặt tên cho áp thấp nhiệt đới đã hình thành trong khu vực theo dõi của mình và bất kỳ cơn bão nhiệt đới có thể di chuyển vào khu vực theo dõi của họ. Nên danh sách các tên trong năm đó bị sử dụng hết, tên sẽ được lấy từ một danh sách phụ trợ, các bão đầu tiên được xuất bản mỗi năm trước khi mùa bão bắt đầu. Tên còn lập lại (chưa bị khai tử) từ danh sách này sẽ được sử dụng một lần nữa trong mùa bão năm 2015. Đây là danh sách tương tự được sử dụng trong mùa bão 2007. Amang (0702) Bebeng (0704) Chedeng (0706) Dodong (0707) Egay (0708) Falcon (0711) Goring (0712) Hanna (0714) Ineng (0715) Juaning (0720) Kabayan (0721) Lando (0723) Mina (0724) =Tham khảo= | Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2007 | |
James Robb Church (ngày tháng năm 1866 ngày 18 tháng năm 1923) là Trợ lý Bác sĩ phẫu thuật của Lục quân Hoa Kỳ được trao tặng Huân chương Danh dự vì những hành động quả cảm hồi còn phục vụ trung đoàn Rough Riders trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ. Ông cũng từng tham gia Thế chiến thứ nhất và viết sách về tác động của khí độc cũng như kinh nghiệm làm bác sĩ thời chiến của mình. Church tốt nghiệp Trường Đại học New Jersey (nay là Đại học Princeton) khóa năm 1888. Church được trao tặng Huân chương Danh dự vì những hành động quả cảm tại trận Las Guasimas trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ vào ngày 24 tháng năm 1898. Ông tiếp nhận huân chương của mình vào ngày 10 tháng năm 1906 từ Tổng thống Theodore Roosevelt cũng từng là lính thuộc trung đoàn Rough Rider. Đây là lần đầu tiên Huân chương Danh dự do đích thân Tổng thống Mỹ trao tặng. Ngoài việc anh dũng thi hành các nhiệm vụ liên quan đến chức vụ của mình, còn tự nguyện và hỗ trợ mà không có ai khác giúp đỡ để khiêng một số người bị thương nặng từ tiền tuyến về vị trí an toàn hậu phương, trong mỗi trường hợp đều phải gánh chịu trận hỏa lực rất nặng và mức độ nguy hiểm lớn lao. Sau khi Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ kết thúc, ông vẫn còn lưu lại trong quân đội, mang quân hàm Đại tá. Trước khi nước Mỹ tham gia Thế chiến thứ nhất, Church nhận lệnh đến Pháp với tư cách là quan sát viên và tùy viên của Quân đội Pháp. Khi nước Mỹ tham chiến cùng Đồng Minh, Church gia nhập biên chế của đội quân viễn chinh Hoa Kỳ. Khi đang là quan sát viên Pháp, Church đã báo cáo về loại khí độc mới được đưa vào sử dụng trong chiến tranh. Bản thân ông phải chịu tác dụng đáng kể của loại khí độc này. Những bản báo cáo của Church và Charles Flandin tạo cơ sở cho việc hình thành Cục Chiến tranh Hóa học. Ông còn viết một quyển sách kể về kinh nghiệm làm bác sĩ thời chiến của mình có nhan đề The doctor's part, what happens to the wounded in war (Phần việc của bác sĩ, những gì xảy ra với thương binh trong chiến tranh). James Robb Church qua đời ngày 18 tháng năm 1923, và được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Arlington, Virginia. Phần mộ của ông có thể được đặt tại Khu 3, Lô 1409-A. Danh sách người nhận Huân chương Danh dự Danh sách người nhận Huân chương Danh dự trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ | James Robb Church | Sinh năm 1866, Mất năm 1923, Người Chicago, Quân nhân Illinois, Sĩ quan Lục quân Hoa Kỳ, Cựu sinh viên Đại học Princeton, Chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Quân nhân Mỹ trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Người nhận Huân chương Danh dự của Lục quân Hoa Kỳ, Người nhận Huân chương Danh dự trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ |
là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được (Vell.) Croizat miêu tả khoa học đầu tiên năm 1943. Tập tin:Senefeldera verticillata (Vell.) Croizat Tập tin:Senefeldera verticillata (Vell.) Croizat Tập tin:Senefeldera verticillata (Vell.) Croizat Tập tin:Senefeldera verticillata (Vell.) Croizat Thể | null | |
tiếng Anh thường gọi là False Green Robber Frog, là một loài ếch trong họ Chúng là loài đặc hữu của Haiti. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và vùng nhiều đá. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Hedges, B., Thomas, R. Powell, R. 2004. chlorophenax. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007. chlorophenax | False Green Robber Frog | Động vật Haiti, Động vật đặc hữu Haiti, Động vật được mô tả năm 1976 |
thumb Salut d'Amour (Lời chào của tình yêu), Op. 12, là một tác phẩm âm nhạc được viết bởi Edward Elgar vào năm 1888, phiên bản đầu tiên được viết cho violin và piano. Tác phẩm được đề tặng Caroline Alice Roberts, người mà sau đó đã trở thành vợ ông. Vào năm 1888, Elgar và tiểu thư Caroline Alice Roberts, vốn là con gái của một vị thiếu tướng, dự định sẽ kết hôn với nhau. Mùa hè năm đó, Elgar đã có một kỳ nghỉ với người bạn lâu năm của mình là tiến sĩ Charles Buck Settle, Yorkshire. Trước lúc rời Worcester, Alice đã tặng ông một bài thơ mà bà viết trước đó nhiều năm có tên là Love's Grace (Tình duyên). Để đáp lại bài thơ, Elgar đã viết một tiểu phẩm âm nhạc mà ông gọi là Liebesgruß (Lời chào của tình yêu) với lời đề tặng bằng tiếng Pháp "à Carice" khi đang thị trấn Settle. "Carice" là tên thân mật được kết hợp bởi Caroline Alice, và đó cũng là cái tên được đặt cho đứa con gái duy nhất của họ sau này. Khi trở về Luân Đôn vào ngày 22 tháng chín, Elgar đã tặng nó cho Alice như một món quà để cầu hôn bà. Hôn lễ của họ được cử hành tại nhà thờ nhỏ Brompton South Kensington, Luân Đôn một năm sau đó mặc cho sự phản đối kịch liệt từ phía gia đình Alice. Đến cuối năm 1888, Elgar gửi ba phiên bản của tác phẩm, một cho độc tấu piano, một cho violin và piano, và một cho dàn nhạc đến nhà xuất bản Schott Co. mà trước đó họ đã đồng mua lại với giá hai đồng ghinê. Ban đầu, chỉ một vài bản in được bán ra, và theo lời đề nghị của tác giả, nhà xuất bản đã đổi tên tiếng Đức của tác phẩm thành tên tiếng Pháp là Salut d'Amour với Liebesgruß là phụ đề và đề tên nhà soạn nhạc là Ed. Elgar, họ hy vọng rằng một tiêu đề bằng tiếng Pháp và tên một nhà soạn nhạc người Anh ít được biết đến sẽ giúp tác phẩm giành được sự đón nhận quốc tế rộng rãi hơn. Và đúng như vậy, Salut d'Amour ngay lập tức trở nên phổ biến, với 3000 bản in đã được bán tính đến tháng năm 1897 và Elgar đã kiếm được một khoản kha khá từ tác phẩm trong nhiều thập niên sau đó. Buổi công diễn ra mắt của tác phẩm là phiên bản cho dàn nhạc, diễn ra buổi hoà nhạc Crystal Palace vào ngày 11 tháng 11 năm 1889, chỉ huy bởi nhạc trưởng August Manns. Salut d'Amour là tác phẩm phổ biến hơn bất kỳ tác phẩm nào khác của Elgar, và như nhiều tác phẩm khác, nó đã được chuyển soạn lại dưới nhiều hình thức và cho nhiều nhạc cụ khác nhau. Chỉ ngay trong năm 1901, danh sách đã khá dài: 150 px 150 px *Violin and Piano (in E, original) *Piano in (original) *Violin (Violoncello ad lib.) Piano (in D) *Piano in *Two Violins Piano *Violoncello Piano *Flute Piano *Clarinet Piano *Oboe Piano *Small Orchestra (in E) score and parts *Mandoline Piano, arranged by G. B. Marchisio *Two Mandolines Piano, arr. G. B. Marchisio *Two Mandolines Guitar, arr. G. B. Marchisio *Organ *Piano for hands *Piano, Violin Violoncello ad lib. *Piano, Violins Violoncello ad lib. *Cornet Piano *Viola Piano *2 Violoncelli Piano *Piano Harmonium *Organ (in E), transcribed by E. H. Lemare *Organ (in B), transcribed by C. J. Grey *Small Orchestra, arr. Torbie *Guitar *Full Orchestra, arr. Kaiser *Adaptations for Voice and Piano by Max Laistner: **"Pansies" (in three keys: E, F, and G), words by Percy E. Pinkerton **"Pansies" (in F), with added Violin part **"Woo thou, Sweet Music" (in G, F, A, and E, words by A. C. Bunten, **"Pensées" (in and F), French words by G. Ferrari **"Viola del Pensiero" (in F), Italian words by F. Rizzelli (in and F), German words by E. Klingenfeld Nhiều bản chuyển soạn đã ra đời kể từ đó. Ví dụ về ca khúc cũng có thể được tìm thấy bằng tiếng Thuỵ Sĩ với cái tên "Violer" Bản thu đầu tiên được thu vào tháng năm 1915, khi Elgar chỉ huy một dàn nhạc giao hưởng. Bản thu âm này là của hãng The Gramophone Company và xuất bản dưới nhãn H.M.V., trên đĩa D180. New Light Orchestra (Victor Concert Orchestra Cond.: Rosario Bourdon). Thu âm New York City vào 4/9/1929. Do hãng Victor Records phát hành với mã số catalog 4527B (in USA) và bởi hãng EMI trên nhãn HMV Records với mã số catalog 3926. Sarah Chang (violin) Debut Đĩa CD ghi âm năm 1992 này bao gồm Salut d'Amour Nigel Kennedy Chandos David Halen and Peter Henderson AAM 040102 Kyung Wha Chung and Phillip Moll Eloquence #476755 Julian Lloyd Webber with the Royal Philharmonic Orchestra on the CD Made In England Elgar Society Một vài bản thu Alvaro Siviero Piano solo. Sarah Chang (violin) Violin and piano. Joanna Westers (violin) Violin and piano. Clara Garde (violin), Marie-Benedicte Cohu (Piano) Violin and piano. Helen Cho (violin), Harold Wu (piano) Violin and piano. Young-nim Ma (violin), Miyang Kim (piano) Violin and piano. Valerie (9) (violin), Dominique(11) (piano) Violin and piano. Ferenc "Pepe" Mocsár (cello) and cimbalom Violin and cimbalom. A. Usami (flute) Flute and piano. Karen Constant (violin), Yleesh Constant (cello), Elena Semenets (piano) Violin, cello and piano. Danny Takagi (violin), Yumiko Moro-oka (cello), Mariya Ando (piano) Violin, cello and piano. Attila Lakatos (violin), Kriszti Magyar (flute), Ond Székely (cello), Kulcsár Janka (piano) Violin, flute, cello and piano. Li Chuanyun (violin), Pan Asia Symphony Orchestra Violin and orchestra. Daiske Nagamine (conductor), TSU Philharmony Orchestrea Orchestra. Harmonie Köln Mandoline orchestra. *Kennedy, Michael, Portrait of Elgar (Oxford University Press, 1968) ISBN 0193154145 *Moore, Jerrold N. Edward Elgar: creative life (Oxford University Press, 1984) ISBN 0193154471 Thể by Edward Elgar | Salut d'Amour | 1888 compositions, Nhạc khúc Mi trưởng |
Cindy Nell là một nữ hoàng sắc đẹp và người mẫu Nam Phi, sau trở thành nữ doanh nhân, người đã đăng quang Hoa hậu Nam Phi 2002 và là người đại diện cho Nam Phi tại Hoa hậu Hoàn vũ 2003 và được đưa lên ngôi vị quân. Cô sinh năm 1981 tại Pretoria trong một gia đình quân nhân. Từ năm 2003 trở đi, cô trở thành người dẫn chương trình truyền hình cho chương trình phong cách sống của người Afland, tiếp theo là các chương trình như Woza lunchtime cho bóng đá World Cup 2010, chương trình phong cách sống Grand Pavilion Cricket và là một trong người dẫn chương trình trong chương trình thực tế nổi tiếng Bashers leo cô xuất hiện với tư cách thí sinh và quân trong sê-ri Strictly Come thứ năm của Nam Phi và trong chương trình Người nổi tiếng sống sót (Celebrity Survivor) Santa Carolina. Từ năm 2001 đến 2006, cô đã lập nhiều doanh nghiệp khác nhau, từ các công ty sự kiện, công ty quảng cáo đến quảng cáo. Năm 2006, Nell đã cùng với chồng là Clive Roberts tham gia vào công việc kinh doanh Cosmetix mà họ đã phát triển thành một trong những doanh nghiệp sản xuất và phân phối mỹ phẩm sắc đẹp lớn nhất châu Phi. Nell gần đây đã mua cổ phần thứ ba trong Ace Model International một doanh nghiệp nhượng quyền của Học viện Người mẫu. Năm 2017, cô thành lập quỹ Women4Women để cải thiện cuộc sống của những phụ nữ kém may mắn Cô tiếp tục làm người mẫu và xuất hiện với tư cách là diễn giả và giám khảo cho các cuộc thi lớn. | Cindy Nell | Người da trắng Nam Phi, Nữ người mẫu Nam Phi, Nhân vật còn sống |
Allobates crombiei là một loài ếch thuộc họ Dendrobatidae. Đây là loài đặc hữu của Brasil. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, đầm nước ngọt, và đầm nước ngọt có nước theo mùa. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Rodrigues, M.T. Caramaschi, U. 2004. Colostethus crombiei. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. Thể | ''Allobates crombiei | Động vật đặc hữu Brasil, Allobates, Động vật lưỡng cư Brasil |
