text
stringlengths
78
4.36M
domain
stringclasses
2 values
Tìm kiếm tài năng: Vietnam's Got Talent mùa 4 là một chương trình truyền hình thực tế, tại đó mọi người ở mọi lứa tuổi biểu diễn khả năng của mình về ca hát, múa, ảo thuật, bi-hài kịch, võ thuật, biểu diễn với những khí cụ nguy hiểm và các thể loại khác để giành giải thưởng cao nhất là 500 triệu đồng. Chương trình được phát sóng từ ngày 1 tháng 1 năm 2016 đến ngày 13 tháng 5 năm 2016. Trong mùa này, ba vị giám khảo chính của chương trình là nghệ sĩ, MC Trấn Thành, nghệ sĩ Việt Hương và nhạc sĩ Huy Tuấn. Những giám khảo khách mời là ca sĩ Bằng Kiều, ca sĩ Thanh Lam và nghê sĩ Chí Trung. Dẫn chương trình cho mùa này là MC, ca sĩ Diệp Lâm Anh. Ban giám khảo và dẫn chương trình Ba vị giám khảo chính của chương trình bao gồm hai vị giám khảo mới là nghệ sĩ Trấn Thành và nghệ sĩ Việt Hương cùng với nhạc sĩ Huy Tuấn. Vòng loại sân khấu miền Bắc cho thấy sự xuất hiện của hai giám khảo khách mời là nghệ sĩ Chí Trung và ca sĩ Thanh Lam (ca sĩ Thanh Lam chỉ làm giám khảo trong 1 tập). Trong vòng loại sân khấu miền Nam, vị giám khảo khách mời thay cho nghệ sĩ VIệt Hương là ca sĩ Bằng Kiều. Người dẫn chương trình của mùa 4 là ca sĩ, người mẫu Diệp Lâm Anh. Ở bán kết 6 và 7, MC Diệp Lâm Anh vắng mặt vì lý do sức khoẻ, người thay thế là MC Duy Hải. Nút vàng Chiếc nút vàng tiếp tục xuất hiện trong vòng loại sân khấu của chương trình, giúp cho thí sinh được một vị giám khảo nào đó bấm nút được đi thẳng vào vòng bán kết của chương trình. Trong tập 1 của vòng loại miền Bắc, giám khảo Thanh Lam và Chí Trung đã sử dụng nút vàng của mình lần lượt cho Dàn Hợp xướng Công giáo trẻ Hà Nội và cặp thí sinh Hà Bảo Anh - Nguyễn My Anh. Trong tập 2 của vòng loại miền Bắc, giám khảo Việt Hương đã dùng nút vàng của mình. Trong tập 4 của vòng loại miền Nam, giám khảo Huy Tuấn đã bấm nút vàng cho Nguyễn Trọng Nhân. Trong tập 5 của vòng loại miền Nam, giám khảo Bằng Kiều đã dành nút vàng cho Đặng Thị Phương Anh. Trong tập 6 của vòng loại miền Nam, giám khảo Trấn Thành đã dành nút vàng cho nhóm nhảy Popping Candy Crew. Chi tiết các thí sinh trong vòng loại sân khấu Tập 1 (Phát sóng ngày 1/1/2016) Trong tập 1 của vòng loại miền Bắc, giám khảo khách mời là ca sĩ, nghệ sĩ ưu tú Thanh Lam thay thế cho nghệ sĩ Việt Hương và nghệ sĩ Chí Trung thay thế cho nghệ sĩ Trấn Thành. Tập 2 (Phát sóng ngày 8/1/2016) Tập 3 (Phát sóng ngày 15/1/2016) Ở vòng loại phía Nam,giám khảo khách mới Băng Kiều thay cho giám khảo Việt Hương. Tập 4 (Phát sóng ngày 22/1/2016) Tập 5 (Phát sóng ngày 29/1/2016) Tập 6 (Phát sóng ngày 5/2/2016) Tập 7 (Phát sóng ngày 26/2/2016) Tập 8 (Phát sóng ngày 4/3/2016) Đây là vòng sơ tuyển cuối cùng. Vòng bán kết Bán kết 1 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 11/3/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Hari Won Bán kết 2 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 18/3/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Huyền Trang Bán kết 3 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 25/3/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Võ Hạ Trâm Bán kết 4 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 1/4/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Trang Pháp Bán kết 5 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 8/4/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Hoàng Quyên Bán kết 6 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 15/4/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Don Nguyễn (*) Cả hai nhóm Xuân Hiếu - Thái Vũ và Thy Kiều đều đi tiếp với sự đồng ý của giám khảo. Bán kết 7 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 22/4/2016 trên VTV3 Nghệ sĩ khách mời: Nhóm Divo (Băng Di, BB Trần, Huỳnh Mến), Hoàng Yến Chibi Cứu thí sinh Chung kết Chung kết 1 Phát sóng trục tiếp: 20h00 ngày 29 tháng 4 năm 2016 trên VTV3 Chung kết 2 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 6 tháng 5 năm 2016 trên VTV3 Gala Top 4 Với hơn 1000 thí sinh đã tham dự, nhưng chỉ có một người duy nhất trở thành nhà vô địch Tìm kiếm tài năng Việt Nam mùa thứ 4 Phát sóng trực tiếp: 20h00 ngày 13 tháng 5 năm 2016 trên VTV3 Khách mời: Vũ Cát Tường, Nhóm 4 Chị Em, Trọng Hiếu Xem thêm Trọng Nhân, quán quân chương trình Vietnam's Got Talent (mùa 4). Tham khảo Vietnam's Got Talent
wiki
Ngựa Pottok hoặc ngựa Pottoka là một giống ngựa có nguồn gốc từ vùng Pyrenees của xứ Basque ở Pháp và Tây Ban Nha. Chúng là giống ngựa nguy cơ tuyệt chủng, đây là giống ngựa bán hoang dã bản địa của Pyrenees. Nó được coi là một giống cổ của con ngựa, đặc biệt thích nghi với vùng núi khắc nghiệt theo truyền thống nơi sinh sống. Khi phổ biến, nó đang bị đe dọa qua mất môi trường sống, cơ giới hóa và lai tạo nhưng những nỗ lực đang ngày càng được thực hiện để đảm bảo tương lai của giống này. Nó được coi là biểu tượng của người dân xứ Basque. Pottoka là tên ngôn ngữ Basque cho con ngựa này, cả hai phía bắc và phía nam của ngọn núi. Trong vùng thượng Navarrese, potto và pottoka là những thuật ngữ chung cho ngựa trẻ trong khi ở Lapurdian và Hạ Navarrese ý nghĩa của pottoka là "ngựa". Cuối cùng tên được liên kết với các từ như pottolo "mũm mĩm, mập". Trong các nguồn Pháp, chính tả Pottok chiếm ưu thế. Trong tiếng Anh, cả hai Pottoka và Pottok đang gặp phải Lịch sử Nhiều ý kiến ​​tồn tại về nguồn gốc của các con ngựa Pottok. Nó được coi là cộng đồng đã sống trong khu vực ít nhất là vài ngàn năm. Nó hiển thị các dấu hiệu của sự cô lập gen và di truyền là gần giống như ngựa Asturcón, các con ngựa Losino, các con ngựa Galician, ngựa Landais, và những con ngựa Monchino. Các thử nghiệm đã cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các quần thể di truyền trong Basque Bắc và xứ Basque miền Nam, khiến một số người coi chúng là giống riêng biệt. Một số cho nguồn gốc của Pottok lấy được từ những con ngựa trên bức tranh hang động cổ xưa trong khu vực và do đó yêu cầu phải hạ xuống từ những con ngựa Magdaléni từ 14,000-7000 BC. Nghiên cứu di truyền của Đại học Di truyền học Basque Country, Physical Anthropology và Animal khoa Sinh lý học vào các di truyền khác nhau giữa bốn con ngựa giống bản địa ở xứ Basque đã xem xét mối quan hệ của họ với con ngựa khác. Dựa trên các xét nghiệm microsatellite, của bốn giống ngựa Basque, các Pottok và Basque Mountain Horse, về mặt di truyền xa nhất từ ​​các giống khác. Các xét nghiệm của ty lạp thể DNA tiết lộ Pottoks có nhiều khả năng để lai tạo với các ngựa núi xứ Basque. Mặc dù một số dấu hiệu di truyền của giống ngựa châu Âu khác đã được tìm thấy. Thật thú vị, một điểm đánh dấu trước đó chỉ được tìm thấy ở một số giống của Anh cũng đã được tìm thấy trong Pottoks. Phân bố Phạm vi truyền thống của nó kéo dài về phía tây xa như Biscayan Encartaciones và phía đông khoảng như xa như khu vực Saint-Jean-le-Vieux.Một cuộc điều tra được tiến hành vào năm 1970 cho thấy khoảng 3.500 Pottoks thuần phía bắc của dãy núi Pyrenees và khoảng 2.000 con giống phía nam, giảm đáng kể từ các quần thể di tích lịch sử. Cạnh tranh với cừu và gần đây hơn là lâm nghiệp thương mại cũng đã làm giảm vi phạm về môi trường sống tự nhiên của Pottok. Các môi trường sống cốt lõi truyền thống là những dãy núi của Labourd và Navarre từ khoảng 1.500m trở lên, thường trên đất và đá vôi hình thành axit nghèo. Nhìn chung đây là giống ngựa thích nghi tốt với khí hậu cằn cỗi, núi đá Đặc điểm Chúng cao 1,15-1,47 mét và cân nặng từ 300 đến 350 kg (661-772 lb). Nó có một đầu lớn, đầu vuông, tai nhỏ, cổ ngắn và dài trở lại với đôi chân ngắn nhưng mỏng và nhỏ, móng guốc mạnh mẽ. Pottok bán hoang dã có xu hướng nhút nhát và sống trong đàn lãnh thổ nhỏ hoặc hậu cung có số lượng từ 10-30 ngựa cái. Chúng có thể dự đoán các điều kiện thời tiết, di chuyển vào các thung lũng với dự đoán thời tiết xấu. Trong suốt mùa thu, đàn tan vỡ thành các nhóm nhỏ hơn từ 5-10 ngựa và tái thống nhất vào mùa xuân. Ngựa con trưởng thành nhanh chóng, thường giao phối vào lúc 3 tuổi và sinh con ở tuổi 4, đó cũng là độ tuổi trưởng thành cho con đực. Ngựa con, giống như những giống khác, được sinh ra sau 11 tháng trong mùa xuân / đầu mùa hè và được cai sữa sau 6-7 tháng. Bảo tồn Số Pottok đã bị suy giảm nghiêm trọng do mất môi trường sống và lai tạo. Trong thế kỷ 20, Những con Pottoks nhiều màu sắc được phối giống, đặc biệt là sử dụng xiếc. Ngựa Stockier cho công việc nông nghiệp được nhân giống bằng lai tạo giống với ngựa kéo, cũng thường có một lượng lớn các màu lông. Chúng cũng đã được phối giống với ngựa Iberian, ngựa Ả Rập và ngựa Welsh sau. Lai tạo này đã để lại có lẽ không nhiều hơn 150 ngựa thuần chủng phía bắc của dãy núi Pyrenees. Thích ứng với cuộc sống núi non và màu sắc làm cho chúng lý tưởng cho việc sử dụng bởi những kẻ buôn lậu trong thời gian trước đây. Từ thế kỷ 16 trở đi, chúng đã trở thành phổ biến như ngựa xiếc nhưng cũng như ngựa pit ở Pháp và Anh. Ngày nay, chúng là nhu cầu là ngựa của trẻ em vì chúng thích nghi tốt với thuần. Các nỗ lực đang được thực hiện để đảm bảo sự tồn tại tiếp tục của Pottoks thuần chủng. Pottok là giống đầu tiên giống ngựa Basque để được bao gồm trong danh sách các giống bản địa Basque đòi hỏi những nỗ lực bảo tồn trong tháng 6 năm 1995, trạng thái của nó được phân loại là nguy cơ tuyệt chủng, trong dãy Aralar đã được thiết lập để bảo vệ các con ngựa và môi trường của nó. Có rất nhiều cuộc tranh luận về cách tốt nhất để tăng số - cho dù chỉ tập trung vào các giống thuần hoặc để sử dụng lai tạo chọn lọc để xây dựng số lượng lớn của ngựa Pottok giống. Chú thích Tham khảo Trask, L. Etymological Dictionary of Basque, edited for web publication by Max Wheeler, University of Sussex 2008 Morris, M. Euskara Ingelese Hiztegia Klaudio Harluxet Fundazioa: 1998 ISBN 84-89638-13-6 Moro, P. & Intxausti de Casal, JI Estudio zoométrico en la raza poni vasco-pottoka Archivos de zootecnica Vol 47 Num 178-179, 1998 Tupac-Yupanqui et al. (2011), "Caracterización genética del caballo monchino y su relación con otras razas autóctonas españolas" (PDF), Arch. Zootec. (in Spanish) 60 (231): 425–428, retrieved 2011-10-19 Aizpuru, ML Pottoka: Liraina, librea, aintzinakoa Zientzia.net, retrieved 16.11.2009 Andonegi, G. Euskal Herriko zaldiak Zientzia.net, retrieved 16.11.2009 Standard officiel de la race Pottok Les Haras Nationaux 2005 (bằng tiếng Pháp) Accessed August 2011 "Official standard of the Pottok breed" Decree 373/2001 Boletín N. 2002014 - ngày 21 tháng 1 năm 2002, Government of Euskadi; retrieved 18.11.2009 Gómez, M. Razas Autóctonas Vascas IKT Nekazal Ikerketa eta Teknologia S.A.: 1997; [1] retrieved 21.11.2009 Schweizerischer Verband für Ponys und Kleinpferde; Fédération Suisse des Poneys et Petits Chevaux, retrieved 19.11.2009 The Basque Country (2002), Yasna Maznik, Hachette UK. ISBN 1-84202-159-1 Liên kết ngoài French National Pottok Association Pottok.com Basque Pottoka Federation Giống ngựa
wiki
Bạn Nguyễn Hoàng Nam viết một đoạn văn ngắn nói về ngôi trường của mình Gợi ý Em tên là Nguyễn Hoàng Nam, là học sinh lớp 2B Trường Tiểu học Trưng Vương. Trường em là một ngôi trường rất to và đẹp, nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Trường em có nhiều thầy cô dạy giỏi và học sinh rất chăm ngoan. Em rất yêu ngôi trường của mình. Em sẽ cố gắng học thật giỏi để xứng đáng là học sinh của trường Trưng Vương. Vanmau.edu.vn Xem thêm: Nhà văn Pháp Gioóc-giơ Đuy-a-men (1884 - 1966) nói: “Một, ...lí giải thế giới”. Bình luận câu nói ấy dựa trên cơ sở một truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết đã học
vanhoc
Phylica là một chi thực vật thuộc họ Rhamnaceae. Chi có khoảng 150 loài, chủ yếu có ở Nam Phi, nơi chúng hình thành nên một bộ phận của hệ sinh thái . Một ít loài có ở các khu vực khác của khu vực Nam Phi, và trên các đảo Madagascar, quần đảo Mascarene, Île Amsterdam, Saint Helena và Tristan da Cunha. Loài Các loài thuộc chi Phylica bao gồm: Phylica abietina Eckl. & Zeyh. Phylica acmaephylla Eckl. & Zeyh. Phylica aemula Schltr. Phylica affinis Sond. Phylica agathosmoides Pillans Phylica alba Pillans Phylica alpina Eckl. & Zeyh. Phylica alticola Pillans Phylica altigena Schltr. Phylica ambigua Sond. Phylica amoena Pillans Phylica ampliata Pillans Phylica anomala Pillans Phylica apiculata Sond. Phylica arborea Thouars Phylica atrata Licht. ex Roem. & Schult. Phylica axillaris Lam. Phylica barbata Pillans Phylica barnardii Pillans Phylica bathiei Pillans Phylica bicolor L. Phylica bolusii Pillans Phylica brachycephala Sond. Phylica brevifolia Eckl. & Zeyh. Phylica burchellii Pillans Phylica buxifolia L. Phylica calcarata Pillans Phylica callosa L.f. Phylica capitata Thunb. Phylica cephalantha Sond. Phylica chionocephala Schltr. Phylica chionophila Schltr. Phylica comosa Sond. Phylica comptonii Pillans Phylica confusa Pillans Phylica constricta Pillans Phylica cordata L. Phylica costata Pillans Phylica cryptandroides Sond. Phylica curvifolia Pillans Phylica cuspidata Eckl. & Zeyh. Phylica cylindrica J.C.Wendl. Phylica debilis Eckl. & Zeyh. Phylica diffusa Pillans Phylica dioica L. Phylica diosmoides Sond. Phylica disticha Eckl. & Zeyh. Phylica dodii N.E.Br. Phylica elimensis Pillans Phylica emirnensis (Tul.) Pillans Phylica ericoides L. Phylica eriophoros P.J.Bergius Phylica excelsa J.C.Wendl. Phylica floccosa Pillans Phylica floribunda Pillans Phylica fourcadei Pillans Phylica fruticosa Schltr. Phylica fulva Eckl. & Zeyh. Phylica galpinii Pillans Phylica glabrata Thunb. Phylica gnidioides Eckl. & Zeyh. Phylica gracilis (Eckl. & Zeyh.) D.Dietr. Phylica greyii Pillans Phylica guthriei Pillans Phylica harveyi (Arn.) Pillans Phylica hirta Pillans Phylica humilis Sond. Phylica imberbis P.J.Bergius Phylica incurvata Pillans Phylica insignis Pillans Phylica intrusa Pillans Phylica karroica Pillans Phylica keetii Pillans Phylica lachneaeoides Pillans Phylica laevifolia Pillans Phylica laevigata Pillans Phylica laevis (Schltdl.) Steud. Phylica lanata Pillans Phylica lasiantha Pillans Phylica lasiocarpa Sond. Phylica leipoldtii Pillans Phylica levynsiae Pillans Phylica linifolia Pillans Phylica litoralis (Eckl. & Zeyh.) D.Dietr. Phylica longimontana Pillans Phylica lucens Pillans Phylica lucida Pillans Phylica lutescens (Eckl. & Zeyh.) D.Dietr. Phylica madagascariensis Reissek ex Engler Phylica mairei Pillans Phylica marlothii Pillans Phylica maximiliani Schltr. Phylica meyeri Sond. Phylica microphylla (Eckl. & Zeyh.) D.Dietr. Phylica minutiflora Schltr. Phylica montana Sond. Phylica mundii Pillans Phylica natalensis Pillans Phylica nervosa Pillans Phylica nigrita Sond. Phylica nigromontana Pillans Phylica nitida Lam. Phylica nodosa Pillans Phylica obtusifolia Pillans Phylica odorata Schltr. Phylica oleaefolia Vent. Phylica oleoides DC. Phylica paniculata Willd. Phylica papillosa J.C.Wendl. Phylica parviflora P.J.Bergius Phylica parvula Pillans Phylica pauciflora Pillans Phylica pearsonii Pillans Phylica pedicellata DC. Phylica pinea Thunb. Phylica pinifolia L.f. Phylica piquetbergensis Pillans Phylica plumigera Pillans Phylica plumosa L. Phylica polifolia (Vahl) Pillans Phylica propinqua Sond. Phylica pubescens Aiton Phylica pulchella Schltr. Phylica purpurea Sond. Phylica pustulata E.Phillips Phylica radiata L. Phylica reclinata J.C.Wendl. Phylica recurvifolia Eckl. & Zeyh. Phylica reflexa Lam. Phylica retorta Pillans Phylica retrorsa E.Mey. ex Sond. Phylica reversa Pillans Phylica rigida Eckl. & Zeyh. Phylica rigidifolia Sond. Phylica rogersii Pillans Phylica rubra Willd. ex Roem. & Schult. Phylica salteri Pillans Phylica schlechteri Pillans Phylica selaginoides Sond. Phylica sericea Pillans Phylica simii Pillans Phylica spicata L.f. Phylica squarrosa Vent. Phylica stenantha Pillans Phylica stenopetala Schltr. Phylica stipularis L. Phylica stokoei Pillans Phylica strigosa P.J.Bergius Phylica strigulosa Sond. Phylica subulifolia Pillans Phylica thodei E.Phillips Phylica thunbergiana E.Mey. ex Sond. Phylica tortuosa E.Mey. ex Harv. & Sond. Phylica trachyphylla (Eckl. & Zeyh.) D.Dietr. Phylica trichotoma Thunb. Phylica tropica Baker Phylica tuberculata Pillans Phylica tubulosa Schltr. Phylica tysonii Pillans Phylica variabilis Pillans Phylica velutina Sond. Phylica villosa Thunb. Phylica vulgaris Pillans Phylica willdenowiana Eckl. & Zeyh. Phylica wittebergensis Pillans Liên kết ngoài
wiki
Lưu Tuệ (; sinh tháng 12 năm 1959) là chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của dân tộc Hồi. Bà là Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ từ năm 2013 đến năm 2016. Tiểu sử Lưu Tuệ là người quê ở Thiên Tân. Tháng 6 năm 1977, ở tuổi 18, Lưu Tuệ tham gia công tác làm công nhân tại Trung học số 1 thành phố Ngân Xuyên, thủ phủ của khu tự trị Ninh Hạ. Năm 1979 đến năm 1981, Lưu Tuệ theo học chuyên ngành tiếng Trung Quốc lớp cao đẳng tại trường Sư phạm Ngân Xuyên (bây giờ sáp nhập vào Đại học Ninh Hạ). Sau khi tốt nghiệp, Lưu Tuệ được phân phối đến giảng dạy làm giáo viên Trung học Chưởng Chính, ngoại ô thành phố Ngân Xuyên. Tháng 12 năm 1985, Lưu Tuệ gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lưu Tuệ bắt đầu sự nghiệp chính phủ vào năm 1987, khi bà được điều làm Phó Bí thư Thành đoàn Ngân Xuyên và sau đó nhậm chức Bí thư Thành đoàn Ngân Xuyên. Năm 1992, bà được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ, và được thăng chức Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ vào năm 1995. Bà giữ chức vụ này cho đến năm 1998. Tháng 5 năm 1998, Quốc vụ viện phê chuẩn hủy bỏ nguyên địa khu Ngân Nam, thiết lập địa cấp thị (thành phố) Ngô Trung. Lưu Tuệ làm Phó Bí thư Địa ủy địa khu Ngân Nam, tham dự trù bị công tác thiết lập của thành phố Ngô Trung, đồng thời kiêm nhiệm Phó Bí thư Ủy ban thành phố Ngô Trung Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Bí thư Thành ủy Ngô Trung. Trong thời gian này, tháng 5 đến tháng 11 năm 1999, Lưu Tuệ rèn luyện tạm giữ chức tại khu Phong Đài, thành phố Bắc Kinh, đảm nhiệm Phó Bí thư Khu ủy khu Phong Đài. Tháng 3 năm 2001, bà được bổ nhiệm làm Bí thư Ban Cán sự Đảng Sở Dân chính, Giám đốc Sở Dân chính Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Tháng 1 năm 2003, Lưu Tuệ được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Tháng 6 năm 2007, bà được bầu kiêm nhiệm chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Tháng 2 năm 2013, bà được bổ giữ chức Phó Chủ tịch Thường trực Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Tháng 3 năm 2013, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố bổ nhiệm Lưu Tuệ làm Phó Bí thư Khu ủy Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Ngày 23 tháng 4 năm 2013, hội nghị lần thứ hai của Đại hội đại biểu nhân dân khóa XI khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ đã bầu Lưu Tuệ làm Chủ tịch Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Bà kế nhiệm ông Vương Chính Vĩ, người đã được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề Dân tộc Nhà nước Trung Quốc. Lưu Tuệ chỉ là người phụ nữ thứ năm phục vụ với tư cách người đứng đầu chính phủ cấp tỉnh, sau Cố Tú Liên, Tống Tú Nham, Uyunqimg và Lý Bân. Ngày 30 tháng 6 năm 2016, bà được miễn nhiệm chức vụ Phó Bí thư Khu ủy Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Ngày 3 tháng 7 năm 2016, Lưu Tuệ từ chức Chủ tịch Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ. Bà được thuyên chuyển công tác làm Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng ủy ban Các vấn đề Dân tộc Nhà nước, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề Dân tộc Nhà nước Trung Quốc, hàm Bộ trưởng. Lưu Tuệ là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVII (2007 - 2012) và khóa XVIII (2012 - 2017). Xem thêm Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ Tham khảo Người Thiên Tân Nữ chính khách Trung Quốc Người Hồi Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ
wiki
Mường Khâu Chuyện kể bến bờ Tự Do Trang 1 Những người tỵ nạn ở đảo Bidong quen biết hắn đều gọi hắn là Tâm ‘y tá’. Thật ra Tâm chả biết một tí gì về y khoa, hắn cũng chả có miếng bằng cấp nào lận lưng, nói gì đến nghề y tá. Nói của đáng tội sau năm 75, Tâm lăn lóc kiếm sống bằng cách chạy ‘áp-phe’ và ‘mánh mung’ ngoài chợ trời, bạ cái gì cũng có thể mua đi bán lại với hy vọng ‘trúng mánh’ để có tiền đắp đổi cuộc sống, nuôi gia đình. Trong các cú ‘áp-phe’ lớn của Tâm, thuốc tây là thứ dễ mua bán vì nó nhẹ nhàng, dễ cất dấu và có lời nhiều. Gia đình Tâm nghèo lắm, bố mẹ hắn chỉ là công chức ‘ba cọc ba đồng’ thời trước, tiền lương hàng tháng chỉ vừa đủ nuôi sáu miệng ăn trong gia đình, nên sau ngày miền Nam được thay ngôi đổi chủ, gia đình Tâm tuột nhanh xuống hàng cùng đinh, giai cấp những người chuyên chính vô sản thứ thiệt trong cái chế độ mới. Chạy hàng chợ trời lâu ngày nên Tâm rành rẽ tên thuốc tây cũng như dụng cụ y khoa để buôn bán giao dịch, móc ngoặc với nhà thuốc tây quốc doanh. Thời gian đầu mới đến đảo, Tâm chả có nghề ngỗng gì nên được xung công làm nhân lực tàu bốc vác ‘supply’ từ tàu và xà-lan vào kho chứa hàng. Một hôm trong lúc vác hàng Tâm vấp chân xóc phải cái dằm trên cầu ‘jetty’. Mấy ngày sau thấy đau, xem lại ngón chân đã sưng tấy đỏ, hắn mầy mò với cái kim khâu mãi mới lể cái dằm ra, đau thấu mây xanh… ! Tưởng lấy cái dằm ra là yên chuyện ai dè ngón chân nhiễm độc mưng mủ đau nhức làm cho việc đi lại sinh hoạt rất khó khăn. Bữa lên khám bệnh, Tâm phải đi cà nhắc lên ‘sick bay’ xin trụ sinh uống ‘dứt nọc’ ngón chân đang làm độc. Người cao ủy y tế sau khi xem xét vết thương, rửa ráy và băng bó lại, phát cho Tâm hơn chục viên ‘Pinicillin’ loại 500 ngàn đơn vị. Tâm cầm viên thuốc trên tay hỏi người cao ủy y tế:- Tôi phải uống loại antibiotic loại 500 ngàn này 2 viên mỗi ngày phải không ?Thấy Tâm phát âm tiếng Anh cũng khá chuẩn, dùng chữ ‘antibiotic’ trong câu nói ra vẻ thông thạo y học, người cao ủy hỏi xem hắn có thể giúp ông ta phát thuốc men cho đồng bào tỵ nạn đau ốm trên đảo được không ? Thấy người cao ủy y tế tốt bụng và vui tính, hắn vui vẻ nhận lời. Từ ngày được trọng dụng vào Ban Y Tế trên đảo, Tâm cảm thấy vui vui trong bụng và tự hào lắm, hắn cho đây là dịp để phục vụ đồng bào tỵ nạn trên đảo. Với mớ vốn liếng tên thuốc Tây và biết công dụng của thuốc cho những căn bệnh sơ xài, ai ngờ những kiến thức ‘ba mớ’ Tâm thâu thập ngoài chợ trời đâm ra có kiến hiệu. Từ ngày có hắn cộng tác trong Ban y tế, việc phát thuốc cho bệnh nhân trôi chảy và nhanh chóng hơn. Viên cao ủy y tế mừng lắm, có thêm người phụ với ông trong công tác phát thuốc và làm thông dịch mỗi khi cần. Những lúc rảnh rỗi ngồi tâm sự, viên cao ủy thường hỏi hắn về quá khứ trước đây xem hắn có phải là bác sĩ hay là y tá gì không ? Khi nghe Tâm trả lời cái kiến thức về y học là vốn liếng những ngày lang thang đói khổ, chạy hàng thuốc tây, dược phẩm và dụng cụ y khoa ngoài chợ trời, viên cao ủy ngạc nhiên dương hai con mắt tròn xoe cứ hỏi lại hắn như không tin:- You’re kidding, right ???!!!Từ ngày nhận trách nhiệm phát thuốc trong Ban Y Tế trên đảo Tâm nghiễm nhiên trở thành ‘y tá’ chính thức của trạm xá ‘sick bay’, không là thầy thuốc nhưng hắn rất ‘mát tay’, những bệnh trái gió trở trời, ấm đầu sổ mũi lên gặp ‘Tâm y tá’ là dứt bệnh. Thời gian qua nhanh, thấm thoát mà Tâm đã ‘nằm’ đảo hơn một năm, không có ưu tiên và thân nhân nước ngoài nên chỉ còn nước chờ phái đoàn Mỹ ‘hốt rác’. Thằng Ban, bạn hắn trong Ban Hồ sơ Cao ủy cho biết tấm thẻ ‘lu ca’ (blue card) của hắn đã bị cao uỷ các phái đoàn các nước như Ca-na-đa, Pháp, Úc, Anh, Hòa Lan… đóng mộc ‘xù’ một cách vô tội vạ không hiểu vì lý do gì. Tâm cũng đã cạy cục làm đơn xin đi các nước khác nhưng chả đâu nhận, nhiều lúc Ban phát cáu dùm cho hắn:- Tứ cố vô thân và chuyên chính vô sản như mày mà còn bị chế độ tư sản ‘xù’ thì tao cũng hết biết ! Mường Khâu Chuyện kể bến bờ Tự Do trang 2 Sáng nay đang trong giờ phát thuốc của trạm xá Tâm thấy Ban hớt ha hớt hải chạy tới, tay vẫy hắn lia lịa:- Tâm ơi…, Tâm, mày được Mỹ nhận rồi !Tâm như người trên trời rớt xuống, hắn sững sờ quên cả nhiệm vụ phát thuốc. Ban đã chạy lại bên hắn, mừng quá phát vào vai hắn mấy cái đau điếng. Hai thằng ôm nhau cười ha hả nhảy cà tưng như hai thằng khùng. Mấy người bệnh đang chờ hắn phát thuốc cũng vui lây túa đầy vào phòng phát thuốc, bao quanh lấy hắn để bắt tay chúc mừng và lấy hên, có người không quen cũng đến vỗ vai thân thiện:- Chúc mừng anh Tâm y tá được đi Mỹ nghen ! Tâm quay sang Ban, khuôn mặt hí hửng :- Mày chờ tao chút, còn vài người nữa xong. Tao dẩn mày đi ‘ăn khao’.Đóng cửa phòng phát thuốc xong, Tâm cặp cổ Ban bước ra khỏi trạm xá ‘sick bay’. Đang đi hắn chợt dừng lại một cách nghiêm chỉnh trước cái miếu nhỏ đặt dưới đất ngay gốc cây dừa xanh, những tàu lá dừa dài vươn ra thành cái tán rất rộng trước mặt của trạm xá như một cái dù lớn che rợp bóng mát, Tâm đứng chắp tay, miệng lẩm nhẩm khấn nguyện. Ban thắc mắc hỏi:- Mày làm gì vậy Tâm ?- Tao cám ơn ông già biển cả. Ngày nào tao đi ngang miếu cũng khấn khứa với ổng.- Ông gia biển cả nào ?!- À…, tao gọi thế thôi chứ mày biết cái miếu cô hồn này dựng nên thờ ông già vượt biên đến đảo Bidong, đang ngồi nghỉ dưới gốc cây bị trái dừa rớt xuống trúng ngay mỏ ác, chết tại chỗ này nên linh lắm.- Mày coi tướng ‘ba trợn’ vậy mà cũng có tâm linh quá hả ?- Sao không… ?! Mày không nghe ông bà nói ‘có tin có lành, có cầu có được’ à !Tâm lôi Ban đi lên con dốc nhỏ dẫn sang khu bãi biển. Cũng đã gần 11 giờ trưa nhưng quán café vẫn còn vắng khách. Hai thằng chọn cái bàn dưới tấm bạt bằng nhựa có sọc xanh đỏ chìa ra ngoài làm mái hiên cho đỡ chói nắng. Phía bên kia đảo Bidong là đảo ‘Cá mập’ hiện ra trong tầm mắt. Tâm nghe những người ở đảo lâu cho biết tên đó là do dân tỵ nạn đặt cho vì hòn đảo có dáng dấp như con cá mập bơi săn mồi, chứ không phải khúc biển này có cá mập. Hắn kêu hai ly café đá và bao thuốc thơm ‘White Horse’ như những lần hai thằng có rủng rỉnh vài đô Mã trong túi chơi sang ra quán ngồi uống café nghe nhạc. Ly café uống trễ sáng nay có vị đăng đắng như đồng điệu với điếu thuốc thơm hút thấy ngon lạ ! Hai thằng ngồi bên nhau nhưng mỗi đứa như đang theo đuổi một tâm sự riêng, chả nói với nhau câu nào. Thằng Ban ‘nằm’ đảo cũng đã hơn hai năm vì trục trặc giấy tờ khai báo thân nhân ở nước ngoài, giờ vẫn chưa được đệ tam quốc gia nào nhận. Đặt ly café xuống bàn, hắn quay sang Ban phá vỡ cái im lặng:- Mày biết chừng nào tao có danh sách rời đảo không ?- Chừng 2 tuần thì có danh sách từ bên Kuala Lumpur gửi sang, mày liệu chuẩn bị.Mấy hôm này Tâm cảm thấy bồn chồn trong lòng có lẽ vì đây là những ngày cuối cùng hắn còn trên đảo. Tâm nghe tên hắn trong danh sách rời đảo được Ban Thông tin công bố trên loa phát thanh chiều hôm qua. Trong lòng hắn giờ buồn vui lẫn lộn thật khó tả, vui vì những ngày tháng dài vô vọng trên đảo đã kết thúc, tương lai mở rộng đang chờ đợi trên đất Mỹ tự do giầu có, cuộc đời hắn sẽ bắt đầu một trang mới. Hơn một năm trời sống bấp bênh không lý tưởng như nhánh củi mục trôi sông, đời tỵ nạn buồn nhiều hơn vui, những lúc tuyệt vọng hắn tự hỏi sự tự do được đánh đổi bằng một cái giá cao quá chăng ? Làm sao Tâm quên được chuyến vượt biên liều mạng ‘nhất tiền khoáng hậu’ của bọn hắn. Cả bọn toàn thanh niên 15 đứa ngồi xếp hàng một trên chiếc ghe dài 9 thước đóng kiểu Thái Lan ‘cao mũi, nhọn lườn’ loại chẻ sóng đi biển, để qua mặt và tránh bị bọn công an nghi ngờ nên ghe không gắn mui, chiếc máy ‘Yanma’ cải biến cộng thêm bộ số của máy ‘xe reo’ nên chiếc ghe chạy ngọt lắm, chỉ cần lên ga là nó ngóc mũi xé nước chạy phăng phăng. Trên ghe Quang là tài công rất thành thạo nghề đi biển. Gia đình Quang làm nghề ngư phủ trên biển đã bao nhiêu đời, họ rành rẽ sông nước và biết thời điểm nào biển lặng gió êm nên đã chủ động chuyến đi này. Sang ngày thứ tư ghe đã đến hải phận Mã Lai nhưng nếu không được ngư phủ Mã Lai chỉ đường đến đảo Bidong bọn hắn đã đi lạc vào vùng vịnh Thái Lan rồi. Những cây dừa xanh trồng dọc theo bãi cát trên đảo Bidong nhìn xa như những cây dừa xanh mọc dọc theo bờ sông quê hắn. Có những buổi trưa nhìn những cây dừa xanh sai trái trên đảo, Tâm thèm khát trái dừa xanh óc ách đầy nước mát và ngọt dịu hắn thường uống trong những trưa hè oi bức bên nhà, miếng cùi dừa trắng muốt được nạo ra thả vào ly nước dừa trông mềm mại bắt mắt làm hắn liên tưởng đến phát thèm. Trên đảo Bidong dừa là thứ ‘quốc cấm’, lính Mã bắt được ai trèo cây hái dừa họ phạt nặng lắm. Tâm đã chứng kiến bọn lính Mã lấy ‘dùi cui’ quật túi bụi lên đầu lên cổ những người tỵ nạn leo cây hái dừa, không những bị đánh mà còn bị cạo đầu và phạt ngồi ‘chuồng cọp’. Năm thì mười họa, có trái dừa khô gặp hôm mưa to gió lớn rớt xuống đất mới được phép nhặt. Dừa khô chỉ có nước bào ra lấy nuớc cốt dừa nấu chè xôi nếp hay xắt mỏng kho chung với cá ăn sừn sựt cũng ngon, còn nước dừa khô chua loét không ai uống chỉ đổ đi thôi, người tiếc của thì đổ vào nồi cá kho cho cá mềm và mau rục. Mường Khâu Chuyện kể bến bờ Tự Do Trang 3 Chiều nay có chuyến tàu đưa người rời đảo, máy phát thanh đang đọc lời tiễn biệt cho những người may mắn lên đường đi định cư, rời hải đảo tỵ nạn buồn thảm này. Giọng ca sĩ Thái Thanh qua bài ‘Nghìn Trùng Xa Cách’ với âm điệu nghe buồn diệu vợi. Tâm chùng lòng khi nghe người nữ ca sĩ gửi hồn vào bài hát như đang kể lể ngọn nguồn tâm sự trong lòng hắn.“Mời người lên xe về miền quá khứ.Mời người đem theo toàn vẹn thương yêuĐứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt màu …Vài cánh sương hoa nằm ép trong thư …Vạt tóc nâu khô, còn chút thơm tho thả gió bay đi…”Chỉ loáng mắt hắn đã soạn xong mấy cái túi xách chuẩn bị rời đảo, Tâm ngả lưng trên tấm phản để hồn chìm vào ‘đường ta đi lặng lẽ mưa bay’, để nghe nỗi buồn đang gậm nhấm những kỷ niệm chắt chiu những ngày trên đảo, hắn chưa kịp hát theo ‘một tiếng thương ôi gửi đến cho người…’ thì có tiếng ai réo dưới nhà:- Tâm ơi, mày có nhà không ?Tâm trên gác, thò đầu xuống:- Quang hả ? Tao trên gác. Lên đây.Quang leo lên cái thang gác ọp ẹp làm bằng cây rừng:- Tụi tao đang bàn, kiếm gì lai rai ba sợi làm lễ tiễn chân mày lên đường !- Ở đây làm gì có ‘ba xi đế’ mà đòi lai rai ba sợi ?Lên tới tầng căn gác, nó nheo mắt nhìn Tâm:- Tao đã có cách mà, mày tin tao đi.- Làm gì thì làm, tao không muốn bị lính Mã cạo đầu trước ngày rời đảo.- Mày đừng lo nhậu xỉn chết bỏ luôn !!! Quang móc túi đưa hắn một số thư đã được gói cẩn thận trong cái bọc ‘ni-lông’:- Mày gửi dùm tụi tao mấy lá thư này khi đến Mỹ. Hành lý lên đường của Tâm vỏn vẹn chỉ có cái túi nhỏ đeo vai chứa đầy thư tín do những người thân quen trên đảo nhờ gởi dùm, vài cuốn băng cassette với những bản nhạc hay mấy thằng bạn thân thâu tặng hắn làm quà kỷ niệm. Cái túi xách lớn trong có vài bộ quần áo cao uỷ phát chẩn đã được sửa lại cho vừa vặn, một số giấy tờ tùy thân và vài cuốn sách Anh văn của ‘Center Of Language’ phát cho dân tỵ nạn trên đảo. Còn các vật dụng cá nhân, nồi niêu xoong chảo trong căn nhà Tâm ở, hắn để lại làm ‘kỷ vật’ cho những người còn ở lại. Họ cần những thứ đó hơn hắn. Đời hắn mất mát nhiều và cho đi cũng nhiều còn cái gì đáng để mất nữa đâu mà sợ ! Sự ra đi nào trong cuộc sống cũng có mất mát, hành trang lên đường càng gọn nhẹ bao nhiêu càng thanh thản dễ bước chân đi.Sáng nay sau giờ phát thuốc như thường lệ, Tâm lén lấy chai ‘ăn-côn’ 90 độ cồn loại 1 lít dùng để sát trùng để xuống ngăn dưới không khóa của tủ thuốc theo lời thằng Quang dặn. Tối nay cả bọn sẽ tụ tập lại nhà nó để có bữa tiệc thân mật tiễn chân Tâm rời đảo. Mười lăm đứa trong danh sách thuyền PB13 đã lần lượt rời đảo gần hết, chỉ còn lại năm, sáu mạng. Quang xung phong nhận trách nhiệm kiếm ‘mồi màng’ và chất men cay cho cả bọn say đêm nay. Tâm dặn hờ:- Quang, mày nhớ mời dùm tao mấy anh em còn lại trong thuyền mình nghe, chả biết bao giờ tụi mình mới có cơ hội gặp lại.- Yên trí đi. Tao sẽ mời hết mà, mày đừng lo. Tối nay tụi mình ‘gầy sòng nhậu’ lúc 7 giờ nghe. Nhớ mang chai cồn lại nhà tao.Cả ngày lo chạy các giấy tờ tùy thân và hòan tất thủ tục rời đảo, Tâm làm máy móc như người không hồn. Hắn bịn rịn nhìn phòng phát thuốc lần cuối, nơi làm việc tạm bợ nhưng đã gắn bó với cuộc đời tỵ nạn của hắn, cái bàn nhỏ, cái tủ thuốc thân quen trong góc phòng, những vật gắn liền vào cái nghiệp bất đắc dĩ y tá của hắn. Lúc chia tay người cao ủy y tế, ông ta xiết tay Tâm thật chặt và cầu chúc cuộc sống mới bên Mỹ gặp nhiều may mắn. Hơn một năm làm việc chung với người cao ủy hắn thấy ông ta thật vui tính và tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ và săn sóc những người Việt tỵ nạn đau ốm, bệnh hoạn trên đảo, nghe đâu ông ta xin sang đảo Bidong để phục vụ với thời gian là 5 năm làm hắn rất ngưỡng mộ và khâm phục tấm lòng nhân ái của ông.Chiều đã bắt đầu chạng vạng, khi đến nhà Quang mấy thằng bạn thân quen cùng ghe đã có mặt. Ban vì bận vào giờ chót trên hội trường Cao ủy cho những người được mở hồ sơ đặc biệt nên không đến được. Thằng Quang cầm chai ‘ăn-côn’ trên tay do hắn mang đến miệng bô lô ba la:- Bữa nay tao làm ‘dược sĩ bào chế’ cho tụi bay ‘ngoắc cần câu’ luôn !Quang đã kiếm đâu được cái chậu thau lớn để giữa bàn nhậu, nó đổ vào đó 3 lon ‘Côcacôla’ và nước dừa tươi từ hai trái dừa xanh nó đã liều mạng trèo hái bên khu C mấy đêm trước, đổ vào nửa chai ‘ăn-côn’ nó cầm cái ca nhựa quậy đều trong cái chậu rồi chiêu một ngụm giáo đầu:- Khà…! Đã … quá, tụi bay ơi, ‘dẫn nhiệt’ không chịu được !!! Cả bọn xúm lại ngồi quanh cái bàn dã chiến được làm bằng tấm ván ép, ghế ngồi là mấy khúc gỗ được cắt ngắn làm bộ ghế đẩu. Thằng Quang thật khéo tay làm món ăn, trên bàn nhậu có đĩa cá hồng ướp muối mặn chiên xù, nó quảng cáo là nhậu ‘bắt’ hết biết, nó còn ngoại giao với mấy tiệm Tàu Mã Lai buôn bán trên đảo mua đâu được một ít thịt bò, nó nấu nồi cà-ry bò khoai tây ăn với bánh mì ‘thùng phuy’ nóng hổi mới ra lò bên khu B làm bữa tiệc nghèo trên đảo bỗng dưng ‘nổi đình đám’ và ‘xôm tụ’ hết chỗ nói. Quang nâng cái ca nhựa lên chúc sức khỏe:- Tụi mình chúc Tâm ‘y tá’ lên đường bình an và nhiều may mắn thành công trên đất Mỹ.Cả bọn cụng ca nhựa ‘cạch… cạch’ nghe cũng rôm rả lắm, những đứa còn lại đều làm đúng thủ tục ‘bất thành văn’ cuả tàu PB13 nâng ly chúc mừng chuyến rời đảo của Tâm, xong màn chúc mừng… tới màn chúc sức khỏe… rồi đến màn ‘xoay tua’. Mùi cồn hơi hăng hắc nhưng nhờ mùi nước dừa tươi làm dịu lại nhiều, cộng thêm mùi ‘Côcacôla’ thơm thơm và ngọt nên cũng dễ uống, chất cồn dẫn thật lẹ, mới có hết vòng đầu chúc mừng năm, sáu ca gì đó mà Tâm đã thấy chao đảo quay cuồng rồi. Hồi còn bên nhà Tâm cũng thường nhậu nhẹt với bạn bè, tửu lượng cũng khá lắm chứ đâu đến nỗi bết bát vậy ! Đôi mắt mở không muốn lên, hai bên thái dương mạch máu chạy rần rần như muốn nổ tung, hai lỗ tai nóng bừng, Tâm lè nhè:- Tao say rồi đó…, Tụi bay cứ nhậu tiếp… đi, tao nằm nghỉ chút. Mường Khâu Chuyện kể bến bờ Tự Do Trang 4 ( Hết ) Nói xong Tâm lảo đảo bước lại cái giường của Quang, nằm vật xuống, tai hắn vẫn nghe giọng thằng Quang nhừa nhựa như từ cõi nào xa xăm nào vọng về: - “Dzô nè…!” pha lẫn tiếng cười, tiếng hát, tiếng đùa giỡn, tiếng ca nhựa cụng nghe ‘lạch… cạch’ của bàn nhậu càng lúc càng nghe nhỏ dần… như đưa Tâm vào cơn say ngất lịm đầy ma quái.Lúc Tâm bàng hòang tỉnh dậy, không biết đang nằm đâu, trong đầu hắn không có ý niệm gì về không gian cũng như thời gian hết, đầu váng vất nặng như búa bổ, hai mắt hoa lên như nổ đom đóm, bức tường trắng trước mặt như nhảy múa đảo lộn liên hồi, đầu óc quay mòng mòng, Tâm lại nằm vật xuống giưòng như không cưỡng lại cái thân xác quá nặng nề. Có tiếng chân ai bước vội lại giường Tâm đang nằm, hắn bật dậy hốt hoảng:- Ai đó ? Tôi đang ở đâu đây ? Chuyện gì đã xảy ra…? Giọng Ban cất lên:- Tâm, tao Ban đây. Mày bị say rượu bất tỉnh phải mang lên ‘sick bay’. Họ đang chuyền nước biển cho mày đó. Bọn thằng Quang đều bất tỉnh. Chưa thằng nào dậy hết. Nghe nói tụi bay nhậu ‘ăn-côn’ hả ?Tâm chợt nghe nhói như có ai thắt cái gút lớn trong ngực, hắn dần dần hiểu ra cớ sự, buổi tiệc tiễn chân hắn và thứ ‘cốc-teo’ (cocktail) pha trộn chất cồn độc hại làm men cay cho bữa tiệc đã quật cả bọn lật chỏng gọng bất tỉnh nhân sự. Giọng Ban vẫn nhỏ nhẹ và sũng buồn:- Bây giờ là 5 giờ sáng. Chiếc ‘BlueDart’ đang trên đường qua. Còn 1 tiếng nữa họ sẽ đưa mày và bọn thằng Quang sang nhà thương Trengganu để điều trị vì bên này không đủ phương tiện. Mày đừng buồn nữa chuyện đã lỡ rồi ráng tịnh dưỡng.Sáng nay khi trời còn sớm, chiếc tàu ‘BlueDart’ cập vào thành cầu ‘jetty’ người trên đảo thấy hai chiếc xe lăn và một ‘băng-ca’ được đưa xuống tàu, những túi nước biển treo trên cây cọc bằng ‘inox’ gắn vào thành chiếc xe lăn đung đưa theo nhịp đẩy của hai người y tá Mã Lai mang theo hai thân xác ngồi nghẹo cổ bất động trên xe. Viên cao ủy y tế của trạm xá đi theo chiếc ‘băng-ca’ tay dơ cao bịch nước biền đang chuyền vào đường gân xanh nổi lên trên tay Tâm, hai mắt ông ta rươm rướm nước mắt. Nét mặt Tâm trắng bạch như xác chết, hắn cố mở to đôi mắt nhìn về hướng những rặng dừa xanh trên đảo nhưng không thấy gì ngoài màu trắng đục như lớp sương mù bao phủ hòn đảo những hôm mặt trời lên muộn. Tâm cố ngước đầu lên lần nữa để tìm những tàu lá dừa dài xanh mướt nơi hắn biết dưới gốc cây có cái miếu cô hồn thờ ông già biển cả. Thật lạ, sao hắn không thấy màu xanh của lá dừa đâu cả, chỉ thấy vệt khói từ cây nhang ai đốt nghi ngút trong miếu tỏa lên cao, càng lúc càng dầy đặc bao phủ mọi vật trong một màu khói trắng mờ mờ.Căn phòng nhỏ mọi khi là thư viện của trạm xá được vội vàng thu dọn biến thành căn nhà xác dã chiến. Ba cái ‘băng-ca’ đặt dài trên nền nhà, trên đó là ba cái xác của ba người thanh niên trẻ vừa chết sáng nay được phủ bằng những tấm vải trải giường trắng từ đầu đến chân. Trên ngực họ có những nải chuối xanh ai đem vào cúng, trên nải chuối những cây nhang ghim vội vàng đang ngun ngút cháy với cái tàn cong vòng, những vệt khói trắng thơm mùi trầm vương vất mãi trong căn phòng lạnh lẽo không chịu lan tỏa. Mục lục Trang 1 trang 2 Trang 3 Trang 4 ( Hết ) Chuyện kể bến bờ Tự Do Mường KhâuChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VietnamthoinayĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 4 tháng 3 năm 2005
vanhoc
Bài làm Mỗi học sinh chúng ta đều có những môn học yêu thích, đối với em, em yêu thích nhất là môn Tiếng Việt. Đầu năm học lớp 3, bố mẹ mua cho em một bộ sách với các môn học nhưng quyển sách em cầm và đọc đầu tiên là quyển Tiếng Việt lớp 3 tập một.
