text
stringlengths
78
4.36M
domain
stringclasses
2 values
P&G (viết tắt của Procter & Gamble) là một tập đoàn hàng tiêu dùng đa quốc gia của Mỹ nằm trong danh sách Fortune 500 do tạp chí Fortune của Mỹ bình chọn hàng năm dựa trên tổng thu nhập và mức đóng góp vào ngân sách quốc gia qua các loại thuế. P&G có trụ sở tại quận trung tâm Cincinnati, Ohio và chuyên sản xuất các mặt hàng tiêu dùng rất đa dạng. P&G được xếp thứ 5 trong danh sách Những công ty đáng ngưỡng mộ nhất của tạp chí Fortune năm 2011. P&G nổi tiếng về nhiều sáng kiến ​​kinh doanh bao gồm quản trị thương hiệu và quảng cáo sản phẩm qua truyền thanh - truyền hình Thay đổi .Năm 2014, P&G đạt doanh thu 83,1 tỷ USD. Vào ngày 1 tháng 8 năm 2014, P&G tuyên bố sắp xếp hợp lý công ty, loại bỏ và bán bớt khoảng 100 thương hiệu khỏi danh mục sản phẩm của mình để tập trung vào 65 thương hiệu còn lại,  tạo ra 95% lợi nhuận của công ty. AG Lafley —chủ tịch và Giám đốc điều hành của công ty cho đến ngày 31 tháng 10 năm 2015 — cho biết P&G trong tương lai sẽ là “một công ty đơn giản hơn, ít phức tạp hơn nhiều với các thương hiệu hàng đầu dễ quản lý và vận hành hơn”. Jon Moeller hiện là Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của P&G. Lịch sử Nguồn gốc Thợ làm nến William Procter , sinh ra ở Anh và thợ làm xà phòng James Gamble , sinh ra ở Ireland , cả hai đều di cư đến Mỹ từ Vương quốc Anh . Họ định cư ở Cincinnati, Ohio , ban đầu và gặp nhau khi họ kết hôn với hai chị em Olivia và Elizabeth Norris.  Alexander Norris, cha vợ của họ, đã thuyết phục họ trở thành đối tác kinh doanh, và năm 1837 Procter & Gamble được thành lập. Năm 1858–1859, doanh thu đ Nội chiến Hạt 1 triệu đô la, khoảng 80 nhân viên đã làm việc cho Procter & Gamble. Trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ , công ty đã giành được hợp đồng cung cấp xà phòng và nến cho Quân đội . Ngoài lợi nhuận tăng lên trong chiến tranh, các hợp đồng quân sự đã giới thiệu binh lính từ khắp nơi trên đất nước đến với các sản phẩm của Procter & Gamble. Hoạt động tại Việt Nam Danh sách các thương hiệu con đang hoạt động tại thị trường Việt Nam Chăm sóc trẻ em Pampers Chăm sóc vải Ariel Downy Tide Chăm sóc phụ nữ Whisper Chăm sóc dành cho nam giới Gillette Chăm sóc tóc Head & Shoulders Pantene Rejoice Chăm sóc nhà cửa Ambi Pur Chăm sóc răng miệng Oral-B Chăm sóc da và cá nhân Olay Safeguard Chú thích Liên kết ngoài Công ty đa quốc gia Tập đoàn kinh doanh
wiki
Dương Chí Liệt (chữ Hán: 杨志烈, ? – ?) là thủ lĩnh người Giao Châu khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Ông quê quán ở Long Biên, Giao Châu, tổ tiên vốn là dòng dõi hào trưởng lâu đời. Cha của ông là Dương Thanh được nhà Đường cử làm Thứ sử Hoan Châu. Năm 819, nhân được giao 3.000 quân đi đánh người Tày, Nùng, Tráng ở Hoàng Động (nay thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam), ông cùng cha mình và thủ hạ thân tín là Đỗ Sĩ Giao đồng mưu kêu gọi binh sĩ không nên đi đánh người Hoàng Động mà phản lại Lý Tượng Cổ. Được các binh sĩ ủng hộ, hai cha con bèn mang quân về đánh chiếm phủ thành Tống Bình, giết chết quan đô hộ Lý Tượng Cổ, vợ con cùng hàng nghìn quan lại và thuộc hạ trong phủ. Rồi phát binh đánh chiếm toàn cõi Giao Châu khiến An Nam đô hộ phủ của nhà Đường bị rúng động. Dương Thanh về sau bị tướng nhà Đường Quế Trọng Vũ đánh bại, con trai là Dương Chí Trinh bị bắt và xử tử vào năm 820. Tuy vậy Đỗ Sĩ Giao vẫn ủng hộ lập Dương Chí Liệt lên làm thủ lĩnh nghĩa quân và rút lui về Tao Khê ở Trường Châu (nay thuộc tỉnh Ninh Bình, Việt Nam) hòng bảo toàn lực lượng tiếp tục cuộc chiến chống lại nhà Đường. Nhưng chẳng được bao lâu vì thế lực suy yếu, quân lương cạn kiệt nên ông đành dẫn toàn quân ra đầu hàng triều đình nhà Đường. Không rõ số phận lúc cuối đời của ông ra sao. Tham khảo Năm sinh không rõ Năm mất không rõ Người Giao Châu Nhân vật quân sự Việt Nam Khởi nghĩa Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3
wiki
Vua Kojata hay Hoàng tử không mong đợi (The Unlooked for Prince) hay Hoàng tử Unazed là một câu chuyện cổ tích của người Slav. Tác giả là Andrew Lang, nó bao gồm phiên bản tiếng Nga King Kojata, trong Cuốn sách cổ tích màu xanh. AH Wratislaw đã sưu tầm một biến thể của câu chuyện Hoàng tử không mong đợi của Ba Lan trong quyển Sáu mươi câu chuyện dân gian của mình từ Nguồn tiếng Slavonic độc quyền, số 17. Một phiên bản ngắn hơn, cũng là bằng tiếng Ba Lan, The Unlooked for Prince, được Louis Léger sưu tầm trong Contes Populaires Slaves và được Andrew Lang đưa vào Cuốn sách cổ tích màu xám. Josef Baudiš xuất bản phiên bản gốc tiếng Séc bằng tiếng Anh, tên là Kojata, trong cuốn sách truyện dân gian Séc The Key of Gold năm 1917 (tái bản năm 1922). Một phiên bản khác của câu chuyện, có tựa đề Kojata, xuất hiện trong A Book of Wizards của Ruth Manning-Sanders. Tóm tắt Ngày xưa có một vị vua và một nữ hoàng không có con. Một ngày nọ, nhà vua đang đi du lịch (để săn bắn và quên đi nỗi buồn của mình theo phiên bản tiếng Ba Lan, hay để quan sát đất nước của mình theo phiên bản tiếng Nga) và khát nước. Ông tìm thấy một dòng suối với một chiếc cốc nổi trong đó. Cố lấy cốc không thành công; nó luôn lảng tránh tay ông. Khi ông uống trực tiếp, một sinh vật trong giếng (Vua Kostiei ở Ba Lan), đã bám lấy râu và không thả ra cho ông cho đến khi ông ta hứa sẽ cho nó một thứ: ở trong phiên bản tiếng Ba Lan, thứ quý giá nhất trong cung điện của ông, không phải là ở đó khi ông rời khỏi nó; trong khi phiên bản tiếng Nga, là một cái gì đó ông ta không biết gì về, và ông sẽ tìm thấy gì khi trở về nhà. Ông ấy đã hứa. Khi trở về, ông thấy vợ mình có một đứa con trai. Ông ta không nói với ai về việc trao đổi, nhưng khi hoàng tử trưởng thành, một ông già xuất hiện trong rừng và bảo anh ta nói với cha mình về lời hứa ngày xưa. Khi ông nói với nhà vua, nhà vua đã nói với ông sự thật. Hoàng tử lên đường trả nó. Anh đến một cái hồ nơi ba mươi con vịt (tiếng Nga) hoặc mười hai con ngỗng (tiếng Ba Lan) đang bơi, và nơi có quần áo trên bờ. Anh lấy một cái. Những con chim đã lên bờ, thay đổi thành những phụ nữ và tự mặc quần áo, ngoại trừ người mà anh ta đang giữ trang phục. Người đó, như một con chim, nhìn về, và cầu xin hoàng tử trả lại quần áo cho cô. Anh ấy đã làm như vậy. Cô biết ơn, nói với anh rằng cô là con gái út của người đàn ông mà anh đã hứa, và hứa sẽ giúp đỡ anh. Cô nói với anh rằng khi anh đến gặp cha của cô, anh phải quỳ xuống, không hề sợ hãi. Anh vâng lời cô, mặc dù cha cô đã hét lên đầy sợ hãi. Khi ông ta gần chạm vào anh ta, cha cô đã cười và nói rằng thật tốt khi anh ta không sợ hãi. Vào buổi sáng, ông ra lệnh cho hoàng tử xây cho ông một cung điện bằng đá cẩm thạch trong một ngày. Anh ta về phòng, con gái đến với anh ta như một con ong, và hứa sẽ làm điều đó cho anh ta, và ngày hôm sau, cung điện được xây dựng. Ngày hôm sau, anh ta yêu cầu hoàng tử chọn ra cô con gái út của mình từ các chị gái. Cô nói với anh rằng cô sẽ là người có bọ rùa trên mí mắt (tiếng Ba Lan) hoặc con ruồi trên má cô (tiếng Nga), và anh đã có thể tìm thấy cô. Ngày thứ ba, anh ta nói với hoàng tử làm cho anh ta một đôi giày. Hoàng tử không phải là thợ đóng giày, và cô con gái út nói với anh rằng họ phải chạy trốn. Cô nhổ nước bọt trên mặt đất (tiếng Ba Lan) hoặc thở trên cửa sổ và làm đóng băng (tiếng Nga), và họ bỏ chạy. Khi những người hầu đến vì hoàng tử, những giọt nước bọt hoặc sương giá đã khóa họ lại. Cuối cùng, ông ra lệnh phá cửa, đuổi theo hành trình của họ. Những người hầu đuổi theo họ. Cô gái biến mình thành một dòng sông, hoàng tử vào cây cầu và đặt ba con đường vào rừng qua cây cầu. Những người hầu, không biết đường nào để đi, quay lại. Cha cô nói với họ rằng họ là cây cầu và dòng sông. Khi những người hầu trở về, thiếu nữ biến mình và hoàng tử thành một khu rừng rậm rạp, với nhiều lối đi, và những người hầu bị lạc và không thể tìm thấy họ. Khi họ trở về, cha cô quyết định tự mình đuổi theo họ. Cô gái nói rằng anh ta không thể đi xa hơn nhà thờ đầu tiên. Cô đòi thánh giá của anh. Với nó, cô biến mình thành một nhà thờ và hoàng tử là một linh mục. Cha cô hỏi thăm nếu linh mục đã nhìn thấy họ, và ông nói rằng họ đã vượt qua và đã gửi lời chào. Bố cô phải quay lại. Phiên bản tiếng Ba Lan ngắn hơn kết thúc tại đây. Trong các biến thể của tiếng Nga và Ba Lan dài hơn, họ đã đến một thị trấn. Hoàng tử khăng khăng muốn đi tham quan nó. Cô cảnh báo anh rằng nhà vua và hoàng hậu sẽ dẫn ra một đứa trẻ nhỏ, nhưng anh không được hôn nó, nếu không anh sẽ quên cô. Cô biến thành một cột mốc để chờ đợi anh, nhưng anh đã hôn đứa trẻ và quên cô. Cô biến mình thành một bông hoa bị chà đạp. Một ông già đã cứu sống và cấy ghép cho cô, và thấy rằng bất cứ khi nào ông ta đi ra ngoài, thì công việc nhà đã xong. Một phù thủy khuyên ông ta chờ đợi và ném một miếng vải lên bất cứ thứ gì có thể di chuyển. Điều này tiết lộ tung tích cô ấy, và ông ấy nói rằng hoàng tử sẽ kết hôn. Cô đi dự tiệc và nhờ đầu bếp cho cô làm bánh cưới. Khi nó bị cắt, hai con chim bồ câu bay ra, và một trong số chúng cầu xin người kia đừng từ bỏ nó, vì hoàng tử đã bỏ rơi thiếu nữ. Hoàng tử đứng dậy ngay lập tức, tìm thấy cô, tìm thấy con ngựa của mình và cùng cô đến vương quốc của cha mình. Xem thêm Chim đúc Không có gì cả Tuyết-Trắng-Lửa-Đỏ Người yêu Roland Trận chiến của các loài chim Hoàng tử biết ơn Bà chủ Nixie của Mill-Pond Hoàng tử muốn nhìn cả thế giới Con gái của quỷ Chim bồ câu trắng Tham khảo Liên kết ngoài Hoàng tử bất ngờ The Unlooked for Prince Vua Kojata Kojata Tác phẩm văn học với các sự vật được nhân hoá Phép thuật trong các tác phẩm giả tưởng Biến đổi hình dạng trong tác phẩm giả tưởng Vua giả tưởng Truyện cổ tích Nga Truyện cổ tích Ba Lan