Jackie Akello là ca sĩ/người viết bài hát Uganda và doanh nhân với thương hiệu cà phê Village Belle mà cô ra mắt năm 2017. Cô hát bằng tiếng Acholi, tiếng Luganda, tiếng Swords và tiếng Anh. Cô được biết đến với bản hit ballard tình yêu "Amari", một bản hit phúc âm "Samanya" với Levixone và một bản nhạc pop theo chủ đề chiến tranh "Apwoyo". Akello là một phụ nữ Acholi đến từ miền bắc Uganda và hầu hết các bài hát của cô như "Apwoyo" nói về sự đau khổ của Acholi cả trong và sau cuộc chiến tranh của quân đội kháng chiến Lord đã rời khỏi nhà của họ trong một thời gian dài. Jackie đã tham gia một số ban nhạc biểu diễn trực tiếp trước khi đi solo. Cô là thành viên của Janzi, The Sundowners và sau đó là ban nhạc Amari Band riêng của cô. Cô đã làm việc với Levixone cho ra đĩa đơn phúc âm "Samanya". Cô cũng từng làm việc với các nhạc sĩ khác như Kaweesa, Suzan Kerunen, Myko Ouma, Tshila và Kinobe Herbert. Cô đã làm ca sĩ nền cho Lilian Mbabazi trong các bài hát bao gồm "Vitamin". Jackie đảm nhận vai trò diễn xuất trong video "Busaballa" của Maurice Kirya với vai Proscovia. Cô đã biểu diễn trên các sân khấu trực tiếp bao gồm World Music Day 2014 và 2017 Kampala, lễ hội Blankets and Wine, lễ hội Bayimba và nhiều sự kiện riêng tư và công cộng khác. Cô cũng đi lưu diễn Pháp Jackie cũng thực hiện bài hát mang tên "Black Yellow Red", một dự án gồm nhiều dàn sao với Cindy, Irene Ntale, Michael Ross, Viboyo, Nick Nola và nhiều người khác. Cô cũng hợp tác với Mun và T-Bro trong bài hát "Ffena awamu". Cô cũng đã đi ra ngoài quốc tế và tham gia vào các dự án Singing wells/Abubilla Music tại Vương quốc Anh, nơi cô đã làm việc với các nghệ sĩ khác nhau từ Đông Phi. Cô đã trình diễn trước khách mời Forest Whitaker trong chuyến viếng thăm của ông Ucraina để bảo vệ các sáng kiến phát triển hòa bình và phát triển thông qua những người trẻ tuổi. Vào năm 2017, Jackie đã ra mắt thương hiệu cà phê Village Belle của riêng mình mà cô nói rằng cô đã ấp từ lâu. Akello Music Amari Apwoyo Samanya Wan Wilobo Awards Năm Giải Hạng mục Song Kết quả 2018 VIGA Awards Hallelujah TBA | Jackie Akello | Nhân vật còn sống, Nữ ca sĩ Uganda |
là một loại thuốc hoạt động như một chất đối kháng thụ thể 5HT3 Nó hoạt động bằng đường uống và có thời gian tác dụng dài, tạo ra tác dụng chống viêm nhưng không kích thích tốc độ vận chuyển qua đường tiêu hóa. Nó cũng là một giải lo âu hiệu quả trong cả nghiên cứu trên động vật và thử nghiệm trên người, mặc dù với một số tác dụng phụ liều cao hơn. Ondansetron Bemeetron Granisetron Ricasetron Tropanserin Tropisetron | null | |
Fifty Shades of Grey: Original Motion Picture Soundtrack là album nhạc phim cho bộ phim Năm mươi sắc thái ra mắt năm 2015, được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn E. L. James. Album này phát hành thông qua Republic Records vào ngày 10 tháng năm 2015. Đây là album bán chạy thứ bảy trong năm 2015 với doanh số đạt 2,2 triệu bản trên toàn cầu. Vào ngày 12 tháng năm 2014, tác giả của bộ phim, E.L.James thông báo rằng album nhạc phim sẽ được phát hành vào ngày 10 tháng năm 2015. Hai đĩa đơn đã mở đường cho việc phát hành album. "Earned It", bài hát được biểu diễn bởi The Weeknd, được phát hành thành đĩa đơn đầu tiên của album vào ngày 23 tháng 12 năm 2014. Đĩa đơn này đã đạt vị trí #7 trên bảng xếp hạng US Billboard Hot 100. "Love Me Like You Do" của Ellie Goulding được phát hành thành đĩa đơn thứ hai vào ngày tháng năm 2015, và trở thành đĩa đơn từ album nhạc phim đạt vị trí cao nhất trên các bảng xếp hạng khi đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của 15 quốc gia, trong đó có bảng xếp hạng UK Singles Chart. Đĩa đơn này cũng đạt vị trí #3 trên bảng xếp hạng US Billboard Hot 100. Với việc Goulding và The Weeknd đồng có mặt trên Hot 100, Fifty Shades of Grey là album nhạc phim mới nhất có các đĩa đơn liên tiếp lọt vào top 10 của bảng xếp hạng này. Bài hát "Salted Wound" của Sia được phát hành thành một đĩa đơn quảng bá cho album vào ngày 27 tháng năm 2015. Hai đĩa đơn quảng bá tiếp theo, "One Last Night" của Vaults và "I Know You" của Skylar Grey được phát hành vào ngày tháng năm 2015. "I'm on Fire", một ca khúc do Awolnation hát lại của Bruce Springsteen được phát hành thành đĩa đơn quảng bá thứ tư vào ngày tháng năm 2015. Sau ngày phát hành đầu tiên, album nhanh chóng giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album của Úc với doanh số vượt trội hơn hắn album quán quân tuần trước đó, 1989. Cùng lúc đó, album được dự báo sẽ ra mắt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng US Billboard 200 với 180.000 bản tiêu thụ được ngay sau ngày phát hành, được kì vọng sẽ là album nhạc phim đầu tiên ra mắt vị trí quán quân bảng xếp hạng kể từ năm 2012. Tuy nhiên, album này đã bị If You're Reading This It's Too Late của Drake vượt lên dẫn trước. Trong ấn bản ra ngày 28 tháng năm 2015 của tạp chí Billboard, album ra mắt tại vị trí quân bảng xếp hạng US Billboard 200 với doanh số đạt 258.000 bản, trong đó có 210.000 bản là album thuần túy. Album này là album nhạc phim có doanh số cao nhất trong tuần đầu phát hành kể từ sau khi album Michael Jackson's This Is It đạt vị trí quán quân trong ấn bản ngày tháng 11 năm 2009 với doanh số 373.000 bản trong tuần đầu. Tuần thứ hai trên bảng xếp hạng, album tụt xuống vị trí #3 với doanh số đạt 165.000 bản (tính đến hết ngày 22 tháng năm 2015). Album tiếp tục giữ vị trí này trong tuần thứ ba với doanh số đạt 108.000 bản; qua đó trở thành album nhạc phim có doanh số cao nhất trong tuần đầu phát hành từ sau năm 2010. Tuần thứ tư, album tiến lên một bậc tại vị trí quân với doanh số 96.000 bản tính đến hết ngày tháng năm 2015. Sang tuần thứ năm, album tụt xuống vị trí #4 với 72.000 bản bán ra tính đến ngày 15 tháng năm 2015. Tuần thứ sáu, album nhạc phim tiếp tục giữ vị trí #4 với doanh số đạt 60.000 bản (trong đó doanh số album truyền thống đạt 28.000 bản). Với chỉ tuần trên bảng xếp hạng, album đã đạt doanh số vượt mốc nửa triệu bản (516.000 bản) và trở thành album có doanh số cao thứ tư trong năm 2015 (tính đến cuối tháng 3). Tuần thứ bảy trên bảng xếp hạng, album vươn lên vị trí #3 với 54.000 bản bán ra tính đến ngày 29 tháng năm 2015. Tuần thứ tám, album tụt xuống vị trí #9 với doanh số đạt 54.000 bản. Tính đến tháng năm 2015, album đã bán được 763.000 bản tại Hoa Kỳ. Album ra mắt vị trí thứ trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart, bán ra 18.000 bản. Album đã bán được tổng cộng 89.000 bản tại quốc gia này tính đến tháng năm 2015. Không giống như bộ phim, album nhạc phim nhận được phần lớn các đánh giá tích cực từ giới phê bình. Trên Metacritic, album đạt 65 điểm trên thang điểm 100, dựa trên bài đánh giá. Kenneth Partridge của tạp chí Billboard đánh giá album đạt 3,5 sao trên thang sao với lời nhận xét rằng album nhạc phim "đã làm thay đổi xu thế chủ đạo của bộ phim một cách khôn ngoan." Chuck Arnold của Rolling Stone thì so sánh album với các album nhạc phim của The Twilight Saga và của The Hunger Games và nhấn mạnh đến việc bài hát "Earned It" của The Weeknd đã khiến cho album nhạc phim "mang màu sắc của James Bond". Tuy nhiên, tác giả Stephen Thomas Erlewine của AllMusic đưa ra một nhận xét trái chiều về album, mô tả nó là một sự quyến rũ và "phù hợp cho bất kì buổi tối lãng mạn nào". Jim Farber của New York Daily News cũng đưa ra đánh giá tương tự cho rằng lời các bài hát nói về một thứ "tình dục đầy lãng mạn", đồng thời nhấn mạnh việc sản xuất của album đã được "làm cho mềm mại". Bảng xếp hạng (2015) Vị trí cao nhất Greek Albums (IFPI) Irish Compilation Albums (IRMA) Italian Compilation Albums (FIMI) Japanese Albums (Oricon) 184 Mexican Albums (AMPROFON) Russian Albums (2M) Bảng xếp hạng (2015) Vị trí Australian Albums (ARIA) 13 Austrian Albums (Ö3 Austria) 16 Belgian Albums (Ultratop Flanders) 18 Belgian Albums (Ultratop Wallonia) 24 Canadian Albums (Billboard) 11 Danish Albums (Hitlisten) 17 Dutch Albums (MegaCharts) 63 French Albums (SNEP) 20 German Albums (Offizielle Top 100) 21 Hungarian Albums (MAHASZ) 50 Italian Compilation Albums (FIMI) New Zealand Albums (RMNZ) 20 Polish Albums (ZPAV) Russian Albums (2M) Spanish Albums (PROMUSICAE) 48 Swiss Albums (Schweizer Hitparade) 10 US Billboard 200 US Soundtrack Albums (Billboard) Danh sách đĩa nhạc của Danny Elfman | ''Fifty Shades of Grey: Original Motion Picture Soundtrack | Nhạc phim năm 2015, Album của Republic Records, Album sản xuất bởi Max Martin, Album sản xuất bởi Mike Dean (nhà sản xuất thu âm), Album sản xuất bởi Emile Haynie |
Andrew C. Brunson (sinh năm 1966) là một tù nhân người Mỹ Thổ Nhĩ Kỳ, bị bắt vào tháng 10 năm 2016 vì các hoạt động 'Kitô giáo hoá' trong các cuộc thanh trừng xảy ra sau cuộc đảo chính Thổ Nhĩ Kỳ năm 2016, giam cầm hàng chục nghìn nhân viên quân sự Thổ Nhĩ Kỳ, công chức, nhà giáo dục, học giả, nhà bất đồng chính kiến và nhà báo. Brunson là một mục sư Tin Lành của Giáo hội Phục Sinh Izmir, một nhà thờ Tin Lành nhỏ với khoảng 25 giáo dân. Ngày 26 tháng năm 2018, Phó Tổng thống Mỹ Pence kêu gọi Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan thả Brunson hoặc sẽ phải đối mặt với các lệnh trừng phạt nghiêm trọng. Vào ngày 26 tháng năm 2018, Tổng thống Mỹ Trump viết tweet rằng, Hoa Kỳ sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế lớn lên Thổ Nhĩ Kỳ | Andrew C. Brunson | Người Mỹ, Mục sư Tin Lành, Nhà nhân đạo Mỹ, Sinh năm 1968 |
Benito Soliven là một đô thị hạng tỉnh Isabela, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 25.151 người trong 4.418 hộ. Benito Soliven được chia ra 29 barangay. Andabuen Ara Binogtungan Capuseran (Capurocan) Dagupan Danipa District II Gomez Guilingan La Salette Makindol Maluno Norte Maluno Sur Nacalma New Magsaysay District Punit San Carlos San Francisco Santa Cruz Sevillana Sinipit Lucban Villaluz Yeban Norte Yeban Sur Santiago Placer Balliao Mã địa lý chuẩn Philipin 1995 Philippine Census Information Thông tin điều tra dân số năm 2000 của Philipin Thông tin điều tra dân số năm 2007 của Philipin Municipality of Benito Soliven | Benito Soliven | Đô thị của Isabela |
'Polypodium là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Alderw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1913. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Polypodium, Unresolved names |
Cách hoạt động của khóa nòng xoay Radial-delayed blowback. Khoá nòng xoay (hay còn gọi là thoi nạp đạn xoay) là một dạng khóa nòng được phát triển bởi Johann Nicolaus von Dreyse cho khẩu Dreyse Zündnadelgewehr 1836 và Ferdinand Ritter von Mannlicher cải tiến cơ chế hoạt động để dùng cho khẩu M1895 với việc xạ thủ chỉ việc kéo đẩy nút nạp đạn mà không cần xoay. Hệ thống sau đó được cải tiến thêm để dùng chung với các hệ thống nạp đạn tự động khác của các loại súng bán tự động và tự động như AK47, SA80, M1 Garand... Trong đó các móc của khoá nòng sẽ đi qua các khe phía sau khoang chứa đạn của nòng súng để nạp đạn vào vị trí, sau đó khóa nòng sẽ xoay để các móc này cố định vị trí, khóa viên đạn cố định tại vị trí để nó không bị lệch hay giật khi bắn. Các móc của khóa nòng sẽ giữ vị trí cố định cho đến khi được tác động cho dù là dùng tay xoay hay bởi bộ phận tự động như bệ khóa nòng. Sau khi viên đạn được bắn đi hay muốn lấy viên đạn ra thì khóa nòng sẽ xoay để các móc tách ra khỏi vị trí khóa và rút ra qua các khe. Khóa nòng xoay thường được sử dụng trong các loại súng có cơ chế nạp đạn bằng khí nén vì nó có cấu tạo rất thích hợp cho loại hệ thống này hoạt động. Tuy nhiên cơ chế này còn được thấy sử dụng trong các loại súng sử dụng khóa nòng trượt, nạp đạn kiểu đòn bẩy hay nạp đạn kiểu bơm. Một số dòng súng sử dụng khóa nòng xoay: M1 Garand M16 *AK-47 TAR-21 IMI Desert Eagle SA80 *Dragunov SVD SIG-Sauer MPX CMMG Mk45 Guard Welrod MkII Origins of the Multi-lug Rotating Bolt Rotating bolt delayed blowback Primer actuated M16 using rotating bolt CMMG Radial delayed blowback | Khoá nòng xoay | |
Robin Östlind (sinh ngày 14 tháng năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Thụy Điển thi đấu cho Falkenbergs FF vị trí tiền đạo. | Robin Östlind | Sinh năm 1990, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Kalmar FF, Cầu thủ bóng đá IFK Mariehamn, Cầu thủ bóng đá Oskarshamns AIK, Cầu thủ bóng đá Östers IF, Cầu thủ bóng đá Falkenbergs FF, Cầu thủ bóng đá Allsvenskan, Cầu thủ bóng đá Superettan, Cầu thủ bóng đá Veikkausliiga, Cầu thủ bóng đá Thụy Điển, Cầu thủ bóng đá IFK Luleå |