vanhoc
Scope trong tiếng Anh có thể là từ chung để nói đến nhiều thiết bị quang học hoặc thiết bị hỗ trợ quan sát. Scope cũng có thể là Tên người Jamie Scope, cầu thủ người Anh John T. Scopes, nhân vật trung tâm của vụ kiện Scopes, một vụ kiện liên quan đến vấn đề giảng dạy thuyết tiến hóa Nghệ thuật, truyền thông, giải trí CinemaScope hoặc Scope prints, bản in phim anamorphic Scope (tạp chí), một tạp chí nam giới của Nam Phi The Scope (tuần san), một tờ báo tại St. John's, Newfoundland Scope (series phim truyền hình Úc), phim truyền hình Úc được chiếu trước đó trên Network Ten, sau đó được chiếu trên Australian TV network 10 Peach Scope (series phim truyền hình Ireland) Scope (album), album ca nhạc năm 1979 của Buck Hill Quartet Khoa học máy tính Scope (AngularJS), một đối tượng dùng bởi framework này Tầm vực (khoa học máy tính), khái niệm chỉ vùng mà một biến có thể được truy xuất scope (scopeArchiv), chương trình phần mềm dùng cho thông tin lưu trữ CDC SCOPE (từ viết tắt của Supervisory Control Of Program Execution), một nhóm các hệ điều hành cho các máy tính mainframe của Control Data Corporation
wiki
Quách Thị Lan (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1995) là một nữ vận động viên điền kinh chạy nước rút và vượt rào người Việt Nam. Thành tích nổi bật của cô là các tấm huy chương vàng ở Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015, Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017, Giải vô địch điền kinh châu Á 2017, Đại hội Thể thao châu Á 2018 tại Indonesia và Giải vô địch điền kinh châu Á 2019 tại Qatar. Đời tư Anh trai của cô là Quách Công Lịch cũng là một vận động viên điền kinh. Những tấm huy chương vàng đáng chú ý Tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 Ở chung kết 400m rào nữ Asiad 2018, vận động viên người Bahrain Kemi Adekoya về nhất với thành tích 54 giây 48, phá kỷ lục đại hội. Quách Thị Lan về nhì với thời gian 55 giây 30, dù phá kỷ lục quốc gia nhưng chỉ đủ để đạt tấm huy chương bạc. Sau đó, theo quyết định của Cơ quan Liêm chính Điền kinh ngày 19/7/2019, Adekoya vi phạm quy định về sử dụng chất cấm (Stanozolol) khi thi đấu ở Asiad 2018. Chất Stanozolol nằm trong danh sách chất cấm của Ủy ban Phòng chống Doping Thế giới. Liên đoàn điền kinh thế giới đã thông báo Kemi Adekoya bị tước huy chương vàng tại Asiad 2018, đồng nghĩa với việc vận động viên Quách Thị Lan chính thức đạt ngôi vị cao nhất nội dung chạy vượt rào 400m nữ Đại hội Thể thao châu Á 2018. Tại Giải vô địch điền kinh châu Á Ở Giải vô địch điền kinh châu Á 2017, Quách Thị Lan đoạt huy chương bạc 400m nữ với thành tích 52 giây 78, thua Nirmala Sheoran 0,77 giây (52 giây 01). Còn ở nội dung tiếp sức 4x400m, Lan cùng ba đồng đội Nguyễn Thị Huyền, Hoàng Thị Ngọc, Nguyễn Thị Oanh giành huy chương bạc với thành tích 3 phút 33 giây 22, thua thành tích 3 phút 31 giây 34 của đội Ấn Độ có Nirmala Sheoran thi đấu. Ngày 29 tháng 6 năm 2018, Nirmala Sheoran được lấy mẫu thử doping. Mẫu thử này sau đó bị phát hiện là có drostanolone và metenolone, hai chất thuộc danh mục cấm của Ủy ban Phòng chống Doping Thế giới. Ngày 10 tháng 10 năm 2019, Liên đoàn điền kinh thế giới thông báo Sheoran bị cấm thi đấu 4 năm vì sử dụng chất kích thích. Tổ chức này cũng đồng thời hủy mọi kết quả thi đấu và thành tích của cô trong giai đoạn tháng 8/2016 đến tháng 8/2018. Như vậy, Quách Thị Lan được trao lại 1 huy chương vàng cá nhân và 1 huy chương vàng đồng đội. Tham khảo Lan Lan Lan Lan Lan Lan Nữ giới Việt Nam thế kỷ 21
wiki
Phan Hồn Nhiên Cánh trái 1. Phòng bên cánh trái, như hết thảy các sáng chủ nhật khác, bắt đầu vang lên âm thanh kim loại. Thoạt tiên là tiếng rơi rành mạch một số vật thể chạm xuống mặt bàn gỗ. Sau đó, tiếng lách tách lạnh toát của những bộ phận chắc chắn bằng thép, rời rạc bong ra rồi lại căm phẫn siết vào nhau theo các khe rãnh và móc ngàm tinh vi. Cuối cùng, bao giờ cũng là âm thanh một cú trượt duy nhất. Nó phát ra bất thần, phảng phất đe dọa ma thuật. Vinh chờ đợi tiếng ô kéo đóng sập, chìa khóa lộc cộc xoay vặn. Giờ thì anh mới yên tâm nhắm mắt. Cảm giác tiếp xúc với các vật thể chung quanh bị triệt tiêu. Chúng cấu tạo bằng chất liệu gì, mùi vị ra sao, công dụng thế nào, hết thảy đều vô nghĩa. Lưng và đầu anh nhẹ hẫng. Cơn mơ khi vẫn thức vào các sáng chủ nhật là thói quen mê hoặc, nhất là sau một tuần buộc phải tỉnh táo vận hành cật lực ở văn phòng tư vấn kiến trúc. Cơn mơ đẩy anh rơi vào trạng thái vô tâm thu. Vinh hài lòng về mọi thứ anh đang nắm trong tay, về cuộc sống bình yên mà trong đó anh hiện diện. Đồng thời, anh cũng căm ghét nó. Anh quan sát bản thân một cách thờ ơ đượm mỉa mai. Với cái nhìn từ trên cao trong khoảnh khắc ấy, căn hộ tầng năm bỗng chốc biến thành quả khinh khí cầu bơm căng sự trống trải. Theo ô cửa sổ mở rộng, nó lơ lửng trôi ra ngoài không gian thản nhiên của tháng mười một. Đoạn đường yên ắng. Kiến trúc nhiều thời kỳ hòa trộn vào nhau. Vẻ quái dị quen mắt biến thành việc chấp nhận chung sống lãnh đạm. Ngay tầm đổ bóng của một cao ốc phía đại lộ trung tâm, ngôi nhà màu vàng cũ kỹ đứng bất động. Không có chậu cây trang trí và sự lay động của những tấm rèm vải. Thảng hoặc, vài chiếc xe lướt qua đoạn phố, tiếng động cơ vọng lên như thấm qua lớp màng vô hình, để lại vệt âm thanh xám trắng mơ hồ, nhanh chóng tan biến. Bên kia đường, chuồng bồ câu nhô lên trên mái ngói. Vài con thường bay vụt sang, đậu trên cửa sổ phòng Vinh. Tốt nghiệp đại học, Vinh bắt ngay vào thói quen nay đây mai đó. Anh thường chọn những công việc không cần gắn bó lâu dài. Hoàn tất vài dự án lớn, anh lại nộp đơn tìm một nơi khác. Dạng free lance như anh đầy rẫy trên thế giới này. Một công ty xây dựng từng thuê Vinh làm việc hai năm ở khu vực Đông Phi, khảo sát các chất liệu chuyên dụng. Theo các chuyến đi ngang dọc, anh suýt chết vì bệnh ruồi ngủ. Ba năm sau đó anh sang Serbia và Bangladesh hoạt động cho một tổ chức phi chính phủ, lắp ghép vô số dãy nhà trú đông trong những thành phố đổ nát hoặc ngập nước. Công việc trôi dạt liên tục để lại trong anh một trải nghiệm bình thản: thực chất, các vấn đề trong cuộc sống này không có gì quan trọng. Chỉ cần thay đổi bối cảnh, một chuyện phức tạp nhất sẽ trở nên bình thường, thậm chí lố bịch. Anh hoàn toàn yên tâm với cuộc đời không ngừng dịch chuyển của mình. Một mùa đông đầy mưa, uống vội cà phê trong quán Starbucks, nhìn qua cửa kính, mắt anh bắt gặp một gã vô gia cư chết cóng trên băng ghế công viên, tờ báo ướt nhoét phủ mặt. Những người đi bộ bước ngang thật nhanh, chẳng buồn ngoảnh nhìn. Từ chiếc xe thùng xám, hai nhân viên ập xuống nhặt xác gã vô gia cư, giống như cạy vật thể dơ bẩn ra khỏi mặt phẳng nhẵn nhụi của cuộc sống hoàn hảo. Tờ báo phủ trên mặt cái xác rơi lại, bết trên mặt ghế, in ảnh các cô gái rám nắng trên bãi biển tràn ánh mặt trời. Vinh choáng váng như bị thoi mạnh vào bụng. Dù ở bất cứ ngóc ngách nào trên thế giới, phải chăng người ta cũng chỉ có một vài băn khoăn: Làm sao để được đồng loại thừa nhận? Có nên vững tin cuộc sống là đáng giá? Cuối cùng, người ta cũng sẽ hoảng sợ kiếm tìm đảm bảo nào đó cho phần đời còn lại và hy vọng về một cái chết yên bình. Khám phá này khiến anh bải hoải. Vứt bỏ các công việc say mê, Vinh kiếm một học bổng ngắn hạn. Anh sống ở tầng hầm ngôi nhà cổ giữa New York. Ngoài giờ học, anh chỉ đi lang thang, mua sách và xem tất cả các triển lãm thiết kế. Chưa bao giờ anh cô độc đến thế. Vài lần tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, anh nhận ra mình ngập chìm trong sợ hãi. Một buổi sáng nhiệt độ xuống dưới không, đờ đẫn nhìn bản đồ treo tường và chiếc vali sờn góc chỉ chi chít logo hàng không, Vinh quyết định trở về Việt Nam. Ở tuổi ba hai, xuất hiện trong anh nhu cầu về một nơi chốn riêng biệt. Người quen giới thiệu cho Vinh căn hộ tầng năm của ngôi nhà xây từ thời thuộc địa, cách văn phòng tư vấn anh làm việc mươi phút đi bộ, giá tiền rất vừa phải. Trái ngược với sự náo nhiệt các đại lộ trung tâm, tòa nhà nhúng trong không khí vĩnh viễn mùa thu. Phiền toái duy nhất là anh vẫn phải ở chung với chủ căn hộ, một bà cụ ngoài bảy mươi hoặc hơn thế, có đôi mắt trong veo nổi bật trên gương mặt đầy nếp nhăn. Bà ta sống một mình gần ba mươi năm. Gần đây, linh cảm về cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào khiến bà cụ cần ai đó sống cùng. Bà quyết định bán căn hộ với giá rẻ mạt, với duy nhất điều kiện kẻ mua căn hộ phải để bà ở lại trong một phòng nhỏ cánh trái căn hộ. Khi nào bà ta chết, căn hộ hoàn toàn thuộc về người mua. Khi nói ra những điều kiện ấy, đôi mắt bà cụ chiếu thẳng vào Vinh, với vẻ thăm dò nhạo báng. Anh dễ dàng đồng ý. Kinh nghiệm dạy anh rằng phiền toái đến từ các vấn đề bên trong bản thân, chứ không dính líu tới kẻ khác. Sau khi thanh toán bằng tiền mặt, Vinh dọn về căn hộ. Bà cụ ở yên bên cánh trái, chỉ ra ngoài lúc anh đã đi đâu đó. Nhiều khi suốt tuần, họ không chạm mặt. Tiếng chân bước vẳng sang cho Vinh biết bà cụ còn sống. Các sáng chủ nhật, luôn là tiếng kim khí va chạm sắc nhọn. Sự tò mò thoáng qua nhưng thói quen không xen vào cuộc sống kẻ khác giữ anh lại. Lâu dần, mùi trà và âm thanh kim loại mơ hồ giúp anh cảm nhận sự hiện diện của người cùng nhà, rõ rệt hơn chính con người bà cụ.Vinh nằm trong giường, giữ nguyên trạng thái bay lơ lửng. Thình lình, vang lên một tiếng nổ, lớn và đanh. Anh mở choàng mắt. Không gian im ắng. Mấy con bồ câu biến khỏi khung cửa sổ. Một chiếc lông vũ bay lưng chừng ngoài khoảng trời xanh. Vinh bước lại ô cửa, thò đầu ra ngoài, nhìn quanh. Trên mái hiên che cửa sổ tầng dưới, một con bồ câu vừa bị bắn chết. Nó nằm ngửa, tư thế kỳ quặc với đôi cánh xoải rộng. Viên đạn tạo thành vết thủng thẫm đen trên cái ức lông tơ mịn màng phồng căng. Đôi chân hồng nhạt co giật nhẹ rồi cứng đờ. Vinh trở vào, không biết làm gì khác nên mở máy pha cà phê, ngồi chờ. Sau khi uống hết cốc cà phê lớn, anh tự nhủ tất cả những gì vừa chứng kiến chỉ là hình ảnh rớt lại của cơn ác mộng sáng chủ nhật.2. Hoan đến, muộn nửa tiếng. Lao bổ giữa các dãy ghế quán cà phê tràn trên vỉa hè, đột nhiên cô ta dừng khựng, xoay khuôn đầu hơi nhỏ trên cái cổ mảnh, nhìn quanh. Một cái túi da hình chữ nhật khổ lớn khoác trên đôi vai thẳng. Hoan bước nhanh, chạy nhanh bởi sự chậm rãi không hiện diện bên trong cô. Luôn chậm trễ, nhưng luôn sợ vuột mất mọi thứ khỏi tầm tay, Hoan có vẻ ngoài của một con hươu non vừa ngơ ngác yếu đuối, vừa ranh mãnh khó lường. Kể từ lần gặp tình cờ tại văn phòng tư vấn kiến trúc, Hoan giữ liên lạc với anh thường xuyên. Cô khá xinh, đặc biệt ở tuổi hai ba. Mái tóc ngắn lòa xòa trên vầng trán trắng muốt. Các đốm tàn nhang trên gò má sẫm lại khi Hoan vui quá hay buồn quá. Đôi mắt rộng. Ánh nhìn lơ đãng gần như trống rỗng lúc trò chuyện. Nhưng có Chúa mới biết đầy rẫy những chuyện quái quỷ đang nở ra trong đầu cô. Khi Vinh đang nói một câu dài, Hoan hay xen vào nhận xét vớ vẩn trật chìa, giọng líu nhíu khó nghe. Ở Hoan, luôn lộ ra điểm gì đó không toàn vẹn, từ hình dáng bề ngoài cho đến các hành động vụng về, sự thiếu hụt một số hiểu biết căn bản. Tuy nhiên, cô chẳng buồn che đậy vấn đề của mình. Duy nhất Hoan xóa tan cảm giác gò bó trong Vinh khi phải tiếp xúc người ngoài. Đó là cảm giác an toàn hiếm hoi khi đối diện với sinh thể mà mình biết rõ. Thi thoảng cả hai trải qua kỳ nghỉ cuối tuần ở một nơi xa thành phố. Bất kỳ bối cảnh nào, giữa căn phòng tiện nghi sang trọng hay trong một hõm cát sát biển đầy ngập bóng tối, cơ thể nhạy cảm bẩm sinh của cô đều thoải mái bộc lộ vẻ gần gũi tự nhiên khiến anh khoan khoái. Nhưng, ngay ở giây phút say sưa nhất, tận cùng mắt Hoan vẫn lóe lên một tia sáng bất thường. Rõ ràng xuyên qua trạng thái nồng nhiệt thơ dại, cô vẫn chờ đợi một điều gì đó. Họ gắn bó đủ lâu. Vinh tự nhủ để cô gái này bước vào bên trong cuộc sống vốn được hạn chế của mình là điều có thể chấp nhận. Thật sự, cũng đến lúc anh phải nghĩ nghiêm túc về gia đình yên ổn. Một người phụ nữ non trẻ. Một hoặc nhiều đứa bé con. Với sự nhạy bén của loài vật nhỏ, Hoan đánh hơi ý định đang mọc lên trong anh. Chẳng ngại ngần gì, cô nói thẳng ý muốn chung sống. Ngắc ngứ vài giây khi anh hỏi vì sao, Hoan cũng tìm ra lý do khả dĩ: - Em muốn thay đổi. Chia sẻ đời sống với một kẻ khác là cách thay đổi đáng kể.- Kẻ khác mà em đang nói đến là anh - Dù không quen bắt bẻ ngôn từ, Vinh vẫn thoáng chạnh lòng.Tia mắt Hoan chiếu thẳng vào anh, trong suốt và bình thản: - Nếu không phải anh, cũng sẽ là một ai khác. Giống như vào đúng thời điểm ấy, phải có người bước lên chiếc xe buýt mà em lái.Sự thành thật đơn giản của cô ta làm Vinh lặng đi. Cả cái hình ảnh so sánh tầm thường chuyến xe buýt cuộc đời mà cô tuôn ra một cách bất cẩn cũng làm khoang bụng anh nhói lên. Đột nhiên, anh nhận ra khá nhiều chi tiết không như anh tưởng. Hoan ngỡ rằng cô đang điều khiển anh theo cách cô muốn. Còn anh vẫn vững tin mình kiểm soát mọi việc. Nếu quyết định sống cùng nhau, họ cần nhất thiết xóa bỏ những ảo giác. Như vậy, Hoan tuân theo hoạch định của anh thì hơn. Anh không cho phép cô xô lệch các thứ tự mà anh đã sắp đặt...Hết ngật cổ ra sau rồi lại áp một bên má xuống mặt bàn, cô gái bắt đầu huyên thuyên đầy hào hứng về đám cưới. Vinh đành đưa ra một sự thật khác, trấn áp cơn hưng phấn quá đà dâng lên trong mắt Hoan:- Chúng ta có một khó khăn. Vấn đề chỗ ở.- Chẳng phải anh có một căn hộ ở ngay trung tâm, như anh vẫn thường kể cho em nghe đấy ư - Chẳng có dấu hiệu nào Hoan bớt phấn khích. - Anh không sống một mình... - Em chưa hiểu - Cô gái ngẩng phắt lên, bỗng hết sức chú ý vào câu chuyện.- Nếu đúng như em muốn, cần phải chờ cho đến khi căn hộ tầng năm thuộc về anh hoàn toàn - Vinh kết lại, sau khi kể sơ qua cho Hoan nghe về bà chủ nhà già nua và bản hợp đồng liên quan đến cái chết tất yếu - Vấn đề chỉ là thời gian.- Vì sao anh không nói về chuyện này ngay từ đầu? - Đôi mắt rộng tối sầm, tựa hai mặt nước đột nhiên đen sẫm, không ánh phản chiếu. Giọng nói líu nhíu lào thào - Em căm ghét sống chung chạ với người lạ. Em căm ghét chờ đợi!- Tùy em lựa chọn!Họ tạm ngưng gặp nhau. Vinh thấy nhẹ nhõm. Hoan mới tốt nghiệp đại học. Một công việc văn phòng và dịch thuật tạm ổn. Vẫn ở nhà thuê. Không dính vào các thèm khát phù phiếm như quần áo, xe cộ thời thượng, Hoan thừa nhận mục đích duy nhất là sở hữu một nơi chốn riêng, biến giấc mơ không gian hạnh phúc - vẫn tràn lan trên các tạp chí nội thất - trở thành hiện thực càng sớm càng tốt. Cô không che đậy tính toán dưới lớp vỏ tình cảm hay các lý do nhân từ. Chính thái độ thành thật hiếm có này, khiến Vinh luôn đồng ý với cô dễ dàng. Hôm qua, bằng cái tin nhắn ngắn gọn, Hoan muốn gặp lại anh. Họ hẹn nhau ở cà phê gần công ty. Chiều chủ nhật, chỉnh xong vài chi tiết lặt vặt cho cái đồ án, anh bước xuống đường, thong thả đi bộ đến nơi hẹn.Cuối cùng thì Hoan cũng nhận ra chỗ anh. Hấp tấp kéo chiếc ghế đối diện, cô ngồi xuống, uống một hơi cạn cốc trà lạnh. Cũng hối hả như thế, cô liến thoắng: "Em đã nghĩ kỹ. Em chuyển đến sống cùng anh. Tất cả hành lý của em trong cái túi này rồi...". Cô nói mải miết, về lòng can đảm không được lảng tránh, về nỗ lực tất yếu nảy sinh, và cả tình yêu nữa. Một trạng thái phấn khích mới, mạnh hơn, và cũng đáng ngại hơn. Xuyên mặt bàn kính, Vinh quan sát chậu cây đặt giữa chân bàn, vốn là khung sắt uốn tròn. Những đốm xanh bất động phả vào không khí oi bức làn hương của loài hoa đồng thảo ngây ngất, các vệt hơi nước xám xanh. Hệt như tâm trạng anh lúc này, rối bời và nghẹt thở. Im bặt một đỗi, Hoan hỏi thình lình:- Em xuất hiện, bà cụ già nua kia sẽ nói gì?- Không gì cả. Có lẽ.- Em sẽ mua các chậu cây hoa. Sô-pha và nệm giường cũng cần vỏ bọc mới. Em căm ghét những gì cũ kỹ. Mọi thứ nhất thiết phải thay đổi - Cô thở dài khoái trá.- Khi nào em chuyển đến?- Ngay bây giờ - Hoan nở nụ cười rạng rỡ nhất mà anh từng thấy, với sự cộng hưởng của vệt nắng chói chang làm nổi bật đường lượn thanh mảnh trên xương gò má và khóe miệng ẩm ướt ngây thơ - Em đã trả lại nhà trọ. Em nghĩ tốt nhất là thực hiện tức khắc những gì mình muốn. - Còn đám cưới và các thủ tục cần thiết? - Anh hỏi, không phải không lo sợ.- Chúng có cần thiết thật không? - Cô phủ lên Vinh ánh nhìn long lanh tuyệt diệu của người uống quá chén.3. Đầu tiên là phòng khách, gian bếp rồi đến buồng ngủ. Lớp giấy bồi tường vàng ố lưu cữu mùi vị của năm tháng tàn héo bị Hoan bóc toạc, không thương tiếc. Sau đó, bằng một loại sơn nước phổ thông, cô tự sơn lại toàn bộ các bức tường thành những mảng màu xám, đỏ và trắng, không tuân theo một trật tự nào. Sử dụng thẻ rút tiền của anh, cô tha về bộ bàn ghế thô kệch, sự phối ngẫu khủng khiếp giữa kim loại và vải thô, thay thế cho những chiếc ghế thanh tao chạm trổ tinh vi nhưng thọt chân sứt sẹo. Những tấm rèm cửa mới tinh, bóng loáng, như một cơn mưa nhiệt đới chảy tràn bất tận trên các khung cửa sổ. Hoan dành nhiều tâm sức cho những chậu cây thẫm xanh, lá trổ ngùn ngụt, cao lên từng giờ từng phút, hiện diện tùy hứng khắp các góc buồng. Tủ lạnh cỡ lớn, chất đầy thức ăn. Mọi thay đổi nội thất được hoàn thành trong vỏn vẹn ba ngày, với một quyết tâm điên khùng thể hiện rõ ràng ở hơi thở hổn hển khuân vác nặng, ở gương mặt vằn vện sơn và cái áo đầm đìa mồ hôi. Không chỉ nỗ lực xóa bỏ mọi tàn tích cũ, Hoan còn thẳng thừng thu hẹp sự hiện diện của bà cụ chủ nhà. Bức tường bên ngoài cánh trái bị đóng đinh ầm ĩ, treo lên một bức tranh lòe loẹt. Tất cả mớ âm thanh ồn ào và đống đồ đạc đảo lộn diễn ra trong sự quan sát thẳng thừng từ bên cánh trái. Bà cụ không mở miệng nói một lời, ngay cả lúc suýt bị những gã thợ khuân vác đè bẹp hay khi Hoan đứng trước mặt bà, thử bắt chuyện một cách ngạo nghễ và thách thức. Bằng sự im lìm chấp nhận quá đỗi dễ dàng, bà cụ đẩy kẻ mới tới vào một trạng thái rối trí phảng phất nhục nhã. Hơn một lần, Hoan căm tức phàn nàn với Vinh hẳn cái quả táo héo ấy đã đi xuyên qua cô như một mảnh giẻ rách vô hình, nếu có thể.Hoan càng thêm cật lực. Cô nghe thấy nơi các khoảng còn trống trong căn hộ tiếng kèn thôi thúc của vô số đồ đạc cần được hiện diện: máy nghe nhạc, lò nướng bánh, một cái tủ gỗ nhiều ngăn... Thường tối khuya, cô trở về căn hộ, mệt lử. Anh chia sẻ với cô vài suy nghĩ về tiền bạc, sự ràng buộc của đồ vật, ý nghĩa thực chất tối giản về thời gian sống. Hoan nghe lơ đãng, chợt hỏi anh có biết giá tiền dàn máy hát âm thanh vang to, chớp đèn màu da cam là bao nhiêu hay không.Dần dần, theo một cách kỳ dị nào đó, Vinh cũng quen với không gian mới. Sự hỗn độn. Những đồ vật lai tạp nhảy thốc ra ngoài đường biên hài hòa. Tuy nhiên, anh cũng ngờ ngợ cảm giác phấn khích mà những chuẩn mực hoàn hảo không thể đem lại. Chỉ cần một thời gian chung sống ngắn ngủi, Vinh nhận ra Hoan không yếu ớt. Cô chẳng sợ gì sất. Chỉ có một sáng chủ nhật, vang lên tiếng nổ và một con bồ câu bám trên ô thông gió bị bắn thủng cánh, rơi bộp xuống thành cửa. Khi đó, cô như phát rồ lên. Hoan ôm chầm lấy anh. Mặt trắng bệch. Mái tóc nâu trên đỉnh đầu quện mạnh vào cổ Vinh, run rẩy kinh hoàng. Hệt như những chậu cây xanh rờn trong các góc nhà, lũ chim dù bị giết lần mòn vẫn sinh sôi nảy nở bất tận. So sánh khiến anh ngạc nhiên. Nhấc đầu khỏi gối, Hoan nhìn anh bằng đôi mắt trống rỗng. Cô ngồi bật dậy. Đôi vai gầy giơ xương nhô ra trong nắng sáng. Khoảng ngực trắng đầy đặn khác thường thở phập phồng. Đột nhiên, cô ngật đầu ra sau, cười phá lên từng chặp tựa bị động kinh, rồi bắt đầu khóc nức nở. Vinh ôm ghì cô, áp môi lên đôi má buốt cóng nổi rõ những mạch máu li ti. Cô hôn lại anh như điên, từng vuông da ấm nóng dần lên. Ở vào khoảnh khắc quay cuồng nhất, Vinh chợt nghe tiếng động rất nhẹ. Cửa phòng ngủ không khép. Bà cụ chủ căn hộ đang đứng lặng phắc giữa khung cửa, đôi mắt quỷ quyệt trong suốt quan sát mọi hành vi của họ, từ lúc nào không rõ. Ngay cả khi bà ta đã bỏ đi, Hoan vẫn nằm đờ dại, chóp mũi tái xanh, nhưng giọng cô cực kỳ thản nhiên: "Xóa sổ bà lão ra khỏi căn hộ của mình chẳng khó gì".4. Một cách nghiêm túc, Hoan bắt đầu nghĩ đến viễn ảnh cánh trái thuộc về họ. Căn hộ toàn vẹn, nơi cô sẽ có một phòng tắm lát đá rộng ra trò, có máy nước nóng, máy sấy khô tay và tấm gương khổng lồ, không cần chung chạ với ai. Cô nói về nó nhiều đến mức Vinh không phải không lo sợ:- Chúng ta cần tôn trọng hợp đồng. Điều duy nhất và tốt nhất là cùng chờ đợi.- Nếu bà cụ ấy sống mãi, không chết thì sao?- Anh không nghĩ thế - Vinh lạc cả giọng.- Anh là một kẻ sợ hãi, dễ tổn thương và có lý trí, phải không? - Hoan cắn môi, mắt long lanh - Anh phải có mọi thứ trước khi chúng ta kết hôn rồi có con...- Thôi nào, Hoan - Anh hạ thấp giọng - Nếu em già nua, cô độc, người chung quanh cầu mong tống khứ em đi, em sẽ nghĩ gì?- Không gì cả.- Vô lý.- Biết sao được.Cuộc đối thoại để lại trong khoang miệng Vinh một dư vị kỳ quặc. Mất vài tiếng đồng hồ, anh mới nhớ nó rất giống dư vị bải hoải cái ngày anh ngồi ở Starbucks nhìn ra một kẻ vô thừa nhận chết cóng dưới làn mưa buổi sáng. Không sao tập trung vào công việc, anh mở cửa sổ văn phòng, thở. Ngoài kia, vài con bồ câu lẫn những con chim sẻ bay vụt qua các đỉnh cây. Khuất sau các cao ốc kia, rất gần thôi, là căn hộ của anh. Là cái tổ ấm đang thành hình của anh. Và ngay bên trong nó, một cuộc sống khác đang tàn lụi. Chưa bao giờ anh thấy u ám và rối loạn như lúc này. Sâu hút bên dưới, mấy con đường cứ trắng lên, hằn vào mắt anh, nổi rõ mồn một các dòng xe cộ hối hả. Một hình ảnh buồn rầu của đô thị mênh mông. Những chuyển động bất tận. Mỗi con người đều kiếm tìm điều gì đó vừa biết rõ, vừa xa vời. Chẳng ai phải bận tâm đến ai. Mọi thứ chìm vào lãng quên dễ dàng hơn bao giờ hết. Một lớp vỏ mềm mại đầy xoa dịu. Vinh nới rộng cổ áo và nhắm nghiền mắt. Anh về nhà sớm hơn một tiếng. Nhìn từ bên dưới, những ô cửa đóng chặt bất thường. Vinh chạy thục mạng qua các cầu thang ám bụi. Cửa căn hộ khóa từ bên ngoài. Bà cụ đi đâu đó. Anh đẩy cánh cửa gỗ cao và nặng. Bên trong, căn hộ buông rèm kín, sáng lờ mờ. Những đồ vật thô kệch, các chậu cây rậm rạp phả vào không khí mùi nồng hắc, ngột ngạt chưa từng thấy. Mũi giày Vinh vấp phải vật thể trì níu, cứng đơ. Một con bồ câu xám trắng nằm ngửa trên sàn, đôi chân mảnh khảnh co rút nhưng mấy cái móng xòe ra như lời kêu cứu tuyệt vọng. Không có vết thủng đạn bắn. Vinh khó thở. Anh mở tung cửa sổ. Bất giác, anh bước nhanh về phía cánh trái. Cửa khép hờ. Căn phòng hình hộp tối om, nồng nực mùi gas. Vinh lần tìm công tắc. Hiện lên cái bàn nhỏ kê sát tường xếp những chiếc bát úp. Một hộp trà rỗng. Bếp điện và bồn rửa ở góc đối diện cũng sạch trơn. Chỉ có sọt rác đầy ngập những búi lông và xương chim bồ câu. Anh mở thử ngăn kéo trên cùng. Những tập tiền anh thanh toán khi mua căn hộ xếp đầy, phủ bụi, dường như chưa bao giờ bị chạm tới. Mất một lúc, Vinh mới nhận ra anh không một mình. Khuất sau đống chăn màn, bà cụ nhàu nát, trắng bệch nằm bất động. Hơi thở thoi thóp khó nhọc. Vinh gỡ nhẹ khẩu Brawning trong nắm tay siết chặt. Anh kiểm tra ổ đạn. Hệt như những đồ vật khác trong cánh trái, khẩu súng cũng trống rỗng. Anh mở một ngăn kéo khác. Những viên đạn đã sử dụng hết.Sau khi tắt ống dẫn hơi gas, anh bế thốc bà cụ bé choắt như một đứa trẻ, lao xuống bắt tắc-xi, đưa vào bệnh viện. Bác sĩ tin việc hít phải khí gas là một tai nạn. Ông chẩn đoán bà cụ chỉ kiệt sức vì đói nhưng có dấu hiệu khủng hoảng, triệu chứng thường gặp ở người già sống một mình. Khuya, Vinh từ bệnh viện về nhà. Hoan ngồi im, hai tay buông thõng, chờ anh. - Em đã mở gas và khóa chốt cửa ngoài, đúng không? - Vinh kiệt sức.- Không.- Em cố ý!- Em không cố ý - Thình lình cô hét lên.Vinh nằm ngoài sô-pha, cố gắng ngủ. Nhưng không sao ngủ được. Hoan vẫn chưa thôi nức nở từng chặp. Chung quanh anh, những đồ đạc quái dị thở phập phồng. Một giấc mơ phi lý đang kéo dài. Hoặc anh đang phát điên. 5. Ngay khi bà cụ mất, xuất hiện người họ hàng xa - một thanh niên trẻ sang trọng - đến gõ cửa. Xem qua tờ giấy hợp đồng và chủ quyền căn hộ, anh ta chỉ hỏi thêm Vinh về tiền bạc bà cụ để lại. Vinh mở ngăn kéo. Đó là khoảnh khắc duy nhất gương mặt người họ hàng thể hiện đôi chút biểu cảm. Lặng lẽ xếp tiền vào túi, anh ta buông một câu sáo rỗng: "Chúa che chở cho bà ấy ở thiên đàng!". Vinh không buồn, cũng chẳng thấy mỉa mai. Đơn giản anh ta đã không nghĩ gì khi nói điều ấy.Hoan ốm một trận khủng khiếp. Sốt cao chưa từng thấy, nhưng sau đó cơ thể cô lạnh toát, co thắt, ướt đẫm mồ hôi. Vinh gọi điện đến văn phòng, cho biết sẽ nghỉ vài ngày. Anh ngồi im hàng giờ bên giường Hoan, quan sát vùng sáng chuyển dịch không ngừng trên vầng trán, gò má, cằm, rồi xuống khoảng cổ tối tăm. Sẽ ra sao khi gương mặt này sẽ soi bóng suốt phần đời còn lại của anh? Phải chăng các biến cố trong cuộc sống rồi cũng phải mang một chút ý nghĩa nào đó trước khi anh tự an ủi mọi thứ rồi cũng kết thúc? Bên ngoài cửa kính, trời xanh lơ. Một con bồ câu tím nhạt bay đến, đậu ngoài bệ cửa, nghiêng cổ nhìn vào bên trong, đôi mắt tròn xám vô hồn. Với thói quen bị ám nhiễm, anh cho tay vào túi áo bên trái. Khẩu súng nhỏ lạnh toát, im lìm.Vinh mua thêm thức ăn ở siêu thị. Khi anh trở về, đã gần tối. Giường Hoan nằm trống rỗng. Có một giây, máu dưới da anh như đông lại. Nhưng Hoan chỉ ngồi co ro trên sàn, các nhánh lá xanh thẫm đổ bóng trên người. Hướng về anh gương mặt trắng bệch, cô thì thầm: - Em nghĩ anh quyết định bỏ em!- Đừng nghĩ vậy.- Chúng ta sẽ sống cùng nhau mãi, đúng không?- Ừ.- Em chẳng biết ra sao - Đột nhiên Hoan nói hối hả, òa khóc - Em cần gì chứ? Một nơi chốn mà sau những xâu xé ngoài kia, người ta có thể rúc vào và lãng quên. Một ai đó để trông đợi. Chỉ vậy thôi. Nhưng, có thứ gì đó cứ lôi em đi, khiến em trở nên tàn nhẫn...- Chúng ta không nghĩ về việc này nữa - Vinh nói, bình thản hơn.6. Lại một sáng chủ nhật khác. Những tấm rèm như bầy chim khổng lồ sặc sỡ bay thốc lên mỗi lúc gió lùa qua ô cửa. Vinh chăm chú làm việc, đôi khi uống chút cà phê nguội. Hoan tha thẩn trong gian bếp, hát khe khẽ. Tiếng bánh chín trong lò nướng. Tiếng người hát. Tiếng nước chảy lanh tanh. Cảm giác thanh bình dị kỳ. Đôi khi, Hoan nhẹ nhàng rời nhà, cưỡi trên chiếc xe đạp nhỏ, chạy đi đâu đó. Từ cửa sổ, anh đứng dõi theo bóng cô lượn qua góc phố như một vệt sáng rồi khuất hẳn. Mục lục Cánh trái Cánh trái Phan Hồn NhiênChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Theo Thanh NiênĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 5 năm 2007
vanhoc
Lâm Nhất (, sinh ngày 11 tháng 1 năm 1999) là một nam diễn viên, người mẫu người Trung Quốc. Anh nổi tiếng với vai diễn Cố Vị Dịch trong bộ phim chiếu mạng Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta. Tiểu sử và sự nghiệp Lâm Nhất sinh ngày 11 tháng 1 năm 1999 tại Hà Bắc, Trung Quốc. Hiện anh đang theo học tại Đại học Thể thao Bắc Kinh, chuyên ngành Khiêu vũ. Khi Lâm Nhất vẫn đang học năm nhất đại học cậu được người quản lý phát hiện và ký hợp đồng với Hãng Phim Đường Nhân. Kể từ đó, anh được đào tạo chuyên nghiệp về vũ đạo và biểu diễn ở nước ngoài. Lâm Nhất chính thức gia nhập ngành diễn xuất vào năm 2017 với bộ phim Đảo Hy Vọng đồng thời đảm nhận vai phụ cho một số bộ phim truyền hình khác. Đến năm 2019 tên tuổi của của anh được biết đến rộng rãi với vai diễn Cố Vị Dịch trong bộ phim chiếu mạng Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta. Tác phẩm Phim điện ảnh Phim bộ truyền hình Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài Diễn viên Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống
wiki
Soạn bài lớp 12: Thực hành về hàm ý Hướng dẫn Soạn bài lớp 12: Thực hành về hàm ý Soạn bài lớp 12: Thực hành về hàm ý thuộc môn Ngữ Văn lớp 12 được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 12 chuẩn bị cho bài giảng của học kỳ 2 sắp tới đây của mình. Soạn bài lớp 12: Một người Hà Nội Soạn bài lớp 12: Những đứa con trong gia đình THỰC HÀNH VỀ HÀM Ý I. Ôn lại khái niệm về hàm ý Hàm ý: là những nội dung, ý nghĩ mà người nói không nói ra trực tiếp bằng từ ngữ, tuy vẫn có ý định truyền báo đến người nghe. Còn người nghe phải dựa vào nghĩa tường minh của câu và tình huống giao tiếp để suy ra thì mới hiểu đúng, hiểu hết ý của người nói. II. Thực hành về hàm ý Bài tập 1 Lời đáp của A Phủ thiếu thông tin cần thiết nhất của câu hỏi: Số lượng bò bị mất (mất mấy con bò?). A Phủ đã lờ yêu cầu của Pá Tra. Lời đáp có chủ ý thừa thông tin so với yêu cầu của hỏi: A Phủ không nói về số bò bị mất và nói đến công việc dự định và niềm tin của mình (Tôi về lấy súng thế nào cũng bắn được con hổ này to lắm). Cách trả lời của A Phủ có độ khôn khéo: Không trả lời thẳng, gián tiếp công nhận để mất bò. Nói ra dự định “lấy công chuộc tội” (bắn hổ chuộc tội mất bò); chủ ý thể hiện sự tin tưởng bắn được hổ và nói rõ “con hổ này to lắm”. Cách nói hòng chuộc tội, làm giảm cơn giận dữ của Pá Tra. Câu trả lời của A Phủ chứa nhiều hàm ý. Bài tập 2 a. Anh thanh niên đi chệch ra ngoài đề tài “hỏi đường-chỉ đường”, bằng cách đọc thuộc lòng cả một bài dài đến dăm trang giấy về “cuộc trường kì kháng chiến”. Nghĩa là anh ta vi phạm phương châm quan hệ trong hội thoại, đồng thời vi phạm cả phương châm về lượng (nói thừa lượng thông tin). Các thông tin về cuộc kháng chiến không hề liên quan đến đề tài ” hỏi đường-chỉ đường”. Chủ ý tuyên bố một cách hồn nhiên đường lối kháng chiến. Muốn bộc lộ sự kiêu hãnh, tự hào khi được tham gia vào một công cuộc mà ở nông thôn vào thời điểm bấy giờ ít có dịp và ít có người làm được. Đó là cách thể hiện bầu nhiệt huyết, niềm say mê đối với cuộc kháng chiến. Đó là điểm đáng trân trọng, đáng ca ngợi tuy sự bộc lộ không được đúng chỗ (không phù hợp với cuộc thoại) và hơi quá mức độ (nói dài dòng) thừa kượng thông tin mà cuộc thoại cần đến. c. Kết luận: Khi người nói chủ ý vi phạm phương châm quan hệ trong giao tiếp, để hàm ý có tác dụng cần: nói đúng chỗ, phù hợp với cuộc thoại và diễn đạt ngắn gọn, đúng lượng thông tin mà cuộc thoại cần đến. Bài tập 3 Câu hỏi của Bá Kiến với Chí Phèo: “tôi không phải là cái kho” có hàm ý: Từ chối trước lời đề nghị xin tiền như mọi khi của Chí Phèo (cái kho – biểu tưởng của cải, tiền nong, sự giàu có. Tôi không có nhiều tiền). Cách nói vi phạm phương châm cách thức (không nói rõ ràngrành mạch. Nếu nói thẳng thì nói: “Tôi không có tiền để cho anh luôn như mọi khi”). Bài tập 4 a. Lượt lời thứ nhất bà đồ nói: “Ông lấy giấy khổ to mà viết có hơn không?” Câu nói có hình thức hỏi những không nhàm mục đích để hỏi mà nhằm gợi ý một cách lựa chọn cho ông đồ. Qua lượt lời thứ hai của bà đồ chứng tỏ từng lượt lời thứ nhất của bà có hàm ý: Khuyên ông sử dụng giấy cho có lợi ích; cho rằng ông đồ viết văn kém, ông dùng giấy viết văn chỉ thêm lãng phí, hay bỏ phí giấy, vứt giấy đi một cách lãng phí. b. Bà đồ chọn cách nói có hàm ý vì lí do tế nhị, lịch sự đối với chồng, bà không muốn trực tiếp chê văn của chồng mà thông qua lời khuyên để gợi ý cho ông đồ lựa chọn. III. Cách thức tạo câu có hàm ý Để có một câu có hàm ý, người ta thường dùng một cách nói chủ ý vi phạm một (hoặc một số) phương châm hội thoại nào đó, sử dụng các hành động nói gián tiếp; chủ ý vi phạm phương châm về lượng, nói thừa hoặc thiếu thông tin mà đề tài yêu cầu; chủ ý vi phạm phương châm quan hệ, đi chệch đề tài cuộc giao tiếp; chủ ý vi phạm phản cách thức, nói mập mờ, vòng vo, không không rõ ràng rành mạch. Bài tập 1 Trong lượt mở đầu cuộc thoại, bác Phô gái van xin: “Thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng nữa”. Lời đáp của ông lí mang sắc thái mỉa mai, giễu cợt (Ồ, việc quan không phải thứ chuyện đàn bà của các chị). Nếu là cách đáp thường minh phù hợp thì phải là lời chấp nhận sự van xin hoặc từ chối, phủ nhận sự van xin. Lời của ông Lí không đáp ứng trực tiếo sự van xin của bác Phô mà từ chối một cách dán tiếp. Đồng thời mang sắc thái biểu cảm: Bộc lộ quyền uy, thể hiện sự từ chối van xin, biểu lộ thái độ mỉa mai, giễu cợt cách suy nghĩ của đàn bà. Đấy là chứng minh cho tính hàm súc củ câu có hàm ý. Bài tập 2 a. Câu hỏi đầu tiên của Từ: “Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba đây rồi mình nhỉ?”. Không phải chỉ hỏi về thời gian mà thực chất, thông qua đó Từ muốn nhắc khéo chồng nhớ đến ngày đi nhận tiền (hàng tháng cứ vào kì đầu tháng thì chồng Từ đều đi nhận tiền nhuận bút). b. Câu nhắc khéo thứ hai: “Hèn nào mà sáng nay em thấy người thu tiền nhà đã đến…”. Từ không nói trực tiếp đến việc trả tiền nhà. Từ muốn nhắc Hộ đi nhận tiền về để trả các khoản nợ (chủ ý vi phạm phương châm cách thức). c. Tác dụng cách nói của Từ: Từ thể hiện ý muốn của mình thông qua câu hỏi bóng gió về ngày tháng, nhắc khéo đến một sự việc có liên quan (người thu tiền nhà)… Cách nói nhẹ nhàng, xa xôi nhưng vẫn đạt được mục đích. Nó tránh được ấn tượng nặng nề, làm dịu đi không khí căng thẳng trong quan hệ vợ chồng khi lâm vào tình cảnh khó khăn. a. Câu trả lời thứ nhất của anh chàng mua kính: “Kính tốt thì đọc được chữ rồi” – chứng tỏ anh ta quan niệm kính tốt thì phải giúp cho con người đọc được chữ. Từ đó suy ra, kính không giúp con người đọc được chữ là kính xấu. Anh ta chê mọi cặp kính của nhà hàng vì không có cặp kính nào giúp anh ta đọc được chữ. b. Câu trả lời thứ hai: “Biết chữ thì đã không cần mua kính”. Câu trả lời này giúp người đọc xác định được anh ta là người không biết chữ (vì không biết chữ nên mới cần mua kính). Cách trả lời vừa đáp ứng được câu hỏi, vừa giúp anh ta giữ được thể diện. Bài tập 4: Lớp nghĩa tường minh và hàm nghĩa của bài thơ Sóng. Lớp nghĩa tường minh: Cảm nhận và miêu tả hiện tượng sống biển với những đặc điểm trạng thái của nó. Lớp nghĩa hàm ý: Vẻ đẹp tâm hồn của người thiếu nữ đang yêu: đắm say, nồng nàn, tin yêu. Tác phẩm văn học dùng cách thể hiện có hàm ý sẽ tạo nên tính hàm súc, tư tưởng của tác giả một cách tinh tế, sâu sắc. Bài tập 5: Cách trả lời có hàm ý cho câu hỏi: “Cậu có thích truyện Chí Phèo của Nam Cao không?”. Ai mà chẳng thích? Hàng chất lượng cao đấy! Xưa như Trái Đất rồi! Ví đem vào tập đoạn trường Thì treo giải nhất chi nhường cho ai? V. Tổng kết Tác dụng và hiệu quả của cách nói có hàm ý: Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, hàm ý có thể mang lại: Tính hàm súc cho lời nói: lời nói ngắn gọn mà chất chứa nhiều nội dung, ý nghĩa. Hiệu quả mạnh mẽ, sâu sắc với người nghe. Sự vô can, không phải chịu trách nhiệm của người nói về hàm ý (vì hàm ý là do người nghe suy ra..). Tính lịch sự và thể diện tốt đẹp trong giao tiếp bằng ngôn ngữ.
vanhoc
Đề bài: Viết một đoạn văn nói về anh, chị, em của em Bài mẫu 1 Chị Ly là con của bác Ngọc. Chị rất xinh xắn và học giỏi. Năm nay chị 19 tuổi, là sinh viên năm thứ hai Trường đại học Y Hà Nội. Chị đã dạy em đánh vần và tập viết năm em lên 6 tuổi. Chị vẫn nói với em:" Hương cố học giỏi sau này lên Hà Nội học đại học như chị". Bài văn nói về anh chị em Bài mẫu 2 Em trai của em lên bốn tuổi, tên là Quang. Nó béo tròn nên cả nhà gọi nó là cu Mít. Nước da nó trắng hồng, tóc tơ, vầng trán rộng, đôi mắt đen trong sáng. Nó thích đá bóng và đùa với con mèo mun. Bố mẹ và em rất yêu quý cu Mít. Em Quang vẫn hát:" Bé bé bằng bông, hai má hồng hồng..". Em vừa hát vừa múa. Đôi chân vòng kiềng nhún nhảy thật ngộ nghĩnh.
vanhoc
Cành cạch đen, tên khoa học Hypsipetes leucocephalus, là một loài chim trong họ Pycnonotidae. Phân loài Mười phân loài được ghi nhận: H. l. psaroides - Vigors, 1831: Originally described as a separate species. Found along the Himalayas from the Kunar Valley (north-eastern Afghanistan) and northern Pakistan through Arunachal Pradesh (northern India) and the central Himalayas to north-western Myanmar 'H. l. nigrescens - Baker, ECS, 1917: Found in Assam và Manipur (north-eastern India), and the Chin Hills (western Myanmar) H. l. concolor - Blyth, 1849: Originally described as a separate species. Found from eastern Myanmar and southern Vân Nam (southern China) through Indochina H. l. ambiens - (Mayr, 1942): Found in north-eastern Myanmar and western Yunnan (southern China) H. l. sinensis - (La Touche, 1922): Found in northern Yunnan (southern China) H. l. stresemanni - (Mayr, 1942): Members of this race have white heads. Found in central Yunnan (southern China) H. l. leucothorax - (Mayr, 1942): Members of this race have white heads. Found in central China H. l. leucocephalus - (Gmelin, JF, 1789): Members of this race have white heads. Found in south-eastern China H. l. nigerrimus - (Gould, 1863): Originally described as a separate species. Found in Taiwan H. l. perniger - Swinhoe, 1870: Originally described as a separate species. Found on Hainan (off south-eastern China) Chú thích Tham khảo L Động vật được mô tả năm 1789 Chim Nepal Chim Đông Nam Á
wiki
Vận trù học là một nhánh liên ngành của toán học ứng dụng và khoa học hình thức, sử dụng các phương pháp giải tích tiên tiến như mô hình toán học, giải tích thống kê, và tối ưu hóa để tìm ra được lời giải tối ưu hoặc gần tối ưu của những vấn đề ra quyết định phức tạp (phức hợp). Bài toán thường đề cập đến xác định kết quả cực đại (của lợi nhuận, hoạt động, hoặc sản lượng) hay cực tiểu (của lãng phí, rủi ro, hoặc chi phí) của một số đối tượng trong thực tế. Ngoài ra vận trù học còn nghiên cứu phân tích các cấu trúc tình huống phức tạp, tiên đoán được hành vi của hệ, nhờ đó có thể nâng cao khả năng hoạt động của hệ. Vận trù học có nguồn gốc từ các nghiên cứu trong quân sự trước chiến tranh thế giới lần hai, và các kỹ thuật của nó đã được phát triển để có thể áp dụng trong nhiều ngành công nghiệp. Tổng quan Vận trù học chứa đựng một lớp rộng các kĩ thuật giải vấn đề và phương pháp áp dụng trong mục tiêu nâng cao và có hiệu quả trong việc ra quyết định. Một số công cụ dùng trong vận trù học là thống kê, tối ưu hóa, lý thuyết xác suất, lý thuyết hàng đợi (lý thuyết phục vụ đám đông), lý thuyết trò chơi, lý thuyết đồ thị, phân tích quyết định, mô hình toán học và mô phỏng. Bởi vì bản chất của những phương pháp này là tính toán và số hóa, vận trù học cũng liên hệ chặt chẽ với khoa học máy tính. Các nhà nghiên cứu vận trù học phải đối mặt với vấn đề mới đó là trong những kỹ thuật trên thì kỹ thuật nào miêu tả sát nhất với bản chất của hệ thống, với mục tiêu nâng cấp cũng như bị hạn chế về thời gian và khả năng tính toán của các máy tính. Nghiên cứu trong vận trù học và khoa học quản lý có thể phân loại thành ba lĩnh vực chính như sau: Nghiên cứu cơ sở hoặc nền tảng trong ba lĩnh vực của toán học: Xác suất, tối ưu hóa, và lý thuyết hệ động lực. Nghiên cứu mô hình trong việc thiết lập mô hình, phân tích chúng về mặt toán học, mã hóa chúng lên máy tính, giải chúng bằng các công cụ phần mềm, đánh giá hiệu quả thu được từ dữ liệu máy tính. Mức này chủ yếu nhờ máy tính và được định hướng chính bởi xác suất và kinh tế lượng. Nghiên cứu ứng dụng trong vận trù học, giống như trong các ngành kĩ thuật và kinh tế, sử dụng các mô hình thu được để áp dụng cho các vấn đề thực tế. Các nhánh con chính trong vận trù học hiện đại, được phân loại dựa theo tạp chí Operations Research, là: Tính toán và công nghệ thông tin Phân tích quyết định Môi trường, năng lượng, và tài nguyên thiên nhiên Kĩ thuật tài chính Sản xuất, khoa học phục vụ, và quản lý chuỗi cung ứng Chính sách quản lý và khu vực công cộng Quản lý doanh thu Mô phỏng Mô hình ngẫu nhiên Giao thông vận tải Lịch sử Chú thích Tham khảo Kirby, M. W. (Operational Research Society (Great Britain)). Operational Research in War and Peace: The British Experience from the 1930s to 1970, Imperial College Press, 2003. ISBN 1860943667, 9781860943669 Đọc thêm C. West Churchman, Russell L. Ackoff & E. L. Arnoff, Introduction to Operations Research, New York: J. Wiley and Sons, 1957 Joseph G. Ecker & Michael Kupferschmid, Introduction to Operations Research, Krieger Publishing Co. Frederick S. Hillier & Gerald J. Lieberman, Introduction to Operations Research, McGraw-Hill: Boston MA; 8th. (International) Edition, 2005 Maurice W. Kirby, Operational Research in War and Peace, Imperial College Press, London, 2003 Michael Pidd, Tools for Thinking: Modelling in Management Science, J. Wiley & Sons Ltd., Chichester; 2nd. Edition, 2003 Hamdy A. Taha, Operations Research: An Introduction, Prentice Hall; 9th. Edition, 2011 Wayne Winston, Operations Research: Applications and Algorithms, Duxbury Press; 4th. Edition, 2003 Kenneth R. Baker, Dean H. Kropp (1985). Management Science: An Introduction to the Use of Decision Models Stafford Beer (1967). Management Science: The Business Use of Operations Research David Charles Heinze (1982). Management Science: Introductory Concepts and Applications Lee J. Krajewski, Howard E. Thompson (1981). "Management Science: Quantitative Methods in Context" Thomas W. Knowles (1989). Management science: Building and Using Models Kamlesh Mathur, Daniel Solow (1994). Management Science: The Art of Decision Making Laurence J. Moore, Sang M. Lee, Bernard W. Taylor (1993). Management Science William Thomas Morris (1968). Management Science: A Bayesian Introduction. William E. Pinney, Donald B. McWilliams (1987). Management Science: An Introduction to Quantitative Analysis for Management Gerald E. Thompson (1982). ''Management Science: An Introduction to Modern Quantitative Analysis and Decision Making. New York: McGraw-Hill Publishing Co. Liên kết ngoài INFORMS OR/MS Resource Collection : a comprehensive set of OR links. International Federation of Operational Research Societies Occupational Outlook Handbook, U.S. Department of Labor Bureau of Labor Statistics "Operation Everything: It Stocks Your Grocery Store, Schedules Your Favorite Team's Games, and Helps Plan Your Vacation. The Most Influential Academic Discipline You've Never Heard Of." Boston Globe, ngày 27 tháng 6 năm 2004 "Optimal Results: IT-powered advances in operations research can enhance business processes and boost the corporate bottom line." Computerworld, ngày 20 tháng 11 năm 2000 Toán học ứng dụng Khoa học Toán học Quản lý Tối ưu hóa (toán học) Chuyên ngành kỹ thuật Ngành ứng dụng thống kê
wiki
HMS Frobisher là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Hawkins. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, việc chế tạo nó chỉ có độ ưu tiên thấp, và nó chỉ được đưa ra hoạt động vào năm 1924. Cuộc đời phục vụ kéo dài cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, và nó đã tham gia hoạt động tại Ấn Độ Dương và trong cuộc đổ bộ vào Normandy, rồi là một tàu huấn luyện cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1949. Thiết kế và chế tạo Frobisher được chế tạo tại Xưởng tàu Devonport và được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1920. Công việc hoàn tất nó bị kéo dài trong nhiều năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, và nó chỉ được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 9 năm 1924. Lịch sử hoạt động Giữa hai cuộc thế chiến Frobisher được bố trí phục vụ cùng Hạm đội Địa Trung Hải như là soái hạm của Hải đội Tuần dương 1. Nó được tạm thời cho tách ra để phục vụ tại China Station vào năm 1926. Vào năm 1927 Frobisher trải qua một đợt tái trang bị thay thế một khẩu pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V, được bố trí lại giữa các ống khói, cùng với một khẩu pháo thứ tư, một máy phóng và một cần cẩu. Một đợt tái trang bị khác vào năm 1929 cho phép Frobisher sử dụng các nồi hơi đốt dầu, và sau đó nó được bố trí gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương. Vào tháng 11 năm 1930, Frobisher được đưa về lực lượng dự bị trước khi được cải biến thành một tàu huấn luyện dành cho học viên sĩ quan, và trong vai trò này nó đã tiếp tục phục vụ từ năm 1932 đến năm 1939. Nó được cho ngừng hoạt động từ đầu năm 1939 cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Vào tháng 1 năm 1940 Frobisher bắt đầu một đợt tái trang bị rộng rãi, trang bị năm khẩu pháo 190 mm (7,5 inch), bốn khẩu pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V, các khẩu pháo phòng không QF 2 pounder pom-pom bốn nòng và 19 pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Chiến tranh Thế giới thứ hai Frobisher gia nhập Hải đội Tuần dương 4 thuộc Hạm đội Viễn Đông Anh Quốc vào tháng 3 năm 1942 và thực hiện các hoạt động tại Ấn Độ Dương, hộ tống các đoàn tàu vận tải chung quanh bờ biển châu Phi và trải qua những đợt bảo trì ngắn trong ụ tàu Selborne tại Simonstown thuộc Nam Phi. Frobisher được điều động quay trở về Anh Quốc vào tháng 3 năm 1944; và đã tham gia trong chiến dịch Neptune vào ngày 6 tháng 6 trong thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm D Phương Tây hỗ trợ bắn pháo lên bãi Sword trong cuộc Đổ bộ Normandy. Trong dịp này nó được cho là đã bắn dàn pháo chính BL 190 mm (7,5 inch) Mark VI với tốc độ năm phát mỗi phút cho dù phải nạp đạn bằng tay. Cuối tháng đó, nó được bố trí như là tàu tiếp liệu cho các tàu phóng lôi bảo vệ lực lượng hải quân. Vào tháng 8, nó cùng với chiếc tàu sửa chữa HMAS Albatross bị hư hại bởi ngư lôi tầm xa phóng từ những chiếc E-boat của Đức trong vịnh Seine. Sau đó Frobisher bị giải giáp một phần và được cải biến thành một tàu huấn luyện học viên sĩ quan. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 26 tháng 3 năm 1949, và được cho kéo đến Newport để được tháo dỡ bắt đầu từ ngày 11 tháng 5 năm đó. Chú thích Tham khảo British and Empire Warships of the Second World War, H T Lenton, Greenhill Books, ISBN 1-85367-277-7 Conway's All the World's Fighting Ships, 1922-1946, Ed. Robert Gardiner, Naval Institute Press, ISBN 0-87021-913-8 Whitley, M. J., Cruisers of World War Two, Brockhampton Press, Great Britain: 1995. ISBN 1-86019-874-0 Jane's Fighting Ships of World War One (1919), Jane's Publishing Company HMS Frobisher at U-boat.net Lớp tàu tuần dương Hawkins Tàu tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Tàu tuần dương trong Thế Chiến II Đổ bộ Normandy
wiki
Takuanzuke (; còn viết là takuwan) hay takuan-zuke (; 'takuan ngâm') hoặc danmuji () trong văn hóa ẩm thực Hàn Quốc, là một món ăn kèm phổ biến của ẩm thực truyền thống Nhật Bản, thường được phục vụ ăn sống cùng với các loại tsukemono ('đồ ngâm') khác. Món ăn này cũng thường được dùng vào cuối bữa ăn vì công dụng được cho là hỗ trợ tiêu hóa. Giá trị dinh dưỡng, kết cấu, màu sắc và hương vị khác nhau tùy thuộc vào cách thức chế biến, chẳng hạn như củ cải sấy khô và ngâm trong cám, củ cải muối mà không sấy khô hoặc ngâm trong dung dịch gia vị. Nguồn gốc Có giả thuyết rằng món này được thiền sư Nhật Bản Trạch Am Tông Bành (1573-1646) nghĩ ra vào thời Edo. Tại đền Tokaiji nơi ông thành lập, một lần tướng quân Tokugawa Iemitsu đến đây và rất thích món này, ông thưa rằng "Lúc đầu, nó là một món muối chua không tên", tương truyền tướng quân đã nói: Nếu không có tên, vậy sẽ hãy gọi là Takuanzuke. Một giả thuyết khác cho rằng nguồn gốc tên do hình dạng mộ của thiền sư tương tự giống với đá muối loại củ cải này. Theo một thuyết khác, ban đầu người ta nói rằng "ja ku an-dzuke" hay "takuwaedzuke (takuwae dzuke)" có nghĩa là "thứ bất khả xâm phạm".. Củ cải ngâm này được phổ biến không chỉ ở Edo mà còn ở Kyoto và Kyushu trong thế kỷ 18.。 Ngoài ra, núi Hiei cũng có loại chiếc dưa muối tên là "Shoshinbo" (定心房, じょうしんぼう), được cho là đã được phát minh vào thời Heian bởi Ryogen (912-985). Người ta nói rằng củ cải khô được ngâm với muối và rơm nhưng những gì hiện được bán là "Seishinbo Takuan" là loại củ cải ngâm với cám nói chung. Thực phẩm nặng mùi Củ cải vàng được lên men, có một mùi đặc biệt khiến người nước ngoài cảm thấy khó ngửi. Nhà thám hiểm nữ, Isabella Bird mô tả trong cuốn sách "Hành trình đến Nhật Bản" của mình, "Khi ai đó đang ăn món này, họ không thể ở cùng nhà và chắc chỉ có con chồn hôi mới có mùi tệ hơn thế này." Tham khảo Món ăn Nhật Bản
wiki
Garena là nhà phát hành trò chơi trực tuyến của Singapore. Công ty phân phối các tựa game trên internet ở nhiều quốc gia tại châu Á cũng như châu Âu và châu Mỹ, bao gồm các trò chơi đấu trường trực tuyến nhiều người chơi (MOBA) như Heroes of Newerth, trò chơi bóng đá trực tuyến FIFA Online 4, trò chơi MOBA di động Liên Quân Mobile, trò chơi nhập vai Blade & Soul và nổi tiếng nhất là Liên Minh Huyền Thoại (nhưng đã trao lại quyền phát hành cho Riot Games và VNG từ ngày 6/1/2023). Năm 2017, phát hành Garena Free Fire, với hơn 80 triệu người chơi hoạt động mỗi ngày tính đến tháng 5 năm 2020. Vào năm 2019, Garena đã công bố kế hoạch tổ chức lại các lợi ích khác nhau của mình với tư cách là một tập đoàn trực thuộc Sea Limited. Garena hiện là một trong những công ty con của Sea Limited (chẳng hạn như công ty thương mại điện tử Shopee) và tiếp tục là công ty bảo trợ cho lợi ích chơi game của Sea Limited. Garena hiện vẫn còn đang vướng vào lùm xùm vào việc phát triển các tựa game gây ức chế với một số người dùng và game thủ nói chung. Lịch sử Garena (sự kết hợp của hai từ "Global" và "Arena") được thành lập tại Singapore vào năm 2009. Sản phẩm đầu tiên của nó, được ra mắt vào năm 2010 là Garena +, một nền tảng trò chơi trực tuyến và mạng xã hội để mọi người khám phá, tải xuống và chơi trò chơi trực tuyến. Vào tháng 11 năm 2011, Garena tuyên bố rằng họ có quyền xuất bản cho trò chơi bắn súng theo đội Firefall ở Đông Nam Á và Đài Loan. Vào tháng 12 năm 2011, Garena đã công bố sự hợp tác của họ với nhà phát triển trò chơi trực tuyến Changyou để xuất bản và vận hành trò chơi võ thuật 3D nổi tiếng Duke of Mount Deer tại Đài Loan. Trò chơi là MMORPG đầu tiên có sẵn thông qua Garena +. Kết hợp một câu chuyện cổ điển của Trung Quốc với công nghệ dựng hình 3D mới nhất và đồ họa chất lượng điện ảnh, Duke of Mount Deer được tạo ra bởi một số chuyên gia chơi game trực tuyến hàng đầu từ Trung Quốc và Hàn Quốc và đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Cũng trong tháng 12 năm 2011, Giám đốc điều hành của Garena, Forrest Li, đã phát hành chế độ trò chơi "Thống lĩnh" cho người chơi Liên minh huyền thoại của Garena tại Singapore và Malaysia. Năm 2014, Báo cáo khởi nghiệp thế giới đã đánh giá Garena là một công ty internet tỷ đô và xếp hạng nó là công ty internet lớn nhất tại Singapore. Vào tháng 3 năm 2015, Quỹ Hưu trí Giáo viên Ontario (OTPP), một trong những quỹ hưu trí lớn nhất thế giới, đã đầu tư vào Garena, đưa giá trị công ty lên mức hơn 2,5 tỷ USD. Vào tháng 8 năm 2015, Garena đã thông báo rằng BlackShot sẽ ngừng hoạt động vào nửa đêm ngày 1 tháng 9, vì không thể gia hạn giấy phép phân phối. Do đó, tất cả các quyền phân phối trò chơi đã được trả lại cho Vertigo Games, công ty đã thiết lập PlayOne Asia để xử lý việc phân phối trò chơi. Sau đó, Garena đã xuất bản một FPS khác có tên Alliance of Valiant Arms. Vào tháng 5 năm 2017, công ty cổ phần tập đoàn Garena đã được đổi tên thành Sea Limited. Tuy nhiên, Garena vẫn được giữ lại như một thương hiệu. Sea Limited, đã nộp đơn chào mua công khai lần đầu trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) vào tháng 10 năm 2017 nhằm mục đích huy động 1 tỷ đô la Mỹ. Trước khi IPO, Tencent là cổ đông lớn của Sea Limited, với 39,7% cổ phần. Tiếp theo là liên doanh Blue Dolphins, được thành lập bởi Forrest Li, người sáng lập Garena, với 15%. Li cá nhân sở hữu 20% cổ phần, và Giám đốc Công nghệ, Gang Ye, sở hữu 10%. Garena mua lại Phoenix Labs có trụ sở tại Vancouver, nhà phát triển của Dauntless, vào tháng 1 năm 2020. Việc mua lại không ảnh hưởng đến hoạt động của Phoenix Labs hoặc Dauntless nhưng đã giúp Garena mở rộng sự hiện diện quốc tế. Sản phẩm Garena Client (trước đây là Garena +) là một nền tảng phân phối game trực tuyến và mạng xã hội, có giao diện tương tự như các nền tảng nhắn tin tức thời khác. Garena Client cho phép game thủ phát triển danh sách bạn bè, trò chuyện với bạn bè trực tuyến và kiểm tra tiến trình cũng như thành tích của trò chơi. Game thủ có thể tạo sự bản sắc riệng của mình bằng cách tùy chỉnh ảnh đại diện hoặc thay đổi tên. Game thủ cũng có thể thành lập nhóm hoặc clan và trò chuyện với nhiều game thủ cùng lúc thông qua các kênh công khai hoặc riêng tư thông qua Garena Client. Người dùng Garena Client sử dụng một loại tiền ảo là Sò. Các sản phẩm khác bao gồm BeeTalk, TalkTalk, Shopee, TopPay, Garena Live (Nay là Booyah Live), LAN Client (trước đây được tích hợp vào Garena +). Sự kiện và giải đấu Vào tháng 5 năm 2012, Garena đã ra mắt Garena Premier League (GPL), một giải đấu game chuyên nghiệp trực tuyến kéo dài sáu tháng với hơn 100 trận đấu sẽ được diễn ra. Mùa giải đầu tiên của GPL là giải đấu Liên minh huyền thoại bao gồm sáu đội chuyên nghiệp. Các đội gồm: Bangkok Titans, KL Hunters, Manila Eagles, Saigon Jokers, Taipei Assassins và Singapore Sentinels, đại diện cho những người chơi hàng đầu từ các quốc gia tương ứng. Các trận đấu GPL được ghi lại và phát trực tuyến cùng với các bình luận, có sẵn cho người xem trên trang web chính thức của GPL. Vào tháng 1 năm 2013, Garena tuyên bố mùa giải thứ hai của Garena Premier League sẽ bắt đầu vào ngày 4 tháng 1 năm 2013. Garena Premier League 2013 bao gồm hai đội mới đến từ Đài Loan và Việt Nam, nâng tổng số đội lên tám. Các đội gồm: AHQ, Saigon Fantastic Five (SF5), Bangkok Titans, KL Hunters, Manila Eagles, Saigon Jokers, Taipei Assassins và Singapore Sentinels. Vào tháng 11 năm 2014, Sân vận động thể thao điện tử Garena, một địa điểm dành riêng cho môn thể thao điện tử, đã khai trương tại quận Nội Hồ, Đài Bắc. Trường quay được xây dựng một phần để phục vụ sự khởi đầu của giải đấu Liên minh huyền thoại Masters Series, giải đấu cấp cao nhất Đài Loan, Hồng Kông và Macau, là một sản phẩm phụ của giải đấu GPL. Vào tháng 1 năm 2015, Garena đã ra mắt Iron Solari League, một giải đấu Liên minh huyền thoại dành cho phụ nữ ở Philippines. Đây là một sự kiện hàng tháng được tổ chức vào nửa cuối mỗi tháng. Nhằm mục đích khuyến khích sự tham gia của các nhóm ít được chú ý và dành cho tất cả những người tự nhận mình là nữ. Bên cạnh các giải đấu cạnh tranh, Garena còn tổ chức các sự kiện để phục vụ người dùng gặp gỡ và kết nối ngoại tuyến, bao gồm lễ hội Garena Carnival hàng năm được tổ chức tại Singapore và Malaysia. Bắt đầu từ năm 2019, Garena chính thức trở thành đơn vị tổ chức Giải đấu Free Fire World Series cho tựa game Free Fire. Năm 2021, Free Fire World Series trở thành sự kiện thể thao điện tử được xem nhiều nhất trong lịch sử với hơn 5,4 triệu người xem đỉnh điểm, vượt qua Giải vô địch thế giới Liên minh huyền thoại có 4 triệu người xem cao nhất. Tranh cãi Vào ngày 3 tháng 2 năm 2015, Garena eSports đã công bố những hạn chế về số lượng người đồng tính nam và chuyển giới tham gia giải đấu Liên Minh Huyền Thoại chỉ dành cho phụ nữ, do lo ngại rằng những người tham gia LGBT có thể có "lợi thế không công bằng". Điều này dẫn đến việc các game thủ đặt câu hỏi về quyết định này, trong khi nhà phát triển Liên Minh Huyền Thoại là Riot Games trả lời rằng "Người chơi LGBT được chào đón tại các giải eSport Liên Minh Huyền Thoại chính thức". Vào ngày 4 tháng 2 năm 2015, Garena đã xin lỗi và sau đó đã gỡ bỏ các hạn chế. Danh sách trò chơi phát hành Garena cung cấp nền tảng cho một số các trò chơi như Defense of the Ancients và Age of Empires, đồng thời xuất bản một số các trò chơi cao cấp, bao gồm các trò chơi đấu trường trận chiến trực tuyến nhiều người chơi như Heroes of Newerth và Free Fire, Call of Duty, FIFA Online 4, Liên Minh Huyền Thoại cho người chơi trong khu vực. Trò chơi do Garena phát hành và từng phát hành : Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức tại Việt Nam Windows games Video game companies established in 2009 Media companies established in 2009 2009 establishments in Singapore Windows-only software Multiplayer video game services Companies of Singapore Singaporean social networking websites Singaporean brands Tencent Phần mềm chỉ cho Windows
wiki
Emerich Juettner (tháng 1 năm 1876 - 4 tháng 1 năm 1955), còn được gọi là Edward Mueller hoặc Mister 880, là một người nhập cư người Mỹ gốc Áo nổi tiếng với việc làm giả tờ 1 đô la Mỹ và trốn tránh Mật vụ Hoa Kỳ trong một thập kỷ, từ 1938 đến 1948. Khi bị bắt, ông công khai thừa nhận hành động của mình, nói thêm rằng ông chưa bao giờ đưa nhiều hơn một tờ tiền giả cho bất kỳ ai, vì vậy không có ai mất hơn một đô la. Ông bị kết án một năm và một ngày trong tù, và phạt một đô la, và sau đó bán quyền tác giả cho câu chuyện của anh ta, từ đó một bộ phim hài giành giải thưởng được thực hiện. Tiểu sử Emerich Juettner sinh vào tháng 1 năm 1876 tại Áo trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động. Ông là con lớn nhất trong 4 anh chị em, có hai em trai và một em gái. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1890, ở tuổi 13, ông đến New York. Ông tìm được công việc là một người vẽ khung hình trước khi kết hôn với Florence LeMein vào năm 1902 khi 26 tuổi. Vợ Juettner sinh một đứa con trai, Walter vào năm 1903 và một cô con gái, Florence, vào năm 1918. Để hỗ trợ gia đình, Juettner bắt đầu làm nhân viên bảo trì và xây dựng tổng giám đốc ở Upper East Side của New York. Công việc của ông cho phép ông và gia đình được thuê nhà miễn phí dưới tầng hầm của tòa nhà nơi ông làm việc. Sau khi vợ mất năm 1937, Juettner trở thành người thu gom rác. Kế hoạch Sau cái chết của vợ, Juettner bị hạn chế về tài chính. Năm 1938, Juettner bắt đầu sử dụng mười đến mười hai tờ tiền giả tự chế mỗi tuần tại một số cửa hàng chọn lọc trong khu phố Manhattan. Trong mười năm sau đó, Juettner tiếp tục sử dụng các hóa đơn giả của mình một cách tiết kiệm, không bao giờ lặp lại vị trí cửa hàng hoặc tiền giả. Các tờ tiền giả luôn được in với chất lượng kém trên giấy rẻ tiền và bao gồm các chi tiết như Washington được đánh vần là "Wasihngton". Tham khảo Mất năm 1955 Sinh năm 1876
wiki
Nguyễn Thị Thu Huệ Với tay là đến Càng đi càng xa. Hoá ra. Con đường thân thuộc nhất, gần gũi nhất gắn bó dài tuổi thơ, khi bắt đầu là một bào thai, tấp tểnh tròn co trong bụng mẹ, sấp ngửa lên xuống như sóng biển sáng dâng chiều rút, hay lúc chạy cá ngoài bãi mỗi khi thuyền về. Thế mà bây giờ. Đại Dương - bào thai bé bỏng ngày ấy - không nghe, không biết không trông thấy gì.Vừa đi qua nhà mà cứ như nhà ở hành tinh khác. Bố mẹ ở ngoài biển. Lạc đã dỡ về, phơi chật kín lối vào. Ngóng vu vơ nhà hàng xóm, tịch không có bóng người. Mùa làm ăn, trẻ già lớn bé ra biển tuốt tuột. Cứ ra biển là có tiền.Chiếc xe Honda Accord đời mới lừ lừ trôi trên con đường nhỏ, phẳng. Kính xe đen. Người trong xe nhìn ra thấy tất. Người ngoài chịu. Đại Dương chăm chăm nhìn chợ chiều riu riu trong những tia nắng quái tai ác sau một ngày nung đốt. Chợ chiều.Dương nhớ ngày xưa. Sao bỗng nhiên tất cả lại xếp hàng thẳng trở về trong trí nhớ thế này nhỉ. Hay bị kỷ niệm chi phối, là người uỷ mị, yếu lòng. Hoặc là người gần đất xa trời, hoặc biết mình sắp trắng tay, phá sản. Ngày xưa. Mẹ gánh Dương một bên, gánh tép một bên, đung đưa, đung đưa từ chợ chiều về.Qua khu chợ. Qua rặng phi lao. Là biển.Ngày xưa. Lúc mới biết chạy. Mẹ hay thả Dương bập bõm bước trên cát, gần với mép sóng. Thỉnh thoảng, có một con sóng nhẹ nhàng, cố cố chạy vào liếm chân thằng bé một cái. Lúc đầu. Nó sợ. Sau quen. Cứ mỗi khi mẹ cắp nách ra bãi là cậu tụt xuốt, chạy lao ra biển, lăn lộn như một con cá gặp nước. Không có nước. Nó sẽ chết khô. Đã nghe tiếng biển ì ầm ngoài xa. Nặng nặng một âm thanh muôn thủa, đều đều nhưng quyến rũ, lôi kéo vô cùng. Hàng quán hai bên đường mọc nhanh như cỏ dại sau mưa. Cần thì phục vụ thêm món tự có. Miễn là ra tiền. Nhà nào cũng treo đung đưa trong gió những áo tắm, quần bơi loại rẻ tiền, mạt hạng, mặc một vụ nghỉ là vứt. Vài lốp xe ô tô bơm căng làm phao. Mực khô. Cá khô. Nước mắm. Tôm ghẹ... buộc chặt mắt thao láo, chân đủ tám cái ngọ nguậy chứng tỏ sự sống. Và cạnh đó. Là hàng sống. Những cô gái quê phốp pháp. Ngực to. Bàn tay bàn chân to. Mặt phấn son rẻ tiền không biết trang điểm lem nhem, xanh ra xanh, đỏ ra đỏ. Đánh phấn dày như trát xi măng trứng cá vẫn nghênh ngang ngạo nghễ ngẩng cao đầu... Ngẩn ngơ đần độn ngồi dãi thẻ chả ra bán tôm cua cá mực, nước mắm. Mạnh ai nấy ngồi, mặt ai ngu người ấy chịu. Thấy có chiếc ôtô xịn lừ lừ trôi trên con đường nhỏ, các cô không ai bảo ai, cùng loé lên trong đầu là khách đang đi săn hàng, chạy túa ra vẫy.Chiếc xe như điếc, như câm, chạy lừ lừ rất quen ra trước biển.2. Hơi thuốc Vinataba nặng xộc thẳng lên óc một tia chói gắt, đắng nghét. Hai sống mũi cay. Trán bỗng nhức nhối. Mắt hoa và cổ họng khô. Hơi thuốc đầu tiên trong đời luôn để lại những ám ảnh nặng nề, dù cho bây giờ, thuốc lá hạng nặng nhất cũng chỉ giúp cậu tan bớt cơn vật trong lúc đói thuốc, thiếu rượu. Thường thì người ta không ý thức những chuyện,chi tiết đầu tiên của một sự việc kéo dài suốt cuộc đời, nhưng thế quái nào nó lại lù lù trong một góc của bộ não, càng ngày càng rõ nét theo thời gian.Hôm cô gái dễ hơn mình đến mười tuổi sà gần mặt, thở phì phò sát tai. Em nhờ anh đứng gần bên em vì em say quá, sắp ngã rồi, mà ngã ra đây thì ngượng lắm. Có cái mùi nước hoa gì mà đến bây giờ, ba năm sau mình vẫn thấy nó quanh quẩn. Hút thuốc phiện không nặng nề như hơi Vinataba đầu tiên.Có lẽ tại có người hướng dẫn, có bàn tay ve vuốt, lại thơm và mát. Nói chung, mình thấy là đàn bà da phải mát. 3. Người dân làng biển muôn đời vẫn thế. Sóng có thể to. Biển có thể động. Những chính biến thể chế quốc gia này, quốc gia kia họ cũng nghe ngóng từ các bản tin của Đài truyền hình. Tin và ham xem truyền hình, nhưng lại không thấy cần phải vận vào cho mình những trông tin thật cần để tránh cạm bẫy hay rút kinh nghiệm.Sáng nay. Bố bảo mẹ: Tôi đi sang xóm Cù mua vài thứ, trưa về, chuẩn bị mai đi tàu lớn. Mẹ vừa xếp mấy quả ổi xanh, miếng mít gọt sạch thơm thơm, vài quả thị vẹo, giọng nhập nhèm: Ông đi dễ đến ba ngày. Năm ngày. Ông đáp rồi cun cút đi. Đơn giản thông tin chỉ có thế. Nhưng đủ. Hai người hai hướng nhưng cuối cùng cũng gặp nhau ở biển.Biển tung bọt trắng ầm ào. Vào đến bờ, bọt vỡ tung, tan biến, trơ ra những lưng là lưng, rốn là rốn. Đúng là người đẹp bao giờ cũng lợi. Lợi nhất khi ở biển. Xấu đẹp thấy ngay, không gì che được.Mẹ ngồi cạnh những dãy hàng rong dọc bãi biển. Ngóng khách quen khách lạ như một phản xạ nhiều khi không phải là vì họ sẽ mua hàng của mình. Đơn giản, ngồi không thì nhìn, cho đỡ chán. Vậy thôi.Bây giờ đã là chiều. Mặt trời lừ đỏ như đốt sóng, như muốn luộc chín lũ người bé tí đang nhảy tưng tưng kia.4. Chiếc xe đã chọn được chỗ đỗ. Lái xe và Dương cùng đi ra.Tất cả những ai có đủ hai mắt là nhìn. Dương cũng nhìn lại. Không phải Dương thích nhìn họ, mà là anh muốn tìm mẹ. Đông thế kia, lại chia làm hai phe. Phe thỗn thện phơi bụng phơi rốn chắc chắn không có mẹ trong đó, phe quần áo đủ đầy nhưng giống nhau cứ nhuôm nhuôm, mờ mịt khó nhận quá.Có một cái mẹt đựng vài quả thị, mấy quả ổi, gói kẹo văng ra chân mình. Tiếng kêu thất thanh. Một thân người đổ lên làm Dương chao đảo. Mẹ. Mẹ. Đúng mẹ rồi. Con về lâu chưa? Sao biết mẹ ở đây mà tìm? Dương cười, da xanh gầy trắng nhởn dù là chiều xuống đỏ lừ nhuộm đến cây còn thẫm. Mẹ cuống cuồng hỏi con về lâu không, ăn gì chưa, uống gì chưa, bao giờ đi tiếp. Con giai chỉ cười, vẻ điềm đạm chững chạc lạ lùng, hiếm thấy. Dương hỏi bố đâu. Mẹ bảo về nhà bây giờ chắc gặp. Con giai bưng mẹt quả lăn lăn, mời mẹ lên xe con đưa về. Mẹ cười bẽn lẽn bảo mẹ chân đất, trèo lên xe của con cho bẩn hết à, với lại mẹ cả đời không đi bao giờ, say chục ngày chưa chắc tỉnh lại. Con cứ về trước đi, mẹ chạy mua cua, mua mực tươi về cha con uống chén rượu. 5. Dùng dằng mãi rồi cũng rứt ra mà đi. Sao bao lần chia tay con lên thành phố học không như lần chia tay này. Lúc bố mẹ vui vẻ thì con lại bịn rịn. Ra đến đường. Tất cả tối đen. Chỉ có gió là hào phóng, mạnh mẽ mang đủ mùi hương vị không thể lẫn vào đâu. Mùi nước mắm, mùi tanh, mùi mặn nồng ấm áp.Dương tưởng không đi nổi. Đến lúc đi được lại sợ mình không giữ nổi lòng nói ra những điều có thể làm bố hay mẹ đột quỵ. Thế là đi. Như trốn. Như chạy. Như đứa con chẳng ra gì vừa về nhà thấy bố mẹ nghèo bỏ đi. Trong khi bố mẹ thì báo cả xóm đến luộc lạc uống rượu chia vui cho nhà tôi. Con tôi được đi học tận nước ngoài. Con tôi sẽ là anh kỹ sư mai sau về giúp nhiều thì không biết chứ chắc chắn giúp được người vùng mình xây cái nhà máy đông lạnh, bảo quản hải sản, khỏi thiu thối, mất giá. Cả xóm biển rôm rả như sắp có đám lễ. Bố mẹ tần ngần. Vui thế mà con bỏ đi. Con giai nói như nuốt tiếng vào trong, tức ngực quá. Con không thể ở thêm được, bố mẹ cứ coi như con vẫn ở nhà.Lại một vòng ngang biển.Biển đêm. Đùng đục mây xa báo hiệu hôm nay trăng muộn và sáng. Bãi tắm vẫn đông, thấp thoáng những dáng người. Dương mở cửa xe bước xuống, bỏ giày đen bóng mũi dài hợp mốt mượn anh công an chưa vợ trót yêu đơn phương cô diễn viên đang học hát chèo. Chân trần. Giẫm lên cát mát dịu dàng. Gió lồng lộng thốc vào mặt, trùm lên đầu. Một lần về với biển. Để đi. Một lần về với mẹ để rời xa vĩnh viễn.Chui vào trong xe. Chạy chậm, gió thổi thốc tháo. Đại Dương lôi trong chiếc cặp đen mang theo một bơm kim tiêm đầy nước trắng, lấy một tay bóp chặt cánh tay kia, co vào, ruỗi ra cho nổi ven, và cắm phập kim tiêm vào.Ngoài kia. Biển chỉ còn là tiếng sóng ầm ì. Đại Dương ngả người ra xe, mắt nhắm lại. 6. Buổi sáng. Trại cai nghiện thức giấc sớm. Công việc của ngày hôm qua như ngày hôm nay. Ngày mai chắc cũng vậy...Riêng đối với Dương chắc khác. Nằm bệt trên giường, toàn thân như sáp và xương tan biến, còn lại đúng đôi mắt. Dương nhìn ra ngoài những chấn song sắt. Ngoài kia. Trời tháng chín nắng hanh hao vàng rượi. Nắng chạy rất xa làm cảnh vật như trong hơn. Dương ở đây gần một năm, đủ dài bằng cả quãng thời gian sống từ lúc còn trong bụng mẹ nhấp nha nhấp nhô trên đường.Hôm qua. Giám thị báo hôm nay trại đón khách. Nếu không nằm thế này chắc chắn mình sẽ hát ít nhất ba bài trong buổi biểu diễn văn nghệ. Dương thở dài. Không nhìn ra ngoài trời nắng hanh hao ong vàng nữa, lại nhìn lên trần nhà.Dương nhìn thấy biển. Thấy ngày bố mẹ ngậm ngùi thu va hà vén dúi tiền cho con ở bến xe lên tỉnh học đại học. Mẹ còn nhét xuống chân gói cá thu khô, suýt nữa cả can nước mắm nếu anh tài không nhìn thấy bắt mang xuống khỏi xui. Dương thấy hết. Trọn vẹn từng đường gân thớ thịt cảm nhận được hết cuộc đời không phải là dài nhưng có lẽ là đủ với mình. Cảm nhận được sự tan rã thân xác như một con cá còn sống nhưng nhiễm độc chờ chết trương phình giương đôi mắt cá chết nhìn lũ bọ rỉa thịt mình nhấm nháy.7. Biển hôm nay động. Bãi tắm vắng. Nghe đâu có cơn bão đang về. Bố vẫn ra biển. Mẹ thì sắm nắm đôi quang gánh lấy vài chục cân riu về muối. Bố từ ngày con giai về rồi đi lúc nào cũng cười. Tất tật mọi chuyện từ xa đến giờ có thể làm bố cáu giận muốn hét to hoặc phải đập phá một cái gì thì bây giờ, bố chỉ cười và cho qua. Không ai hiểu điều đó, chỉ mình bố hiểu. đấy là liều thuốc tiên con trai bố hôm nào vừa về tiêm vào người bố. Con trai về chào bố mẹ để đi nước ngoài du học. Trong lúc học con trai sẽ đi làm thêm lấy tiền sau về xây nhà, lấy vợ đẻ con. Con trai bảo dứt khoát sẽ lấy vợ ở quê chứ không dặt dẹo bám lại Hà Nội như bao đứa dặt dẹo khác chết đói chết khát làm thuê làm mướn đủ nghề vẫn không chịu về quê danh giá. Con trai còn bảo lúc con trai về, sẽ giúp huyện xây nhà đông lạnh... Nghe con trai nói, nhìn mắt con trai đầy ánh sáng, ông như được hồi sinh thành người khác. Một thế giới khác không giống thế giới ông đang sống cùng tồn tại và nuôi dưỡng ông. Bà cũng vậy. Từ lúc con trai về rồi đi, bà bỗng có nhu cầu buôn chuyện. Gặp ai cũng chào, cũng hỏi, và nếu ai có thời gian là bà kể về con trai. Ông ngồi trên chiếc tàu lớn đang dong buồm ra khơi.Phía chân trời, mặt trời lên. Một vầng đỏ tròn cháy bừng trên mặt sóng xanh ngăn ngắt như bừng lên nghìn ánh nắng hy vọng sau những ngày mưa, như niềm tin của ông vào một ngày mai, rất gần, con trai ông trở về cùng ông sống trên miền đất mặn.Lúc đó. Trong trại. Đại Dương giương đôi mắt đục như có một màn sương che phủ ra để nhìn ra song cửa sắt. Cố nhấc một cánh tay để kéo tấm màng che đang kéo tối dần tất cả những gì gọi là cuộc sống trước mắt. Nhưng cánh tay cũng như tay ai mất rồi. Tay tan đi đằng tay. Chân biến đằng chân. Vừa nặng vừa nhẹ, mà là không có gì. Bỗng dưng có một luồng ánh sáng chói chang chiếu thẳng vào mặt con trai. Mọi sự bừng lên ánh mặt trời cháy bỏng trên mặt biển xanh. Dương nhìn thấy bố đang dong thuyền về buổi chiều nhuộm nắng. Thấy mẹ cắp chiếc thúng nhỏ chạy ra đựng mực tươi về luộc chấm mắm tôm tươi. Dương thấy hết. Tất cả thật gần. Như thể chỉ cần với tay là đến. Với tay là có. Bố. Mẹ. Tuổi thơ đẹp đẽ, đơn giản trong ngần. Học bổng đi du học. Nhà máy đông lạnh... Chỉ cần. Với tay là đến... Mục lục Với tay là đến Với tay là đến Nguyễn Thị Thu HuệChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VnExpressĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