wiki
Damien Le Tallec là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, (sinh ngày 19 tháng 4 năm 1990) . Hiện tại, anh đang thi đấu cho câu lạc bộ Hà Nội tại giải V.League 1. Là một cựu cầu thủ trẻ của Đội tuyển quốc gia Pháp, Le Tallec đã tham gia cùng Đội tuyển U17, U18 và U19 của Pháp trong suốt sự nghiệp của mình. Mặc dù ban đầu được sử dụng như một tiền đạo phụ và đôi khi thi đấu ở vị trí cánh, trong những năm sau, anh chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự và trung vệ. Sự nghiệp câu lạc bộ Sự nghiệp ban đầu Le Tallec sinh ra tại Poissy. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ Le Havre khi chỉ mới năm tuổi. Anh đã dành một thập kỷ tại câu lạc bộ này và bắt đầu thu hút sự quan tâm từ nhiều câu lạc bộ ở Ligue 1. Cuối cùng, anh gia nhập Stade Rennais. Rennes Le Tallec nhanh chóng khẳng định vị trí của mình tại câu lạc bộ và cùng những tài năng trẻ khác như Yann M'Vila, Yohann Lasimant, Abdoul Camara và Yacine Brahimi trở thành những cầu thủ triển vọng nhất của câu lạc bộ. Bốn cầu thủ này đã đóng vai trò quan trọng trong những thành công của câu lạc bộ ở cấp độ trẻ, giúp các đội trẻ của họ giành chiến thắng trong giải đấu U16 Tournoi Carisport năm 2006, đồng thời giành chức vô địch U18 cho mùa giải 2006-2007 và còn chiến thắng trong Coupe Gambardella năm 2008, ghi tổng cộng tám bàn thắng ấn tượng trong bảy trận đấu. Trong trận chung kết Coupe Gambardella gặp Bordeaux, anh đã ghi bàn cuối cùng trong chiến thắng ấn tượng 3-0 của đội. Sau mùa giải 2006-2007, vào ngày 11 tháng 8, Le Tallec cùng với đồng đội M'Vila và Camara ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của mình, đồng ý với một hợp đồng ba năm. Anh đã dành cả mùa giải trong đội dự bị trước khi chính thức được thăng chức lên đội một và được giao áo số 22 cho mùa giải 2008-2009. Mặc dù đã có mặt trong đội một, Le Tallec bắt đầu mùa giải với đội Championnat de France của câu lạc bộ. Anh đã tham gia vào 22 trận đấu, ghi được bốn bàn thắng, giúp đội xếp hạng đầu trong số các câu lạc bộ chuyên nghiệp trong nhóm của họ, qua đó giành quyền tham dự vòng play-off. Tuy nhiên, họ đã thất bại trước Lyon ở bán kết. Borussia Dortmund Sau mùa giải, có tin tức cho biết Le Tallec đã trở nên không ổn định tại Rennes, chủ yếu là do cơ hội thi đấu trong đội một của câu lạc bộ bị hạn chế. Anh rất háo hức bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình và ban đầu có tin đồn liên quan đến việc anh gia nhập câu lạc bộ La Liga Valencia và được cho là đang trong quá trình gia nhập câu lạc bộ này. Tuy nhiên, do có sự thay đổi trong ban lãnh đạo của câu lạc bộ, thương vụ này đã bị hoãn lại và sau đó đã bị hủy bỏ. Sau đó, anh đã bị liên kết với việc chuyển đến các câu lạc bộ Đức như Hertha BSC và VfB Stuttgart. Hai tháng sau đó, vào ngày 8 tháng 8 năm 2009, một câu lạc bộ Đức khác, Borussia Dortmund, thông báo họ đã ký hợp đồng ba năm với cầu thủ này và rằng anh sẽ được từ từ giới thiệu vào đội một. Nantes Vào ngày 31 tháng 1 năm 2012, Le Tallec trở lại Pháp, ký hợp đồng với Nantes ở Ligue 2 . Hoverla Trong hai mùa giải tiếp theo, Le Tallec thi đấu cho FC Hoverla Uzhhorod tại giải Ukrainian Premier League. Câu lạc bộ này vừa mới giành chức vô địch giải hạng hai mùa trước và đang tìm kiếm sự gia cố, trong đó có cả Le Tallec. Mặc dù trong hai mùa giải mà Le Tallec thi đấu cho Hoverla, câu lạc bộ này thi đấu khá tầm thường ở vị trí giữa và cuối bảng xếp hạng, nhưng Le Tallec đã thi đấu đều đặn và các màn trình diễn của anh đã thu hút sự chú ý của nhiều câu lạc bộ khác. Mordovia Vào mùa hè năm 2014, Le Tallec chuyển đến Nga và ký hợp đồng với đội bóng Ngoại hạng Anh FC Mordovia Saransk. Mordovia vừa vô địch giải hạng hai và được thăng hạng lên Premier League. Tương tự như ở Hoverla, ở Mordovia, Le Tallec cũng biểu diễn thường xuyên. Vào kỳ nghỉ đông của mùa giải 2015–16, huấn luyện viên Miodrag Božović, một chuyên gia về bóng đá Nga mà ông vừa trải qua 8 năm huấn luyện ở Giải Ngoại hạng Nga, đã dẫn dắt đội bóng Serbia Sao Đỏ Beograd, đội đang thành lập một đội mạnh. để giành lấy danh hiệu từ đối thủ chính của họ là FK Partizan, người đã trở thành người chiến thắng kinh niên trong thập kỷ qua, và trong quá trình xây dựng đội bóng đó, Božović đã ưu tiên ký hợp đồng với cả hai cầu thủ Mordovia, Le Tallec và Mitchell Donald, và cả hai đều chuyển đến Beograd. Crvena Zvezda Beograd Vào ngày 29 tháng 1 năm 2016, Le Tallec ký hợp đồng 2,5 năm với Crvena Zvezda Beograd, Trong trận ra mắt giải đấu với Red Star chưa đầy một tháng sau, anh ghi bàn thắng vào lưới FK Mladost Lučani. Kết thúc mùa giải đầu tiên tại Red Star, họ đã giành chức vô địch Serbia và giành quyền tham dự vòng loại Champions League. Đã chơi phần lớn mùa giải trước ở vị trí tiền vệ trung tâm, cùng với Mitchell Donald kể từ đầu mùa giải 2016–17, Le Tallec thường được huấn luyện viên Red Star Miodrag Božović cho làm trung vệ. Khi khoác áo Beograd, Le Tallec đã có 104 lần ra sân, ghi 7 bàn trên mọi đấu trường và giành 2 danh hiệu SuperLiga của Serbia, từ năm 2016 đến 2018. Vào tháng 5 năm 2018, Le Tallec tuyên bố chắc chắn sẽ rời câu lạc bộ vào mùa hè cùng năm, sau khi kết thúc hợp đồng. Montpellier Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, Le Tallec trở về quê hương và ký hợp đồng với câu lạc bộ Ligue 1 Montpellier. AEK Athens Vào ngày 9 tháng 7 năm 2021, Le Tallec được công bố là bản hợp đồng mới của câu lạc bộ Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp AEK Athens, sau khi ký hợp đồng hai năm, với tùy chọn gia hạn thêm một năm sau khi hợp đồng kết thúc. Vào ngày 12 tháng 9, anh ghi bàn mở tỷ số bằng cú đánh đầu ở phút thứ 7 trước Ionikos, trong trận đấu kết thúc với chiến thắng 3–0 cho đội chủ nhà. Torpedo Moscow Vào ngày 30 tháng 8 năm 2022, Le Tallec trở lại Nga và ký hợp đồng với Torpedo Moscow. Hợp đồng của anh ấy với Torpedo đã bị chấm dứt theo sự đồng ý của cả hai vào ngày 13 tháng 1 năm 2023. Sochaux Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, Le Tallec ký hợp đồng với Sochaux-Montbéliard có thời hạn đến ngày 30 tháng 6 năm 2024. Hà Nội Vào ngày 8 tháng 9 năm 2023, Le Tallec gia nhập câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1. Anh có bàn phản lưới nhà ngay trận đầu tiên ra quân gặp Pohang Steelers ở AFC Champions League. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia Le Tallec đã thi đấu cho tất cả Đội tuyển trẻ quốc gia Pháp, bắt đầu với đội dưới 15 tuổi, được chọn lần đầu tiên vào tháng 3 năm 2006 . Anh là thành viên của đội tuyển U17 đã lọt vào bán kết tại Giải vô địch bóng đá U17 châu Âu UEFA 2007, trước khi thua tới Anh. Anh đã ghi hai bàn trong giải đấu, cả hai đều trong cùng một trận đấu với Đức. . Sau đó anh chơi cùng đội U-17 tại FIFA U-17 World Cup được tổ chức tại Hàn Quốc . Le Tallec xuất hiện trong cả năm trận đấu, ghi bốn bàn, một vào lưới Haiti, cú đúp vào lưới Tunisia ở vòng 16 đội, và một trận gặp Tây Ban Nha đội đã đánh bại Pháp trong các quả phạt đền ở tứ kết. Tổng cộng với đội U17, Le Tallec đã ghi 14 bàn sau 18 lần ra sân. Với Đội tuyển U-19, Le Tallec ra sân 15 trận, ghi 6 bàn. Anh ấy đã ghi ba trong số những bàn thắng đó trong quá trình vượt qua vòng loại cho Giải vô địch U-19 UEFA trước Cộng hòa Ireland, Liechtenstein, và Romania. Chiến thắng trước Romania đảm bảo suất tham dự Giải vô địch châu Âu năm 2009. Tại Giải đấu được tổ chức tại Ukraina, Le Tallec xuất hiện trong cả 4 trận đấu, giúp Pháp lọt vào bán kết trước khi chịu thất bại trước Anh.. Năm 2019, Le Tallec bắt đầu quá trình nộp đơn xin quốc tịch Nga và cho biết anh sẽ rất vinh dự nếu được gọi cho đến Đội tuyển quốc gia Nga sau khi quá trình này hoàn tất. Vào tháng 4 năm 2020, anh ấy đã được cấp thẻ thường trú tại Nga trước khi nhận quốc tịch Nga vào tháng 10. Có thông tin cho rằng anh ấy không đủ điều kiện để chơi cho Nga vì anh ấy đã chơi trong các trận đấu quốc tế chính thức cho các đội trẻ của Pháp. Danh hiệu Rennes Coupe Gambardella: 2008 Borussia Dortmund Bundesliga: 2010–11 Red Star Belgrade Serbian SuperLiga: 2015–16, 2017–18 Tham khảo Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (2016) Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Ukraina Cầu thủ bóng đá Ligue 2 Cầu thủ bóng đá Regionalliga Cầu thủ bóng đá 3. Liga Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá AEK Athens F.C. Cầu thủ bóng đá Montpellier HSC Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund II Cầu thủ bóng đá Borussia Dortmund Tiền vệ bóng đá nam Trung vệ bóng đá Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ bóng đá nam Pháp Nhân vật còn sống Sinh năm 1990