Phần bán dẫn của CPU Intel 8085A Intel 8085 là bộ vi xử lý 8-bit do Intel sản xuất và được giới thiệu vào tháng năm 1976. Nó là một sản phẩm tương thích phần mềm nhị phân với Intel 8080 nổi tiếng hơn với chỉ hai lệnh nhỏ được thêm vào để hỗ trợ các tính năng đầu vào/đầu ra nối tiếp và ngắt bổ sung. Tuy nhiên, nó đòi hỏi ít mạch hỗ trợ hơn, cho phép xây dựng các hệ thống máy vi tính đơn giản hơn và ít tốn kém hơn. "5" trong mã số ám chỉ thực tế là 8085 sử dụng nguồn điện volt (V) duy nhất bằng cách sử dụng các bóng bán dẫn chế độ cạn kiệt, thay vì yêu cầu +5 V, −5 và +12 cần thiết cho 8080. Khả năng này phù hợp với khả năng của Z80 cạnh tranh, một CPU phổ biến có nguồn gốc 8080 được giới thiệu vào năm trước. Các bộ xử lý này có thể được sử dụng trong các máy tính chạy hệ điều hành CP/M. 8085 được cung cấp trong một gói DIP 40 chân. Để tối đa hóa các chức năng trên các chân có sẵn, 8085 sử dụng bus địa chỉ dữ liệu được ghép kênh (AD 0-AD 7). Tuy nhiên, mạch 8085 yêu cầu chốt địa chỉ bit, vì vậy Intel đã sản xuất một số chip hỗ trợ có tích hợp chốt địa chỉ. Chúng bao gồm 8755 với chốt địa chỉ, KB EPROM và 16 chân I/O, và 8155 với 256 byte RAM, 22 chân I/O và bộ đếm thời gian lập trình 14 bit. Bus địa chỉ/dữ liệu được ghép kênh làm giảm số lượng rãnh PCB giữa 8085 và bộ nhớ và chip I/O. Cả 8080 và 8085 đều bị Zilog Z80 dành cho máy tính để bàn làm lu mờ, sản phẩm này đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường máy tính CP/M, cũng như thị phần máy tính gia đình đang bùng nổ trong những năm đầu đến giữa những năm 1980. 8085 có tuổi thọ dài như một bộ điều khiển, không nghi ngờ gì nhờ vào I/O nối tiếp tích hợp và năm ngắt ưu tiên, được cho là các tính năng giống như vi điều khiển mà CPU Z80 không có. Sau khi được thiết kế thành các sản phẩm như bộ điều khiển DECtape II và thiết bị đầu cuối video VT102 vào cuối những năm 1970, 8085 đã phục vụ cho việc sản xuất mới trong suốt thời gian tồn tại của các sản phẩm đó. Độ bền này thường dài hơn tuổi thọ sản phẩm của máy tính để bàn. | Intel 8085 | Vi xử lý Intel |
Aonla là một thành phố và là nơi đặt ban đô thị (municipal board) của quận Bareilly thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Aonla có vị trí Nó có độ cao trung bình là 167 mét (547 feet). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Aonla có dân số 45.263 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Aonla có tỷ lệ 41% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 48%, và tỷ lệ cho phái nữ là 34%. Tại Aonla, 18% dân số nhỏ hơn tuổi. | Aonla | |
Leila Aboulela (sinh 1964), Tiếng Rập 'ليلى ابوالعلا' là một nhà văn Sudan sáng tác bằng tiếng Anh. Những tác phẩm gần đây nhất của bà ấy là tập truyện ngắn Elsewhere, Home (2018) và tiểu thuyết The Kindness of Enemies (2015), lấy cảm hứng từ cuộc đời của Imam Shamil, người đã hợp nhất các bộ tộc vùng Kavkaz để đấu tranh chống lại sự bành trướng của đế quốc Nga. Tiểu thuyết năm 2011 của bà, Lyrics Alley, đã thắng giải Scottish Book Award hạng mục Fiction Winner và lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Regional Commonwealth Writers Prize. Bà còn là tác giả của tiểu thuyết The Translator (một trong 100 quyển sách đáng chú của năm do New York Times bình chọn) và Minaret. Cả ba quyển tiểu thuyết đều lọt vào vòng sơ khảo của giải thưởng Orange Prize và IMPAC Dublin Award. Leila Aboulela thắng giải Caine Prize hạng mục African Writing với truyện ngắn "The Museum", nằm trong tập Coloured Lights, tiếp tục lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng PEN award. Tác phẩm của Aboulela được dịch thành 14 thứ tiếng, bao gồm cả những tác phẩm được công bố trên những ấn phẩm truyền thông như Granta, The Washington Post và The Guardian. BBC Radio đã phổ biến các tác phẩm của bà và phát một số vở kịch nói, bao gồm The Mystic Life và vở kịch lịch sử The Lion of Chechnya. Bộ series phần chuyển từ tiểu thuyết năm 1999 của bà The Translator phát trên radio cũng lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng RIMA (Race In the Media Award). Aboulela lớn lên Khartoum và hiện sống tại Aberdeen. Leila Aboulela sinh năm 1964 Cairo, Ai Cập. Mẹ là người Ai Cập, cha là người Sudan. Khi bà được tháng tuổi, bà cùng cha mẹ chuyển đến Khartoum, Sudan và sinh sống đấy đến năm 1987. Như mọi đứa trẻ khác, bà học trường Khartoum American và Sisters’ School, một ngôi trường trung học tư thục Công giáo, cũng là nơi bà học tiếng Anh. Sau đó, bà học trường đại học Khartoum, tốt nghiệp ngành Kinh tế vào năm 1985. Aboulela được trao bằng M.Sc và bằng MPhil ngành Thống kê trường Kinh tế Luân Đôn.. Năm 1990, Aboulela chuyển đến Aberdeen cùng chồng con. Đó cũng chính là chuyến đi truyền cảm hứng cho bà ấy viết nên tiểu thuyết đầu tay The Translator. Bà bắt đầu viết vào năm 1992 khi đang làm việc như một giảng viên đại học trường cao đẳng Aberdeen và một trợ lí nghiên cứu viên Đại học Aberdeen. Từ năm 2000 đến 2012, Aboulela sống Jakarta, Dubai, Abu Dhabi và Doha. Năm 2012, bà quay về Aberdeen. Bà là một tín đồ Hồi giáo rất sùng đạo, do đó đức tin Hồi giáo thấm nhuần trong các tác phẩm của bà ấy. Aboulela đã thắng giải Caine Prize for African Writing vào năm 2000 với tác phẩm "The Museum", nằm trong tập truyện ngắn Coloured Lights. Tiểu thuyết The Translator được đề cử cho giải thưởng Orange Prize và lọt top "Sách đáng chú của năm" do The New York Times bình chọn năm 2006. Tiểu thuyết thứ hai của bà Minaret, được đề cử cho giải thưởng Orange Prize và IMPAC Dublin Award. Tiểu thuyết thứ ba, Lyrics Alley, lấy bối cảnh thập niên 1950 Sudan và lọt vào vòng sơ khảo của giải thưởng the Orange Prize 2011 Lyrics Alley đã chiến thắng hạng mục Fiction Winner của giải thưởng Scottish Book Awards và lọt vào vòng chung khảo của giải thưởng Commonwealth Writers Prize -Europe và S.E Asia. Aboulela đã ca ngợi những nhà văn Arab, Tayeb Salih và Naguib Mahfouz, cũng như Ahdaf Soueif, Jean Rhys, Anita Desai, và Doris Lessing, những người có ảnh hưởng đến bà về mặt văn chương. Aboulela cũng thừa nhận có chịu ảnh hưởng từ các nhà văn Scotland như Alan Spence và Robin Jenkins. Trong các tác phẩm của bà, cuốn tiểu thuyết thứ hai Minaret (2005) đã thu hút được nhiều sự quan tâm của độc giả và giới phê bình hơn so với các tác phẩm khác. Tiểu thuyết Minaret đã chứng tỏ bà là một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng của trào lưu mới của các nhà văn Hồi giáo Anh. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang 14 thứ tiếng khác nhau. 1999: The Translator, Grove Press, Black Cat (2006), translated into Arabic by Elkhatim Adl'an 2001: Coloured Lights (a collection of short stories) 2005: Minaret, Grove Press, Black Cat (2005), 2011: Lyrics Alley, Grove Press (2011) 2015: The Kindness of Enemies, Weidenfeld Nicolson (2015) 2018 Elsewhere, Home, Telegram Books (2018) 2000 Caine Prize for African Writing, for "The Museum" 2000 Saltire Society Scottish First Book of the Year Award (shortlist), "The Translator" 2002 PEN Macmillan Macmillan Silver PEN Award (shortlist), "Coloured Lights" 2003 Race and Media Award (shortlist radio drama serialisation), The Translator 2011 Short-listed for the Commonwealth Writers Prize- Europe and S. Asia, Lyrics Alley 2011 Fiction Winner of the Scottish Book Awards, Lyrics Alley ;Review Leila Aboulela's radio plays | Leila Aboulela | Sinh năm 1964, Nhà soạn kịch thế kỷ 20, Nữ nhà văn thế kỷ 20, Nhà soạn kịch thế kỷ 21, Nữ nhà văn thế kỷ 21, Cựu sinh viên Trường Kinh tế Luân Đôn, Nhân vật còn sống, Người Cairo |
Municipalities of Aragua Estado Aragua là một bang vùng bắc trung bộ Venezuela. Bang này có các khu rừng nhiệt đới và các bãi biển bên bờ Caribe. Vườn quốc gia đầu tiên của Venezuela, Henri Pittier nằm đây. Thủ phủ là Maracay. Aragua có diện tích 7.014 km², theo điều tra năm 2001, dân số ước khoảng 1.665.200 người. Aragua có 18 đô thị Bolívar (San Mateo) Camatagua (Camatagua) Francisco Linares Alcántara (Santa Rita) Girardot (Maracay) José Angel Lamas (Santa Cruz) José Félix Ribas (La Victoria) José Rafael Revenga (El Consejo) Libertador (Palo Negro) Mario Briceño Iragorry (El Limon) Ocumare de la Costa de Oro (Ocumare de la Costa) San Casimiro (San Casimiro) San Sebastián (San Sebastián) Santiago Mariño (Turmero) Santos Michelena (Las Tejerías) Sucre (Cagua) Tovar (Colonia Tovar) Urdaneta (Barbacoas) Zamora (Villa de Cura) Ciudad Maracay. Information about Maracay and Aragua State | Estado Aragua | Bang Venezuela |
Một số máy tình dục Fucking Machines device example Bunny Fucker cropped to Fucker Fucking Machines device example The Toolbox cropped to machine.jpg|The Toolbox Fucking Machines device example Annihilator cropped to Fucking Machines device example Intruder MK II cropped to MK II Máy Tình dục, còn được gọi là sex machine, hoặc fucking machine, là một thiết bị cơ học được sử dụng để mô phỏng quan hệ tình dục của con người hoặc hoạt động tình dục khác. Các thiết bị được dùng để đâm xuyên hoặc các cách tiếp xúc khác. Một máy đâm xuyên điển hình hoạt động bằng cách chuyển lực quay hoặc lực tịnh tiến từ động cơ sang chuyển động định hướng, và đâm xuyên bởi một dương vật giả. Loại giống máy dập đinh cầm tay được gọi là fucksaw, loại máy giống máy khoan được gọi là drilldo và loại máy giống máy cưa gọi là jillsaw. Các loại máy này hoạt động giống như một máy vắt sữa và có thể được gắn vào dương vật, vú hoặc bộ phận cơ thể khác. Lịch sử Máy rung ban đầu được phát minh để điều trị chứng cuồng loạn phụ nữ Victoria (Victorian women) thông qua cực khoái tế từ việc xoa bóp âm vật. Những thiết bị cơ khí ban đầu này lớn hơn và mạnh hơn nhiều so với máy rung hiện đại và lần đầu tiên được sử dụng bởi các bác sĩ và trở nên phổ biến trong các nhà tắm châu Âu và Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Các phiên bản nhỏ gọn hơn, chạy bằng điện sau đó xuất hiện ngắn gọn dưới dạng hỗ trợ sức khỏe trong danh mục của cửa hàng bách hóa. Các thiết bị kích thích tình dục tự động hiện đại khác với máy rung vì chúng thâm nhập và tiếp xúc theo nhiều cách. Những thiết bị này đôi khi được sử dụng như một phần của trò chơi nô lệ hoặc khiêu dâm. Teledildonics kết hợp sử dụng các máy tình dục khác nhau và web interface, được sử dụng từ xa bởi đối tác. Máy tình dục hiện đại trên thị trường bao gồm máy bơm chân không, dụng cụ cung cấp các cú sốc điện tác động núm vú và bộ phận sinh dục, và búp bê nam và búp bê nữ bơm hơi có kích thước thật với các lỗ thông hơi và rung. Vào năm 2009, một người phụ nữ đến từ Maryland đã yêu cầu cứu thương tế sau khi lưỡi dao của máy tình dục tự chế cắt qua dương vật giả bằng nhựa và đã gây ra chấn thương âm đạo nghiêm trọng cho cô. Một phụ nữ với máy tình dục Trong bộ phim Burn After Reading năm 2008, nhân viên Kho bạc Hoa Kỳ Harry Pfarrer xây dựng một "chiếc ghế dương vật giả" chạy bằng bàn đạp. Trang web khiêu dâm Fucking Machines đã đăng tải trên báo chí chính thống như là một nguồn thông tin và mô tả về việc sử dụng chúng. Năm 2011, J. Michael Bailey đã cung cấp một diễn đàn diễn thuyết trực tiếp thiết bị máy tình dục cho lớp học của mình tại Đại học Tây Bắc (Northwestern University), dẫn đến việc đưa tin khắp thế giới, câu hỏi liệu khóa học đại học có phù hợp và vấn đề tự do học thuật. *Đồ chơi tình dục *Thủ dâm | Máy Tình dục | Đồ chơi tình dục, Công nghệ tình dục, Công nghiệp tình dục, Sextoy, Dụng cụ tình dục |
Adelinda (định danh hành tinh vi hình: 229 Adelinda) là một tiểu hành tinh lớn và tối, phía ngoài cùng của vành đai chính. Ngày 22 tháng năm 1882, nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa phát hiện tiểu hành tinh Adelinda khi ông thực hiện quan sát Viên và đặt tên nó theo tên của Adelinda, vợ của nhà thiên văn học người Áo Edmund Weiss. Adelinda được phân loại là tiểu hành tinh kiểu BCD và thành phần cấu tạo của nó có lẽ bằng cacbonat nguyên thủy. Nó thuộc nhóm tiểu hành tinh Cybele và dường như trong 4:7 cộng hưởng quỹ đạo với Sao Mộc. Danh sách tiểu hành tinh: 1–1000 The Asteroid Orbital Elements Database Minor Planet Discovery Circumstances Asteroid Lightcurve Data File Adelinda 18820822 | Adelinda | |
John Thomas Allan (16 Tháng năm 1883 không rõ) là một cầu thủ bóng đá người Anh. Ông thường thi đấu vị trí tiền đạo. Ông sinh ra South Shields, Tyne and Wear, từng thi đấu cho Bishop Auckland và Manchester United. MUFCInfo.com profile | John Thomas Allan | Sinh năm 1883, Năm mất thiếu, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Bishop Auckland F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C. |