vanhoc
Giải Kim Long, tên đầy đủ là , tên tiếng Anh là Golden Dragon Award Original Animation & Comic Competition (viết tắt: OACC) là một giải thưởng do tạp chí truyện tranh "Mạn Hữu" khởi xướng, với mục đích là cổ vũ sự phát triển của nền công nghiệp truyện tranh, phim hoạt hình Trung Quốc. Về sau, giải thưởng đã được chính quyền Trung Quốc tán thành, trở thành một cuộc thi trọng điểm, chuyên nghiệp và mang tính quốc tế tại Hội chợ Truyện tranh Hoạt hình Quốc tế tại Trung Quốc. Hạng mục trao giải Giải Kim Long được chia làm hai hạng mục chính là truyện tranh và hoạt hình. Trong mỗi hạng mục lớn lại theo phân loại khán giả mà chia làm các hạng mục nhỏ hơn như thiếu niên, thiếu nữ, thanh niên. Từ lần tổ chức thứ tư, bắt đầu trao các giải thưởng cá nhân như đạo diễn phim hoạt hình xuất sắc nhất, tác giả truyện tranh mới xuất sắc nhất,... Các hạng mục gồm có: Giải thưởng Chủ đề xuất sắc nhất năm Giải thưởng Truyện tranh có cốt truyện xuất sắc nhất Giải thưởng Truyện tranh gốc hay nhất Giải thưởng Tranh minh họa xuất sắc nhất Giải thưởng Truyện tranh được cộng đồng mạng yêu thích nhất, Giải thưởng Truyện tranh phái sinh được cộng đồng mạng yêu thích nhất, Giải thưởng Tiểu thuyết được cộng đồng mạng yêu thích nhất Giải thưởng Phim hoạt hình điện ảnh xuất sắc nhất Giải thưởng Loạt phim hoạt hình xuất sắc nhất Giải thưởng Phim ngắn xuất sắc nhất Giải thưởng Phim ngắn do sinh viên sản xuất xuất sắc nhất Giải cá nhân: Tác giả truyện tranh mới xuất sắc nhất, Họa sĩ truyện tranh xuất sắc nhất, Biên kịch truyện tranh xuất sắc nhất, Đạo diễn phim hoạt hình xuất sắc nhất, Biên kịch phim hoạt hình xuất sắc nhất, Phối âm phim hoạt hình xuất sắc nhất, Âm nhạc phim hoạt hình xuất sắc nhất, Ứng dụng truyện tranh, phim hoạt hình xuất sắc nhất Giải nước ngoài: Phim hoạt hình nước ngoài, Truyện tranh nước ngoài Giải thưởng do ban giám khảo đề cử: Giải thành tựu, Giải đặc biệt Giải thưởng thường niên Quảng Châu (thưởng nhà sản xuất): IP truyện tranh, hoạt hình tốt nhất; Nhân vật truyện tranh, hoạt hình hay nhất; Nhãn hiệu truyện tranh, hoạt hình tốt nhất; Người quản lý truyện tranh, hoạt hình, trò chơi tốt nhất; Giám đốc truyện tranh, hoạt hình, trò chơi tốt nhất; Trò chơi tốt nhất Giải tổ chức: Đơn vị tổ chức có thực lực nhất; Giáo viên có thực lực nhất. Tham khảo Giải thưởng điện ảnh Trung Quốc
wiki
Em hãy tả lại cánh đồng vào mùa gặt – Văn 6 Hướng dẫn Bài làm Nghỉ hè năm nay có nhiều ý nghĩa đối với tôi. Tôi không còn phải ở nhà nấu cơm và trông sân thóc to đùng mà được ra đồng đi gặt cùng với mọi người. Đó là mong ước từ bao lâu. Tôi tha hồ chạy khắp nơi, ngắm nhìn cánh đồng trong những ngày mùa hối hả. Mới ngày nào, cánh đồng lúa vẫn còn đang thì con gái. Mỗi lần đi học về, đạp xe qua con đường chạy dọc cánh đồng, tôi như đi giữa màu xanh bạt ngàn, bất tận của lúa, của những bờ cỏ ngan ngát xanh tươi. Mùi sữa thơm của lúa non quyện trong gió, quấn quýt bước chân người đi đường. Sau ba tháng chắt chiu nắng gió, mật ngọt của đất trời và công tay người chăm bón, những bông lúa kết hạt già và cánh đồng lúa dần ngả sang màu vàng, vàng ươm man mác rồi vàng ruộm rực rỡ, chào đón người nông dân thu hoạch. Rồi chẳng mấy chốc mùa gặt cũng đến. Mới sáng sớm, khi chú gà trống đầu tiên trong làng cất tiếng gáy vang thì mọi người trong làng đã quang gánh chuẩn bị ra đồng. Trời vẫn chưa sáng rõ. Không khí buổi sớm mùa hè mát mẻ và trong lành. Mọi người tụ tập thành từng tốp, vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ. Người quẩy quang, người dong xe thồ. Mấy đứa trẻ con còn dắt theo trâu. Những chú trâu như bị đánh thức dậy sớm, vừa đi vừa dùng dằng kéo dây lại. Mấy chú nghé con quẩn theo chân mẹ, thỉnh thoảng lại cất lên những tiếng “nghé ọ” ngộ nghĩnh làm vang động không khí buổi sớm yên tĩnh. Hai bên bờ máng, cỏ mọc xanh rờn, ướt đẫm sương đêm. Trời dần sáng. Ông mặt trời lười biếng từ từ nhô ra khỏi luỹ tre cuối làng. Những tia nắng ban mai tinh khiết tràn trên cánh đồng. Cả dải lụa vàng như khoe mình trong nắng. Thỉnh thoảng, một cơn gió nhẹ thổi đến làm cả biển vàng xao động. Rồi mọi người xuống ruộng nhà mình và bắt đầu một ngày làm việc. Những thửa ruộng màu vàng cứ dần dần thu hẹp lại. Những đôi tay khoẻ, dẻo dai làm việc thoăn thoắt. Những bó lúa được xếp lại gọn gàng. Lúa bị gặt chỉ còn trơ lại những gốc rạ. Những chú chim chiền chiện đậu trong lúa như bị xua đuổi cứ chốc chốc lại bay vụt lên không trung. Mọi người vẫn vừa làm vừa nói chuyện vui vẻ. Mồ hôi ướt đẫm trên trán nhưng hình như không làm mọi người cảm thấy mệt mỏi. Những chiếc nón trắng cúi xuống rồi lại nhô lên trông thật ngộ nghĩnh. Khi mặt trời lên cao bằng con sào thì nhà nào nhà ấy cũng gặt được một xe thồ lúa. Người thì xén, người thì bốc lúa lên xe chở về làng. Bọn trẻ con được giao nhiệm vụ đun xe lúa. Những hàng xe thồ nối đuôi nhau về làng trông như một đoàn tàu hoả. Đến gần trưa, trời bắt đầu nắng nóng. Mọi người kéo nhau lên ngồi nghỉ mát ở những gốc đa to giữa đồng. Bóng xanh như cố gắng toả rộng che mát cho mọi người. Những đứa trẻ như không hề biết mệt. Chúng không chịu ngồi yên còn chạy đuổi nhau đọc các bờ máng. Những chú trâu vẫn thung thăng gặm cỏ. Cánh đồng tấp nập vang lên tiếng nói cười, có khi vọng lại một câu hò của ông Tám làm mọi người thích thú. Chiều về, khi người làm đồng đã về hết, cánh đồng trở nên lặng lẽ. Những dải lúa vàng mượt đã vợt dần, trơ lại những gốc rạ khô khốc. Từng đàn cò, đàn quốc rập rờn. Tags:Văn 6
vanhoc
Epinephelus labriformis, thường được gọi là cá mú sao, là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1840. Phân bố và môi trường sống E. labriformis có phạm vi phân bố rộng khắp Đông Thái Bình Dương. Loài này được tìm thấy từ phía nam bang California (Hoa Kỳ), trải dài xuống bán đảo Baja California và vịnh California, dọc theo Trung Mỹ và Nam Mỹ đến Bắc Peru, bao gồm các đảo ngoài khơi là đảo Cocos, quần đảo Revillagigedo và quần đảo Galápagos. Cá trưởng thành sống xung quanh các rạn san hô và các bãi đá ngầm ở độ sâu khoảng 50 m trở lại; cá con có thể sống ở vùng nước nông hơn. Mô tả E. labriformis trưởng thành có chiều dà cơ thể lớn nhất đo được là 60 cm; tuổi thọ trung bình khoảng 30 năm. Chiều dài tiêu chuẩn bắt đầu trưởng thành tình dục đối với cá mái là 15 cm, và 23 cm đối với cá đực. Thân thuôn dài, hình bầu dục. Cơ thể cá trưởng thành có màu nâu đỏ hoặc màu ô liu với các đốm màu nâu sẫm và trắng phủ khắp thân và đầu, cả trên các vây. Đầu có các vệt màu nâu đỏ từ mõm xung quanh mắt đến má. Có duy nhất một đốm đen trên cuống đuôi. Đuôi bo tròn. Vây bụng ngắn. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây mềm ở vây lưng: 16 - 18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 8; Số tia vây mềm ở vây ngực: 17 - 19; Số vảy đường bên: 56 - 68. Thức ăn của E. labriformis là các loài cá nhỏ hơn, động vật thân mềm và động vật giáp xác. Chúng được đánh bắt trong nghề cá và là mục tiêu đánh bắt ở khắp vịnh California và dọc theo bờ biển Mexico ở Thái Bình Dương. Chú thích L Động vật được mô tả năm 1840
wiki
La Dalat là tên một loại xe hơi giá rẻ do hãng chế tạo xe hơi của Pháp Citroën thông qua công ty con là Công ty xe hơi Sài Gòn sản xuất trong giai đoạn 1970-1975. Loại xe này được hãng Citroën chế tạo năm 1969 và bán ra thị trường vào năm 1970. Tỷ lệ các bộ phận nội địa hóa của La Dalat đạt 25%, đến năm 1975 đạt 40%, cũng là năm hãng Citroën đóng cửa nhà máy tại Việt Nam và chấm dứt sản xuất dòng xe này Với mục đích thiết kế nhắm tới những khách hàng bình dân tại các nước có nền kinh tế khó khăn, LaDalat có nhiều bộ phận được chế tạo thủ công, kiểu dáng xe thô kệch và kém về tính thẩm mỹ, bù lại xe có giá thành rẻ, ít tốn xăng, dễ sửa chữa và thay thế phụ tùng. La Dalat do hãng Citroën của Pháp thiết kế và nắm bản quyền chế tạo, người Việt chỉ được thuê làm công nhân lắp ráp (để tận dụng giá nhân công rẻ). Nhưng do xe La Dalat được lắp ráp tại nhà máy Citroën đặt tại Sài Gòn, một số bộ phận đơn giản của xe (đèn chiếu sáng, kèn báo hiệu, ghế nệm) được nội địa hóa (tỷ lệ đạt 25-40%), nên một số người Việt Nam vẫn tưởng nhầm rằng La Dalat là xe hơi "made in Vietnam". Lịch sử Năm 1936, hãng Citroën xây dựng xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương ở góc đường Lê Lợi - Nguyễn Huệ, hiện nay là Caféteria Rex. Thời Việt Nam Cộng hòa, xưởng được di chuyển đi và thay tên là Công ty Xe hơi Citroën, sau đó là Công ty Xe hơi Saigon. Năm 1948, Hãng Citroën cho ra thị trường chiếc xe 2CV để đáp ứng nhu cầu đi lại của dân Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các dòng xe tiếp theo như Citroën Dyane 6 và Méhari ra đời vào cuối thập niên 1950 và đầu những năm 60. Ở Việt Nam, xe Citroën La Dalat dựa trên kiểu Citroën Méhari được sản xuất. Vào cuối những năm 1960, do sức ép cạnh tranh từ các hãng xe nổi tiếng, hãng Citroën cho ra loại xe La Dalat, có giá thành rẻ và hữu dụng. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ nên kinh tế Việt Nam Cộng Hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài.. Việc này đã tạo điều kiện cho La Dalat ra đời do tránh được áp lực cạnh tranh từ xe hơi nhập khẩu. Thiết kế Chiếc La Dalat ra đời dựa trên mẫu mã của chiếc Méhari và chiếc Baby Brousse rất thành công ở các thuộc địa cũ. La Dalat có 4 kiểu dáng khác nhau với những bộ phận chính như động cơ, hệ thống truyền động, tay lái, bộ nhún, bộ thắng... nhập khẩu từ Pháp. Các bộ phận đơn giản, hàm lượng kỹ thuật thấp như như đèn, kèn báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải... thì được sản xuất tại Sài Gòn (nhằm tận dụng chi phí nguyên liệu thấp và nhân công rẻ). Loại Citroen 2CV (tiền thân của La Dalat) là mẫu xe tưởng như không thể đơn giản hơn: không có cửa kính cuộn ở 2 bên, nóc xe dùng vải bạt (do vậy nên nó có biệt danh là "xe con cóc”). Vậy mà xe La Dalat còn là phiên bản được đơn giản hóa hơn nữa: khung vỏ không cần máy ép thép công nghiệp để chế tạo mà chỉ dùng vật liệu và cách gia công giống như thùng tôn, ngay cả những xưởng cơ khí thủ công với thợ trình độ trung bình cũng có thể làm được. Trọng lượng của xe do vậy khá nhẹ, khoảng 570 kg nên đỡ hao xăng. Bù lại là khung xe rất mỏng manh, độ bền không hơn vỏ thùng tôn, nên chỉ cần va chạm nhỏ cũng đủ để lớp vỏ xe bị bẹp hoặc cong vênh. Nếu xe va chạm mạnh thì với bộ khung mỏng manh đó, người lái rất dễ gặp nguy hiểm đến tính mạng. Hãng xe Citroën nhắm vào khách hàng bình dân ở các nước có nền kinh tế khó khăn nên La Dalat có những đặc tính như: ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế phụ tùng và đặc biệt là các bộ phận như cánh cửa, cửa kính... đều có thể "tự chế" từ những xưởng cơ khí thủ công rẻ tiền. Bù lại, do chế tạo thủ công (để có giá rẻ) nên hình dáng xe rất thô kệch, kém thẩm mỹ, khung xe có độ an toàn thấp. Nếu ở các nước phát triển thì La Dalat thực sự không có cơ hội cạnh tranh được với các loại xe khác (thậm chí nó còn không đủ tiêu chuẩn an toàn để được phép sản xuất), nhưng đối với khách bình dân các nước có nền kinh tế khó khăn thì vấn đề thẩm mỹ và tiêu chuẩn an toàn không phải là điều quan trọng. La DaLat dùng động cơ 4 thì, 602 phân khối, 31 mã lực, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp 4 số tay, truyền động trục bánh trước. Xe có kích thước 3 chiều là 4.003 (3500 ) mm x 1.530 mm x 1.540 mm. Tọng lượng xe đầu tiên là khoảng từ 480 đến 590 kg (tùy theo kiểu), kiểu xe thùng nặng 770 kg. Ước tính từ năm 1970 cho đến 1975, hãng xe Citroën đã sản xuất hơn 5.000 chiếc La Dalat, tức là khoảng 1.000 chiếc mỗi năm. Dù số lượng sản xuất khá nhỏ (năm 1970, riêng Nhật Bản đã sản xuất 4,1 triệu ôtô các loại), nhưng Citroën vẫn thấy La Dalat là một thiết kế phù hợp với thị trường những nước có nền kinh tế khó khăn. Tỷ lệ các bộ phận nội địa hóa của La Dalat đạt 25%, đến năm 1975, tỉ lệ này nâng lên 40%, cũng là năm hãng Citroën đóng cửa nhà máy tại Việt Nam. Xem thêm Xe hơi Chiến Thắng Tham khảo Liên kết ngoài Soi từng chi tiết chiếc xe “kịch độc” LaDaLat, Báo An Ninh Thủ Đô. Citroën Xe hơi sản xuất tại Việt Nam Công nghiệp ô tô Công nghiệp ô tô tại Việt Nam Lịch sử Việt Nam Nhãn hiệu Việt Nam Đầu tiên ở Việt Nam Khoa học và công nghệ Việt Nam Cộng hòa
wiki
Haila María Mompié González (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1974), được biết đến dưới tên Haila Mompié hay Haila, là ca sĩ người Cuba. Cô chuyên về phong cách son và timba, là giọng ca chính trong nhóm nhạc Azúcar Negra. Cuộc đời và sự nghiệp Haila sinh ngày 28 tháng 1 năm 1974 tại Amancio, Las Tunas, Cuba. Cha cô là ca sĩ và mẹ cô là một stylist. Cô bắt đầu đi học âm nhạc và học múa từ năm 9 tuổi tại Santiago de Cuba. Năm 15 tuổi, gia đình cô chuyển đến Havana, làm gián đoạn sự nghiệp học vấn của cô trong thời gian ngắn. Ở Havana, cô gặp ca sĩ phong cách son nổi tiếng tên là Yaquelín Castellanos, người rất thích tiềm năng ca hát của Haila. Haila tham gia nhóm Septeto Tradición, chủ yếu chơi theo phong cách son truyền thống thập niên 1920-1930. Sau đó, cô biểu diễn trong quán rượu Las Avenidas và gia nhập nhóm Habana Son. Với dự án Guajira Habanera, năm 1994, cô lần đầu tiên đi lưu diễn tại Mexico. Tháng 9 năm 1994, cô gia nhập nhóm Bamboleo với vai trò hát chính. Nhóm ra mắt hai album và biểu diễn ở các quốc gia khác nhauĩ. Sự nghiệp độc diễn Năm 2000, Haila bắt đầu sự nghiệp độc diễn. Cô cùng với nhiều nghệ sĩ khác hợp tác lại và sản xuất album dòng rumba mang tên La rumba Soy yo. Album nhận giải thưởng Grammy Latin cho Album dân gian hay nhất năm 2001. Năm 2002 Haila phát hành album đầu tay mang tên Haila. Năm 2004, cô phát hành album Diferente, sản xuất bởi David Calzado, người đứng đầu ban nhạc Charanga Habanera. Năm 2011, cô phát hành album Mala, sản xuất bởi cựu ca sĩ ban nhạc Charanga Habanera và cũng là chồng cô. Album Mala giành giải thưởng Cuba Disco trong hạng mục Âm nhạc Latin năm 2012. Album mới nhất của cô mang tên Cómo Journey a decirte, ra mắt năm 2015. Danh sách đĩa hát Haila (2001) Live (2002) Diferente (2004) Tal como soy (2008) Mala (2011) Cómo voy a decirte (2015) Mujer de Acero (2017) Chú thích Liên kết ngoài Nữ ca sĩ thế kỷ 21 Nữ ca sĩ Cuba Nhân vật còn sống Sinh năm 1974
wiki
Giới thiệu khái quát thị xã Giá Rai I. Vị trí địa lý (bổ sung) – Thị xã Giá Rai được thành lập ngày 01 tháng 05 năm 2015 theo Nghị định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, toạ lạc tại Khóm 1, Phường 1, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Toạ độ Tọa độ: 9°16′18″B 105°30′39″Đ. II. Lịch sử hình thành: 1. Thời Pháp thuộc – Vào thời Nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Giá Rai và Đông Hải ngày nay thuộc một phần đất đai các tổng Long Thuỷ và Quảng Long, huyện Long Xuyên, Phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên. – Năm 1896, Hai Tổng Long Thuỷ và Quảng Long cùng thuộc hạt tham biện Bạc Liêu. – Ngày 5 tháng 10 năm 1917, thực dân Pháp thành lập Quận Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 24/9/1938, quận Gía Rai được sáp nhập thêm tổng Long Thuỷ từ quận Cà Mau. – Ngày 05 tháng 04 năm 1944, Quận lập thêm tổng An Định. Quận lỵ Giá Rai đặt tại Làng Phong Thạnh thuộc tổng Long Thuỷ. – Sau cách mạng tháng 08 năm 1945, Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam cộng hoà đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã. Tuy nhiên, vẫn gọi là Quận cho đến năm 1975. Lúc này, Giá Rai vẫn là huyện thuộc tỉnh Bạc Liệu. 2. Giai đoạn năm 1956-1976 * Việt Nam Cộng Hoà: – Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Thời Việt Nam Cộng hoà, tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Sóc Trăng được hợp nhất thành tỉnh mới là tỉnh Ba Xuyên. Quận Giá Rai chỉ còn một Tổng là Long Thuỷ. – Ngày 08 tháng 09 năm 1964, Thủ tướng Chính quyền mới của Việt Nam Cộng hoà ký sắc lệnh số 254-NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964, tái lập tỉnh Bạc Liêu. Quận Giá Rai trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến năm 1975. – Năm 1970: Quận Giá Rai có 05 xã: Phong Thạnh, Long Điền, An Trạch, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Hưng. * Chính quyền cách mạng: – Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa huyện Giá Rai giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý. – Năm 1962, huyện Giá Rai được chính quyền cách mạng sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. – Tháng 11 năm 1973, khi LIên tỉnh uỷ miền Tây tái lập tỉnh Bạc Liêu thì huyện Giá Rai trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu như trước cho đến năm 1976. Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt 3. Từ năm 1976 đến nay. – Tháng 2 năm 1976, Giá Rai là huyện của Tỉnh Minh Hải. – Quyết định 326-CP ngày 29 tháng 12 năm 1978 của Hội đồng Chính phủ phê chuẩn (về nguyên tắc) việc phân vạch địa giới hành chính huyện Giá Rai thuộc tỉnh Minh Hải, huyện Giá Rai có 31 xã, 3 thị trấn (thị trấn Giá Rai, thị trấn Hộ Phòng, thị trấn Gành Hào). Tuy nhiên trong văn bản không ghi rõ tên các xã, thực tế chỉ có 10 xã. – Quyết định số 183/QĐ-TCCP ngày 13/4/1991 của Ban Tổ chức chính phủ
vanhoc
là series tokusatsu thứ 24 của loạt phim Kamen Rider Series và thứ 15 trong thời Heisei của Toei Company. Kamen Rider Gaim được Toei đăng ký thương hiệu vào ngày 20 tháng 5 năm 2013.. Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức vào ngày 25 tháng 7, 2013. Kamen Rider Gaim lên sóng trong giờ phim Super Hero Time của TV Asahi vào ngày 6 tháng 10, 2013 cùng với 2 series Super Sentai là Zyuden Sentai Kyoryuger và sau đó là Ressha Sentai ToQger. Slogan của phim là "Rider chiến quốc". Motif của Kamen Rider Gaim là samurai và trái cây. Cốt truyện Tại một thành phố mới nổi nằm dưới tầm ảnh hưởng của một tập đoàn mang tên , thanh niên lập nên những nhóm nhảy đường phố để quên đi thời gian. Họ cũng sử dụng những quái vật mini đến từ những chiều không gian khác tên là để tổ chức những cuộc đấu bí mật. Tuy nhiên, cánh cổng không gian cũng có thể đưa đến những quái vật lớn hơn, và Kazuraba Kouta - Kamen Rider Gaim và là nhân vật chính của phim, một thanh niên thất nghiệp đã vô tình tìm thấy dụng cụ Hensin là một cái driver và một ổ khóa mang hình quả cam khi đi qua cánh cổng không gian, sử dụng sức mạnh vừa nhận được để chiến đấu với lũ quái vật, quyết định trở thành anh hùng chiến đấu với chúng. Nhân vật Riders Armored Rider là các Kamen Rider sử dụng Sengoku Driver TV show: Trong movie: Trong Kamen Rider Gaim Gaiden: Kamen Rider Duke, Ryoma Sengoku cũng dùng Sengoku Driver. Shin Sedai Rider là các Kamen Rider sử dụng Genesis Driver TV show Từ tập 26, Kaito cũng dùng Genesis Driver. Trong movie: Bujin Riders Inves Là sinh vật sống trong Helheim, có thể dùng Lockseed để gọi chúng. Tập phim Kế hoạch đột nhập tòa tháp quyết tử (決死のタワー突入作戦! Kesshi no Tawā Totsunyū Sakusen!?) Overlord thức tỉnh (オーバーロードへの目覚め Ōbārōdo e no Mezame?) Đột kích! Vua Overlord (激突!オーバーロードの王 Gekitotsu! Ōbārōdo no Ō?) Mitsuzane! Henshin cuối cùng (光実!最後の変身! Mitsuzane! Saigo no Henshin!?) Henshin siêu cấp của Baron (バロン 究極の変身 Baron Kyukyoku no Henshin?) Tương lai hai người tìm kiếm  (二人の目指す未来は Futari no Mezasu Mirai Wa?) Trận chiến cuối cùng của bộ đôi vận mệnh! (運命の二人 最終バトル! Unmei no Futari Saishū Batoru!?) Người chiến thắng vận mệnh (運命の勝者 Unmei no Shōsha?) Biến thân! Hướng tới tương lai (変身!そして未来へ Henshin! Soshite Mirai e?) Phim Tenkawakeme no Sengoku Movie Daigassen là bộ phim điện ảnh mùa đông với sự gặp gỡ giữa Kamen Rider Wizard và Gaim. Bộ phim phát hành vào ngày 14 tháng 12, 2013. Kamen Rider Taisen là tựa đề của bộ phim điện ảnh thứ 3 trong series Super Hero Taisen thường niên. Bộ phim được trình chiếu vào ngày 29 tháng 3 năm 2014 tại Nhật Bản. Kamen Rider Gaim Gaiden Diễn viên : : : : : : KANON : MIINA : : : : : : : Diễn viên phục trang Kamen Rider Gaim: Kamen Rider Balon: Kamen Rider Ryugen: Kamen Rider Zangetsu: Bài hát chủ đề Bài hát đầu "Just Live More" Lời Shoko Fujibayashi Sáng tác và cải biên Shuhei Naruse Thể hiện Gaim no Kaze Bài hát kết thúc "E-X-A (Exciting×Attitude)" Lời: Fujibayashi Shoko Sáng tác và cải biên: tatsuo (of everset) Thể hiện: Kamen Rider Girls Tập: 3, 5 "Never surrender" Lời: Fujibayashi Shoko Sáng tác và cải biên: Igarashi "IGAO" Junichi Thể hiện: Team Baron (Kumon Kaito, Zack, & Peco) (Kobayashi Yutaka, Matsuda Gaku, & Momose Saku) Tập: 8, 26 Lời: Fujibayashi Shoko Sáng tác: Maeda Naoki Cải biên: Naruse Shuhei Thể hiện: Tomomi Sumi Jiena(Kamen Rider GIRLS) Tập: 17, 21 "Raise Up Your Flag" Lời: Fujibayashi Shoko Sáng tác và cải biên: tatsuo (của everset) Thể hiện: Kazuraba Kouta (Sano Gaku) Tập: "Haruyasumi Gattai Special", 24 Lyrics: Shoko Fujibayashi Composition & Arrangement: Shuhei Naruse Artist: Kouta Kazuraba & Kaito Kumon (Gaku Sano & Yutaka Kobayashi) Episodes: 36, 37, 39, 41, 45 "Ranbu Escalation" is the theme for Kamen Rider Gaim Kiwami Arms Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Kamen Rider Gaim trên TV Asahi. Kamen Rider Gaim trên Toei Company Gaim
wiki
Hy Cương là một xã thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Địa lý Xã Hy Cương nằm ở phía Tây của thành phố Việt Trì. Phía đông giáp xã Kim Đức và phường Vân Phú Phía Tây giáp xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao Phía Nam giáp xã Chu Hóa Phía Bắc giáp xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh. Xã có diện tích 7,03 km² trong đó có hơn 5,00 km² thuộc khu di tích lịch sử Đền Hùng, dân số năm 2006 là 4.760 người, mật độ dân số đạt 595 người/km². Di tích lịch sử Xã Hy Cương được xem là một trong những điểm hành hương quan trọng của người Việt Nam vì nơi đây có Đền thờ và mộ tổ Vua Hùng. Nơi đây cũng được xác định như khu vực của trung tâm nhà nước Văn Lang cổ xưa, có nhiều di tích thờ Hùng Vương, gia quyến và các tướng lĩnh thời Hùng Vương, là nơi bảo tồn được bản Ngọc phả quý với tên gọi đầy đủ là Hùng đồ thập bát diệp thánh vương Ngọc phả cổ truyện do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố biên soạn vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê Thánh Tông, Hàn lâm Thị độc Nguyễn Trọng trùng đính vào năm Canh Tý niên hiệu Hoàng Định thứ nhất (1600) đời vua Lê Kính Tông và Lễ phiên Lê Đình Hoan phụng sao. Ngọc phả ghi đầy đủ về 18 đời vua Hùng, còn ghi đầy đủ danh tính của 100 người con từ bọc trứng do Quốc mẫu Âu Cơ sinh ra. Chú thích Liên kết ngoài Ngôi làng mang tên cổ tích Xã Hy Cương – Thành phố Việt Trì
wiki
Louis Pasteur được thế giới công nhận là cha đẻ của văcxin, song thực tế người đầu tiên đặt nền móng cho tiêm chủng là Edward Jenner, một bác sĩ danh dự trong hội Hoàng gia Lon Don, Anh. Ngày nay cả thế giới phải công nhận cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là tiêm vắc xin. Thành tựu y học này đã giúp gần 8 tỷ người trên thế giới tránh khỏi cái chết do những đại dịch hoành hành từ thế kỷ 17 trở về trước. Tiêm chủng được áp dụng cho cả người lớn và trẻ em, hầu như ai cũng hiểu rằng chỉ cần một mũi tiêm, cơ thể chúng ta sẽ được miễn nhiễm với nhiều căn bệnh quái ác không thuốc chữa. Trong tâm khảm nhiều người nghĩ rằng Louis Pasteur là cha đẻ của vắc xin vì ông quá nổi tiếng với việc tìm ra vi khuẩn cũng như sự nhiễm trùng và chế tạo ra vắc xin phòng bệnh dại. Thực tế Pasteur không phải là cha đẻ của vắc xin mà công này thuộc về một bác sĩ danh dự trong hội Hoàng gia Lon Don. Đó là Edward Jenner , người đã khẳng định hiệu quả của vắc xin trong phòng chống bệnh cho nhân loại trước khi thế giới biết đến sự tồn tại của virus và vi khuẩn. Lịch sử y học thế giới ghi nhận Edward Jenner có công lao to lớn trong việc thiết lập ra “đế chế” vắc xin giúp bảo vệ hàng tỷ người khắp hoàn cầu. Năm 1796, châu Âu trong đại dịch đậu mùa. Lúc này không ai có khái niệm về virus. Năm 1798, khi bác sĩ Edward Jenner công bố kết quả thí nghiệm đặt nền móng cho việc tiêm chủng thì người thời ấy mới hình dung là có các “mầm bệnh” gây nên sự truyền nhiễm. Edward Jenner. Căn bệnh đậu mùa xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhân loại, trở thành đại dịch từ thế kỷ thứ 6, bắt nguồn từ châu Phi, sau đó lan sang châu Âu, châu Á. Trong hai thế kỷ 17 và 18 bệnh đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người. Đậu mùa do virus gây ra nhưng các bác sĩ sống trước thời của Louis Pasteur không hề có khái niệm về vấn đề này, họ cho rằng đây là bệnh nan y không thuốc chữa. Mãi đến 80 năm sau, Louis Pasteur mới phát hiện ra vi khuẩn. Lúc bấy giờ quê hương của bác sĩ Edward Jenner cũng bị đại dịch đậu mùa đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người và gia súc. Ước tính năm 1773, cứ 10 người Anh mắc bệnh thì có đến 9 tử vong. Người nào sống sót cũng bị lở loét, mặt rỗ, chịu cảnh cô độc, tủi hổ suốt phần đời còn lại, bị cả cộng đồng ghẻ lạnh, tẩy chay bởi khả năng lây nhiễm khủng khiếp của bệnh. Triệu chứng ban đầu của đậu mùa là nổi các mụn đỏ, sau đó thành mụn nước lan ra khắp cơ thể, gây sốt, nhiễm trùng, có thể dẫn đến mù lòa và tử vong. Bệnh lây qua đường hô hấp và tiếp xúc nên số người mắc tăng lên rất nhanh. Bác sĩ Jenner đã dành suốt nhiều năm tìm hiểu về căn bệnh này nhưng không thể tìm ra cách chữa trị. Một lần nọ Jenner tình cờ phát hiện bệnh “đậu bò “, tức là bệnh đậu mùa ở bò. Vị bác sĩ quan sát thấy một điều lạ là những người vắt sữa bò sau khi mắc bệnh này thì tuyệt nhiên không bị đậu mùa nữa, do các triệu chứng tương tự nhau nên ông gọi tên nó là “đậu bò”. Từ đó bác sĩ luôn trăn trở: “Liệu có thể lây căn bệnh đậu bò sang người để phòng được bệnh đậu mùa ở người hay không? Như thế, người ta sẽ mắc căn bệnh đậu bò không chết nhưng thoát khỏi bệnh đậu mùa chết người”. Jenner đã đến gặp một người phụ nữ chuyên làm nghề vắt sữa bò đang bị bệnh đậu bò. Bệnh này thường xuyên xuất hiện ở bò làm cho toàn thân con vật nổi các mụn nước. Bác sĩ đã chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của cô gái chăn bò Sarah Nelmes rồi cấy dịch này vào cánh tay của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Sau đó Phipps đã có những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn bệnh đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa vào người cậu. Theo dõi cho thấy có một hiện tượng kỳ lạ: Phipps không hề mắc đậu mùa. Phương pháp “tiêm ngừa” của Jenner xét theo các tiêu chuẩn y đức ngày nay là hoàn toàn sai trái. Nhưng thực tế không nhờ sự liều lĩnh của ông thì cả châu Âu khi đó sẽ rơi vào bàn tay tử thần do đại dịch đậu mùa hoành hành. Đây rõ ràng đó là một hành động có tính khai phá: Đứa trẻ được chủng ngừa đã đề kháng được bệnh. Không dừng lại ở đó, Jenner còn áp dụng cho chính con trai mình, dù đứa trẻ mới 10 tháng tuổi. Kết quả thật tốt đẹp, em bé cũng không bị bệnh đậu mùa. Dựa trên nguyên lý ấy, vị bác sĩ đã hoàn thành công nghệ chế tạo thuốc tiêm chủng với các công đoạn sau: Bước một : Lấy ít vi trùng bệnh đậu mùa trên một con bò mắc bệnh này. Bước hai : Làm cho vi trùng yếu đi. Bước ba : Tiêm các vi trùng này vào cơ thể người qua đường máu. Ông giải thích rằng những người được tiêm chủng sẽ không mắc bệnh đậu mùa nữa vì máu của họ đã có một yếu tố kháng bệnh. Năm 1798, phương pháp tiêm chủng của Jenner được nhân rộng ra khắp thế giới. Jenner gọi phương pháp trên là “vaccination” , đây chính là nguồn gốc khai mở công cuộc tiêm vắc xin ở người phổ biến cho đến ngày nay. Năm 1798, phương pháp tiêm chủng của Jenner được nhân rộng ra khắp thế giới. Hai năm sau, chính phủ Anh đã mời ông tiêm cho binh chủng Hải quân hoàng gia, nhờ khả năng phòng bệnh hiệu quả, vị bác sĩ đã được ban thưởng rất hậu hĩnh. Hoàng đế Napoleon ở Pháp cũng ra lệnh cho toàn bộ binh lính phải tiêm chủng đậu mùa, sau đó Mỹ cũng áp dụng phương pháp này. Thành công lớn nhất của Jenner là chinh phục được bệnh đậu mùa. Năm 1802, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban quốc tế về phòng chống đậu mùa. Vị bác sĩ lần lượt được nữ hoàng Anh, Nga, hoàng đế Pháp, tổng thống Mỹ trao giải thưởng giá trị vì đã có những đóng góp to lớn cho nhân loại. Sau đó Jenner được mời vào làm việc tại Viện Hàn lâm khoa học Pháp. Tại các quốc gia hùng cường như Anh, Pháp, Italy… người ta đã đúc tượng của ông để tưởng nhớ và ghi ơn. Ngày 16/1/1823, Jenner trút hơi thở cuối cùng do tai biến mạch máu não. Chính phủ Anh xin được chôn cất thi hài ông ở Tu viện Westminster, nơi an nghỉ những người con ưu tú của nước Anh và cả nhân loại. Người ta gọi ông là “bác sĩ tài ba bất tử của nhân loại” và “cha đẻ của vắc xin” đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho ngành y học dự phòng thế giới. Theo VnExpress Tags: Chân dung khoa học Vaccine
vanhoc
Trong một vụ phun trào núi lửa, dung nham, đạn núi lửa và tro, cùng các loại khí gas khác nhau được giải phóng khỏi núi lửa hoặc khe nứt của núi lửa. Nhiều vụ phun trào chỉ gây nguy hiểm xung quanh ngọn núi, nhưng có nhiều vụ phun trào lớn nhất của Trái đất tác động lớn trong khu vực hoặc thậm chí phạm vi toàn cầu, gây ảnh hưởng đến khí hậu và góp phần gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt. Các vụ phun trào núi lửa nói chung có thể được mô tả là các vụ phun trào bùng nổ, chúng phun ra đột ngột đá và tro, hoặc phun trào tràn ngập các dòng dung nham lỏng chảy tràn. Một danh sách riêng biệt được liệt kê dưới đây cho từng loại phun trào. Đã có nhiều vụ phun trào như vậy trong lịch sử Trái đất vượt ra ngoài những cách được liệt kê trong các danh sách này. Tuy nhiên, xói mòn và kiến tạo mảng đã xóa vết tích của chúng, nên nhiều vụ phun trào đã không lưu lại đủ bằng chứng cho các nhà địa chất để đo đạc kích thước của chúng. Ngay cả đối với các vụ phun trào được liệt kê ở đây, các ước tính về khối lượng phun trào có thể không hoàn toàn chắc chắn. Phun trào bùng nổ Trong các vụ phun trào bùng nổ, sự phun trào của mắc ma được thúc đẩy bởi sự giải phóng năng lượng với tốc độ nhanh, thường liên quan đến vụ nổ khí gas trộn lẫn vật chất. Các vụ phun trào lịch sử nổi tiếng và phá hoại nhất chủ yếu thuộc loại này. Một giai đoạn phun trào có thể diễn ra một lần phun trào hoặc một chuỗi các vụ phun trào liên tục trong vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng. Các vụ phun trào bùng nổ thường liên quan đến mắc ma đặc, có độ nhớt cao, mắc ma silic hoặc mắc ma felsic, có nhiều chất bay hơi như hơi nước và Cacbon dioxide. Đá mạt vụn núi lửa là sản phẩm chính, thường ở dạng đá tuff. Các vụ phun trào có kích thước tương đương với hồ Toba 74.000 năm trước, ít nhất 2.800 km khối (670 cu mi), hay vụ phun trào Yellowstone cách đây 620.000 năm, khoảng 1.000 km khối (240 cu mi), xảy ra trên toàn thế giới cứ sau 50.000 đến 100.000 năm. Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Danh sách địa chất Danh sách núi lửa Hoạt động núi lửa Đại Tân Sinh Danh sách bậc nhất Nguy hiểm địa chất Phun trào núi lửa
wiki
NGC 134 là một thiên hà xoắn ốc có thanh giống như Dải Ngân hà với các nhánh xoắn ốc của nó được quấn lỏng lẻo xung quanh một vùng trung tâm sáng hình thanh. Nó được phân loại là kiểu Hubble Sbc do các nhánh xoắn ốc liên kết lỏng lẻo. Thiên hà này cách Trái đất khoảng 60 triệu năm ánh sáng, và là một phần của chòm sao Ngọc Phu. Từ hình ảnh trực quan có thể thấy được, đặc điểm nổi bật của NGC 134 là đĩa bị cong vênh, tức là khi nhìn nghiêng nó không phẳng, và có một vệt khí thoát ra từ mép trên của đĩa. Những đặc điểm này gộp lại cho thấy nó đã tương tác với một thiên hà khác, nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh. Thiên hà này có vô số vùng hydro bị ion hóa dọc theo các nhánh xoắn ốc của nó, nơi các ngôi sao đang hình thành. Những vùng này xuất hiện màu đỏ trong hình. Nó cũng có nhiều làn bụi tối che khuất ánh sao. NGC 134 thường được cho rằng đã được phát hiện bởi Sir John Herschel tại Mũi Hảo Vọng, nhưng ông lưu ý rằng nó có thể là vật thể thứ 590 được James Dunlop công bố trong ấn phẩm năm 1828, sáu năm trước khi Herschel quan sát. O'Meara đã gợi ý NGC 134 có thể được đặt tên là Thiên hà Mực khổng lồ. Siêu tân tinh 2009gj trong NGC 134 đã được phát hiện vào năm 2009 bởi nhà thiên văn nghiệp dư Stuart Parker ở New Zealand. Tham khảo Liên kết ngoài Thiên hà xoắn ốc có thanh Tương tác thiên hà Thiên thể NGC Thiên thể PGC Thiên thể MCG Chòm sao Ngọc Phu Thiên hà xoắn ốc
wiki
Phát triển kinh tế tuần hoàn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình hành động Nghị quyết 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể hóa của chương trình hành động này là ‘Phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh’. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang trên con đường đưa nông thôn tiến đến phát triển và văn minh hơn, cùng với một nền kinh tế tuần hoàn an toàn cho người dân nông thôn, cũng như đảm bảo cho môi trường sống trong khu vực. Chế biến sản phẩm tôm xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú tỉnh Cà Mau. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN. Bài 1: Chuyển đổi tư duy sản xuất Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa, thủy sản, trái cây lớn nhất cả nước, cung ứng nguồn nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Đây cũng là khu vực tạo nên sản phẩm cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng của cả nước. Với xu thế hội nhập hiện nay, tiêu chí sản xuất an toàn và an toàn sản xuất được đặt lên hàng đầu để đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng lẫn người sản xuất. Chính vì vậy, thay đổi tư duy phát triển nông nghiệp là cách thức tất yếu để phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất của người dân nông thôn vốn nằm trong các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ. Để có thể hoàn thiện chương trình, đưa nông thôn Việt Nam nói chung, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng lên tầm phát triển mới, cần có sự nỗ lực hướng dẫn của chính quyền địa phương, chung sức, đồng lòng của người dân nơi đây. Theo Nghị quyết 26-NQ/CP ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ, ngành, cơ quan liên quan đưa khu vực nông thôn Việt Nam có hướng đi mới trong phát triển kinh tế hiện nay. Một trong những vấn đề then chốt chính là thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi tư duy sản xuất để phù hợp hơn với tình hình mới, khẳng định vị thế của người dân nông thôn Việt Nam trên thị trường thế giới. Là một trong 13 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Kiên Giang có tiềm năng, vị thế lớn về cây lúa, thủy, hải sản. Đây cũng là địa phương có đóng đóng góp lớn về nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu, góp phần đưa hình ảnh nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới mạnh mẽ hơn. Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, tỉnh Kiên Giang gắn với triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn đạt nhiều kết quả thiết thực. Lãnh đạo tỉnh Kiên Giang nhấn mạnh, nông nghiệp của tỉnh đã phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, bảo đảm an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản. Nông dân Kiên Giang cũng đã phát huy tốt hơn vai trò chủ thể, tích cực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi tư duy từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hàng hóa. Nông thôn có sự thay đổi rõ rệt, khởi sắc và từng bước rút ngắn khoảng cách với đô thị. Dù sản xuất gặp nhiều bất lợi nhưng năm 2022 tỉnh đã có kết quả phát triển kinh tế – xã hội rất ấn tượng. GDP toàn tỉnh đạt mức tăng trưởng 7,7%, cao nhất trong nhiều năm qua. Tổng sản phẩm ước đạt 68.000 tỷ đồng; trong đó, lĩnh vực nông nghiệp Kiên Giang chiếm trên 40%. Riêng ngành nông nghiệp đã hoàn thành đạt và vượt tất cả các chỉ tiêu được giao, ông Lê Quốc Anh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang chia sẻ. Theo Ông Lê Hữu Toàn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, vượt qua một năm nhiều khó khăn, nhất là giá vật tư nông nghiệp, giá xăng dầu tăng cao nhưng ngành nông nghiệp đã tổ chức sản xuất đạt và vượt nhiều chỉ tiêu được giao. Trong đó, tổng diện tích lúa gieo trồng năm 2022 là gần 700.000/704.000 ha, sản lượng lúa thu hoạch đạt trên 4,4 triệu tấn, trong đó, có 5.400 ha sản xuất lúa đạt chuẩn chứng nhận hữu cơ, VietGAP, GlobalGAP và tiêu chuẩn SRP,… Tỉnh đã được Cục Bảo vệ thực vật cấp 101 mã số vùng trồng 11 loại cây trồng, gồm: lúa, xoài, bưởi, chuối, khóm, gừng, khoai lang, khoai môn, măng cụt, mít và sầu riêng. Riêng lĩnh vực thủy sản, tỉnh Kiên Giang định hướng tăng cường hoạt động nuôi thủy sản mặn, lợ, ngọt để bổ sung sản lượng, cũng như tái cấu trúc lại lĩnh vực khai thác thủy sản theo hướng phát triển bền vững. Tổng sản lượng nuôi trồng ước đạt hơn 800.000 tấn năm 2022. Nhiều sản phẩm nông nghiệp của Kiên Giang đã được xuất khẩu sang châu Âu, Mỹ, Nhật Bản. Sản phẩm nông nghiệp của Kiên Giang cũng đã được đa dạng hóa, chất lượng tốt, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng là trụ đỡ của nền kinh tế. Sản xuất kinh doanh nông nghiệp chuyển mạnh theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, an toàn, hiệu quả và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, ông Lê Hữu Toàn cho biết thêm. Cùng với đó, tỉnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái và điều kiện tự nhiên, nhất là chuyển đổi hàng chục nghìn ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây trồng khác và kết hợp nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời, tăng cường chuyển đổi cơ cấu giống, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa để tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí sản xuất. Đối với trồng lúa chú trọng phát triển liên kết sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn, cánh đồng lớn gắn với tiêu thụ, tăng diện tích lúa chất lượng cao, đảm bảo chế biến gạo đạt chuẩn xuất khẩu. Nuôi trồng thủy sản, tỉnh phát triển nhanh nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp, từng bước sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng. Với thế mạnh cá tra và cây lúa, tỉnh An Giang, nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò nền tảng, là bệ đỡ quan trọng giúp kinh tế An Giang vượt qua khó khăn trong bối cảnh suy thoái kinh tế và đại dịch COVID-19. Ngành nông nghiệp ngoài việc đảm nhiệm vai trò an ninh lương thực còn mang về giá trị kim ngạch lớn. Với nhiệm vụ thực hiện nghị quyết 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, tỉnh An Giang cũng đã có những chuyển biến lớn trong sản xuất nông nghiệp. Theo ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, đã đến lúc An Giang phải bắt tay ngay vào chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bắt đầu từ việc xây dựng và hình thành các mã vùng trồng cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh như cá tra, lúa gạo, xoài, rau màu,… xem đây là một cuộc cách mạng nhằm thay đổi tư duy của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp, nếu không sẽ lỡ nhịp. Giai đoạn 2016 – 2020, An Giang đã tập trung triển khai đồng bộ nhiều chương trình, đề án lớn như tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng từ lúa sang rau màu và cây ăn trái, phát triển thủy sản bền vững… Giai đoạn 2020 – 2025, An Giang từng bước hình thành được các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung quy mô lớn đối với các sản phẩm chủ lực của tỉnh như: cá tra, trái cây, rau màu, lúa nếp gắn với liên kết, tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản, đảm bảo chất lượng và nhu cầu thị trường. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh An Giang cũng chuyển dịch theo hướng tăng thủy sản, trái cây, giảm lúa, công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật, quy trình sản xuất tiên tiến; các tiêu chuẩn chất lượng VietGAP, GlobalGAP… được tăng cường áp dụng. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhìn nhận: An Giang thực hiện chuyển đổi từ tuy duy “sản xuất nông nghiệp” sang tư duy “kinh tế nông nghiệp” để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho các sản phẩm nông nghiệp, ban đầu có thể không nhiều, nhưng chất lượng hơn. Về lâu dài, khi sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu, lợi nhuận sẽ cao hơn, chi phí sản xuất thấp và bảo vệ môi trường. Từ đó, hướng đến phát triển nền nông nghiệp dựa trên hệ sinh thái bền vững, vì sức khỏe cộng đồng, giải quyết được ổn thỏa bài toán sản xuất và thích ứng. Cùng với đó, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại ngành nông nghiệp không đơn thuần là phân bổ, điều chuyển quy mô, tăng giảm nội ngành mà đó là quá trình chuyển đổi mô hình sản xuất, thay đổi tư duy lẫn phương thức sản xuất. Chuyển từ phát triển dựa vào doanh nghiệp dẫn đầu sang kết hợp doanh nghiệp dẫn đầu và doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Cùng đó, chú trọng tạo dựng và phát triển đa dạng hệ sinh thái, chuyển từ sản xuất đơn ngành sang sản xuất đa ngành. ————- Bài cuối: Tạo nền kinh tế tiết kiệm
vanhoc
Sân bay quốc tế Doha (tiếng Ả Rập: مطار الدوحة الدولى,, tên giao dịch quốc tế: Doha International Airport) là sân bay duy nhất ở Qatar. Sân bay có 3 nhà thờ Hồi giáo, wi-fi miễn phí, một khu vực mua sắm miễn thuế lớn và vài nhà hàng. Đường băng của nó thuộc loài dài nhất trong các sân bay dân sự. Dù các nâng cấp mở rộng gần đây, nhiều hành khách than phiền sân bay chật hẹp và ồn ào. Người ta phải xếp hàng dài để đi nhà vệ sinh (đặc biệt là phòng nữ), nhà hàng thì nhỏ. Nhiều người phải ngồi trên sàn, do nhiều hành khách trung chuyển qua Qatar Airways nên sân bay này là một trung tâm trung chuyển khách. Sân bay hiện nay sẽ được thay thế bằng sân bay mới sẽ xây xong giai đoạn 1 năm 2008 là Sân bay quốc tế Doha mới. Số liệu thống kê Kể từ 1998, lượng khách và hàng hóa đã tăng đáng kể. Các hãng hàng không Sân bay đóng cửa hoạt động giao thông thương mại vào ngày 27 tháng 5 năm 2014 khi tất cả các hãng hàng không chuyển đến sân bay Doha mới. Chuyến bay cuối cùng khởi hành từ sân bay quốc tế Doha là của Lufthansa khởi hành đi Frankfurt lúc 0h ngày 28/5/2014. Xem thêm Doha Tham khảo Liên kết ngoài Doha International Airport Sân bay Qatar
wiki
Lạc cầm là tên một nhạc cụ hiện đại, do nhạc sĩ Mác Tuyên sáng tạo ra, dựa theo hình tượng con chim Lạc trên hoa văn trống đồng Ngọc Lũ, được mô phỏng và cách điệu để tạo dáng cho Lạc cầm. Đây là loại nhạc cụ đa năng, đa âm sắc đáp ứng được phong cách âm nhạc dân gian truyền thống. Sau nhiều cải tiến, phiên bản cuối cùng là Lạc cầm 16 có 49, dây thể hiện được âm thanh của 4 loại nhạc cụ: Đàn bầu, Đàn tranh, Guitar và Dương cầm. Một lúc 3 nghệ sĩ có thể sử dụng, biểu diễn với cây đàn Hình thành Lạc cầm bắt đầu được tạo ra phiên bản đầu tiên năm 1960, Lạc cầm 2 ra đời năm 1970, Lạc cầm 12 (1986), Lạc cầm 13 (1987), Lạc cầm 15 (1995) và Lạc cầm 16 vào năm 2004. Từ năm 1986, Lạc cầm 12 được giới thiệu ở Hà Nội, với sự biểu diễn của nghệ sĩ Hoàng Anh Tú. Năm 1987, nghệ sĩ Khắc Chí là người biểu diễn thành công nhất với Lạc cầm 12. Lạc cầm 13 ra đời được biểu diễn bởi các nghệ sĩ ưu tú Thanh Tâm, Đức Thành, Ngọc Bích, và được Hội đồng cải tiến nhạc khí dân tộc toàn quốc xếp giải A. Với Lạc cầm 15, nhạc sĩ Mác Tuyên được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng ba năm 1996. Năm 1995, Lạc cầm 15 xuất hiện trên kênh sóng của Đài Truyền hình Việt Nam với sự biểu diễn của nhạc sĩ Hoàng Anh Tú. Tháng 11 năm 2004, tại Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu - bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức lễ công bố Lạc cầm 16. Theo tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cho rằng Lạc cầm là công trình quý giá cho đất nước và dân tộc. Các bản Lạc cầm 12, 13, 15 vừa được nhạc sỹ Mác Tuyên trao tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Lạc cầm 16 Lạc cầm 16 là cây đàn 49 dây, trong đó có 12 dây âm sắc đàn tranh, 6 dây âm sắc đàn phím lõm, 1 dây âm sắc đàn bầu. Người chơi đàn có thể sử dụng cây đàn này để độc tấu, song tấu, tam tấu và phát huy những thủ pháp nghệ thuật ứng tấu, ứng tác. Đây là phiên bản cuối cùng của Lạc cầm, được giới thiệu lần đầu năm 2094 và hoàn thiện vào năm 2007. Cây đàn có bộ phím đàn gõ như đàn dương cầm, nghệ sĩ biểu diễn dễ dàng vừa nhấn cần rung của độc huyền vừa bấm phím đàn gõ, chân đạp pê-đan. Ngay dưới đàn gõ là đàn tranh được chế riêng cho Lạc cầm, bên phải là ghi-ta phím lõm dịch chuyển theo vị trí thích hợp. Trong văn hóa Lạc cầm là cảm hứng cho nhạc sĩ Lương Bằng Quang sáng tác ra Gió Lạc cầm, ca khúc được phát hành trong Album vol.30 của ca sĩ Đan Trường. Năm 1994, Lạc cầm 15 xuất hiện như một điểm nhấn cuối bộ phim điện ảnh có tựa đề Lạc cầm. Tham khảo Nhạc cụ Nhạc cụ Việt Nam
wiki
Giải quần vợt Hàn Quốc Mở rộng 2022 (còn được biết đến với Eugene Korea Open Tennis Championships 2022 ở giải đấu nam và Hana Bank Korea Open 2022 ở giải đấu nữ vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt ATP Tour và WTA Tour tennis diễn ra tại Olympic Park Tennis Center ở Seoul, Hàn Quốc trên mặt sân cứng ngoài trời từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 9 năm 2022 ở giải đấu nữ và từ ngày 26 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 2022 ở giải đấu nam. Đây là lần thứ 18 (nữ) và lần thứ 1 (nam) kể từ năm 1996 giải đấu được tổ chức. Giải đấu là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2022 (sau khi là một giải đấu cấp độ WTA 125 vào năm 2021), và ATP Tour 250 trong ATP Tour 2022 sau khi các giải quần vợt ở Trung Quốc bị hủy vì đại dịch COVID-19. Nội dung đơn ATP Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 19 tháng 9 năm 2022. Vận động viên khác Đặc cách: Hong Seong-chan Nam Ji-sung Kaichi Uchida Vượt qua vòng loại: Chung Yun-seong Nicolás Jarry Yosuke Watanuki Wu Tung-lin Thua cuộc may mắn: Aleksandar Kovacevic Shintaro Mochizuki Hiroki Moriya Ryan Peniston Rút lui Trước giải đấu Borna Ćorić → thay thế bởi Hiroki Moriya Taylor Fritz → thay thế bởi Shintaro Mochizuki Cristian Garín → thay thế bởi Emilio Gómez Marcos Giron → thay thế bởi Ryan Peniston Brandon Nakashima → thay thế bởi Aleksandar Kovacevic Frances Tiafoe → thay thế bởi Tseng Chun-hsin Jiří Veselý → thay thế bởi Taro Daniel Alexander Zverev → thay thế bởi Radu Albot Nội dung đôi ATP Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 19 tháng 9 năm 2022 Vận động viên khác Đặc cách: Chung Hyeon / Kwon Soon-woo Nam Ji-sung / Song Min-kyu Thay thế: Radu Albot / Tseng Chun-hsin Rút lui Matthew Ebden / John Peers → thay thế bởi Miomir Kecmanović / John Peers Marcos Giron / Mackenzie McDonald → thay thế bởi Radu Albot / Tseng Chun-hsin Nội dung đơn WTA Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 9 năm 2022. Vận động viên khác Đặc cách: Jeong Bo-young Han Na-lae Park So-hyun Bảo toàn thứ hạng: Kimberly Birrell Eugenie Bouchard Yanina Wickmayer Vượt qua vòng loại: Back Da-yeon Lizette Cabrera Jana Fett Ankita Raina Astra Sharma Lulu Sun Thua cuộc may mắn: Victoria Jiménez Kasintseva Rút lui Trước giải đấu Katie Boulter → thay thế bởi Anna Blinkova Aleksandra Krunić → thay thế bởi Priscilla Hon Evgeniya Rodina → thay thế bởi Yanina Wickmayer Katie Swan → thay thế bởi Victoria Jiménez Kasintseva Nội dung đôi WTA Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 9 năm 2022. Vận động viên khác Đặc cách: Choi Ji-hee / Park So-hyun Kim Da-bin / Ku Yeon-woo Nhà vô địch Đơn nam Yoshihito Nishioka đánh bại Denis Shapovalov 6–4, 7–6(7–5) Đơn nữ Ekaterina Alexandrova đánh bại Jeļena Ostapenko 7–6(7–4), 6–0 Đôi nam Raven Klaasen / Nathaniel Lammons đánh bại Nicolás Barrientos / Miguel Ángel Reyes-Varela 6–1, 7–5 Đôi nữ Kristina Mladenovic / Yanina Wickmayer đánh bại Asia Muhammad / Sabrina Santamaria 6–3, 6–2 Tham khảo Liên kết ngoài ATP Tour 2022 WTA Tour 2022 Thể thao Hàn Quốc năm 2022 Seoul thập niên 2020 Giải quần vợt Hàn Quốc Mở rộng
wiki
Zoilos II Soter (Tiếng Hy Lạp: , Soter có nghĩa là "Vị cứu tinh") là một vị vua Ấn-Hy Lạp, ông đã cai trị ở miền đông Punjab. Bopearachchi xác định niên đại của ông là vào khoảng năm 55-35 TCn, và được RC Senior ủng hộ. Ông dường như đã là một trong những vị vua đã kế vị Apollodotos II Đại đế, vị vua vĩ đại cuối cùng của vương quốc Ấn-Hy Lạp, ở phần phía đông của vương quốc. Tất cả những vị vua này đều sử dụng biểu tượng giống như Apollodotus II, biểu tượng chiến đấu của nữ thần Pallas Athene được Menander I sử dụng đầu tiên, và thường cũng là cùng một danh hiệu Soter (Vị cứu tinh). Do đó có thể là họ thuộc về cùng một triều đại, và Zoilos II cũng có thể là một người họ hàng của vị vua Zoilos I trước đó, nhưng việc thiếu các nguồn ghi chép khiến cho tất cả trở thành không chắc chắn. Tiền xu của Zoilos II Zoilos II đã ban hành đồng drachm bạc với chân dung mang vương miện và hình ảnh Pallas Athena theo phong cách khá thô, và hai loại huy chương đồng với các tên gọi khác nhau: "Apollo, cùng với giá ba chân và con voi nhỏ", và "Voi với giá ba chân". Các đồng tiền xu của Zoilos II đã được tìm thấy trong các kho báu Sutlej và Sialkot II, và trong kho báu Jhelum ở miền đông Punjab (Bopearachchi, p138). Ngoài ra, tiền xu của Zoilos II còn được tìm thấy dưới nền ngôi đền nhỏ hình chữ nhật có niên đại thế kỷ thứ 1 TCN, tại tu viện Dharmarajika, gần Taxila (John Marshall, "Taxila, khai quật khảo cổ học", p. 248.) Hai đồng tiền xu khác của Zoilos II cũng đã được tìm thấy trong kho báu Bara gần Peshawar, cùng với những đồng tiền của các vị vua Ấn-Scythia như Azes I, Azilises, Azes II. Chữ lồng Nhiều chữ lồng trên các đồng tiền của Zoilos II được viết bằng tiếng Kharoshti, điều này đã chỉ ra rằng chúng chắc chắn được đúc theo phong cách Ấn Độ. Đây là một đặc điểm của những đồng tiền xu thuộc về các vị vua Ấn-Hy Lạp ở miền đông Punjab, chẳng hạn như Strato I, Apollodotus II, và đôi khi là Apollophanes và Dionysios. Chú thích Xem thêm Vương quốc Hy Lạp-Bactria Hy Lạp-Phật giáo Đế chế Seleukos Ấn-Scythia Vương quốc Ấn-Parthia Vương triều Quý Sương Tham khảo "The Greeks in Bactria and India", W.W. Tarn, Cambridge University Press. "Coins of the Indo-Greeks", Whitehead. Vua Ấn-Hy Lạp Vua Ấn Độ
wiki
Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là Đường Duệ Tông Đậu Đức phi (唐睿宗窦德妃) hay Chiêu Thành Đậu Thái hậu (昭成窦太后), là một phi tần của Đường Duệ Tông Lý Đán, mẹ ruột của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Bà chưa từng làm Hoàng hậu, thụy hiệu này do con trai bà sau khi lên ngôi đã truy tặng. Tiểu sử Xuất thân Đậu Đức phi xuất thân từ đại gia tộc Hà Nam Đậu thị (河南窦氏), một nhánh của gia tộc Tiên Ti là Một Lộc Hồi thị (没鹿回氏) trong đại bộ lạc Hột Đậu Lăng thị (纥豆陵氏). Thời Bắc Ngụy, gia tộc Hột Đậu Lăng thị thường nắm nhiều chức vụ quan trọng, từ khi Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành dời đô đến Lạc Dương, Hột Đậu Lăng thị cải họ thành [Đậu thị] theo kiểu Hán. Cao tổ của bà là Vĩnh Phú huyện trung công Đậu Thiện (窦善), chú của cha vợ Đường Cao Tổ Lý Uyên là Đậu Nghị (窦毅). Tằng tổ phụ của Đậu thị là Trần Dung công Đậu Kháng (窦诞), tổ phụ là Sân Quốc công Đậu Đản (窦诞), về sau cưới Tương Dương công chúa (襄陽公主) là con gái của Đường Cao Tổ. Cha Đậu thị là Đậu Hiếu Kham (窦孝谌), làm đến chức Thái thường Thiếu khanh (太常少卿), Nhuận châu Thứ sử; về sau được tặng tước Bân quốc công (邠國公), thân mẫu của bà là Bàng thị (龐氏). Vào thời gian Duệ Tông còn là Tương vương (675 - 678), Đậu thị nhập Vương phủ làm Nhụ nhân (孺人), rất đĩnh ngộ thuận lễ, được xưng là [Tư dung uyển thuận, động tuần lễ tắc; 姿容婉顺,动循礼则]. Khi Tương vương tức vị, trở thành Đường Duệ Tông, Đậu nhụ nhân được phong làm Đức phi (德妃). Năm Quang Trạch thứ 2 (685), Đậu Đức phi sinh ra Lý Long Cơ, sau đó liên tiếp sinh ra hai con gái là Kim Tiên công chúa và Ngọc Chân công chúa. Bị giết hại và hậu sự Năm Tái Sơ thứ 2 (690), dưới áp lực của các phe cánh, Duệ Tông nhường ngôi cho mẹ mình là Võ hậu, bà chính thức trở thành Hoàng đế Võ Chu, làm gián đoạn nhà Đường. Với tư cách con trai của Võ Hoàng, Duệ Tông trở thành Trữ quân, nhưng nhận tước hiệu [Hoàng tự; 皇嗣] thay vì Thái tử, đổi họ Lý thành họ Võ. Năm Trường Thọ thứ 2 (693), Thị nữ Vi Đoàn Nhi được Võ Tắc Thiên yêu quý, do có mâu thuẫn với Lý Đán nên âm mưu hại Hoàng tự, ngầm mật vu cáo Đậu thị cùng Hoàng tự phi Lưu thị dùng thuật bùa chú ám hại Võ hậu. Nghe thấy thế, Võ hậu tức giận triệu Đậu thị và Lưu thị vào Vạn Phụng Thần cung (萬象神宮), và ngầm cho ngươi giết đi. Xác của cả hai người không thể tìm thấy được. Mẹ của Đậu thị là Bàng thị trong lúc dâng hương cầu phúc, bị gia nô tố cáo lên Võ Tắc Thiên, Tiết Quý Sưởng (薛季昶) phán tội chết, nhưng nhờ có Thị ngự sử Từ Hữu Công (徐有功) nói hộ mà Bàng thị không bị xử chém. Còn cha của Đậu thì là Đức Kham bị lưu đày La Châu, qua đời tại đây, các anh em trong nhà cũng bị biếm đến Lĩnh Nam. Hoàng tôn Lý Long Cơ khi đó chỉ 8 tuổi, được chị của Đậu thị là Đậu Thục (窦淑) và một người em gái khác trong họ nuôi nấng. Duệ Tông phục vị, thương cảm Đậu thị cùng Lưu hoàng hậu, lại vì Đậu thị là mẹ của Thái tử Lý Long Cơ, nên truy tặng thụy hiệu làm Chiêu Thành hoàng hậu (昭成皇后), phụng táng tại Tĩnh lăng (靖陵), lập miếu tại kinh sư, gọi là Nghi Khôn miếu (儀坤廟). Về sau Huyền Tông đăng cơ, cải tôn làm Hoàng thái hậu, dời về hợp táng ở Kiều lăng (桥陵) cùng Duệ Tông và Lưu hoàng hậu. Huyền Tông còn thiên vị mẹ đẻ, đưa ngay thần vị của bà lên Thái Miếu phụng thờ cùng Duệ Tông, còn Túc Minh Lưu hoàng hậu thì mãi về sau mới đưa lên thờ theo đúng lễ chế. Năm Thiên Bảo thứ 8 (749), lại dâng thụy hiệu là Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu (昭成順聖皇后). Về 2 người chị em của mẹ đã có công nuôi nấng, Đường Huyền Tông thiện đại họ bằng vật chất và lễ nghĩa, gia phong Đậu Thục là Yến Quốc phu nhân (燕國夫人), còn Đậu thị kia là Đặng Quốc phu nhân (鄧國夫人). Ngoài ra, Đặng Quốc phu nhân Đậu thị có bốn người con trai là Trương Khứ Hoặc (张去惑), Trương Khứ Nghi (张去疑), Trương Khứ Xa (张去奢) và Trương Khứ Dật (张去逸) dần được cất nhắc mà phong lên hàng đại quan. Con gái của Trương Khứ Dật sau này chính là Túc Tông Trương hoàng hậu, con dâu của Huyền Tông. Hậu duệ Đậu Đức phi Chiêu Thành hoàng hậu có với Đường Duệ Tông Lý Đán 1 hoàng tử và 2 hoàng nữ, gồm: Đường Huyền Tông Lý Long Cơ [李隆基], hoàng tam tử của Duệ Tông. Kim Tiên công chúa (金仙公主, 689 - 732), hoàng bát nữ, sơ phong Tây Thành huyện chúa (西城县主). Năm 710, phong Tây Thành công chúa (西城公主), sau cải phong như hiện tại. Xuất gia làm đạo sĩ, pháp hiệu Vô Thượng Đạo (无上道). Ngọc Chân công chúa (玉真公主, 690 - 762), hoàng cửu nữ, tiểu tự Huyền Huyền (玄玄), còn có hiệu Trì Doanh (持盈), sơ phong Sùng Dương huyện chúa (崇昌縣主). Năm 710, tấn phong Xương Long công chúa (昌隆公主), sau cải phong như hiện tại. Xuất gia làm đạo sĩ, pháp hiệu Vô Thượng Chân (无上真). Xem thêm Cựu Đường thư Tân Đường thư Tư trị thông giám Túc Minh Lưu hoàng hậu Tham khảo Cựu Đường thư Tân Đường thư Phi tần nhà Đường Người Hà Nam (Trung Quốc) Mất năm 693 Sinh thế kỷ 7
wiki
Nhân viên văn thư ( or ) là một nhân viên cổ cồn trắng thực hiện các nhiệm vụ văn phòng nói chung, hoặc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến bán hàng tương tự trong môi trường bán lẻ (một nhân viên bán lẻ). Trách nhiệm của nhân viên văn thư (thư ký) thường bao gồm lưu trữ hồ sơ, nộp hồ sơ, quầy dịch vụ nhân sự, luật sư sàng lọc và các nhiệm vụ hành chính khác. Lịch sử và từ nguyên Từ clerk có nguồn gốc từ tiếng Latin clericus có nghĩa là "giáo sĩ", đó là cách viết theo tiếng Latinh của tiếng Hy Lạp κληρικός (klērikos) từ một từ có nghĩa là "lô" (theo nghĩa là vẽ rất nhiều) "hoặc" diện tích đất ". Hiệp hội bắt nguồn từ các tòa án thời Trung cổ, nơi văn bản chủ yếu được ủy thác cho các giáo sĩ vì hầu hết giáo dân không thể đọc. Trong bối cảnh này, nhân viên văn thư từ có nghĩa là "học giả". Ngay cả ngày nay, thuật ngữ nhân viên văn thư thường xuyên chỉ định một loại giáo sĩ (sống theo một quy tắc). Các thuật ngữ nhận thức trong một số ngôn ngữ, ví dụ, Klerk trong tiếng Hà Lan, bị hạn chế ở một cấp bậc cụ thể, khá thấp trong hệ thống phân cấp hành chính. Hoa Kỳ Nhân viên văn thư có lẽ là nhóm nghề nghiệp lớn nhất ở Hoa Kỳ. Năm 2004, có 3,1 triệu nhân viên văn thư văn phòng, 1,5 triệu giám sát viên hành chính văn phòng và 4,1 triệu thư ký. Nghề văn thư thường không yêu cầu bằng đại học, mặc dù một số giáo dục đại học hoặc 1 đến 2 năm trong các chương trình dạy nghề là bằng cấp phổ biến. Làm quen với thiết bị văn phòng và các chương trình phần mềm nhất định cũng thường được yêu cầu. Nhà tuyển dụng có thể cung cấp đào tạo văn thư. Mức lương trung bình cho nhân viên văn thư là 23.000 đô la, trong khi thu nhập trung bình quốc gia cho công nhân từ 25 tuổi trở lên là 33.000 đô la. Mức lương trung bình dao động từ $ 22,770 cho nhân viên văn phòng nói chung đến $ 34,970 cho thư ký và $ 41,030 cho người giám sát hành chính. Nhân viên văn thư được các nhà xã hội học người Mỹ như William Thompson, Joseph Hickey hay James Henslin coi là tầng lớp trung lưu khi họ thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên với sự tự chủ tương đối ít. Nhà xã hội học Dennis Gilbert, lập luận rằng sự phân chia cổ trắng và cổ xanh đã chuyển sang sự phân chia giữa các chuyên gia, bao gồm một số người bán chuyên nghiệp và công nhân cổ trắng thường xuyên. Giám sát viên văn phòng cổ trắng có thể được coi là giai cấp tiểu tư sản với một số thư ký được đặt trong một phần của tầng lớp kinh tế xã hội nơi tầng lớp lao động và trung lưu chồng chéo. Các vị trí văn thư truyền thống đã được giữ gần như độc quyền bởi phụ nữ. Thậm chí ngày nay, đại đa số nhân viên văn thư ở Mỹ vẫn tiếp tục là nữ. Cũng như các vị trí chủ yếu là nữ khác, nghề văn thư, và ở một mức độ nào đó tiếp tục được giao, có uy tín tương đối thấp trên cơ sở phân biệt giới tính. Thuật ngữ nhân viên cổ hồng thường được sử dụng để mô tả các vị trí cổ áo trắng chủ yếu là nữ. Nhân viên văn thư Do phần lớn các vị trí văn thư do phụ nữ nắm giữ, lĩnh vực này phần lớn không có tổ chức công đoàn. Với sự suy giảm của ngành công nghiệp và sự gia tăng của các công việc cổ trắng, phong trào lao động cần phải khai thác vào nhóm lớn các thành viên tiềm năng này để duy trì phong trào. Nhiều cuộc tranh luận tồn tại như là những chiến lược để áp dụng khi tổ chức nhân viên văn thư nữ. Một phần của vấn đề là nhiều thư ký nữ không muốn trả lệ phí của họ. Một số người cho rằng tập trung vào các vấn đề nhạy cảm về giới sẽ là con đường hiệu quả nhất, vì phụ nữ có xu hướng né tránh các hiệp hội do nam giới thống trị. Những người khác cho rằng phụ nữ cũng là những chiến binh như đàn ông khi nhận được sự bất bình, chẳng hạn như sự sẵn lòng của các nhân viên nữ của một công ty bảo hiểm Wisconsin để chống lại các hành vi phân biệt đối xử.. Vẫn còn những người khác cho rằng vấn đề không nằm ở chiến thuật được sử dụng để "bán" công đoàn cho người lao động, nhưng trong việc phát triển sự lãnh đạo của các công nhân và đào tạo họ để tổ chức người cộng tác với họ." Chức năng và tiêu đề Thư ký nhập dữ liệu Nhân viên văn thư bán hàng (như trong bán hàng tạp hóa) Nhân viên văn thư Deli Nhân viên lễ tân khách sạn Nhân viên văn thư dịch vụ Nhân viên văn thư máy tính tiền Nhân viên văn thư lâm sàng Nhân viên văn thư tài liệu Xem thêm Nhân viên văn thư luật sư Nhân viên văn thư (1994) Nam tước Clerk Gia đình nhân viên văn thư Nhân viên văn thư công việc Nhân viên văn thư Toà án Nhân viên văn thư luật Nhân viên văn thư pháp lý Nhân viên văn thư của Bộ Tư pháp Lễ tân Nhân viên văn thư bằng sáng chế Cổ áo hồng Thư ký Nhân viên cổ cồn trắng Tham khảo Nghề bán hàng Nghề văn phòng và hỗ trợ hành chính Công việc văn phòng
wiki
Đức là một nước cộng hòa nghị viện, dân chủ tự do, liên bang, nơi quyền lực lập pháp liên bang được trao cho Bundestag (quốc hội Đức) và Bundesrat (cơ quan đại diện của Länder, các quốc gia khu vực của Đức). Hệ thống đa đảng, từ năm 1949, đã bị chi phối bởi Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo (CDU) và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD). Tư pháp của Đức độc lập với hành pháp và lập pháp, trong khi thông thường các thành viên hàng đầu của hành pháp cũng là thành viên của cơ quan lập pháp. Hệ thống chính trị được quy định trong hiến pháp năm 1949, Grundgesetz (Luật cơ bản), vẫn có hiệu lực với những sửa đổi nhỏ sau khi thống nhất nước Đức năm 1990. Hiến pháp nhấn mạnh việc bảo vệ quyền tự do cá nhân trong một danh mục rộng rãi về quyền con người và quyền công dân và phân chia quyền lực giữa cấp liên bang và cấp bang và giữa các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tây Đức là một thành viên sáng lập của Cộng đồng châu Âu vào năm 1958, trở thành EU vào năm 1993. Nó là một phần của Khu vực Schengen, và là thành viên của khu vực đồng euro kể từ năm 1999. Quốc gia này là thành viên của Liên hợp quốc, NATO, G7, G20 và OECD. Tham khảo Chính trị Đức
wiki
Mèo lông ngắn Colorpoint là một loạt nhiều giống mèo nhà khác nhau. Tùy thuộc vào việc đăng ký cho mèo, chúng có thể được coi là một giống mèo riêng biệt,hoặc thường là một biến thể của một giống mèo có sẵn, nếu được chấp nhận. Những con mèo này được phân biệt bởi sự gióng nhau của chúng với hàng loạt mười sáu điểm màu khác nhau, không nằm trong bốn màu của Mèo Xiêm theo tiêu chuẩn. Sự đa dạng ban đầu được tạo ra bằng cách lai giống Mèo Xiêm với Mèo lông ngắn Hoa Kỳ, tuy cách lai này đã tạo ra Mèo lông ngắn phương Đông, nhưng phép lai này cũng tạo ra kết quả khác, chính là Mèo lông ngắn Colorpoint. Tính cách Mèo lông ngắn Colorpoint là một giống mèo rất thông minh, vui tươi và thân thiện với mọi người. Chúng cực kỳ trìu mến, cởi mở và tận hưởng việc thư giãn xung quanh và khi vui đùa với mọi người. Cũng chính vì sở hữu tính cách đó, chúng được xem là một loại mèo "hướng ngoại". Mèo lông ngắn Colorpoint cũng có thể rất nhạy cảm với việc hay sợ, không thích nghi tốt với những thay đổi của môi trường hoặc người lạ. Giống như Mèo Xiêm, chúng có thể phát ra âm thanh lớn nhằm đòi hỏi sự chú ý và cảm thấy cần thiết đồng hành cùng con người. Chúng có hơn 100 âm thanh khác nhau, nhiều hơn so với những giống mèo thông thường, làm cho những tiếng kêu "meo meo" của chúng rất khác thường. Con đực đôi khi được nhận xét là quá hung hăng đối với các loài động vật khác, sẽ chiến đấu với những con mèo khác bất cứ khi nào nó cảm thấy lãnh thổ của mình đã bị xâm chiếm hoặc chỉ để thể hiện sự thống trị. Tham khảo Giống mèo
wiki
Hướng dẫn Để diễn đạt một nội dung vừa có tính cách thuyết phục, vừa có tính cách phê phán, tác giả đã lập luận rất chặt chẽ như chúng ta đã thấy ở phần kết cấu và bố cục – lời lẽ có tình, có lí, khi thì thiết tha, khi thì đanh thép, chuyển từ đầu đến cuối một cách lôgíc. Để phân rõ lẽ phải – trái, chính – tà, tác giả đi từ xa đến gần, từ vấn đề chung đến vấn đề cụ thể trước mắt. Mở đầu, tác giả dẫn chứng trong sử sách đời xưa để nói khả năng của tướng sĩ đời nay, trong hoàn cảnh lức bấy giờ. Tác giả chuyển xuống phân tích nỗi giặc tàn ác như thế nào, nỗi mình thâm giao như thế nào, tiếp đó tác giả vạch ra hai viễn cảnh trái ngược nhau, rồi kết thúc bằng lời kêu gọi đanh thép; hoặc theo ta, hoặc theo giặc, hoặc là bạn, hoặc là thù, hoặc là danh thơm muôn thuở, hoặc là tiếng xấu nghìn thu. Phương pháp tương phản, đi đôi với lối văn biền ngẫu trong bài này thật là “đắc dụng”. Ở đây chẳng những ý từng đoạn đối nhau, mà ý từng câu đối nhau, từng chữ đối nhau. Chúng ta đọc đến đâu là lẽ phải – trái nổi bật đến đấy; “Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức. Nghe nhạc Thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm…”. Rõ ràng, chữ đập nhau, đối nhau chan chát, ai là người không nhận rõ chính – tà? Tác giả lại biết phối hợp phương pháp điệp ngữ, điệp ý để làm tăng thêm tính thiết tha, tính bi tráng của câu văn. Để đập vào tư tưởng an hưởng thái bình trong tướng sĩ lúc đó, tác giả viết: hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc… hoặc…”. Tác giả nêu lên hình tượng cựa gà trống bên áo giáp, mẹo cờ bạc bên quân mưu. Sự vật có vẻ hài hước, nhưng ý nghĩa thật nghiêm trang. Bằng phương pháp tương phản kết hợp phương pháp so sánh, tác giả nêu ra hai viễn cảnh: Để làm tăng thêm tính quan trọng của vấn đề, tác giả nhắc lại ý nghĩa đối với quần chúng nhân dân lúc bấy giờ và sự thanh nghị của người đời sau trong sử sách. Sau đó tác giả đặt một mệnh đề nghi vấn nhưng lại rất khẳng định: Trong cảnh u ám: “Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không Trong cảnh huy hoàng: “Lúc bấy giờ, dẫu các người không muốn vui chơi phỏng có được không’?”. Đây là một đoạn văn hùng biện tài tình, khích lệ cao độ lòng căm thù, chí phấn đấu. Nhà văn Đặng Thai Mai có nhận xét về đoạn văn này: “Văn thể đoạn này, lời lẽ một bài thuyết pháp. Đập từng chữ, dằn từng câu, Hưng Đạo Vương đánh mạnh vào tình cảm tu ố của bộ hạ, để cho họ biết chán, biết ghét, biết khinh bỉ cái đời hưởng thụ và vô ích của bọn tín đồ chủ nghĩa khoái lạc”.