wiki
A Phủ là một thanh niên nghèo, chất phác nhưng sống dưới chế độ phong kiến miền núi nên cuộc đời chịu nhiều cực khổ. A Phủ phải đi làm thuê trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Để hiểu rõ hơn về cuộc đời của A Phủ, chúng ta hãy cùng đi phân tích nhân vật A Phủ. Trước khi bước vào bài phân tích thì các em nên lập dàn ý chi tiết phân tích nhân vật A Phủ, vạch ra những ý chính cần có trong bài. Dưới đây sẽ là phần hướng dẫn của Kho tàng văn mẫu. I. Lập dàn ý phân tích nhân vật A Phủ 1. Mở bài – Giới thiệu về nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. – Giới thiệu về nhân vật A Phủ. 2. Thân bài Xuất thân của nhân vật A Phủ – A Phủ vốn là một đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Lúc ấy còn nhỏ, A Phủ bị người ta bắt rồi đem bán để đổi lấy thóc. – A Phủ trốn thoát được và lưu lạc đến Hồng Ngài. Ngoại hình, tính cách của A Phủ – A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, giỏi lao động nên được nhiều cô gái mơ ước. – A Phủ chỉ là chàng trai làm thuê nên hoàn cảnh vô cùng nghèo khó. A Phủ không có tiền lấy vợ, không mua được nổi 1 cái vòng bạc để đi chơi Tết. – Hoàn cảnh đã khiến A Phủ trở nên gan góc, táo bạo và có một sức sống vô cùng mạnh mẽ. Cuộc sống của A Phủ khi ở nhà thống lí – Với tính cách của mình, A Phủ sẵn sàng đối đầu với bọn con quan.Xem thêm: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm – A Phủ bị bắt trói về nhà thống lí, bị tra tấn đòn ron và bị bắt làm nô lệ gạt nợ cho nhà thống lí. – A Phủ sống tủi nhục như con trâu, con ngựa trong nhà thống lí. Cuộc gặp gỡ với Mị – Sức sống trong A Phủ vẫn luôn tiềm tàng. – Mị đã cởi trói cho A Phủ, giúp A Phủ thoát khỏi cuộc sống địa ngục. – A Phủ cùng Mị bỏ trốn và sau này, A Phủ đã giác ngộ cách mạng. 3. Kết luận – Nêu cảm nhận của em về nhân vật A Phủ. Bài viết liên quan: >> Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Có dàn ý chi tiết) >> Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Có dàn ý chi tiết) II. Bài làm phân tích nhân vật A Phủ Nhà văn Tô Hoài đã quen thuộc với bạn đọc qua nhiều tác phẩm xuất sắc. Trẻ nhỏ thì biết đến ông qua tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký, người lớn tuổi hơn thì ấn tượng với Vợ chồng A Phủ. Trong Vợ chồng A Phủ, các nhân vật như Mị, A Phủ gây ấn tượng mạnh với người đọc về cuộc đời nhiều cơ cực của họ. Nhân vật A Phủ có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng lại phải chịu khổ vì chính tính cách của mình. A Phủ có xuất thân vô cùng khổ cực khi sớm phải mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch. Năm ấy, A Phủ mới chỉ chừng hơn 10 tuổi. A Phủ bị người ta bắt về nhưng không phải để chăm sóc mà lại đem bán đi để đổi lấy gạo của người Thái. Vì tính tình gan dạ, A Phủ đã bỏ trốn được rồi sau đó lưu lạc lên Hồng Ngài. Sau đó, A Phủ tự mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề. Có ai thuê làm gì, A Phủ cũng làm. Với sự chăm chỉ của mình nên A Phủ làm gì cũng giỏi. Không chỉ biết đúc lại lưỡi cày, A Phủ còn biết đi săn bò tót nữa. A Phủ càng lớn thì càng chứng tỏ mình là một chàng trai khỏe mạnh, có sức vóc. Cộng thêm tính tình hiền lành nên A Phủ được nhiều người yêu quý. Cũng chính vì vậy mà dù cuộc sống có nghèo khổ thì A Phủ cũng vẫn yêu đời, tự tin vào tuổi trẻ của mình. A Phủ trở thành niềm mơ ước của các cô gái H’mông. Họ nói với nhau rằng có được A Phủ trong nhà thì chẳng mấy lúc mà giàu. Nhưng khổ nỗi, A Phủ nghèo quá nên chẳng có đủ tiền để cưới vợ. Không tiền, không địa vị, A Phủ bị người đời khinh rẻ. A Phủ thậm chí còn chẳng đủ tiền mua một cái vòng bạc để đi chơi Tết.Xem thêm: Hãy nói lời đáp của em khi được người khác cảm ơn Phân tích nhân vật A Phủ Cuộc đời của A Phủ rẽ ngang khi A Phủ đánh nhau với A Sử, con trai của nhà thống lí Pá Tra. A Phủ, chàng trai của núi rừng tự do cuối cùng cũng chẳng thể nào thắng được chế độ phong kiến, không thể nào thoát được kiếp sống nô lệ. A Phủ bị bắt trói về nhà thống lí Pá Tra, bị đánh đập rồi bị bắt làm nô lệ gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ kể từ đó phải chịu một cuộc đời nhục nhã. A Phủ bị ngược đãi, phải làm những công việc nặng nhọc và nguy hiểm như bẫy hổ, chăn ngựa, săn bò tót, cuốc nương, cày ruộng. Cuộc đời của A Phủ từ đây không còn do A Phủ định đoạt nữa mà là do bàn tay của thống lí Pá Tra. Cũng chính vì để hổ bắt mất bò mà A Phủ bị trói vào cột, bị đánh cho chết đi sống lại. Khi Mị nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị còn xem A Phủ như một cái xác bị trói đứng. Mặc dù thân xác bị trói nhưng tinh thần khản kháng trong A Phủ luôn bùng cháy. Bản chất gan góc và bất khuất vẫn luôn tồn tại trong con người A Phủ. Vậy nên khi được Mị cởi trói, A Phủ đã dẫn Mị theo cùng, cả hai cùng giải thoát cho nhau, bay về phía chân trời tự do. Nhân vật A Phủ được xây dựng đậm chất anh hùng ca. Qua nhân vật A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện được giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc.Xem thêm: Bình giảng bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão Trên đây là phần dàn ý và bài văn mẫu phân tích nhân vật A Phủ. Bài viết chỉ mang tính chất gợi ý, các em nên dựa vào đó để viết bài văn của riêng mình. Thu Thủy
vanhoc
Giải BAFTA lần thứ 13, được trao bởi Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc năm 1960 để tôn vinh những bộ phim xuất sắc nhất năm 1959. Chiến thắng và đề cử Phim hay nhất Ben-Hur Anatomy of a Murder Ansiktet The Big Country Compulsion Gigi Look Back in Anger North West Frontier The Nun's Story Sapphire Some Like It Hot Tiger Bay Yesterday's Enemy Maigret tend un piège Ashes and Diamonds Phim Anh hay nhất Sapphire Look Back in Anger Anatomy of a Murder Tiger Bay Yesterday's Enemy Nam diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất Jack Lemmon trong Some Like It Hot James Stewart trong Anatomy of a Murder Takashi Shimura trong Ikiru Zbigniew Cybulski trong Ashes and Diamonds Jean Gabin trong Maigret tend un piège Jean Desailly trong Maigret tend un piège Nam diễn viên Anh xuất sắc nhất Peter Sellers trong I'm All Right Jack Laurence Olivier trong The Devil's Disciple Laurence Harvey trong Expresso Bongo Richard Burton trong Look Back in Anger Peter Finch trong The Nun's Story Stanley Baker trong Yesterday's Enemy Gordon Jackson trong Yesterday's Enemy Nữ diễn viên Anh xuất sắc nhất Audrey Hepburn trong The Nun's Story Kay Walsh trong The Horse's Mouth Sylvia Syms trong No Trees in the Street Peggy Ashcroft trong The Nun's Story Yvonne Mitchell trong Sapphire Nữ diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất Shirley MacLaine trong Ask Any Girl Rosalind Russell trong Auntie Mame Susan Hayward trong I Want to Live! Ava Gardner trong On The Beach Ellie Lambeti trong A Matter of Dignity Kịch bản Anh hay nhất I'm All Right Jack - Frank Harvey, John Boulting và Alan Hackney Tham khảo 013 BAFTA Điện ảnh Vương quốc Liên hiệp Anh năm 1960
wiki
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận Hướng dẫn Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang của Huy Cận Bài làm Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thể hiện rõ nét ở hai khổ thơ cuối trong bài: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng …. Lòng quê rờn rợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hiu hắt: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. “ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này. Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, buồn bã trải dài vô tận. Cả một không gian mênh mông vắng lặng, khiến cho nỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ càng trở nên rõ ràng. Buổi chiều là thời gian con người đoàn tụ với quê hương, cũng là khoảng thời gian buồn nhất trong ngày của những người con phải xa người thân, xa gia đình. Và quả thật, nỗi buồn ấy được nhà thơ khẳng định ở câu cuối: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê. Bài thơ là bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”.