Jonathan Michael Majors (sinh ngày tháng năm 1989) là một diễn viên người Mỹ. Anh nổi lên sau khi tham gia bộ phim điện ảnh độc lập The Last Black Man in San Francisco (2019). Năm 2020, anh thu hút được nhiều sự chú hơn khi đóng vai Atticus Freeman trong loạt phim truyền hình HBO Lovecraft Country. Anh ấy xuất hiện với vai He Who Remains trong loạt phim Disney+ Loki (2021), và sẽ xuất hiện như một phiên bản khác của nhân vật đó, Kang the Conqueror trong phim Ant-Man and the Wasp: Quantumania (2023). | Jonathan Michael Majors | Sinh năm 1989, Nhân vật còn sống |
Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính Eritrea. Hơn 80% lực lượng lao động chính Eritrea được sử dụng trong nông nghiệp. Nông nghiệp chiếm 11% giá trị của nền kinh tế rộng lớn hơn. Eritrea có 565.000 ha (1.394.000 mẫu Anh) đất canh tác và cây trồng công nghiệp lâu năm. Nông nghiệp Eritrea đã trải qua một quá trình cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Sau Chiến tranh Độc lập Eritrea, nông nghiệp là một trong những ngành bị phá hủy hoàn toàn do không được chú trọng phát triển và diện tích đất hoang hóa, không thể canh tác ngày càng tăng. Kể từ đó, các khoản đầu tư đáng kể đã được thực hiện nhằm tái phục hồi ngành công nghiệp, máy móc nông nghiệp đã được mua và nhập khẩu từ nước ngoài nhằm tăng năng suất trồng trọt và hàng trăm con đập đã được xây dựng. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Eritrea bao gồm cao lương, kê, lúa mạch, lúa mì, các loại đậu, rau, trái cây ăn quả, vừng, hạt lanh, Ngành chăn nuôi chính bao gồm bò nhà, cừu, dê và lạc đà. | null | Nông nghiệp Eritrea |
là một chi điển hình của Họ Tê giác. Tên Rhinoceros có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, trong đó rhino có nghĩa là mũi, và ceros có nghĩa là sừng. Hiện nay đã xác định được hai loài thuộc chi này còn tồn tại là: Rhinoceros sondaicus Tê giác Java Rhinoceros unicornis Tê giác Ấn Độ Loài tê giác Java hiện nay là một trong những loài động vật có vú lớn đang trong tình trạng nguy cấp nhất trên thế giới, với chỉ khoảng 60 cá thể còn sống sót, và chỉ sống hai nơi Java, Indonesia (và Việt Nam trước năm 2010). Chi Tê giác bao gồm: Tê giác Ấn Độ (R. unicornis) Linnaeus, 1758 Tê giác Java (R. sondaicus) Desmarest, 1822 R. hemitoxhus R. leptorhinus R. mô tả bởi von Koenigswald năm 1956 là hài cốt hóa thạch được tìm thấy Cagayan tỉnh của Philippines. R. sinensis Tên chi Tê giác'' là sự kết hợp của các từ Hy Lạp cổ đại (ris) có nghĩa là 'mũi' và κέρας (keras) có nghĩa là 'sừng của một con vật'. Tập tin:Diceros bicornis.jpg Tập tin:Indian Rhino 049.jpg Tập tin:Rhinoceros sondaicus in London Zoo.jpg Tập tin:Africa en Valencia II Bioparc | null | Chi động vật có vú |
(tiếng Đức: Straßburg) là thủ phủ của vùng Grand Est trong miền đông bắc của nước Pháp, tỉnh lỵ của tỉnh Bas-Rhin, đồng thời cũng là trụ sở quản lý hành chính của hai quận và Thành phố có dân số là 272.800 người (thời điểm 2004). Strasbourg là nơi đặt trụ sở của nhiều cơ quan châu Âu như Hội đồng châu Âu, Nghị viện châu Âu, Tòa án Nhân quyền châu Âu, Quân đoàn châu Âu Thành phố có lịch sử ngàn năm này nổi tiếng vì truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời. Thành phố nằm cạnh sông Ill (Alsace). Trên Grande Île (Đảo Lớn) được bao bọc bởi hai nhánh sông Ill là khu phố cổ. Về phía đông của thành phố là cảng nội địa cạnh sông Rhein. Trên bờ sông phía đông đối diện là thành phố Kehl của Đức. Strasbourg là điểm cuối của Canal de la Marne au Rhin. Strasbourg được chia thành nhiều khu phố, trong đó có Esplanade, Robertsau, Cronenbourg, Koenigshoffen, Hautepierre, Elsau, Krutenau, Neudorf, Meinau và Neuhof. Strasbourg được thành lập dưới thời của hoàng đế La Mã Augustus trong năm 12 TCN, thời đấy có tên là Thành phố ban đầu chỉ là một tiền đồn của tỉnh Germania Superior. Quân đoàn La Mã Legio VIII Augusta dưới quyền chỉ huy của Piranus Clemens đã xây dựng trong năm 74 một con đường từ Augusta Vindelecorum qua thung lũng Kinzig đến Argentoratum (Strasbourg) kết nối với đường đi đến Mogontiacum (Mainz). Từ thế kỷ thứ Strasbourg là nơi ngự trị của tổng giám mục, sau đó bị người Alamani, Huns và Frank chiếm đoạt một thời gian. Trong thời Trung cổ Strasbourg thuộc về Đế quốc La Mã thần thánh và đã phát triển trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng. Bắt đầu từ năm 1262 Strasbourg là thành phố đế chế độc lập. Sau trận đại dịch năm 1348 một trong những cuộc tàn sát người Do Thái đầu tiên và lớn nhất thời Trung cổ đã được tiến hành vào ngày 14 tháng năm 1349: Hằng trăm người Do Thái (theo một số tài liệu là đến 3.000 người) tại Strasbourg đã bị thiêu sống công khai, những người sống sót bị đuổi ra khỏi thành phố. Cho đến thế kỷ 18 người Do Thái vẫn bị cấm không được lưu lại bên trong khu vực tường thành của thành phố sau 10 giờ đêm, những người trái lệnh sẽ bị tử hình. Năm 1439 tháp bắc của Nhà thờ lớn Strasbourg được hoàn thành. Cho đến năm 1874 nhà thờ này là ngôi nhà cao nhất thế giới và cho đến nay vẫn thuộc vào trong số các nhà thờ cao nhất thế giới. Strasbourg năm 1493 Sau năm 1648 nước Pháp cố gắng mở rộng biên giới đến sông Rhein. Strasbourg lọt vào tầm ngắm của vua Louis XIV. Sau khi quân đội Pháp chiếm lĩnh thành phố vào tháng năm 1681, Hiệp ước Rijswijk 1679 cuối cùng đã công nhận chính thức sự thay đổi này. Những người theo đạo Tin Lành không được phép làm việc trong các công sở nữa. Mặc dù vậy, trường Đại học Strasbourg mang nhiều ảnh hưởng của Đức và đạo Tin Lành vẫn tiếp tục tồn tại. Ngoài ra, vùng Alsace còn bị chia cắt với nước Pháp còn lại bởi một hàng rào thuế quan trong khi lại không có ranh giới thuế quan với nước Đức. Vì thế mà thành phố và vùng phụ cận vẫn nói tiếng Đức và chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Đức. Johann Wolfgang Goethe đã học đại học tại đây trong thời gian 1770/1771. Trong những năm đấy thành phố là điểm kết tinh của phong trào văn học "Sturm und Drang". Jakob Michael Reinhold Lenz và Johann Gottfried Herder cũng đã từng sống tại đây. Trong thời gian của cuộc Cách mạng Pháp thành phố đã là điểm thu hút cho những người theo phái Cộng hòa từ nước Đức. Người nổi tiếng nhất là Eulogius Schneider. Trong những năm và thập niên kế tiếp sau đấy Strasbourg đã trở thành nơi lưu vong cho những người Đức đối lập và cách mạng, thí dụ như cho Georg Büchner. Claude Joseph Rouget de Lisle đã sáng tác bài La Marseillaise tại đây. Strasbourg vào khoảng năm 1895 Năm 1871, sau cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Đế quốc Đức tuyên bố Strasbourg trở thành thủ phủ của vùng Trong chiến tranh, Strasbourg đã bị quân đội Đức bao vây và bắn phá dữ dội. Thư viện thành phố với phần lớn sách hiếm quý cũng như là Viện Bảo tàng Nghệ thuật đã bị phá hủy. Sau năm 1871, bên cạnh Metz và Köln, Strasbourg đã được xây dựng trở thành một trong những thành trì quan trọng nhất phía tây của Đế chế Đức. Sau cuộc Chiến tranh Đức-Pháp 1871 và tái chiếm lĩnh bởi Đế quốc Đức tình hình chính trị rất phức tạp. Đa số người dân Alsace không đồng sáp nhập vào Đế quốc Đức vừa được thành lập, việc có thể thấy qua các kết quả bầu cử sau năm 1871: đảng tự trị là đảng chính trị dẫn đầu cho đến 1890. Trong những năm sau 1871 kinh tế của thành phố Strasbourg và của vùng Alsace đã tăng trưởng cao, hòa giải ít nhất là một phần dân cư với việc thống trị của Đức Phổ. Năm 1872 trường đại học được tái thành lập dưới tên Trường Đại học Hoàng đế Wilhelm theo tên của Kaiser Wilhelm vị hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Đức và những năm sau đấy đã phát triển trở thành một trong những trường đại học quan trọng nhất trong Đế quốc Đức. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự thoái ngôi của Đức hoàng Wilhelm II vào tháng 11 năm 1918, tuyên bố trở thành Cộng hòa độc lập nhưng đã bị quân đội Pháp chiếm đóng chỉ trong vài ngày. Sau đấy, thể theo Hòa ước Versailles 1919 Strasbourg lại thuộc về Pháp. Trong thời gian từ khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày tháng năm 1939 và tuyên bố chiến tranh của Anh-Pháp vào ngày tháng năm 1939 chống lại Đức Quốc xã, dân cư của thành phố Strasbourg đã được di tản cũng như dân cư tại toàn bộ các xã gần biên giới khác. Trong vòng 10 tháng, cho đến khi quân đội Đức tiến vào thành phố vào giữa tháng năm 1940 trong Trận chiến nước Pháp, đã không có một ai sống trong thành phố trừ những người lính đóng trong quân trại. Strasbourg bị quân đội Đức chiếm đóng cho đến năm 1944. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ vào công lao của thị trưởng lâu năm của Strasbourg, Pierre Pflimlin, mà thành phố đã trở thành biểu tượng cho sự hòa giải Đức-Pháp và cho sự thống nhất của châu Âu. Toàn cảnh Strasbourg với tháp của tường thành phòng thủ ngày xưa Ngôi nhà cổ nổi tiếng Maison Kammerzell xây năm 1427 trong Strasbourg. Khu phố cổ vẫn còn trong tình trạng tốt của Strasbourg, Île de la Cité, được bao bọc bởi sông Ill, là một sông phụ của sông Rhein. Từ năm 1988 khu phố này là di sản thế giới. Biểu tượng của thành phố là Nhà thờ Đức Bà Strasbourg, được xây theo phong cách Gothic trong thời gian 1176-1439. Quảng trường Nhà thờ là một trong những quảng trường đẹp nhất châu Âu. đấy có nhiều ngôi nhà cổ được xây theo phong cách của Nam Đức, thường có bốn đến năm tầng với mái ngói rất dốc. Đối diện với cổng nam của nhà thờ là dinh thự Rohan, đã từng là nơi ngự trị của các tổng giám mục Strasbourg, trong thế kỉ 18 đều xuất thân từ gia đình Rohan. Dinh thự do Robert de Cotte phác thảo và do Joseph Massol lãnh đạo xây dựng trong thời gian từ 1731-1742. Dinh thự được xây theo phong cách và cùng vật liệu xây dựng với kiến trúc của Paris thời đấy và vì thế khác biệt rõ với các công trình xây dựng lâu đời hơn tại Strasbourg. Ngày nay dinh thự là viện bảo tàng, có thể thăm viếng các phòng cổ ngày xưa. Được khách du lịch ưa chuộng là "Khu phố thợ thuộc da", hay còn gọi là La Petite France nằm cạnh bờ sông Ill và nhiều kênh đào với nhiều ngôi nhà cũ đẹp, ngỏ hẻm và mái nhà đặc trưng. Ngày xưa, trên hòn đảo này là một bệnh viện quân đội dành cho những người lính mắc bệnh giang mai mà ngày đấy còn được gọi một cách khinh miệt là "bệnh người Pháp", khi mà Strasbourg chưa thuộc về Pháp. Tên của khu phố xuất phát từ khái niệm này. Cũng đáng tham quan là các công trình từ thời Đế chế Đức như nhà ga, Trường Đại học Nghệ thuật, trường nữ ngày xưa, dinh thự hoàng đế Palais du Rhin, tòa án và Trường Đại học với thư viện và đài thiên văn. Nhà thờ Do Thái Synagogue de la Paix được xây năm 1958 ngay tại vị trí của một nhà thờ cũ đã bị phá hủy. Nhà thờ Đức Bà Strasbourg École nationale d'administ (phải), Barrage Vau (trái) và Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (giữa) Opéra national du Rhin (Nhà hát opera Rhein) có đội ngũ trình diễn và dàn nhạc riêng với rất nhiều khán giả trung thành đến từ khắp nơi trong vùng thượng lưu sông Rhein. Nghệ nhân carabet Roger Siffer trình diễn show riêng của ông trong Théâtre de la Choucrouterie với trên 20.000 người đến xem hằng năm. Vào thời gian Giáng Sinh, chợ Giáng Sinh của Strasbourg là một trong những chợ Giáng sinh đẹp nhất với cây thông khổng lồ trên Quảng trường Kléber, nhiều đặc sản của vùng Alsace và hòa tấu trong các nhà thờ của Strasbourg. Musée des Beaux-Arts (Viện Bảo tàng Nghệ thuật) trong Dinh thự Rohan trưng bày các tác phẩm cổ điển của Hans Memling, El Greco, Francisco de Goya, Correggio, Peter Paul Rubens, Jacopo Tintoretto, Paolo Veronese, Giovanni Antonio Canal, Giotto di Bondone, Anthonis van Dyck và Antoine Watteau. Musée des Art décoratifs (cũng trong dinh thự Rohan) là một viện bảo tàng về nghệ thuật thủ công với nhiều bộ sưu tập các đồ vật bằng bạc và sứ. Trong Musée Alsacien là các tác phẩm nghệ thuật quần chúng và thủ công của vùng Alsace. Cũng nổi tiếng là Musée d'art moderne et contemporain (Viện Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại và đương đại) với bộ sưu tập các tác phẩm của Gustave Doré, Jean Arp và Victor Brauner. Trong Centre Tomi Ungerer là các tác phẩm của nghệ nhân vùng Alsace nổi tiếng này. Bắt đầu từ năm 2005, Le Vaisseau, một trung tâm khoa học và kỹ thuật dành cho thiếu nhi và thiếu niên từ đến 15 tuổi, đã làm cho quang cảnh viện bảo tàng Strasbourg thêm phong phú. Viện Bảo tàng Khảo cổ trong Dinh thự Rohan trưng bày lịch sử lâu đời của Alsace: từ thời Tiền sử cho đến đầu thời Trung cổ. Khu "Alsace La Mã" trưng bày một bộ sưu tập phong phú các di vật của thời gian từ thế