vanhoc
Trần Đại Vầng Sáng Bên Kia Sông Việt bước xuống phà chờ sang bên kia sông. Chàng đứng chống tay lên thành tàu nhìn mông lung hết mây trời rồi sóng nước. Trời se se lạnh. Việt chợt đổi ý không sang sông nữa, chàng đi ngược dòng hành khách đang xuống phà để bước lên bờ. Lên đến nơi, Việt chưa vội về nhà, chàng đứng nhìn thủy thủ đoàn chuẩn bị cho phà rời bến. Họ cuộn lại dây cáp rồi rút cầu nối, tiếng máy tàu chuyển động làm lăn tăn sóng nước. Chiếc phà từ từ rời bến cảng, ngọn hải đăng đứng một bên nhìn xuống con tàu ra đi bình thường, không luyến lưu, không ân hận và không trách cứ như những suy tư đang giao động trong lòng Việt. Chàng đứng nhìn từng lượn sóng trắng xóa đuổi theo phía sau con tàu cho đến khi cả hai đều khuất bóng, dòng sông lại êm đềm trôi, lòng Việt cũng vừa phẳng lặng chàng cất bước hướng về nhà. Đã ba lần trong tháng nay Việt mua vé xuống phà rồi lại đổi ý không đi. Bên kia sông là thành phố đèn đêm sáng rực mây trời, nhà cửa nguy nga, tráng lệ, những cửa hàng sang trọng bên lề đường luôn tấp nập người qua lại. Sát bờ sông có một công viên sạch sẽ, thơ mộng, ban ngày thì cây cao rợp bóng, về đêm có đèn màu lung linh mê hoặc, trữ tình. Việt chỉ biết bên kia sông qua phim ảnh chứ chàng chưa bao giờ đặt chân lên một lần cho tận mắt thấy. Việt rảo chân đi nhanh qua những nhà máy sắt thép rồi những hàng quán cũ kỹ, chàng về đến làng phố cổ thì đường phố cũng vừa lên đèn. Trong nhá nhem tối, một bé gái ốm tong teo ngối bật dậy từ ghế đá, chạy oà ra ôm lấy Việt vừa mừng vừa nức nở: _ Ba ! Ba ! Sao hôm nay ba về trễ vậy? _ Ba bận thêm việc. Con đã ăn gì chưa, Liên? Việt hỏi con gái cho có lệ, chàng biết dầu có đói mấy đi nữa, bé Liên cũng đợi cha về ăn chung bữa tối. Hai cha con gắn bó, khắng khít như an ủi nhau luôn kể từ ngày Hương, vợ chàng bỏ nhà ra đi không một lời nhắn nhủ, từ biệt. Sự đột ngột ra đi của người vợ hiền lành, đảm đang là một mất mát lớn nhất trong đời Việt, chàng tưởng con người từ tâm ấy sẽ mau chóng quay về đoàn tụ với cha con chàng nhưng tháng ngày trôi qua trong nỗi mong đợi khốn cùng, vợ chàng vẫn biệt vô âm tín. Việt trở thành gà trống nuôi con từ lúc bé Liên lên ba cho tới nay, nó sắp ăn sinh nhật mười hai tuổi. Việt không bao giờ than trách vợ vô tình mà ngược lại chàng thương nhớ khôn nguôi vì chàng hiểu sự chịu đựng nỗi nhọc nhằn bên đứa con bị hen suyễn, kén ăn, gầy ốm và bệnh hoạn như ngọn nến lung lay trước gió sẽ từ giã cõi đời bất cứ lúc nào. Cả năm trời trước ngày ra đi, Hương như người điên loạn, nàng không còn kề tai nghe hơi thở của bé Liên có khá không mà chỉ lắng nghe xem chừng nó đã tắt hơi thở hay chưa. Những ngày còn đi học Hương là một sinh viên xinh đẹp được nhiều người theo sau van xin tình ái nhưng nàng quyết định lấy Việt chỉ vì mấy lý do đơn giản là chàng thích có con gái đầu lòng và rất yêu trẻ nhỏ. Việt thì nghĩ khác, chàng tin là mình trội hơn mọi người vì cái mã bên ngoài và tốt bụng. Họ trở thành cặp vợ chồng thật xứng đôi và hạnh phúc. Tin vui thay nhau tràn vào căn nhà khang trang, sung túc khi tổ ấm có bé Liên chào đời, cả hai đều lên chức nơi sở làm, tiền bạc không mong mà chương mục trong băng cứ phồng thêm hằng tháng. Bé Liên thừa hưởng cái đẹp của mẹ, bé thật mũm mĩn, xinh xắn. Nó thích giựt tóc mẹ, sờ mặt bố, những âm thanh đầu đời của bé Liên thật khó quên và dễ thương làm sao. Bé Liên khi cuộn tròn ngủ mê trong lòng mẹ, lúc nằm mút tay say giấc trên ngực cha. Vào những ngày cuối tuần hai vợ chồng hết mang bé Liên đi chơi biển cát lại đìu con đi leo núi, hoặc băng rừng. Họ lăn mình trên thảm cỏ công viên, họ xây những lâu đài trên cát, họ nằm ôm con thả thuyền trôi tự do theo dòng nước. Hạnh phúc như một đặc ân, một sự thiên lệch của thượng đế ban cho gia đình bé nhỏ của Việt. Năm bé Liên lên ba tuổi một cơn dịch cúm trong vùng vửa đi khỏi nhưng đã gởi lại trong người bé cơn hen suyễn không thuốc thang nào chữa khỏi. Vợ chàng làm kế toán cho một công ty rất là bận rộn, việc làm và con gái đã làm cho người nàng tóp lại, dung nhan tàn tạ một cách nhanh chóng vì nhọc nhằn và mất ngủ. Mỗi lần bé Liên lên cơn là nàng thức dậy săn sóc, hết lòng giúp con gái lấy lại hơi thở bình thường mới yên tâm ngủ tiếp. Có khi nằm ôm con khóc dai dẳng như không có gì đền bù được nỗi đau thương, khó nhọc của nàng. Nhiều đêm vì thương vợ, Việt đã bồng con ra nằm bên lò sưởi để cho vợ được ngủ yên giấc và ngày mai sẽ không ngủ gật nơi sở làm. Hương tự bỏ ngang việc làm, ở nhà được hơn ba tuần thì đột ngột ra đi vĩnh viễn bỏ lại sau lưng một bé thơ bệnh hoạn và người chồng chẳng rành bếp núc, việc nhà một chút nào. Việt đưa con vào cửa hàng lấy thuốc xịt hen suyễn rồi hai cha con tiếp tục cuốc bộ về nhà. Chàng xoa cánh tay gầy guộc của con gái hỏi: _ Con lạnh không? _ Dạ hơi hơi thôi! Bắt đầu mùa lạnh rồi đó ba. _ Con nhớ mặc nhiều áo vào! Tối hôm qua con lên cơn nhiều lần hơn trước rồi đó. _ Tội nghiệp ba! Ba thiếu ngủ, ở xưởng ba có ngủ gật không ba? _ Có chứ! Ha ha … không ai biết ba thường chui vô thùng giấy đóng hàng mà đánh giấc. _ Nếu họ biết, họ có đuổi việc không ba ? _ Chắc la rầy thôi, cấp trên thương ba lắm, họ cũng thường hỏi thăm con luôn. _ Vậy hở ba! Hai cha con về đến sân chung cư nhưng không vội vào nhà, họ ngồi xuống thềm thang cấp. Việt kể tiếp chuyện nội, ngoại, cái mương nước, vườn trầu, khóm tre, ngõ trúc ở một nơi xa xôi gọi là quê hương cho con gái nghe. Liên nghiêng đầu gối lên đùi bố, hơi ấm của bố vừa đẩy lùi một cơn hen nhỏ. Trăng lên khỏi một vùng trời hừng sáng kinh thành bên kia sông. Trăng đêm nay trông buồn buồn, một thoáng gì ấm ức trong luồng gió mới thoảng qua, đèn đường vàng vọt gục đầu xuống cô liêu vì phố cổ đã vắng người. Bé Liên đã nằm yên, hơi thở đều đều phát ra những âm thanh ái ngại và não lòng. Việt moi túi lấy thuốc hút nhưng gói thuốc không còn lấy một điếu. Những đồng bạc lẻ vừa mua hết thuốc men cho Liên. Việt nhịn hút, chàng bế con vào nhà. Vài ôm sau, một buổi chiều cuối tuần, phố cổ lại nhộn nhịp kẻ qua người lại, du khách đổ về tham quan, mua sắm và thưởng thức các món ăn đặc sản. Nơi ghế đá cạnh bờ sông đứa bé gái ngồi chờ cha đi làm về. Mặt trời chạm xuống phía cuối một đường phố, hoàng hôn tắt lịm, đường phố lên đèn…"ba và món quà sinh nhật sắp về đến nơi", con bé thầm bảo với mình. Sạp hàng đóng cửa, xếp dù, những người cuối cùng vừa rời khỏi quán ăn, tiếng lọc cọc của con ngựa gìa nua kéo xe thồ du khách vang to, nhỏ dần và phố cổ chìm trong im vắng…"ba và món quà sinh nhật có lẽ về muộn nhưng sắp tới rồi". Người con gái đứng lên làm bóng nó giật mình, hoảng hồn đổ dài trên đường khuya hiu hắt. Sáu năm sau. Một buổi chiều nắng nhạt bờ sông, nơi có nhiều cao ốc vừa mọc lên, đường phố toàn là xe cộ mới toanh, đắt tiền. công viên nơi bờ sông đã thêm nhiều ghế đá, những sân chơi trẻ em có thềm êm như cao su và một bến phà đèn giăng lung linh quanh năm như ngày hội lớn. Công viên nhìn về phía nào cũng thơ mộng chỉ có phía bờ sông bên kia là phố cổ vẫn trơ trơ bảo thủ với thời gian và những xưởng sắt thép vẫn theo năm tháng làm đen một góc trời. Một người đàn bà đứng tuổi đi qua đi lại nhiều lần ở một góc công viên, mắt luôn chăm chú nhìn những động tác của hai vợ chồng đang đùa với hai trẻ sinh đôi đang chơi xích đu. Mãi một hồi lâu, hai đứa bé chán dây đu chúng kéo mẹ sang chơi bãi cát có rùa, cá, khủng long bằng đá. Người đàn bà tiến lại xích đu gọi: _ Anh Việt! Người đàn ông nhìn chăm chăm, sửng sốt: _ Xin lỗi, chắc bà lầm tôi với người quen? _ Em là Hương đây! Anh, con gái mình đang ở đâu? _ Bà lầm tôi với ai thật rồi. Xin phép bà nghe! Nói rồi ông ta dợm quay đi, người đàn bà níu vai, hổn hển nói: _ Em lầm sao được, em biết anh hận em nhiều lắm nhưng em chỉ xin gặp mặt bé Liên rồi không dám phiền anh nữa. _ Xin lỗi bà. Kia là hai cháu trai con tôi đang chơi với mẹ chúng. Tôi chưa từng có con gái, thưa bà cho phép tôi đi. _ Làm sao trên đời có hai người giống hệt nhau từ cái thẹo dưới cằm…và nữa…Ông... lại thuận tay trái…Anh Việt em xin anh cho gặp bé Liên một lần đi. Mặt người đàn ông đanh lại như đang nghiến răng làm nàng sợ hãi lí nhí: _Một lần thôi, nhìn con một lần thôi…thề sẽ không quấy rầy gia đình hạnh phúc của anh. Nói xong nàng vịn chân xích đu như muốn khụy xuống. Người đàn ông không nói gì, cau mày nhìn về phía bên kia sông, vẫn những công xưởng, vẫn phố cổ nghèo nàn làm xấu đi một khoảng trời. Bên kia sông, biết đâu đứa bé gái hen suyễn vẫn mong có ngày gặp mẹ và vẫn mỗi chiều ra bờ sông đợi cha về... Sau cùng ông lên tiếng _ Thôi, xin phép bà! Nói xong ông ta vội bỏ đi qua bên kia rồi kéo vợ con ra đường. Nhìn chiếc xe sang trọng lao đi, người đàn bà gục xuống hai bờ vai rung động như vừa có nỗi đau đớn tột cùng. Mục lục Vầng Sáng Bên Kia Sông Vầng Sáng Bên Kia Sông Trần ĐạiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả/ VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 1 tháng 12 năm 2008
vanhoc
Đề bài: Trong những đồ vật học tập em thích nhất là chiếc bút máy. Hãy viết bài văn Tả cây bút máy mà em đang dùng cho các bạn cùng nghe. Trong suốt thời gian cắp sách đến trường, sách, vở và bút là những thứ mà em luôn cói đó là nhưng người bạn và đó cũng là những vật dụng không thể thiếu đối với ngươi học sinh. Trong những vật dụng đó thì em yêu quý nhất là cây bút máy của em, thứ kỉ niệm mà bố em đã tặng nhân ngày sinh nhật. Em vẫn còn nhớ cái hôm đó buổi sinh nhật mà em cảm thấy vui và hạnh phúc nhất, đó là món quà đầu tiên mà ba em đã tặng cho em sau nhiều năm công tác xa nhà. kể từ đó em luôn trân trọng, giữ gìn và sử dụng nó hàng ngày vào công việc học tập của em. phần thân cây bút được làm bằng nhựa có màu đen tuyền, nắp của chiếc bút thì lại được làm bằng nhôm có màu bạc trắng bóng, bên trong ngòi bút được làm bằng thép không rỉ. Nhìn qua thì chiếc bút có vẻ khá đơn giản nhưng nó lại mang một nét rất đặc biệt và khá tinh sảo trong thiết kế. Tuy là chiếc bút này có cùng cấu tạo và chức năng sử dụng như những chiếc bút khác, nhưng em cảm nhận được sự khác biệt tới từ chiếc bút này, từ khi em sử dụng nó những nét viết chở nên gọn gàng hơn. Nét viết từ bút viết ra mực ra đều nét chữ rõ ràng không bị nhòe. Góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn vở sạch chữ đẹp cho em, nhờ đó mà kết quả học tập của em cũng ngày một tiến bộ hơn.Xem thêm: Lập dàn ý nghị luận về đức tính trung thực Em thầm cảm ơn bố đã tặng cho em món quà rất ý nghĩa này, ở trường hay khi ở nhà cây bút đó luôn là người bạn và cũng là một kỉ niệm sẽ theo em trong quãng đời học sinh, mỗi lần nhìn thấy và sử dụng nó cũng như em đang được thấy ba mình nơi phương xa…
vanhoc
Le Secret (tạm dịch từ tiếng Pháp: Điều bí mật) là album được phát hành vào năm 2013 bởi nữ ca sĩ người Bỉ-Canada Lara Fabian. Album được phát hành vào ngày 15 tháng 4 năm 2013 tại một số quốc gia châu Âu và vào ngày 24 tháng 9 năm 2013 tại Quebec. Được sản xuất bởi hãng đĩa 9 Productions, album được phân phối bởi Warner Music France sau khi Fabian rời hãng phát hành đĩa trước đó của cô, Universal France để thúc đẩy việc phát hành tại Pháp. Trong Le Secret, Fabian tiếp tục hợp tác với nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Janey Clewer. Trước đó, hai người từng hợp tác trong một số ca khúc của Fabian như "Je t'appartiens" trong album Pure và "Bambina" trong album Nue. Le Secret đạt được thành công lớn về mặt thương mại, khi bán ra 18.768 bản trong tuần đầu phát hành tại Pháp và ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album của SNEP. Trong tuần thứ hai, album rơi xuống vị trí thứ 11 với doanh số đạt 6.500 bản. Tính đến tháng 11 năm 2013, album đã bán ra hơn 67.000 bản. Le Secret phát hành tổng cộng 3 đĩa đơn. Đĩa đơn mở đường cho album, "Deux «Ils» Deux «Elles»", là một bài hát có nội dung ủng hộ hôn nhân đồng giới, tương tự như ca khúc "La Différence" mà Fabian phát hành 16 năm trước. Hai đĩa đơn sau đó là "Danse" và bản phối lại của bài hát "La vie est là". Chuyến lưu diễn quảng bá cho album dự định kéo dài trong 150 ngày, tuy nhiên phải hủy bỏ do Fabian gặp phải các sự cố gây mất thính lực. Quảng bá Các đĩa đơn và sản phẩm đặc biệt Tháng 12 năm 2012, Fabian phát hành đĩa đơn "Deux «Ils» Deux «Elles»" để mở đường cho album, sau khi biểu diễn trực tiếp ca khúc này trong một buổi hòa nhạc để ủng hộ hôn nhân đồng giới. Video âm nhạc cho bài hát ra mắt vào ngày 4 tháng 4 năm 2013 trên kênh YouTube chính thức của nữ ca sĩ. Tháng 10 năm 2013, đĩa đơn thứ hai "Danse" được phát hành cùng với video âm nhạc. Ngoài ra, vào ngày 28 tháng 10, một phiên bản Collector's Edition của Le Secret gồm một đĩa DVD cũng được phát hành. Cuối tháng 1 năm 2014, Fabian phát hành đĩa đơn thứ ba, "La vie est là", với một phiên bản phối lại hoàn toàn mới của bài hát. Lưu diễn Chuyến lưu diễn quảng bá cho album bắt đầu từ ngày 18 tháng 10, dự định kéo dài 150 ngày với các điểm dừng chân tại Pháp, Canada, Nga, Bỉ, Thụy Sĩ, Đức và Phần Lan. Sau khi kết thúc 23 buổi diễn đầu tiên, ngày 19 tháng 1 năm 2014, Fabian thông báo trên trang Facebook chính thức rằng sẽ hủy toàn bộ phần còn lại của chuyến lưu diễn do vấn đề về thính giác. Vào đầu tháng 11 năm 2013, nữ ca sĩ cho biết một sự cố âm thanh xảy ra trong phòng thu vào tháng 5 năm 2013 đã khiến cho nữ ca sĩ bị ngã ngay tại chỗ. Sau đó, nữ ca sĩ nhận được sự điều trị tích cực, tuy nhiên cô đã đột ngột bị mất thính lực trong một buổi diễn vào tháng 10 năm 2013, giai đoạn đầu của chuyến lưu diễn. Điều này dẫn đến việc Fabian phải dành toàn bộ thời gian để điều trị và cải thiện tình trạng thính lực trước khi trở lại sân khấu. Danh sách bài hát Tất cả bài hát được sản xuất bởi Manu Pitois. Xếp hạng và chứng nhận Xếp hạng tuần Xếp hạng cuối năm Chứng nhận doanh số |- |- Tham khảo Album của Lara Fabian Album năm 2013 Album của Warner Music France
wiki
phải|nhỏ|Đài tưởng niệm Ieyoshi tại Zōjō-ji (Tăng thượng tự) là vị Tướng Quân thứ 12 của chế độ Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai thứ hai của vị Tướng Quân thứ 11, Tokugawa Ienari, và đã bổ nhiệm Mizuno Tadakuni chỉ đạo cải cách Tenpo (cái cách Thiên Bảo). Ông lên cầm quyền từ năm 1837 tức (năm Thiên Bảo thứ 7). Ieyoshi qua đời năm 1853, phần mộ của ông được đặt tại lăng mộ của gia tộc Tokugawa tại Zōjō-ji thuộc Shiba ngày nay. Một thời gian ngắn sau chuyến viếng thăm của Thuyền trưởng Hoa Kỳ Matthew C. Perry năm 1853, với mục đích thương lượng cho phép Hoa Kỳ thông thương với Nhật Bản, Tướng Quân Tokugawa Ieyoshi qua đời, và kế vị ông là người con trai thứ ba Tokugawa Iesada. Những năm sau đó Mạc phủ Tokugawa đã bị buộc phải chấp thuận yêu cầu của Hoa Kỳ sau khi ký kết Hiệp ước Kanagawa. Niên hiệu Thời gian ông cai trị thuộc các niên đại (nengō). Tenpō (天保, Thiên Bảo) (1830–1844) Kōka (弘化, Hoằng Hóa) (1844–1848) Kaei (嘉永, Gia Vĩnh) (1848–1854) Văn hóa đại chúng Tokugawa Ieyoshi là một nhân vật phụ trong vở nhạc kịch "Pacific Overtures," của Stephen Sondheim trong đó ông bị mẹ sát hại bằng cách tẩm độc trong trà hoa cúc. Ông cũng là một nhân vật phụ trong hai loạt phim truyền hình đầu tiên mang tên Nemuri Kyoshiro do diễn viên Tamura Masakazu thủ vai. Chú thích Tham khảo Hall, John Whitney và Marius Jansen. (1991). Early Modern Japan: The Cambridge History of Japan. Cambridge: Cambridge University Press. 10-ISBN 0-521-22355-5; 13-ISBN 978-0-521-22355-3; OCLC 62064695 Screech, Timon. (2006). Secret Memoirs of the Shoguns: Isaac Titsingh and Japan, 1779-1822. London: RoutledgeCurzon. 10-ISBN 0-7007-1720-X; 13-ISBN 978-0-7007-1720-0 Totman, Conrad. (1967). Politics in the Tokugawa bakufu, 1600-1843. Cambridge: Harvard University Press. OCLC 279623 Gia tộc Tokugawa Shogun Tokugawa Sinh năm 1793
wiki
nhỏ|Sakina (trái) and Raya (phải). Raya và Sakina (), là là hai chị em ruột, hai kẻ giết người hàng loạt ở Ai Cập, được xem là hai kẻ giết người hàng loạt khét tiếng nhất Ai Cập. Hai chị em cùng chồng của họ và hai người đàn ông khác bắt đầu giết phụ nữ ở khu phố Labban của Alexandria vào đầu những năm 1900. Cảnh sát báo cáo về việc mất tích của phụ nữ. Các chi tiết phổ biến trong các báo cáo bao gồm giới tính của người mất tích (tất cả đều là nữ), các phụ nữ mất tích thường đeo trang sức bằng vàng và mang theo một số tiền lớn. Vào sáng ngày 11 tháng 12 năm 1920, một người đi đường đã phát hiện ra một xác chết nằm ở ven đường; cơ thể đã bị tổn thương. Ngoài ra còn có một mảnh vải đen và một đôi vớ sọc đen trắng gần cơ thể, tuy nhiên, những món đồ này không giúp ích gì cho việc xác định danh tính tử thi. Trong một sự việc không liên quan, vào khoảng cùng thời điểm tháng 12, một người đàn ông đã trình báo việc ông ta tìm thấy hài cốt của một người bên dưới sàn nhà của mình trong khi đào để sửa đường ống nước. Raya và Sakina và chồng của họ đã bị xét xử vì tội giết người. Cả bốn người đều bị kết án và bị kết án tử hình vào ngày 16 tháng 5 năm 1921. Raya và Sakina trở thành những người phụ nữ Ai Cập đầu tiên bị nhà nước Ai Cập hiện đại xử tử. Tội ác Sáu tên tội phạm là Raya và chồng là Hasb-Allah, Sakina và chồng là Mohamed Abd El-'Al, ngoài ra còn có hai người đàn ông khác là Orabi Hassan và Abd El-Razik yossef. Từ ngày 20 tháng 12 năm 1919 đến ngày 12 tháng 11 năm 1920, băng đảng Raya và Sakina đã sát hại 17 phụ nữ. Các nạn nhân là gái mại dâm đã từng làm việc trong nhà thổ được quản lý bởi Raya và Sakina. Hầu hết các nạn nhân đều quen biết Raya và Sakina và có mối quan hệ bạn bè với họ trong nhiều năm. Sau khi dụ nạn nhân đến một trong bốn ngôi nhà, họ reo hò mời rượu cho đến khi say. Bốn người đàn ông sau đó sẽ tấn công nạn nhân, khống chế bằng cách: một người giữ mắt cá chân của cô, một người khác ôm lấy ngực cô và người thứ ba ôm chặt đầu cô trong khi người thứ tư làm nghẹt thở bằng cách buộc một miếng vải ướt lên miệng và mũi cho đến khi ngừng thở. Sau đó chúng sẽ cướp đồ trang sức, tiền và quần áo của nạn nhân. Hai chị em đã bán đồ trang sức bị đánh cắp cho một thợ kim hoàn địa phương Ali Hasan và chia tiền cho sáu tên tội phạm. Hiện trường Bốn ngôi nhà nơi các tội ác đã được thực hiện đều nằm gần Quảng trường Mansheya. Hầu hết các nạn nhân đến từ khu vực này. Địa chỉ của các ngôi nhà: No. 5 Makoris Street gần Labban Bakery. No. 38 đường Ali Bay Elkebeer. No. 6 El Negah Lane. No. 8 El Negah Lane. Tham khảo Raya and Sakina Internet Movie Database. Stinging Sisters
wiki
Tập làm văn là những kiến thức không còn xa lạ với chúng ta nhất là khi chúng ta đã đi đến chương trình lớp 9 thì càng quá quen thuộc khi đã nhiều lần học những kiến thức liên quan đến phần này cũng như là làm những bài kiểm tra về phần này. Nhưng ở mỗi lớp lại có những kiến thức tập làm văn khác nhau nên cần phải ôn tập lại đối với lượng kiến thức rộng như thế để chuẩn bị cho bài Hướng dẫn Soạn bài Ôn tập phần Tập làm văn đầy đủ hay nhất lớp 9 tại để các bạn học sinh tham khảo và tìm hiểu kiểm tra cuối học kì 1. Dưới đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Ôn tập phần Tập làm văn đầy đủ hay nhất lớp 9 tại để các bạn học sinh tham khảo và tìm hiểu. Chúc các bạn thành công với bài học này. Câu 1 trang 206 SGK văn 9 tập 1 Phần Tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 9, tập một có những nội dung lớn là: Câu 2 trang 206 SGK văn 9 tập 1 Vị trí, vai trò, tác dụng của giải thích và miêu tả trong văn bản thuyết minh: Câu 3 trang 206 SGK văn 9 tập 1 So sánh văn bản thuyết minh có yếu tố tự sự, miêu tả và văn bản tự sự, miêu tả: Giống nhau: Khác nhau: Câu 4 trang 206 SGK văn 9 tập 1 Nội dung của văn bản tự sự trong sách ngữ văn 9: Vai trò vị trí tác dụng của các yếu tố miêu tả nội tâm, lập luận trong văn tự sự: Ví dụ về đoạn văn tự sự có miêu tả nội tâm: Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Tôi hỏi cho có chuyện: Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… (Lão Hạc- Nam Cao) Câu 5 trang 206 SGK văn 9 tập 1 Ví dụ: Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. (Lão Hạc- Nam Cao) Câu 6 trang 206 SGK văn 9 tập 1 Đoạn văn tự sự kể ở ngôi thứ nhất: Tôi đã bỏ cái khăn tang bằng vải màn ở trên đầu đi rồi. Không phải đoạn tang thầy tôi mà vì tôi mới mua được cái mũ trắng và quấn băng đen. Gần đến ngày giỗ đầu thầy tôi, mẹ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Trong đó nghe đâu mẹ tôi đi bán bóng đèn và những phiên chợ chính còn bán cả vàng hương nữa. Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống bằng cách đó. (Trong lòng mẹ- Trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng) => Câu chuyện trở nên chân thực, sinh động hơn. Đoạn văn tự sự kể ở ngôi thứ ba: Ông Hai cúi gặm mặt xuống mà đi! Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật gia gường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làm Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta hắt hủi rẻ rung đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu? … Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên
vanhoc
Wichian Buri () là một huyện (amphoe) ở phía nam của tỉnh Phetchabun, phía bắc Thái Lan. Lịch sử Trước đây, khu vực Wichian Buri thuộc quản lý của Mueang Tha Rong. Vua Rama III đã nâng cấp thành phố Tha Rong bằng cách bổ sung Bua Chum và Chai Badan và đổi tên thành phố thành Wichian Buri. Khi vua Rama V lập Monthon Phetchabun, Wichian Buri thuộc Phetchabun năm 1898. Tên của huyện đã được đổi thành Tha Rong ngày 17 tháng 4 năm 1939, nhưng lại được đổi lại tên Wichian Buri năm 1944. Địa lý Các huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ) là Bueng Sam Phan của tỉnh Phetchabun, Phakdi Chumphon và Thep Sathit của tỉnh Chaiyaphum, Si Thep của Phetchabun, và Phaisali của tỉnh Nakhon Sawan. Hành chính Huyện này được chia thành 14 phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia ra thành 177 làng (muban). Có hai thị trấn (thesaban tambon) - Whichian Buri nằm trên một phần của the tambon Tha Rong và Sa Pradu, and Phu Toei nằm trên một phần của the tambon Phu Thoei. Có 14 Tổ chức hành chính tambon. Tham khảo Liên kết ngoài amphoe.com Wichian Buri
wiki
Tả bụi tre Gợi ý Luỹ tre đã trở thành biểu tượng quen thuộc của làng quê. Ở quê em cũng vậy, nơi đâu cũng thấy những bụi lớn nhỏ xanh ngăn ngắt. Em thích nhất là bụi tre ngà ở đầu làng. Sao mà chúng đẹp và thân thương đến thế. Thân tre thẳng, cao vút lên bầu trời. Áp má vào đó thấy thật mát và nhẵn như da em bé, không một vết sần sùi. Vì là tre ngà nên chúng mang một màu vàng óng ả. Thân cây có nhiều đốt mà dường như đốt nào cũng bằng nhau. Tạo hoá thật khéo sáng tạo. Nhìn những đốt tre ấy làm em nhớ tới câu chuyện “Cây tre trăm đốt” rất hay. Xinh xắn là những chiếc lá tre nhỏ bé. Lá tre dài, mỏng mảnh, màu xanh, đầu nhọn nhọn. Lá tre mọc sát nhau nên mỗi khi có cơn gió thổi tới, chúng cọ vào nhau xào xạc, xào xạc như đang thầm thì nói chuyện. Nhất là vào buổi trưa hè, bụi tre toả bóng mát. Có chú trâu buộc dưới gốc cây cọ mình vào thân tre mát quá nên lim dim đôi mắt. Bỗng đâu một tiếng chim vang lên lanh lảnh, chú trâu giật mình như vừa tỉnh giấc mộng. Ôi! Mát quá! Bao giờ tre cũng mọc gần nhau thành từng bụi, từng khóm không tách rời. Chúng chẳng khi nào tranh cãi nhau mà sống rất hoà thuận. Những cây tre cao lớn vươn mình như để che chở cho cây con. Gốc cây cụm lại với nhau và tán thì xoè rộng như cây ô khổng lồ. Một vài cây con mọc ở bên là thế hệ tương lai thay thế cho thế hệ trước. Nom chúng rất khoẻ khoắn.Xem thêm: Viết một bức thư ngắn (khoảng 10 dòng) cho một người bạn thân nói về ước mơ của em (ước mơ làm bác sĩ thú y)Em rất thích ngồi dưới bụi tre vào những buổi chiều về. Những khi thanh vắng em còn nghe thấy chúng thủ thỉ tâm sự nữa. Vanmau.edu.vn
vanhoc
Matthias U Shwe (sinh 1943) là một Giám mục người Myanmar của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục của Tổng giáo phận Taunggyi và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Myanmar. Tiểu sử Tổng giám mục Matthias U Shwe sinh ngày 1 tháng 12 năm 1943 tại Kamai, thuộc Myanmar. Sau quá trình tu học dài hạn tại các cơ sở chủng viện theo quy định của Giáo luật, ngày 12 tháng 4 năm 1969, ở tuổi 25, Phó tế Y Shwe đã được truyền chức linh mục. Tân linh mục cũng chính thức trở thành thành viên của linh mục đoàn Giáo phận Taunggyi. Hơn mười năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác mục vụ trên sứ vụ linh mục, ngày 20 tháng 7 năm 1979, tin tức từ Tòa Thánh cho biết Giáo hoàng đã quyết định chọn linh mục Matthias U Shwe, 36 tuổi, làm Giám mục, cụ thể là chức Giám mục Phụ tá Giáo phận Taunggyi với chức danh Giám mục Hiệu tòa Uzippari. Các nghi lế tấn phong cho vị tân giám mục đã bị trì hoãn cho đến một năm sau đó, vào ngày 13 tháng 12 năm 1991 mới được tổ chức. Bốn giáo sĩ tham dự chính yếu vào các nghi thức truyền chức. Chủ phong cho vị tân giám mục là Giám mục John Baptist Gobbato, P.I.M.E., giám mục chính tòa Giáo phận Taungguyi. Ba giáo sĩ khác trong vai trò phụ phong là Gabriel Thohey Mahn-Gaby, Tổng giám mũc Tổng giáo phận Rangoon; Giám mục Sebastian U Shwe Yauk, Giám mục chính tòa Giáo phận Toungoo và Giám mục Paul Zingtung Grawng, chính tòa Giáo phận Myitkyina. Tân giám mục chọn cho mình châm ngôn là:Vita et pax. Mười năm trong vai trò Giám mục phụ tá của giám mục Y Shwe két thúc bằng quyết định ấn kí ngày 18 tháng 12 năm 1989, qua đó quyết định thăng Giám mục Myitkyina làm Giám mục chính tòa Giáo phận Myitkyina. Hơn tám năm sau đó, ngày 17 tháng 1 năm 1998, Giáo phận Myitkyina được nâng cấp thành Tổng giáo phận. Tòa Thánh tái bổ nhiệm Giám mục Matthias U Shwe ở lại ví trí này, với chức danh mới là Tổng giám mục chính tòa. Ông từ nhiệm ngày 12 tháng 4 năm 2015, khi chỉ mới 71 tuổi, chưa đến hạn mức theo Giáo luật quy định là 75. Ngoài các chức danh chính thức nhận được sự bổ nhiệm của Tòa Thánh, ông còn kiêm thêm nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng Giám mục Myanmar từ năm 1994 đến năm 2000. Tham khảo Sinh năm 1943 Giám mục Công giáo Myanmar Nhân vật còn sống
wiki
Phan Tuấn Hùng là Chuẩn Đô đốc Hải quân nhân dân Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiểu sử Trước năm 2016, ông là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Vùng 4 Quân chủng Hải quân Năm 2016, ông giữ chức Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân Tháng 7 năm 2019, ông được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Vùng 4 Quân chủng Hải quân, Phó Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh. Ngày 09 tháng 6 năm 2020, Tại Quyết định số 792/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chuẩn Đô đốc Phan Tuấn Hùng, Tư lệnh Vùng 4, Quân chủng Hải quân, giữ chức Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Bộ Quốc phòng. Ngày 21 tháng 6 năm 2020, tại Thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân tổ chức Hội nghị bàn giao chức vụ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân. Chuẩn Đô đốc Trần Thanh Nghiêm, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Hải quân chủ trì. Theo quyết định của Bộ Quốc phòng và Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân, Đại tá Nguyễn Đình Hùng, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Vùng 4 được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh, Phó Bí thư Đảng ủy Vùng 4 Hải quân thay Chuẩn Đô đốc Phan Tuấn Hùng nhận cương vị công tác mới. Tham khảo Quân đội nhân dân Việt Nam
wiki
Quảng Lộc là một xã thuộc huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Địa giới hành chính Xã Quảng Lộc nằm ở phía đông nam của huyện Quảng Xương. Phía đông giáp xã Quảng Thái. Phía nam giáp xã Tiên Trang. Phía tây giáp các xã Tiên Trang và Quảng Bình. Phía bắc giáp xã Quảng Lưu. Lịch sử hành chính Vùng đất thuộc xã Quảng Lộc ngày nay, vào đầu thế kỉ 19 thuộc tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hóa. Sau năm 1945, thuộc xã Hồng Lạc, huyện Quảng Xương. Năm 1948, các xã Diên Hồng, Hồng Lạc và Sào Nam sáp nhập thành xã Quảng Lộc, tên gọi Quảng Lộc xuất hiện từ đây. Năm 1954, một phần lãnh thổ xã Quảng Lộc được tách ra để lập các xã Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng Lĩnh, Quảng Lưu và một phần xã Quảng Thạch. Xã Quảng Lộc gồm các làng: Làng Triều Công: đầu thế kỉ 19 là thôn Triều Công thuộc xã Thủ Hộ, tổng Thủ Hộ; thời Đồng Khánh (cuối thế kỉ 19) đổi tổng Thủ Hộ thành tổng Thủ Chính. Năm 1952 được chia thành ba xóm là Triều Tây, Triều Tiên và Triều Thắng; năm 1961 chia thành sáu xóm là Tây Nam, Tây Bắc, Phúc Đông, Tích Thành, Thắng Tây và Phúc Trung; năm 1992 lập thành các thôn 1A, 1B và 2. Làng Lê Hương: đầu thế kỉ 19 là thôn Lê Xá thuộc xã Thủ Hộ; sau năm 1945 đổi là Lê Hương, gồm các xóm Đông, Đình và Thọ. Năm 1959 được chia thành sáu xóm là Hương Đông, Hương Tây, Hương Đình, Hương Nam, Hương Trung và Hương Đồng;; năm 1992 lập thành các thôn 3, 4 và 5. Làng Nga My: đầu thế kỉ 19 là thôn Nga My thuộc xã Cam Bầu, tổng Thủ Hộ; thời Đồng Khánh đổi thành xã Cam Biều, tổng Thủ Chính. Trước năm 1992 gồm các xóm Nga Đông, Nga Trung và Nga Nam; năm 1992 lập thành các thôn 6, 7 và 8. Làng Linh Lung: tên nôm là làng Lưn, đầu thế kỉ 19 là thôn Linh Lung thuộc xã Cam Bầu. Trước năm 1992 gồm các xóm Linh Bắc, Linh Tây và Linh Nam. Chú thích
wiki
George Abramovich Koval (tiếng Nga: Жорж (Георгий) Абрамович Коваль, Koval Zhorzh Abramovich) là một sĩ quan tình báo Liên Xô. Việc Koval xâm nhập Dự án Manhattan thành công đã làm giảm đáng kể thời gian để Liên Xô phát triển vũ khí hạt nhân. Tiểu sử George Koval sinh ra trong gia đình những người nhập cư Do Thái ở Sioux City, Iowa, Hoa Kỳ. Cha của ông vốn là một thợ mộc nghèo lại yêu cô con gái của một thủ lĩnh Do Thái giáo tại Belarus. Năm 1910, cha ông quyết định sang Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội. Họ có với nhau 3 đứa con, George Koval là con thứ hai. Khi cuộc đại khủng hoảng nổ ra, gia đình Koval quyết định lên một chiếc tàu của Liên Xô, rời khỏi Hoa Kỳ về định cư tại Birobidzhan. Với học lực xuất sắc của mình, Koval đã được nhận vào Đại học Công nghệ Hoá học Moskva Mendeleev tại Moskva vào năm 1934. Ông lập gia đình và có được một cô con gái. Trở thành điệp viên Koval lọt vào tầm ngắm của Tổng cục tình báo Liên Xô (GRU) không chỉ nhờ vào học lực xuất sắc, lòng trung thành với lý tưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhờ có tiểu sử đặc biệt – ông từng sinh ra, lớn lên và học tập tại Hoa Kỳ, nói tiếng Anh tốt và nắm rõ những tập quán tại đây. Rất nhanh chóng nhận lời sau khi được đề nghị, Koval trải qua một thời gian đào tạo về nghiệp vụ trước khi quay trở lại Hoa Kỳ với mật danh Delma. Koval đã được tính toán đến hai phương án đặt chân tới Hoa Kỳ. Đầu tiên là với một cái tên hoàn toàn mới, tất nhiên với giấy tờ giả do cơ quan tình báo chuẩn bị. Phương án thứ hai là quay trở lại đây với chính tên thật của mình. Vào thời điểm trước chiến tranh, Liên Xô chưa hề có khái niệm gì về việc chế tạo bom nguyên tử. Ngoài người vợ, cả cha mẹ Koval cũng không biết chính xác ông đang ở đâu. Tháng 10 năm 1940, Koval đặt chân lên đất Mỹ. Koval quyết định dùng giấy tờ với tên thật để xin vào làm việc tại một nhà máy chế tạo vũ khí hóa học tại Mỹ. Moskva đã nhận được một loạt những thông tin mật đầu tiên về các nguyên liệu từ nhà máy hóa học của quân đội này. Xâm nhập Dự án Manhattan Trước yêu cầu của chiến tranh, Koval chính thức được gọi nhập ngũ vào năm 1942. Với kiến thức cơ bản rất tốt của mình, ông còn được Quân đội Hoa Kỳ cử đi hoàn thiện trình độ về kỹ thuật điện tử tại City College (Manhattan) và được đào tạo thêm về khả năng làm việc với các nguyên liệu phóng xạ. Đến thời điểm năm 1944, dự án chế tạo bom hạt nhân của Hoa Kỳ đã bước sang giai đoạn cao điểm. George Koval với trình độ và chuyên môn tốt của mình nhanh chóng lọt vào mắt xanh của các tuyển trạch viên của dự án. Tháng 8 năm 1944, ông chính thức được lệnh tới làm việc tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge thuộc thành phố Oak Ridge, Tennessee (nơi tập trung sản xuất Urani và Plutoni). Nhiệm vụ cụ thể của Koval tại đây là một chuyên gia đo và theo dõi mức độ phóng xạ. Do đặc thù của công việc, ông có thể đi lại tự do tại tất cả ba địa điểm bí mật nhất tại đây, theo dõi mức độ phóng xạ có vượt quá giới hạn cho phép đối với các nhân viên. Nhờ những thông tin từ Koval, Liên Xô biết được đang có gần 1.500 nhà khoa học và kỹ sư đang miệt mài làm việc tại Oak Ridge, Tennessee, phần nào lường được mức độ quan trọng của dự án. Vào thời điểm đó, mọi nhân viên làm việc tại Oak Ridge đều phải tuân thủ những nguyên tắc hết sức nghiêm ngặt. Họ luôn bị giám sát chặt chẽ, kể cả các cuộc điện thoại, không được giao tiếp với nhau nếu không cần thiết. Nói một cách chính xác, điều kiện sống của họ chẳng khác gì trong các trại lính bí mật, chỉ có điều các điều kiện sinh hoạt tại đây rất đầy đủ và tiện nghi. Koval đã chuyển cho chỉ huy có mật danh “Faraday” của mình tất cả thông tin về việc sản xuất nguyên liệu hạt nhân, cũng như cả thiết kế ngòi nổ trong quả bom nguyên tử tương lai. Tất cả những tài liệu quý giá trên được “Faraday” tìm cách chuyển gấp về Moskva, nơi có Igor Vasilyevich Kurchatov – cha đẻ của bom nguyên tử thuộc Dự án vũ khí hạt nhân của Liên Xô nóng lòng chờ đợi. Lãng quên Sau chiến tranh, Koval được đề nghị tiếp tục ở lại làm việc tại cơ sở hạt nhân trên với tư cách một chuyên gia dân sự. Koval đã từ chối với dự định sẽ trở về New York để tiếp tục học tập. Năm 1946, trung sĩ - kỹ sư George Koval của Quân đội Hoa Kỳ quyết định xuất ngũ. Sau sự kiện nhân viên mật mã Igor Guzenko tại Canada của Tổng cục tình báo Liên Xô (GRU) phản bội. Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ từ những thông tin thu được đã triển khai một chiến dịch săn lùng gián điệp trên khắp đất nước. Koval cuối cùng đã quyết định phải rời khỏi Hoa Kỳ. Đến cuối năm 1948, Koval đã có mặt tại Liên Xô. Mãi cho đến tận năm 1950, Hoa Kỳ mới biết được chân tướng thực sự của George Koval. Tháng 6 năm 1949, George Koval đã chính thức rời khỏi quân đội mặc dù trong suốt cả chục năm phục vụ cho Tổng cục tình báo Liên Xô (GRU), ông chưa bao giờ khoác lên mình một bộ đồng phục nào. Một năm sau, ông quay trở lại Đại học Công nghệ Hoá học Moskva Mendeleev để tiếp tục sự nghiệp học hành, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ. Cuộc sống của Koval từ đó về sau chỉ có thể gói gọn trong vài từ: yên bình và hạnh phúc, dù có đôi chút trắc trở. Có lần do gặp khó khăn trong chuyện tìm kiếm việc làm để nuôi vợ con, ông phải nhờ tới Tổng cục tình báo Liên Xô (GRU). Chỉ huy GRU khi đó là Trung tướng Mikhail Shalin đã viết một lá thư khẳng định George Koval đã có nhiều công lao đối với quân đội và đề nghị nhà trường giúp đỡ cho ông. Nhờ đó, George Koval tiếp tục được giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường trong suốt 40 năm sau đó. Vinh danh Phải đến đầu thế kỷ XXI, Tổng cục tình báo Liên Xô (GRU) mới nhớ tới cựu điệp viên xuất sắc của mình. Ông thường xuyên được mời tới các buổi gặp gỡ của cựu chiến binh, nhận hỗ trợ tiền bạc, được tặng thưởng huy chương “Vì những công lao cho tình báo quân sự” và cuối cùng là một tấm ảnh chú thích về điệp viên “Delma” trong bảo tàng nội bộ của GRU. Vào dịp khánh thành một tòa nhà mới của Tổng cục tình báo quân đội Nga vào năm 2006, Tổng thống Nga Vladimir Putin có ghé thăm một bảo tàng nội bộ của tình báo quân sự. Nguyên thủ quốc gia Nga dừng lại trước phần giá trưng bày về George Abramovich Koval. Ông Putin yêu cầu thuyết minh tỉ mỉ hơn về nhân vật này. Phải nhờ tới mối quan tâm bất ngờ của Tổng thống Nga Vladimir Putin, công lao của Koval mới được ghi nhận xứng đáng: George Koval được truy tặng danh hiệu Anh hùng nước Nga vào năm 2007. Xem thêm Dự án vũ khí hạt nhân của Liên Xô Tham khảo Chương trình vũ khí hạt nhân của Liên Xô Người Nga Quân nhân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai Đại học Công nghệ Hóa học Moskva Mendeleev
wiki
Shaanxi KJ-500 (tiếng Trung: 空警-500; bính âm: Kōngjǐng Wǔbǎi; dịch nghĩa: "Cảnh báo trên không 500") là một loại máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không (AEW&C) thế hệ thứ ba được sử dụng trong Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nó được chế tạo bởi Shaanxi Aircraft Corporation (Tập đoàn Máy bay Thiểm Tây), dựa trên khung thân máy bay vận tải quân sự Shaanxi Y-9. Phát triển Kể từ đầu thế kỷ 21, phạm vi phát hiện và độ chính xác của radar trên không ngày càng tăng, các máy bay chiến đấu được trang bị nhiều loại tên lửa không đối không và tên lửa hành trình tầm thấp liên tục được cải thiện hiệu suất, tạo ra nhu cầu về một AEW&C có khả năng đáp ứng cao hơn. Để giải quyết các vấn đề trên, Trung Quốc đã bắt đầu phát triển AEW&C thứ ba của mình là KJ-500 (biến thể Y-9W) vào cuối thập niên 2000. KJ-500 bắt buộc phải có 3 tính năng quan trọng là khả năng phát hiện tốt, khả năng nhận dạng tốt và khả năng phản ứng nhanh. KJ-500 cũng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của hệ thống tác chiến thông tin, công nghệ trang bị của nó có 4 đặc điểm chính là kết nối mạng, đa chức năng, tích hợp cao và gọn nhẹ. Máy bay KJ-500 mang một vòm radar cố định ở trên lưng chứa ba mảng radar quét điện tử chủ động AESA để bao quát 360 độ, nó được cho là hiệu quả hơn so với thiết kế mảng 'dầm thăng bằng' hai mặt phẳng được sử dụng trên Shaanxi KJ-200 trước đó. Các loại AEW&C đời cũ đã ngừng sản xuất vào năm 2018 do KJ-500 đạt đến khả năng hoạt động đầy đủ tất cả tính năng. Biến thể KJ-500 Phiên bản cơ sở KJ-500A Biến thể cải tiến với đầu dò tiếp nhiên liệu trên không. Ra mắt tại Triển lãm Hàng không Chu Hải 2022. Quốc gia sử dụng Trung Quốc Không quân Trung Quốc: 11 chiếc KJ-500 Không quân Hải quân Trung Quốc: 14+ chiếc KJ-500H Thông số kỹ thuật Các thông số hoạt động hạn chế của KJ-500 đã được công bố như sau: Tốc độ tối đa: 550 km/h Tầm bay: 5700 km Thời gian bay tối đa: 12 tiếng Trọng lượng cất cánh tối đa: 77 tấn Phạm vi chống lại các mục tiêu cỡ máy bay chiến đấu: 470 km Tham khảo Máy bay AWACS Mô tả ngắn khác với Wikidata Bài có mô tả ngắn
wiki
Tổng công ty xuất nhập khẩu hàng không quốc gia Trung Quốc (China National Aero-Technology Import&Export Corporation – CATIC) là một công ty quốc phòng của chính phủ Trung Quốc hoạt động chính trong lĩnh vực kinh doanh các sản phẩm quốc phòng. Lịch sử CATIC, được thành lập năm 1979, là liên doanh thuộc sở hữu của Tập đoàn Công nghiệp hàng không Trung Quốc 1 (AVIC I) và Tập đoàn công nghiệp hàng không Trung Quốc 2 (AVIC II). Sau khi AVIC I và AVIC II sáp nhập thì CATIC thuộc sở hữu của Tập đoàn công nghiệp hàng không Trung Quốc. Các hoạt động kinh doanh cốt lõi của CATIC được quản lý bởi trụ sở chính đặt tại Bắc Kinh. Như một đại lý ủy quyền kinh doanh các sản phẩm hàng không, CATIC đã xuất khẩu máy bay chiến đấu, máy bay huấn luyện, máy bay ném bom, trực thăng, máy bay vận tải, máy bay hàng không nói chung và các thiết bị liên quan đến hàng không cũng như các thiết bị hỗ trợ mặt đất cùng các thành phần và phụ tùng khác tại hơn 30 quốc gia. Thông qua hợp tác đa quốc gia, CATIC đã đầu từ và phát triển các loại máy bay hiệu suất cao như máy bay huấn luyện K-8, máy ba chiến đấu JF-17 và máy bay trực thăng EC-120. Các công ty con khác của CATIC tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Phúc Kiến, Hàng Châu, Đại Liên và Cáp Nhĩ Tân thị tập trung vào các việc kinh doanh phi hàng không như thương mại, tài chính, địa ốc, khách sạn và quản lý bất động sản, đấu thầu công, phụ kiện máy móc, xây dựng dân dụng, logistics, đầu tư, cho thuê, thương mại điện tử, … Sản phẩm chính của các công ty này bao gồm tàu thủy, máy xây dựng dân dụng, máy chế biến thực phẩm, thiết bị y tế, ô tô, xe máy, xe đạp và các dịch vụ dự phòng khác. Ngoài ra, CATIC còn ký các hợp đồng xây dựng quốc tế ở các quốc gia và khu vực ở Châu Á, Châu Phi và Trung Đông. CATIC là chủ sở hữu của một số thương hiệu và doanh nghiệp nổi tiếng như: đồng hồ FIYTA, mà hình LCD Tianma, chuỗi trung tâm mua sắm Tianhong, Công ty chứng khoán Giang Nam, … Máy bay Danh sách các máy bay trong danh mục sản phẩm của công ty này bao gồm: Shenyang J-5, Nanchang CJ-6, Chengdu F-7, FT-7, JF-7 Thunder, Harbin Z-9, Hongdu K-8, Shaanxi Y-8, Harbin Y-12, Xian MA60 Tham khảo
wiki
Soạn bài Trí dũng song toàn (VNEN) Hướng dẫn A. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN 1.Kể tên những người vừa mưu trí vừa dũng cảm mà em biết. Gợi ý: -Các anh hùng dân tộc thời xưa và nay. -Những nhân vật em đọc trong sách báo,… Gợi ý: – Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toan, Nguyền Iluệ, Võ Nguyên Giáp. – Kim Đồng, Lê Văn Tám, Lý Tự Trọng 3. Chọn từ ngữ ở cột A phù hợp với lời giải nghĩa ở cột B: Gợi ý: 1 – c; 2 – a; 3 – b; 4 – e; 5 – d 5.Thảo luận, trả lời câu hỏi: 1.Sứ thần Giang Văn Minh làm cách nào để vua nhà Minh bãi bỏ lệ “góp giỗ Liễu Thăng”? 2.Cuộc đối đáp giữa ông Giang Văn Minh với đại thần nhà Minh đã diễn ra như thế nào? 3.Hành động sai người ám hại ông Giang Văn Minh của vua nhà Minh đã nói lên điều gì? 4.Vì sao có thể nói ông Giang Văn Minh là người trí dũng song toàn? Viết câu trả lời của em vào vở. Gợi ý: 1. Để vua nhà Minh bải bỏ lộ “góp giồ Liễu Thăng”, sứ thần Giang Văn Minh giả đò khóc lóc vì không được ở nhà để cúng giỗ cụ tố năm đời. Vua Minh cho việc đó là không phải lẽ và nhận ra việc góp giỗ Liễu Thăng là vô lí nên đã bãi bỏ, dù biết mình đã mắc mưu sứ thần. 3.Hành động sai người ám hại ông Giang Văn Minh đã nói lên sự hòn hạ, nhục nhã của vua nhà Minh trước tinh thần bất khuất, khí phách hào hùng của ông Giang Văn Minh qua nội dung câu đối. 4.Ông Giang Văn Minh đã dùng mưu để bỏ lệ góp giỗ hằng năm và dũng cảm dùng vế đối thể hiện lòng tự hào dân tộc. B. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH 1.Trò chơi: Thi ghép nhanh các thẻ từ. Mỗi nhóm có một bộ thẻ từ. Ghép thẻ từ “công dân” với từng the từ khác để tạo thành nhừng cụm từ có nghĩa. (SGK/45) – Viết các cụm từ đã ghép được vào vở. Gợi ý: – Nghĩa vụ công dân, quyền công dân, bốn phận công dân, trách nhiệm công dân, ý thức công dân, danh dự công dân, công dân gương mầu, công dân danh dự. 2. Chọn nghĩa ở cột A thích hợp với mỗi cụm từ ở cột B: A B (a) Điều mà pháp luật xã hội công nhận cho người dân được hương, được làm, được đòi hỏi. (1) Nghĩa vụ công dân (b) Sự hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của người dân đối với đất nước. (2) Quyền công dân (c) Điều mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc người dân phải làm đối với đất nước, đối với người khác. (3) Ý thức công dân Gợi ý: a – 2; b – 3; c – 1 3.Viết đoạn văn theo đề bài sau: Viết 3, 4 câu nêu cảm nghĩ của em về câu nói của Bác Hồ khi đến thăm đền Hùng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Gợi ý: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước. Truyền thống ấy được truyền từ đời này sang đời khác. Với truyền thông ấy, ta đã chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Để xứng đáng là con cháu vua Hùng, mỗi người dân đều nhận thức được nghĩa vụ của mình là phải giữ lấy nước. Lời dạy của Bác đã khẳng định trách nhiệm của người công dân Việt Nam. 5.Thi tìm và viết các từ (chọn bài a hoặc b): a)Chứa tiếng bắt đầu hằng r, d hoặc gi, có nghĩa như sau: -Giữ lại để dùng về sau -Biết rõ, thành thạo -Đồ dựng đan bằng tre nứa, đáy phẩng, thành cao (thường dùng đế đựng cua, cá). b)Chứa tiếng có thanh hỏi hoặc thanh ngã, có nghĩa như sau: -Dám đương đầu với khó khăn, nguy hiểm. -Lớp mỏng bọc bên ngoài cua cày, quả. -Đồng nghĩa với giữ gìn. Gợi ý: a) – dành dụm, để dành -rành mạch, rành rẽ -cái giành b)- dũng cảm, quả cảm -vỏ -bảo vệ 6.Chọn bài a hoặc b: a)Chọn để điền r, d hay gi vào mỗi chỗ trống trong bài thơ “Dáng hình ngọn gió”. Viết lại các từ có chứa tiếng vừa điền vào vở (SGK/47) b)Chọn để đặt dấu hỏi hay dấu ngã trên các chữ in đậm trong mẫu chuyện vui “Sợ mèo không biết”. Viết lại các từ chứa tiếng vừa điền dấu thanh vào vở (SGK/47) Gợi ý: a) (1) rầm (2) rì, (3) dạo nhạc, (4) dịu, (5) rào, bao (6) giờ, Hình (7) dáng b) (1) tướng, (2) mãi, (3) hãi, (4) giải, (5) cổng, (6) phải, (7) Nhỡ C. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG 2.Trao đổi với người thân về ý nghĩa câu chuyện “Trí dũng song toàn”. Gợi ý: Câu chuyện Trí dũng song toàn ca ngợi sứ thần Giang Văn Minh với trí và dũng cua mình đã bảo vệ được quyền lợi và danh dự cua đất nước khi đi sứ nước ngoài.