vanhoc
Labetalol là một loại thuốc dùng để điều trị huyết áp cao và kiểm soát đau thắt ngực lâu dài. Điều này bao gồm tăng huyết áp cần thiết, cấp cứu tăng huyết áp và tăng huyết áp của thai kỳ. Trong việc chữa tăng huyết áp, nó thường ít được ưa thích hơn so với một số loại thuốc huyết áp khác. Nó có thể được đưa ra bằng miệng hoặc tiêm tĩnh mạch. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm huyết áp thấp khi đứng, chóng mặt, cảm thấy mệt mỏi và buồn nôn. Tác dụng phụ nghiêm trọng có thể bao gồm huyết áp thấp, các vấn đề về gan, suy tim và co thắt phế quản. Sử dụng thuốc này tỏ ra an toàn ở phần sau của thai kỳ và nó không được dự kiến sẽ gây ra vấn đề trong khi cho con bú. Nó hoạt động bằng cách ngăn chặn sự kích hoạt các thụ thể β và thụ thể α. Labetalol được cấp bằng sáng chế vào năm 1966 và được đưa vào sử dụng y tế vào năm 1977. Nó có sẵn như là một loại thuốc gốc. Một tháng cung cấp ở Vương quốc Anh tiêu tốn của NHS khoảng 8£ vào năm 2019. Tại Hoa Kỳ, chi phí bán buôn của số thuốc này là khoảng 12 USD. Năm 2016, đây là loại thuốc được kê đơn nhiều thứ 233 tại Hoa Kỳ với hơn 2 triệu đơn thuốc. Sử dụng trong y tế Labetalol có hiệu quả trong việc quản lý   cấp cứu tăng huyết áp, tăng huyết áp sau phẫu thuật,   pheochromocytoma - tăng huyết áp, và   tăng huyết áp hồi phục do hội chứng cai nghiện thuốc chặn beta.   Nó có một chỉ định đặc biệt trong điều trị chứng cao huyết áp do mang thai   thường được liên kết với  tiền sản giật.   Nó cũng được sử dụng như là một thuốc thay thế trong việc điều trị tăng huyết áp nặng. Tham khảo RTT Thuốc chẹn beta
wiki
Trận Mindoro là trận đánh diễn ra giữa lực lượng Hoa Kỳ và Đế quốc Nhật Bản tại hòn đảo Mindoro phía Bắc Philippines từ 13 đến 16 tháng 12-1944. Mục đích của người Mỹ trong trận này là nhằm thiết lập một căn cứ vữnng chắc để làm bàn đạp cho trận đổ bộ chính lên đảo Luzon, đây là giai đoạn cuối của chiến dịch Philippines. Bối cảnh Trước khi cuộc đổ bộ lên đảo Luzon có thể diễn ra, Thống tướng Douglas MacArthur cần một căn cứ gần hơn về phía Bắc của hòn đảo hơn là từ các căn cứ trên đảo Leyte. Do đó Mindoro trở thành sự lựa chọn hợp lý vì vị trí chiến lược của nơi này. Nằm ngay phía Nam Luzon, và có diện tích vào khoảng nửa bang New Jersey, hòn đảo được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, với một vài đồng bằng nhỏ hẹp sát bờ biển. Những cơn mưa liên tục gây ra bởi các đám mây di chuyển lên cao từ hướng nam bị ngăn lại bởi các đỉnh núi cao khiến nơn này có độ ẩm cao là môi trường thuận lợi cho nhiều mầm bệnh như sốt rét và các bệnh nhiệt đới khác. Ngoài ra, lực lượng phòng thủ trên đảo rất ít ỏi. Bên cạnh đó điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém của các sân bay được xây dựng gầy đây trên đảo Leyte khiến cho những căn cứ tại nơi này trở nên thiếu tin cậy. Vì vậy nhu cầu cần có thêm các căn cứ tại đảo Mindoro cho các chiến dịch sắp tới trên đảo Luzon càng hối thúc tướng MacArthur. Tuy nhiên đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng chút nào. Vị trí thuận lợi nhất cho một cuộc đổ bộ là phần đông bắc đảo nhưng đây lại là nơi dễ dàng bị lực lượng không quân Nhât oanh kích từ đảo Luzon. Do đó khả năng này đã bị loại bỏ. Thay vào đó thị trấn San Jose nằm ở góc tây nam đảo gần hơn về phía vịnh Mangarin, đồng thời là cảng nước sâu tốt nhất trên đảo Mindoro được chọn làm vị trí đổ bộ. Tập đoàn quân số 6 dưới quyền Trung tướng Walter Krueger được giao nhiệm vụ bao vây Mindoro. Đến lượt mình, Krueger giao nhiệm vụ này cho Thiếu tướng Roscoe B. Woodruff thuộc Sư đoàn Bộ binh 24, cùng với Trung đoàn Bộ binh 19 và một đơn vị độc lập là Trung đoàn Bộ binh nhảy dù 503 do Trung tá George M. Jones, có tên lóng "The Warden" dẫn đầu cuộc đổ bộ. Mối đe dọa lớn nhất đối với lực lượng đổ bộ đến từ các máy bay thần phong xuất phát từ các căn cứ trên đất liền. Quân Nhật bắt đầu thử nghiệm chiến thuật liều lĩnh này từ giai đoạn cuối của chiến dịch Leyte vào hoàn thiện nó vào tháng 12-1944. Đến 13 tháng 12-1944, hai ngày trước khi chiến dịch đổ bộ lên Mindoro bắt đầu, các phi đội thần phong lao vào các tàu chở binh lính trong chiến dịch. Chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ USS Nashville (CL-43) bị một máy bay đâm trúng giết chết 130 người là làm bị thương 190 người khác. Chuẩn tướng William C. Dunkel, chỉ huy lực lượng đổ bộ nằm trong số người bị thương. Các máy bay kamikaze khác làm hư hại hai tàu chở quân và vô hiệu hóa nhiều tàu khác. Ngay lập tức, Lục quân Hoa Kỳ phối hợp với không quân Hải quân tiến hành chiến dịch loại bỏ nguy cơ từ những máy bay thần phong trong tuần đầu tiên của tháng 12, qua đó họ khẳng định đã tiêu diệt hơn 700 máy bay của đối phương. Trận đánh Ngày 15 tháng 12, trận chiến trên đảo Mindoro bắt đầu. Thời tiết tốt đã tạo điều kiện lực lượng Mỹ huy động tối đa sức mạnh Hải Không quân của họ, bao gồm sáu tàu sân bay hộ tống, ba thiết giáp hạm, sáu tuần dương hạm và nhiều tàu chiến khác chống lại lực lượng Nhật. Các lính dù thuộc Trung đoàn Bộ binh dù 503 đổ bộ đầu tiên lên bãi biển ở vịnh Mangarin, theo sau là các đơn vị khác. Họ được yểm trợ bởi hỏa lực từ các tàu khu trục và các tàu chống máy bay trong khku vực tiếp vận. Hai tàu chở lính bị các máy bay thần phong đâm trúng bị bỏ lại và chìm ngay sau đó. Trong một hành động dũng cảm, Walter M. Foster, chỉ huy tàu USS Moale (DD-693) đi song song và áp sát tàu USS LST-738 đang bốc cháy (vốn đang chuyên chở nhiên liệu và thiết bị) để giải cứu các thủy thủ đang bị mắc kẹt. Một vài vụ nổ bùng phát trên tàu LST-738 khiến cho tàu Moale bị hư hại khi đang cố gắng rời đi. Một vài mảnh đạn rộng hai feet vuông để lại bốn lỗ trên thân tàu Moale. Xạ thủ Mate Ed Marsh báo cáo một thùng Vaseline một gallon đã văng từ tàu LST vương vãi lên kho đạn của khẩu súng Bofors AA khiến cho đạn bị trơn một cách không cần thiết. Về phía tàu Moale có một người chết và 13 người bị thương. Đổi lại 88 thủy thủ được cứu sống. Trên đảo 1.000 lính Nhật cùng với khoảng 200 người sống sót từ các tàu đắm khi đang di chuyển đến Leyte bị áp đảo cả về lực lượng cũng như hỏa lực. Khoảng 300 người lính Nhật còn lại đóng ở một vị trí cảnh giới máy bay tại phía bắc đảo cố gắng chống trả lại Đại đội 503 nhưng họ nhanh chóng thất bại, và chiến dịch kết thúc chỉ sau 48 giờ. Kết quả Sau trận này, lực lượng Nhật trên đảo Mindoro tổn thất 200 người chết và 375 người bị thương. Về phía Mỹ, Sư đoàn Bộ binh 24 có 18 người chết và 81 người bị thương. Vào cuối ngày, các kỹ sư quân đội đã có thể chuẩn bị cho các sân bay tại đây phục vụ cho chiến dịch kế tiếp trên đảo Luzon. Hai sân bay được hoàn thành 13 ngày sau tạo điều kiện thuận lợi cho các máy bay Mỹ tiếp cận gần hơn với đảo Luzon, cũng như dễ dàng thực hiện việc đánh phá các sân bay thần phong trước khi các máy bay này cất cánh. Từ đây máy bay Mỹ cũng có thể ngăn chặn các chuyến tàu qua lại giữa Bắc và Nam đảo Luzon và Đài Loan. Xem thêm Lịch sử quân sự Philippines Lịch sử quân sự Hoa Kỳ Lịch sử quân sự Nhật Bản Lịch sử Philippines Tham khảo World War II in the Pacific: An Encyclopedia (Military History of the United States) by S. Sandler (2000) Routledge ISBN 0-8153-1883-9 Liên kết ngoài U.S. Army Center of Military History: World War II Commemorative Brochures, Luzon Xung đột năm 1944 Chiến dịch Philippines (1944–45)
wiki
Chó Blue Picardy Spaniel (hay chó Épagneul Bleu de Picardie) là một giống chó Spaniel có nguồn gốc ở Pháp, từ khu vực xung quanh cửa sông Somme, vào khoảng đầu thế kỷ 20. Nó là hậu duệ của chó Picardy Spaniels và chó English Setters, và được mô tả như một giống chó yên tĩnh đòi hỏi nhiều bài tập do sức bền tốt. Nó đặc biệt tốt tính với trẻ em. Tương tự như chó Picardy Spaniel, nó có một bộ lông màu đặc biệt. Được công nhận bởi một số ít các hiệp hội Kennel, giống này chủ yếu được biết đến ở Pháp và Canada. Mô tả Ngoại hình Một con chó Blue Picardy Spaniel trung bình cao khoảng 22–24 inch (56–61 cm) và nặng 43–45 cân Anh (20–20 kg) Bộ lông của nó có lốm đốm màu xám đen tạo thành một bóng màu xanh, với một số mảng màu đen. Bộ lông phẳng hoặc hơi lượn sóng với lông trên tai, chân, bụng dưới và đuôi. Nó có đôi chân dài với một số đặc điểm của setter. Nó có một cái mũi và mõm dài, với đôi tai dày được bọc trong lớp lông mượt mà thường kết thúc quanh đầu mõm. Ngực của nó có kích thước trung bình nối đến ngang với khuỷu chân trước. Cả hai chân trước và chân sau đều có cơ bắp khỏe. Đuôi của nó thường không dài quá khớp chân sau và thường thẳng. Loài này có nhiều điểm tương đồng với chó Picardy Spaniel do lịch sử gần đây của hai giống chó này. Chó Blue Spaniel được mô tả là mềm mại hơn, cũng như sự khác biệt rõ ràng về màu lông. Chó Picardy có bộ lông màu nâu trong khi Blue Picardy có bộ lông màu đen và màu xám, được đưa vào giống bằng cách phối giống với chó English Setter. Tương tự điều này cũng đúng trong thời đại hiện đại do sự tương đồng chặt chẽ của hai tiêu chuẩn giống khác nhau. Chú thích Giống chó