kỉ thứ đến thế kỉ thứ sau Công Nguyên. Trường Đại học Strasbourg Johannes Sturm thành lập trường trung học Tin Lành năm 1538. Ngôi trường được nâng cấp trở thành học viện (académie) năm 1556 và dần dần trở thành Trường Đại học (1621) rồi thành Trường Đại học Hoàng gia (1631). Sau khi Strasbourg thuộc Pháp và đặc biệt là từ cuộc Cách mạng Pháp trường đại học ngày càng biến chuyển trở thành một trường đại học Pháp và trở thành một cực Pháp trong thành phố. Sau cuộc chiến năm 1870, do Pháp mất vùng Alsace nên giới tinh hoa của trường đại học đã rời bỏ Strasbourg. Tuy được tái thành lập sau đó nhưng năm 1918, sau khi Alsace lại thuộc về Pháp, trường lại được biến đổi hoàn toàn thành trở thành một trường đại học Pháp. Ngày nay Trường Đại học Strasbourg nằm trong "Liên minh châu Âu của các trường đại học Thượng lưu sông Rhein" và có nhiều quan hệ với trường các trường đại học Karlsruhe, Basel, Mühlhausen và trường Đại học Albert Ludwig Freiburg. Do nhà thờ có một vị trí đặc biệt trong vùng Alsace nên trường Đại học Strasbourg là trường đại học duy nhất của Pháp có hai khoa về thần giáo do nhà nước tài trợ (Công giáo và Tin Lành). Strasbourg là nơi đặt trụ sở của Quốc hội châu Âu Hội đồng châu Âu Tòa án Nhân quyền châu Âu Ủy ban châu Âu về chất lượng dược phẩm Quân đoàn châu Âu EURIMAGES (Quỹ hỗ trợ sản xuất phim châu Âu) Đài truyền hình Đức-Pháp ARTE Ủy ban Trung ương về giao thông tàu thủy trên sông Rhein 1300 Johannes Tauler, nhà thần học Peter Hemmel của Andlau, họa sĩ vẽ trên thủy tinh 1457 Sebastian Brant, luật gia, nhà văn, nhà hoạt động nhân đạo 1475 Hans Weiditz d. Ä., nhà điêu khắc 1487 Johannes Bader, nhà thần học Luther 1489 Jakob Sturm của Sturmeck, thị trưởng theo đạo Tin Lành của thành phố, ngày tưởng niệm trong đạo Tin Lành là ngày 30 tháng 10 1497 Katharina Zell, nhà văn nữ của phong trào Cải cách Kháng Cách 1520 Jacob Frey, nhà văn 1537 Martin Montanus, nhà văn và nhà soạn bi kịch 1546 Johann Fischart, nhà văn 1597 Sebastian Stoskopff, họa sĩ 1600 Johann Philipp Abelin, sử gia 1621 Albrecht Kauw, họa sĩ 1632 Balthasar Bebel, nhà thần học 1643 Johann Joachim Zentgraf, nhà thần học 1689 Johann Christof Freiherr của Bartenstein, chính khách và nhà ngoại giao hoàng cung Wien 1721 Henriette Karoline của nữ bá tước của 1724 Dagobert bá tước của Wurmser, nhà quân sự 1740 Philipp Jakob Loutherbourg (der Jüngere), họa sĩ 1747 Heinrich Leopold Wagner, nhà văn 1749 Jean Frédéric Edelmann, nhà soạn nhạc 1753 Jean-Baptiste Kléber, tướng quân đội 1753 Franz Heinrich Ziegenhagen, nhà xã hội không tưởng 1756 Anton Will, nhà học 1757 Charlotte Ackermann, nữ diễn viên 1786 Ludwig I., vua của Bayern 1796 Georg Wilhelm của Wedekind, nhà lâm học 1810 Jean Georges Kastner, nhà soạn nhạc 1832 Gustave Doré, họa sĩ, tạo hình và vẽ tranh minh họa 1832 Charles Friedel, nhà hóa học 1837 Émile Waldteufel, nhà soạn nhạc 1852 Georg Friedrich Eugen Kastner, nhà vật lý học 1855 Paul Émile Appell, nhà toán học 1863 Hugo Becker, nhà soạn nhạc 1873 Heinrich Emil Timerding, nhà toán học 1875 Carl Wendling, nhạc sĩ, hiệu trưởng trường Đại học Âm nhạc Stuttgart 1886 Wolfgang Windelband, sử gia 1886 Hans hay Jean Arp, họa sĩ, nhà điêu khắc và nhà thơ 1891 Charles Münch, nhạc trưởng dàn nhạc 1897 Rudolf Schwarz, kiến trúc sư 1900 Erich Welter, nhà báo và nhà kinh tế học 1906 Hans Bethe, nhận Giải thưởng Nobel về vật lý 1909 Hans-Otto Meissner, nhà ngoại giao và nhà văn 1910 Max Bense, triết gia, nhà văn và nhà xuất bản 1920 Camille Claus, họa sĩ 1923 Marcel Marceau, diễn viên kịch câm 1923 Germain Muller, chính trị gia, nghệ sĩ cabaret và nhà thơ 1929 Claude Rich, diễn viên 1931 Tomi Ungerer, nhà vẽ tranh minh họa và tạo hình 1942 Wolfgang Huber, giám mục 1949 Arsène Wenger, huấn luyện viên bóng đá 1971 Yann Wehrling, bí thư đảng Les Verts (Đảng Xanh) 1975 Valérien Ismaël, vận động viên bóng đá 1976 Armando Teixeira (Petit), vận động viên bóng đá 1975 (?) Salomé Haller, nữ ca sĩ opera 1978 Mehdi Baala, vận động viên điền kinh 1982 Paul-Henri Mathieu, vận động viên quần vợt chuyên nghiệp 1985 Matthieu Totta tức M. Pokora, ca sĩ Strasbourg kết nghĩa với các thành phố: Boston, Hoa Kỳ, từ năm 1960 Leicester, United Kingdom, từ năm 1960 Stuttgart, Đức, từ năm 1962 Dresden, Đức, từ năm 1990 Ramat Gan, Israel, từ năm 1991 30pxOran, Algérie, từ ngày tháng năm 2013 Hình:Strasbourg muenster turm 2.jpg|Nhà thờ lớn Strasbourg 1284.jpg|Tháp nhà thờ và ngôi nhà Kammerzell 1349.jpg|Nhìn từ Nhà thờ Lớn Strasbourg con đường trong Petite France Ill trong Petite France cảnh khu phố Petite France 1331.jpg|Dinh thự Rohan Hình:Strasbourg bahnhof.jpg|Nhà ga chính hát Quốc gia Hình:Eglise St Paul thờ Saint-Paul Hình:Eglise Saint Pierre le Jeune (Catholique) thờ Công giáo Hình:Eglise St Thomas Strasbourg.JPG| Nhà thờ Thánh Thomas ống nổi tiếng trong Nhà thờ Saint-Thomas Hình:Orgue Cathedrale de ống trong Nhà thờ lớn Strasbourg Mimram dành cho người đi bộ giữa hai thành phố Strasbourg và Kehl (Đức) 4015.jpg|Tác phẩm trong Musée de l'Oeuvre Notre-Dame Joséphine Joséphine trong Parc de l'Orangerie Hình:Château de Pourtalès 01.jpg|Lâu đài Pourtalès VandenBossche, Benoît: Straßburg, das Münster ISBN 3-7954-1387-7. Văn phòng Du lịch Strasbourg Các Viện Bảo tàng trong Strasbourg Nhà hát Quốc gia Strasbourg (Théâtre National de Strasbourg'') Bản đồ du lịch nội thành | null | Xã của Bas-Rhin, Cựu cộng hòa, Khu dân cư trên sông Rhein, Khởi đầu năm 1262, Di sản thế giới tại Pháp |
là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Lophoruza albicostalis (Leech, 1889) Lophoruza albisecta (Warren, 1912) Lophoruza apiciplaga (Warren, 1913) Lophoruza bella (Bethune-Baker, 1906) Lophoruza chalcocosma Turner, 1945 Lophoruza cithara (Swinhoe, 1902) Lophoruza consors (Warren, 1913) Lophoruza diagonalis Hampson, 1910 Lophoruza diversalis (Walker, 1868) Lophoruza jugosa (Swinhoe, 1902) Lophoruza longipalpis (Walker, 1865) Lophoruza lunifera (Moore, 1885) Lophoruza mascarena Joannis, 1910 Lophoruza mobdosticha Turner, 1945 Lophoruza pulcherrima (Butler, 1879) Lophoruza (Warren, 1913) Lophoruza roseoliva (Warren, 1913) Lophoruza rubrimacula Prout, 1921 Lophoruza semicervina (Warren, 1913) Lophoruza semiscripta (Mabille, 1893) Lophoruza tamsi Roepke, 1938 Lophoruza vacillatrix Hampson, 1910 Lophoruza xylonota (Lower, 1903) Lophoruza'' at funet.fi Natural History Museum Lepidoptera genus database | null | Acontiinae |
Elsa Jacquemot là đương kim vô địch, nhưng chọn tham dự nội dung đơn nữ. Linda Nosková là nhà vô địch, đánh bại Erika Andreeva trong trận chung kết, 7–6(7–3), 6–3. = = = = Kết quả tại Kết quả tại ITFtennis.com Đơn nữ trẻ Giải quần vợt Pháp Mở rộng, Đơn nữ trẻ 2021 | null | |
Josef Mengele (; 16 tháng năm 19117 tháng năm 1979), còn được biết đến với biệt danh Thiên thần Chết (), là một sĩ quan (SS) và bác sĩ quân người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khét tiếng vì những thí nghiệm vô nhân đạo trên các tù nhân tại trại tập trung Auschwitz. Giai đoạn tiền chiến, Mengele được trao hai bằng tiến sĩ ngành nhân chủng học và học. Ông lần lượt gia nhập Đảng Quốc Xã vào năm 1937 rồi SS vào năm 1938. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Mengele được bổ nhiệm làm sĩ quan tế cấp tiểu đoàn, trước khi chuyển đến làm việc tại Auschwitz vào năm 1943. Tại đây, Mengele được giao nhiệm vụ tuyển chọn tù nhân để thủ tiêu tại các phòng hơi ngạt. Ngoài hành vi trực tiếp giết người, Mengele còn thực hiện hàng loạt thí nghiệm trên cơ thể tù nhân nhằm phục vụ những nghiên cứu trong lĩnh vực di truyền học, tập trung chủ yếu vào các cặp sinh đôi mà không hề quan tâm đến sức khỏe cũng như sự an toàn của các nạn nhân. Ngày 17 tháng năm 1945, chỉ 10 ngày trước khi Hồng quân Liên Xô giải phóng trại Auschwitz, Mengele được di tản tới Trại tập trung Gross-Rosen cách đó 280 kilômét (170 dặm). Sau chiến tranh, Mengele tìm cách đào tẩu tới Nam Mỹ. Thông qua Con đường chuột, ông chạy trốn bằng đường biển đến Argentina vào tháng năm 1949. Ban đầu Mengele sống tại khu vực Buenos Aires, nhưng sau đó phải chạy tới Paraguay năm 1959 và Brasil năm 1960 trước sự truy lùng gắt gao của Tây Đức, Israel và những thợ săn quốc xã. Mặc cho những yêu cầu dẫn độ của chính phủ Tây Đức và các hoạt động bí mật của cơ quan tình báo Israel Mossad, Mengele vẫn không sa lưới trong suốt phần đời còn lại. Ông chết đuối do đột quỵ tại bãi biển Bertioga và được chôn cất dưới tên giả Wolfgang Gerhard. Năm 1985, hài cốt của Mengele được khai quật và nhận diện bằng phương pháp giám định pháp y. Sinh ra tại Günzburg vào ngày 16 tháng năm 1911, Mengele là con trai cả trong ba đứa con của cặp vợ chồng Walburga (nhũ danh Hupfauer) và Karl Mengele. Hai người em trai của ông lần lượt là Karl Jr. và Alois. Karl mua một cơ sở sản xuất nông cụ vào năm 1907 và chỉ trong ít năm đã trở thành ông chủ lớn nhất tại địa phương. Khi Karl qua đời vào năm 1959, công ty Karl Mengele Söhne có 2000 nhân viên trên toàn thế giới. Karl từng chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Những năm 1920, ông gia nhập lực lượng bán quân sự Der Stahlhelm, Bund der Frontsoldaten và từng có khoảng thời gian là đảng viên Đảng Nhân dân Quốc gia Đức. Karl được miêu tả là một người theo chủ nghĩa bảo thủ nhưng không được xem là một người bài Do Thái. Trong các năm 1924 và 1929, ông tranh cử Hiệp hội Công dân Tự do cho Hội đồng Thành phố Günzburg nhưng không thành. Karl Mengele gia nhập Đảng Quốc Xã vào năm 1932 và dường như nhận được một ghế trong hội đồng thành phố vì có đóng góp cho đảng. Sau khi hứng phải chỉ trích từ nội bộ đảng rằng ông dùng tiền để mua chức quyền, Karl gia nhập lực lượng SS vào năm 1935. Giới nghiên cứu lịch sử mô tả môi trường gia đình nơi Josef Mengele lớn lên không mang tư tưởng Quốc gia xã hội mà hơi hướng chủ nghĩa Công giáo bảo thủ và Quốc gia Đức. Năm 1924, Josef Mengele gia nhập Đoàn Thanh niên Đại Đức Jugendbund, GDJ) tuổi 13. Trong khoảng thời gian từ năm 1927 đến 1930, ông giữ chức trưởng nhóm Thanh niên địa phương tại Günzburg. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 1930, Josef Mengele trúng tuyển vào ngành khoa của Đại học Ludwig Maximilian tại München, nơi Đảng Quốc xã đặt trụ sở. Ông chuyển đến Bonn trong học kỳ thứ ba vì lý do cá nhân. Theo lời tự thuật, ông quyết định không tham gia bất kỳ hội sinh viên nào vì không thích thói rượu chè của họ. Tuy nhiên, vào tháng năm 1931, Mengele đã gia nhập lực lượng thanh niên của Stahlhelm là Trong nhật ký của mình, Mengele giải thích rằng ông và một người bạn học từng chứng kiến một cuộc biểu tình cộng sản và cảm thấy đã đến lúc lựa chọn phe phái chính trị cho bản thân. Sau khi trải qua một học kỳ Viên, ông quay trở lại München vào mùa hè năm 1933 và ghi danh vào khoa nhân chủng học. Năm 1935, Mengele nhận được điểm tuyệt đối với luận án Untersuchung des vorderen bei vier rassischen Gruppen ("Nghiên cứu hình thái học xương hàm dưới của bốn nhóm chủng tộc") và được giám đốc Viện Nhân chủng học München, Theodor Mollison trao bằng tiến sĩ nhân chủng học hạng summa cum laude (xuất sắc tột đỉnh). Để thực hiện luận án, ông kiểm tra 123 bộ hàm dưới từ Bộ sưu tập Nhân chủng học München, những tài liệu từ lịch sử loài người thời sơ khai. Mục đích là để xác định mối liên hệ giữa các chủng tộc thông qua những phần xương hàm này. Đại diện quan điểm ngày nay, sử gia học Udo Benzenhöfer cho rằng đây đúng ra là một "suy nghĩ điên rồ" chứ không phải khoa học. Vào mùa hè năm 1936, Mengele vượt qua kỳ kiểm tra tế cấp nhà nước. Sau bốn tháng thực tập tại Phòng khám Nhi đồng Đại học Leipzig, ông tiếp nhận vị trí trợ lý theo lời giới thiệu của Mollison vào năm 1937 tại Viện Đại học về Sinh học Di truyền và Vệ sinh nhân chủng Frankfurt am Main, lúc bấy giờ do tiến sĩ Otmar Freiherr von Verschuer điều hành. Mollison và Von Verschuer được coi là những người đã khơi dậy mối quan tâm của Mengele dành cho các vấn đề liên quan tới thuyết ưu sinh và bệnh lý di truyền. Trong vai trò trợ lý của Von Verschuer, Mengele tập trung nghiên cứu các yếu tố di truyền dẫn đến các bệnh sứt cằm, sứt môi và hở hàm ếch. Luận án về chủ đề này giúp ông nhận được bằng tiến sĩ khoa loại xuất sắc tại Đại học Frankfurt vào năm 1938. Trong một bức thư giới thiệu, Von Verschuer ca ngợi độ tin cậy của Mengele và kỹ năng truyền đạt