vanhoc
9K115 Metis ("mongrel" - chó lai) là một tổ hợp tên lửa chống tăng mang vác dẫn hướng bằng dây SACLOS do Liên Xô chế tạo. Tên ký hiệu của NATO cho tổ hợp này là AT-7 Saxhorn. Phát triển Tổ hợp 9K115 được phát triển bởi Tula KBP. Tổ hợp 9K115 rất giống với tổ hợp 9K111 Fagot (AT-4 Spigot) về vẻ bề ngoài - có cánh thăng bằng chính - tuy nhiên tổ hợp 9K115 nhẹ hơn - chủ yếu do giảm trọng tải nhiên liệu. Điều này giảm tầm bắn tối đa xuống còn 1.000 m. Trong thập niên 1980 một phiên bản nâng cấp của tổ hợp 9K115 đã được phát triển có tên gọi là 9M131 Metis-M (đôi khi còn gọi là Metis-2). Phiên bản 9M131 cũng phóng chung từ một bệ phóng, tên lửa mới lớn hơn và nặng hơn, trọng lượng đầu nổ cũng lớn hơn và tầm bắn cũng xa hơn. NATO đặt tên mã cho 9M131 là AT-13 Saxhorn-2. Lịch sử Tổ hợp 9K115 được giới thiệu cho quân đội Nga vào năm 1979 nhằm tăng cường hỏa lực diệt tăng cho các đơn vị ngoài tổ hợp 9K111 Fagot (AT-4 Spigot) đã trang bị sẵn. Tổ hợp 9K115 nhẹ hơn so với 9K111, do tổ hợp 9K115 có bệ phóng và tên lửa nhẹ. Trong biên chế của quân đội Nga, 9K115 được trang bị cho các đại đội súng trường ô-tô, một đại đội sẽ có 3 bệ phóng. Tở hợp 9K115 được vận hành bởi một tổ gồm 2 người, xạ thủ mang theo bệ phóng 9P151 và một tên lửa, trợ thủ mang theo 3 tên lửa nữa. Giá của phiên bản xuất khẩu năm 1992: Tên lửa 9M131 $13.500 Bệ phóng 9P151 $70.000 Miêu tả Tên lửa được phóng đi từ bệ phóng 9P151 - bệ phóng này gồm ống phóng và một giá đỡ 3 chân đơn giản. Tên lửa cũng có thể bắn từ trên lưng- nhưng cách bắn này yêu cầu nhiều kỹ năng của người xạ thủ. Bệ phóng có tổng trọng lượng 10.2 kg. Tên lửa được phóng ra từ ống phóng bởi một động cơ đẩy thay vì một máy phát khí của tổ hợp 9K111 Fagot (AT-4 Spigot), dù cả hai tên lửa của 2 tổ hợp đều được thiết kế bởi cùng một phòng thiết kế. Hệ dẫn hướng 9S816 được cấp nguồn bằng một pin nhiệt gắn vào ống phóng ngay trước khi phóng. Tên lửa có thể phóng từ một không gian hẹp như một tòa nhà hay hang động, nhưng cần ít khoảng trống ít nhất phía sau là 6 m, và thể tích bên trong ít nhất là 100 m³. Tên lửa có tầm bắn tối thiểu là 140 m, và có thể tấn công mục tiêu đang di chuyển với vận tốc 60 km/h. Đầu nổ của tên lửa là một đầu đạn lõm HEAT. Thông số kỹ thuật (9K115 Metis) Dài: 740 mm Sải cánh: 300 mm Đường kính: 94 mm Trọng lượng phóng: 5.5 kg Trọng lượng phóng (gồm cả container): 6.3 kg Tốc độ: 223 m/s Tầm bắn: 40 m - 1 km Dẫn hướng: bằng dây kiểu SACLOS Đầu nổ: 2.5 kg HEAT 460 mm chống giáp RHA Các kiểu 9K115 Metis - AT-7 Saxhorn - Trang bị năm 1979. 9K115-2 Metis-M - AT-13 Metis-M (9M131 Metis-M) - xem 9K115-2 Metis-M Quốc gia sử dụng   Hezbollah (cũ) Liên kết ngoài http://www.fas.org/man/dod-101/sys/land/row/at-7.htm Tham khảo Hull, A.W., Markov, D.R., Zaloga, S.J. (1999). Soviet/Russian Armor and Artillery Design Practices 1945 to Present. Darlington Productions. ISBN 1-892848-01-5. Tên lửa điều khiển chống tăng thời Chiến tranh Lạnh Tên lửa chống tăng Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh Tên lửa chống tăng của Nga Tên lửa Nga
wiki
Kể đôi nét về nữ anh hùng Võ Thị Sáu Gợi ý Người nữ anh hùng miền đất đỏ Võ Thị Sáu đã chiến đâu và hi sinh anh dũng cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Chị hi sinh cả tuổi thanh xuân tuổi đẹp nhất của đời người để cống hiến và chiến đấu giải phóng nước nhà. Lòng dũng cảm của chị là tấm gương cho biết bao thế hệ thanh niên ngày nay và mai sau. Bài hát ca ngợi chị ngày ngày lại vang lên như nhắc nhở con cháu chúng ta phải luôn nhớ về lịch sử của cha anh để lại. Vanmau.edu.vn Xem thêm: Em hãy kể về tình cảm của em gái em đối với em
vanhoc
Cánh đuôi, cũng được biết như bộ phận thăng bằng của máy bay, nó là cánh nằm ngang nhỏ hơn cánh chính ở phía sau máy bay. Cánh đuôi có mặt nâng phụ ở phía sau cánh chính của một máy bay cánh cố định cũng như máy bay có cánh không cố định khác như trực thăng và máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, không phải mọi máy bay có cánh cố định là có cánh đuôi, ví dụ như máy bay có cánh mũi thì không có cánh đuôi (ở loại máy bay này thì "cánh đuôi" được đặt ở phía trước), máy bay chỉ có cánh chính, và máy bay đuôi V ở loại máy bay này thì cánh đuôi và bánh lái được nhập lại thành một loại cánh gồm 2 cánh chéo nhau chữ V. Thăng bằng Một máy bay cần phải có một sự cân bằng theo chiều dọc để bay. Có nghĩa là kết quả của mọi lực truyền trên máy bay không tạo mômen dọc về trọng tâm. Không có cánh đuôi, máy bay chỉ có sự kết hợp giữa trọng tâm và tốc độ. Cánh đuôi cung cấp một lực giữ thăng bằng để bảo toàn thăng bằng khi máy bay ở các tốc độ và trọng tâm khác nhau. Vì cánh đuôi được ở vị trí xa trọng tâm, nhưng một lực nâng nhỏ do nó gây ra cũng có thể phát sinh ra một mômen dọc lớn tại trọng tâm máy bay. Ổn định Máy bay với một cánh có một sự chuyển động bình thường trong khi bay (sự ổn định theo chiều dọc). Có nghĩa là bất kỳ sự rối loạn nào (như một cơn lốc) sẽ nâng mũi máy bay lên - do mômen dọc được tạo ra có cường độ lớn, nó sẽ khiến mũi máy bay hướng lên trên. Với sự rối loạn này, sự có mặt của cánh đuôi tạo ra một mômen dọc khác kéo mũi chúc xuống, nó sẽ chống lại sự bất ổn định của cánh và làm máy bay được ổn định theo chiều dọc. Một máy bay ổn định có thể duy trì thao tác lái bằng tay và sẽ giữ được độ cao và đường bay. Điều khiển Cánh đuôi máy bay có một tấm flap khớp với bản lề để tạo lực, nó cho phép phi công có thể kiểm soát được số lượng lực nâng được sinh ra bởi cánh đuôi. Nó tạo ra một mômen dọc để máy bay có thể lên hoặc xuống, điều này được sử dụng để điều khiển máy bay khi máy bay rẽ hướng. Trong một chuyến bay với tốc độ âm thanh, tuy nhiên, sóng xung kích được sinh bởi cánh đuôi sẽ tạo ra lực không có lợi (điều này được khám phá lần đầu tiên bởi Bell X-1; may mắn là dù cánh đuôi là loại cánh thiết kế thường, Bell Aircraft Corporation có một thiết bị để thay đổi góc đụng của đuôi máy bay; nó làm cho chương trình máy bay siêu âm tốn nhiều tiền và mất nhiều thời gian hơn để chế tạo máy bay, nguồn gốc của thiết bị này vẫn còn đang bàn cãi, một vài ý kiến cho rằng nó từ mẫu Miles M.52, và vì điều đó, máy bay siêu âm có một đuôi luôn chuyển động, để giữ tốc độ siêu âm. Trong khi về mặt kỹ thuật gọi cái đó là một "sự ổn định", đây là hình dạng thường được quy cho cánh đuôi luôn "chuyển động" hoặc "luôn bay". Xem thêm Đuôi-T Tham khảo Bộ điều chỉnh máy bay Hình dạng máy bay Thiết kế cánh Thành phần máy bay fr:Empennage
wiki
Không nên nhầm lẫn với Hán ngữ Đại Từ điển Hán ngữ Đại Tự điển () là một trong những tài liệu tra cứu tốt nhất về chữ Hán. Nó được biên soạn bởi một nhóm hơn 400 chuyên gia từ năm 1979 và được xuất bản lần đầu tiên từ năm 1986 đến năm 1989. Một tập luận văn do Li và Zhao viết năm 1990 chú dẫn sự phức tạp về mặt từ điển học của quyền tự điển này. Bên cạnh ấn bản lần đầu tiên bao gồm tổng cộng 5.790 trang in, Hán ngữ Đại Tự điển có có ấn bản 3 tập vào năm 1995 và một ấn bản thu gọn vào năm 1999. Hán ngữ Đại Tự điển bao gồm 54.678 mục từ chữ Hán. Nó cung cấp những dạng thù hình của chữ Hán từ xưa đến nay - ví dụ như giáp cốt văn, kim văn, triện thư; những cách phát âm của Hán ngữ Thượng cổ (nhóm vần), Hán ngữ Trung cổ (phản thiết) và tiếng Phổ thông hiện đại (bính âm). Nghĩa của từ được sắp xếp theo thứ tự thời gian và lấy nguồn từ những văn bản cũng như từ điển tiếng Trung thời cổ ví dụ Thuyết văn giải tự. Các mục từ được sắp xếp theo các bộ thủ và số nét chữ. Tập 8 của tự điển có phần phụ lục, trong đó bao gồm vận đồ của Hán ngữ Thượng cổ và Trung cổ, những dị thể của chữ Hán, danh mục. Hán ngữ Đại Tự điển trở thành tài liệu tham khảo chuẩn cho trên thế giới, ví dụ như Unihan Database. Xem thêm Đại Hán Hòa Từ điển Hán-Hàn Đại Từ điển Hán ngữ Đại Từ điển Khang Hy tự điển Trung Hoa Đai Tự điển Tham khảo Hanyu da zidian weiyuanhui 漢語大字典委員會, eds. 1986-1989. Hanyu da zidian 漢語大字典 ("Comprehensive Chinese Character Dictionary"). 8 vols. Wuhan: Hubei cishu chubanshe and Sichuan cishu chubanshe. ISBN 7-5403-0030-2. 1995. Corrected ed., 3 vols. Hanyu da zidian weiyuanhui 漢語大字典委員會, eds. 1999. Hanyu da zidian xiuzhenben 漢語大字典袖珍本 ("Pocket Edition Hanyu da zidian"). Wuhan: Hubei cishu chubanshe and Sichuan cishu chubanshe. Li Gefei 李格非 and Zhao Chenduo 赵振铎, eds. 1990. Hanyu da zidian lunwenji 漢語大字典論文集 ("Collected Essays on the Hanyu da zidian"). ISBN 7-5403-0028-0 Tham khảo Chinese dictionaries Chinese language
wiki
Amadou Dia N'Diaye (sinh ngày 2 tháng 1 năm 2000) là một tiền đạo người Sénégal hiện tại đang thi đấu cho câu lạc bộ Xamax tại Swiss Challenge League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal. Sự nghiệp thi đấu Vào ngày 1 tháng 2 năm 2023, N'Diaye ký hợp đồng với câu lạc bộ Xamax tại Swiss Challenge League. Bàn thắng quốc tế Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Sénégal, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Dia N'Diaye. Danh hiệu U-20 Senegal Á quân Cúp các quốc gia U-20 châu Phi: 2019 Tham khảo Sinh năm 2000 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Sénégal Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Sénégal Cầu thủ bóng đá Génération Foot Cầu thủ bóng đá FC Metz Cầu thủ bóng đá FC Sochaux-Montbéliard Người Vùng Diourbel Cầu thủ bóng đá R.F.C. Seraing (1922) Cầu thủ bóng đá Neuchâtel Xamax Cầu thủ bóng đá Le Mans FC Cầu thủ bóng đá Ligue 2 Cầu thủ bóng đá Championnat National Cầu thủ bóng đá Belgian First Division B Cầu thủ bóng đá nam Sénégal ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Sĩ Vận động viên thể thao Sénégal ở Pháp Vận động viên thể thao Sénégal ở Thụy Sĩ Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ Vận động viên thể thao Sénégal ở Bỉ Tiền đạo bóng đá
wiki
Hệ thống đường cao tốc Việt Nam là một mạng lưới các đường cao tốc kéo dài từ Bắc đến Nam ở Việt Nam và thuộc hệ thống giao thông đường bộ ở Việt Nam. Bắt đầu được xây dựng từ cuối năm 1998 đến nay, năm 2023 thì theo tính toán, toàn bộ Hệ thống đường cao tốc Việt Nam có quãng đường khoảng 1.832 km. Hiện nay nhiều đoạn cao tốc đã được xây dựng và đang được vận hành như đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây hoặc đang xây dựng như đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau. Đường cao tốc lớn đi từ Bắc đến Nam là đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông (CT.01) đã được xây dựng nhiều đoạn và nhiều đường cao tốc lớn khác vẫn đang trong quá trình xây dựng. Lịch sử Ý tưởng xây dựng đường cao tốc đã xuất hiện từ khoảng năm 2010, khi số lượng ô tô cá nhân tăng nhanh, trong khi nhiều tuyến quốc lộ như Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 51... đã quá tải. Tuy nhiên, khả năng mở rộng của một số quốc lộ này (đặc biệt các tuyến quốc lộ ở miền Bắc) trở nên hạn chế do người dân sống tập trung 2 bên đường nên chi phí giải tỏa rất lớn, đồng thời một số tuyến quốc lộ có chung hành lang với đường sắt tương ứng; ngoài ra một số tuyến quốc lộ ở miền núi phía Bắc không thể mở rộng do địa hình. Việc xây dựng hệ thống đường cao tốc ở Việt Nam nhằm tách các xe ô tô, xe khách không dừng và xe tải chạy đường dài ra khỏi luồng giao thông của xe thô sơ, xe 2-3 bánh, xe khách đón trả khách thường dọc đường và xe tải, tạo điều kiện cho xe chạy đường dài chạy nhanh hơn và an toàn hơn. Tiền thân của các tuyến đường cao tốc hiện nay là các tuyến tránh quốc lộ được xây dựng song song với đường chính, nằm ngoài vùng đông dân cư của các thành phố, trong đó các đoạn tránh quốc lộ 1 cũ đường Pháp Vân – Cầu Giẽ, đoạn Pháp Vân – Bắc Giang và quốc lộ 18 đoạn Nội Bài – Bắc Ninh đều hoàn thành năm 1998. Thời điểm đó, các tuyến đường này đều chỉ là tuyến tránh các quốc lộ tương ứng và không đạt tiêu chuẩn đường cao tốc. Ngày 3 tháng 2 năm 2010, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, giúp giảm tải cho Quốc lộ 1 đoạn Thành phố Hồ Chí Minh – Mỹ Tho. Đây là tuyến đường đầu tiên được công nhận là đường cao tốc ở Việt Nam. Kể từ sau năm 2010, các tuyến đường cao tốc được triển khai và xây dựng, trong đó nổi bật nhất là đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây,... Tháng 9 năm 2021, Chính phủ công bố Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã quy hoạch lại hệ thống đường bộ cao tốc. Theo đó, số tuyến đường cao tốc được nâng lên là 41, với tổng chiều dài hơn 9000km. Tiêu chuẩn Đường cao tốc Hiện nay không có tiêu chuẩn nào được đặt ra khi làm hệ thống đường cao tốc Việt Nam, tuy nhiên nhìn chung thì các đường cao tốc ở Việt Nam đều được xây dựng với quy mô từ 4 – 6 làn bao gồm 2 – 3 làn mỗi chiều và đều liên kết đến các quốc lộ và các đường cao tốc khác ở nơi mà đường cao tốc đi qua. Tốc độ các đường cao tốc ở Việt Nam đều được thiết kế tối đa từ 80 – 120 km/h (tối thiểu 60 km/h). Hiện nay, đường cao tốc tại Việt Nam được phân ra làm 4 cấp: Đường cao tốc cấp 60 có tốc độ tính toán tối đa là 60 km/h. Đường cao tốc cấp 80 có tốc độ tính toán tối đa là 80 km/h. Đường cao tốc cấp 100 có tốc độ tính toán tối đa là 100 km/h. Đường cao tốc cấp 120 có tốc độ tính toán tối đa là 120 km/h. Đường cao tốc cấp 60 và 80 được áp dụng ở những khu vực có địa hình hiểm trở như đồi núi, vùng cao và một số nơi có hạn chế khác như các tuyến: Bắc – Nam phía Tây, Nội Bài – Lào Cai (đoạn Yên Bái – Lào Cai), Đồng Đăng – Trà Lĩnh, Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột, Liên Khương – Đà Lạt,... Còn đường cấp 100 và 120 được áp dụng cho khu vực bằng phẳng như vùng đồng bằng như các tuyến: Bắc – Nam phía Đông, Nội Bài – Lào Cai (đoạn Nội Bài – Yên Bái), Hà Nội – Hải Phòng, Hải Phòng – Móng Cái, Cao Lãnh – An Hữu, Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, Biên Hòa – Vũng Tàu,... Ký hiệu Biển hiệu được thiết kế trên 1 tấm khiên hình chữ nhật có nền màu vàng, viền đen, Số tuyến đường được hiển thị sau chữ "CT". Biển hiệu thường được hiển thị ở một số vị trí khác nhau. Chúng được hiển thị ở các nút giao giữa cao tốc với các đường quốc lộ vào các đường khác. Thứ 2, chúng được hiển thị tại các bảng chỉ đường đặt ở các nút giao với các đường chính và cao tốc khác, để người đi đường có thể biết được hướng các đi và đi theo đường đã chọn. Thứ 3, chúng có thể được hiển thị trên các biển chỉ dẫn màu xanh lá cây lớn cho biết các nút giao thông sắp tới trên đường cao tốc, ngoài ra việc hiển thị trên các biển chỉ dẫn màu xanh lá cây lớn còn cho biết đã vào hay đi hết đường cao tốc. Hệ thống đường cao tốc Quy hoạch đường cao tốc hiện hữu từ năm 2021 Đây là danh sách tất cả đường cao tốc của Việt Nam, bao gồm các đường cao tốc lớn và những đường cao tốc nhỏ thuộc đường cao tốc lớn hơn, theo quy hoạch vào năm 2021. Một số đường cao tốc của Việt Nam được chỉ định tham gia mạng lưới đường bộ Xuyên Á, đó cũng là các tuyến cao tốc nổi tiếng nhất của Việt Nam, chúng bao gồm: AH1: , , , , AH14: , , AH17: , , , , Hệ thống Đường cao tốc Bắc – Nam Hệ thống đường cao tốc khu vực phía Bắc Hệ thống đường cao tốc khu vực miền Trung – Tây Nguyên Hệ thống đường cao tốc khu vực phía Nam Hệ thống đường cao tốc vành đai đô thị Quy hoạch đường cao tốc năm 2015 Đây là danh sách tất cả đường cao tốc của Việt Nam được quy hoạch từ năm 2015 đến năm 2021. Tham khảo Liên kết ngoài Đường bộ Việt Nam
wiki
Vịnh Baffin (tiếng Inuktitut: Saknirutiak Imanga; tiếng Greenland: Avannaata Imaa; ) là một phần biển nằm giữa đảo Baffin và Greenland. Nó dài khoảng 1.300 km (800 dặm Anh) tính từ bắc xuống nam và rộng trung bình khoảng 540 km (335 dặm Anh) tính từ tây sang đông. Diện tích ước khoảng 700.000 km². Nó gần như không thuận lợi cho giao thông đường biển trong cả năm do sự tồn tại của một lượng lớn các núi băng trôi. Lịch sử Năm 1585, nhà thám hiểm người Anh là John Davis là người châu Âu đầu tiên tới vịnh này. William Baffin đã thực hiện 5 cuộc hành trình tới Bắc cực và tới vịnh Baffin vào năm 1616. Trong ba cuộc hành trình người ta đã chứng minh rằng hành lang Tây Bắc không nằm trong khu vực vịnh Hudson. Vị trí Vịnh Baffiny được coi là một nhánh của Bắc Băng Dương, bị ngăn bởi đảo Baffin ở phía tây, Greenland ở phía đông, đảo Ellesmere ở phía bắc. Nó nối với Đại Tây Dương bằng eo biển Davis và với Bắc Băng Dương thông qua một vài kênh hẹp của eo biển Nares. Nó cũng được coi là sự mở rộng về phía tây bắc của Bắc Đại Tây Dương và biển Labrador. Sự sống hoang dã Khoảng 120.000 cá voi Beluga sinh sống trong vịnh Baffin, chúng ăn các loài cá nhỏ cùng các loài động vật thân mềm khác. Chúng đang phải đối mặt với rủi ro bị mắc kẹt trong băng cùng các e ngại môi trường khác. Tham khảo Biển rìa lục địa Bắc Băng Dương Biển rìa lục địa Đại Tây Dương Biển của Greenland Thủy vực vùng Qikiqtaaluk
wiki
Charlotte's Web 2: Wilbur's Great Adventure là một bộ phim hoạt hình Mỹ vào năm 2003, được quay trực tiếp lên video, và là phần tiếp theo sau phần đầu Charlotte's Web. Phim được sản xuất bởi Paramount Pictures, Universal Pictures, (lô gô được nhìn thấy trong bản phát hành khắp thế giới), Universal Cartoon Studios (lô gô được nhìn thấy trong bản phát hành quốc tế), và Nickelodeon; và do Paramount Home Entertainment phát hành ở Bắc Mỹ, còn Universal Studios Home Entertainment ở bên ngoài. Nội dung Bộ phim bắt đầu vào một mùa xuân, khoảng một năm sau khi Charlotte qua đời. Ba con gái của Charlotte, Nellie, Aranea, và Joy, đang ở tuổi mới lớn, coi Wilbur là một người bạn cũng như là một người thầy. Trong lúc ấy, Wilbur kết bạn với Cardigan, một con cừu non bị những con cừu non khác cũng như những con cừu trẻ trong đàn coi thường bởi vì nó có bộ lông màu đen. Wilbur che chở Cardigan và chỉ dẫn nó về trang trại, về cách sống của các loài động vật và những nguy hiểm cần tránh. Tuy nhiên, chỉ vài tuần sau, Zuckerman đột ngột bán Cardigan cho một người chủ trại khác, vì vậy Wilbur, cùng với những người con gái của Charlotte và Chuột Templeton, lên đường thăm Cardigan và đảm bảo rằng nó vẫn sống tốt. Lồng tiếng David Berón vai Wilbur Harrison Chad vai Cardigan Julia Duffy vai Charlotte Anndi McAfee vai Joy Maria Bamford vai Aranea Amanda Bynes vai Nellie Dawnn Lewis vai Bessie Rob Paulsen vai Farley Laraine Newman vai Gwen Nika Futterman vai Baby Rats Debi Derryberry vai Fern Arable Brenda Vaccaro vai Mrs. Hirsch Jerry Houser vai Mr. Zuckerman Charles Adler vai Templeton và Lurvy Valery Pappas vai High Strung Chicken Nhạc phim "It's Not So Hard to Be a Pig" "Watch Out, Wilbur the Pig!" "It's Good to Be Me" "Charlotte's Kids" Tham khảo Liên kết ngoài Phim năm 2003 Hoạt hình Mỹ Phim tiếng Anh Mạng nhện của Charlotte Phim của Universal Pictures Phim hoạt hình Mỹ Phim ca nhạc thập niên 2000 Phim chính kịch thập niên 2000 Phim với các sự vật được nhân hoá Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2000 Phim phiêu lưu thập niên 2000 Phim hài-chính kịch thập niên 2000 Phim kỳ ảo thập niên 2000 Phim tưởng tượng dành cho trẻ em của Mỹ Phim Mỹ Phim kỳ ảo ca nhạc Phim của Paramount Pictures Phim đường phố Phim tiếp nối Mỹ Phim đôi bạn
wiki
Bài làm Chí phèo vừa là tên tác phẩm vừa là tên nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Chí Phèo mang một bi kịch một cuộc đời mà không được là một con người hoàn lương. Những giọt nước mắt của CHí Phèo khi thì làm con người ta thấy mỉa mai hả dạ nhưng đôi lúc chính những giọt nước mắt ấy khiến cho độc giả trở nên chua xót nghẹn ngào. Giọt nước mắt đầu tien của Chí Phèo cũng giống như những đứa trẻ khác đó chính là giọt nước mắt của những đứa trẻ chào đời.Nhưng khác ở chỗ đó không phải là tiếng khóc cất tiếng báo hiệu cho sự có mặt của mình trong cuộc đời này mà là của sự đói khát khát sữa và lạnh giá bị bỏ rơi trong lg gạch cũ. Giọt nước mắt ấy như báo hiệu cho một cuộc đời không mấy may mắn và hạnh phúc của Chí Phèo. Tiếp đến chính là những giọt nước mắt cảm thấy nhục nhã khi bị bà Ba nhà Bá Kiến lợi dụng. Ngay sau đó anh bị Bá Kiến kiếm cớ đẩy một con người hiền lành lương thiện vào nhà tù. Chí vốn dĩ là chàng trai hiền lành khỏe mạnh, đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng một điều không còn lạ lẫm trong thế giới ấy nữa một người già như Bá KIến lại có năm thê bẩy thiếp nhưng bá kiến lại già nua cho nên bà BA – vợ của bá Kiến đã kiếm cớ lẳng lơ với Chí Phèo nhưng bị từ chối Bá Kiến tức giận và nhẫn tâm lập ra mưu để đẩy Chí vào tù lúc bấy giờ nước mắt Chí lại rơi vì nhục nhã và uất hận. Xã hội đã khiến cho Chí phải rơi vào cảnh tù đày như thế bởi vốn CHí thiên lương mà bị đẩy vào con đường tù tội một cách oan uổng. Chí Phèo sau những năm tháng tù ngục đã trở về làng với bộ dạng gớm ghiếc:răng trắng hớn, xăm trổ đầy mình. Dường như giọt nước mắt của một người đàn ông được thể hiện qua những câu chửi mà mở đầu đoạn trích nhà văn Nam Cao đã cho Chí xuất hiện một cách đầy ấn tượng. Chí chửi trời chửi đời, chửi những người làng Vũ Đại nhưng dường như không ai chú ý tới chí ngoài mấy con chó chực đứng xng quanh để sủa. Chẳng một ai quan tâm một ai muốn qua lại một người như Chí Phèo- lời chửi ấy như một tiếng khóc vừa uất ức vừa căm hận không thể nén lại Chí phèo còn có những giọt nước mắt lúc ăn vạ, khi trở về làng lại trở thành thành tay sai đắc lực của Bá Kiến, ngoài đi đòi nợ thuê cho bá Kiến thì chí còn rạch mặt ăn vạ và làm tổn thương cả tinh thần lẫn thể xác của chính bản thân mình.
vanhoc
Claire Penn (1951 – 2018) là một nhà nghiên cứu bệnh học tiếng nói/ngôn ngữ ở Nam Phi, giữ vị trí Khoa trưởng Bệnh lý ngôn ngữ và Thính học, bà từng là chuyên gia nghiên cứu cao cấp tại Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Nhân văn. Bà nhận được Huân chương Mapungubwe (Bạc) năm 2007, Huân chương cao nhất Nam Phi, cho những cống hiến về ngôn ngữ học, ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ trẻ em, hội chứng bất lực ngôn ngữ và chấn thương đầu. Sự nghiệp Penn sinh ra ở Kenya và chuyển đến gia đình ở Nam Phi lúc 12 tuổi. Bà theo học Đại học Witwatersrand (Wits), nơi bà hoàn thành bằng Cử nhân (cum laude) trong Speech and Hearing năm 1972. Bà làm việc tại Wits với tư cách là người hướng dẫn lâm sàng từ năm 1973 đến năm 1976 trước khi chuyển đến Anh như một học giả Hội đồng Anh – British Council. Bà trở về Wits để lấy bằng tiến sĩ năm 1983. Bà là thỉnh giảng tại Đại học Macquarie ở Sydney, Úc, và Đại học Case Western Reserve Hoa Kỳ. Năm 2008 Penn được đặt tên Shoprite Checkers / SABC 2 Nam Phi Người phụ nữ của năm cho Khoa học và Công nghệ . Trong năm 2012, chuyến thăm và giảng dạy của bà về"Truyền thông sức khỏe trên các nền văn hóa: Một số góc nhìn từ Nam Phi"("Health Communication across Cultures: Some Perspectives from South Africa") được tài trợ bởi Đại học Duke. Cuộc sống cá nhân Bà có hai con, sở thích leo núi và đi bộ đường dài. Tham khảo Sinh năm 1951 Mất năm 2018 Nhà khoa học nữ thế kỷ 20 Nhà khoa học nữ thế kỷ 21
wiki
HỒ CHÍ MINH – 8 năm đường Lê Lợi rào chắn để thi công tuyến metro số 1, đời sống, việc kinh doanh của bà con bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lãnh đạo quận 1, Sở Xây dựng, Ban Quản lý đường sắt đô thị TP gặp mặt để cảm ơn người dân đã ủng hộ TP thời gian qua. Sáng 27-8, góc đường Lê Lợi ( quận 1 , TP.HCM ) sôi động hẳn khi hàng trăm cư dân sống hai bên đường có mặt dự lễ ra quân đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trật tự đô thị, vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy trên địa bàn quận. Sau nhiều năm, các rào chắn trên đường Lê Lợi đang dần được tháo gỡ. Con đường đang được chỉnh trang khang trang, sạch đẹp hơn. “Ưng bụng với con đường Lê Lợi mới” Có mặt từ 6h để ngắm nhìn khung cảnh sạch đẹp, rộng rãi của đường Lê Lợi, bà Nguyễn Thị Thanh (phường Bến Nghé) cho biết bản thân “tự hào và sung sướng lắm”. Trước đây, con đường Lê Lợi này hẹp hơn, vỉa hè xuống cấp, vệ sinh môi trường không đảm bảo. Dù vậy, thời điểm đó, đây được xem là con đường sầm uất của TP nên khi Nhà nước có chủ trương rào chắn đường, nhiều người không đồng tình. Việc rào chắn thời gian dài ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Nhưng sau đó khi được các cấp vận động, bà con cũng hiểu được lợi ích của dự án nên đã đồng thuận. Đường Lê Lợi đang dần tháo gỡ các rào chắn. Đây là một trong những con đường thương mại, dịch vụ sầm uất bậc nhất TP.HCM Bà Thanh kể trong suốt 8 năm thi công, việc đi lại rất vất vả. Tiếng ồn của công trình ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, việc kinh doanh vô cùng khó khăn. Nhưng rồi, khi thấy con đường khang trang của hiện tại, bà con “ưng bụng lắm”. “Con đường được cải tạo đẹp đẽ rồi, du khách đến đông hơn, kinh doanh cũng sẽ tốt hơn, cuộc sống của người dân sẽ có nhiều lợi ích hơn”, bà Thanh phấn khởi nói. Sự ủng hộ của nhân dân là sức mạnh để phát triển Nhân dịp này, Quận ủy – UBND – Ủy ban MTTQ Việt Nam quận 1, phường Bến Nghé cùng lãnh đạo Sở Xây dựng, Ban Quản lý đường sắt đô thị TP đã tổ chức buổi gặp mặt để cảm ơn bà con, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp trên đường Lê Lợi. Tại đây, ông Lê Đức Thanh – chủ tịch UBND quận 1 – cho biết hơn 8 năm trước, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư tuyến metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên), các cấp ngành đã bắt tay triển khai ngay để đẩy nhanh tiến độ. Thời điểm đó, nỗi lo lớn nhất chính là cuộc sống của bà con, các hộ kinh doanh, doanh nghiệp trên tuyến đường Lê Lợi – nơi vốn dĩ là khu vực trung tâm có hoạt động kinh tế du lịch, sôi động bậc nhất của TP.HCM – bị ảnh hưởng. Chủ tịch UBND quận 1 Lê Đức Thanh cảm ơn người dân trên đường Lê Lợi đã đồng hành cùng TP.HCM Ông Thanh cho biết ngày 2-9, Ban Quản lý đường sắt đô thị sẽ hoàn thành việc tái lập mặt đường, tháo gỡ các rào chắn, trồng cây tạo cảnh quan, bàn giao mặt bằng tuyến đường Lê Lợi. Theo ông, việc này sẽ mở ra một bước ngoặt mới cho sự phát triển kinh tế của quận. Tuyến đường Lê Lợi đang được đề xuất làm phố đi bộ. Tuyến phố này sẽ tạo sức hút du lịch, kết nối phố đi bộ Nguyễn Huệ, chợ Bến Thành, Nhà hát TP Người đứng đầu chính quyền quận 1 đã thay mặt lãnh đạo quận và các đơn vị bày tỏ sự tri ân sâu sắc đến bà còn đã ủng hộ, đồng hành cùng chính quyền, hy sinh lợi ích cá nhân để góp phần xây dựng tuyến đường sắt đô thị đầu tiên của TP. “Điều đó cho thấy nhiệm vụ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của quận không chỉ là nhiệm vụ của chính quyền mà còn là sức mạnh đoàn kết, đồng lòng, chung sức của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp trên địa bàn. Đây cũng là nguồn lực mạnh mẽ để chính quyền quận vượt qua mọi khó khăn, cùng xây dựng quận 1 an toàn, văn minh, phát triển, nghĩa tình” – ông Thanh tri ân người dân. Ấm lòng trước lời cảm ơn của các lãnh đạo Con đường đang dần gỡ bỏ rào chắn, người dân có không gian để vui chơi Nói về hoạt động cảm ơn của các lãnh đạo quận 1, phường Bến Nghé, Sở Xây dựng, Ban Quản lý đường sắt đô thị TP, bà Nguyễn Thị Thanh cho rằng mình thực sự thấy được sự quan tâm của các cấp đối với người dân. Các lãnh đạo đã đề cao vai trò của người dân trong quá trình phát triển của TP, bà Thanh rất ấm lòng. Bà cho rằng những món quà mà lãnh đạo tặng người dân sáng nay tuy nhỏ nhưng “người dân rất sướng”. “Đôi khi những món quà có vật chất cao nhưng thiếu tình cảm. Những món quà nhỏ nhưng thấy được sự quan tâm của lãnh đạo với dân thì người dân sướng lớn. Bản thân tôi cũng vậy. Được cảm ơn, động viên trực tiếp như thế, tôi thấy mình được an ủi” – bà Thanh nói. Còn ông Võ Trí Ân (hộ kinh doanh) hy vọng quận tiếp tục xây dựng cảnh quan, có chính sách miễn giảm thuế, bố trí khu vực để xe, hệ thống chiếu sáng, vệ sinh môi trường để hoạt động kinh doanh trên tuyến đường Lê Lợi tốt hơn. THẢO LÊ
vanhoc
Bóng đá bãi biển là một biến thể môn bóng đá trong đó trận đấu bóng đá được diễn ra trên một bãi biển hoặc các hình thức sân cát. Bóng đá bãi biển nhấn mạnh vào các kỹ năng, sự nhanh nhẹn và tính chính xác vì trái bóng trên cát rất khó điều khiển và việc di chuyển trên sân cát khó khăn hơn các hình thức sân thi đấu khác. Bóng đá bãi biển ít tốn kém, không cần sân cỏ, không cần giày thi đấu, chỉ cần có một bãi cát rộng, khung thành đơn giản... là mọi người có thể chơi bóng. Thời gian qua, có rất nhiều đội tuyển tham gia các giải bóng đá bãi biển theo 2 kiểu: đá trong nước và đá nước ngoài. Đối với giải bóng đá bãi biển nước ngoài có 2 loại: Giải bóng đá bãi biển châu lục (AFC Beach Soccer Asian Cup, UEFA Beach Soccer,...) và giải bóng đá bãi biển toàn thế giới (FIFA Beach Soccer World Cup). Tại giải bóng đá bãi biển toàn thế giới (FIFA Beach Soccer World Cup), các đội tuyển từ các nước khác sẽ được tham gia cùng với chủ nhà giải đấu. Luật chơi Mỗi trận bóng đá bãi biển có hai đội tham gia, mỗi đội không quá năm cầu thủ, một trong số đó là thủ môn. Mỗi trận đấu được chia làm ba hiệp, mỗi hiệp kéo dài 12 phút và nghỉ giữa hai hiệp là 3 phút. Nếu sau khi kết thúc thời gian đá chính tỉ số vẫn hòa thì hai đội sẽ đá hiệp phụ trong thời gian 3 phút, nếu vẫn hòa sẽ đá luân lưu 11m. Ban đầu, theo luật thì loạt sút luân lưu sẽ bước vào giai đoạn "cái chết đột ngột" luôn; từ năm 2015, mỗi đội có 3 lượt sút - đội có nhiều cú sút thành công hơn sẽ là đội thắng. Từ năm 2021, số lượt đá luân lưu chính được nâng lên 5. Trong Luật bóng đá bãi biển, các cú sút phạt không được có hàng rào chắn. Khi ném biên, cầu thủ có thể chọn một trong hai cách: đá biên hoặc ném biên. Sự ra đời của bóng đá bãi biển là một nỗ lực của việc hệ thống hóa các quy tắc cho môn này. Điều này đã được thực hiện vào năm 1992 bởi những người sáng lập môn bóng đá bãi biển trên toàn thế giới. Một liên đoàn được thành lập để phát triển các môn thể thao và chịu trách nhiệm cho phần lớn các giải đấu của mình cho đến ngày nay. Sân bóng đá bãi biển thường nhỏ gọn, nhỏ hơn nhiều so với một sân bóng đá, cho phép người chơi ghi bàn từ bất cứ nơi nào trên cát, bàn thắng trong một trận đấu không quá khó khăn. Các cầu thủ (tính cả thủ môn) không được phép giữ bóng quá 3 giây, đội nào vi phạm sẽ phải chịu quả phạt 11m. Quả bóng thi đấu là bóng theo dạng hình cầu, bán kính là 15,5 cm, dài 16,5 inch và rất mềm, làm bằng nhựa và có quỹ đạo đủ lực khi cầu thủ tạo ra tuyệt chiêu móc bóng. Xem thêm Bóng đá Bóng đá mini Bóng đá đường phố Chú thích Môn thể thao đồng đội Môn thể thao bãi biển Môn thể thao thể chất Môn thể thao có nguồn gốc từ Brasil Bãi biển
wiki
Tenchi wo Kurau (tên tiếng Anh là Destiny of an Emperor) là một game nhập vai được sản xuất bởi Capcom dành cho hệ máy Nintendo Entertainment System. Nó được phát hành lần đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1989, và phiên bản tiếng Anh mang tên Destiny of an Emperor được ra mắt tại thị trường Bắc Mỹ vào năm 1990. Tenchi wo Kurau được dựa trên một bộ truyện tranh manga cùng tên của Motomiya Hiroshi. Nội dung câu chuyện là nói về nhân vật lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc là Lưu Bị và 2 người anh em kết nghĩa là Quan Vũ và Trương Phi. Cốt truyện trong game ít liên quan đến nội dung trong cuốn tiểu thuyết lừng danh của La Quán Trung là Tam Quốc Diễn Nghĩa, mà nó chỉ bám sát đến những tình huống lịch sử và những trận đánh diễn ra trong thời kỳ Tam Quốc nổi tiếng này. Phiên bản tiếp theo của trò chơi, có tên là Tenchi wo Kurau II, chỉ được tung ra trên thị trường Nhật Bản. Cốt truyện Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi thành lập một đội quân nhỏ để bảo vệ ngôi làng của họ chống lại nghĩa quân Khăn Vàng, cầm đầu là Trương Giác. Lưu Bị đã huy động đủ người từ những ngôi làng bên cạnh và sau đó đánh bại Trương Giác. Đào Khiêm, quan thái thú của Từ Châu bị bệnh và đề nghị Lưu Bị tiếp quản làm chủ Từ Châu. Lưu Bị miễn cưỡng đồng ý. Và từ đây bắt đầu câu chuyện đã được mô tả trong tiểu thuyết, mặc dù đã được sửa đổi khá nhiều. Nếu hoàn thành game. người chơi sẽ thống nhất được cả Trung Quốc dưới danh nghĩa quân Thục Hán. Cách chơi Không giống như các game RPG khác được phát hành vào thời điểm đó và sau này, những trận đánh mà không có trùm trong Tenchi wo Kurau không đơn thuần chỉ là những trận đánh lặp lại. Khi đụng độ những trận đánh bình thường, hầu hết là bạn sẽ phải chạm trán với một hoặc nhiều vị tướng đang quản lý vùng đất mà bạn đang đứng trên. Và thêm vào đó, hầu hết những vị tướng này đều có thể được tuyển mộ nếu bạn muốn. Sau khi đánh bại họ trên chiến trường, họ có thể đề nghị bạn cho họ được gia nhập quân đội của bạn, tùy từng trường hợp họ sẽ đòi thêm một số điều kiện. Có thể họ sẽ đòi tiền, có khi đòi ngựa (mua trong các cửa tiệm). Một khi đã được tuyển mộ, bạn sẽ không bao giờ gặp họ trên chiến trường nữa. Do hệ thống tuyển mộ quân lính rộng rãi như vậy, bạn có thể lựa chọn được rất nhiều nhân vật mà có thể cho vào đội hình để chiến đấu (có tất cả 150 tướng trong game). Tuy nhiên, hầu hết trong số các nhân vật trong game đều không thể lên cấp độ khi chiến đấu xong, vì thế họ chỉ có thể hữu dụng vào một số thời điểm của game. Số nhân vật tối đa mà bạn có thể có trong đội hình (cả chính lẫn dự bị) là 70. Một khi đạt đến con số này, nếu muốn tuyển mộ thêm tướng mới, người chơi sẽ buộc phải đẩy đi một số tướng mà bạn cho là không cần thiết nữa. Sau khi bị sa thải, bạn có thể sẽ chạm trán những vị tướng này trên chiến trường. Những tướng hoạt động chính thực chất chỉ có 7. Trong đó 5 người luôn luôn chiến đấu và có hai người sẵn sàng dự bị. Trong số 2 người dự bị thì có một người trong vai trò thay thế nếu 1 người trong số 5 người chiến đấu bị chết. Còn người dự bị thứ 2 thì hoạt động trong vai trò của một quân sư. Người quân sư này có thể cung cấp những chiến thuật đặc biệt, rất cần thiết khi chiến đấu. Những lựa chọn tấn công và hỗ trợ khác thì cũng như bao game nhập vai khác. Có một lựa chọn có tên là "All-Out". Khi lựa chọn, cả hai bên địch và ta sẽ lao vào nhau thực hiện những đòn tấn công bình thường, nhưng với quân địch thì chúng có thể sử dụng thêm đòn tấn công chiến thuật, trong khi đó thì quân ta không thể. Chiến thuật này chỉ áp dụng cho những trận đánh mà bạn cho là dễ dàng, không nên dùng khi chạm trán trùm. Đánh giá Andy Slaven nhận xét đây là một trong những game RPG độc nhất vô nhị trên NES. Chuyển đến Ghi chú Liên kết ngoài Destiny of an Emperor at Kongming’s Archives Destiny of an Emperor at LordYuanShu.com Destiny of an Emperor at Mike’s RPG Center Destiny of an Emperor at GameFAQs Trò chơi điện tử nhập vai Trò chơi Capcom Trò chơi Nintendo Entertainment System
wiki
Các cuộc biểu tình ở Venezuela năm 2017 là một loạt các cuộc biểu tình xảy ra khắp Venezuela. Các cuộc biểu tình bắt đầu vào tháng 1 năm 2017 sau khi bắt giữ nhiều nhà lãnh đạo phe đối lập và hủy bỏ cuộc đối thoại giữa phe đối lập và chính phủ Nicolás Maduro. Khi căng thẳng tiếp tục, cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1987 tại Venezuela bắt đầu vào cuối tháng 3 khi Toà án Công lý Tối cao Maduro (TSJ) giải tán Quốc hội do phe đối lập, với cường độ biểu tình tăng lên khắp Venezuela sau quyết định. Vào tháng Tư, các cuộc biểu tình đã trở thành vụ tấn công tồi tệ nhất kể từ khi xảy ra đợt sóng bất ổn vào năm 2014 do cuộc khủng hoảng gây ra với hàng trăm ngàn người Venezuel kháng chiến hàng ngày thông qua tháng và vào tháng 5. Bối cảnh Sau cái chết của Tổng thống Hugo Chávez, Venezuela phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng trong suốt nhiệm kỳ của người kế nhiệm Nicolás Maduro, do chính sách của Chávez và sự tiếp tục chính sách này của Maduro. Do bạo lực đô thị ở mức cao, lạm phát và tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng hàng hoá cơ bản do các chính sách kinh tế như kiểm soát giá cả nghiêm ngặt, cuộc nổi dậy dân sự ở Venezuela lên tới các cuộc biểu tình 2014- 17., nhằm phản ứng với các chính sách kinh tế như kiểm soát giá cả chặt chẽ. Các cuộc biểu tình xảy ra qua nhiều năm, với các cuộc biểu tình xảy ra ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào các cuộc khủng hoảng mà người Venezuel đang phải đối mặt vào thời điểm đó và mức độ nhận thức về mối đe dọa bị chính quyền đàn áp. Sự bất mãn với chính phủ Bolivar đã chứng kiến ​​phe đối lập được bầu để chiếm đa số trong Quốc hội lần đầu tiên kể từ năm 1999 sau cuộc bầu cử quốc hội năm 2015. Theo kết quả của cuộc bầu cử đó, Quốc hội vịt què bao gồm các viên chức Bôlivia đã chiếm toàn bộ TSJ với các đồng minh của họ. Vào đầu năm 2016, TSJ cho rằng bỏ phiếu bất thường đã xảy ra trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2015 và tước bốn nhà làm luật về ghế của họ, ngăn cản một sự đa dạng đối lập trong Quốc hội mà có thể thách thức Tổng thống Maduro. Tòa án TSJ sau đó đã bắt đầu chấp thuận cho nhiều hành động do Maduro thực hiện và cấp cho ông nhiều quyền hạn hơn. Sau nhiều năm khủng hoảng, phe đối lập Venezuela tiếp tục trưng cầu dân ý với Tổng thống Maduro, đưa ra kiến ​​nghị lên CNE vào ngày 2 tháng 5 năm 2016. Vào tháng 8 năm 2016, động lực khôi phục lại Tổng thống Maduro dường như đang tiến triển, với việc CNE ấn định ngày cho giai đoạn thứ hai của việc thu thập chữ ký, mặc dù nó đã làm lịch trình vất vả, kéo dài tiến trình vào năm 2017 khiến cho phe đối lập không thể kích hoạt Cuộc bầu cử tổng thống mới. Vào ngày 21 tháng 10 năm 2016, CNE đã đình chỉ trưng cầu dân ý chỉ vài ngày trước khi các cuộc họp sơ bộ bắt đầu được tổ chức. CNE đổ lỗi cho lý do gian lận cử tri như một lý do để hủy bỏ trưng cầu dân ý. Các nhà quan sát quốc tế đã chỉ trích động thái này, nói rằng quyết định của CNE đã làm cho Maduro trông như thể ông đang tìm cách cai trị như một nhà độc tài. Vài ngày sau khi phong trào rút quân bị hủy bỏ, 1.2 triệu người Venezuelan đã biểu tình chống lại động thái này, yêu cầu Tổng thống Maduro phải rời khỏi chức vụ, trong khi các cuộc biểu tình ở Caracas vẫn bình tĩnh, trong khi các cuộc biểu tình ở các tiểu bang khác gây xung đột giữa người biểu tình và chính quyền, khiến một cảnh sát thiệt mạng, 120 người bị thương và 147 bị bắt. Ngày hôm đó, phe đối lập đã trao cho Tổng thống Maduro một hạn chót vào ngày 3 tháng 11 năm 2016 để tổ chức các cuộc bầu cử, với nhà lãnh đạo phe đối lập Henrique Capriles tuyên bố: "Hôm nay chúng ta đang đưa ra một thời hạn cho chính phủ, tôi nói với kẻ hèn nhát đang ở Miraflores... vào ngày 3 tháng 11 người dân Venezuela đến Caracas bởi vì chúng ta sẽ đến Miraflores ". Ngày sau ngày 1 tháng 11 năm 2016, Chủ tịch Quốc hội và nhà lãnh đạo phe đối lập Henry Ramos Allup đã tuyên bố hủy bỏ cuộc diễu hành ngày 3 tháng 11 tới cung điện tổng thống Miraflores, với sự đối thoại giữa phe đối lập và chính phủ Vatican bắt đầu. Vào ngày 7 tháng 12 năm 2016, cuộc đối thoại chấm dứt giữa hai bên và hai tháng sau đó vào ngày 13 tháng 1 năm 2017 sau khi các cuộc đàm phán bị đình trệ, Vatican đã chính thức rút khỏi cuộc đối thoại. Các cuộc phản kháng khác nhỏ hơn nhiều do sợ bị đàn áp, với phe đối lập tổ chức các cuộc biểu tình bất ngờ thay vì những cuộc tuần hành quần chúng. Các hành động khác của Tổng thống Maduro và các quan chức Bolivia của ông bao gồm một cuộc họp vào ngày 7 tháng 2 năm 2017 thông báo việc thành lập Phái đoàn Công lý Xã hội Chủ nghĩa Xanh với mục tiêu thiết lập "một liên minh lớn giữa ba cường quốc, tư pháp, công dân và nhà quản lý" Với Maduro nói rằng "chúng ta đã may mắn được chứng kiến ​​sức mạnh tư pháp đang phát triển và hoàn thiện như thế nào, mang theo một học thuyết hoàn chỉnh với bản hiến pháp năm 1999" trong khi tuyên bố rằng Quốc hội đối lập dẫn dắt "nắm quyền không dành cho đa số Nhân dân, nhưng cho chính họ ". Tham khảo Venezuela 2017 Biểu tình tại Venezuela
wiki
Trương Đỗ (không biết năm sinh, năm mất) là quan Ngự sử Đại phu, Đình úy Tự khanh, Trung Đô phủ tổng quản thời Trần Duệ Tông, nổi tiếng là người thanh liêm, cương trực, dũng cảm. Tiểu sử Trương Đỗ là người làng Phù Đới, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, nay là làng Phù Tải, xã Thanh Giang (Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Tiến sĩ và làm quan vào nửa sau thế kỷ XIV. Đây là thời kỳ nhà Trần ngày càng suy yếu, kỷ cương lỏng lẻo, gian thần tiếm quyền, khắp nước loạn lạc, nhân dân điêu đứng. Đời vua Trần Dụ Tông, thầy Chu Văn An dâng "thất trảm sớ" đòi chém đầu 7 tên gian thần nhằm làm trong sạch đám cầm quyền, nhưng vua không nghe nên ông lui về núi Phượng Hoàng (Chí Linh) mở trường dạy học. Đến đời Trần Duệ Tông, Ngự sử Đại phu Trương Đỗ ba lần dâng "Bãi chiến sớ" can vua chớ gây cuộc binh đao, nhưng không hiệu quả nên ông cũng từ quan, còn vua Duệ Tông phải trả giá cực đắt bằng chính mạng sống của mình cho thói ương ngạnh không chịu lắng nghe lời tôi hiền can gián. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Bính Thìn (1376), vua Chiêm Thành đã gửi dâng cho vua Trần 10 mâm vàng nhưng viên quan tham ô là Đỗ Tử Bình biển thủ đi rồi trí trá tâu vua rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ và kích động vua đem quân sang hỏi tội. Vua Duệ Tông nhẹ dạ cả tin và quyết tự mình mang quân đi đánh. Trương Đỗ xác định rõ đây là cuộc chiến tranh không đáng có, chỉ gây tai họa cho nhân dân hai nước nên dâng sớ can: "...Chiêm Thành ở tận cõi Tây xa xôi, hẻo lánh, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ mới lên ngôi, đức chính, giáo hóa chưa thấm nhuần tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó phải tự đến thần phục. Sau này, nếu nó không theo, sẽ sai tướng đi đánh cũng không muộn gì". Cốt lõi của lá sớ là dùng ân đức nhân nghĩa để cảm hóa chứ không dùng bạo lực chiến tranh. Trong nước vừa dẹp xong loạn Dương Nhật Lễ, tình hình chưa ổn định, thế và lực còn yếu; mà phía Chiêm Thành lại đang khởi sắc với ông vua dũng cảm là Chế Bồng Nga, cho nên hòa bình là giải pháp duy nhất đúng lúc ấy. Thời phong kiến, vua nắm quyền tối cao, cho nên nói trái ý vua là điều mà viên quan nào cũng hết sức tránh, nếu không muốn mất chức quyền, bổng lộc và chuốc họa vào thân. Trương Đỗ ba lần dâng "Bãi chiến sớ" trái ngược hẳn với quyết định của vua, thật là người chính trực và dũng cảm hơn hẳn các bạn đồng liêu. Ông từ quan để phản đối chiến tranh. Tinh thần vì nghĩa quên thân ấy dễ mấy ai sánh kịp! Nhà sử học lỗi lạc Ngô Sĩ Liên viết: "Trương Đỗ khi làm quan thì không giấu lời nói thẳng, thế là xứng đáng với chức vụ của mình. Khi can, dâng sớ tới ba lần, thế là dám chạm đến cả vua. Mà vua không nghe, thế là tâm trí của vua đã lẫn rồi. Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe theo thì bỏ đi, thế là sự tiến lui của Trương Đỗ đều hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng thường trái tai vua, nhưng lợi cho thân vua. Việc này có thể nêu lên làm gương được". Cự tuyệt lời can tâm huyết của Trương Đỗ, Trần Duệ Tông cứ thân chinh đem 12 vạn quân sang đánh Chiêm Thành, quả nhiên, sa vào bẫy phục kích của đối phương. Chỉ trong một canh giờ, đại quân tan vỡ. Duệ Tông cùng nhiều tướng lĩnh tử trận. Trương Đỗ giữ chức Ngự sử Đại phu, đứng đầu Ngự sử đài - cơ quan can gián vua. Do đức độ, tài năng, ông còn được vua tin cậy giao kiêm nhiệm chức Đình úy tự khanh (đứng đầu cơ quan tra xét các hình án) và Trung đô phủ tổng quản (quản lý mọi mặt của kinh thành Thăng Long). Quyền hành rất lớn, nhưng Trương Đỗ vẫn luôn giữ vững lối sống cao đẹp. Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu tóm tắt một số nét phẩm chất đạo đức của ông: "Trương Đỗ là người thanh liêm, thẳng thắn, không bè đảng, phóng khoáng, có chí lớn... Ông làm quan trong sạch, nghèo túng, không gây dựng điền sản, con cháu nối đời làm quan cũng có tiếng là nghèo mà trong sạch...". Những từ ngữ thật cô đọng, hàm súc, chỉ rõ những đức tính cao quý mà những người nắm công quyền thời nào cũng cần noi theo. Sách Kiến văn tiểu lục của Bảng nhãn Lê Quý Đôn trong tập II, trang 257 có tôn vinh 5 vị cao sĩ thời Trần thì Trương Đỗ được xếp sau Chu Văn An một bậc. Đánh giá chung về mấy nhân vật này, Lê Quý Đôn viết: "Đây là những người trong trẻo, cương trực, cao thượng, có phong độ như sĩ quân tử thời Tây Hán, thật không phải những người tầm thường có thể theo kịp được. Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi, không bó buộc, hòa nhã, có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng, vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không thẹn với trời, dưới không thẹn với đất...". Xem thêm Chu Văn An Tham khảo Liên kết ngoài Ngự sử đại phu Trương Đỗ Người Hải Dương Quan lại nhà Trần Thái học sinh nhà Trần
wiki
Thoát Giải (?-80, trị vì 57-80) là quốc vương thứ tư của Tân La, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông thường được gọi là Thoát Giải ni sư kim hay Thạch Thoát Giải, ni sư kim (isageum) là một tước hiệu trong thời kỳ đầu dựng nước của Tân La. Bối cảnh Ông là một thành viên của gia tộc Tích (Seok) Gyeongju, một trong các gia tộc quý tộc đã đóng góp cho vương quyền Tân La vào thời kỳ đầu Công nguyên. Ông được thuật lại là được sinh ra ở một vương quốc nhỏ nằm cách 1000 lý về phía đông bắc của Nụy Quốc Nhật Bản. (tên của vương quốc này là Đa Bà Na Quốc (Dapana-guk 다파나국 多婆那國) theo Tam quốc sử ký (Samguk Sagi), hay Long Thành Quốc (Yongseong-guk, 용성국, 龍城國) Theo Tam quốc di sự (Samguk Yusa).) Phụ thân của ông là vua của vương quốc; mẫu thân của ông là nữ vương hay công chúa của một tiểu quốc nhỏ khác. Theo Tam quốc sử ký, khi ông sinh ra từ một quả trứng, cha của ông coi đó là một điềm xấu và đã cho ông vào hộp rồi cho lên bè đẩy ra biển. Quả trứng trôi lềnh bềnh đến Kim Quan Già Da (Geumgwan Gaya) và dạt vào bờ biển phía đông Gyerim (Kê Lâm, gần Gyeongju ngày nay), nơi ông được một ngư dân già nuôi dưỡng. Gia đình ông được cho là đã được đưa về nhà một quan cấp cao bằng cách tuyên bố là thợ rèn. Năm sinh của ông không rõ, song ông chắc chắn là một người lớn tuổi khi lên kế vị ngai vàng, và đã kết hôn với con gái (hay em gái) của vua Nam Giải vào năm 8. Ông được Nam Giải chọn làm người kế vị mình, song Nho Lễ đã lên ngôi trước. Nho Lễ sau đó đã phong cho Thoát Giải là người kế vị mình. Trị vì Năm 64, vương quốc kình địch là Bách Tế nhiều lần tấn công Tân La. Tân La đã chiến đấu với liên minh Già Da (Gaya) vào năm 77. Theo truyền thuyết, năm 65 đứa trẻ Kim Yên Trí (Kim Alji), tổ tiên của dòng họ Kim Gyeongju, đã được Hồ Công (Hogong) tìm thấy ở khu rừng vương thất Gyerim (Kê Lâm). Thoát Giải đặt tên cho vương quốc là Kê Lâm (tên gọi Tân La chính thức được đổi sau này). Một lăng mộ được cho là của Thoát Giải nằm ở phía bắc thành phố Gyeongju ngày nay. Bảo tàng Quốc gia Gyeongju được xây dựng tại nơi Thoát Giải từng cho xây dựng một cung điện. Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Viện Hàn Quốc học Trung ương Korea Britannica Xem thêm Danh sách vua Triều Tiên Lịch sử Triều Tiên Vua Tân La Mất năm 80 Năm sinh không rõ
wiki
Lactobacillus acidophilus (có nghĩa vi khuẩn sữa yêu axít) là một loài trong chi Lactobacillus. L. acidophilus phân hóa đường thành axít lactic. L. acidophilus là một trực khuẩn thường cư trú ở đường tiêu hóa của con người, có khả năng sinh ra acid lactic, do đó tạo ra một môi trường không thuận lợi cho sự phát triển của các vi khuẩn và nấm gây bệnh kể cả các vi khuẩn gây thối rữa. L. acidophilus đã được dùng trong nhiều năm để điều trị ỉa chảy chưa có biến chứng, đặc biệt do vi khuẩn chí ở ruột bị biến đổi do dùng kháng sinh. L. acidophilus sinh sản bằng cách chia đôi hay trực phân. Mặc dù không có hình thức sinh sản hữu tính (chỉ là sinh sản cận hữu tính). Chú thích Tham khảo Lactobacillus acidophilus (Moro) comb. nov. P. Arne Hansen & George Mocquot. International Journal of Systematic and Evolutionary Microbiology Volume 20, Issue 3, pp 325–327 ngày 1 tháng 7 năm 1970. PDf Article on health benefits of Lactobacillus acidophilus at MedlinePlus Lactobacillus Acidophilus at University of Maryland Medical Center website Lactobacillus acidophilus from the U. of Wisconsin* Global analysis of carbohydrate utilization by Lactobacillus acidophilus using cDNA microarrays Safety and protective effect of Lactobacillus acidophilus and Lactobacillus casei used as probiotic agent in vivo African Journal of Biotechnology Vol. 2 (11), pp. 448–452, ngày 20 tháng 11 năm 2003 Lactobacillus Vi khuẩn được mô tả năm 1970 Chế phẩm sữa Hệ tiêu hóa Dinh dưỡng
wiki