wiki
Pa Vệ Sủ hay Pa Vệ Sử là một xã thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, Việt Nam. Xã Pa Vệ Sủ có diện tích 244,03 km², dân số năm 1999 là 1.552 người, mật độ dân số đạt 6 người/km². Tới năm 2019 dân số Pa Vệ Sử khoảng 2.700 người. Người sắc tộc La Hủ chiếm tới 94% dân số. Đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc chạy từ phía bắc qua phía đông bắc sang phía đông, Pa Vệ Sủ tiếp giáp lần lượt với hương Giả Mễ (đỉnh Pu Si Lung), trấn Mãnh Lạp và trấn Kim Thủy Hà đều thuộc huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Đường biên giới thuộc xã dài khoảng 31,56 km với 7 mốc, từ mốc số 42 trên núi Pu Si Lung tới mốc số 48. Phía đông nam Pa Vệ Sử giáp xã Hua Bum của huyện Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu. Từ phía nam lên phía tây bắc, Pa Vệ Sử đều tiếp giáp các xã cùng huyện Mường Tè làː Bum Nưa (phía nam), Bum Tở (phía tây nam), và Pa Ủ (phía tây bắc). Chú thích Tham khảo Xã, phường, thị trấn biên giới Việt Nam - Trung Quốc
wiki
Giới thiệu khái quát huyện Duy Xuyên Huyện nằm phía bắc tỉnh Quảng Nam , phía bắc là thị xã Điện Bàn và thành phố Hội An , phía tây bắc là huyện Đại Lộc , phía tây nam và phía nam là huyện Quế Sơn, phía đông nam là huyện Thăng Bình và phía đông là biển. Duy Xuyên là mảnh đất có lịch sử lâu đời. Các kết quả nghiên cứu Khảo cổ học cho biết, cách đây khoảng 2500 năm, những lớp cư dân đầu tiên đã có mặt ở đây và là một bộ phận của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Sau những cư dân Tiền sử, Sơ sử này, Duy Xuyên nằm trong địa bàn sinh tụ và phát triển của cư dân văn hóa Chămpa ( Thế kỷ II-XV). Tên đất Duy Xuyên ra đời năm Giáp Thìn ( 1604) thời Nguyễn Hoàng. – Huyện được cải tên từ huyện Hy Giang năm 1604, trong chủ trương cải đặt lại các khu vực hành chính thuộc hai trấn Thuận Hóa và QuảngNamcủa chúa Nguyễn Hoàng. Trước Cách mạng tháng Tám gọi là phủ Duy Xuyên. Phủ lập năm 1920, có 10 tổng, 155 làng xã. – Thị trấn Duy Xuyên thành lập theo Quyết định số 27/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 21/3/1986, trên cơ sở diện tích tự nhiên và dân cư của xã Duy An, và một phần diện tích tự nhiên của xã Duy Trung. Ngày 29/8/1994, thị trấn Duy Xuyên bị giải thể để thành lập thị trấn Nam Phước. – Trải qua hằng mấy trăm năm thành lập, với nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, đến nay Duy Xuyên bao gồm 13 xã và 1 thị trấn (Nam Phước): xã Duy Sơn, xã Duy Trinh, xã Duy Phú ,xã Duy Hải, xã Duy Nghĩa, xã Duy Vinh, xã Duy Phước, xã Duy Thành, thị trấn Nam Phước, xã Duy Châu, xã Duy Tân,Duy Hòa, xã Duy Thu, xã Duy Trung. – Làng Trà Kiệu được thành lập từ thế kỷ 17, trên vùng đất chính vốn là kinh đô xưa của Vương quốc Chăm pa. Đến năm 1905, do dân số và diện tích phát triển, Trà Kiệu chi thành 5 xã: Trà Kiệu Thượng, Trà Kiệu Đông, Trà Kiệu Tây, Trà KiệuNam, Trà Kiệu Bắc, nay thuộc xã Duy Trung và Duy Sơn của huyện Duy Xuyên, QuảngNam. Năm 1947, khi quân Pháp chiếm bờ nam sông Thu Bồn cũng đã thiết lập trên đồi này một đồn binh, thường gọi là đồn Kiểm Lâm. Trong kháng chiến chống Mỹ, nơi này cũng là một căn cứ quân sự của địch. – Theo trục BắcNam, Duy Xuyên ở vào trung độ của tỉnh QuảngNamvà của cả nước. + Phía Bắc, tính từ Tây sang Đông ( từ Phường Rạnh đến Cửa Đại) có sông Thu Bồn làm ranh giới giữa Duy Xuyên với các huyện Điện Bàn, Đại Lộc, Hội An. + Phía Đông giáp biển Đông ( Nam Cửa Đại). Địa hình Duy Xuyên chảy từ Tây xuống Đông trải dài 45km dọc theo bờNamsông Thu Bồn. Có rừng núi phía Tây và TâyNam, có vùng đồng bằng ven sông màu mỡ và vùng cát ven biển. Diện tích tự nhiên 29.909,5ha. Đường thủy theo bốn nhánh sông: Vu Gia, Thu Bồn, Bà Rén và Trường Giang thuận tiện cho việc đi lại giao thương. Các bến sông An Lương, Nồi Rang, Bàn Thạch, Câu Lâu, Cầu Chìm, Kiểm lâm, Thu Bồn, Phú Đa…nối liền để ra cửa Đại hoặc đi Hội An, Tam Kỳ, Đà Nẵng… hoặc ngược lên Trung Phước, Tý, Sé, Dùi Chiêng… hoặc vào Nam ra Bắc hoặc có thể đi ra nước ngoài. Từ xa xưa, đường thủy đã có bến cảng Trà Nhiêu để thương nhân nước ngoài vào giao lưu buôn bán với Đàng Trong. Đường bộ có Trạm Nam Phước là một trong bảy trạm thời Tây Sơn và Nhà Nguyễn đi công cán, truyền tin. Bến trạm Câu lâu, Lang Châu, Vân Quật là những bến trạm chính qua sông Bà Rén vào Trà Đình điNam. Những năm 20 của thế kỷ XX có đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên việt chạy qua địa bàn huyện, lại có tỉnh lộ 610 đi từ Bàn Thạch lên đến Mỹ Sơn, An Hòa dài gần 40 km nối với các con đường công hương vào thôn xóm . + Duy Xuyên nổi tiếng với di sản thế giới – Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm. Ngoài ra, Duy Xuyên còn có kinh thành Trà Kiệu, có thủy điện Duy Sơn, đập Vĩnh Trinh. Nhân dân Duy Xuyên có truyền thống đấu tranh từ lâu đời gắn liền với quá trình khai hoang phục hóa phát triển sản xuất. Từ vùng đất ven sông Thu Bồn, trải qua hàng ngàn năm với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, con người Duy Xuyên từ đời này sang đời khác với tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại những âm mưu hủy diệt của quân thù để bồi dựng nên những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, kiến lập nên cuộc sống phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc văn hóa riêng trong nền văn hóa dân tộc, nên những cảnh quan đẹp đẽ và những di tích kỳ vĩ của con người. Duy Xuyên nổi tiếng đất Quảng là miền đất học, với ngôi trường mang bút danh nhà chí sĩ yêu nước phan bội châu, trường THPT SÀO NAM, ngôi trường vừa được chủ tịch nước phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, một cái nôi của nhân tài đất Quảng, trường đứng đầu tỉnh về chất lượng giáo dục với 50% học sinh xếp loại học lục khá giỏi, tỉ lệ đỗ vào các trường đại học và cao đẳng trên cả nước khoảng 80%/năm, nhiều thí sinh của trường còn là thủ khoa của các trường đại học cao đẳng trong các kì tuyển sinh. + Kinh tế từ xưa đến nay chủ yếu là nền nông nghiệp lúa nước với 70% sống bằng nghề nông còn lại làm nghề buôn bán, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp và viên chức nhà nước. Đặc biệt do có diện tích lớn bãi bồi ven sông nên nghề trồng dâu nuôi tằm được hình thành rất sớm và đã có lúc thực sự hưng thịnh gắn liền với nghề ươm tơ dệt lụa một thời lừng lẫy với mỹ danh. “Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều” + Cùng với văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm pa có vị trí trọng yếu trong tiến trình lịch sử dân tộc, các di tích văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa ở Duy Xuyên là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa Duy Xuyên. Ở ViệtNamvà Đông Nam Á, văn hóa Sa Huỳnh được biết đến khá sớm . Gần một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu đã trôi qua , đặc biệt từ sau năm 1975, với nhiều phát hiện mới đa dạng và phong phú, tri thức về văn hóa Sa Huỳnh đã được mở rộng. Sau hàng loạt các cuộc điều tra, thăm dò, khai quật mới được triển khai trên nhiều địa bàn khác nhau ở Duy Xuyên, đã đưa ra ánh sáng một khối lượng tư liệu và hiện vật phong phú. Trên cơ sở đó, nhận thức về văn hóa Sa Huỳnh ở Duy Xuyên được nâng lên một bước mới toàn diện và sâu sắc. Nhờ có những phát hiện mới này, chúng ta biết được các nhóm cư dân Sa Huỳnh không chỉ phân bố dọc duyên hải miền Trung mà còn phân bố ở các vùng trung du và vùng núi Quảng Nam…Chính địa vực phân bố khác nhau trên đã tạo ra trong văn hóa Sa Huỳnh sự đa sắc văn hóa trong khối nền chung. Sắc thái văn hóa núi đã dần hiện lên những nét độc đáo của văn hóa sa Huỳnh bên các sắc thái biển truyền thống. Sưu tập văn hóa Sa huỳnh phát hiện tại Duy Xuyên-QuảngNamgóp phần làm phong phú nhận định trên. Trong các nền văn hóa khảo cổ học nước ta, văn hóa Chămpa chiếm vị trí quan trọng. Từ những phát hiện đầu tiên của C. Paris về các kiến trúc đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn và các vùng phụ cận ( năm 1898) đến cuộc khai quật khảo cổ học di tích thành Trà Kiệu năm 1927-1928 của Y. Clays đến nay đã hơn một thế kỷ. Trong thời gian đó, rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động không tốt tới các di tích Chămpa ở đây. Kinh đô Trà Kiệu huy hoàng xưa giờ đây chỉ còn lại những chân móng tường thành sụp đổ, bị chôn vùi trong đất đá. Hình bóng của nó chỉ còn đọng lại trong một vài trang sách hay qua các sưu tập điêu khắc đá nổi tiếng đang được lưu giữ tại các Bảo tàng .