các tài liệu phức tạp một cách rành mạch. Tác giả người Mỹ Robert Jay Lifton lưu rằng các công trình nghiên cứu mà Mengele từng công bố đều phù hợp với xu hướng khoa học thời đó và chúng thậm chí có thể được coi là những công trình nghiên cứu hợp lệ ngay cả bên ngoài Đức Quốc Xã. thức hệ quốc xã kết hợp những yếu tố của chủ nghĩa bài Do Thái, vệ sinh nhân chủng và ưu sinh với chủ nghĩa Liên Đức và chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ, xem việc tìm kiếm Lebensraum (không gian sống) cho dân tộc Đức là sứ mệnh tối thượng. Để đạt được mục tiêu trên, Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan và Liên Xô, dự định trục xuất người Do Thái và Slav bản địa những sắc dân bị Đức Quốc Xã đánh giá là thấp kém hơn chủng tộc Aryan. Sau khi gia nhập Đảng Quốc Xã vào năm 1937 và (SS) vào năm 1938, Mengele tham gia khóa đào tạo quân sự cơ bản của Tháng năm 1940, ông được gọi vào Wehrmacht chỉ ít lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Mengele tình nguyện trở thành bác sĩ quân trong Waffen-SS, nhánh chiến đấu của SS, phục vụ với quân hàm (thiếu úy) trong một tiểu đoàn dự bị tế cho đến tháng 11 năm 1940. Sau đó, ông được điều đến làm việc tại SS-Rasse- und Poznań với công việc chính là chọn lựa những ứng viên đủ điều kiện về mặt nhân chủng để tham gia chương trình Đức hóa. Tháng năm 1941, Mengele được điều tới Ukraina và được trao tặng Huân chương Thập tự sắt hạng hai. Đầu năm 1942, ông gia nhập Sư đoàn Panzer SS số "Wiking" dưới tư cách bác sĩ quân cấp tiểu đoàn. Sau khi giải cứu hai lính Đức khỏi một xe tăng bị cháy, Mengele được cấp trên trao tặng Huân chương Thập tự sắt hạng nhất, Huân chương trọng thương màu đen cùng Huân chương vì sự nghiệp chăm sóc người Đức. Giữa năm 1942, do bị thương nặng gần Rostov trên sông Đông, Mengele được chẩn đoán là không còn đủ khả năng phục vụ tại ngũ. Sau khi bình phục, ông được điều đến làm việc tại Văn phòng Định cư và Chủng tộc SS Berlin. Tại đây, Mengele một lần nữa có cơ hội hợp tác với Von Verschuer, người lúc bấy giờ đã là giám đốc của Viện Nhân chủng học, Di truyền con người và Ưu sinh Hoàng đế Wilhelm. Tháng năm 1943, Mengele được thăng hàm (đại úy). Khâu "tuyển chọn" người Do Thái Hungary Birkenau, tháng hoặc năm 1944 Kể từ năm 1942, Trại Auschwitz II (Birkenau) vốn ban đầu được dự định làm nơi giam giữ nô lệ lao động bắt đầu được sử dụng làm trại lao động và trại hủy diệt. Hàng ngày, tù nhân được vận chuyển đến Auschwitz bằng đường sắt từ mọi vùng lãnh thổ châu Âu do Đức Quốc Xã kiểm soát. Các bác sĩ SS tiến hành "tuyển chọn" những tù nhân mới chuyển đến và phân họ thành hai loại, những người đủ khả năng lao động sẽ được nhận vào trại, còn ai không đủ điều kiện sẽ bị giết trong phòng hơi ngạt. Những người bị giết chiếm 3/4 tổng số tù nhân hầu hết đều là trẻ em, phụ nữ có con nhỏ, phụ nữ có thai, người già và những người được chẩn đoán là không đủ khỏe mạnh (sau những cuộc kiểm tra ngắn gọn và hời hợt của bác sĩ SS). Đầu năm 1943, Von Verschuer khuyến khích Mengele nộp đơn xin làm việc trại tập trung. Sau khi được chấp nhận, Mengele chuyển đến Auschwitz làm việc. Ông được giám đốc tế Auschwitz, Eduard Wirths, bổ nhiệm làm sĩ trưởng của khu (trại gia đình người Di-gan) Birkenau, một tiểu trại của khu phức hợp Auschwitz. Công việc của bác sĩ SS không phải là điều trị cho các tù nhân Auschwitz mà là giám sát các tù nhân có trình độ khoa làm việc. Một trong những nhiệm vụ của Mengele là đến thăm bệnh viện hàng tuần và bắt bất kỳ tù nhân nào chưa hồi phục sau hai tuần nằm giường đến phòng hơi ngạt. Mengele đảm trách công việc "tuyển chọn" và tự nguyện làm công việc này ngay cả khi không được giao nhiệm vụ với hy vọng tìm kiếm đối tượng phù hợp để thí nghiệm và dành sự quan tâm đặc biệt đến các cặp song sinh. Tuy hầu hết các bác sĩ SS đều coi công việc tuyển chọn là một trong những nhiệm vụ căng thẳng và khó chịu nhất, song Mengele lại xem đây là một công việc nhẹ nhàng và thường mỉm cười hoặc huýt sáo lúc làm việc. Ông là một trong những bác sĩ SS đảm trách nhiệm vụ giám sát Zyklon B, một loại thuốc trừ sâu Xyanua dùng để giết người hàng loạt trong các phòng hơi ngạt Birkenau. Khi bệnh viêm miệng hoại tử một căn bệnh do vi khuẩn gây hoại tử miệng và mặt hoành hành tại khu của người Di-gan vào năm 1943, Mengele bắt đầu nghiên cứu để xác định nguyên nhân của căn bệnh này và phát triển một phương pháp điều trị. Ông tranh thủ sự giúp đỡ của tù nhân Berthold Epstein, một bác sĩ nhi khoa người Do Thái và giáo sư tại Đại học Karl Praha. Bệnh nhân bị cách ly trong một khu trại tách biệt, một số trẻ em mắc bệnh bị giết để lấy thủ cấp và nội tạng nhằm gửi đến Học viện tế SS Graz và các cơ sở khác để nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu vẫn được tiến hành khi trại người Di-gan bị đóng cửa và những tù nhân còn lại bị sát hại vào năm 1944. Khi một trận dịch sốt phát ban bùng phát khu trại phụ nữ, Mengele cho dọn sạch một khu nhà có sáu trăm phụ nữ Do Thái sinh sống rồi giết họ trong phòng hơi ngạt. Khu nhà sau đó được làm sạch và khử trùng. Những tù nhân sống tại khu nhà lân cận sẽ được tắm rửa sạch sẽ và ban quần áo mới trước khi bị ép chuyển đến khu nhà đã khử trùng. Quá trình này được lặp đi lặp lại cho đến khi mọi khu nhà đã được làm sạch. Quy trình tương tự cũng được áp dụng trong các vụ bùng phát dịch ban đỏ và các bệnh khác sau đó, điểm chung là tù nhân bị nhiễm bệnh sẽ bị giết trong phòng hơi ngạt. Bằng những phương thức chống dịch này, Mengele được trao tặng Huân chương Chiến tranh (Hạng Nhì với thanh kiếm) và được thăng cấp lên sĩ thứ nhất của tiểu khu Birkenau vào năm 1944. Trái qua phải: Richard Baer, Josef Mengele và Rudolf Höss Auschwitz, 1944 (album ảnh của Höcker) Mengele xem Auschwitz là cơ hội để tiếp tục công trình nghiên cứu nhân chủng học cũng như tính di truyền và thường sử dụng tù nhân vào các thí nghiệm trên người. Các phương pháp thí nghiệm không hề đoái hoài đến sức khỏe, sự an toàn, hay sự đau khổ về thể chất lẫn tinh thần của nạn nhân. Mengele đặc biệt quan tâm đến những cặp song sinh cùng trứng, người mắc chứng dị sắc tố (mắt có hai màu khác nhau), người lùn và những người bị dị tật bẩm sinh. Theo yêu cầu Von Verschuer người thường xuyên nhận các báo cáo và mẫu vật từ Mengele công trình nghiên cứu của Mengele nhận được sự tài trợ của Deutsche (Quỹ Nghiên cứu Đức). Khoản tài trợ được sử dụng để xây dựng một phòng thí nghiệm bệnh lý nằm kế bên Lò thiêu II tại Auschwitz II-Birkenau. Miklós Nyiszli, một nhà nghiên cứu bệnh học người Do Thái Hungary, đến Auschwitz ngày 29 tháng năm 1944, đã từng bị ép phải thực hiện các ca giải phẫu và chuẩn bị các bệnh phẩm trong phòng thí nghiệm này để gửi lên trên. Những cuộc nghiên cứu về các cặp song sinh được tiến hành, một phần nhằm chứng minh tính ưu việt của di truyền đối với môi trường để củng cố giả thuyết về tính ưu việt di truyền của chủng tộc Aryan. Nyiszli và nhiều người khác cho rằng các nghiên cứu về về các cặp song sinh được tiến hành với mục đích tăng tỷ lệ sinh sản của chủng tộc Đức bằng cách cải thiện khả năng sinh đôi của những người nằm trong diện "đáng để phối giống". Các đối tượng nghiên cứu của Mengele được cho ăn và cung cấp nơi tốt hơn những tù nhân khác và tạm thời không bị giết trong phòng hơi ngạt. Họ sống trong một khu riêng, được cung cấp thực phẩm chất lượng tốt hơn một chút và điều kiện sống cải thiện phần nào so với các khu vực khác của trại. Khi đến thăm các đối tượng nhỏ tuổi, Mengele thường thể hiện một gương mặt thân thiện, tự giới thiệu mình là "Chú Mengele" và phát kẹo cho chúng ăn. Tuy nhiên, trái ngược với bộ mặt thân thiện thường thể hiện, Mengele chính là người trực tiếp gây ra cái chết của vô số nạn nhân thông qua các hình thức như tiêm thuốc độc, bắn, đánh đập và thí nghiệm vô nhân tính. Trong cuốn sách năm 1986, Lifton mô tả Mengele là một kẻ "tàn ác, vô cảm và cực kỳ bài Do Thái", cho rằng người Do Thái là một "chủng tộc hạ đẳng và nguy hiểm cần bị tiêu diệt". Rolf Mengele về sau cũng công nhận rằng cha mình không hề tỏ ra hối hận với những việc mà ông đã làm trong chiến tranh. Một cựu tù Auschwitz từng bị ép phục vụ làm sĩ nói về Mengele như sau: Mengele luôn tỏ ra ân cần với những đứa trẻ nên chúng thích ông ấy. Ông ta cho chúng kẹo, thậm chí quan tâm đến những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của đám trẻ và làm những điều mà chúng ta phải trầm trồ ngưỡng mộ Nhưng rồi những đứa trẻ mới được cho kẹo kia ngày hôm sau hoặc nửa giờ sau sẽ bị ông ta đưa vào lò thiêu. Thế đấy, đấy chính là điều bất bình thường của gã này. Các cặp song sinh Do Thái Auschwitz được bảo toàn tính mạng để Mengele sử dụng trong các thí nghiệm tế. Hồng quân Liên Xô giải cứu những đứa trẻ này vào tháng năm 1945. Hàng tuần, Mengele hoặc phụ tá của ông ta tiến hành kiểm tra và đo đạc định kỳ chỉ số thể chất của các cặp song sinh. Những thí nghiệm được thực hiện trên các cặp song sinh bao gồm việc cắt cụt các chi mà Mengele cho là "không cần thiết", khiến một trong hai đứa trẻ mắc sốt phát ban hoặc một số bệnh khác rồi lấy máu tiêm vào đứa trẻ còn lại. Rất nhiều nạn nhân đã tử vong khi Mengele tiến hành các thí nghiệm này, những người qua khỏi cũng bị giết ngay sau đó, thi thể bị mổ xẻ do đã hết mục đích sử dụng. Nyiszli kể rằng Mengele đã tự tay kết liễu mười bốn cặp song sinh trong một đêm bằng cách tiêm chloroform vào tim chúng. Nếu một trong hai đứa trẻ song sinh nhỡ chết vì bệnh tật, Mengele sẽ giết nốt đứa còn lại nhằm so sánh kết quả khám nghiệm tử thi để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Các thí nghiệm về mắt của Mengele bao gồm tiêm hóa chất vào nhãn cầu của đối tượng sống với hy vọng làm thay đổi màu mắt, còn những người bị mắc chứng loạn sắc tố mống mắt sẽ bị giết và móc mắt để gửi đến Berlin nghiên cứu. Đối với người lùn hoặc người bị dị tật bẩm sinh, Mengele thực hiện kiểm tra thể chất, lấy máu, nhổ những chiếc răng khỏe mạnh và tiến hành điều trị bằng tia hoặc các loại thuốc thang hỗn tạp. Nhiều nạn nhân sẽ bị đưa đến phòng hơi ngạt chỉ sau khoảng hai tuần, còn xương của họ sẽ được gửi đến Berlin để nghiên cứu thêm. Mengele thường tìm bắt những phụ nữ có thai để thực hiện thí nghiệm trước khi ném họ vào phòng hơi ngạt. Một nạn nhân sống sót tên Alex Dekel kể lại rằng ông từng tận mắt chứng kiến Mengele giải phẫu moi tim và dạ dạy mà không hề gây mê nạn nhân. Năm 2009, một nạn nhân sống sót khác tên Yitzhak Ganon kể lại rằng Mengele đã lấy thận của ông mà không tiêm thuốc mê. Sau ca phẫu thuật, ông bị ép tiếp tục làm việc mà không được cấp thuốc giảm đau. Nhân chứng Vera Alexander kể rằng Mengele từng cố gắng khâu hai cặp song sinh người Di-gan lại với nhau, hy vọng tạo ra một cặp song sinh dính liền. Cả hai đứa trẻ đều qua đời vì hoại tử sau vài ngày chịu đau đớn. Ngày 17 tháng năm 1945, Mengele cùng với một số đồng nghiệp khác được di tản tới Trại tập trung Gross-Rosen Hạ Schlesien, mang theo hai hộp đựng mẫu vật và hồ sơ các thí nghiệm tại Auschwitz. Hầu hết hồ sơ bệnh án của trại đã bị SS tiêu hủy vào thời điểm Hồng quân Liên Xô giải phóng trại Auschwitz vào ngày 27 tháng 1. Mengele trốn khỏi Gross-Rosen vào ngày 18 tháng 2, một tuần trước khi Hồng quân ập tới. Ông sau đó chạy đến Žatec Tiệp Khắc, cải trang thành một sĩ quan Wehrmacht. Tại đây, Mengele tạm thời giao những bằng chứng phạm tội của mình cho một người tá mới quen. Ông và đơn vị của mình sau đó đã nhanh chóng chạy về phía Tây để lẫn tránh Hồng quân, song cả nhóm đã bị người Mỹ bắt giữ vào tháng năm 1945. Dù Mengele khi đó vẫn sử dụng tên thật, nhưng bởi những sai sót trong khâu quản lý, đơn vị giam giữ không hề hay biết việc ông nằm trong danh sách những tội phạm chiến tranh bị truy nã. Ngoài ra, do không phát hiện hình xăm máu đặc trưng của thành viên SS trên cơ thể, Mengele được người Mỹ phóng thích chỉ sau một tháng ngồi tù. Sau khi kiếm được giấy tờ giả dưới cái tên "Fritz Hollmann", Mengele đã mạo hiểm quay về vùng bị Liên Xô chiếm đóng để tìm kiếm hồ sơ thí nghiệm Auschwitz của mình. Sau nhiều tháng lẩn trốn, ông bắt đầu sống dưới vỏ bọc của một người nông dân Rosenheim, Bayern. Ngày 17 tháng năm 1949, Mengele quyết định rời khỏi Đức trốn ra nước ngoài do lo sợ sẽ nhận án tử nếu phải ra hầu tòa. Được sự hỗ trợ của một mạng lưới cựu thành viên SS, Mengele sử dụng con đường chuột để trốn