Gradien địa nhiệt (Geothermal gradient) là mức thay đổi (thường theo chiều hướng tăng) của nhiệt độ trong lòng Trái Đất theo độ sâu. Nó là độ lớn của gradien nhiệt độ trong lòng Trái Đất. Giá trị trung bình của nó là 33 m/°K hay 3°K cho 100 m. Tại vùng vỏ Trái Đất yên tĩnh như Nam Phi thì nhiệt tăng chậm, có thể đến 90 – 125 m/°K. Tại vùng hoạt động thì gradient địa nhiệt lớn, đến 11 m/°K như ở vùng Swabian Alps (Swabian Jura) thuộc bang Baden-Württemberg nước Đức. Theo Fridleifsson (2008) thì gradient địa nhiệt vào cỡ 25 °C cho mỗi km sâu (1 °F cho mỗi 70 feet sâu, hay 40 m/°K). Trái Đất cũng như các hành tinh khác hình thành từ tích tụ vật chất trong vũ trụ, ban đầu có nhiệt độ cao, là nhiệt nguyên thủy. Quá trình nguội dần dẫn đến hình thành lớp vỏ cứng, ngăn sự phát tán tiếp lượng nhiệt từ trong lòng. Mặt khác các nguyên tố phóng xạ phân rã, cung cấp thêm nhiệt năng. Nó dẫn đến mô hình nhiệt tăng dần theo độ sâu, và là mô hình chung của các hành tinh. Tại tâm của hành tinh, nhiệt độ có thể lên đến 7000 °K còn áp suất có thể đạt tới 360 GPa (3,6 triệu atm). Vì sự phân rã phóng xạ cung cấp phần lớn nhiệt, các nhà khoa học tin rằng trong lịch sử sớm của Trái Đất, trước khi các đồng vị có chu kỳ bán rã ngắn cạn kiệt, sự sinh nhiệt của Trái Đất còn cao hơn nhiều. Mức sinh nhiệt khoảng 3 tỷ năm trước vào cỡ hai lần ngày nay, tạo ra gradient nhiệt độ lớn và đối lưu mạnh, và hệ quả là hoạt động phun trào mạnh hơn hẳn ngày nay. Các nguồn nhiệt Nhiệt độ trong lòng Trái Đất tăng theo chiều sâu. Tại mọi nơi bên dưới bề mặt của Trái Đất ở độ sâu từ 80 đến 100 km (50-60 dặm) là vật chất độ nhớt cao hoặc đá nóng chảy một phần, có nhiệt độ từ 650 đến 1200 °C (1200 đến 2200 °F). Nhiệt độ ở ranh giới lõi trong (inner core) và lõi ngoài (outer core) của Trái Đất, độ sâu sâu khoảng 3.500 km, được ước tính là 5650 ± 600 độ Kelvin. Tổng nhiệt của Trái Đất vào cỡ 1031 joule. Các nguồn nhiệt của Trái Đất có: Nhiệt nguyên thủy chiếm phần lớn nội nhiệt Trái Đất. Nhiệt từ phân rã của các nguyên tố phóng xạ. Các đồng vị chính hiện còn thì có Kali K40, Urani U238, U235 và Thori Th232. Sanders R. (2003) cho rằng phân rã phóng xạ cấp khoảng 80% của nội nhiệt Trái Đất. Các ước tính khác thì cho rằng nó chiếm 45 đến 90%. Nhiệt do các thiên thể va chạm với Trái Đất, trong đó có phần nhiệt các thiên thể này mang theo. Nhiệt tỏa ra do chuyển pha vật chất: kết tinh các thể lỏng, ngưng tụ thể hơi. Nhiệt sinh ra do ma sát của nước với đất đá trong dịch chuyển khối nước do thủy triều. Do tương tác từ trường Trái Đất với trường ngoài. Dòng nhiệt Nhiệt chảy liên tục từ lòng Trái Đất lên bề mặt. Tổng số thất thoát nhiệt từ Trái Đất ước tính khoảng 44,2 TW (4,42 × 1013 watt). Dòng nhiệt trung bình trên vỏ lục địa là 65 mW/m², trên vỏ đại dương 101 mW/m² do vỏ ở đại dương mỏng hơn. Trung bình trên toàn Trái Đất là 87 mW/m² (vào cỡ 0,03% năng lượng mặt trời được Trái Đất hấp thụ). Nhiệt của Trái Đất được bổ sung bởi sự phân rã phóng xạ ở mức 30 TW. Dòng nhiệt tập trung ở những nơi có nhiệt năng được vận chuyển lên lớp vỏ bằng đối lưu như dọc theo sống núi giữa đại dương, và chùm manti. Dòng nhiệt tăng cường ở nơi magma xuyên thủng lớp vỏ, và ở nơi có chất lỏng tạo đối lưu như nước đại dương. Dòng nhiệt toàn cầu lớn hơn hai lần mức tiêu thụ năng lượng của con người từ tất cả các nguồn chính. Xem thêm Thạch quyển Gradien nhiệt độ Tham khảo Xem thêm Năng lượng địa nhiệt Tuần hoàn nhiệt dịch (Hydrothermal circulation) Earth's internal heat budget Liên kết ngoài Địa nhiệt Địa vật lý Vật lý học Khoa học Trái Đất Khoa học hành tinh Cấu trúc Trái Đất
wiki
Hoa hậu Du lịch Quốc tế (tiếng Anh: Miss Tourism International) là cuộc thi sắc đẹp quốc tế thường niên do D'Touch International Sdn. Bhd. Foundation điều hành và tổ chức. Cuộc thi lần đầu tiên là vào năm 1994 tại Langkawi, Malaysia nơi có 23 thí sinh tham dự. Năm 2006, cuộc thi lần đầu diễn ra bên ngoài Malaysia, là tại Quảng Châu, Trung Quốc nơi 60 quốc gia tham dự cuộc thi. Đương kim Hoa hậu Du lịch Quốc tế hiện tại là Suphatra Kliangprom đến từ Thái Lan. Cô đăng quang vào ngày 25 tháng 11 năm 2022 tại Sarawak, Malaysia. Lịch sử Chung kết Hoa hậu Du lịch Quốc tế thường diễn ra vào đêm giao thừa, vào năm 2011 cuộc thi đã có 60 thí sinh tham dự. Năm 2015, Bộ Văn hóa đã cấp phép cho Công ty Elite Vietnam thực hiên cuộc thi Hoa hậu Du lịch Quốc tế 2015 tại Việt Nam. Dự kiến ban đầu cuộc thi sẽ diễn ra tại Hạ Long, Quảng Ninh trong 10 ngày vào tháng 11 cùng năm. Thậm chí, chủ tịch cuộc thi và nhân viên cuộc thi cũng như Tổ chức D' Touch International Sdn Bhd Foundation cùng Hoa hậu Du lịch Quốc tế 2014 - Faddya Isabel Halabi Troisi đến từ Venezuela đã đến để khảo sát địa điểm đăng cai cuộc thi vào ngày 4 tháng 6. Tuy nhiên, không rõ nguyên do vì sao mà cuộc thi Hoa hậu Du lịch Quốc tế 2015 đã bị hủy. Năm 2022, chủ tịch cuộc thi Tan Sri Datuk Danny Ooi đã xác nhận sẽ diễn ra tại Malaysia từ ngày 13 đến 27 tháng 11 năm 2022. Danh sách Hoa hậu Cuộc thi không diễn ra vào các năm 1996, 1997, 2007 và 2015. Số lần Đăng quang Á hậu Ghi chú Bộ sưu tập ảnh Cuộc thi con Miss Tourism Queen of the Year International Lịch sử Cuộc thi do D' Touch International s Sdn Bhd Foundation tổ chức, và hầu hết các lần diễn ra cuộc thi này đều tại Malaysia hoặc Trung Quốc. Tuy nhiên, trong một số năm Miss Tourism Queen of the Year International hợp nhất vào cuộc thi Miss Tourism International và Á hậu 1 của cuộc thi Miss Tourism International sẽ nhận được danh hiệu Miss Tourism Queen of the Year International. Vào năm 2015, cuộc thi Miss Tourism International bị hủy. Tuy nhiên, Miss Tourism Queen of the Year International 2015 vẫn được tổ chức. Chính vì thế trong năm 2015 đó, các Á hậu của cuộc thi sẽ nhận được các danh hiệu tương ứng theo thứ hạng từ cao đến thấp lần lượt là Miss Tourism Metropolitan International, Miss Tourism Cosmopolitan International, Miss Tourism Global, Miss Dreamgirl of the Year International. Hoa hậu Cuộc thi diễn ra vào các năm 1993-97, 2000, 2004-06, 2010-12, 2015-17. Ghi chú Số lần chiến thắng Á hậu Ghi chú Miss Tourism Metropolitan International Lịch sử Miss Tourism Metropolitan International thường không được tổ chức, vì thế Á hậu 2 tại Hoa hậu Du lịch Quốc tế sẽ nhận được danh hiệu Miss Tourism Metropolitan International từ năm 2008-09, 2013-14, 2020-nay. Trong một số năm, Á hậu 1 tại Hoa hậu Du lịch Quốc tế các năm 2010-12, 2017-18 sẽ nhận được danh hiệu Miss Tourism Metropolitan International. Tuy nhiên, năm 2015 cuộc thi Hoa hậu Du lịch Quốc tế không tổ chức nên Á hậu 1 tại Miss Tourism Queen of the Year International 2015 nhận được danh hiệu Miss Tourism Metropolitan International 2015. Hoa hậu Cuộc thi diễn ra vào các năm 2007, 2016, 2019. Ghi chú Số lần chiến thắng Á hậu Đại diện Việt Nam Đại diện Việt nam tại các cuộc thi này từ năm 2002 đến 2008, do Công ty Eilte Vietnam cử tham dự. Từ năm 2009 đến 2017 và năm 2019 đến 2020 các đại diện quốc gia tham gia các cuộc thi phải có giấy phép của Cục Nghệ thuật biểu diễn, tuy nhiên trong một số năm có một số đại diện chưa có giấy phép từ cục nhưng vẫn tham dự cuộc thi. Năm 2018, đại diện quốc gia tại cuộc thi do Sen Vàng Entertainment cử tham dự. Và từ năm 2021 đến nay, đơn vị năm bản quyền cuộc thi tại Việt Nam là Five6 Entertainment - họ là chủ quản của cuộc thi Miss Tourism Vietnam (Hoa khôi Du lịch Việt Nam). Việt Nam tại Hoa hậu Du lịch Quốc tế Ghi chú Việt Nam tại Miss Tourism Queen of the Year International Ghi chú Việt Nam tại Miss Tourism Metropolitan International Ghi chú Tham khảo Đọc thêm The Observer Daily Monitor The Organization of Asia-Pacific News Agencies Hoa hậu Du lịch Quốc tế Cuộc thi sắc đẹp
wiki
Xem các nghĩa khác tại Hình ảnh (định hướng) Một bức hình, tấm ảnh, hay hình ảnh thứ ghi lại hay thể hiện/tái tạo được cảm nhận thị giác, tương tự với cảm nhận thị giác từ vật thể có thật, do đó mô tả được những vật thể đó. Đặc điểm Hình ảnh có thể có hai chiều, như thể hiện trên tranh vẽ trên mặt phẳng, hoặc ba chiều, như thể hiện trên tác phẩm điêu khắc hoặc hologram. Hình ảnh có thể được ghi lại bằng thiết bị quang học – như máy ảnh, gương, thấu kính, kính viễn vọng, kính hiển vi do con người tạo ra, hoặc bởi các cơ chế tự nhiên, như mắt người hay mặt nước. Hình ảnh có thể được dùng theo nghĩa rộng, thể hiện bản đồ, đồ thị, nghệ thuật trừu tượng. Với nghĩa này, hình ảnh có thể được tạo ra mới hoàn toàn, thay vì ghi chép lại, bằng cách vẽ, tạc tượng, in ấn hay xây dựng bằng đồ họa máy tính. Hình ảnh tưởng tượng xuất hiện trong suy nghĩ của con người, tương tự như trí nhớ. Hình ảnh chuyển động có thể là phim, video, hoạt hình. Ý nghĩa Hình ảnh có ý nghĩa đối với trí nhớ và kí ức, tâm trí và một hình ảnh có giá trị bằng hàng ngàn từ, theo các chuyên gia, não của con người ghi nhớ theo các hình ảnh nên nó sẽ dễ tiếp thu thông tin dưới dạng hình ảnh hơn Ngạn ngữ cổ có câu: "Bạn sẽ quên những gì bạn nghe; bạn sẽ nhớ những gì bạn thấy; bạn sẽ hiểu những gì bạn làm", ngạn ngữ Ả rập có câu: "Một trí nhớ tốt không bằng một nét mực mờ". Ảnh 2 chiều (2D) Hình ảnh hai chiều (2D) là hình ảnh đại diện cho một thứ gì đó được thể hiện chỉ bằng hai chiều không gian. Thường có dạng hình chữ nhật. Tính đến năm 2022, ảnh 2D là định dạng phổ biến nhất. Ảnh 3 chiều (3D) Ảnh 3 chiều (3D) ít phổ biến hơn hình ảnh hai chiều. Hình ảnh ba chiều đưa vào nhận thức của hệ thống thị giác về độ sâu để khắc họa thông tin thị giác một cách chính xác hơn. Xem thêm Hoạt hình Đồ họa máy tính Ảnh chụp Quay phim Tranh vẽ Tham khảo Liên kết ngoài The B-Z Reaction: The Moving or the Still Image? FACE: Friends of Active Copyright Education Library of Congress – Format Descriptions for Still Images Image Processing – Online Open Research Group Nhiếp ảnh Nhiếp ảnh kỹ thuật số Đồ họa máy tính Thiết kế đồ họa Thị giác
wiki
Willard Mitt Romney (sinh ngày 12 tháng 3 năm 1947) là một doanh nhân và chính trị gia Hoa Kỳ. Ông hiện là đương kim Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đại diện cho bang Utah. Ông từng là Thống đốc thứ 70 của Tiểu Bang Massachusetts từ 2003 đến 2007 và là ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra vào năm 2012. Tiểu sử Là con trai của George W. Romney (cựu Thống đốc Michigan) và Lenore Romney, Mitt Romney đã lớn lên ở Bloomfield Hills, Michigan và sau đó được phục vụ như một nhà truyền giáo Mormon ở Pháp. Ông nhận bằng đại học từ Brigham Young University, và sau đó tốt nghiệp bằng kép Juris Doctor/Thạc sĩ Quản trị kinh doanh từ Trường Luật Harvard và Trường Kinh doanh Harvard. Vợ ông là Ann Romney. Kinh doanh Romney bắt đầu bằng kinh doanh tư vấn quản lý, thăng tiến đến một vị trí tại Bain & Company, nơi cuối cùng ông là Giám đốc điều hành và đưa công ty thoát khỏi khủng hoảng. Ông cũng là đồng sáng lập và đứng đầu công ty Bain Capital, một công ty đầu tư cổ phần tư nhân trở thành có lợi nhuận cao và một trong các công ty lớn nhất ở Mỹ. Sự giàu có mà Romney tích lũy giúp tài trợ các chiến dịch trong tương lai chính trị của ông. Hoạt động chính trị Ông chạy đua là ứng cử viên đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 1994 của Thượng viện Hoa Kỳ ở tiểu bang Massachusetts, thua đương nhiệm Ted Kennedy. Romney tổ chức và chỉ đạo Thế vận hội Mùa đông năm 2002 là Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Ủy ban Tổ chức Thế vận hội tại TP Salt Lake, và đã biến Thế vận hội gặp khó khăn trở thành một thành công về tài chính. Romney đã được bầu làm Thống đốc tiểu bang Massachusetts vào năm 2002, phục vụ một nhiệm kỳ. Ông đã chủ tọa một loạt các cắt giảm chi tiêu và tăng thu lệ phí nhằm loại bỏ thâm hụt ngân sách trị giá 3 tỷ USD. Ông cũng đã ký thành luật cải cách chăm sóc sức khỏe Massachusetts pháp luật, cung cấp tiếp cận phổ cập bảo hiểm y tế thông qua trợ cấp và các nhiệm vụ cấp nhà nước và là người đầu tiên của loại hình này trên toàn quốc. Trong quá trình sự nghiệp chính trị của ông, vị trí của mình hoặc khả năng hùng biện đã chuyển thúc đẩy trường phái bảo thủ Mỹ trong một số lĩnh vực. Romney chạy đua cho đề cử của đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008, chiến thắng bầu cử sơ bộ và họp kín, nhưng cuối cùng đề cử cho John McCain. Trong những năm sau, cuốn sách của ông, Không xin lỗi: Trường hợp cho sự vĩ đại của Mỹ, được xuất bản. Ông cũng đưa ra bài phát biểu và gây quỹ chiến dịch thay mặt cho đảng Cộng hòa. Ngày 02 tháng sáu 2011, Romney tuyên bố rằng ông sẽ tìm kiếm sự đề cử của Đảng Cộng hòa bầu cử tổng thống năm 2012. Các nhà quan sát chính trị và các cuộc thăm dò ý kiến ​​công chúng đặt ông trong số những người đứng đầu trong cuộc đua. Tranh cử tổng thống năm 2012 Sau những ngày cổ động bầu cử, ngày 6/11/2012 cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sẽ bắt đầu.Romney giành vé trở thành ứng viên Tổng thống cho Đảng Cộng hòa. Ông đã thất bại trước đương kim tổng thống Obama nhưng cũng đánh bại Obama tại một số bang chiến địa mà trước đó Obama giành được năm 2008. Tham khảo Thống đốc Massachusetts Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Đảng viên Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ Ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ Tín hữu Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô Thế vận hội Mùa đông 2002 Cựu sinh viên Đại học Luật Harvard Sinh năm 1947 Người Mỹ gốc Anh Nhân vật còn sống Ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ 2008 Doanh nhân Mỹ thế kỷ 20 Nhà văn Mỹ thế kỷ 21 Người Mỹ gốc Đức Người Mỹ gốc Scotland Cựu sinh viên Đại học Stanford Doanh nhân Mỹ thế kỷ 21 Chính khách Mỹ thế kỷ 21
wiki
Núi Két có tên chữ là Anh Vũ Sơn, người hành hương thì gọi là núi Ông Két; là một ngọn núi nhỏ trong Bảy Núi, thuộc phường Thới Sơn, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đặc điểm Núi Két có hình khối tròn, cao 225 mét, dài và rộng hơn 1.100 mét. Núi ở phía đông thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 70 km về hướng tây theo Quốc lộ 91 rồi rẽ qua tỉnh lộ 948. Núi được bao bọc bởi những ngọn núi khác như núi Dài, núi Đất, núi Trà Sư, núi Bà Đắc. Được gọi là núi Két vì ở độ cao khoảng một trăm mét, tính từ chân núi, bên vách phía tây gần trên đỉnh có một tảng đá khổng lồ nằm nhô ra, theo sự mường tượng của nhiều người, nó có hình dạng như đầu một con chim két (tức chim anh vũ). Đường lên đỉnh núi Két dài khoảng 600 mét, được xây bậc thang và đều có hành lang an toàn. Đi dần lên núi có các địa điểm đáng tham quan như: Sân Tiên, Giếng Tiên, điện Chư Thần, điện Phật Thầy, điện Phật Mẫu, điện Ngọc Hoàng, điện Huỳnh Long, điện Ba Cô, điện U Minh, điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và tiêu biểu nhất là "mỏ ông Két" cùng với nhiều truyền thuyết dân gian...... Tuy nhiên, ở gần chân núi có ba di tích rất được nhiều người đến thăm viếng và chiêm bái hơn cả, đó là Đình Thới Sơn, Chùa Thới Sơn, Chùa Phước Điền, vì các nơi thờ này đều gắn liền với thời lưu dân đi mở đất và với giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái...núi Két còn có các nguồn lợi khác từ tài nguyên, như quặng kim loại molipden, đá granit sáng màu mịn hạt, đá quý (thạch anh ám khói, thạch anh tím) được tìm thấy trong các mạch pecmatic và nhiều mội nước khoáng... Ghi nhận công lao Theo sử sách, thì Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An, Giáo chủ giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương) và những đệ tử của ông đã đến chân núi Két vào năm 1851, để khai hoang, biến những vùng đầm lầy, rừng rậm trở thành những vùng đất rộng lớn, màu mỡ...Và hai làng là Hưng Thới và Xuân Sơn (sau này hợp thành phường Thới Sơn, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang) đã hình thành trên vùng đất hoang vu ấy. Đoàn Minh Huyên và hai các đệ tử của ông là Tăng Chủ (tức Bùi Thiền Sư) và Đình Tây, đều là người có công lớn. Chú thích Xem thêm Đoàn Minh Huyên Tăng Chủ Đình Tây Đình Thới Sơn Liên kết ngoài Núi Két trên web báo Thanh Niên. Anh Vũ Sơn trên web An Giang. Bảy Núi Tịnh Biên
wiki
Under Armour, Inc. là một công ty của Mỹ chuyên sản xuất giày dép, quần áo, đồ dùng may mặc. Trụ sở toàn cầu của Under Armour được đặt tại Baltimore, Maryland, một số trụ sở khác của công ty bao gồm Amsterdam (Trụ sở Châu Âu), Austin, Quảng Châu, Hồng Kông, Houston, Jakarta, Luân Đôn, Thành phố México, Munich, New York, Panama (Trụ sở quốc tế), Paris, Pittsburgh, Portland, San Francisco, São Paulo, Santiago, Seoul, Thượng Hải (Trụ sở Trung quốc) và Toronto. Under Armour đã thực hiện các hợp đồng tài trợ và quảng bá với rất nhiều vận động viên nổi tiếng, đội thể thao chuyên nghiệp, đội tuyển điền kinh tại các trường đại học, cạnh tranh cùng các đối thủ khác trong phân khúc sản phẩm thời trang thể thao. Bóng đá Mỹ Anquan Boldin Tom Brady Vernon Davis Dee Ford Myles Jack Julio Jones Eddie Lacy Marqise Lee Brandon Marshall Vance McDonald Cam Newton Patrick Peterson Eric Reid Tony Romo Andre Williams Bóng đá nam Các câu lạc bộ bóng đá Estudiantes de la Plata Rosario Central Fluminense FC Sport Club do Recife Southampton FC St. Pauli AZ Alkmaar Colo-Colo Universidad Católica Chennai City Omiya Ardija Grulla Morioka Deportivo Toluca Lokomotiv Moscow Queen's Park OKC Energy FC Nashville SC Cầu thủ Heather Mitts Kelley O'Hara Jean Beausejour Gabriel Suazo Jorge Valdivia Fraser Forster Conor Chaplin Tom Broadbent Trent Alexander-Arnold Andre Green Jonathan Tah Conor Hourihane Memphis Depay Jeffrey Gouweleeuw Granit Xhaka Jermaine Jones Lauren Holiday Ben Sweat 🇺🇸 Đua xe Hendrick Motorsports Bóng chày Vận động viên Jeff Francoeur Freddie Freeman Dee Gordon Bryce Harper Ryan Howard Clayton Kershaw Hyun-soo Kim Nick Markakis Buster Posey Jose Reyes Matt Wieters Ryan Zimmerman Joc Pederson Cody Bellinger Vladimir Guerrero Jr. Matt Brittingham Đội tuyển Yomiuri Giants Lamigo Monkeys Ripken Baseball Bóng rổ Các câu lạc bộ Darüşşafaka S.K. KK Partizan Homenetmen PBC Lokomotiv Kuban Singapore Slingers Vận động viên Patty Mills Mohamed Bamba Joel Embiid Emmanuel Mudiay Kent Bazemore* Stephen Curry Hamidou Diallo Terrance Ferguson Ahmari Moody Sean Murefu Dennis Smith Jr. Isaiah Whitehead* Greivis Vásquez Đội tuyển quốc gia Mexico Nhật Bản Venezuela Đấm bốc Anthony Joshua Tommy P Saúl "Canelo" Álvarez Carlos Cuadras Adrián Hernández Abner Mares Muhammad Ali Gervonta Davis Judo Teddy Riner Golf PGA Francisco Gabellieri Bernd Wiesberger Matthew Fitzpatrick Tommy Pickering Hunter Mahan Jordan Spieth Gary Woodland LPGA Alison Lee Nasa Hataoka YouTube Mark Crossfield Thể hình Đội tuyển Đội tuyển thể hình nam quốc gia Mỹ Đội tuyển thể hình nữ quốc gia Mỹ Điền kinh Tommy Pickering Alicia Sacramone (nghỉ hưu) Săn bắn Vận động viên Cameron Hanes Lee and Tiffany Lakosky Jessica Byers Remi Warren Rihana Cary Tony Vandemore Tim Burnett Easton Archery Beka Garris Levi Morgan Krysten McDaniel A3 Trophy Hunts Jonathon VanDam Nikki Boxler Trophy Hunting Adventures Sagebrush Hunts John Godwin Shane Dorian Matt Busbice Justin Martin Jase Robertson Willie Robertson Phil Robertson Eva Shockey Kristy Titus JC ProAngler Jim Shockey Gregg Ritz Adam Greentree TV channels Nock On TV Raised Hunting Heartland Waterfowl Ducks Unlimited Ridge Reaper Benelli The Crush with Lee & Tiffany Apex Predator with Remi Warren Hardcore Hunting TV Buck Commander Spook Spann Khúc côn cầu trên băng Carey Price Taylor Hall Mitchell Marner Drew Doughty Võ thuật hỗn hợp và đấu vật chuyên nghiệp Georges St-Pierre Dwayne Johnson Bóng sơn San Diego Dynasty Giải rugby Vận động viên Jarryd Hayne Rugby Đội tuyển Đội tuyển rugby xứ Wales Đội tuyển rugby Hàn Quốc Các câu lạc bộ Royal Navy Rugby Union Worcester Warriors Wasps ASM Clermont Auvergne Panasonic Wild Knights Vận động viên Drew Mitchell Steffon Armitage James Haskell Tommy Pickering Jordi Murphy Jamie Cudmore Taulupe Faletau Leigh Halfpenny Dan Lydiate Jamie Roberts Trượt ván Mitchie Brusco Trượt băng Shani Davis Trượt tuyết Jeremy Bloom Bobby Brown Lindsey Vonn Marcel Hirscher Trượt ván trên tuyết Julia Dujmovits Lindsey Jacobellis Lướt sóng Brianna Cope Maddie Peterson Bơi lội Michael Phelps Tennis Andy Murray Jamie Murray Các trường cao đẳng và đại học Giải hạng nhất FBS của NCAA (nhóm Power 5 và các đội tuyển tự do) Auburn Tigers Boston College Eagles California Golden Bears Maryland Terrapins Northwestern Wildcats Notre Dame Fighting Irish South Carolina Gamecocks Texas Tech Red Raiders and Lady Raiders UCLA Bruins Utah Utes Wisconsin Badgers Giải hạng nhất FBS của NCAA (Nhóm 5) Cincinnati Bearcats Coastal Carolina Chanticleers Colorado State Rams Georgia State Panthers Hawaii Rainbow Warriors and Rainbow Wahine Kent State Golden Flashes Navy Midshipmen New Mexico State Aggies Old Dominion Monarchs and Lady Monarchs Temple Owls UAB Blazers NCAA not sponsoring Division I FBS Các hợp đồng tài trợ khác Gisele Bündchen (người mẫu) Johan Hegg (nhạc công) Misty Copeland (nghệ sĩ múa ba lê) Dwayne Johnson (diễn viên) A$AP Rocky (rapper) Đội tuyển Olympic Đội tuyển Canada (nhà cung cấp giày chính thức) Hình ảnh Tham khảo Nhãn hiệu trang phục thể thao Tài trợ thể thao
wiki
Giới thiệu khái quát thị xã Gia Nghĩa 1. Vị trí địa lý Thị xã Gia Nghĩa được thành lập theo Nghị định 82/2005/NĐ-CP, ngày 27/6/2005 của Chính phủ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Gia Nghĩa, xã Quảng Thành và xã Đắk Nia thuộc huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk. Thị xã Gia Nghĩa nằm ở phía nam của tỉnh Đăk Nông, trên giao điểm quốc lộ 14 và 28. Theo hướng quốc lộ 14 thị xã Gia Nghĩa cách Tp. Hồ Chí Minh 253 km, tỉnh Bình Dương 200 km, tỉnh Bình Phước 110 km về phía nam; cách Tp. Buôn Ma Thuột 120 km về phía bắc; theo hướng quốc lộ 28 cách Tp. Đà Lạt 160 km về phía đông, cách Tp. Phan Thiết 170 km về phía đông nam; cách biên giới Campuchia 40 km về phía tây. Là trung tâm chính trị, kinh tế – xã hội của tỉnh Đắk Nông. Một góc Gia Nghĩa 2. Điều kiện tự nhiên, khí hậu Thị xã có 08 đơn vị hành chính cấp xã (05 phường, 03 xã) và 61 thôn, bon, tổ dân phố, có diện tích tự nhiên 28.384 ha (dự kiến đến năm 2020 mở rộng khoảng hơn 75.458 ha), có độ cao trung bình từ 580-620m so với mực nước biển. Ngoài ra, ngay trong địa bàn thị xã Gia Nghĩa còn có hệ thống suối và ao hồ được phân bố khá đều; suối hồ ở đây không chí là nơi cung cấp nước phục vụ đời sống, sản xuất mà còn tạo nên những ngọn thác nước đẹp như thác Liêng Nung, Ba tầng, Hồ Trung tâm, Thủy điện Đắk R’Tih, … có tiềm năng du lịch và thuỷ điện khá lớn. Khí hậu mang đặc điểm của khí hậu khu vực cao nguyên nhiệt đới gió mùa trong vùng cao nguyên Đăk Nông, Lâm Viên, Bảo Lộc, quanh năm thời tiết mát mẻ, ôn hoà hơn so với nhiều vùng khác trên Tây Nguyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,40C, nhưng về các tháng 1,2,3 thường mát mẽ hơn. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.496,9 mm; độ ẩm trung bình 85%, số giờ nắng trung bình 2.283,8 giờ. Do ảnh hưởng của gió mùa, thị xã Gia Nghĩa có hai mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Con người Gia Nghĩa 3. Dân số – tôn giáo Tổng dân số thị xã khoảng 60.000 người (Dân tộc kinh chiếm 87,07%, dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm 3,84%; dân tộc khác chiếm 9,09%); 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người M’Nông, Mạ đã định cư ở đây từ lâu đời, các tộc người còn lại di cư đến từ nơi khác, chủ yếu là từ các tỉnh phía Bắc. Thị xã có 03 tôn giáo chính (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành) với tổng số 11.730 tín đồ, có 10 cơ sở thờ tự và 07 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung. 4. Một số dự án trọng điểm của tỉnh và thị xã Dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ đã hoàn thiện đang tiến hành chạy thử liên động không tải, dự kiến chạy thử và chuyển sang sản xuất thử vào thời điểm đầu quý IV/2016; Dự án nhà máy điện phân nhôm Đắk Nông với tổng vốn đầu tư 15,5 ngàn tỷ đồng, dự kiến năm 2018 đi vào hoạt động; Dự án đường tránh Đô thị Gia Nghĩa, tổng mức đầu tư 244 tỷ đồng, hiện nay đã hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, chủ đầu tư đang tiến hành thi công.
vanhoc
Khuyết Danh Hai Mưa Nắng Người ta gọi ông Hai Tường với cái tên là Hai Mưa Nắng, không phải vì tánh tình ông dễ dàng thay đổi... sáng nắng chiều mưa mà do ông có biệt tài xem thiên văn để đoán thời tiết. Mười bốn tuổi, mồ côi cha mẹ, Hai Tường rời làng quê Tân Trụ tha phương cầu thực tận đất Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ở đây, Hai Tường vào làm công cho một lò gốm. Công việc của Hai Tường là nhào đất mang sản phẩm ra phơi hoặc đem vào lò nung. Công việc tuy có phần nặng nhọc nhưng Hai Tường không hề than van, vì có cơm ngày hai buổi đã là điều đáng mừng. Lò gốm Thiên Sanh, nơi Hai Tường làm, ngoài lao động phổ thông còn có thợ đốt lò, thợ vẽ gốm và đặc biệt là cái nghề nhìn trời để đoán nắng mưa. Thời đó, đâu có đài khí tượng thủy sản thông báo nắng mưa cho người dân biết nên đối với một lò gốm thì ông thầy đoán nắng mưa luôn giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, ông thầy chỉ suốt ngày uống trà, thỉnh thoảng chắp tay sau lưng ra sân ngước mặt nhìn trời rồi nói như phán truyền: - Lát nữa sẽ có mưa, bảo mọi người mau đem đồ gốm vào! Nếu không nghe lời ông thầy, khi mưa không kịp dọn những món đang phơi vào, kể như bao nhiêu công lao nhào nắn sẽ trở thành đất nhão. Ông thầy mưa nắng của lò gốm Thiên Sanh gốc người ở đảo Hải Nam bên Tàu. Ông thầy nói tiếng Việt khá rành nhưng giọng còn trọ trẹ. Thấy Hai Tường là một thiếu niên hiền lành và chịu khó, ông thầy có lòng thương. Một buổi chiều, cơm nước, tắm rửa xong xuôi, ông thầy nói với Hai Tường: - Ta không vợ không con, nghề nghiệp rồi đây chắc sẽ thất truyền. Nếu con bằng lòng, ta sẽ truyền nghề cho. Mừng còn hơn lượm được vàng bạc, Hai Tường lính quýnh quỳ xuống lạy ông Tàu già ba lạy, tôn làm sư phụ. Những lúc Hai Tường rỗi rảnh, ông Tàu già thường kéo anh ra gốc khế sau nhà để truyền nghề. Có lần ông nói: -Nghề bói nắng mưa, ngoài con mắt nhìn trời còn phải biết tận dụng hết tất cả các giác quan. Lỗ tai phải nghe gió thổi, mũi hít mùi không khí, da nghe ấm lạnh. Tóm lại, phải biết hòa nhập tinh thần và thể chất vào thiên nhiên. Tự thân với thiên nhiên là một, vũ trụ với ta là một để hiểu sự biến đổi của đất trời. Hai Tường ngồi nghe sư phụ giảng như vịt nghe sấm, ngơ ngác chẳng hiểu gì. Ông thầy không nói lý thuyết nữa mà chuyển qua thực hành. Ông chỉ cho Hai Tường nhìn mây cao, mây thấp, mây xuất hiện ở phương hướng nào. Thế nào là gió “rao rao” và gió “hiu hiu” lẫn gió “tạt mặt”. Mùi vị của không khí “khét”, “nồng”, “chua” hay “thơm”. Nhiệt độ qua da người mát lạnh, nóng hay nực, mỗi thứ cộng lại phân tích sẽ biết khi nào nắng, khi nào mưa; mưa bao lâu và nắng kéo dài nhiều hay ít. Thoạt đầu ông thầy cho Hai Tường đoán thử, tất nhiên Hai Tường thường đoán sai. Ông chỉ cho Hai Tường chỗ nào sai, tận tâm như tình phụ tử. Một buổi tối, ông Tàu già nói với Hai Tường: -Bây giờ con đã nắm vững bí quyết của nghề, lại là người có căn cơ nên về sau con sẽ vượt trội hơn ta, ta tin chắc như vậy! Trong một lần thân mật, Hai Tường hỏi sư phụ tại sao lại bỏ quê hương qua Việt Nam sinh sống. Ông Tàu già trầm ngâm một lúc rồi nói: -Ta tên thật là Triệu Bá Hoằng. Dòng họ ta nổi tiếng nhiều đời về nghề xem thiên văn. Năm bằng tuổi con, ta yêu con gái một chủ lò gốm và nàng cũng yêu ta, nhưng ông chủ lò gốm lại muốn gả nàng cho chàng trai họ Phù. Họ Phù cũng là một dòng họ nổi tiếng về tài bói mưa nắng của đảo Hải Nam. Cuối cùng, để cưới được con gái chủ lò, ta phải chấp nhận tranh tài cùng người con trai ấy. Ngừng lại một chút, ông Tàu già thở dài, kể tiếp: -Cuộc tranh tài ngoài chuyện tình yêu còn có một chuyện tối quan trọng khác đó là danh dự của hai dòng họ Phù và Triệu. Gần đến ngày tranh tài, ta phải chay tịnh cả tháng, tắm gội nước thơm, sưởi hương trầm. Đối với những người sống với nghề bói nắng, mưa thì việc đoán ngày giờ nào mưa là việc dễ dàng, mưa kéo dài trong bao lâu cũng là điều không khó. Nhưng để đoán lượng mưa nhiều hay ít thì quả là việc không dễ chút nào. Đúng ngày giờ tranh tài, sau khi nhìn trời, ngắm mây, ngửi gió... để đoán giờ sẽ mưa, ta và người thanh niên họ Phù phải vạch một vạch sơn vào trong lòng một cái tô kiểu rồi đem cái tô đó đặt giữa trời. Nếu lượng nước mưa ngập đến vạch sơn của người nào, thì người đó sẽ thắng. Ta vạch mức ở giữa thành tô, còn người thanh niên họ Phù vạch trên ta một đốt ngón tay, có nghĩa là lượng mưa sẽ nhiều hơn ta đoán. Trời chuyển dông, mưa bắt đầu rớt hột. Cái tô kiểu đặt giữa trời nước càng lúc càng dâng lên. Đến chừng lượng nước mưa lên đến vạch sơn ở giữa thì trời dứt hột. Như vậy là ta thắng. Giữa lúc ta khấp khởi vui mừng thì đột nhiên gió đổi hướng, một cụm mây nhỏ từ phương Bắc bỗng nhiên bay tới với tốc độ không ngờ, cụm mây lớn dần ở nơi tranh tài và bắt đầu rớt hột. Một lúc sau, mưa tạnh hẳn, nước trong tô dâng lên đúng vạch sơn của chàng thanh niên họ Phù. Vậy là ta đã thua! Ta đau đớn vì người mình yêu đã về tay người khác. Nhưng càng đau đớn nhất là danh dự dòng họ Triệu từ nay đã mất vì một đứa con bất tài như ta. Buồn rầu và xấu hổ, ta từ bỏ quê hương, từ bỏ đảo Hải Nam vượt biển qua đây, trôi nổi về sống ở đất Bình Dương này. Ba ngày sau, từ lúc kể câu chuyện đời mình, trước khi mất, ông Tàu già nói với Hai Tường: -Ta mong con hãy xem ta như người cha thứ hai. Ngoài họ Nguyễn, con còn có thêm họ Triệu. Nếu thương ta, vì ta, con hãy hứa! Hai Tường nức nở gật đầu, khe khẽ kêu lên “tía ơi!”. Vậy là ông Tàu già qua đời. Lạ một điều là khi mất, một con mắt của ông nhắm và một con mắt mở trừng trừng. Người hiểu chuyện cho rằng, con mắt nhắm vì từ nay ông đã có người kế nghiệp, riêng một con mắt mở trừng trừng vì món nợ danh dự với giòng họ Phù, ông chưa có dịp trả xong. Thắm thoát thời gian, Hai Mưa Nắng khá già. Ông trở về quê, sống ở xóm Xẻo Bần thuộc huyện Tân Trụ, truyền nghề bói nắng mưa cho con trai là Ba Đảm. Rồi Ba Đảm truyền cho con trai là Út Thân. Khi Út Thân bắt đầu hành nghề bói nắng mưa thì nghề đó không còn được các lò gốm ưa chuộng nữa, không phải vì đài khí tượng thủy văn báo chính xác mà vì máy móc kỹ thuật hiện đại khiến các sản phẩm mộc của gốm không còn phải đem ra sân phơi, chỉ cần đem sấy là xong. Thất nghiệp, Út Thân cháu nội của ông Hai Mưa Nắng trôi dạt về vùng Xóm Củi. Ngày ngày, vào mùa mưa, Út Thân ra đứng trên cầu Nhị Thiên Đường bắc ngang kinh Tàu Hủ nhìn trời cá độ nắng mưa. Nhờ vốn gia truyền, Út Thân đánh đâu thắng đó, túi tiền luôn luôn rủng rỉnh. Biết thằng cháu nội đem nghề tổ truyền ra đánh bạc, ông Hai Mưa Nắng buồn lắm, ông nhắn Út Thân về khuyên răn: - Cháu à! Nghề bói nắng mưa là nghề giúp đời làm ra vật dụng cần thiết cho cuộc sống, không thể đem nghề tổ truyền ra đánh đố với đỏ đen! Thằng cháu nội nhe răng cười, bỏ đi không nói tiếng nào, nó tiếp tục ngửa mặt nhìn trời nơi cầu Nhị Thiên Đường để kiếm tiền. Một hôm, Út Thân về gặp ông nội với khuôn mặt thất thần: -Nhất định ông nội phải giúp con, ông nội à! Mấy tháng nay con thua liểng xiểng, cá đâu thua đó! Ông Hai Mưa Nắng lắc đầu: -Đáng đời! Ai biểu đem tổ nghiệp vào vòng cá độ? Út Thân nhăn nhó: -Mấy năm nay con không có đối thủ. Lần này gặp phải đối thủ quá dữ, nó từ bên Tàu sang đây! Nghe nói từ bên Tàu, ông Hai Tường vội hỏi: -Bên Tàu, mà ở tỉnh nào? - Không phải tỉnh mà là đảo. Đảo Hải Nam! Giật nẩy người, ông Hai Tường hấp tấp hỏi: - Mầy biết thằng đó họ gì không? Út Thân không trả lời, nói qua chuyện khác: - Ông giúp con giấu mặt chỉ huy đi ông nội. Của cải, nhà cửa của con sau những ngày đoán mưa nắng, lớp cầm, lớp bán hết rồi! Ông Hai Tường không quan tâm lời nó, nhắc lại: -Tao hỏi mầy... thằng đó họ gì ? Nhìn vẻ mặt khẩn trương của ông nội, Út Thân nói như phản xạ: -Da, họ Phù... Phù Khắc Hồng! Ông Hai Tường ngồi im lặng như pho tượng, lát sau nói nhỏ nhưng rành rọt: -Được rồi! Mầy thách đấu lần nữa đi! Tao giấu mặt chỉ huy. Nhưng mầy phải hứa với tao là sẽ không bao giờ cá độ nắng mưa nữa, phải kiếm việc làm ăn chân chính như người ta.Mừng quá, Út Thân đáp ngay:- Cám ơn ông! Con hứa!Đến ngày giờ cá độ, một cái tô được đem ra đặt ở sân một quán cà phê ở gần cầu Nhị Thiên Đường. Dân cá mưa ngồi gần như chật kín cả quán, hồi hộp theo dõi. Út Thân đưa mắt nhìn ông nội. Ông Hai kín đáo đưa sống bàn tay lên ngang bụng. Nhận được ám hiệu Út Thân bước ra sân lấy sơn đỏ vạch khoảng giữa cái tô. Tới lượt Phù Khắc Hồng, gã vênh váo nhìn trời rồi vạch cao hơn dấu sơn của Út Thân một ngón tay.Trời vần vũ và đổ mưa, nước trong tô lên cao dần, sắp đến vạch sơn của Út Thân mà trời chưa có dấu hiệu gì sắp dứt mưa. Thua là cái chắc, Út Thân lo lắng liếc mắt nhìn ông nội nhưng ông Hai Tường vẫn thản nhiên như không. Giữa lúc không khí đang căng thẳng thì bỗng dưng trời trở gió. Một luồng gió từ phương Nam thổi tới như cơn bão. Đám mây đen trên đầu bị thổi dạt qua phương Bắc, thoáng chốc mưa tạnh hẳn. Mực nước trong tô xấp xỉ mức vạch của Út Thân. Út Thân nhảy cuống lên như một thằng điên. Ông Hai Tường đứng dậy, không nói không rằng chụp cái nón nỉ lên mái tóc bạc phơ, rồi chậm rãi bước ra khỏi quán. Ba ngày sau của lần đoán mưa kể trên, ông Hai Tường qua đời. Hai con mắt của ông cũng vẫn một con nhắm, một con mở. Người hiểu chuyện cho rằng con mắt nhắm vì mối thù xưa của thầy ông đã trả, còn con mắt mở vì thằng cháu nội đích tôn vẫn còn đem nghề nghiệp tổ vào cuộc đỏ đen. Mục lục Hai Mưa Nắng Hai Mưa Nắng Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Báo cần ThơĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 20 tháng 10 năm 2005
vanhoc
Ophisternon candidum là một loài cá trong họ Synbranchidae. Chúng là loài đặc hữu hang động và nước ngầm ở Australia. Nó là loài cá hang động dài nhất trên thế giới (lên đến 40 cm) và một trong ba loài động vật có xương sống duy nhất ở Úc bị hạn chế ở vùng nước ngầm, loài còn lại là loài cá chim mù (Milyeringa veritas) và milyeringa justitia. Nó là cá mù, thân giống lươn và dài, da không có sắc tố với các màu từ trắng đến hồng. Lươn hang mù là đặc hữu của tây bắc Úc, cụ thể là ở vùng Cape Range, vùng Pilbara và vùng đảo Barrow. Nó hiếm khi được phát hiện do môi trường sống của nó và chỉ được phát hiện 36 lần từ năm 1959 đến năm 2017. Đáng chú ý, có một dòng độc lập đang phát triển ở vùng Pilbara cho thấy sự khác biệt đáng kể về mặt di truyền so với các loài lươn hang mù khác. Lươn hang mù sống trong môi trường tối hoàn toàn ở vùng nước ngầm ngắt kết nối với nước biển bề mặt.Chúng thường sống trong các hang động và đào sâu vào trầm tích. Thức ăn của chúng bao gồm giáp xác, sinh vật đáy hang và đôi khi trên cạn bị trôi dạt vào hệ thống hang động. Người ta biết rất ít về hành vi của chúng ngoại trừ một phát hiện cho thấy lươn mù đực chịu trách nhiệm xây dựng và bảo vệ nơi cư trú của chúng. Chú thích Tham khảo Wager, R. 1996. Ophisternon candidum. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Downloaded ngày 4 tháng 8 năm 2007. Department of the Environment, Water, Heritage and the Arts (2008). Ophisternon candidum in Species Profile and Threats Database, Department of the Environment, Water, Heritage and the Arts, Canberra. Ophisternon candidum — Blind Cave Eel Downloaded ngày 3 tháng 1 năm 2008. C Động vật đặc hữu Úc Cá Úc Động vật được mô tả năm 1962
wiki
Vũ Hồng Mai Con Trai Không Như Con Gái Tưởng Có bao giờ người ta chợt buồn rồi đổ thừa cho ngoại cảnh : "Tôi có muốn buồn đâu, tự nó cứ tự tiện đến đó thôi !" Mà cũng chẳng sai, ở xứ sở sương mù dày đặc này, cái buồn và ảm đạm được ban phát rất hào phóng cho những người thích yên lặng như tôi . Đà lạt kỳ bí mang một nỗi ưu sầu lắng đến nao lòng. Nhỏ Hòa, bạn tôi ở Sài Gòn lên chơi bị mê mệt bởi những Hồ Tuyền Lâm, Hồ Than Thở, Thác Cam ly (ngay cả tên địa danh cũng vương vất nỗi buồn), đi chơi thỏa thích rồi nó còn "phát biểu" : - Đẹp thì đẹp thật nhưng tao phải bái phục mày đó, buồn quá đi ! Nắng, gió và cả bụi nữa . Làm sao nó có thể quen nổi nơi này khi đã bị chốn phồn hoa đô thị của Sài Gòn mời gọi . Hai đứa thân nhau từ hồi phổ thông, tôi học trên nó một lớp nhưng cả hai như cặp bài trùng. Thi tốt nghiệp phổ thông xong là tôi nhảy lên đây thi Đại học liền. Tưởng mọi chuyện sẽ yên, nhưng rồi cái buồn, cái lạnh đã đẩy nó ra khỏi tôi . Dường như nơi này "cùng cực" với nó hay sao ấy ! "Chỉ lâu lâu lên chơi mới quý chứ, Ngọc hỉ ? ". Con nhỏ thật lắm chuyện. Hôm nay là thứ bảy, nhỏ Thụy Ái cùng phòng tôi lăng xăng, săm soi chọn một bộ đồ ưng ý nhất đi chơi với bạn. Còn nó thì tôi mới nhận ra "ngày của riêng mình", ngày "máu chảy về tim". Thật vớ vẩn, ngày nào chả của riêng mình, lại còn máu chảy về tim. Lý sự cùn ! Vốn cùng họ với nhà thỏ nên tôi ít khi đi chơi buổi tối . Công nhận Đà lạt hiền thật nhưng bóng tối đồng nghĩa với cái ác, trách xa là diệu kế ! Nếu không bận học bài thì nghe nhạc, không đọc sách thì trùm mềm thôi chứ đừng có dại mà ra đường, coi chừng ! Đi học thêm tin học, tôi cố sức dùng hết lời lẽ để thầy dạy ca sơm sớm một tí với lý do rất chính đáng "em sợ ma !". Thầy nhăn mặt "ban ngày cũng nhiều ma lắm đó, trò ạ!". Với lấy cuốn sách "Truyện cười chọn lọc" ra luyện giọng, tôi làm nhỏ Ái giật mình: - Thôi mi dẹp đi, hồi chiều chàng tới kiếm, ta bảo mi đi học, chàng không tin. Ê, coi bộ nắm vững thời khóa biểu quá hả ? Không trả lời, tôi làm nhỏ Ái cụt hứng bỏ đi . "Chàng" nhỏ Ái nói là Bình, anh học cùng khóa với tôi, anh cũng là người tôi quen đầu tiên khi bước chân vào Đại học. Hôm nay thứ bảy mà sao chưa thấy đến, tôi chuẩn bị trước một bộ mặt khó ưa . - Ngọc, bộ Hòa lên chơi mà phải nằm chèo queo ở đây với Ngọc sao ? Bây giờ tôi mới rời mắt khỏi người bạn tinh thần để chuyển hệ sang ngườ bạn bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt. Chao ôi, còn đâu Hải Hòa đài các kiêu sa nữa, thay vào đó là khuôn mặt ủ dột đến tội nghiệp: - Kiểu này chắc mai tao về sớm quá hà ! - Thôi mà, ban ngày đi chưa "đủ đô" hay sao mà tối còn đòi tập thể dục nữa hả ? Nhìn hai bàn chân sưng phồng của nó tôi xuýt xoa: - Cô nương ơi, làm ơn xức dầu rồi nằm đó dưỡng giò đi . - Hay là hai đứa mình chơi đánh lộn đi ! Cho đỡ buồn. - Hòa đề nghị. - Mày có điên không, tao thích chơi thọc lét. Chẳng là tôi và nhỏ Ái thường quậy tơi bời bằng trò đó nhưng nó đi vắng rồi, may mà còn nhỏ Hòa! Hai đứa tôi đang hò hét thì Bình tới . Thật là chẳng biết coi giờ ! Đợi dọn dẹp xong bãi chiến trường xong, anh quay sang hỏi tôi, giọng lo lắng: - Mấy bữa nay anh không gặp em, đi đâu mà không cho anh hay vậy ? Đã chẳng tỏ ra vui vẻ khi anh đến tôi còn trả lời cộc lốc: - Em đâu còn trẻ con nữa, vả lại ở đây em quên mất việc đi chơi phải xin phép rồi . Nét mặt anh thoáng buồn. Tôi thấy hối hận vì mình lỡ lời . Nhỏ Hòa huých nhẹ vào chân tôi, nó nhanh miệng. - Ngọc nó quên xin phép cha mẹ vì ở đây đã có anh Bình rồi mà, phải không Ngọc ? Tôi gật đầu nhẹ. Anh nhìn đồng hồ rồi hỏi hai đứa tôi . - Mới bảy giờ, hai em có đi bát phố không ? - Anh quên là em ghét đi chơi buổi tối rồi à ? Tôi phụng phịu như muốn khóc. Anh cuống lên. - Tại có Hòa, em đi chơi với bạn đi, để mấy bữa nữa lại ngồi nhớ. - Em đau chân lắm, hai người đi chơi đi, - Hoà từ chối - lại còn buồn ngủ nữa . Nói rồi nó leo lên giường nhìn đôi chân thở dài thườn thượt. Tự nhiên cái tính bướng bỉnh kêu réo tôi hãy đi với anh. Thay đồ xong, khoác thêm chiếc áo lạnh, tôi cùng anh ra ngoài . Bóng tối bao trùm khắp nơi, tôi bỗng nổi da gà. - Đi một lát thôi nha anh ! Hai chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè, nghe vọng lại tiếng bước chân của chính mình. Giờ này mà đường phố chỉ còn lác đác vài người, xe cộ ít hẳn. Các hàng quán bên đường đang lục đục dọn hàng. Cái lạnh của cao nguyên đã thôi miên người ta đi ngủ sớm thì phải ? Anh đi bên tôi làm nỗi sợ hãi trong tôi biến mất. Ngước nhìn bầu trời, anh phá tan không khí yên lặng. - Trăng 16 đẹp chưa kìa em ! Nhình theo tay anh chỉ, vầng trăng tròn trịa, đẹp và hiền hòa biết bao . - Nhưng trăng 19 hay 20 thì không còn đẹp vậy đâu, nó sẽ khuyết. - Tôi hờn dỗi . - Vì nó ban phát ánh sáng cho mọi người, cho cả anh và em nữa . Hy sinh bản thân mình cho người khác mà chẳng đòi hỏi cho riêng mình chút nào cả. - Chị Hằng ơi, anh Bình đang ca ngợi chị đó ! - Tôi bắt tay giả làm loa gọi với lên. - Anh chỉ biết ca ngợi em thôi, nhóc ạ ! - Xạo ! Tuy nói vậy nhưng tôi biết anh nói thật lòng mình. Anh đâu biết là tôi được hưởng nhiều yêu chiều từ nơi anh. Hơi nhức đầu sổ mũi một chút là anh đã quan tâm lo . Thôi thì vẫn giọng điệu cũ " khám bệnh chỉ làm em ốm thêm thôi". Cứ như anh là trung tâm để tôi trút hờn giận và để làm tình làm tội vậy . Nhỏ Hòa bảo tôi sướng vì được anh chìu, anh thương tôi hết mực. Nó thì có hàng tá đuôi đeo bám, tặng cho cả núi hoa hồng mà nó cũng chẳng màng. Với nó, tụi con trai nhìn bề ngoài hào nhoáng vậy thôi chứ còn trẻ con lắm lắm. Tôi cứ ngồi dỏng tai lên nghe nó thao thao bất tuyệt về lũ đuôi của nó. Những chuyện ấy thì tôi mù tịt vì trời chẳng phú cho tôi cái sắc đẹp sắc sảo như Hòa . "Vì hoàn cảnh đẩy đưa nên tao mới biết nhiều vậy chứ, hiểu nhiều về "tụi nó" càng thêm ngán ngẩm thôi" - Con nhỏ làm như rành đời lắm vậy ! Tôi chỉ có anh là chân dung của kẻ khác phái nên những gì nó nói tôi nghe theo răm rắp. Trong đầu cứ quay cuồng ý nghĩ "con trai thật trẻ con !" Anh có vậy không nhỉ ? Đã qua mấy con phố dài quanh co, tôi giục: - Thôi, mình về đi ! Em mệt rồi . - Đi chút nữa đi em ! Anh có chuyện muốn nói . - Chuyện gì vậy anh ? - Ngày mai anh phải về dưới nhà, chẳng biết có lên lại đây không ? Tôi giật mình : - Sao anh không cho em biết sớm. Anh có bao giờ thế đâu ? - Anh sợ em buồn, với lại ở nhà gọi anh về gấp, không cho biết có chuyện gì ? Hôm sau tôi không ra tiễn anh, nằm lì trên giường tôi mường tượng ra cảnh chia ly với một tâm trạng lo âu, sợ hãi . Hoà cũng chuẩn bị đồ đạc về lại trường. Nỗi buồn nhân đôi ! Một tuần, rồi một tháng trôi qua . Gần đến ngày thi mà vẫn chẳng thấy anh lên. Tôi cuống cuồng đến chỗ trọ cũ của anh hỏi, bà chủ dửng dưng : "Tôi không rõ". Tôi bắt đầu sợ và cảm thấy một khoảng trống trong tâm hồn không sao bù đắp nổi . Nhỏ Ái cũng buồn lây vì thiếu người chơi thọc lét với nó. Tôi ngã bệnh. Sáng sớm, bác đưa thư đến, bọn bạn ùa ra nhận thư . Tôi vẫn không sao dậy nổi, nhỏ Ái la toáng từ ngoài cửa phòng. - Ngọc ơi, có điện tín của mi nè anh Bình đó ! Tôi giật lấy mảnh giấy trên tay nó đọc nghiến ngấu : "Anh luôn bên cạnh em, đừng "hư" nữa nghe nhóc, và cũng đừng giận anh, Bình" Cùng lúc đó là sự xuất hiện của anh. Tôi khóc như mưa mặc cho anh cố giải thích là anh chỉ muốn tôi có thời gian để ngẫm nghĩ và hiểu anh hơn. Anh vẫn đến giảng đường nhưng tránh mặt tôi . Nhỏ Ái biết mà giấu, ghét ghê ! Bây giờ thì tôi đã thật sự hiểu anh hơn và tự trách mình sao quá tệ ! Tôi sẽ không để anh buồn nữa đâu . - Anh rất muốn gặp em nhưng sợ "kế hoạch" không thành. Em quen được nuông chiều mà ! Ghê thật ! Anh đâu có trẻ con như tôi nghĩ. "Giờ thì em đã hiểu rồi, đừng thử nữa em sợ lắm !". Hôm nay viết thư cho Hòa, tôi kể cho nó nghe chuyện của tôi và anh, lúc này thì tôi có thể góp tiếng nói vào diễn đàn với nó rồi vì tôi nhận ra một điều mới mẻ. Con trai chẳng đơn giản như tụi mình tưởng đâu, con gái ạ ! Vũ Hồng Mai Mục lục Con Trai Không Như Con Gái Tưởng Con Trai Không Như Con Gái Tưởng Vũ Hồng MaiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Thời áo trắngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
vanhoc
Björn Rune Borg (; sinh ngày 6 tháng 6 năm 1956 tại Stockholm, Thụy Điển) là vận động viên quần vợt nổi tiếng người Thụy Điển. Björn Borg được xem là tay vợt xuất sắc nhất trong thập niên 1970. Ông đã giành được 11 danh hiệu Grand Slam trong 9 năm thi đấu chuyên nghiệp, trong đó có 6 danh hiệu Pháp Mở rộng và 5 danh hiệu Wimbledon. Ông cùng với danh thủ Roger Federer đang giữ kỷ lục vô địch Wimbledon đơn nam 5 năm liên tiếp. Thời niên thiếu Björn Borg sinh tại Södertälje, một thị trấn nhỏ gần Stockholm, Thụy Điển, ngày 6 tháng 6 năm 1956. Anh là người con duy nhất của ông Rune Borg và bà Margareta. Năm lên 9 tuổi, Borg được bố mua cho cây vợt đầu tiên, và chỉ 6 năm sau, anh đã chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp. Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp Björn Borg thu được những thành công ngay từ lúc bắt đầu sự nghiệp. Năm 15 tuổi, Borg đã đại diện cho đội tuyển quần vợt nam Thụy Điển tham dự trận đấu với đội New Zealand tại giải Cúp Davis và có được chiến thắng đầu tiên. Cho đến khi giã từ sự nghiệp, Borg không thua một trận đấu nào trong khuôn khổ Cúp Davis. Ở tuổi 16, Björn Borg tham dự giải Wimbledon lần đầu tiên trong đời và ngay lập tức lọt đến tận vòng tứ kết. Năm 1974, Borg giành danh hiệu Grand Slam đầu tiên tại giải Pháp mở rộng. Björn Borg là tay vợt trẻ nhất khi đó từng giành được một Grand Slam. Năm sau đó Bjorn bảo vệ thành công chức vô địch Pháp Mở rộng, đánh bại Guillermo Vilas trong trận chung kết. Năm 1976, Björn Borg giành được chức vô địch Wimbledon đầu tiên trong sự nghiệp sau khi đánh bại tay vợt nổi tiếng Ilie Năstase. Chiến thắng này mở đầu chuỗi 41 trận đơn nam bất bại tại Wimbledon (5 giải vô địch liên tiếp), kéo dài cho đến tận năm 1981 của Borg. Björn Borg cũng giành được thêm 4 chức vô địch nữa tại Pháp mở rộng vào các năm 1978, 1979, 1980, 1981, giúp ông trở thành tay vợt duy nhất trong lịch sử đoạt được 6 chức vô địch giải đấu này. Giải chung kết Wimbledon năm 1980 giữa Björn Borg và tay vợt Mỹ John McEnroe đã đi vào lịch sử là một trong những trận hay nhất ở Wimbledon. Borg thắng với tỷ số 1-6, 7-5, 6-3, 6-7(16), 8-6. Trong ván giải huề (tie breaker) ở cuối hiệp thứ tư, Borg và McEnroe chơi cả thảy 34 điểm với Borg được 5 điểm vô địch (championship point) nhưng vẫn thua McEnroe hiệp này. Nhưng với tất cả những thành công đó, Björn Borg không thắng được giải Mỹ Mở rộng (US Open). Ông vào chung kết 4 lần những năm 1976, 1978, 1980, 1981 nhưng đều thua cả bốn. Hai lần đầu thua tay vợt Mỹ kình địch nổi tiếng của ông thời đó là Jimmy Connors, và hai lần sau thua John McEnroe. Sau khi thua John McEnroe liên tiếp hai giải lớn là Wimbledon và Mỹ Mở rộng năm 1981, Björn Borg tuyên bố giải nghệ năm 1982 ở tuổi 26. Tuyên bố gây chấn động làng quần vợt thế giới. Lối chơi bóng đặc biệt Björn Borg có lối chơi bóng khác hẳn các tay vợt thời đó. Ông không chơi theo lối quần vợt "cổ điển" mà phát minh ra các cách chơi cho tới nay vẫn được noi theo. Đặc thù nhất của ông là cú tay thuận xoáy trên (topspin forehand) thần sầu và cú trái tay hai tay (two-handed backhand) cũng với rất nhiều xoáy trên. Với hai cú độc đáo đó cộng với tốc độ di chuyển trên sân, Björn Borg thống trị trên các sân đất nện vào thập niên 1970. Hầu như không ai thắng Björn Borg trên sân đất nện thời đó ngoại trừ hai lần Borg thua tay danh thủ Ý là Adriano Panatta tại giải Pháp Mở rộng. Tham khảo Liên kết ngoài Björn Borg tại Đài danh vọng quần vợt thế giới Thông tin trên Wimbledon Thông tin trên BBC Sunday Times article ngày 5 tháng 7 năm 2009 Björn Borg (brand) Nam vận động viên quần vợt Thụy Điển Nhân vật còn sống Vô địch Tennis Grand Slam đơn nam Người Monte Carlo Vô địch Wimbledon Vô địch Wimbledon trẻ Vô địch Pháp Mở rộng Người Thụy Điển ở Monaco
wiki
Heterotardigrada bao gồm các loài gấu nước có phần phụ và 4 đôi chân hình tròn với móng vuốt riêng biệt nhưng giống nhau trên mỗi con. 444 loài đã được mô tả. Giải phẫu học Giải phẫu học của hệ sinh sản là một đặc điểm xác định quan trọng để phân biệt các nhóm khác nhau của gấu nước. Heterotardigrada có các ống dẫn mở ra bên ngoài thông qua một gonopore trước hậu môn, thay vì mở vào trực tràng như trong ngành Tardigrada duy nhất đã được xác nhận, Eutardigrada. Lớp thứ ba, Mesotardigrada, được đại diện bởi một loài duy nhất được biết đến từ một mẫu vật duy nhất hiện đã bị mất và vị trí mà mẫu vật đó được thu thập kể từ đó đã bị phá hủy bởi một trận động đất, vì vậy giải phẫu sinh sản của nó đã không còn được nghiên cứu gần đây. Sinh thái học Một số bộ của Heterotardigrada sống ở biển, số khác sống trên cạn, nhưng đối với tất cả các loài gấu nước đều là động vật thủy sinh, nghĩa là chúng phải được bao quanh bởi ít nhất một lớp màng ẩm để có thể hoạt động - mặc dù chúng có thể tồn tại ở trạng thái không hoạt động nếu môi trường sống khô héo. Tham khảo Chú thích Heterotardigrada
wiki
Jan Tinbergen (Den Haag, 12 tháng 4 năm 1903 – 9 tháng 6 năm 1994 The Hague), nhà kinh tế học người Hà Lan, đã được trao giải thưởng đầu tiên Giải Nobel kinh tế trong năm 1969, cùng chia sẻ giải thưởng với Ragnar Frisch vì đã phát triển và áp dụng các mô hình động cho sự phân tích các quá trình kinh tế. Tinbergen đã thành lập một ủy thác của nhà kinh tế cho Hòa bình và An ninh. Ông có người em trai là nhà khoa học y - sinh Nikolaas Tinberge cũng đoạt Giải Nobel sinh học và y học năm 1973 vì đã có công phát minh ra tổ chức và hành vi của cá nhân và cộng đồng động vật. Tác phẩm Centralization and Decentralization in Economic Policy. Westport: Greenwood, 1981. ISBN 0-313-23077-3. Der Dialog Nord-Süd: Informationen zur Entwicklungspolitik. Frankfurt am Main: Europ. Verlagsanstalt, 1977. The dynamics of business cycles: A Study in Economic Fluctuations. Chicago: U of Chicago P, 1974. ISBN 0-226-80418-6. Economic policy: Principles and Design. Amsterdam, 1978. ISBN 0-7204-3129-8. Rompzy, Eric van. Jan Tinbergen. Antwerpen: NBH, 1974. Xem thêm Danh sách các nhà kinh tế học Tham khảo Liên kết ngoài TINBERGEN, Jan in: Biografisch Woordenboek van het Socialisme en de Arbeidersbeweging in Nederland Jan Tinbergen (1903-1994) Koninklijke Bibliotheek Jan Tinbergen Jan Tinbergen College (Dutch website) IDEAS/RePEc Sinh năm 1903 Mất năm 1994 Nhà kinh tế học Hà Lan Người đoạt giải Nobel Kinh tế Người Hà Lan đoạt giải Nobel Người Hague
wiki
Shaleen Surtie-Richards (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955, Upington, tỉnh Cape [nay là tỉnh Bắc Cape ], Nam Phi) là một nữ diễn viên truyền hình, sân khấu và điện ảnh Nam Phi. Bà có lẽ được biết đến nhiều nhất với vai chính trong bộ phim năm 1988 Fiela se Kind và sê-ri phim dài tập Egoli: Place of Gold. Bà đã đóng phim bằng cả tiếng Afrikaan và tiếng Anh. Tuổi thơ và sự nghiệp Surtie-Richards sinh ra ở Upington, tỉnh Cape, Nam Phi, vào ngày 7 tháng 5 năm 1955 và học cả ở đó và ở Cape Town. Cha bà là một hiệu trưởng, và mẹ cô là một giáo viên. Mặc dù lớn lên trong thời kỳ Apartheid, Surtie-Richards đã tuyên bố rằng bối cảnh của cô không phải là một hoàn cảnh khó khăn. Khi còn nhỏ, khi một trường âm nhạc địa phương không thừa nhận bà vì màu da, cha của bà đã mua cho bà một cây đàn piano và thuê một giáo viên. Surtie-Richards cũng tham gia lớp học múa ba lê và tennis. Khi đủ điều kiện làm một giáo viên mẫu giáo, Surtie-Richards đã dạy ở Upington và Cape Town trong khoảng năm 1974 đến 1984. Bà đã đảm nhận nhiều vai diễn trong một số sản phẩm sân khấu nghiệp dư từ năm 1974 đến 1981 và cũng tích cực tham gia các sản phẩm của Nhà hát Giáo dục tại Bộ Giáo dục Nam Phi từ 1982 đến 1984. Bà bắt đầu sự nghiệp diễn xuất chuyên nghiệp của mình vào năm 1984. Sự nghiệp truyền hình Surtie-Richards đã có một vai chính trong Egoli: Place of Gold, vở opera xà phòng truyền hình đầu tiên của Nam Phi. Bà xuất hiện trong hầu hết chương trình kéo dài 18 năm của chương trình với vai Ester (Nenna) Willemse. Bà cũng đã xuất hiện trong một số chương trình truyền hình Nam Phi khác, bao gồm các phim 7de Laan, Villa Rosa và Generations. Năm 2000, bà đã tổ chức chương trình trò chuyện của riêng mình, Shaleen, trên kênh M-Net của Nam Phi. Surtie-Richards cũng là một giám khảo của loạt phim truyền hình thực tế Supersterre từ 2006-2010. Năm 2013, bà xuất hiện với tư cách là một trong những "diễn viên hài" trong The Comedy Central Roast của Steve Hofmeyr, chương trình hài mở đầu được thực hiện bởi kênh Hài kịch Trung Nam Phi, với Trevor Noah dẫn chương trình. Sự nghiệp điện ảnh Surtie-Richards đã đóng vai chính hoặc vai phụ trong các bộ phim sau: Fiela se Kind (1988) Mẹ Jack (2005) Egoli: Afrikaners là Plesierig (2010) Knysna (2014) Treurgrond (2015) Twee Lớp van Moord (2016) Vaselinetjie (2017) Sự nghiệp sân khấu Surtie-Richards đã xuất hiện trên sân khấu khắp Nam Phi và London. Bà cũng đã xuất hiện tại các lễ hội nhà hát và nghệ thuật lớn ở Nam Phi và nước ngoài, bao gồm Lễ hội Aardklop, Lễ hội Klein Karoo, Lễ hội Grahamstown, Suidoosterfees, và Lễ hội Fringe Edinburgh. Tham khảo Nữ diễn viên điện ảnh Nam Phi Nhân vật còn sống Sinh năm 1955