vanhoc
Phân tích tâm trạng của người con trai lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao Bài làm Các nhân vật trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao đều là những con người vô cùng đáng thương. Họ là nạn nhân đau đớn của hoàn cảnh sống nghèo khổ, nghiệt ngã. Lão Hạc, ông giáo, vợ ông giáo, Binh Tư và cả người con trai lão Hạc đều ám ảnh ta bởi chính câu chuyện về cuộc đời họ. Người con trai lão Hạc không xuất hiện trực tiếp trong truyện ngắn này. Ta biết đến anh qua lời kể của lão Hạc với ông giáo, qua những cuộc nói chuyện của lão Hạc với cậu Vàng. Nhưng không hiểu sao, hình ảnh người con trai lão cứ ám ảnh tâm trí tôi như ngôi sao xa bạc mệnh ở đời. Qua lời kể của lão Hạc, ta biết anh là người con trai duy nhất của lão. Anh yêu một cô gái trong làng nhưng vì nhà nghèo nên đành phải chia tay với người mình yêu. “Ý thằng con lão thì nó muốn bán vườn, cố lo cho bằng được”. Ta hiểu tâm trạng của anh. Với anh, đó là tình yêu đích thực, là khát vọng có vợ, có một gia đình bình thường như biết bao người con trai trong làng khác. Đó là khát vọng rất chính đáng của một người đã đến tuổi lập gia đình. Nhưng cuộc đời đâu có chiều theo ý người ta. Vì hoàn cảnh gia đình không lo đủ nên anh đành phải chấp nhận sự chia lìa, từ bỏ mơ ước về tình yêu và mái ấm. Nghe lão Hạc phân giải, anh âm thầm từ bỏ ý định: “Nó cũng là một thằng khá, nó thấy bố nó nói thế thì thôi ngay. Nó không đả động đến việc cưới xin gì nữa”. Có lẽ do anh đã ý thức rất rõ gia cảnh của gia đình mình, cũng vì thương bố, vì là một người con trai biết nghĩ nên anh không đả động đến việc cưới xin ấy nữa. Nhưng tình yêu bị chia lìa đâu có phải dễ quên. “Nó có vẻ buồn. Và lão biết nó vẫn đeo đuổi con kia mãi”. Tâm trạng của anh con trai là nét tâm trạng rất thực của những người con trai nhà nghèo yêu mà không đến được dich, yêu mà không lấy được người mình yêu. Nhưng đó cũng là người con biết thương cha và là người con đầy lòng hiếu thảo. Bỏ lại cha già ở quê nghèo không người chăm sóc, nhiều người sẽ nghĩ anh vì tình riêng mà bất nghĩa với cha. Nhưng chỉ đến khi đọc được những dòng văn này ta mới thấy vừa cảm thông vừa thương cho người con trai cũng nhiều bất hạnh: “Trước khi đi nó còn cho tôi ba đồng bạc ông giáo ạ. Chả biết nó gửi thẻ xong, vay trước được mấy dồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó đưa cho tôi ba đồng và bảo: “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà, xưa nay con ở nhà mãi cũng chẳng nuôi được thầy bữa nào, thì con đi cũng chẳng phải lo, thầy bòn vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ ăn”. Những câu văn đượm lòng thương cảm với người cha già rồi đây sẽ sống trong cảnh côi cút. Những câu văn đầy sự xót xa của một người con không làm tròn chữ hiêu với người cha già của mình. Phải là một đứa con biết nghĩ và có những suy nghĩ rất sâu sắc, người con trai lão Hạc mới có những hành động như vậy. Từ bỏ ý định lấy vợ cũng một phần vì thương cha, thương cho hoàn cảnh sống đói khổ của hai cha con. Quyết tâm đi làm đồn điền cao su là vì muốn cha bớt khố’ với hi vọng vào ngày mai khá hơn. Câu chuyện con lão Hạc và một sự thách thức với cuộc đời, với cái chết để trả giá cho cái nghèo, ta như cũng bắt gặp đâu đó trong Tiễn dặn người yêu của dân tộc Thái. Chừng nào còn cái nghèo trước số phận một con người hay dân tộc thì hình ảnh con lão Hạc vẫn còn ám ảnh bạn đọc sâu sắc. Trong truyện ngắn Lão Hạc, có nhiều nhân vật đã khóc. Hình ảnh người con trai lão “rân rấn nước mắt” từ biệt cha trước lúc ra đi đã làm ta xúc động. Đó là những giọt nước mắt của lòng yêu thương cha già, của những nỗi trăn trở và day dứt về việc chưa làm tròn bốn phận người con của mình. Những nhân vật của Nam Cao dù nghèo khổ, bất hạnh nhưng luôn là những đốm sáng dù leo lét trong đời. Những nét nhân cách của họ rất đáng trọng. Người con trai lão Hạc vừa làm ta thấy đáng thương vừa đáng trọng. Dù xuất hiện không nhiều, không trực tiếp trong tác phẩm nhưng nhân vật này có tiếng nói riêng, có cuộc đời, có sức sống riêng trong tác phẩm. Cuộc đời éo le của anh cũng là bản cáo trạng tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy cha con anh và biết bao người vào cảnh khốn cùng, cướp mất của anh tình yêu chân chính và đẩy cha con anh vào hoàn cảnh chia lìa. Qua nhân vật người con trai lão Hạc, một lần nữa Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh vô cùng chân thực về số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
vanhoc
Du  khách đến Ấn Độ phải xin thị thực từ một trong những phái vụ ngoại giao Ấn Độ trừ khi họ đến từ một trong những quốc gia được miễn thị thực hoặc có thể xin thị thực qua mạng. Bản đồ chính sách thị thực Miễn thị thực Công dân của các nước sau không cần thị thực để đến Ấn Độ (trừ khi đi từ Trung Quốc đại lục), mà họ có thể ở lại không giới hạn (trừ khi có chú thích): Công dân nước ngoài sở hữu chứng nhận công dân hải ngoại Ấn Độ cũng được miễn thị thực. Công dân của Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc đại lục, Nepal, Pakistan, hoặc Sri Lanka thường không có quyền công dân Ấn Độ hải ngoại. Thị thực tại cửa khẩu Công dân của  có thể xin thị thực tại cửa khẩu ở Bengaluru, Chennai, Delhi, Hyderabad, Kolkata hoặc Mumbai từ ngày 1 tháng 3 năm 2016. Thị thực được cấp cho công tác, du lịch, y tế và hội họp, có hiệu lực 30 ngày. Phí là 2.000 Rs. Thị thực tại cửa khẩu chỉ có thể được thực hiện không quá 2 lần một năm. Thị thực du lịch điện tử Vào ngày 27 tháng 11 năm 2014, sự cấp phép chuyến đi điên tử (ETA) đi vào hoạt động đối với công dân của 40 quốc gia, bao gồm những quốc gia có thể làm thị thực tại cửa khẩu. Danh sách này sau đó được mở rộng thành 113 quốc gia trong tháng 8 năm 2015 (xem dnah sách bên dưới). ETA được cấp cho du lịch, thăm bạn bè và gia đình, điều trị y tế ngắn hạn và công tác. Hệ thống nào sau đó được đổi tên thành thị thực du lịch điện tử (eTV) vào ngày 15 tháng 4 năm 2015. Việc xin thị thực du lịch điện tử phải được thực hiện ít nhất 4 ngày trước ngày đến nơi. Thị thực này có hiệu lực cho một lần nhập cảnh với số ngày ở lại tối đa là 30 ngày kể từ ngày nhập cảnh, và có thể được xin 2 lần 1 năm. Quãng thời gian ở lại không thể được gia hạn. Phí thị thực du lịch điện tử được chia thành bốn loại: miễn phí, 25 đô la Mỹ, 48 đô la Mỹ và 60 đô la Mỹ, tuỳ thuộc vào quốc gia (dựa trên chính sách qua lại), cộng với phí ngân hàng là 2,5% của phí thị thực. Thị thực du lịch điện tử cho phép đến tại 16 sân bay sau: Công dân của các quốc gia và vùng lãnh thổ sau có hộ chiếu phổ thông có thể xin thị thực du lịch điện tử (trừ khi công dân đó có nguồn gốc Pakistan): Chú thích: Từ ngày 3 tháng 11 năm 2015, phí thị thực cho công dân của quốc gia với số "1" là 60 đô la Mỹ quốc gia với số "2" là 25 đô la Mỹ quốc gia với số "3" là miễn phí quốc gia không có số là 48 đô la Mỹ Thống kê du khách Hầu hết du khách đến Ấn Độ đều đến từ các quốc gia sau: Xem thêm Yêu cầu thị thực đối với công dân Ấn Độ Hộ chiếu Ấn Độ Tham khảo Ấn Chính Thị thực
wiki
Các thuật ngữ kinh doanh đẩy và kéo bắt nguồn từ hậu cần và quản lý chuỗi cung ứng, nhưng cũng được sử dụng rộng rãi trong tiếp thị, và cũng là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh phân phối khách sạn. Walmart là một ví dụ về một công ty sử dụng chiến lược đẩy so với kéo. Quản lý chuỗi cung ứng Định nghĩa đầy đủ Đẩy: Như đã nêu của Bonney et al. (1999) kiểm soát luồng thông tin theo cùng một hướng của dòng hàng hóa Đẩy một phần hoặc đẩy-kéo: Nút thành công thực hiện yêu cầu đặt hàng cho nút trước. Nút trước phản ứng bằng cách bổ sung từ cổ phiếu được xây dựng lại mỗi kỳ cố định. Kéo: Nút thành công thực hiện yêu cầu đặt hàng cho nút trước. Nút trước phản ứng bằng cách tạo ra thứ tự, bao gồm tất cả các hoạt động nội bộ và bổ sung khi hoàn thành. Kéo một phần hoặc kéo-đẩy: Nút thành công thực hiện yêu cầu đặt hàng cho nút trước. Nút trước phản ứng bằng cách bổ sung từ cổ phiếu được xây dựng lại ngay lập tức. Có một số cấp độ của các hệ thống bán kéo như một nút có thể có cổ phiếu ở một số lớp trong một tổ chức. Luồng thông tin Với chuỗi cung ứng dựa trên đẩy, các sản phẩm được đẩy qua kênh, từ phía sản xuất đến nhà bán lẻ. Nhà sản xuất đặt sản xuất ở mức phù hợp với mô hình đặt hàng lịch sử từ các nhà bán lẻ. Phải mất nhiều thời gian hơn để chuỗi cung ứng dựa trên lực đẩy đáp ứng với những thay đổi về nhu cầu, điều này có thể dẫn đến tình trạng quá tải hoặc tắc nghẽn và chậm trễ (hiệu ứng bullwhip), mức độ dịch vụ không thể chấp nhận và lỗi thời của sản phẩm. Trong chuỗi cung ứng dựa trên kéo, mua sắm, sản xuất và phân phối được định hướng theo nhu cầu hơn là dự báo. Tuy nhiên, chiến lược kéo không phải lúc nào cũng yêu cầu sản xuất theo đơn đặt hàng. Toyota Motors Sản xuất thường được sử dụng như một ví dụ về sản xuất kéo, nhưng thường không sản xuất theo đơn đặt hàng. Họ theo "mô hình siêu thị" nơi hàng tồn kho hạn chế được giữ trong tay và được bổ sung khi nó được tiêu thụ. Trong trường hợp của Toyota, thẻ Kanban được sử dụng để báo hiệu sự cần thiết phải bổ sung hàng tồn kho. Chuỗi cung ứng hầu như luôn là sự kết hợp của cả đẩy và kéo, trong đó giao diện giữa các giai đoạn dựa trên đẩy và các giai đoạn dựa trên kéo đôi khi được gọi là ranh giới kéo đẩy. Tuy nhiên, vì sự khác biệt tinh tế giữa sản xuất kéo và sản xuất theo đơn đặt hàng, một cái tên chính xác hơn cho điều này có thể là điểm tách rời. Một ví dụ về điều này là bản dựng của Dell để đặt hàng chuỗi cung ứng. Mức tồn kho của các thành phần riêng lẻ được xác định bằng cách dự báo nhu cầu chung, nhưng lắp ráp cuối cùng là để đáp ứng yêu cầu khách hàng cụ thể. Điểm tách mẫu sau đó sẽ ở đầu dây chuyền lắp ráp. Áp dụng cho phần đó của chuỗi cung ứng nơi sự không chắc chắn về nhu cầu là tương đối nhỏ Quyết định sản xuất và phân phối dựa trên dự báo dài hạn Dựa trên các đơn đặt hàng trước đây nhận được từ kho của nhà bán lẻ (có thể dẫn đến hiệu ứng bullwhip) Không có khả năng đáp ứng mô hình nhu cầu thay đổi Các lô sản xuất lớn và thay đổi Mức độ dịch vụ không được chấp nhận Hàng tồn kho quá