đến Genova, Ý. Sau khi nhận được một cuốn hộ chiếu từ Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế dưới danh tính "Helmut Gregor", Mengele khởi hành đến Argentina vào tháng năm 1949. Vợ Mengele, Irene Mengele, từ chối đi cùng. Hai người ly hôn vào năm 1954. Chân dung Mengele trên giấy tờ Argentina (1956) Sau khi đến Argentina, Mengele hành nghề thợ mộc Buenos Aires và sống trong một ngôi nhà trọ khu ngoại Vicente López. Một vài tuần sau đó, Mengele chuyển đến sống tại nhà của một người có cảm tình với chủ nghĩa quốc xã khu nhà giàu Florida Este. Khoảng thời gian tiếp đó, Mengele làm nhân viên bán hàng cho công ty gia đình Karl Mengele Söhne. Kể từ năm 1951, ông thường xuyên thực hiện các chuyến công tác đến Paraguay với tư cách là đại diện bán hàng khu vực Nam Mỹ. Năm 1953, Mengele chuyển đến sống trong một căn hộ trung tâm Buenos Aires và sau đó thuê một căn nhà ngoại Olivos vào năm 1954. Hồ sơ do chính phủ Argentina công bố năm 1992 cho thấy Mengele có thể đã hành nghề bất hợp pháp trong thời gian sống tại Buenos Aires, bao gồm cả việc phá thai. Sau khi có được bản sao giấy khai sinh gốc thông qua đại sứ quán Tây Đức vào năm 1956, Mengele đã được phía Argentina cấp giấy phép cư trú dưới tên thật. Ông sử dụng giấy tờ và tên thật để làm hộ chiếu Tây Đức và khởi hành đến châu Âu ngay sau đó. Ông gặp con trai Rolf và em dâu góa chồng là Martha tại Thụy Sĩ. Rolf không hề biết đây là bố mình do ông tự xưng là "Chú Fritz". Sau kỳ nghỉ trượt tuyết Thụy Sĩ, Mengele theo hai cô cháu Martha, Rolf về quê nhà Günzburg và lại đây một tuần. Sau khi quay trở lại Argentina vào tháng năm 1956, Mengele bắt đầu sống dưới danh tính thật. Martha cùng con trai là Karl Heinz (người gọi Josef Mengele là bác ruột) cũng đến Argentina khoảng một tháng sau đó. Năm 1958, Josef Mengele và em dâu Martha kết hôn với nhau khi đang du lịch Uruguay. Hai người mua một ngôi nhà chung Buenos Aires. Cũng trong thời gian này, Mengele trở thành cổ đông của một công ty dược phẩm có tên là Fadro Farm. Cũng trong năm đó, Mengele cùng một số bác sĩ khác bị cơ quan chức năng tạm giam do nghi ngờ hành nghề bất hợp pháp khi một thiếu nữ tử vong sau khi nạo phá thai, song đã được thả tự do chỉ ít lâu sau đó. Nhận thức rằng việc công khai danh tính có thể khiến quá khứ quốc xã và các hoạt động thời chiến bị lộ tẩy, Mengele thực hiện một chuyến công tác dài ngày tới Paraguay và được cấp quyền công dân đó vào năm 1959 dưới tên "José Mengele". Ông quay trở lại Buenos Aires vài lần để giải quyết công việc kinh doanh và thăm gia đình. Martha và Karl sống trong một căn nhà trọ tại Buenos Aires cho đến khi quay trở về Tây Đức vào tháng 12 năm 1960. Tên của Mengele tuy được nhắc đến nhiều lần trong Phiên tòa Nürnberg nhưng quân Đồng minh cho rằng nhiều khả năng ông đã chết. Bản thân Irene Mengele và gia đình Günzburg cũng tuyên bố rằng Mengele đã qua đời. Trong thời gian Tây Đức, hai thợ săn quốc xã là Simon Wiesenthal và Hermann Langbein đã thu thập thông tin từ các nhân chứng về các hoạt động thời chiến của Mengele. Khi lục lọi trong đống hồ sơ, Langbein phát hiện giấy tờ ly hôn của Mengele kèm một địa chỉ Buenos Aires. Cả Langbein lẫn Wiesenthal sau đó đã tìm cách gây áp lực yêu cầu chính quyền Tây Đức dẫn độ Mengele về nước. Sau nhiều nỗ lực thì vào ngày tháng năm 1959, văn phòng công tố viên Freiburg im Breisgau chính thức phát lệnh bắt giữ Mengele. Argentina ban đầu từ chối yêu cầu dẫn độ vì đối tượng truy nã đã không còn sống tại địa chỉ được ghi trên các tài liệu. Vào thời điểm yêu cầu dẫn độ được phía Argentina chấp thuận vào ngày 30 tháng thì Mengele đã đào tẩu sang Paraguay và đang lẩn trốn trong một trang trại gần biên giới Argentina. Tháng năm 1960, Isser Harel, giám đốc cơ quan tình báo Mossad của Israel, đích thân chỉ huy cuộc vây bắt Adolf Eichmann Buenos Aires. Ông hy vọng sẽ tìm ra tung tích của Mengele để đưa người này về Israel xét xử. Trong quá trình hỏi cung, Eichmann khai ra địa chỉ một ngôi nhà trọ từng được sử dụng làm nơi ẩn náu của những kẻ đào tẩu Đức Quốc Xã. Trong thời gian theo dõi, đặc vụ Mossad không phát hiện Mengele hay bất kỳ người thân nào xung quanh ngôi nhà trên. Người đưa thư khu phố khẳng định không lâu trước đó Mengele từng nhận được nhiều lá thư gửi tới dưới tên thật, song ông ta sau đó đã chuyển đi mà không để lại địa chỉ mới. Sau khi không thể lần ra bất kỳ manh mối mới nào từ một cửa hàng mà Mengele từng là cổ đông, Harel buộc phải từ bỏ việc tìm kiếm. Từng sơ suất cung cấp tài liệu pháp lý giúp Mengele hoàn tất các thủ tục đăng ký giấy phép cư trú tại Argentina, chính phủ Tây Đức tuyên bố treo thưởng cho bất kỳ ai bắt được ông. Việc hình ảnh cũng như quá khứ của bản thân liên tục xuất hiện trên các mặt báo buộc Mengele phải lẩn trốn thêm một lần nữa vào năm 1960. Cựu phi công Hans-Ulrich Rudel đóng vai trò trung gian giúp Mengele kết nối với Wolfgang Gerhard để tẩu thoát sang Brazil. Mengele lại với Gerhard trong một trang trại của người này gần São Paulo, chờ đợi thời cơ tìm kiếm một chỗ lâu dài hơn. Cơ hội đã đến khi Mengele gặp gỡ cặp vợ chồng người Hungary là Géza và Gitta Stammer. Với sự giúp đỡ từ Mengele, hai vợ chồng mua được một trang trại Nova Europa, do đó đã tin tưởng thuê Mengele làm người quản lý. Cả ba sau đó đã chung vốn mua một trang trại trồng cà phê và gia súc Serra Negra. Ban đầu, Gerhard nói với vợ chồng Stammer rằng Mengele tên là "Peter Hochbichler", nhưng chuyện bị lộ tẩy vào năm 1963. Gerhard thuyết phục hai người không khai báo vị trí của Mengele cho chính quyền, đe dọa rằng họ có thể bị liên lụy vì chứa chấp một tội phạm truy nã. Tháng năm 1961, Brazil cũng nhận được yêu cầu dẫn độ từ Tây Đức do giới chức trách nước này nghi ngờ Mengele có thể đã chuyển đến đó. Cũng trong thời điểm này, Zvi Aharoni, một trong những đặc vụ Mossad từng tham gia vào vụ bắt cóc Eichmann, được giao phụ trách một nhóm đặc vụ có nhiệm vụ truy lùng Mengele để đưa tới Israel xét xử. Những cuộc điều tra Paraguay không tiết lộ manh mối nào về nơi của Mengele và Mossad cũng không bắt chặn được bất kỳ thư từ nào giữa Mengele và Martha, lúc bấy giờ đang sống Ý. Các đặc vụ theo dõi nhất cử nhất động của Rudel cũng không khai thác được bất kỳ thông tin có giá trị nào. Sau nhiều nỗ lực, đặc vụ Mossad phát hiện hành tung của Gerhard và theo chân người này đến một vùng nông thôn gần São Paulo, nơi họ xác định được một người đàn ông châu Âu bị tình nghi là Mengele. Ngay sau đó, Aharoni liền báo cáo vụ việc cho Harel và trình bày kế hoạch dàn dựng một vụ bắt cóc. Tuy nhiên, do Israel lúc bấy giờ đang đứng bên bờ vực chiến tranh với Ai Cập, việc truy lùng tội phạm chiến tranh Đức Quốc Xã bị liệt xuống hàng thứ yếu, ngân sách hoạt động bị cắt giảm, Isser Harel buộc phải rút mọi đặc vụ Mossad đang hoạt động Nam Mỹ về nước. Năm 1969, Mengele cùng gia đình Stammer trở thành đồng sở hữu chủ một trang trại Caieiras. Năm 1971, khi Wolfgang Gerhard quay trở về Đức tìm cách chạy chữa cho vợ và con mắc trọng bệnh, ông đã đưa chứng minh thư của mình giao cho Mengele. Mối quan hệ giữa hai vợ chồng Stammer và Mengele trở nên xấu đi vào cuối năm 1974, khi họ tự mua một ngôi nhà São Paulo mà không mời Mengele góp vốn. Sau đó, gia đình Stammer mua một căn nhà gỗ khu phố Eldorado Diadema, São Paulo và cho Mengele thuê. Rolf, người chưa từng gặp lại cha kể từ kỳ nghỉ trượt tuyết năm 1956, đã đến thăm ông tại ngôi nhà gỗ này năm 1977. Tại đây, Rolf chạm trán với một kẻ "không hề biết ăn năn hối cải", người tuyên bố rằng ông chưa bao giờ làm hại bất kỳ ai và chỉ làm tròn bổn phận của một sĩ quan. Sức khỏe của Mengele ngày càng suy yếu kể từ sau 1972. Ông bị đột quỵ vào năm 1976, bị cao huyết áp và nhiễm trùng tai, gây ảnh hưởng đến khả năng giữ thăng bằng. Ngày tháng năm 1979, trong chuyến thăm hai người bạn là Wolfram và Liselotte Bossert khu nghỉ mát ven biển Bertioga, Mengele bị đột quỵ khi đang bơi và chết đuối. Thi thể của ông được chôn cất tại Embu das Artes dưới cái tên "Wolfgang Gerhard" theo tên trên giấy tờ tùy thân mà Mengele sử dụng kể từ năm 1971. Các bí danh khác được Mengele sử dụng kể từ khi bắt đầu cuộc sống chui lủi gồm có "Tiến sĩ Fausto Rindón" và "S. Josi Alvers Aspiazu". Các pháp giám định hộp sọ của Mengele vào năm 1986. Cũng vào thời điểm này, khắp nơi thế giới xuất hiện báo cáo rằng đã nhìn thấy Mengele. Wiesenthal tuyên bố rằng ông nhận được tin tình báo xác định vị trí của Mengele trên đảo Kythnos của Hy Lạp năm 1960, Cairo năm 1961, Tây Ban Nha năm 1971, và Paraguay năm 1978 mười tám năm sau khi ông rời nước này. Lần cuối cùng Wiesenthal khẳng định rằng Mengele vẫn còn sống là 1985, tức sáu năm sau khi ông qua đời. Trước đó vào năm 1982, Wiesenthal từng treo thưởng US$100.000 () cho ai bắt được Mengele. Sự quan tâm của công chúng thế giới dành cho Mengele tăng lên đột biến sau khi một phiên tòa xét xử vắng mặt công khai được tổ chức tại Jerusalem vào tháng năm 1985, thu thập lời khai của hơn một trăm nạn nhân các cuộc thí nghiệm của Mengele. Ngay sau đó, chính phủ ba nước Tây Đức, Israel và Hoa Kỳ đã phối hợp tiến hành điều tra nhằm khoanh vùng nơi của Mengele. Chính phủ Tây Đức và Israel lẫn nhật báo The Washington Times và Trung tâm Simon Wiesenthal đều treo thưởng cho những ai bắt giữ được vị bác sĩ này. Ngày 31 tháng năm 1985, dựa trên thông tin tình báo do văn phòng công tố viên Tây Đức nhận được, cảnh sát tiến hành đột kích nhà của Hans Sedlmeier, một người bạn lâu năm của Mengele và là giám đốc bán hàng của công ty Karl Mengele Söhne Günzburg. Cơ quan chức năng tìm thấy một cuốn sổ địa chỉ đã mã hóa và các bản sao của các bức thư được mà Mengele từng gửi và nhận. Trong số các chứng cứ thu thập được có một là thư của Wolfram Bossert gửi cho Sedlmeier thông báo về cái chết của Mengele. Các nhà chức trách Đức ngay sau đó đã liên hệ với Sở Cảnh sát São Paulo. Sau khi bị tra khảo, Bosserts cuối cùng cũng chịu khai báo vị trí mộ phần của "Wolfgang Gerhard". Bộ hài cốt trong mộ được khai quật vào ngày tháng năm 1985. Kết quả giám định pháp cho thấy hài cốt trên khả năng cao là của đối tượng cần tìm. Ngày 10 tháng 6, Rolf Mengele xác nhận rằng đây chính là hài cốt của Josef Mengele và thừa nhận đã che giấu tin tức về cái chết nhằm bảo vệ những người giúp đỡ cha mình trong quá trình trốn chạy. Năm 1992, danh tính của Mengele chính thức được xác nhận bằng phương pháp xét nghiệm ADN. Do gia quyến từ chối đưa về Đức, hài cốt Megele được lưu trữ tại Viện Pháp São Paulo và được sử dụng như một phương tiện hỗ trợ giáo dục trong các khóa học pháp tại Trường khoa Đại học São Paulo. Aribert Heim Carl Clauberg Grigory Mairanovsky Kurt Blome Thuyết ưu sinh của Đức Quốc Xã Ishii Shiro The Boys from Brazil (tiểu thuyết) ;Tiếng Việt ;Tiếng Anh ;Tiếng Đức | Josef Mengele | Sinh năm 1911, Mất năm 1979, Người Günzburg, Nhân vật trại tập trung Auschwitz, Đảng viên Đức Quốc Xã |
là một đô thị tại vùng tự trị thung lũng Aosta phía bắc Ý. Đô thị này có diện tích 139 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 180 người.. Đô thị này giáp các đô thị sau: Aymavilles, Ceresole Reale (TO), Cogne, Introd, Noasca (TO), Villeneuve. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.7) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:373 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:700 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:50 start:0 ScaleMinor increment:10 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from:0 till: 639 bar:1871 from:0 till: 658 bar:1881 from:0 till: 676 bar:1901 from:0 till: 580 bar:1911 from:0 till: 549 bar:1921 from:0 till: 439 bar:1931 from:0 till: 328 bar:1936 from:0 till: 380 bar:1951 from:0 till: 309 bar:1961 from:0 till: 295 bar:1971 from:0 till: 256 bar:1981 from:0 till: 204 bar:1991 from:0 till: 198 bar:2001 from:0 till: 180 PlotData= bar:1861 at: 639 fontsize:S text: 639 shift:(-8,5) bar:1871 at: 658 fontsize:S text: 658 shift:(-10,5) bar:1881 at: 676 fontsize:S text: 676 shift:(-10,5) bar:1901 at: 580 fontsize:S text: 580 shift:(-10,5) bar:1911 at: 549 fontsize:S text: 549 shift:(-10,5) bar:1921 at: 439 fontsize:S text: 439 shift:(-10,5) bar:1931 at: 328 fontsize:S text: 328 shift:(-10,5) bar:1936 at: 380 fontsize:S text: 380 shift:(-10,5) bar:1951 at: 309 fontsize:S text: 309 shift:(-10,5) bar:1961 at: 295 fontsize:S text: 295 shift:(-10,5) bar:1971 at: 256 fontsize:S text: 256 shift:(-10,5) bar:1981 at: 204 fontsize:S text: 204 shift:(-10,5) bar:1991 at: 198 fontsize:S text: 198 shift:(-10,5) bar:2001 at: 180 fontsize:S text: 180 shift:(-10,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:fonte ISTAT elaborazione grafica cura di Wikipedia Valsavaranche | null | |