wiki
Trong giải tích vectơ, gradient của một trường vô hướng là một trường vectơ có chiều hướng về phía mức độ tăng lớn nhất của trường vô hướng, và có độ lớn là mức độ thay đổi lớn nhất. Giả sử là một hàm số từ đến nghĩa là Theo định nghĩa, gradient của hàm số f là một vectơ cột mà thành phần là đạo hàm theo các biến của : Ví dụ Ví dụ, nhiệt độ trong một căn phòng được cho bởi một trường vô hướng , sao cho tại mỗi điểm nhiệt độ là (giả thiết rằng nhiệt độ không thay đổi theo thời gian). Trong trường hợp này, tại mỗi điểm trong căn phòng, gradient của T tại điểm đó cho biết hướng mà theo đó nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Độ lớn của gradient cho biết nhiệt độ thay đổi nhanh đến mức nào nếu ta đi theo hướng đó. Trong một ví dụ khác, một ngọn đồi có độ cao so với mực nước biển tại điểm là . Gradient của tại mỗi điểm là một vectơ chỉ theo hướng dốc nhất tại điểm đó. Độ dốc của dốc này được cho biết bởi độ lớn của vectơ gradient. Gradient còn có thể được dùng để đo sự thay đổi của một trường vô hướng theo những hướng khác, không chỉ hướng có sự thay đổi lớn nhất, bằng cách lấy tích điểm. Trong ví dụ ở trên, giả sử dốc lên đồi dốc nhất là 40%. Nếu một con đường đi thẳng lên đồi thì đoạn dốc nhất trên con đường đó cũng là 40%. Nếu thay vì đi thẳng, con đường này đi vòng quanh đồi theo một góc, nó sẽ kém dốc hơn. Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài . Vi phân Giải tích vectơ Tỉ suất
wiki
Gérard Debreu (; 4 tháng 7 năm 1921 – 31 tháng 12 năm 2004) là một nhà kinh tế và toán học người Pháp, ông cũng là công dân Mỹ. Được biết đến là giáo sư kinh tế tại Đại học California, Berkeley, ông bắt đầu làm việc tại đây vào năm 1962 và sở hữu cho mình thương hiệu kimsa88 vào năm 1963, ông giành được giải Nobel Kinh tế năm 1983. Tiểu sử Cha ông là một đối tác thương mại với ông ngoại trong lĩnh vực sản xuất len, một ngành công nghiệp truyền thống tại Calais. Debreu mồ côi khi còn nhỏ tuổi (cha ông tự tử, mẹ ông mất do nguyên nhân tự nhiên). Trước khi Thế chiến II bắt đầu, ông nhận được bằng tú tài và tới Ambert chuẩn bị cho kỳ thi grande école. Sau đó, ông chuyển từ Ambert tới Grenoble để hoàn thành quá trình chuẩn bị của mình, cả hai nơi này đều được gọi là "Vùng tự do" trong Thế chiến II. Năm 1941, ông được nhận vào École Normale Supérieure tại Paris, cùng với Marcel Boiteux. Ông chịu ảnh hưởng bởi Henri Cartan và nhà văn Bourbaki. Khi đang chuẩn bị cho các kỳ thi cuối cùng vào năm 1944, D-Day đến và ông đã gia nhập quân đội Pháp. Ông chuyển đến đào tạo ở Algérie và sau đó phục vụ trong lực lượng lao động Pháp ở Đức cho đến tháng 7 năm 1945. Debreu đã qua được kỳ thi Agrégation de Mathématiques vào cuối năm 1945 và đầu năm 1946. Vào thời gian này, ông quan tâm tới kinh tế, đặc biejet là lý thuyết cân bằng tổng thể của Léon Walras. Từ năm 1946 đến 1948, ông là tại Centre National de la Recherche Scientifique. Trong 2 năm rưỡi, ông thực hiện quá trình chuyển đổi từ toán học qua kinh tế học. Năm 1948, Debreu đã đến Hoa Kỳ bằng học bổng Rockefeller, điều đó cho phép ông đến thăm một số trường đại học Mỹ, cũng như Uppsala và Oslo giai đoạn 1949–50. Debreu kết hôn với Françoise Bled năm 1946 và có hai con gái là Chantal và Florence, lần lượt ra đời năm 1946 và 1950. Debreu mất tại Paris ở tuổi 83 vào đêm giao thừa của năm mới 2004, và được mai táng ở nghĩa trang Père Lachaise. Các tác phẩm chính "The Coefficient of Resource Utilization", 1951, Econometrica. "A Social Equilibrium Existence Theorem", 1952, Proceedings of the National Academy of Sciences. "Definite and Semi-Definite Quadratic Forms", 1952, Econometrica "Nonnegative Square Matrices", with I.N. Herstein, 1953, Econometrica. "Valuation Equilibrium and Pareto Optimum", 1954, Proceedings of the National Academy of Sciences. "Existence of an Equilibrium for a Competitive Economy", with K.J.Arrow, 1954, Econometrica. "Representation of a Preference Ordering by a Numerical Function", 1954, in Thrall et al., editors, Decision Processes. "A Classical Tax-Subsidy Problem", 1954, Econometrica. "Numerical Representations of Technological Change", 1954, Metroeconomica "Market Equilibrium", 1956, Proceedings of the NAS. "Stochastic Choice and Cardinal Utility", 1958, Econometrica "Cardinal Utility for Even-Chance Mixtures of Pairs of Sure Prospects", 1959, RES The Theory of Value: An axiomatic analysis of economic equilibrium, 1959 "Topological Methods in Cardinal Utility Theory", 1960, in Arrow, Karlin and Suppes, editors, Mathematical Methods in the Social Sciences. "On 'An Identity in Arithmetic'", 1960, Proceedings of AMS "Economics Under Uncertainty", 1960, Économie Appliquée. "New Concepts and Techniques for Equilibrium Analysis", 1962, IER "On a Theorem by Scarf", 1963, RES. "A Limit Theorem on the Core of an Economy", with H.Scarf, 1964, IER. "Contuinity Properties of Paretian Utility", 1964, IER "Integration of Correspondences", 1967, Proceedings of Fifth Berkeley Symposium. "Preference Functions of Measure Spaces of Economic Agents", 1967, Econometrica. "Neighboring Economic Agents", 1969, La Décision. "Economies with a Finite Set of Equilibria", 1970, Econometrica. "Smooth Preferences", 1972, Econometrica. "The Limit of the Core of an Economy", with H. Scarf, 1972, in McGuire and Radner, editors, Decision and Organization "Excess Demand Functions", 1974, JMathE "Four Aspects of the Mathematical Theory of Economic Equilibrium", 1974, Proceedings of Int'l Congress of Mathematicians. "The Rate of Convergence of the Core of an Economy", 1975, JMathE. "The Application to Economics of Differential Topology and Global Analysis: Regular differentiable economies", 1976, AER. "Least Concave Utility Functions", 1976, JMathE. "Additively Decomposed Quasiconvex Functions", with T.C.Koopmans, 1982, Mathematical Programming. "Existence of Competitive Equilibrium", 1982, in Arrow and Intriligator, Handbook of Mathematical Economics Mathematical Economics: Twenty papers of Gérard Debreu, 1983. "Economic Theory in a Mathematical Mode: the Nobel lecture", 1984, AER. "Theoretic Models: Mathematical form and economic content", 1986, Econometrica. (Presidential address delivered at the 103rd meeting of the American Economic Association, 29 December 1990, Washington, DC) "Innovation and Research: An Economist's Viewpoint on Uncertainty", 1994, Nobelists for the Future Tham khảo Liên kết ngoài The Bank of Sweden Prize in Economic Sciences in Memory of Alfred Nobel 1983 Existence of an Equilibrium for a Competitive Economy Obituary for Debreu Guide to the Gérard Debreu Papers at The Bancroft Library IDEAS/RePEc Theory of Value. An Axiomatic Analysis of Economic Equilibrium Lectures on Mathematical Economics from 1987 at University of Canterbury "Gerard Debreu's Secrecy: His Life in Order and Silence", History of Political Economy, 44 (3): 413–449 Sinh năm 1921 Mất năm 2004 Nhà kinh tế Pháp Người đoạt giải Nobel Kinh tế Nhà toán kinh tế Người Pháp đoạt giải Nobel Kinh tế Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel Kinh tế Thành viên Viện hàn lâm khoa học Pháp Giáo sư Đại học California tại Berkeley Nhà kinh tế học Pháp Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel Người Pháp đoạt giải Nobel
wiki
Streptophytina là tên gọi chính thức của một phân ngành (nhưng đôi khi được sử dụng ở cấp ngành, và khi đó thuật ngữ thích hợp hơn để sử dụng là Streptophyta), trong đó bao gồm 2 lớp: Charophyceae, chứa bộ Charales (hay Charophyta sensu stricto); và Embryophyceae, trong đó bao gồm toàn bộ thực vật có phôi (thực vật đất liền như rêu và thực vật có mạch). Thuật ngữ Streptophyta, một thuật ngữ chính thức để chỉ một ngành, cũng được sử dụng để chỉ một phân giới và được sử dụng để bao gồm các loài thực vật đất liền (thực vật có phôi) cũng như một vài bộ tảo lục trước đây gộp trong ngành Charophyta. Một nghiên cứu gần đây gộp cả các bộ Mesostigmatales, Chlorokybales, Klebsormidiales, Zygnematales, Coleochaetales và Charales trong Streptophyta. Từ nguyên Streptophyta có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp στρεπτο (streptós) nghĩa là "xoắn", dạng "chuỗi xoắn" hay "xích xoắn" và φυτόν (phuton) nghĩa là "thực vật". Đọc thêm Bremer K. (1985) Summary of green plant phylogeny and classification, Cladistics 1(4):369-385, . Lewis L.A, McCourt R.M. (2004), Green algae and the origin of land plants , American Journal of Botany 91 (10): 1535-1556 Jeffrey D. Palmer, Douglas E. Soltis, Mark W. Chase, 2004, The plant tree of life: an overview and some points of view , American Journal of Botany 91 (10): 1437-1445 Ghi chú Tảo lục Phân loại thực vật Danh pháp thực vật học
wiki
Franz Oppenheimer (30 tháng 3 năm 1864 – 30 tháng 9 năm 1943) là một bác sĩ, kinh tế gia xã hội và nhà xã hội người Đức gốc Do thái mà cũng viết sách trong lãnh vực căn bản xã hội học của nhà nước. Cuộc đời Franz Oppenheimer là người con thứ ba của giáo viên Antonie Oppenheimer, nhũ danh Davidson, học giả đạo Do thái (Rabbi) của nhóm Do thái giáo Cải tổ Berlin, Julius Oppenheimer. Ông là em trai của nhà sinh hóa Carl Oppenheimer và nhà văn Paula Dehmel. Sau khi học Y khoa ở Freiburg và Berlin, Oppenheimer đã làm việc như là một bác sĩ ở Berlin từ 1886 tới 1895. Từ 1890 trở đi, ông bắt đầu băn khoăn về những câu hỏi chính trị xã hội và kinh tế xã hội. Sau khi hoạt động như là một bác sĩ, ông làm chủ bút tờ tạp chí Welt am Morgen. Vào ngày 3 tháng 1 năm 1909, ông cùng sáng lập ra Hội người Đức về Xã hội học (Deutsche Gesellschaft für Soziologie) ở Berlin. Trong cùng năm ông lấy bằng tiến sĩ ở Kiel với một bài luận về David Ricardo. Từ 1909 tới 1917, Oppenheimer là giảng viên tư tại Berlin, và sau đó trở thành giáo sư. 1919 ông trở thành giáo sư về xã hội học và lý thuyết kinh tế quốc gia, một ngành mà được các doanh nhân Frankfurt bỏ tiền lập ra, tại Johann Wolfgang Goethe-Universität. Đây là một chức vị giáo sư đầu tiên về ngành Xã hội học ở Đức mà ông giữ cho tới năm 1929. Kế vị ông là Karl Mannheim. 1934 - 1935, Oppenheimer dạy ở Palestina. 1936, ông được phong làm thành viên danh dự của Hội Xã hội học Hoa Kỳ (American Sociological Association). Trong tháng 1 năm 1939, Oppenheimer và con gái sang được Nhật, nơi mà ông được bổ nhiệm dạy tại đại học Keio ở Tokio, tuy nhiên ông ta không được phép dạy, bởi vì hiệp ước văn hóa giữa Quốc xã và Nhật cấm không cho làm việc, những ai mà quốc Xã không tán thành. Ông phải rời khỏi Nhật và 1940 sang Shanghai. Từ đó ông di dân sang Hoa Kỳ và tới Los Angeles cư trú, nơi mà em gái ông Elise Steindorff, vợ của Georg Steindorff ở. 1941, Oppenheimer là sáng lập viên của Tập san Hoa Kỳ về Kinh tế và Xã hội học (American Journal of Economics and Sociology). Ông có viết nhiều cuốn sách bằng tiếng Anh, mà bây giờ vẫn chưa xuất bản. Oppenheimer kết hôn 2 lần. 2 người con trai, Ludwig und Heinz, từ hôn nhân đầu. Con gái Renata, đứa con duy nhất từ hôn nhân thứ 2, cưới kịch sĩ Ernest Lenart. Franz Oppenheimer chết ngày 30 tháng 9 năm 1943 tại Los Angeles. Di cốt của ông ngày 21 tháng 5 năm 2007 đã được chôn tại một ngôi mộ danh dự ở nghĩa địa phía Nam Frankfurter. Tác phẩm khoa học Lý thuyết Quốc gia Trong thập niên 1920, cuốn sách Der Staat (Quốc gia) được đọc nhiều cũn gnhuw gây nhiều tranh luận xôi nổi. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hungary, Serbia, Hebrew, Yiddish và tiếng Nga và cũng gây tuowjn gddoosi với các nhà tư tưởng như Dan Halutz, Albert Jay Nock, Murray Rothbard và Frank Chodorov. Theo Oppenheimer có 3 nguồn lý thuyết quốc gia: Triết lý bàn luận về vấn đề quốc gia phải như thế nào, Luật gia bàn về khuôn khổ bên ngoàn của quốc gia và Xã hội học về nội dung, đời sống của xã hội quốc gia. Chú thích Người Đức gốc Do Thái Nhà kinh tế học Đức Nhà xã hội học Đức Sinh năm 1864 Mất năm 1943 Thương mại quốc tế
wiki
Emil Abderhalden sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877 và mất ngày 5 tháng 8 năm 1950, là một nhà sinh học và nhà sinh lý học Thụy Sĩ. Những phát hiện chính của ông, dù đã bị tranh cãi vào những năm 1920 nhưng cuối cùng đã không bị bác bỏ cho đến cuối những năm 1990. Cho dù những phát hiện sai lệch của ông dựa trên kết quả của việc thiếu khoa học và vẫn còn chưa rõ ràng. Khẩu súng lục của Abderhalden được sử dụng trong hóa học lần đầu tiên đã được mô tả bởi một trong những sinh viên của ông trong một cuốn sách giáo khoa đã được Abderhalden chỉnh sửa. Tiểu sử Emil Abderhalden sinh ra ở Oberuzwil, Canton of St. Gallen ở Thụy Sĩ. Abderhalden từng học dược tại Đại học Basel và nhận bằng tiến sĩ vào năm 1902. Sau đó ông nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của Emil Fischer và làm việc tại Đại học Berlin. Năm 1911, ông chuyển đến Đại học Halle và dạy khoa sinh lý học tại trường này Từ năm 1931 đến năm 1950, Ông là chủ tịch của German Academy of Natural Scientists Leopoldina. Vào năm 1936, ông được chỉ định là thành viên của Pontifical Academy of Sciences.. Từ năm 1931 đến năm 1950, ông là chủ tịch Học viện Khoa học Tự nhiên Đức Leopoldina. Năm 1936 ông được bổ nhiệm làm thành viên của Học viện Giáo hoàng về Khoa học. Trong Thế chiến I, ông thành lập một bệnh viện dành cho trẻ em và đứng đầu tổ chức việc đưa trẻ em suy dinh dưỡng sang Thụy Sĩ. Sau đó, ông tiếp tục việc nghiên cứu của mình về hóa học sinh lý và bắt đầu nghiên cứu quá trình trao đổi chất, hóa học thực phẩm. Sau Thế chiến II, Abderhalden trở lại Thụy Sĩ và nhận được một vị trí tại Đại học Zurich. Ông qua đời tại đây ở tuổi 73. Hành tinh nhỏ 15262 Abderhalden được đặt theo tên của nhà sinh lý học này để tôn vinh ông. Công việc khoa học và những tranh luận Abderhalden được biết đến với công việc xét nghiệm máu trong giai đoạn mang thai, xét nghiệm cystine trong nước tiểu, và giải thích hội chứng Abderhalden-Kaufmann-Lignac, một tính trạng di truyền lặn. Ông đã làm một công việc có quy mô lớn trong việc phân tích protein, polypeptides, và enzyme. Lý thuyết Abwehrfermente của ông ("enzyme phòng thủ") cho rằng miễn dịch bị tấn công sẽ tạo ra sản xuất proteases. Điều này dường như đã được chứng minh bởi nhiều cộng tác viên ở Châu Âu, mặc dù vậy ông vẫn ra sức nỗ lực để xác minh lý thuyết ở nước ngoài không thành công. Vào cuối năm 1912, "phản ứng lên men trong phòng thí nghiệm" của Abderhalden đã được ứng dụng vào chẩn đoán phân biệt chứng loạn nhịp tim do các bệnh tâm thần khác và do các nhà tâm thần học Stuttgart August Fauser (1856-1938) đưa ra và những tuyên bố về sự thành công kỳ diệu của ông nhanh chóng được các nhà nghiên cứu Đức và đặc biệt ở Hoa Kỳ sao chép. Tuy nhiên, bất chấp sự công khai trên toàn thế giới, "thử máu cho sự điên rồ" đã tạo ra, trong một vài năm "phản ứng của Fauser-Faderhalden" đã bị mất uy tín và chỉ có một số nhà nghiên cứu tâm thần Mỹ vẫn tiếp tục tin tưởng vào nó. Danh tiếng của Abderhalden tiếp tục phát triển ở Đức, tuy nhiên,tại đây các cộng tác viên quản lý sẽ sao chép kết quả của ông và thường lặp lại các thí nghiệm cho đến khi họ thành công và loại bỏ được hết những kết quả tiêu cực. Abderhalden được xem là người sáng lập khoa học sinh hóa học ở Đức. Công việc nghiên cứu của Abderhalden có ý nghĩa về tư tưởng: lý thuyết của ông đã được Otmar von Verschuer và Josef Mengele dùng để thử nghiệm máu và tách "Aryan" khỏi các cá thể không phải là Aryan và Abderhalden không tham gia vào công việc này. Nhà sinh hóa học Emil Abderhalden đã chuyển sang Verschuer năm 1940, bởi vì ông cần máu của một cặp song sinh để kiểm tra "phản ứng Abderhalden" ở những cặp song sinh giống hệt nhau, Abderhalden khẳng định rằng một số phản ứng của hệ thống miễn dịch được kích thích bởi việc sản xuất từng protease cụ thể. Do sự phát hiện của các enzym phòng vệ của ông, phát hiện các bệnh như bệnh tim và bệnh ung thư thông qua xét nghiệm máu đã trở thành điều có thể làm được. Abderhalden cũng tin rằng các đặc tính chủng tộc sẽ bao gồm trong các protein của mô và máu. Những gợi ý này được đưa ra bởi Verschuer và phát triển thành một dự án nghiên cứu về sự di truyền của chủng tộc người da trắng cụ thể, từ đó ông hy vọng có thể phát triển một bài kiểm tra máu vì sự quyết tâm của chủng tộc loài người. Ngoài ra, nhà hóa sinh học Günther Hillmann đã được đưa vào dự án, được bổ nhiệm như là một chuyên gia về nghiên cứu protein của Viện Hoá học Kaiser Wilhelm dưới thời Adolf Butenandt. Verschuer đã phát biểu trong bối cảnh của 200 mẫu máu được nghiên cứu từ các thành viên trong gia đình của các chủng tộc khác nhau mà chất nền được cấu tạo từ đó. Mặc dù các lý thuyết của ông bị bác bỏ ngay đầu những năm 1910, nhưng Abderhalden vẫn còn ảnh hưởng rộng lớn như một người đứng đầu trong các bộ phận của cộng đồng khoa học Đức. Tham khảo Liên kết ngoài Emil Abderhalden. Who Named It? Works by Emil Abderhalden trên the Virtual Laboratory of the Max Planck Institute for the History of Science Nhà khoa học Thụy Sĩ
wiki
Biển Chukotka hay biển Chukotskoye (tiếng Nga: Чукотское море) hoặc biển Chukchi là một biển trên thềm lục địa (biển ven bờ) trong Bắc Băng Dương. Nó có ranh giới về phía tây là eo biển De Long, chia tách đảo Wrangel ra khỏi châu Á đại lục, và về phía đông là mũi Barrow, Alaska. Vượt qua mũi đất này là các vùng nước của biển Beaufort. Eo biển Bering tạo thành giới hạn phía nam của biển Chukotka và nối nó với biển Bering trong Thái Bình Dương. Hải cảng chính trên biển Chukotka là Uelen. Đường đổi ngày quốc tế vượt qua biển Chukotka theo hướng tây bắc-đông nam. Nó phải dịch chuyển về hướng đông để tránh gây phức tạp hóa về giờ giấc cho đảo Wrangel cũng như khu tự trị Chukotka thuộc phần đại lục của Nga. Địa lý Biển Chukotka có diện tích khoảng 595.000 km² (230.000 dặm Anh²) và chỉ có thể phục vụ cho giao thông đường biển trong khoảng 4 tháng mỗi năm. Đặc trưng địa chất chính của đáy biển Chukotka là bồn địa Hope dài khoảng 700 km, nối liền về phía đông bắc với vòng cung Herald. Độ sâu nhỏ hơn 50 m (164 ft) bao phủ khoảng 56% tổng diện tích của biển này. Tên gọi biển Chukchi là đặt theo người Chukchi, những cư dân sinh sống trên bờ biển này cũng như trên bán đảo Chukotka. Người Chukchi sinh sống bằng nghề đánh bắt cá, săn cá voi và moóc trong vùng biển lạnh này. Tại Alaska, các con sông đổ vào biển Chukotka là Kivalina, Kobuk, Kokolik, Kukpowruk, Kukpuk, Noatak, Utukok, Pitmegea và Wulik, trong số nhiều sông suối khác. Các sông đổ vào biển Chukotka trên phía Siberi của nó có Amguyema, Ioniveyem và Chegitun là các sông quan trọng nhất. Biển Chukotka có rất ít đảo khi so sánh với các biển khác ở vùng Bắc cực. Không có đảo nào ở đoạn giữa của nó và chỉ có một lượng nhỏ các đảo dọc theo bờ biển phần thuộc vùng Siberi. Lịch sử Vào ngày 28 tháng 9 năm 1878, trong thời gian diễn ra chuyến thám hiểm của Adolf Erik Nordenskiöld để lần đầu tiên trong lịch sử con người đã vượt qua toàn bộ chiều dài của hành lang Đông Bắc, tàu thủy động cơ hơi nước Vega bị mắc kẹt trong lớp băng dày của biển Chukotka. Do việc đi tiếp trong khoảng thời gian còn lại của năm là không thể, nên tàu này đã bị giam hãm trong các tháng mùa đông. Mặc dù vậy, nhưng các thành viên của đoàn thám hiểm và thủy thủ đoàn đã nhận thấy rằng chỉ vài dặm nằm giữa khoảng biển bị băng ngăn chặn với vùng biển khơi. Năm tiếp theo, chỉ 2 ngày sau khi tàu Vega được giải thoát, nó đã vượt qua eo biển Bering và tiến về hướng Thái Bình Dương. Năm 1913, tàu Karluk, bị Vilhjalmur Stefansson, người chỉ huy đoàn thám hiểm bỏ rơi, đã trôi dạt theo băng dọc theo phần mở rộng về hướng bắc của biển Chukotka và bị chìm do bị băng ép gần đảo Herald. Những người sống sót dạt vào đảo Wrangel nhưng họ ở trong tình trạng vô vọng. Sau đó thuyền trưởng Robert Bartlett đã đi bộ hàng trăm kilômét cùng Kataktovik, một người đàn ông của tộc người Inuit, trên băng của biển Chukotka để tìm kiếm sự cứu giúp. Họ đến được mũi Vankarem trên bờ biển Chukotka vào ngày 15 tháng 4 năm 1914. Mười hai người còn sống sót của chuyến thám hiểm xấu số đã được tìm thấy trên đảo Wrangel 9 tháng sau đó bởi King & Winge, một tàu đánh cá dạng thuyền buồm dọc mới đóng. Năm 1933, tàu động cơ hơi nước Chelyuskin đã chạy từ Murmansk về hướng đông nhằm cố gắng quá cảnh qua lộ trình hàng hải phương Bắc sang Thái Bình Dương, nhằm chứng minh rằng sự quá cảnh như vậy có thể đạt được chỉ trong một mùa. Con tàu này bị băng dày bao vây tại biển Chukotka, và sau khi trôi dạt cùng băng trong vòng trên 2 tháng, đã bị ép và chìm vào ngày 13 tháng 2 năm 1934 gần đảo Kolyuchin. Trừ một trường hợp tử vong, toàn bộ đoàn 104 người đã kịp thời dựng lều trại trên mặt biển băng. Chính quyền Liên Xô khi đó đã tổ chức một cuộc di tản bằng đường hàng không đầy ấn tượng, và tất cả đã được cứu sống. Thuyền trưởng V. I. Voronin (1890-1952) và chỉ huy đoàn thám hiểm Otto Yulievich Schmidt (1891-1956) được phong anh hùng. Sau một số cố gắng không thành công, chiếc tàu bị chìm này đã được xác định vị trí trên đáy biển Chukotka bởi đoàn thám hiểm Nga, Chelyuskin-70, vào giữa tháng 9 năm 2006. Hai bộ phận nhỏ của siêu cấu trúc của con tàu đã được các thợ lặn tìm lại được và gửi cho công ty sản xuất con tàu là Burmeister & Wain ở Copenhagen để xác định. Nguồn dầu mỏ và hơi đốt Thềm lục địa trong biển Chukotka được người ta cho là có trữ lượng dầu mỏ và hơi đốt tới 30 tỷ thùng. Một vài công ty khai thác dầu đã ganh đua để thuê khu vực này, và vào ngày 6 tháng 2 năm 2008, chính quyền Hoa Kỳ đã thông báo rằng các nhà thầu giành phần thắng cần phải trả tới $2,6 tỷ để có quyền khai thác. Cuộc đấu thầu này đã bị phê phán từ phía các nhà môi trường. Xem thêm Thềm lục địa của Nga Tham khảo Đọc thêm Polyak Leonid, Dennis A Darby, Jens F Bischof, Martin Jakobsson. 2007. "Stratigraphic Constraints on Late Pleistocene Glacial Erosion and Deglaciation of the Chukchi Margin, Arctic Ocean". Quaternary Research. 67, no. 2: 234. Albert Hastings Markham. Arctic Exploration, 1895 Armstrong T., The Russians in the Arctic, Luân Đôn, 1958. William Barr, Discovery of the wreck of the Soviet steamer Chelyuskin on the bed of the Chukchi Sea Early Soviet Exploration History of Russian Arctic Exploration Niven, J., The Ice Master, The Doomed 1913 Voyage of the Karluk. Các polynya (hố băng) trong biển Chukchi Bảo vệ gấu trắng Bắc cực tại biển Chukchi: Polar bears shared by US, Russia to be managed jointly Liên kết ngoài Đánh giá sinh thái Biển Hoa Kỳ Biển Nga Thủy vực Alaska Thủy vực Khu tự trị Chukotka Biển của Bắc Băng Dương Biên giới Hoa Kỳ-Nga Thủy vực quận North Slope, Alaska
wiki
Nguyễn Văn Trường là một doanh nhân Việt Nam. Ông từng đoạt danh hiệu "Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu" và Cúp Vàng hội nhập kinh tế quốc tế. Ông cũng là Ủy viên Ban Chấp hành VCCI - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và là ông chủ của nhiều doanh nghiệp tư nhân như Doanh nghiệp Xuân Trường Ninh Bình, Công ty Cổ phần Du lịch Hoa Lư, Khách sạn Hoa Lư, Công ty TNHH Đầu tư Thương mại Dịch vụ Tràng An, sân Golf Tràng An, khu du lịch hồ Đồng Chương ở Ninh Bình và khu du lịch Tam Chúc. Từ những năm đầu của thế kỷ 21, Doanh nhân Nguyễn Văn Trường được biết đến với việc mạnh tay đầu tư Khu Du lịch Tràng An - chùa Bái Đính ở cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) với tổng vốn đầu tư 17.000 tỷ đồng. Hiện doanh nghiệp của ông đang đầu tư vào những khu du lịch lớn như: Khu du lịch Hồ Núi Cốc (Thái Nguyên) 15.000 tỷ đồng; Khu du lịch văn hóa tâm linh tổng hợp đảo Cái Tráp (Hải Phòng) 10.000 tỷ đồng Khu du lịch Tam Chúc (Hà Nam) 11.000 tỷ đồng. Cuối tháng 10/2019, doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường đã trúng Gói thầu số 01 Thi công xây dựng đoạn Cao Bồ - Mai Sơn thuộc Dự án Xây dựng đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam giai đoạn 2017 – 2020, với giá trúng thầu hơn 1.162 tỷ đồng. Tháng 11/2019 DNTN Xây dựng Xuân Trường tiếp tục trúng gói thầu hơn 601 tỷ đồng đầu tư xây dựng tuyến đường nối từ chùa Ba Sao đến chùa Bái Đính trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Thông tin cá nhân Nguyễn Văn Trường sinh năm 1963 tại thôn Chi Phong, xã Trường Yên - Hoa Lư - Ninh Bình. Ông là người sùng đạo Phật. Tranh cãi Miễn thuế xe nhập khẩu Năm 2016, việc Bộ Tài chính có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị xem xét, miễn thuế nhập khẩu cho 20 ô tô từ 30 đến 54 chỗ ngồi của doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường (do ông Nguyễn Văn Trường làm giám đốc), chủ đầu tư khu du lịch sinh thái Tràng An - chùa Bái Đính đã gây nhiều tranh cãi trong giới chuyên gia kinh tế, bởi hiện nay theo các cam kết hội nhập, Việt Nam chấp nhận sân chơi bình đẳng, không phân biệt và tạo mọi điều kiện để các DN cạnh tranh trên thương trường. "Đất nước này là của Xuân Trường" Vào tháng 6/2010, Ban quản lý dự án xây dựng chùa Bái Đính thuộc doanh nghiệp Xuân Trường đã xây tặng 3 chùa tại các đảo Trường Sa Lớn, Sinh Tồn, Song Tử Tây của quần đảo Trường Sa. Ở Ninh Bình, tầm ảnh hưởng của 2 tập đoàn doanh nghiệp Xuân Thành và Xuân Trường là rất lớn. Ngày 30/06/2011, Báo Nhân dân có đăng tin về vụ án kiện bí thư tỉnh Ủy ở Ninh Bình với tiêu đề "Ông Đinh Đức Phiếu không phạm tội vu khống", trong bài viết có đoạn: Ông Đinh Đức Phiếu còn viết "đất nước này là của Xuân Trường (doanh nghiệp Xuân Trường- PV), thành phố này là của Xuân Thành (doanh nghiệp Xuân Thành- PV). Báo Tiền phong ngày 03/05/2011 trong bài "Trường đại gia ăn chay trường" cho biết ý kiến của ông Nguyễn Văn Trường về việc bí thư tỉnh ủy Ninh Bình bị kỷ luật như sau: Anh Hùng cũng đang khó xử. Mình đúng, nhưng gây buồn cho người quen biết, mà lại là lãnh đạo cao nhất tỉnh, thì mình cũng khổ tâm. Chú thích Liên kết ngoài Bí ẩn ông chủ sự Bái Đính Trường đại gia ăn chay trường Doanh nhân Ninh Bình: Thêm nhiều đóng góp cho xã hội "Đại gia bí ẩn" chi 100.000 USD đưa xá lợi Phật về VN Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường tặng 58 suất quà cho nạn nhân chất độc da cam /dioxin đặc biệt khó khăn Người Ninh Bình Doanh nhân Việt Nam
wiki
Đỗ Mạnh Bổng (sinh năm 1969) là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ông nguyên là Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (Vụ 3) Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tiểu sử Năm 2005, Đỗ Mạnh Bổng là kiểm sát viên Hà Nội. Năm 2012, Đỗ Mạnh Bổng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ được Chủ tịch nước Việt Nam tặng Huân chương Lao động hạng Ba. Ngày 8 tháng 2 năm 2014, Đỗ Mạnh Bổng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ là một trong 15 người được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao quyết định bổ nhiệm chức danh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Phủ Chủ tịch. Quyết định kí ngày 17 tháng 1 năm 2014. Ngày 3 tháng 3 năm 2014, Đỗ Mạnh Bổng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ được trao Quyết định 36,37/QĐ-VKSTC-V9 ngày 28/2/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Vụ trưởng Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm tra án hình sự về Kinh tế - chức vụ (Vụ 1) Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngày 1 tháng 10 năm 2018, Đỗ Mạnh Bổng, Kiểm sát viên cao cấp, Phó Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (Vụ 3) VKSNDTC được trao Quyết định số 28/QĐ-VKSTC ngày 27/9/2018 của Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm giữ chức vụ Vụ trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (Vụ 3) VKSNDTC. Từ ngày 1 tháng 7 năm 2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh Trí điều động và bổ nhiệm Đỗ Mạnh Bổng giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thời hạn 5 năm thay ông Dương Ngọc Hải. Tham khảo Người họ Đỗ tại Việt Nam Kiểm sát viên cao cấp Việt Nam Huân chương Lao động hạng Ba Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Vụ trưởng Vụ 3, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Việt Nam đương nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
wiki
Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Lời tựa Những mẩu chuyện này được viết trong những ngày cuối hạ, đầu thu 1988. Lúc đầu, tác giả không có ý định xuất bản, chỉ muốn tập hợp lại vài tâm tư và quan sát trong nhiều năm qua, cho một số bạn hữu và chính mình. Vì vậy, người viết cảm thấy tự do, không ngại sử dụng nhiều ý tứ và cách dùng chữ xạ lạ khó hiểu. Người đọc, có ai tìm được vài pháp lạc thì đó là niềm vui cao quý cho tác giả. Tập truyện này xuất bản được là nhờ khuyến khích và giúp đỡ từ nhiều phía. Xin chân thành cảm ơn tất cả. Cộng hòa Liên bang Đức, tháng 2 năm 1989 Nguyễn Tường Bách Lời tựa in lần thứ haiHơn mười năm sau khi in lần thứ nhất ở nước ngoài, tập truyện Đêm qua sân trước một cành mai (1) được in lại lần thứ hai với vài bổ túc nhỏ. Tác giả trân trọng cảm ơn Nhà Xuất bản Trẻ đã tạo điều kiện cho cuốc sách này được ra đời. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng mười hai năm 1999 Nguyễn Tường Bách (1) “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, trích trong bài kệ của Thiền sư Mãn Giác. Mãn Giác (1052-1096) tên thật là Lý Trường, người đất Lũng Triền, hương An Cách. Theo các nhà địa lý học lịch sử Hà Bắc thì nay đó chính là xã Lũng Khê, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Ngài xuất thân dòng hoàng tộc. Cha là Lý Hoài Tố, từng làm đến chức Trung thư ngoại lang dưới hai triều Lý Thánh Tông (1051-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1128). Thiền sư Mãn Giác thuở nhỏ được vua Lý Nhân Tông sủng ái, đặt tên là Hoài Tín. Ngài xuất gia, được thiền sư Quảng Trí trụ trì chùa Quân Đinh truyền tâm ấn. Ngài tiêu biểu là truyền thừa thứ tám của dòng Thiền Quang Bích. Ngày 30-11-1096, sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ rằng: “Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” “Xuân ruổi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai” (Ngô Tất Tố dịch) Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) là tên của người đời sau đặt và cho đến nay, bài này vẫn được xem là bài kệ duy nhất mà người đời sau tìm thấy được, mặc dù Ngài viết rất nhiều. Thân thế của Thiền sư Mãn Giác được trích trong bài “Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông”, tác giả Nguyễn Huệ Chi đăng trong Tạp chí Nhà Văn số 1-2000 Xin khiêm cung đa tạ. Trong tập này:Lời tựa Lời tựa in lần thứ hai Chuyện người kỹ nữ Người nuôi thú bên bờ biển Con vượn lông đỏ Người đạo sĩ bên gốc thông già Gã chèo đò và sáu cây chùy Tên tiểu đồng trên cây đào tiên Bên đàn vịt trời Chuyện người văn sĩ Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Chuyện người kỹ nữ Vùng nọ, có một đô thị sầm uất, dân cư đông đúc, khí hậu điều hòa. Thương thuyền lui tới tấp nập bất kể ngày đêm, người đi như hội. Đô thị ngày càng mở rộng nhưng chỗ đẹp nhất vẫn là khu phố cổ, nhiều ngõ ngách nhỏ hẹp ẩn mình dưới hàng liễu rũ xanh tươi. Khách xa tới đây đều tấm tắc khen là thiên đường hạ giới. Trong khu phổ cổ có một kỹ viện, xây dựng lên từ đời nào không rõ. Kỹ viện có nhiều nàng kỹ nữ xinh đẹp, múa rất hay. Thương nhân đến đây lắm kẻ quên đường về. Trong các nàng kỹ nữ, có một nàng kiều nữ, mặt đẹp như ngọc. Nàng không múa bao giờ, chỉ ca hát. Đặc biệt nàng tự ôm đàn, vừa đàn vừa ca, không hát cùng ai, không để cho ai đàn họa theo. Hàm răng trắng đều, nàng thường nở nụ cười tuyệt đẹp. Khách ra về bâng khuâng không biết lưu luyến tiếng hát hay nụ cười. Tông tích người kỹ nữ này không ai rõ, chỉ biết nàng đã vào kỹ viện rất sớm. Cũng không ai biết ai dạy nàng hát, chỉ thấy mỗi lần hát, nàng đưa hồn vào lời ca tiếng hát, khách nghe đôi khi không biết mộng hay thực. Khách yêu tiếng hát thì nhiều nhưng không ai dám hỏi nàng làm vợ. Còn nàng thì hình như cũng chẳng thiết tha tới ai, sống một mình một bóng. Ngày qua ngày, người kỹ nữ hát càng điêu luyện, nhưng nàng chỉ còn thích hát một vài bài đắc ý, mỗi lần hát hầu như nàng lạc qua một thế giới khác. Một buổi chiều kia, trời mưa dầm, nàng cảm thấy cô đơn vô hạn. Khách nghe thì nhiều nhưng thế giới hầu như trống rỗng, vắng lặng. Nàng nhìn mưa rơi tự hỏi “trời đất bao la thế này thôi sao, trượng phu quân tử chỉ chừng đó thôi sao?” Nàng bất giác ôm hồ cầm: Tích tịch tình tang Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi Trời đất mang mang ai người tri kỷ. Lại đây cùng ta cạn một hồ trường Hồ trường hề! Hồ trường! Ta biết rót về đâu Rót về Đông phương, biển Đông nổi sóng sinh cuồng loạn Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong heo hút cát chạy đá giương Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan Rót về phương Nam, trời Nam mờ mịt. Có người quá chén như điêng như cuồng (1) Hát xong lệ tuôn như mưa, khách nghe ngậm ngùi, không ai nói điều gì. Bỗng trong đám người nghe, có một người khách lạ đứng dậy nắm lấy cây hồ cầm. Người này có vẻ là một lữ hành, áo quần mang nét phong sương, mặt còn trẻ, dáng điệu có chút bối rối. Vừa so dây, người lữ khách vừa nói: --- (1) Trích Hồ trường, một sáng tác của Nguyễn Bá Trác (đầu thế kỷ 20).--- - Mời nàng hát lại bài Hồ trường, lần này ta xin đàn cho nàng hát. Người kỹ nữ ngỡ ngàng nhìn lữ khách. Nàng chưa kịp nói gì thì y đã tấu lên vài tiếng nhạc. Đàn hồ cầm vốn quen nhạc réo rắt, nhưng trong tay kẻ lữ hành lại khác hẳn. Âm sắc vang lên ấm như mùa xuân, tươi như hoa nở, sáng như bình minh. Tích tịch tình tang Nào ai tỉnh, nào ai say? Chí ta ta biết, lòng ta ta hay. Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ. Hà tất cùng sầu đối cỏ cây (1) Cùng tiếng đàn của người khách lạ, nàng cảm giác như có đôi nam nữ sóng vai nhìn bốn phương tám hướng, niềm cô đơn tan biến tự bao giờ. Nàng vừa hát xong, còn vương niềm vui sướng, người lữ khách đã đặt cây hồ cầm lại chỗ cũ, nói: - Đường vào đạo có tám vạn bốn ngàn ngõ, thanh âm cũng là đạo. Trong các loại thanh âm thì im lặng là thanh âm vi diệu nhất. --- (1) Trích Hồ trường, một sáng tác của Nguyễn Bá Trác (đầu thế kỷ 20).--- Người kỹ nữ nghe câu nói, không kịp suy nghĩ gì thêm, nàng ngước mắt nìn lữ khách, mắt long lanh, muốn hỏi tên tuổi. Y im lặng đầm ấm nhìn lại, không nói gì, xoay người đi thẳng. Mấy ngày sau, chiều nào người kỹ nữ cũng đợi lữ khách nọ trở lại. Nhưng ngày qua ngày không còn thấy tăm dáng của người đó đâu. Ngỡ rằng y là thương nhân, nàng ra phố xá, bến sông để tìm kiếm, nhưng y vẫn biệt tăm. Sau một thời gian chờ đợi, người kỹ nữ tuyệt vọng, ngày càng mòn mỏi. Nàng chỉ biết hát bài Hồ trường, tự ôm đàn mà hát, lời ca càng ảo não hơn xưa. Cứ thế, ngày qua ngày, mấy mùa xuân trôi qua nàng không còn để ý tới. Xxx Một sáng kia, còn chưa tỉnh giấc, nàng bỗng nghe tiếng hát: Như mẹ hiền thương yêu con một Dám hy sinh bảo vệ cho con Với muôn loài ân cần không khác Lòng ái từ như bể như non (1) --- (1) Kinh Từ Bi (Metta-Sutta), Kinh ngắn gồm 10 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. --- Nàng nhìn qua cửa sổ, thì ra đó là tiếng hát của một bà cụ ăn xin. Cụ bà ngồi bên vệ đường, đầy người qua kẻ lại. Mặt mày ủ dột, vai mang một cái bị nhỏ bạc màu. Giọng người ăn xin yếu ớt, sắc âm thô kệch, nhưng lời ca nghe rõ từng tiếng. Khách qua đường không mấy ai để ý, nàng thương xót sai trẻ cho ít nắm cơm. Xxx Ngày tháng trôi qua, tuy không nguôi thương nhớ người lữ khách ngày xưa, nàng kỹ nữ cũng không còn mong ngày gặp lại. Còn cụ bà ăn xin ngày nào cũng ngồi xin gần cửa sổ của phòng nàng, chỉ thuộc vỏn vẹn một bài hát, hát lui hát tới chỉ một bài đó. Nàng kỹ nữ nghe hoài cũng thuộc lòng. Một buổi sáng kia, nàng thức giấc lúc bình minh chưa rạng hẳn. Đứng ngắm mặt trời vừa lên, nàng bổng nhớ âm sắc rực sáng của tiếng đàn người lữ khách chiều nọ. Hốt nhiên nàng cất tiếng hát bài ca của bà cụ ăn xin, đưa hồn vào từng ý nhạc. Nàng đứng nghe tiếng mình hát như nghe tiếng ai hát. Đến đoạn: Có hình tướng hay không hình tướng Ở gần ta hoặc ở nơi xa Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra Cầu cho tất cả đều an lạc. (1) Bỗng nhiên nàng như lạc vào thế giới của chim chóc đang sống xung quanh. Tiếng chim hót dường như không phải chỉ có nhạc mà còn có lời, bỗng một tiếng chim cất lên: - Vái chào cô nương! Vái chào cô nương! Nàng ngỡ ngàng nhìn quanh. Bỗng một con chim câu sà xuống bên cạnh, nàng nhìn chằm chặp, hỏi chim: - Ngươi hiểu tiếng người, hiểu ta nói chăng? Chim đáp: - Em hiểu cô nương, hiểu cả ý tứ cô nương nữa. Cô nương hát hay lắm nhưng âm thanh buồn quá. Nàng kỹ nữ ngạc nhiên cười khanh khách nhưng giọng bỗng chùng xuống: - Ta buồn sao ngươi biết được? Chim câu thong thả trả lời: - Cô nương buồn vì gã thiền sư đó, ai lại không biết. Nàng kỹ nữ ngạc nhiên cực độ. Chim hiểu ý nói tiếp: - Người gảy đàn cho cô nương mấy năm về trước là một gã thiền sư phiêu bạt, không gia đình, không bè bạn. Nàng nửa tin nửa ngờ hỏi: - Thiền sư sao vào kỹ viện nghe hát? - Gã thiền sư đó đã tu dưỡng tới trình độ phi thường, nhưng y vướng nghiệp mê tiếng hát kỹ nữ. Có lần y đi khất thực, bên song nghe tiếng hát của cô nương… Nghe nói đến người lữ khách, nàng hỏi dồn dập: - Thế bây giờ y ở đâu, ta còn gặp lại y được nữa không? Chim lắc đầu: - Y đã qua cảnh giới hòa âm thiên, một thế giới xây dựng thuần túy bằng thanh âm, y không trở lại đời này nữa. Nghe xong, nàng kỹ nữ hết sức đau đớn. Nàng ôm đàn nức nở: Giờ còn mong chi người hát theo đàn Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn Lời đàn năm xưa xe kết đôi lòng Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời (1). --- (1). Trích Cung Đàn Xưa, nhạc Văn Cao--- Tiếng đàn giọng hát chưa bao giờ u uất như vậy. Cùng tiếng hát, nàng bỗng chốc đi vào một thế giới mưa gió sầu thảm, xa xa có tiếng suối reo sóng vỗ. Khắp nơi nước xanh trong một màu, không còn tiếng chim chóc nữa. Sáng hôm sau tỉnh dậy, nàng lại cất tiếng hát với ước mong gặp lại chim để hỏi chuyện thiền sư. Nhưng lần này nàng không rời bỏ được tâm ý loài người. Nàng hát suốt một ngày bài ca ăn xin với hy vọng nghe hiểu được tiếng loài chim nhưng vẫn không được. Xxx Ngày tháng trôi qua, nàng kỹ nữ thương nhở người lữ khách kia vô hạn nhưng tâm tư nhẹ nhàng thảnh thơi. Một ngày kia, nàng ngạc nhiên thấy mình rũ bỏ tâm bi lụy tự bao giờ. Tiếng hát vút cao: … Nhưng thôi, tiếc mà chi, Chim rồi bay, anh rồi đi Đường trần quên lối cũ Người đời xa cách mãi Tình trần khôn hàn gắn thương lòng Gửi gió cho mây ngàn bay… (1) --- 1. Trích Gửi gió cho mây ngàn bay, nhạc của Đoàn Chuẩn, Từ Linh. --- Một đêm trăng nọ, trăng sao vằng vặc, nàng ngắm ánh trăng đọng trên cành cây ngọn cỏ. Ánh trăng trong mát, soi sáng muôn vật, không sở cầu, không phân biệt. Lòng không gợn chút cầu mong, hồn nhiên như ánh trăng, nàng bỗng hát bài ca người ăn xin. Đến đoạn: Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng tình thương không giới hạn Tầng trên, tầng dưới và khoảng giữa Không vướng mắc, oán thù, ghét bỏ. Bỗng nhiên, nàng thấy mình đi từ thế giới này qua thế giới khác, như đi cả vũ trụ. Tâm tư thế nào, thế giới ấy liền biểu lộ, không hề vướng mắc. mỗi thế giới đều có một thanh âm khác nhau, chỗ nhẹ nhàng, nơi bi lụy, chốn say đắm, nơi thâm trầm. nàng sực nhớ lời người lữ khách “Trong các loại thanh âm, thì im lặng là thanh âm vi diệu nhất”. Vừa nhớ tới câu đó, một thế giới thù thắng hiện ra, đầy âm thanh mỹ diệu trầm bổng mà nàng chưa bao giờ được nghe. Nàng đang bỡ ngỡ thì kẻ lữ khách năm xưa hiện ra, ánh mắt đầm ấm không hề thay đổi. Nàng bồi hồi cầm tay người lữ khách, mắt long lanh. Y cầm sẵn trong tay một cây đàn, vừa tấu lên vài tiếng nhạc, nàng cảm thấy sung sướng không thể nào tả xiết. Từ đó, trong thế giới hòa âm đầy thiên nhạc có tiếng tịch tình tang của một cây hồ cầm. Xxx Một ngày kia, nàng kỹ nữ muốn trở về thăm quê cũ. Lấy nhân dạng của một bà già, nàng quay lại phố xưa. Đô thị ngày càng phát triển nhưng khu phố cổ với những ngõ ngách dưới rặng liễu xanh vẫn không thay đổi. Kỹ viện xưa vẫn còn, kẻ ra người vào không ngớt. Nàng đi đến cửa sổ phòng ngày xưa của mình, cảnh vật không hề đổi thay, kẻ ăn xin ngày nay nhiều hơn trước. Tại chỗ bà cụ ngồi ngày xưa, ai đã xây một cái miếu thờ, đề chữ “Hành Khất Miếu”. Nàng hỏi chuyện thì có bà cụ giải thích: - Mấy mươi năm trước, có một bà cụ ăn xin ngồi đây từ năm này qua năm khác. Bỗng một buổi tối sáng trăng, cụ đứng dậy bỏ đi. Có người hỏi đi đâu, cụ nói: “Chuyện cần làm đã làm xong, ta không trở lại đời này nữa”. Nói xong biến mất. Có lẽ đó là một bà tiên giáng phàm thử lòng người trần. Từ đó dân chúng ở đây xây miếu thờ, hương khói không khi nào dứt. Nàng kỹ nữ rùng mình, tới trước miếu thờ vái lạy. Trên bệ miếu, nàng thấy túi vải bạc màu của bà cụ ngày xưa. Mởi túi vải ra chỉ có một cuốn sách nhỏ nhàu nát ghi mấy hàng chữ, đọc kỹ chính là bài ca ngày đó. Gấp cuốn sách lại, bìa đề ba chữ “Kinh Từ Bi” (1). Người kỹ nữ nao nao trong dạ. Thì ra bài này là một bài kinh, tên gọi là “Kinh Từ Bi”. Bất giác nàng ngồi xuống vệ đường, thương nhớ và biết ơn cụ già vô hạn, ca lại bài ca. Trẻ con thấy một người ra vẻ ăn xin ca bài ca lạ tai, vỗ tay reo cười. Trong kỹ viện, có ai đó vừa ngưng đàn. Chú thích:1. Kinh Từ Bi (Metta-Sutta), Kinh ngắn gồm 10 đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Người nuôi thú bên bờ biển Bên bờ biển nọ, có một người nuôi thú, y cô đơn vì không có ai bầu bạn. Y nuôi gia súc từng đàn, nhưng không phải để kiếm ăn, vì không thấy y giết thịt bao giờ. Thú rừng, chim muông cũng kiếm ăn, làm tổ xung quanh căn chòi lá nghèo nàn của y. trẻ con thường đến thăm y, chơi với thú vật và nghe y hát. Nhưng hình như y băn khoăn một điều gì không rõ. Những lúc chơi với trẻ con, y vẫn lẩm bẩm: - Sinh vật trong thế gian nhiều vô số kể, cái gì giống nhau, cái gì khác nhau. Lúc thú vật già bị chết đi, y đem chôn cẩn thận. Mỗi lần làm thế, y lại hỏi lũ trẻ: - Thú này sẽ đi về đâu? Trẻ con ngẩn ngơ không hiểu. Chiều chiều, y thường ra biển ngắm trời mây và ngẫm nghĩ điều gì. Trẻ con thấy y chăm chú nhìn từng đợt sóng dồn và nghe y giải thích rằng cứ sau bảy tám đợt sóng thì đợt sóng kế tiếp vỗ vào bờ theo như dạng của đợt sóng đầu tiên. Nhìn sóng nước, y lại lẩm bẩm: - Sóng vỗ cũng như sinh vật, không giống nhau mà cũng không khác nhau. Trẻ con không để ý gì đến các thứ sóng lớn, sóng nhỏ. Còn y, dù bây giờ tiên đoán được sóng nào sẽ xuất hiện, nhưng xem ra càng tư lự hơn. Một buổi chiều y cùng đám trẻ con ngồi xem kiến bò. Đàn kiến bò luân lưu thong thả như dòng nước chảy. Có lúc bị vật gì ngăn cản không rõ, kiến ùn lại từng đàn. Sau đó, đàn kiến lại thong thả bò tiếp. Trẻ con xem chán rồi bỏ đi, chỉ còn lại một đứa bé, nó hỏi: - Đàn kiến ùn lại, đã đi về đâu? Y chỉ đàn kiến đang bò. Đứa bé hỏi vặn: - Không, đây là đàn kiến đang bò thong thả. Y bỗng la lên một tiếng cực lớn, đứa bé giật mình kinh hãi. Người nuôi thú xem ra hết băn khoăn. Y ca hát luôn mồm. Trẻ con đến chơi bắt chước hát theo, rằng: “Sóng không rời nước nhưng nước không phải sóng. Tứ đại khi có khi không, không đến từ đâu, không đi về đâu, không có phương hướng xứ sở gì”. Người nuôi thú bình an và đàn kiến vẫn tiếp tục bò… Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Con vượn lông đỏ Vùng kia, có một ngọn núi lửa, mấy mươi dặm xung quanh không có người ở. Thú rừng, chim chóc cũng không sống được, cảnh vật vô cùng hoan vắng. Trong vùng rừng núi đó chỉ có độc nhất một con vượn sống đã lâu. Vượn có màu lông đỏ như lửa, người ta gọi là “hỏa hầu”. Những lúc núi phun lửa, vượn vui mừng nhảy nhót, tắm mình trong ánh lửa. Vượn mê thích lửa hồng và hơi nóng, tự nhủ suốt đời sẽ không bao giờ xa ánh lửa. Một thời gian dài, núi không phun lửa. Vượn trông ngóng đợi chờ, ngày càng bồn chồn. Bỗng một đêm khuya, y thấy từ xa một ánh đèn leo lét. Men theo ánh lửa, thì ra đó là trú xá của một tu sĩ. Kể từ đó, y làm bạn với người tu sĩ, ngày ngày hái hoa quả biếu tặng. Vị tu sĩ tụng kinh văn suốt ngày, vượn không hiểu gì nhưng y yêu thích tiếng tụng kinh ngân nga êm đềm ấy. Vượn sống giữa ánh lửa và lời kinh như thế từ năm này qua năm khác. Một ngày kia, bỗng vượn khởi lên tâm ý muốn rời bỏ ánh lửa, tìm một nơi xa lạ. Tâm ý vừa khởi, vượn lập tức thấy mình đã ở cảnh giới khác, nhộn nhịp người qua kẻ lại. Vừa móng ý muốn thành người, hỏa hầu đã biến thành một con người cao lớn, lanh lẹ, quần áo chỉnh tề có sắc hồng nhạt. Trong cảnh giới con người, y sống lẫn lộn không ai hay biết. Y ngạc nhiên nhận ra loài người có tâm ý cực kỳ phức tạp. Họ sống chung với nhau tưởng chừng như trong cùng một thế giới, nhưng cứ mỗi người lại ở một thế giới riêng biệt của mình. Các thế giới tiêng đó hòa vào nhau, tác động lẫn nhau, không trở ngại nhau, như hai nguồn sáng từ hai ánh lửa hòa vào nhau không ngăn lại. Tâm ý loài người càng phức tạp thì mỗi thế giới đầy buồn vui của họ càng biến ảo, chuyển dịch, phát triển không bao giờ ngừng nghỉ. Sống một thời gian, vượn càng ngày càng sợ cảnh giới đầy hạnh phúc và đau khổ của loài người và càng nhớ tới ngọn núi đầy lửa và miền rừng hoang vắng của y. Một ngày kia, y thấy dâng lên trong lòng niềm thèm khát một ngọn lửa hồng. Vừa móng ý, y đã đến một nơi vắng vẻ không người qua lại. Nhìn lên, trời mây đỏ như máu. Bỗng nghe tiếng ai than khóc, y lần bước bên đường. Nhìn người đàn bà kiệt sức, vượn thương xót, lấy nắm cơm bỏ vào tay. Cầm nắm cơm, người đàn bà bỗng la lên “lửa, lửa”, và đưa mắt nhìn vượn vừa sợ hãi vừa ái ngại. Vượn ôm đầu đau đớn: - Thì ra nghiệp lửa của ta nặng đến thế ư, tất cả những gì vào tay ta cũng thành lửa chăng? Bỗng từ đâu xuất hiện một người trẻ tuổi, vẻ mặt buồn rầu. Y xót thương nhìn người đàn bà rồi lại vái chào vượn: - Người hãy hoan hỉ, đó không phải là nghiệp của người, đó là nghiệp của mẹ ta. Vượn phân vân không hiểu sao người kia biết được tâm mình thi người đàn bà bỗng ngước nhìn người đàn ông, mắt đầy bóng tối: - Mục Kiều Liên, con không cứu ta được nữa đâu, tôi nghiệt ta đã quá nặng rồi. Người đàn bà nói xong bỗng sấm trời vang dậy, điện quang sáng lòa, đại địa rung chuyển dữ dội, hất tung vượn lên cao. Vượn vừa uốn mình đứng vững thì nhác thấy trời mây đổi màu, xanh như ngọc. Thoảng nghe tiếng nói của Mục Kiều Liên: - Mẫu thân, mẫu thân vừa tự cứu mình! Lòng vượn dạt dào bâng khuâng, ước mơ trở về lối cũ. Ý vừa khởi, vượn đã về chốn xưa. Giờ đây rừng đã xanh tươi, miệng núi lửa đã trở thành một hồ nước trong xanh. Vượn ngơ ngác nhìn quanh thì thấy một cụ già vừa đến. Vượn vội rùng mình lấy nhân dạng, vái chào hỏi han cảnh vật. Cụ già đáp: - Nơi đây ngày xưa là một vùng núi lửa, không có người ở. Thú rừng và chim muông cũng không hề lui tới. Đặc biệt chỉ có một con vượn lông đỏ sống đến già và chết ở nơi đây. Chỗ người đang đứng chính là chỗ chôn con vượn đó. Lòng vượn nao nao, thì ra mình đã hết nghiệp làm vượn nhưng nghiệp lửa vẫn còn phảng phất nơi nắm xương tàn. Y bỗng nhớ tới vị tu sĩ ngày xưa vô hạn, không biết người đang ở cảnh giới nào. Ý vừa khở, y bỗng thấy người tu sĩ đang tụng kinh văn, êm đềm như xưa. Lắng tay nghe lời kinh văn vẫn khó hiểu nhưng giọng tụng đầy âm thanh du dương sảng khoái. Vận dụng tâm ý loài người, bỗng vượn nghe lõm bõm ra mấy chữ “…muôn sự tại tâm, vạn pháp tại thức…”. Y rùng mình tỉnh ngộ. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Người đạo sĩ bên gốc thông già Vùng nọ, bên triền núi, có một rừng thông cổ. Thông mọc có đến hàng vạn cây, gió thổi rì rào, tiếng thông vi vu suốt ngày không ngưng nghỉ. Trong rừng thông có nhiều loại chim muông, thú vật. Đặc biệt nhất là một loài chim phượng, chúng sống từng đàn nhỏ dăm ba con trên các ngọn thông và chỉ ăn trái cây rụng. Thân phượng to lớn, cành dài hơn thước, đen thẫm. Cổ chim trắng toát, chân và mỏ một màu đỏ đậm. Loài phượng này có tiếng kêu không hay, nhưng dáng bay cực kỳ mạnh mẽ, cánh quạt phần phật trong gió. Một buổi trưa hè kia, rừng thông im vắng không một tiếng động. Loài phượng ngủ nghỉ trong các tàng cây, muông thú như chìm trong giấc ngủ dài. Bỗng xa xa một dáng người đi tới, tốc độ rất nhanh. Nhìn kỹ đó là một người cao lớn, với áo trắng rộng bồng bềnh trong gió. Mặt mày xem ra như một tay võ nghệ, râu ria đầy cằm, lông mày chổi xề. Chân không mang giày vớ, để lộ đôi gót hồng như son. Ngoài một chiếc dép lắc lư trên tay, y không mang theo một hành trang nào khác. Đến giữa rừng thông, y đưa mắt nhìn cỏ cây muông thú, ra chiều khoan khoái. Bỗng y nhíu mày, nhìn một cây thông cổ thụ, thân lớn phải đến mấy người ôm. Rồi rảo bước đến gốc cây, y cất tiếng nói: - Kính chào lão trượng! Mừng người công đức sâu dày, che mát cho cả một vùng rộng lớn. Tiếng nói nghe vang như sấm động. Chim chóc giật mình nghiêng đầu lắng nghe. Bỗng có tiếng thông reo vi vu, âm lực cực kỳ thâm hậu rồi một giọng nói rất trầm phát ra từ cây thông cổ thụ: - Kính chào đạo sĩ. Mời người yên nghỉ. Ta vừa trải qua môt giấc mộng dài. Duỗi chân trong đất đá, gối đầu trong mây gió, không phải là thú vị ư? Thì ra người áo trắng là một vị đạo sĩ. Y ngước nhìn lên cây, thấy cành lá xanh tươi, chim muông quấn quít, ong kiến làm tổ từng đàn. Người yên nghỉ ở đây kể cũng đã hơn trăm năm. Nhưng trước đó, hẳn người lắm nghiệp hồng trần, nợ nần trần thế? - Ha ha, ta làm kiếp người nhiều lần, làm vua quan cũng lắm. Loài người thật đáng xót thương, nên lần nào ta cũng dẫn dắt cho kẻ bần cùng, cứu giúp người cô thế. Như sen mọc trong bùn vẫn tìm cách vươn lên, loài người dù không mấy ai hiểu đạo, họ vẫn hướng về cái đẹp. Ai nỡ làm ngơ! - Lão trượng nói phải. Đáng thương thay, loài người thời nào cũng thế, trước sau phải chịu nhiều đau khổ. Tuyệt đại đa số con người là trong sáng tốt đẹp, nhưng cũng chính đa số đó lại chịu nhiều đau khổ nhất. Thông cổ thụ vi vu, nghe như tiếng thở dài: - Thế giới của loài người cũng như mọi sinh cơ khác chịu ảnh hưởng của qui luật vi lượng thắng đạo (1). Chỉ một nhóm người rất nhỏ quyết định số phận của toàn thể địa cầu. Ngoài ra đâu phải chỉ có loài người tham gia vào quyết định đó. Biết bao tác động của thế giới song hành mà loài người không biết được. Ôi, làm thế nào giải thích cho hết được, ta đành chỉ làm những việc không tên. Đạo sĩ nghĩ ngợi điều gì rồi nói: - Đau khổ hay hạnh phúc khó nói cho tới cùng. Nhưng người đi đêm thấy cây gậy tưởng lầm con rắn và sinh lòng sợ hãi. Con rắn không có nhưng sự sợ hãi lại có thật. Khổ đau cũng như sợ hãi, nó không đáng có nhưng lại có thật. Xoa dịu những niềm đau đó là một hạnh nghiệp rất lớn. Mừng lão trượng đã đạt tới hạnh bồ tát. Thiền sư đi vào chợ, bồ tát giữa chốn triều đình, như thế mới gọi là thượng thừa. Xin hỏi lão trượng kiếp trước người ở đâu? --- 1.