mức do nhu cầu cổ phiếu an toàn lớn Ít chi tiêu cho quảng cáo hơn chiến lược kéo Trong một hệ thống kéo tiếp thị, người tiêu dùng yêu cầu sản phẩm và "kéo" nó qua kênh phân phối. Một ví dụ về điều này là công ty sản xuất xe hơi Ford Australia. Ford Úc chỉ sản xuất ô tô khi họ đã được khách hàng đặt hàng. Áp dụng cho phần đó của chuỗi cung ứng nơi nhu cầu không chắc chắn cao Sản xuất và phân phối theo nhu cầu Không có hàng tồn kho, đáp ứng các đơn đặt hàng cụ thể Dữ liệu điểm bán hàng (POS) rất hữu ích khi được chia sẻ với các đối tác chuỗi cung ứng Giảm thời gian dẫn Khó thực hiện Sử dụng chiến lược kéo, đẩy và lai đẩy Harrison đã tóm tắt khi nào nên sử dụng từng một trong ba chiến lược chuỗi cung ứng: Chiến lược chuỗi cung ứng dựa trên lực đẩy thường được đề xuất cho các sản phẩm có độ không chắc chắn về nhu cầu thấp, vì dự báo sẽ cung cấp một dấu hiệu tốt về những gì sản xuất và giữ trong kho, và cho các sản phẩm có tầm quan trọng cao về quy mô trong việc giảm chi phí. Chiến lược chuỗi cung ứng dựa trên kéo, thường được đề xuất cho các sản phẩm có độ không chắc chắn về nhu cầu cao và tầm quan trọng thấp của tính kinh tế của quy mô, có nghĩa là, tập hợp không làm giảm chi phí, và do đó, công ty sẽ sẵn sàng quản lý chuỗi cung ứng dựa trên nhu cầu thực hiện. Chiến lược kéo đẩy lai, thường được đề xuất cho các sản phẩm có nhu cầu không chắc chắn cao, trong khi tính kinh tế theo quy mô rất quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất và giao hàng. Một ví dụ về chiến lược này là ngành công nghiệp đồ nội thất, nơi chiến lược sản xuất phải tuân theo chiến lược dựa trên sức kéo, vì không thể đưa ra quyết định sản xuất dựa trên dự báo dài hạn. Tuy nhiên, chiến lược phân phối cần tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô để giảm chi phí vận chuyển, sử dụng chiến lược dựa trên lực đẩy. Ví dụ trong đẩy và kéo Hopp và Spearman xem xét một số hệ thống phổ biến nhất được tìm thấy trong công nghiệp và tài liệu và phân loại chúng là đẩy hoặc kéo Lập kế hoạch yêu cầu vật liệu (MRP) là một hệ thống đẩy vì các bản phát hành được thực hiện theo lịch sản xuất chính mà không liên quan đến tình trạng hệ thống. Do đó, không có giới hạn WIP tiên nghiệm tồn tại. Kanban cổ điển là một hệ thống kéo. Số lượng thẻ kanban thiết lập một giới hạn cố định trên WIP. Hệ thống chứng khoán cơ sở cổ điển là một hệ thống đẩy vì không có giới hạn về số lượng công việc trong quy trình trong hệ thống. Điều này là do sự hỗ trợ có thể tăng vượt quá mức chăn nuôi. Cổ phiếu cài đặt cũng là một hệ thống đẩy như các hệ thống chứng khoán tiếng vang vì không áp đặt giới hạn về số lượng đơn đặt hàng trong hệ thống. CONWIP là một hệ thống kéo vì nó giới hạn WIP thông qua các thẻ tương tự như kanban. Một sự khác biệt quan trọng so với Kanban từ quan điểm thực hiện là các thẻ cụ thể theo dòng chứ không phải là một phần cụ thể. Tuy nhiên, từ góc độ kéo đẩy, thẻ CONWIP giới hạn WIP theo cách tương tự như thẻ kanban. Các hệ thống (K, S) (được đề xuất bởi Liberopoulos và Dallery) là các hệ thống kéo nếu K <và là các hệ thống đẩy khác. Các hệ thống POLCA được Suri đề xuất là các hệ thống kéo bởi vì, giống như kanban và CONWIP, WIP bị giới hạn bởi thẻ. Các hệ thống PAC được đề xuất bởi Buzacott và Shanthikumar là các hệ thống kéo khi số lượng thẻ quy trình (phục vụ để giới hạn WIP) ít hơn vô hạn. MRP với ràng buộc WIP (theo đề xuất của Axsäter và Rosling) là một hệ thống kéo. Tiếp thị Chiến lược đẩy quảng cáo đề cập đến tình huống khi nhà cung cấp quảng cáo sản phẩm của mình để có được nhận thức của khán giả, trong khi chiến lược kéo ngụ ý nhằm tiếp cận đối tượng đã thể hiện sự quan tâm hiện có về sản phẩm hoặc thông tin về sản phẩm đó. Sự khác biệt giữa tiếp thị "đẩy" và "kéo" cũng có thể được xác định bằng cách thức mà công ty tiếp cận khách hàng tiềm năng. Nếu, ví dụ, công ty đã gửi một tập tài liệu bán hàng, điều đó sẽ được coi là đẩy cơ hội về phía dẫn đầu. Thay vào đó, nếu công ty cung cấp một chuyên gia về chủ đề như một diễn giả cho một sự kiện trong ngành có sự tham gia của các khách hàng tiềm năng, thì đó có thể là một chiến thuật được sử dụng như một phần của chiến lược để dẫn đầu bằng cách khuyến khích người đó tìm kiếm chuyên gia trong thời điểm cần thiết cho chuyên môn đó. Phân phối khách sạn Thế giới trực tuyến đã đưa ra quyết định đẩy này cho doanh nghiệp phân phối khách sạn Chiến lược thúc đẩy trong kinh doanh phân phối khách sạn ngụ ý rằng hàng tồn kho của khách sạn được đặt cho các nhà phân phối hoặc đại lý bên ngoài hệ thống khách sạn trong một hoặc một số extranet thuộc về các nhà phân phối này (đại lý du lịch trực tuyến, công ty lữ hành và ngân hàng giường). Do đó, hàng tồn kho phải được cập nhật trong các extranet này. Các máy chủ của khách sạn nhận được ít sự cố giao thông hơn ngăn chặn máy chủ nhưng đặt phòng phải được chuyển đến hệ thống khách sạn. Chiến lược kéo dựa trên các nhà phân phối giao thoa với hệ thống quản lý tài sản của khách sạn. Trong trường hợp này, hàng tồn kho được "kéo" từ hệ thống khách sạn (hoặc chuỗi khách sạn). Phương pháp này cung cấp một bức tranh chính xác hơn nhiều về tính khả dụng thực tế và tiết kiệm thời gian tải các đặt chỗ, nhưng, đòi hỏi sự phát triển CNTT nhiều hơn và một máy chủ lớn hơn (dành riêng). Xem thêm Cung và cầu Tiếp thị kỹ thuật số Theo dõi công khai Suy nghĩ tinh gọn Quyết định Chiến lược tiếp thị Mô hình tiếp thị hỗn hợp Tham khảo Quản trị chiến lược Quản lý chuỗi cung ứng
wiki
Vanessa Anne Hudgens (sinh ngày 14 tháng 12 năm 1988) là một nữ diễn viên, ca sĩ người Mỹ. Vanessa Hudgens bắt đầu đóng phim từ lúc bé, cô bắt đầu nổi tiếng trong bộ phim High School Musical và sau đó còn tham gia nhiều phim khác, trong đó phần lớn là các bộ phim truyền hình nhiều tập. Đời tư Vanessa Hudgens sinh ra tại Salinas, California, Hoa Kỳ. Cha cô, ông Greg Hudgens, là người có gốc gác từ Ireland, Mỹ và Ấn Độ. Mẹ Vanessa Hudgens, bà Gina Guangco, cũng là một người có gốc gác đa dân tộc: Philippines, Trung Quốc, Tây Ban Nha,.... Em gái cô, Stella Hudgens cũng là một diễn viên. Trong một lần sơ ý, Vanessa đã để lộ ảnh khoả thân được gửi cho bạn trai cũ. Và sự việc tưởng như đến mức trầm trọng dồn cô vào mức đường cùng, khiến hãng Disney định cắt hợp đồng và không cho Vanessa tiếp tục đóng phim nữa, nhưng Van đã đứng lên bằng chính đôi chân của mình. Các fan cũng đã ủng hộ cô hết mình. Và Van sẽ được đóng tiếp trong phần 3 của bộ phim High School Musical. Ngoài ra sau sự việc đó có nhiều lời đồn rằng Vanessa và bạn trai là Zac Efron đã chia tay nhưng sự thật không phải là vậy, các tin đồn đã làm họ gắn kết với nhau hơn. Đây được coi là cặp đôi hot nhất Hollywood. Chuyện này cũng là một bài học làm "sao" cho những ngôi sao tuổi teen. Nhưng hiện nay cô đã chia tay Zac Efron và hẹn hò với nam diễn viên Austin Butler. Vanessa Hudgens cao 1m59, lấy từ http://www.celebheights.com. Sự nghiệp Từ năm lên 8, Vanessa Hudgens đã bộc lộ tài năng ca hát trong các vở nhạc kịch như Evita, The Wizard of Oz, Cinderella, v.v. Năm 2003, Vanessa xuất hiện lần đầu tiên trong phim Thirteen, và năm 2004 cô tham gia phim Thunderbird. Năm 2006 trở thành một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp diễn viên của Vanessa Hudgens khi cô đóng vai chính trong bộ phim High School Musical. Thành công của bộ phim đã đưa Baby V., tên thân mật của Vanessa Anne Hudgens, một diễn viên với chiều cao khiêm tốn 1,55 m trở thành thần tượng trong thế giới thiếu niên. Bên cạnh những người bạn nổi tiếng như Miley Cyrus, Brenda Song, Ashley Tisdale, Alexa Nikolas, Vanessa Hudgens vẫn giữ liên lạc với những người bạn từ Philippines của mình và quan tâm đến người hâm mộ. Hiện bạn trai của cô là Zac Efron, đồng nghiệp của cô trong phim High School Musical. Hiện giờ đoàn làm phim đã đóng máy hoàn thành High School Musical 3 (HSM 3), và dự kiến phim này sẽ đến Việt Nam vào ngày 20 tháng 11 năm 2008. HSM 3 khác so với 2 phần trước là lần này phim sẽ được chiếu ngoài rạp. Một trong những nghệ sĩ mà cô yêu thích là Christina Aguilera. Các phim đã tham gia Danh sách đĩa hát Album phòng thu V (2006) Identified (2008) Nhạc Phim Đĩa đơn Tham khảo Liên kết ngoài Trang web Vanessa Anne Hudgens của người hâm mộ Vanessa Hudgens Official MySpace Vanessa Hudgens Official Site Nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nữ diễn viên truyền hình Mỹ Nữ diễn viên California Sinh năm 1988 Nữ diễn viên thiếu nhi Mỹ Người Mỹ gốc Philippines Nhân vật còn sống Ca sĩ Mỹ thế kỷ 21 Ca sĩ thiếu nhi Mỹ Nhạc sĩ nhạc dance Mỹ Người Mỹ gốc Ireland Người Mỹ gốc Tây Ban Nha Nhạc sĩ nhạc pop thiếu nhi Nghệ sĩ của Hollywood Records Ca sĩ California Nữ ca sĩ thế kỷ 21
wiki