Vương Uy (; 208?), không rõ tên tự, là tướng lĩnh dưới trướng quân phiệt Lưu Tông cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vương Uy quê Kinh Châu, không rõ quận nào. Vương Uy vốn không được nhắc tới trong Tam quốc chí của Trần Thọ, mà chỉ được ghi chép lại trong Hán Tấn xuân thu của Tập Tạc Xỉ thời Tiền Tần. Năm 208, Lưu Biểu chết bệnh, Thái Mạo lập Lưu Tông làm Kinh Châu mục. Tào Tháo nhân cơ hội kéo quân xuống chiếm Kinh Châu. Các bộ hạ của Lưu Tông như Khoái Việt, Phó Tốn, Hàn Tung đều khuyên Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Cuối cùng, Lưu Tông nghe lời Phó Tốn chấp nhận đầu hàng, phái Tống Trung đến thông báo cho Lưu Bị. Vương Uy sau đó hiến kế: Tào Tháo cho rằng tướng quân đã đầu hàng, Lưu Dự Châu đã bỏ đi, tất nhiên không hề đề phòng. Nếu cho ta mấy nghìn kỳ binh, chặn đánh nơi đất hiểm, có thể bắt được Tào Tháo vậy. Bắt được Tháo, có thể uy chấn thiên hạ, ngồi như bước hổ, đất Trung Nguyên tuy rộng lớn, nhưng có thể gửi hịch mà bình định, không ngừng thu được một trận thắng để giữ giữ gìn hiện trạng còn có thể gây dựng bá nghiệp. Đây là cơ hội hiếm gặp, không thể bỏ qua. Tuy nhiên, Lưu Tông không tiếp thu. Từ đây không còn ghi chép. Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Vương Uy xuất hiện hồi 34, cùng Văn Sính là hai tướng lĩnh đứng đầu trong quân đội Lưu Biểu. Lưu Biểu mở yến, do bị ốm nên để Lưu Bị chủ trì. Thuộc hạ của Lưu Biểu là Thái Mạo muốn nhân cơ hội này ám sát Lưu Bị, nhưng lại lo lắng Triệu Vân luôn hộ vệ bên cạnh. Mưu sĩ Khoái Việt bèn bày kế, để Vương Uy, Văn Sinh tổ chức yến riêng cho võ tướng nơi khác rồi mời Triệu Vân đến. Khi Lưu Biểu chết, Lưu Tông kế vị, đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo khi đó đang đóng quân Phàn Thành, yêu cầu Lưu Tông đến yết kiến. Vương Uy bèn hiến kế: nhân lúc Tào Tháo không đề phòng, tập kích nơi hiểm yếu; nếu có thể bắt được Tào Tháo thì sẽ uy chấn thiên hạ, từ đó triển khai bá nghiệp. Nhưng Lưu Tông nhu nhược, đem kế sách nói với Thái Mạo. Thái Mạo kịch liệt phản đối, mắng Uy ăn nói bừa bãi. Vương Uy nổi giận, không hề sợ hãi mà mắng Mạo là kẻ gian bán chủ cầu vinh. Lưu Tông chính thức đầu hàng. Tào Tháo bội ước, phong Lưu Tông làm thứ sử Thanh Châu, bắt hai mẹ con phải đi tiền nhiệm ngay lập tức. Các quan viên, tướng lĩnh Kinh Châu khi ấy đều lại chỗ Tào Tháo để hưởng phú quý, chỉ có một mình Vương Uy vẫn đi theo. Tào Tháo sau đó sai Vu Cấm mang quân đuổi giết Lưu Tông. Vương Uy liều chết chống cự, cuối cùng tử tiết. Trần Thọ, Bùi Tùng Chi chú, Tam quốc chí. La Quán Trung, Tam quốc diễn nghĩa. | Vương Uy | Sinh thế kỷ, Mất thế kỷ, Nhân vật quân sự Tam Quốc, Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa |
Khemanit Jamikorn (tiếng Thái: เขมนิจ จามิกรณ์, phiên âm: Khe-ma-nít Cha-mi-con, sinh ngày 27 tháng 05 năm 1988) còn có nghệ danh là Pancake, là một nữ diễn viên, người mẫu và ca sĩ người Thái Lan. Cô thắng cuộc thi Siêu mẫu Thái 2004 và thắng Model of the World 2004 tại Trung Quốc. Năm 16 tuổi, cô đã chiến thắng cuộc thi Siêu mẫu Thái Lan, cùng năm đó nhận giải Best model trong cuộc thi Miss Model of the World tổ chức Trung Quốc. Ngoài sự nghiệp người mẫu, Pancake còn rất thành công khi lấn sân sang diễn xuất với nhiều bộ phim đình đám như: Cuộc chiến sắc đẹp; Độc kế (Buang Rai Pai Ruk); Duyên tiền định (Pleng Ruk Kaam Pob)… Thái, hình ảnh của Pancake luôn phủ sóng dày đặc trên truyền hình, tạp chí và sự kiện thời trang. Cô cũng được giới truyền thông ưu ái xưng tụng là "Nữ hoàng quảng cáo" khi liên tiếp là gương mặt đại diện cho nhiều thương hiệu tầm cỡ như Toyota, Samsung, Coca Cola, Cannon, EOS, Sunsilk, NetDesign, Dentyne Xylitol,… Cô từng lọt vào danh sách Những phụ nữ gợi cảm nhất trên thế giới do tờ FHM phiên bản Thái bình chọn và là một trong số ít nghệ sĩ Thái Lan được dựng tượng bảo tàng Madame Tussauds. Pancake began acting in the Thai lakhon industry in 2005 when she was barely seventeen. Her latest one, Rak Re, has not yet been released. Năm Tựa Vai Đóng với 2012 ศีล ตอน รัก-พบ-แรก Pan Nitit Warayanon 2015 Pae Happy She Ta Yoe Pesuk Jitpanu Klomkaew 2020 Phachmar Sawangkata Pjmar Charlie Trairat Six Characters in Search of an Author Năm Phim Tựa tiếng Anh Vai Đài Đóng với 2005 Seub Sao Rao Ruk Young Detective of Love Alin Hathaikaew Channel Rapeepat Eakpankul 2006 Plik Din Su Dao Turn the Ground Towards the Star Rada Sukollawat Kanarot Sai Nam Sam Cheewit Kaeoprayong (nhỏ) 2007 Aphima Heuma Maha Setee Ongin "Gin" Santi Visaboonchai Liyam Phet Karat Edge of Diamond's Karat Karat Tawin Yavapolkul Tookata Lung Labum The Merry Dancing Doll Intuon Pattarapol Silapajarn 2008 Wimarn Mungkorn Dragon Palace Lalla Thana Suttikamul Khun Noo Tewada Miss Angel Alice Sukollawat Kanarot Muay Inter Nuch/Muay Lek Santi Visaboonchai Soo Sang Tawan Search for the Sunlight Linin Thanapon Nimsutai 2009 Pleng Ruk Kaam Pob Nokyoong Wongsakorn Poramathakorn Buang Hong A Lasso for Swan Pimlapas "Pim" Veraparb Suparbpaiboon Buang Rai Phai Rak The Trap of Evil is Defeated by Love Paramee "Pram" Thanapon Nimtaisuk 2010 Tawan Yor Saeng Evening Glow Tawan Yorsaeng Dechabodin Duangporn Veraparb Suparbpaiboon Duang Raeng Athitharn Sukollawat Kanarot Tur Gub Kao Lae Rak Khong Rao You and Him and Our Love Pangrum Arak Amornsupasiri 2011 Tawee Phop Two Worlds Maneejan "Manee" Akkaphan Namart Nam Water Nakhwan Veraparb Suparbpaiboon Nang Fah Mafia The Angel and the Mafia Maekala "Mae" Sukollawat Kanarot 2012 Prik Gub Khur Pepper and Salt Jeed Veraparb Suparbpaiboon 2013 Prom Daen Hua Jai Frontier of the Heart Sopeet "Peet" Kantapong Bamrongrak 2014 Peek Mongkut Crown of the Wings Triapsorn Wongsakorn Poramathakorn 2015 Waen Sawat Pit Praewpan Thanwa Suriyajak Rak Rae Wayoon Akkaphan Namart 2016 Jao Waya Series 2: Pichit Daen Chai Chính mình True4u Andrew Gregson True Love Story Series Love That is Different Dr. Bonus "Bo" Worrawech Danuwong Tian Mimi Rak Tur Chun Ni Ran Chính mình Popetorn Rhatha Phongam 2017 2018 Sri Ayodhaya Mae Ying Bussaba Ananda Everingham 2017 จปร. J CH5 Wanchana Sawatdee ละครสั้น S2S the series ตอน ดอกไม้แห่งรัก Khuu 2019 Payak Rai Sai Lub Pink True4u Isariya Patharamanop Voice Captain Irin Andrew Gregson Sri Ayodhaya 2 Mae Ying Bussaba Ananda Everingham 2020 Mother Tisha LINE TV Chutima Teepanat Penpak Sirikul Apasiri Nitibhon Jetsupa Kruetang 2021 I Need Romance 3 Najai True4u Thitipoom Techaapaikhun Pichit Daen Jai Andrew Gregson Signal (Thai ver) Shahkrit Yamnam Chanon Santinatornkul Truce.. found love (2007) Prin (PBS) Lock mission of young man in dream (2011) Pancakes Năm Giải Hạng mục Đề cử Kết quả 2004 Thai Super Model Contest Editor's Choice None Model of the World Contest Model of the World 2006 Top Awards Best Rising Actress Plik Din Su Dao Star Entertainment Awards Best Rising Actress Young Generation Choice Awards Best Rising Actress Teens Choice Awards Seventeen Choice Actress 2007 Star Party Anniversary Actress of the Night None ZEN Stylish Women's Awards Best Dress Top Awards Best Leading Actress in Drama Liempeth Karat Tukata Lung Labum Sudsapda Young and Smart Vote Best Actress Liepeth Karat Slimming Idol Awards Slimming Best Figure None OK Awards Hottest Actress Teens Choice Awards Seventeen Choice Actress Siamdara Star Awards Actress of the Year Popularity Award Most Popular Actress 2008 Nine Entertainment Awards Most Popular Actress Sudsapda Young and Smart Vote Young and Smart Model Top Awards Best Leading Actress in Drama Soo Sang Tawan Siam Dara Awards Best Actress Sharp Awards Most Popular Actress None Oho Awards Most Favorite Presenter TV Pool Awards Best Outfit Star Idol Awards Outstanding Performance by an Actress Soo Sang Tawan'' Facebook Pancake Khemanit Official Public Figure Pancake Khemanit Jamikorn (Official Fanpage) China Fan of Pancake | Khemanit Jamikorn | Sinh năm 1988, Nhân vật còn sống, Nữ người mẫu Thái Lan, Nữ diễn viên truyền hình Thái Lan, Nữ diễn viên Bangkok, Nữ diễn viên điện ảnh Thái Lan, Nữ ca sĩ thế kỷ 21 |
là một chi bọ cánh cứng trong họ Dytiscidae. Chi này được Zimmermann miêu tả khoa học năm 1919. Các loài trong chi này gồm: Canthyporus aenigmaticus Biström Nilsson, 2006 Canthyporus alpestris Guignot, 1936 Canthyporus alvei Omer-Cooper, 1965 Canthyporus angustatus Omer-Cooper, 1965 Canthyporus bicinctus (Régimbart, 1895) Canthyporus brincki Omer-Cooper, 1965 Canthyporus canthydroides (Régimbart, 1895) Canthyporus congener Omer-Cooper, 1956 Canthyporus consuetus Omer-Cooper, 1965 Canthyporus cooperae Guignot, 1951 Canthyporus exilis (Boheman, 1848) Canthyporus fluviatilis Omer-Cooper, 1956 Canthyporus guignoti Omer-Cooper, 1956 Canthyporus guttatus Omer-Cooper, 1956 Canthyporus hottentottus (Gemminger Harold, 1868) Canthyporus hynesi Nilsson, 1991 Canthyporus kenyensis Bilardo Sanfilippo, 1979 Canthyporus lateralis (Boheman, 1848) Canthyporus latus Omer-Cooper, 1965 Canthyporus loeffleri Wewalka, 1981 Canthyporus lowryi Omer-Cooper, 1965 Canthyporus navigator Guignot, 1951 Canthyporus nebulosus Omer-Cooper, 1965 Canthyporus nimius Biström Nilsson, 2006 Canthyporus parvus Omer-Cooper, 1955 Canthyporus pauliani Guignot, 1951 Canthyporus petulans Guignot, 1951 Canthyporus planus Omer-Cooper, 1965 Canthyporus regimbarti Nilsson, 2001 Canthyporus sigillatus (Guignot, 1955) Canthyporus subparallelus Guignot, 1956 Canthyporus swaziensis Omer-Cooper, 1956 Canthyporus testaceus Zimmermann, 1923 Canthyporus turneri Biström Nilsson, 2006 Canthyporus wewalkai Biström Nilsson, 2006 Thể | null | |
Epidendrum nocturnum ("Nocturnal Epidendrum") là loài điển hình của chi Epidendrum thuộc họ Orchidaceae. Loài này mọc Florida, Bahamas, West Indies, Trung Mỹ đến bắc Brazil và Guyana. Epidendrum nocturnum phổ biến Nam Florida. Số nhiễm sắc thể đơn bội E. nocturnum được xác định là n 20. Số nhiễm sắc thể nhị bội được xác định cả 2n 40 và 2n 80 *H. G. Reichenbach "ORCHIDES" in Dr. Carl Müller, Ed. Walpers Annales Botanices Systematicae Berlin. Tập tin:Epidendrum nocturnum fl.jpg Tập tin:Epidendrum nocturnum (flower).jpg Tập tin:Epidendrum nocturnum (habitus).jpg Tập tin:Epidendrum nocturnum (profile).jpg | ''Epidendrum nocturnum | Lan Brasil, Lan Trung Mỹ, Lan Florida, Lan Guyane thuộc Pháp, Lan Guyana |
Windsor Windsor là thành phố cực nam Canada và nằm Tây Nam Ontario cuối phía tây của hành lang đông dân cư, hành lang thành phố Quebec-Windsor. Thành phố nằm bên trong khu vực điều tra dân số Essex, Ontario, mặc dù hành chính tách ra khỏi chính quyền hạt. Ngăn cách bởi sông Detroit, Windsor nằm phía nam của Detroit, Michigan Hoa Kỳ. Windsor được gọi là Thành phố Hoa hồng và người dân trong tiếng Anh được gọi là Windsorites. Ernest J. Lajeunesse, The Windsor Border Region, Windsor: The Champlain Society, 1960. Jack Cecillon, Prayers, Petitions and Protests: The Catholic Church and the Ontario Schools Crisis in the Windsor Border Region, 1910–1928, Montreal: McGill-Queen's University Press, 2013. | Windsor | Khu định cư cảng Ontario, Sông Detroit, Khu dân cư trên Tuyến hỏa xa ngầm, Khu dân cư Ngũ Đại Hồ, Khu định cư truyền giáo của Pháp Bắc Mỹ, Địa điểm biểu diễn đường phố |
Chuột đen (danh pháp hai phần: Rattus rattus) là một loài động vật gặm nhấm dài đuôi phổ biến của loài trong chi Rattus trong phân họ Murinae. Loài chuột này có nguồn gốc vùng nhiệt đới châu và lây lan qua vùng Cận Đông trong thời La Mã trước khi tới châu Âu vào thế kỷ và lây lan với châu Âu trên toàn thế giới. Con chuột đen lớn điển hình có chiều dài 32,4-46,4 cm, bao gồm đuôi dài 17–25 cm và can nặng 110-340 g. Mặc dù có tên gọi là chuột đen, loài này lại có một số hình thức màu sắc khác. Nó thường là màu đen đến nâu sáng với phía dười màu nhạt hơn. Trong những năm 1920 Anh, một chủng chuột đen được tạo ra và có màu cùng với chuột nâu. | Chuột đen | Động vật đô thị, Động vật có vú Nepal, Động vật có vú Azerbaijan, Động vật được mô tả năm 1758, Động vật có vú châu |