“Vi lượng thắng đạo”, tạm dịch “thiểu số chỉ đạo”. Nghĩa: yếu tố có số lượng nhỏ đóng vai trò then chốt trong mọi hệ thống sinh cơ và xã hội. --- Thông cổ thụ trầm ngâm một lúc: - Kiếp vừa qua ta làm quan tại nước Việt, dẫn dắt dân nghèo, dạy nghề ruộng nương, kể cũng nhiều vui thú. Đã hơn trăm năm mà chúng dân vẫn còn nhắc tới Nguyễn Công Trứ (1). Thình lình đàn phượng kêu xao xác. Từ xa bỗng bay tới một con chim cực lớn, sức bay cực kỳ khỏe mạnh. Chim bỗng đậu xuống cây thông cổ thụ, kêu “khặc khặc” mấy tiếng. Đây cũng là một con phượng hoàng, nhưng to gần gấp đôi loài phượng bình thường, lông từ đầu đến chân trắng như tuyết. Đàn phượng bông yên lặng, bay tới gần chim phượng trắng, quì xuống ra vẻ thần phục. Phượng trắng kêu “khặc khặc”, từ từ đến gần lũ chim phượng. Thân chim phát ra một khí lực ghê gớm, vừa mãnh liệt vừa nhu hòa. Thần điêu đi đến đâu, cỏ cây dạt tới đó. Bỗng nhiên thần điêu kêu “khặc” một tiếng, đá tung một còn phượng đánh “chát”. Đàn phượng kêu thất thanh, lùi ra xa. Thần điêu không tha, bay lên thật cao, bất thình lình đâm bổ xuống tấn công chim phượng, rồi lấy đà bay lên lại, điệu bộ hết sức dũng mãnh. Đàn phượng kêu réo thất thanh rồi nhanh chóng bay đi mất. --- 1.Nguyễn Công Trứ, sinh ngày 19.12.1778 làm quan dưới thời Minh Mạng, mất ngày 7.12.1859. Ông là tác giả hai câu thơ: Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.--- Thông cổ thụ bắt đầu tiếng reo vi vu, còn người đạo sĩ trước sau không nói lời nào. Bỗng cổ thụ cất tiếng nói: - Thần điêu, ngươi không biết thương xót lũ chim sao? Chúng muốn thần phục, tôn sùng người. Làm như thế sao đành? Thần điêu cất tiếng nói: - Vì thương xót lũ chim, ta đành phải tấn công chúng! Đạo sĩ bây giờ mới lên tiếng: - Tại sao vì lòng thương mà người làm cho chúng đau khổ? Thần điêu “khặc” một tiếng: - Ta vừa rời bỏ thế giới loài người. Loài chim cũng như loài người, chúng suốt đời đi tìm những nương tựa giả dối. Chúng cần lý thuyết, hệ thống; chúng cần giáo chủ, minh sư; chúng cần hình thức, danh tự; chúng tìm cách xây dựng một tòa nhà mà nội tâm chúng có thể an trú. Cho chúng những cái đó chỉ giúp cho những loại giả hợp đó thêm kiên cố, càng làm cho chúng xa lìa chân lý, đẩy chúng thêm trôi lăn trong biển sinh tử. Thần điêu nói tiếng người hết sức khúc chiết, nghe như một người thầy giáo. Thông cổ thụ bỗng cất tiếng nói: - Người khỏe manh biết đi thì để họ đi, người đi không được thì cần cho họ một chiếc gậy. Đạo bao la như trời biển, cho nên học đạo phải có chỗ bắt đầu. Lý thuyết hệ thống chỉ là phương tiện, nhưng lại là phương tiện cần thiết. Tỉ như họ trò đang ồn ào, thấy giáo phải gõ bàn cho học tro yên, khi học trò yên rồi, tiếng gõ bàn tất nhiên cũng phải dứt. Giọng cây cổ thụ cực kỳ đầm ấm, nội lực phát ra nhu hòa đôn hậu. Thần điều lắc đầu: - Tiếng gõ bàn của thầy giáo ngày hôm nay trong thế giới loài người chỉ gây thêm hỗn loạn. Ta đã thử và vứt bỏ mọi phương pháp. Cuối cùng ta chỉ còn nhắc lại lời của Thích-ca dể nói với muôn loài “ Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy y tự nơi chính mình, đừng y tựa người khác”. Như một chén nước đã đầy, không thể rót thêm được gì. Loài người hôm nay đã đầy mọi lý thuyết và hệ thống, mỗi hệ thống đều đi tìm chân lý, thượng đế, tâm vật… Xin hỏi đạo sĩ, trả lời với loài người sao về chuyện đó? - Đạo sĩ áo trắng nhíu mày: - Đáng thương tay hành tung của ý thức, cưỡi trâu đi tìm trâu không phải là dạy dột lắm sao? Thượng đế chan hòa khắp nơi, đầu cây ngọn cỏ còn có. Ngài ngủ trong dạng đất đã, mơ màng dạng cỏ cây, thức dậy trong dạng muông thú, hoạt động trong dạng con người. Tâm vật như hai mặt của một đồng tiền, chúng hoán chuyển lẫn nhau, sinh thành ra nhau, không có cái nào trước, cái nào sau. Như ngươi vừa từ trên cao đâm xuống xua đuổi lũ chim, độ cao và tốc độ đã sinh thành ra nhau, cái này mất thì cái kia có, cái này giảm thì cái kia tăng. Vậy nên: Thần dữ vật Nhất tụ nhất tán, nhất tiến nhất thoái Nhất động nhất tĩnh, nhất hạp nhất tích Đồng qui nhi thù đồ (1) --- 1.Tạm dịch:Thần đối với vật Một tụ một tán, một tiến một thoái Một động một tĩnh, một đóng một mở Khác lối nhưng cùng về--- Trên cành cây, đàn chim phượng đã trở lại lúc nào không rõ, nghiêng đầu lắng nghe, im lặng không dám kêu tiếng nào. Đạo sĩ nhìn thần điêu: - Krishnamurti(1), ngươi là thầy của các bậc thầy, hãy tùy phương tiện mà chữa bệnh cho chúng sinh. Nói xong, đạo sĩ quay người đi thẳng. Thần điều trân trối nhìn theo, gọi lớn: - Đạo sĩ, người là ai? Đạo sĩ cười ha hả: - Sự vật không có hình tướng, không có danh hiệu, sá gì một cái tên người đời đặt cho. --- 1.Krishnamurti được xem là thầy của các bậc thấy trong thế kỷ 20. Ông sinh ra ngay 25.5.1897 tại Mandras trong một gia đình Ấn Độ. Năm 15 tuổi, người ta đã khám phá ra ông là một “thánh nhân” và đưa sang Anh Quốc giảng dạy trong khuôn khổ một giáo phái. Sau một thời gian thử nghiệm, ông giải tán “Hội ngôi sao Đông phương”, vứt bỏ mọi lý thuyết hệ thống, từ chối mọi phương pháp kỹ thuật, kể cả những phương pháp cổ điển như tham thiền. Ông đi mọi nơi, chuyện trò với mọi giới, kể cả học sinh trung học, chỉ cho họ thấy “cơ chế tâm lý” của mọi khái niệm vốn là giả hợp, danh tự. Theo cách nhìn của đạo Phật, ông chủ trương “kiến tánh thành Phật”, Henry Miller đã nói về ông “Sau một thời gian dài khổ công tìm kiếm, tôi đã tìm được vàng ròng”. Krishnamurti mất ngày 14.12.1986. --- Tiếng cười vang động cả một vùng sơn cốc. Thần điêu đậu trên cao, nhìn theo dáng đạo sĩ ngày càng xa, lung linh trong nắng. Y nhìn theo chiếc dẹp lắc lư trên tay đạo sĩ, bỗng nhớ ra điều gì, “khặc” một tiếng rất lớn rồi vừa bay theo vừa gọi: - Bồ đề Đạt ma (1) xin đợi, cho ta hỏi một lời! Gió bỗng thổi mạnh, thông cổ thụ reo vi vu trong nắng. --- 1.Bồ đề Đạt ma, Sơ tổ của thiền Trung Quốc. Theo truyền thuyết, Đạt ma là tổ thứ 28 sau Thích-ca Mâu-ni của dòng Thiền Ấn Độ, sinh năm 470. Năm 520, Đạt ma từ Ấn Độ đến Trung Quốc, giảng pháp cho Lương Vũ Đế không thành, lên núi Tung Sơn, đến Thiếu Lâm tự. Ở Thiếu Lâm tự, Đạt ma áp dụng phép “diện bích”, ngồi nhìn vào tường chín năm trời. Sử không nói rõ Đạt ma mất tại Thiếu Lâm tự hay rời Trung Quốc về Ấn Độ sau khi ngài truyền ấn lại cho Nhị tổ. Theo một truyền thuyết khác thì Đạt ma sống tới 150 tuổi và được chôn tại Hồ Nam. Sau đó có người thấy Đạt ma trên núi Hồng Nhĩ, tay cầm một chiếc dép. Về báo cho học trò, học trò đào tháp lên thì thấy trong quan tài không có gì cả, chỉ còn một chiếc dép. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Gã chèo đò và sáu cây chùy Vùng nọ, trên bến sông, có một gã chèo đò gốc gác từ đâu không ai rõ. Không có vợ con gia đình, y sống bằng nghề chèo đò ngày này qua ngày khác. Đặc biệt, trên chiếc đò, y luôn luôn đem theo sáu cây chùy. Chùy bằng gỗ lim, năm cây có hình dáng giống nhau, riêng cây thứ sáu lớn gấp đôi các cây kia. Những đêm trăng sáng, y chèo thuyền ra giữa dòng sông, múa chùy suốt đêm, la hét om sòm. Y đổi từ chùy này qua chùy khác, nhưng không hế thấy y đụng tới cây chùy thứ sáu. Nhiều người lấy làm lạ, hỏi chuyện múa chùy, y trả lời: - Ta múa chùy chống mấy tên giặc. Rồi cười ha hả nói tiếp: - Người đời cho rằng có năm tên giặc, ta bảo rằng sáu, nên có sáu cây chùy. Không ai hiểu gì cả, vì vùng này làm gì có giặc, nhất là chẳng có ai gây sự với một gã chèo đò như y. Trẻ con tò mò hỏi sao y không múa cây chùy lớn, y bảo: - Cây chùy này đặc biệt, công lực của ta chưa sử dụng được. Càng không ai hiểu. Càng ngày y múa chùy càng nhiều, có lúc múa không kể ngày đêm. Một chiều nọ, bên bờ sông, trẻ con thấy y lảo đảo tay ôm mặt, tay ôm chùy. Thì ra trong lúc múa chùy, y vô ý tự đập vào mặt mình. Vài ngày sau người ta thấy y mù cả đôi mắt, đang quờ quạng trên bến sông. Sau đó vào một đêm trăng sáng, có người thấy y ra giữa dòng sông ném một cây chùy trôi theo dòng nước. Hỏi, y trả lời: - Mắt đã mù rồi, đâu cần cây sắc chùy nữa. Giọng nói ra chiều sảng khoái. Sau khi mù, công lực y lại ngày càng mạnh mẽ. Y bắt đầu múa cây chùy lớn, gió lộng ù ù. Thời gian sau, người ta thấy y chỉ múa chùy lớn, không thấy đụng tới các cây chùy nhỏ. Nhiều đêm y lấy một cây chùy nhỏ tên gọi là “thanh chùy” gõ mạn thuyền mà ca. Lời ca khó hiểu, tiếng ca khàn đục, nhưng âm sắc vô cùng thanh thản. Một buổi sáng trên bờ sông, trẻ con thấy y múa chùy như vũ bão. Bỗng y dừng lại rất lâu rồi “chat” một cái, y đập mạnh cây chùy lớn xuống mặt nước. Công lực gã chèo đò thật kinh người. Cây chùy bằng gỗ lim đập xuống dòng nước mà vỡ ra từng mảnh, bập bềnh trôi trên sông. Trẻ con tiếc rẻ chạy theo cây chùy, y cười ha hả mà rằng: - Một niệm cũng không còn thì cần cây chùy này làm gì nữa. Sau đó gã chèo đò bỏ đi đâu cũng không ai rõ. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Tên tiểu đồng trên cây đào tiên Ở cảnh giới nọ, có một tên tiểu đồng tử lai lịch không ai rõ. Dáng người y cục mịch. Hai bên trán, tóc để hình hai trái đào, ai nấy cũng thương mến, muốn xoa đầu. Y suốt ngày rong chơi không chịu tu tập. Mỗi buổi sáng lúc chúng hội tụ tập nghe bồ tát giảng kinh, thuyết pháp, thì không ai thấy y đâu cả. Bồ tát dùng thiên nhãn sáng soi thường thấy y ngồi trên cây đào tiên hái trái. Gần chốn vườn đào có một ngọn núi đá hoa cương. Núi cao lớn hùng vĩ, đá hoa cương bong ngời dưới ánh sáng, hòn núi toát ra một cương khí ngất trời. Cho dẫu là một tên đồng từ nghịch ngợm, không biết sợ là gì, y cũng chưa bao giờ dám leo lên núi. Một ngày kia, bỗng có một lão trượng tới từ đâu không rõ, tay cầm một miếng vải nhung. Lão trượng thoăn thoắt leo lên núi, lấy khăn nhung chùi đỉnh núi một cái rồi leo xuống, điệu bộ dễ như trở bàn tay. Tên đồng tử ngây người đứng nhìn, lòng vô cùng khâm phục. Y chạy tới vái chào hỏi han lão trượng, người đáp: - Ta leo lên chùi núi đá để hiểu thế nào là “thời gian”. Lần đầu tiên nghe nói đến hai chữ “thời gian”, đồng tử không hiểu là gì, lại càng không hiểu tại sao phải chùi núi đá mới hiểu được thời gian. Y đoán thầm đây là một phép tu khổ hạnh đặc biệt. Thấy lão trượng hiền từ, y hỏi tiếp: - Tại sao chùi núi đã mới hiểu được thời gian? - Trong kinh, Thích-ca có nói về “thời gian, quá khứ, hiện tại, vị lai”. Ta không hiểu thời gian là gì, và chúng hội ở đây cũng không ai biết. Đọc kinh sách ta biết rằng muốn hiểu được thời gian là gì chỉ có một cách là mỗi lần hoa đào nở thì leo lên đỉnh, dùng miếng vải nhung này mà lau núi đá. Cứ như thế cho tới lúc núi đã mòn hết thì đó là một “tiểu kiếp”. Cứ năm trăm “tiểu kiếp” là một “đại kiếp”. Ta lau núi đá gần một đời mà xem ra chưa thấm vào đâu với một “tiểu kiếp”. Mới hay thời gian là tuyệt đối vô cùng, vô tận. Tên đồng tử nghe xong lắc đầu le lưỡi, tưởng tượng ngẫm nghĩ; cố gắng tới mấy y vẫn nghĩ không ra bao giờ núi mới mòn, càng không hiểu thời gian là gì. Một hôm tên đồng tử ngồi trên cây đào nghe chúng hội đi phía dưới tụng đọc: Đức Thế Tôn cao cả Ba cõi chẳng ai bằng Không hiểu “ba cõi” là gì nhưng sợ bị la mắng không lo tu học, y không dám hỏi chúng hội cũng chẳng hỏi han bồ tát, y đành nắm áo hỏi lão trượng: - Tiểu đồng tử xin hỏi “ba cõi” là gì? - “Ba cõi” chính là không gian vô cùng vô tận. Tên đồng tử vẫn chưa hiểu: - “Không gian” đo đâu sinh? - Đồng tử hỏi chuyện ngớ ngẩn, không gian có sẵn, không sinh không diệt. Y vẫn không hiểu rõ lắm không gian là gì, chỉ biết đại khái không gian to lớn lắm. Càng lớn, y càng ham chơi không chịu tu học. Ngồi tham thiền, y thấy đau lưng, kinh văn thì khó hiểu, tụng đọc càng mau chán. Một ngày kia, y khám phá trên cây đào tiên một trái đào đỏ chín to lớn chưa từng thấy. Y vội hái trái đào, nhưng trước khi ăn, y cẩn thận bẻ trái đào ra. Trong ruột trái đào bỗng bò ra một đàn kiến. Y đang mứng suýt phải ăn nhằm kiến, bỗng nghe tiếng ai nói: - Chư huynh đệ, đây là đâu? Đồng tử ngơ ngẩn nhìn quanh, không thấy ai cả. Y nhìn lại thì mới phát hiện kiến biết nói. Y khoái chí nhìn đàn kiến, lắng nghe chúng nói chuyện. Mấy tên kiến nhìn quanh quẩn, bỗng một tên cất tiếng nói: - Chưa biết đây là đâu nhưng rõ ràng chúng ta đã tự giải thoát khỏi cảnh giới loài kiến chúng ta. Tên đồng tử cười thầm “Ruột trái đào mà cũng gọi là cảnh giới, nghe đúng giọng các tên mọt sách”. Một tên kiến khác lên tiếng: - Chúng ta tu dưỡng đã lâu, nay vừa tới ngày đắc đạo. Đồng tử muốn cười thành tiếng “Nếu ta không bẻ trái đào ra thì chúng bay đã nằm trong bụng ta rồi, liệu còn đắc đạo nữa ư?”. Một tên kiến khác trầm ngâm chưa nói, bây giờ mới lên tiếng: - Chúng ta tu học biết bao nhiêu kiếp, kể ra cũng vài trăm năm chứ không vừa. Nghe tới đây tiểu đồng tử nhớ lão trượng và “tiểu kiếp” của lão vô cùng. Y không hiểu “vài trăm năm” là gì, nhưng nghe có vẻ lâu dài lắm. Nhưng đào này cũng mới kết trái đây thôi thì có gì là lâu? Bỗng một tên kiến quy đầu nhìn một tên khác, hỏi: - Đại sư huynh, phong cảnh thế giới này hình như có gì hơi khác. Tên kiến này được gọi là “đại sư huynh” nhưng thân hình y lại nhỏ con nhất trong bọn, trước giờ chưa nói tiếng nào, râu ngo ngoe mấy cái rồi phán: - Ta ngờ rằng chúng ta đã qua một không gian khác, khác với không gian loài kiến của chúng ta. Đồng tử lại cười thầm “Từ ruột trái đào chui ra thì tất nhiên là khác rồi, có gì mà ngờ với không ngờ”. Tên kiến sư huynh nói tiếp: - Không gian tùy theo nghiệp của chúng sinh mà sinh diệt. Loài kiến chúng ta là một loài sống trên mặt phẳng, nên không gian của chúng ta là mặt phẳng, không gian chúng ta chỉ có hai chiều, bề ngang và bề dọc. Nghe tới đây, tên đồng tử tự nhủ “Ruột trái đào thì tròn, nhưng các tên kiến bé nhỏ nên chúng cứ tưởng sống trên mặt phẳng, ha ha”. Đàn kiến yêu lặng nghe sư huynh của chúng giảng tiếp: - Vì vậy, chúng ta không thể tưởng tượng ra và cảm nhận được các loại không gian khác nhiều chiều hơn. Trong kinh sách có nói về không gian của một loài tên gọi là “loài người”. Không gian của các vị ấy có tới ba chiều. Ngoài chiều ngang và chiều dọc như chúng ta, họ còn có một chiều nữa gọi là “chiều cao”. Thời gian và không gian của loài ngươi khác hẳn thời gian và không gian của chúng ta. Thân thể họ lớn gấp muôn lần thân thể chúng ta, thọ mạng họ cũng dài gấp muôn lần đời sống chúng ta. Lần đầu tiên nghe nói đến hai từ “loài người”, nên tên đồng tử chú ý lắm. Đàn kiến ngơ ngẩn không tưởng tượng ra nổi làm sao có ai lớn gấp muôn lần thân thể chúng và sống được lâu dài như vậy, nhất là chúng không sao nghĩ ra được chiều thứ ba. Có tên có vẻ không tin lắm những gì sư huynh chúng nói, cất tiếng: - Thật ra tiểu đệ cố gắng hết sức rồi mà không nghĩ ra chiều thứ ba chạy hướng nào. Chiều hướng nào rồi cũng qui lại trên hai chiều ngang dọc cả. Theo ngu ý của tiểu đệ thì không gian không thể có chiều thứ ba. Tên kiến này nói “ngu ý” nhưng giọng điệu y nghe rất tự tin, y vốn là nhà toán học trong đàn kiến. Tên sư huynh vẫn kiên nhẫn: - Tâm sanh ra thân nhưng rồi tâm lại bị thân trói buộc. Thân kiến của chúng ta là loài chỉ bò trên mặt phẳng nên tâm cũng chỉ cảm nhận được hai chiều. Thì cũng tương tự như thế, loài người họ cũng không thể tưởng tượng ra được không gian có thể có bốn chiều hoặc nhiều hơn vì thân họ thuộc loại sống trong không gian ba chiều. Bỗng một tên kiến cất tiếng hỏi: - Sư huynh nói chúng ta “cảm nhận” không gian hai chiều thôi chứ thực sự không phải thế, thì tiểu đệ xin hỏi không gian tự nó như thế nào? - Tên kiến này nhấn mạnh hai chữ “tự nó”. Tên đồng tử cười thầm. Y nhớ rắng đã hỏi lão trượng, không gian do đâu sinh và thầm nhủ “Tên kiến này hỏi một câu có vẻ được đây!”. Kiến sư huynh ngo ngoe râu mấy cái rồi đáp: - Không gian do “không” sinh ra. “Không” này là “không” bát nhã, trong “không tức thị sắc, sắc tức thị không” mà chư huynh đệ hay tụng đọc đó. Tên đồng tử nghe nói lắc đầu “Thì ra loài kiến nhãi nhép này cũng tụng đọc một thứ kinh sách như chúng hội thường đọc”. Thấy các tên sư đệ chưa hiểu, kiến sư huynh tiếp: - Trong “không” chứa sắc, chứa cả tâm lẫn vật. Tâm tùy nghiệp lực mà sinh ra thân vật chất rồi thân cảm nhận ra một không gian xung quanh mình. Không gian đó phù hợp với tính chất của thân vật chất. Đồng tử nhớ lão trượng nói không gian “có sẵn”, bây giờ lại nghe tên kiến sư huynh này nói không gian do tâm thân dựa lên nhau mà có, y cảm thấy phân vân. Tất nhiên y tin lão trượng hơn tin loài ong kiến, nhưng nghe tên kiến sư huynh này lý giải, văn phong khảu khí có vẻ giống giọng bồ tát, y cũng có phần nể nang, không biết làm sao. Một tên kiến khác cất tiếng hỏi: - Như thế khi chư Phật không còn thân vật chất nữa thì không gian cũng diệt theo luôn hay sao? Niết bàn như thế chỉ là một cảnh giới hư vô đâu còn gì thú vị! Đồng tử nghe nói câu này lấy làm hợp ý vô cùng. Tên kiến sư huynh bác ngay: - Danh tự của loài kiến chúng ta cũng như của mọi loài vốn là phương tiện của thân bày ra nên danh tự không thể diễn đạt những gì nằm ngoài phạm vị của thân. Như loài tôm cá sống dưới nước, chúng không thể hiểu được đời sống trên đất liền như chúng ta. Bởi vậy không thể dùng danh tự thông thường để mô tả niết bàn. Ở đây nói sao cũng mê cả, không phải là ngộ. Đàn kiến nghe tới đây có vẻ hoang mang cực độ, tên kiến sư huynh nói tiếp, giọng ân cần an ủi: - Loài kiến chúng ta bị trói buộc trong thế giới hai chiều nên không hiểu các cảnh giới khác. Không gian và thời gian mỗi cảnh giới khác nhau vô cùng vô tận, nhưng tâm lại đồng nhất một thể. Như nước có khi ở dạng lỏng, có khi ở dạng băng tuyết, khi thành hơi sương, nhưng chỉ là một chất nước. Cũng thế, các loài trong thế giới khác nhau vì hạnh nghiệp của chúng, nhưng cùng một thể. Cho nên tâm phật và tâm kiến chúng ta cũng đều là một. Nghe tới đây đàn kiến cực kỳ phấn khởi. Tên đồng tử bỗng thấy một mùi thơm hết sức quyến rũ. Y quay lại, thì ra một trái đào đỏ mọng, thơm ngon chưa từng thấy. Y liền vươn tay bẻ trái đào. Vừa cầm trái đào trong tay, bỗng nghe “rắc” một tiếng, cành đào dưới chân y gãy đôi, y ngã lộn nhào xuống gốc cây, mê man bất tỉnh. Chúng hội đang nghe giảng kinh, bỗng thấy bồ tát mĩm cười khó hiểu. Lúc tên đồng tử ngã xuống gốc cây, tại thế giới mà tên kiến sư huynh gọi là “thế giới loài người” đang trải qua những ngày hè nóng nực của năm 1878. Mùa xuân năm sau, một đứa bé mở mắt chào đời, mặt mày bầu bĩnh. Cậu bé càng lớn càng không thích học hành, suốt ngày rong chơi. Đến khoảng 15 tuổi, y bị nhà trường đuổi học vì lý do “sự hiện diện của y chỉ làm phiền nhà trường và làm cho học sinh mất hết sự kính trọng đối với thầy cô”. Hơn mười một năm sau, cậu học trò ngỗ nghịch đó được cả thế giới biết tới tên tuổi. Lúc đó tuổi mới 27, tên y là Albert Einstein (1). Lúc mở mắt tỉnh dậy thì đồng tử vẫn còn thấy mình nằm dưới gốc đào tiên. Y ngơ ngác nhìn quanh thì thấy lão trượng, lão mừng rỡ lên tiếng: - Ngươi đã tỉnh dậy rồi ư? Ngươi bị ngã trên cây xuống mê man bất tỉnh đã hơn ba ngày làm ta rất lo lắng! --- (1) Eistein (1879 – 1955), giải Nobel 1921, được xem là thiên tài của ngành Vật lý trong thế kỷ này. Với “thuyết tương đối đặc biệt”, ông đã chứng minh rằng thời gian và không gian phụ thuộc vào trạng thái di chuyển của vật chất. “Thuyết tương đối tổng quát” đã chứng minh sự hiện hữu của vật chất đã làm “co giãn” thời gian, “méo mó” không gian. Nhờ Einstein, ngày nay người ta biết rằng chính vật chất và sự vận động của nó đã phát sinh ra thời gian và không gian. Thời gian và không gian là “thuộc tính”, là “phát biểu” của vật chất. Không có một sân khấu bất di bất dịch mà chính là diễn viên ở đâu thì ở đó có sân khấu. Không có diễn viên thì không có sân khấu. --- Tên đồng tử nhớ lại điều gì, đáp: - Thưa lão trượng, tiểu đồng tử thì ra đã rời cảnh giới này đi sống một thế giới khác. Ở đây ba ngày mà ở đó gần trăm năm. Lão trượng ngạc nhiên hỏi: - Thế ư, ngươi còn nhớ đã đi đến đâu không? - Tiểu đồng tử lần đầu tiên mới biết thế giới loài người. Lão trượng kinh ngạc, lẩm bẩm: - Thế ư, thì ra ngươi cũng đã đến đó rồi ư? Nghe thế, đồng tử ngạc nhiên: - Lão trượng cũng đã từng làm người hay sao? - Haha, dòng dõi cũng như sự nghiệp của ta trong giới loài người phải kể vào hàng danh gia vọng tộc. Tên ta, loài người gọi là Issac Newton (1). --- (1) Newton (1643 – 1727) được xem là người mở đường cho nền cơ học của loài người. Là một bá tước người Anh, ông đã thống nhất công trình của Kepler, Galilei, Guericke trong một hệ thống cơ học vững chắc và hoàn chỉnh. Ông cũng là người phát biểu nguyên lý của động lực học và nguyên lý hấp dẫn của trường trọng lực. Trong hệ thống cơ học này, Newton xem không gian và thời gian là tuyệt đối, cố định, liên tục. Vật chất vận động trong không gian cũng như diễn viên trình diễn trên một sân khấu có sẵn. Sân khấu lúc nào cũng tồn tại, độc lập với diễn viên. --- Tên đồng tử nhớ ra điều gì, y nhìn lão trượng đang cầm chiếc khăn nhung trong tay, ôm bụng cười ha hả. Chúng hội đang nghe giảng kinh, nhíu mày thầm trách tên tiểu đồng làm ồn. Bồ tát lại mĩm cười khó hiểu. Dưới tòa sen, một đàn kiến vừa bò ngang, râu ngo ngoe. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Bên đàn vịt trời Có một vùng hồ núi, cỏ cây xanh tốt, ít người qua lại. Vùng này nhiều đầm lầy, sinh vật sống từng đàn, không thiếu loài gì. Quanh năm khí hậu điều hòa, loài chim trốn lạnh thường về trú ẩn nơi đây. Đặc biệt vùng này rất nhiều giống vịt trời, bay lượn từng đàn, chúng có bộ long màu xám thẫm. Vùng này vốn ít người lui tới, nên đàn vịt trời rất dạn dĩ, càng ngày sinh sản càng đông. Một buổi sáng nọ, nghe đâu đây văng vẳng có tiếng trẻ con ca hát. Loài vịt vội bay lên ngọn cây, nghiêng đầu lắng nghe. Tiếng hát vừa rõ tìh một đám trẻ con đi tới. Đi sau các đứa trẻ là một lão trượng mập mạp, mặt mày tươi vui, lưng đeo một cái túi lớn. Trẻ con vừa thấy hồ nước và đàn vịt trời, reo hò ầm ĩ. Đàn vịt phành phạch vỗ cánh, lão trượng nhìn theo, cười vui lẩm bẩm: - Đàn chim bay đi, bầu trời lại yên tĩnh. Trẻ con vừa tản ra đi chơi bốn phía, loài vịt lại hạ cánh bên hồ. Lão trượng lại lẩm bẩm: - Lúc tụ, lúc tán, pháp cứ thế mà sinh diệt. Bỗng đàn vịt xao xác sợ hãi. Lão trượng quay người lại thì thấy một nhân trạng hình thù quái dị. Y mang cái bụng to như cái trống. Cổ y cực dài, ốm nhỏ như ống trúc. Tứ chi lỏng khỏng, đi không giống đi, bò không giống bò, mắt gần như hai ngọn đèn, mặt mày xem ra cực kỳ đau khổ. Lão trượng chưa kịp nói gì, bỗng nhân trạng quái dị kia nhoài người chụp một con vịt trời. Vịt trời đã nhanh mà y còn nhanh hơn. Y tóm cổ một con vịt trời đưa lên miệng định nuốt sống. Cổ y phát ra một tiếng “ục, ục” cơ hồ đắc chí. Vừa đưa lên miệng, y bỗng bỏ xuống, buông thả con vịt trời đang kêu quàng quạc. Mặt mày quái nhân càng thêm đau khổ, nước mắt tuôn chảy từng dòng. Lão trượng bỗng cất tiếng nói: - Ngạ Sa, đáng thương thay, ngươi chỉ ăn được cháo lỏng. Ngạ Sa khóc lên thành tiếng, vừa đi vừa bò, la liếm trên cành cây ngọn cỏ, phút chốc đã bỏ bờ hồ xanh biếc đi mất dạng. Lão trượng nhìn theo, suy nghĩ điều gì không ai rõ. Bỗng có ai cất tiếng nói: - Xin hỏi lão trượng, Ngạ Sa là loài gì? Lão trượng quay người lại, thì ra là một con vịt trời. Con vịt trời này giống hệt những con vịt khác, chỉ khác chỗ màu long trắng bạc. Lão trượng mĩm cười nhìn vịt lông trắng: - Ngạ Sa là một loài chúng sinh gần như loài người, nhưng hạnh nghiệp của chúng phần nhiều xấu ác. Nghiệp nặng nhất của chúng là tham lam, hiện thành nghiệp đói. Vịt lông trắng rùng mình mấy cái: - Chịu nghiệt đói sao y không ăn được, chỉ ăn cháo lỏng? - Đó chính là ác nghiệp đã nhiều đời chồng chất. Bụng y đã đầy thức ăn, không chứa chất thêm được nên cổ họng y nhỏ như sợi chỉ. Vì không ăn được, y lại càng thèm khát. Vịt lông trắng nhìn đàn vịt đang kiếm ăn bên bờ hồ, nghiêng đầu lắng nghe tiếng cười của trẻ con đâu đó: - Sung sướng thay cho loài người, không phải chịu ác nghiệp như vậy. Lão trượng cười đôn hậu: - Người tưởng loài người không có nghiệp tham lam sao, không có nghiệp đói sao? Nếu có loài thèm khát thức ăn thì cũng có loài thèm khát những điều vi tế hơn như cái mà loài người gọi là danh vọng, tri thức, trình độ, niết bàn… Vịt lông trắng nhớ lại tướng Ngạ Sa mà còn rùng mình: - Nhưng hình tướng loài người đẹp đẽ hơn loài Ngạ Sa! - Nghiệp tham lam thuộc thân thì sanh quái dạng ở thân, nghiệp tham lam thuộc tâm thì sanh quái dạng ở tâm, đâu có gì khó hiểu. Ngươi không thấy, chứ quái dạng thuộc tâm còn muôn hình muôn vẻ, còn đáng sợ hơn quái dạng thuộc thân. Biết bao chúng sinh mang dạng người mà hành xử còn hơn loài yêu quái. Vịt lông trắng tỏ vẻ nghi ngờ: - Theo lời lão trượng thì như thế không có gì khác biệt nào giữa loài người và súc sinh. Loài người có ý thức tất phải khác loài không có nghĩ suy. Lão trượng thở dài một tiếng: - Ý thức chỉ là phần cạn cợt của tâm, đâu phải là cốt lõi. Người đang mang dạng súc sinh, người vẫn có ý thức đó. Khác biệt giữa người và súc sinh và tất cả chúng sinh trong cõi ta bà này nằm ở hạnh nghiệp của chúng mà thôi. Nghiệp làm cho chúng cảm ứng với cái đẹp cái xấu, nghiệp làm chúng sinh thấy ra cảnh giới của mình, nghiệp chủ động sinh ra hình tướng thuộc tâm, thuộc thân. Lão trượng nhìn vịt lông trắng chăm chú: - Vịt trời lông trắng, ngươi sẽ làm kiếp người và hãy nhớ mọi suy nghĩ, hành động không xuất phát từ ý thức mà xuất phát từ nghiệp. Ngươi gọi nghiệp là “bản năng” hay “tiềm thức” hay “vô thức” tùy người, còn ý thức chỉ có nhiệm vụ kiểm soát tư duy và hành động cho hợp với những lề luật do xã hội loài người đặt ra. Vịt trời lông trắng ngẩng đầu nhìn lão trượng: - Hành tung của nghiệp kỳ bí như thế, làm sao nắm bắt được nó? Lão trượng ha hả cười: - Như con mắt nhìn được muôn vật, nhưng không thể tự thấy. Đúng là khó hiểu được nghiệp của chính mình. Nghiệp tạo ra thân tâm và cảnh giới, rồi chính thân tâm và cảnh giới tiếp tục tạo ra nghiệp, cứ ròng rã như thế. Sự vật cứ dựa lên nhau mà có, mà biến hóa, mà sinh thành. Trong quá trình đó, không có gì bất biến, không có ngã. Người hãy theo dõi những loại nghiệp ngắn ngủi như một cơn giận dữ, một phút giây sợ hãi của chính ngươi, may ra ngươi có thể hiểu được nghiệp của mình. Vị trời lông trắng cúi đầu ngẫm nghĩ. Bỗng đàn vịt bên hồ xôn xao sợ hãi, bay tán loạn. Sau tàn cây, hình thù Ngạ Sa xuất hiện. Mới qua một giây mà bây giờ Ngạ Sa đã già yếu, mặt mày thiểu não cực độ. Cổ y bây giờ như cây tăm, có lẽ y không tìm đâu ra cháo lỏng. Ngạ Sa bò lết đến trước mặt lão trượng, cất tiếng người: - Lão trượng, xin cứu đệ tử! Vừa nói, y vừa nhìn túi vải trên vai lão trượng. Lão trượng cười hiền hậu, giơ tay vung túi vải như một đám mây trắng chụp trên đầu Ngạ Sa. Trong túi vải đổ ra vô số kẹo bánh. Ngạ Sa vừa mừng rỡ, bỗng nhớ ra điều gì, nước mắt lại hai hàng. Lão trượng gọi lớn: - Ngạ Sa, người chỉ ăn được cháo lỏng! Vừa nghe tiếng gọi, Ngạ Sa thấy túi vải biến thành một cái nồi cực lớn, bánh kẹo đã biến thành cháo trắng, lỏng như nước. Y say sưa húp cháo, húp tới đâu cảm thấy sinh lực tràn trề tới đó. Một giọt nước mắt còn đọng lại trên mặt nhỏ xuống nồi cháo, Ngạ Sa sực nhớ điều gì, ngẩng đầu hỏi lão trượng: - Lão trượng, tại sao bánh kẹo bây giờ lại hóa thành cháo lỏng? Lão trượng nhìn trừng trừng Ngạ Sa, quát: - Ngạ Sa, nếu chính người không biết điều đó thì ai biết? Tiếng quát cực lớn, vang động cả một vùng hồ núi. Ngạ Sa ngơ ngác một giây, rồi nấc lên một tiếng, ngã gục bên túi vải đầy kẹo bánh. Lão trượng mĩm cười đưa mắt nhìn lên, trên không tự nhiên vang lên tiếng người: - Kính lễ Bồ Tát Di Lặc. Lão trượng quay nhìn vịt trời lông trắng: - Lành thay, chỉ một tiếng quát mà Ngạ Sa đại ngộ, bỏ được nghiệp quỉ đói. Trẻ con vừa trở lại, thấy lão trượng nói chuyên với vịt trời, ngạc nhiên hỏi: - Lão trượng, loài vịt hiểu được tiếng người sao? Vịt trời lông trắng sẽ làm kiếp người, loài người gọi y là Konrad Lorenz (1). --- 1. Konrad Lorenz, (1903 – 1989), là nhà bác học nổi tiếng người Áo, một trong những nhà sáng lập thuyết ‘tập tính học” hiện đại, chuyên nghiên cứu “thái độ và cách phản ứng của loài người và loài vật”, nhất là loài chim. Ông cho rằng động lực của mọi phản ứng là “bản năng”, vốn do tác động qua lại của các “gen” bẩm sinh. Năm 1973, ông được lãnh giải Nobel về y khoa với hai động nghiệp khác. Công trình của Lorenz có ảnh hưởng sâu đậm trong ngành y khoa và tâm lý học. Ông yêu mến đặc biệt loài vịt trời. Lúc lên năm tuổi, ông đã thích chơi với vịt trời và giữ niềm vui đó cho đến cuối đời. Nguyễn Tường Bách Đêm qua sân trước một cành mai Chuyện người văn sĩ Vùng nọ, có một người lữ hành cô đơn không ai bầu bạn. Suốt mấy mươi năm y rong ruổi từ vùng này qua vùng khác, không chủ ý, định hướng gì rõ rệt. Đời sống và hoàn cảnh thay đổi như dòng nước chảy mau, tâm tư y cũng thăng trầm nhiều nỗi, nhưng dần dần đọng lại một điều gì khó tả. Một buổi sáng nọ, trên một hoang đảo đầy nắng, trong cơn mơ tỉnh, dường như có ai kể cho y nghe một câu chuyện ngắn. Tỉnh dậy, y ghi lại câu chuyện khó hiểu lên giấy. Như mạch nước được khơi, kể từ đó y bắt đầu viết văn, tự cho mình đã trở thành một văn sĩ. Như những lần rong rủi đường dài, y miên man trong thế giới tư tưởng nhiều màu sắc, đầy tự do phóng khoáng. Truyện của y viết ra như nỗi niềm ào ào tự ý tuôn trào, không trau chuốt, không giải thích. Bởi vậy không mấy ai hiểu và yêu truyện của y. Y thầm nghĩ “Ý tứ của ta đối với người hiểu rồi thì hóa ra dư thừa, còn đối với người chưa hiểu lại là tối tăm, hoang đường giả tạo; mi viết ra làm chi!”. Nhưng rồi y lại tự nhủ “Mọi sự trên đời, từ nhận thức đến cảm giác, đổi với người đời cũng đều như thế, hỡi tên văn sĩ quèn, mi đừng thắc mắc”. Yêu văn chương của y nhất lại chính là y. Viết được một vài câu chuyện, y đóng thành một tập truyện. Rong ruổi trên đường, lúc nào y cũng mang theo tập sách đó trong túi đeo vai. Những lúc nghỉ ngơi, y lấy tập truyện đọc say mê như đọc lần đầu. Đến một ngày, chàng văn sĩ thấy mình không còn ý tứ viết truyện gì nữa. Tâm tư và quan sát nằm lạc loài từng mảnh không sao kết hơp được. Y giở tập truyện cũ ra đọc lại, cố tìm thử những bí quyết văn chương. Càng đọc, y càng yêu văn mình, càng mong viết được những chuyện tương tự. Ngày qua ngày, người văn sĩ càng già yếu. Y không viết được câu chuyện nào nữa. Rong ruổi đường dài, đã bắt đầu gối mỏi chân mòn, túi vải đeo vai ngày càng nặng. Tâm tư chỉ còn văng vẳng những mẩu chuyện đã viết, y buồn rầu tự nghĩ “Văn nghiệp của ta chỉ chừng đó thôi ư?”. Bây giờ y không còn đọc tập truyện, vì sau nhiều năm y đã thuộc lòng rồi. Một ngày kia, trên bước đường phiêu bạt, người văn sĩ già đến bên bờ một con sông nhỏ. Bên kia sông, cảnh vật xanh tươi, khác hẳn con đường đất đỏ phía bên này. Người văn sĩ bây giờ đã già yếu cực độ, y đã vứt bỏ mọi thứ trong túi đeo vai cho bớt nặng, chỉ còn giữ lại tập truyện. Y không còn sức bơi qua sông, chỉ đi lần theo bờ. Bỗng thấy xa xa một chiếc cầu, y mừng rỡ đi nhanh tới cầu. Vừa bước lên bực thềm, chân y run rẩy ngã sóng soài. Túi vải đập lên ngực như một cú đấm trời giáng. Người văn sĩ già đau đớn muốn gục. Y bổng nổi cơn giận dữ nhìn túi vải chỉ còn duy nhất một tập truyện. “Ta đã cưu mang sinh thành ra mi, không lẽ bây giờ ta chết vì mi!.” Y lẩy bẩy mở túi vải, lôi tập truyện ra. Lạ thay, tập truyện biến thành tảng đá tự bao giờ. Nhìn kỹ, thấy nét chữ trên bìa còn sắc sảo, nhưng giấy đã biến thành đá, cân nặng chắc cũng cả trăm cân. Người văn sĩ trân trối nhìn tập thạch thư, không hiểu mộng hay thực. “Thì ra ta đã mang hòn đá tảng này hơn mười mấy năm qua. Ta già yếu không phải vì tuổi tác mà chính vì sức nặng của mi”. Y dùng hết tàn lực đẩy tập thạch thư qua một bên. Hòn đá rơi xuống chân cầu kêu một tiếng như tiếng kim loại chạm nhau. Vừa nghe tiếng kêu, người văn sĩ bỗng nhiên thấy mình mạnh khỏe như hồi niên thiếu. Y nhẹ nhàng bước qua cầu. Vừa bước qua cầu, cảnh vật hoàn toàn khác hẳn. Ở đây như có tiếng nhạc từ trên cao vọng xuống, đâu đây sực nức hương thơm. Khắp nơi trái cây chín đầy, lấp lánh ngũ sắc. Đi lần thêm một đoạn, bao nhiêu cung đài nguy nga tráng lệ hiện ra, tầng tầng lớp lớp. Người người ra vào mặt mày hoan hỉ, như có thần thông, nói không nghe tiếng, đi không chạm đất. Bỗng có tiếng ai đi tới. Người văn sĩ quay người lại thấy một bà cụ, trên vai với đôi quang gánh. Nhìn kỹ, cụ gánh hai đầu hai cái giỏ, bên trong sóng sánh nước. Y kinh ngạc thấy nước không chảy ra, còn cụ bà đi đứng nhẹ nhàng như không. Biết gặp thần nhân, y vái lạy, hỏi: - Phải chăng đây là nơi mà người ta gọi là niết bàn? Cụ bà cười khanh khách: - Đây chỉ là cảnh giới tam thập tam thiên, một cõi cao hơn cõi loài người đôi chút. - Phải chăng các loài sống ở đây chính là chư Phật? Cụ bà lắc đầu: - Các loài thọ sinh ở đây phần lớn có hạnh nghiệp tốt đẹp, đặc biệt các hạnh nghiệp thuộc phạm vi ý thức. Các giống Thanh văn, Duyên giác, các giới tu tiểu thừa hay thọ sinh ở đây, trong cảnh giới sung mãn như vầy. Các loài này còn cách Phật hay Bồ tát rất xa. - Nhưng có lẽ các vị này cũng đã đắc đạo? Cụ bà cười lớn: - Hạnh nghiệp ý thức của chúng thì tốt đẹp, nhưng có phải vì thế mà phá được chấp ngã, phá được vô minh đâu. Người không thấy các lâu đài nguy nga tráng lệ kia sao, đó chính là nơi ẩn náu kiên cố của y thức của chúng, chúng bào giờ dám chịu rời xa, và vì vậy không còn tiến bộ. Người văn sĩ ngập ngừng, cụ bà nói tiếp: - Như có người dùng thuyền qua sông, khi tới nơi, tiếc con thuyền, không chịu rời bỏ dòng sông, hoặc lên bờ tiếp tục vác chiếc thuyền đi tiếp. Nghe tới đây, người văn sĩ rùng mình, một cảm giác lạnh toát ập đến. - Cũng có người, nương theo ngón tay thấy mặt trăng, chấp rằng ngón tay là mặt trăng. Cũng có kẻ, được thọ sinh ở đây, không còn thấy khổ đau, cho rằng đây là niết bàn, lại tiếp tục chịu cảnh sinh tử. Cũng có loài, tu được chút thần thông, thoát được vài trói buộc của thân, đã vội cho mình đắc đạo. Ôi, chấp trước của chúng sinh thật vô cùng vô tận. Người văn sĩ cúi đầu ngẫm nghĩ, cụ bà nói tiếp: - Trong mọi thứ chấp thì ngã chấp là vi tế nhất, nó đeo đuổi người học đạo tới mức cuối cùng. Nhớ rằng ngã không phải chỉ là thân tâm mình, mà là toàn bộ nghiệp lực, kể cả đạo nghiệp. Ngã chấp và vô minh theo nhau như hình với bóng, tràn đầy khắp nơi, ngay cả trong cõi tam thập tam thiên này. Người văn sĩ ngẩng đầu nói: - Nhưng dù sao các loài sống ở đây vẫn dễ hiểu đạo hơn loài người. Cụ bà cả cười: - Không phải, kiếp người nhiều khổ đau, nhưng cũng vì thế mới dễ hiểu đạo. Lúc ngươi đang mê man vui thú đọc văn chương của chính mình và lúc tập thạch thư đau khổ rơi xuống bờ sông, lúc nào ngươi dễ hiểu đạo hơn? Vì không thoát nổi sự ràng buộc của chính văn chương ngươi, nên ngươi không còn sáng tạo được gì nữa. - Người văn sĩ nghe xong, định nói điều gì, bỗng có tiếng chân từ dưới bờ sông lên. Nhìn kỹ thì đó là một nhà sư, dáng đi mạnh bạo. Nhà sư nhìn đôi quang gánh của bà lão, cúi đầu vái chào, hỏi: - Chẳng hay người có thấy hai vị đạo sĩ áo trắng tới đây không? Cụ bà đáp: - Hai vị đó đã học xong đạo tiên, và đã rời đây để trở về chốn cũ. Nhà sư nổi giận đùng đùng: - Chúng cũng là kẻ tu hành sao có nhị tâm! Ta giao ước với chúng cùng chung học đạo, thế mà chúng nỡ tâm lừa dối, bắt ta đợi mấy ngày trên bến sông để chúng học lấy một mình. - Từ Đạo Hạnh (1), ngươi và chúng có duyên nghiệp sâu xa. Mọi sự đều có nhân duyên. Nói xong, cụ bà ghé tay Từ Đạo Hạnh nói nhỏ điều gì, rồi lẳng lặng gánh nước đi tiếp. Từ Đạo Hạnh nghe xong quày quả bước đi, xem chứng lòng còn giận dữ. Người văn sĩ ngơ ngác một giây xong bước theo nhà sư. Y thấy mình đi như bay, phút chốc đã về chốn xưa. Tới một cây nọ, bỗng Từ Đạo Hạnh lẩn vào gốc cây, xa xa vừa có bong người đi tới. Nhìn kỹ, đó là hai người đạo sĩ mặc áo trắng. Đợi họ vừa tới gốc cây, Từ Đạo Hạnh quát lên một tiếng rất lớn, nghe như tiếng hổ gầm, nhảy xổ ra: - Minh Không, Giác Hải, các người là kẻ hai lòng, nhưng đi đâu cho thoát tay ta. Hai người đạo sĩ giật mình rồi cười vang dội, người tên Minh Không cất tiếng nói: - Từ Đạo Hạnh, ngươi được Phật bà truyền cho phép thu ngắn đường đi. Tưởng gì khác, chứ người muốn làm hổ thì ngươi sẽ được làm hổ! Người văn sĩ giật mình đánh thót, thì ra cụ bà chính là Quán Thế Âm. Vừa nghe tiếng đấu phép, y chán ngán quay người bước đi, phút chốc đã đến cây cầu cũ. Nhìn xuống bờ sông, thạch thư vẫn còn đó, rêu xanh bám đầy. Y nhón một bước, đã tới nơi, vận lực nâng hòn đã lên. Nào ngờ thạch thư bây giờ nhẹ như bông. Y búng ngón tay, thạch thư biến thành tơ vàng bay đong đưa trong gió. --- (1) Tương truyền rằng, Từ Đạo Hạnh muốn báo thù cho cha là Từ Vinh, đi học phép tiên, cùng với Giác Hải, Minh Không. Sau khi bất hòa trên đường học đạo, ba người chung nhau tu tập, Từ Đạo Hạnh được tôn làm sư huynh, Minh Không vừa là sư đệ, vừa là đệ tử. Báo thù cho cha xong, giết được Đại Điên, Từ Đạo Hạnh đi tu. Huyền sử chép, Từ Đạo Hạnh chính là tiền kiếp của vua Lý Thần Tông, nhà vua lên ngôi năm 1128. Đến năm 1133, Lý Thần Tông bị bệnh, lông tóc mọc dài, kêu réo như hổ gầm. Minh Không đợi hai mươi năm mới trả được ơn thấy, nấu một nồi nước, thả vào một cây đinh, cho vua tắm. Vua khỏi bệnh, Lý Thần Tông mất năm 1137. Nguyễn Tường Bách HẾTNguyễn Tường Bách Mục lục Lời tựa Chuyện người kỹ nữ Người nuôi thú bên bờ biển Con vượn lông đỏ Người đạo sĩ bên gốc thông già Gã chèo đò và sáu cây chùy Tên tiểu đồng trên cây đào tiên Bên đàn vịt trời Chuyện người văn sĩ Đêm qua sân trước một cành mai Nguyễn Tường BáchChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Đánh máy: blueoutblue Nguồn: blueoutblue/ VNthuquan - Thư viện Online Nhà xuất bản TrẻĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 27 tháng 7 năm 2009
vanhoc
Hiện nay, công nghệ giải trình tự gen đang được ứng dụng nhiều ở lĩnh vực chẩn đoán, tầm soát và chữa trị bệnh. Các thai phụ có thể làm những chẩn đoán trước sinh nhanh và chính xác mà không cần phải chịu những rủi ro và nguy hiểm do chọc ối. Các bệnh di truyền có thể được phát hiện sớm hơn. Trong điều trị, trình tự DNA của bệnh nhân có thể giúp các bác sỹ điều chỉnh phác đồ điều trị phù hợp và hiệu quả hơn. Tất cả những điều này có được là nhờ vào những tiến bộ của công nghệ giải trình tự gen thế hệ mới với thời gian và chi phí ngày càng giảm. giai trinh tu dna the he moi ngs next generation sequencing Tags: Giải trình tự gen thế hệ mới Giải trình tự thế hệ mới NGS
vanhoc
Cầu đá 3 tầng 2.000 năm còn đứng vững Dù nước ngừng chảy, dòng xe cộ qua cầu Pont du Gard vẫn tiếp tục lưu thông qua hàng trăm năm. Không ít công trình từ thời La Mã cổ đại còn tồn tại qua hàng trăm năm, cho thấy kỹ thuật xây dựng đỉnh cao và óc thẩm mỹ kiệt xuất của những kiến trúc sư đời trước. Những cây cầu máng dẫn nước của người La Mã chính là minh chứng điển hình cho điều này, và không có ví dụ nào rõ hơn cây cầu Pont du Gard. Được xây dựng từ thế kỷ thứ nhất, cây cầu mái vòm tuyệt đẹp này vừa là lối cho xe cộ lưu thông, vừa là đường dẫn nước sông Gard từ thị trấn nhỏ Uzès ở miền nam đến thành phố cổ Nîmes phía đông nam. Ước tính khoảng 40.000 mét khối nước chảy qua cầu hàng ngày, đổ về những đài phun nước, hồ bơi, và khu dân cư Nîmes. Cầu dài 275 m và cao 49 m được xây dựng hoàn toàn bằng đá. Ba tầng của cây cầu tháp này đều có hàng cột mái vòm. Người xưa dùng khoảng 50.400 tấn đá vôi để làm cầu, với những khối đá lớn nhất nặng đến 6 tấn. Phần lớn đá được khai thác từ mỏ địa phương Estel cách hạ lưu sông Gard khoảng 700 m. Những nhịp cầu dựng từ các khối đá khổng lồ xếp chồng lên nhau bằng đòn bẩy và ròng rọc, vững chãi đến mức đáng kinh ngạc dù hầu như không dùng đến vữa. Chi phí để dựng lên cây cầu này không hề nhỏ. Nhà khảo cổ Pháp Émile Espérandieu ước tính người xưa tốn đến 30 triệu đồng sesterce (tiền cổ La Mã), tương đương với tiền trả cho 500 tân binh trong quân đoàn La Mã trong 50 năm. Khoản tiền này quy đổi theo tỷ giá ngày ngay có thể tương đương hàng chục triệu USD. Những khối đá khớp nhau đến hoàn hảo nhờ ma sát và trọng lực. Trên từng khối đá đều khắc số, chỉ dẫn về vị trí… Ảnh: Horizon Provence Cây cầu được sử dụng để dẫn nước ít nhất đến thế kỷ thứ 6, bởi những vấn đề như thấm, nứt… bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ thứ 4 nhưng không ai tu sửa. Đất cát dẫn đến tắc nghẽn, những mảnh vụn tích tụ dần khiến dòng chảy ngưng trệ. Từ khi Đế chế La Mã sụp đổ, Pont du Gard hầu như còn nguyên vẹn do nó vẫn là cây cầu thu phí. Suốt hàng thế kỷ, những vị lãnh chúa và giám mục trong vùng chịu trách nhiệm duy tu Pont du Gard, để đổi lấy quyền thu phí của khách qua sông trên cây cầu này. Đến thế kỷ 17, vài khối đá dựng cầu bị đánh cắp và phá hoại, Pont du Gard chỉ dần nổi tiếng và trở thành điểm du lịch quan trọng trong vùng từ thế kỷ 18. Nó đã trải qua hàng loạt đợt tu bổ từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 21. Chính quyền đầu tư mạnh tay nhất vào năm 2000 khi khai trương một trung tâm du khách mới cho di tích này, đồng thời loại bỏ những tuyến đường và các tòa nhà xây dựng gần cây cầu để phát triển du lịch. Tầng 1 của cây cầu có 6 nhịp vòm, dài tổng cộng 142 m. Tầng 2 có 11 nhịp vòm, dài 242 m. Tầng 3 ban đầu có 47 nhịp, hiện còn 35 nhịp, dài tổng cộng 275 m. Ảnh: Pont du Gard Năm 1985, Pont du Gard được UNESCO công nhận Di sản thế giới. Ngày nay, cây cầu là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Pháp, đón khoảng 1,4 triệu lượt khách mỗi năm. Địa điểm này mở cửa quanh năm. Vé vào cửa là 9,5 euro/ người lớn, thêm 6 euro/ người nếu du khách đi tour có hướng dẫn, và miễn phí hoàn toàn với người dưới 18 tuổi. Khách du lịch có thể đi dạo khoảng 3,5 km trên cây cầu và ngắm nhìn toàn cảnh sông Gard từ trên tầng cao nhất, hoặc đạp xe qua cầu. Vào mùa hè, người Pháp cũng kéo tới đây để cắm trại, tắm sông hay chèo kayak. Bên trong khu du lịch Pont du Gard còn có một bảo tàng về lịch sử của những cây cầu dẫn nước thời La Mã và Ludo, một bảo tàng giáo dục tương tác dành cho trẻ từ 5 – 12 tuổi vui chơi và khám phá khoa học.
vanhoc
Nhu cầu cao đối với kim loại từ đồng đến coban đang thúc đẩy ngành khai thác khoáng sản mở rộng khám phá ở các đại dương sâu nhất trên thế giới. Theo hãng AP, các nhà khoa học cảnh báo rằng hoạt động khai thác khoáng sản từ các hệ sinh thái quan trọng có thể gây thiệt hại lớn không thể khắc phục được. Ảnh minh họa. Nguồn: AP Chủ đề đang gây chú ý trong tuần này khi hàng chục nhà khoa học, luật sư và các quan chức chính phủ tập trung tại Jamaica để thảo luận về hoạt động khai thác dưới đáy biển sâu trong khuôn khổ hội nghị kéo dài hai tuần do Cơ quan quản lý Đáy biển quốc tế tổ chức. Đây là một cơ quan giám sát toàn cầu tại những vùng nước sâu dưới đáy đại dương không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia này. Các chuyên gia cũng nói rằng hoạt động khai thác dưới đại dương có thể gây ra cơn sốt thu nhập khoáng sản, tạo ra tiếng ồn và ánh sáng lớn cũng như cơn bão bụi trong đại dương của Trái đất. “Đây là một trong những phần nguyên sơ nhất của hành tinh chúng ta”, bà Diva Amon, nhà sinh vật biển, nhà thám hiểm của National Geographic và là Cố vấn khoa học cho Sáng kiến Đại dương Benioff tại Đại học California, Santa Barara cho biết. Giấy phép thăm dò đầu tiên được cấp vào những năm 2000 với hầu hết các hoạt động thăm dò hiện nay tập trung ở Vùng đứt gãy Clarion-Clipperton tại Thái Bình Dương. Ít nhất 17 trong số 31 giấy phép đã được cung cấp cho hoạt động thăm dò ở độ sâu từ 400 đến 6000m trong khu vực này. Việc thúc đẩy hoạt động khai thác biển sâu đã phát triển đến mức các cuộc họp tổ chức lên tới 3 lần một năm nhằm tìm ra các biện pháp ngăn ngừa tình trạng khai thác quá mức. Các công ty khai thác từng lập luận rằng việc khai thác khoáng sản từ đáy biển rẻ hơn so với trên đất liền, ít tác động hơn và tránh được một loạt các vấn đề môi trường và xã hội. “Chúng tôi sẽ không phá hủy các địa điểm văn hóa, phá rừng nhiệt đớt”, công ty UK Seabed Resources cho biết trong một tuyên bố đồng thời nhấn mạnh đến nỗ lực bảo vệ môi trường khi đề cập đến một số tác động từ việc khai thác trên đất liền. “Cơ quan Năng lượng quốc tế đã ước tính nhu cầu về khoảng sản sẽ tăng gấp 6 lần vào năm 2050 do các phương tiện chạy điện và năng lượng tái tạo phụ thuộc vào chúng”, báo cáo của Fitch Ratings công bố trong tháng 10. “Cường độ phát thải trong quá trình khai thác và chế biến coban, nhôm và niken cao, vì vậy nhu cầu tăng vọt có thể dẫn đến carbon ròng tăng lên”, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings nêu rõ. Nauru, hòn đảo nhỏ phía đông bắc Australia đứng đầu chương trình tăng cường cho phép khai thác khoáng sản vào thời điểm hiện tại cho rằng nguy cơ biến đổi khí hậu cao và tìm cách thu lợi về mặt tài chính trong việc khai thác kim loại một phần là do xu hướng đáp ứng nhu cầu công nghệ xanh để sản xuất pin ô tô điện. Các quốc gia lên tiếng Những hoạt động tăng cường khai thác khoáng sản đã khiến cho các quốc gia từ Đức đến Costa Rica lo lắng. Chính phủ các nước này đang tìm cách xây dựng các quy định để ngăn ngừa tình trạng trên. “Chúng tôi rất lo ngại về hậu quả”, ông Elza Moreira Marcelino de Castro, Đại diện của Brazil cho biết trong hội nghị bắt đầu từ ngày 1/11. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng lên tiếng ủng hộ lệnh cấm khai thác ở biển sâu trong khi Đức, quốc gia có hai hợp đồng thăm dò tuyên bố sẽ không tài trợ đối với việc khai thác như vậy cho đến khi có thông báo mới. Trong khi đó, một số công ty lớn đã cam kết không sử dụng kim loại khai thác từ biển sâu và các quốc gia bao gồm New Zealand , Fiji và Samoa đã lên tiếng tạm hoãn cho đến khi nắm bắt rõ hơn về tác động của hoạt động này. Các chuyên gia và nhà khoa học cũng ủng hộ động thái này. Khoảng 1% vùng nước biển sâu trên thế giới đã được khám phá, một nỗ lực mà các chuyên gia cho rằng tốn kém, kỹ thuật cao và cần nhiều thời gian. “Đại dương lữu trữ nhiều carbon hơn khí quyển, thực vật và đất của trái đất. Các nhà khoa học đang tìm kiếm các loại khoáng sản mới trong chuyến khám phá hiếm hoi. Hoạt động nghiên cứu mẫu cũng phải kéo dài hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm”, chuyên gia Amon nói. “Chúng ta chưa thể hiểu hết được cuộc sống của những sinh vật ở đại dương, chức năng toàn cầu của hệ sinh thái này và những gì chúng ta có thể mất đi khi tác động vào, bà Amon nói. “Cuộc sống dưới đáy biển sâu vô cùng chậm chạp và các khoáng chất sẽ phải mất hàng triệu năm để phát triển từ 1-10 mm. Điều đó có nghĩa là rất dễ bị xáo trộn và khả năng phục hồi cực kỳ chậm”. Sáng kiến Quản lý Đại dương Sâu – một mạng lưới toàn cầu cho biết một số chuyên gia tin rằng có thể mất từ 6 đến hơn 20 năm để thu thập đủ dữ liệu cần thiết để bảo vệ môi trường biển khỏi hoạt động khai thác ở biển sâu. Trong bài phát biểu khai mạc hội nghị, ông Michael Lodge, Tổng thư ký của Cơ quan đáy biển quốc tế nhấn mạnh cơ quan này muốn nâng cao ý thức bảo vệ môi trường biển khi các nước thành viên cung cấp thêm các dự thảo quy định./. Hồng Nhung
vanhoc
Lưu chiểu hay nạp bản là chế độ bắt buộc các cơ quan phát hành phải nộp bản lưu của mỗi ấn phẩm xuất bản cho cơ quan lưu trữ của nhà nước. Mục đích của chế độ này nhằm lưu trữ đầy đủ và lâu dài tất cả các ấn bản phẩm được phát hành trên lãnh thổ quốc gia. Cơ quan nhận lưu chiểu thường là thư viện quốc gia và đây chính là một nguồn tài liệu quan trọng của thư viện. Đôi khi, một số tài liệu âm thanh, hình ảnh... có thể do một cơ quan khác lưu trữ. Bên cạnh việc lưu trữ, chế độ lưu chiểu còn có mục đích kiểm tra, quản lý ngành xuất bản và ngành in, góp phần bảo vệ tác quyền. Tại một số quốc gia, quy chế lưu chiểu đã tồn tại từ rất lâu, như Pháp (1537), Đức (1624), Hà Lan (1679), Nga (1783). Tại Pháp, cơ quan nhận lưu chiểu là Thư viện Quốc gia Pháp và một số thư viện vùng cho các ấn bản in, Centre national du cinéma et de l'image animée (Trung tâm điện ảnh quốc gia) và Institut national de l'audiovisuel (Viện nghe nhìn quốc gia) giữ chức năng lưu trữ các xuất bản phẩm âm thanh và hình ảnh. Tại Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, tất cả các cuốn sách xuất bản đều phải gửi một bản lưu về Thư viện Anh. Ở Hoa Kỳ, tất cả các ấn bản phẩm đều phải gửi hai bản sao về Phòng tác quyền Hoa Kỳ tại Thư viện Quốc hội. Tại Việt Nam, Cục lưu trữ giữ nhiệm vụ nhận các xuất bản phẩm. Chế độ lưu chiểu bắt đầu ở Việt Nam vào năm 1922 theo sắc lệnh của toàn quyền Đông Dương. Tham khảo Luật bản quyền Luật thư viện
wiki