Facebook là một trong những phương tiện truyền thông mạng xã hội trực tuyến được nhiều người sử dụng nhất hiện nay. Tính đến năm 2020 thì đã có 2.6 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng. Facebook Marketing là hình thức thực hiện marketing trên nền tảng mạng xã hội Facebook, các hoạt động Facebook Marketing liên quan đến việc tạo ra và sử dụng trang Facebook với vai trò là một kênh giao tiếp để duy trì mối liên hệ và thu hút khách hàng, nhằm mục đích xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, dịch vụ, cá nhân hoặc tổ chức. Các đối tượng sử dụng Facebook Marketing Với trung bình hơn 2,6 tỷ người dùng đang hoạt động, mọi doanh nghiệp nên sử dụng Facebook như một công cụ marketing hiệu quả để tiếp cận khách hàng tiềm năng. Việc tạo lập một Page trên Facebook cũng cần thiết như việc thiết kế website của doanh nghiệp nhưng lại dễ thực hiện hơn rất nhiều. Một số đối tượng sử dụng Facebook Marketing bao gồm: Các thương hiệu: Trong ngành hàng thực phẩm, đồ điện tử, đồ gia dụng, sản phẩm thời trang,dịch vụ ăn uống,... - gần như tất cả các ngành đều có thể marketing thông qua công cụ Facebook. Thương hiệu có thể khiến những khách hàng không biết đến thương hiệu trở thành những người hâm mộ và theo dõi các chương trình khuyến mãi của thương hiệu, thậm chí là chia sẻ với bạn bè, người thân của họ. Các doanh nghiệp địa phương: Các doanh nghiệp có thể thu hút khách hàng ngay tại địa phương của mình thông qua công cụ Facebook. Cho dù là doanh nghiệp gia đình hay doanh nghiệp nhượng quyền đều có thể tiếp cận các cá nhân cụ thể mà doanh nghiệp muốn hướng đến bằng các tính năng trên Facebook. Cá nhân: Ca sĩ, diễn viên, nghệ sĩ, tác giả,... - những người cần đến sự nổi tiếng để phục vụ cho công việc đều có thể sử dụng nền tảng Facebook để quảng bá bản thân mình. Các tổ chức phi lợi nhuận: Các tổ chức từ thiện, các nhóm chính trị, các chiến dịch công cộng đều có thể tận dụng tính năng chia sẻ của Facebook để kêu gọi cộng đồng. Các loại hình quảng cáo Facebook phổ biến Quảng cáo đăng bài tương tác trên page: Tập trung vào tăng lượng tương tác với người dùng thông qua các bài viết, hình ảnh, video. Quảng cáo nhấp chuột dẫn link: Khi nhấn vào các link này, người dùng sẽ được đưa tới các trang đích là Website hay Blog của doanh nghiệp. Quảng cáo video: Một hình thức khác của quảng cáo nhấp chuột dẫn link, quảng cáo video sẽ thay thế quảng cáo bằng ảnh tĩnh. Quảng cáo thúc đẩy bài đăng trên Page: Khi nhấp vào "Boost Post", doanh nghiệp có thể thiết lập đối tượng mục tiêu, phương pháp đặt giá thầu và quảng bá bài đăng trên trang tới nhiều người hơn trên mạng quảng cáo của Facebook. Boost Page Post sẽ giống như một bài đăng trên Facebook bình thường với một lưu ý "Sponsored" trên đầu trang của quảng cáo. Quảng cáo dạng băng chuyền: Bài đăng được cho phép có tối đa 10 hình ảnh, video hoặc tiêu đề; có thể di chuyển qua về từ phải sang trái hoặc từ trái sang phải. Quảng cáo động: Quảng cáo động sẽ tự động quảng cáo danh mục sản phẩm với những người thể hiện sự quan tâm trên trang web, trong ứng dụng hoặc ở nơi nào đó trên Internet. Quảng cáo động giống hệt các quảng cáo một hình ảnh, quảng cáo quay vòng hoặc quảng cáo bộ sưu tập khác trên Facebook, Instagram và Audience Network. Tuy nhiên, thay vì tạo riêng quảng cáo cho từng mặt hàng bạn quảng cáo, doanh nghiệp sẽ tạo một mẫu quảng cáo tự động sử dụng hình ảnh và chi tiết từ danh mục của mình cho mặt hàng muốn quảng cáo. Quảng cáo thích trang:  Với quảng cáo lượt thích Trang, doanh nghiệp có thể tiếp cận những người có khả năng thích Trang của họ. Nếu mục tiêu là tăng mức độ nhận biết về doanh nghiệp, thì các loại quảng cáo này là cách quảng bá Trang cho những người quan tâm tới nội dung hoặc loại hình doanh nghiệp như của họ. Quảng cáo ưu đãi: Ưu đãi là các chiết khấu mà doanh nghiệp có thể chia sẻ với khách hàng trên Facebook để khuyến khích họ mua sắm trên trang web, tại cửa hàng thực tế hoặc cả hai nơi. Khi mọi người nhìn thấy ưu đãi trong Bảng tin trên Facebook, họ có thể lưu, thích hoặc bình luận về ưu đãi đó. Khi ai đó lưu ưu đãi, ưu đãi đó sẽ xuất hiện trong dấu trang ưu đãi của họ để dùng sau. Một người lưu ưu đãi sẽ được nhắc về ưu đãi đó trên Facebook tối đa 3 lần, tùy theo tùy chọn thông báo của riêng họ. Quảng cáo sự kiện:  Quảng cáo sự kiện giúp tăng số phản hồi hoặc doanh số bán vé trên trang web mà bạn sử dụng và giới thiệu sự kiện của mình. Đồng thời, quảng cáo sự kiện còn giúp doanh nghiệp nhắm mục tiêu những người có thể quan tâm đến sự kiện của mình và nhắm mục tiêu lại những người tỏ ra quan tâm trong quá khứ. Sự kiện có thể được tạo qua hình thức video, hình ảnh hoặc các định dạng nội dung khác để thu hút đối tượng mình muốn. Quảng cáo ứng dụng: Quảng cáo ứng dụng trên Facebook là cách tốt nhất để thu hút thêm người cài đặt ứng dụng, sử dụng ứng dụng và thực hiện những hành động cụ thể trong ứng dụng - chẳng hạn như mua hàng hay lên một bài mới trong trò chơi. Để khai thác tối đa quảng cáo ứng dụng, doanh nghiệp có thể thiết lập Facebook SDK (Bộ công cụ phát triển phần mềm) với ứng dụng để tiếp cận những khách hàng có giá trị nhất, theo dõi hành động mà mọi người thực hiện trong ứng dụng và đo lường sự thành công của chiến dịch quảng cáo. Các bước cơ bản khi thực hiện Facebook Marketing Xác định mục tiêu cụ thể Doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu khi quảng cáo là để bán hàng, tăng độ nhận diện thương hiệu hay là những thứ khác. Ngân sách chi trả là bao nhiêu, kết quả bạn muốn đạt được thông qua chiến lược marketing facebook của mình. Khi xác định được mục tiêu cụ thể thì mới áp dụng điều chỉnh phương pháp phù hợp với doanh nghiệp của bạn. Xác định đối tượng khách hàng nhắm đến Facebook cho phép chúng ta tiếp cận được đối tượng khách hàng một cách có chọn lọc. Dù là người già hay trẻ, gái trai, hay khu vực sinh sống…, doanh nghiệp cần biết khách hàng của mình là ai và họ cần gì ở sản phẩm hay dịch vụ của mình. Chọn kênh Hiện tại, Facebook đang có 3 kênh đó là Trang cá nhân, Page và Group. Tùy vào mục đích của mình, các doanh nghiệp lựa chọn một hoặc nhiều kênh phù hợp với nhu cầu và nguồn lực phát triển của công ty. Xây dựng nội dung Marketing có thành công hay không, phần lớn phụ thuộc vào nội dung, thông điệp mà doanh nghiệp đem đến. Nội dung càng sáng tạo, càng mới lạ sẽ thu hút được người dùng tương tác với doanh nghiệp. Từ đó góp phần tăng độ nhận diện thương hiệu và thu hút khách hàng mới đến với công ty. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên chú trọng vào lưu lượng bài đăng tải, một ngày bao nhiêu bài hay bao nhiêu ngày một bài là đủ để gây được sự gợi nhớ từ khách hàng và duy trì lượng tương tác với doanh nghiệp. Theo dõi và điều chỉnh Sau khi hoàn tất các bước trên, doanh nghiệp sẽ bắt đầu lựa chọn 1 hoặc nhiều các loại hình phù hợp chạy quảng cáo áp dụng cho bài đăng của mình. Thị trường luôn thay đổi, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đưa ra được các phương thức tiếp cận phù hợp. Vì vậy, việc thường xuyên theo dõi tình trạng tương tác và phản hồi của các bài đăng sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình và điều chỉnh chiến lược phù hợp với từng giai đoạn của doanh nghiệp. Tham khảo Bài sinh viên đóng góp cho Wikipedia Tiếp thị Truyền thông quảng cáo và tiếp thị Tiếp thị kỹ thuật số Quảng cáo trực tuyến Mạng xã hội Facebook
wiki
Hướng dẫn Anh/chị suy nghĩ như nào về câu chuyện sau: Những Dấu Chấm Câu Có một người chẳng may đánh mất dấu phẩy. Anh ta trở nên sợ những câu phức tạp và chỉ tìm những câu đơn giản. Đằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩa đơn giản. Sau đó, không may, anh ta lại làm mất dấu chấm than. Anh bắt đầu nói khe khé, đều đều, không ngữ điệu. Anh không cảm thán, không xuýt xoa. Không gì có thể làm anh ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả. Đằng sau đó là sự thiếu quan tâm với mọi điều. Một thời gian sau, anh ta đánh mất dấu hai chấm. Từ đó anh ta không liệt kê được, không còn giải thích được hành vi của mình nữa, lúc nào cũng chỉ trích dẫn lời của người khác. Thế là anh ta hoàn toàn quyên mất cách tư duy. Cứ như vậy, anh ta đến dấu chấm hết. Thiếu những dấu chấm câu trong một bài văn, có thể bạn chỉ bị điểm thấp vì bài văn của bạn mất ý nghĩa. Nhưng mất những dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai chấm điểm nhưng cuộc đời bạn cũng mấy ý nghĩa như vậy. Mong bạn giữ gìn cẩn thận những dấu chấm câu của mình, bạn nhé! (Theo Hạt giống tâm hồn, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) Bài làm: Mỗi một người đều định nghĩa cho mình những giá trị riêng, có những người cả cuộc đời hằng ao ước, ước gì mình được trở thành một người giàu có. Có người lại ước mình đạt được nhiều thành công, thành người nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ. Ta cứ vậy mà ao ước với chính mình, như ta liệu có hiểu, những điều đó, với những người đã đạt được và đã thành công, họ đã cố gắng từng giây trong mỗi ngày, một chút, một ít mà thành. Đọc xong câu truyện những dấu chấm câu, tôi càng thêm suy nghĩ và cảm nhận rõ hơn về những điều này. Mỗi dấu chấm câu đều có những giá trị riêng, chúng là những công cụ đắc lực của những người thạo ngôn ngữ, và sử dụng ngôn ngữ như một người nghệ sĩ. Dấu chấm câu được đặt ở nơi hợp lí trong một bài văn, không chỉ giúp bài văn hay hơn, giàu nhịp điệu, tạo được cảm xúc tổng hòa vô cùng hoàn hảo. Mà còn qua đó, giãy bày những tâm tư, nguyện ý của người viết. Ta thấu hiểu nhau hơn, ta biết rõ về nhau, cũng nhờ những dấu câu đóng một vai trò cực kì quan trọng. Nhưng, không phải ai cũng biết điều đó, và coi trọng những điều nhỏ bé như vậy. Câu truyện kể về việc lần lượt mất đi những dấu “chấm câu” cũng là quá trình nhân vật “anh” trong câu truyện dần đánh mất đi những giá trị của chính mình. Từ một suy nghĩ rất nhỏ từ những dấu câu trong một bài văn, từ dấu phẩy, giúp câu văn gãy gọn, súc tích, đủ ý, dễ hiểu dễ nghe và ngắt nhịp vừa phải trong cả một đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Điều đó lại được tác giả tượng trưng cho việc nhân vật “anh” đang mất đi chính mục đích ấy của mình, vì đánh mất dấu phẩy, nhân vật “anh” không còn định nghĩa được những giá trị căn bản. Chỉ biết tìm đến những điều đơn giản để học và đọc, không có khả năng hiểu được những điều sâu sa và anh ta cũng sợ hãi và né tránh điều đấy. Bản thân vô thức trở thành người đơn giản, nông cạn và hạn hẹp vì tự đánh mất đi “dấu phẩy” của mình. Tiếp theo, anh ta đánh mất đi dấu “chấm than”. Ồ! Anh ta chắc chắn chẳng còn như trước được nữa, không một câu nói nào có cảm xúc, chẳng nói được lời nào khiến người khác thấy xúc động,vui vẻ, hạnh phúc nữa. Anh ta vô cảm, vô thức với mọi thứ, như một cái máy đông cứng, chỉ biết nói một cách vô thức và vô cảm mà thôi. Rồi, anh ta cũng đánh mất đi “hai chấm”, dấu hai chấm tượng trưng cho sự liệt kê, nhưng anh ta lại đánh mất nó, anh ta chẳng còn tư duy được gì, mọi thứ một là một, hai là hai, tất cả dừng lại. Và đương nhiên, rốt cuộc sớm hay muộn, anh ta đã tự nhấn chìm mình và tìm đến dấu “chấm hết”. Câu nói cuối cùng của tác giả thật thấm thía, phải, trong một bài văn, sẽ chỉ là một đoạn nói sáo rỗng vì chẳng có một dấu chấm câu nào xuất hiện, mọi thứ rời rạc, vô hồn, vô cảm, vô thức, như một mớ chữ vô nghĩa lí. Còn cuộc đời, nếu con người tự đánh mất đi những “dấu câu” của mình, chúng ta cũng sẽ trở nên như vậy, trở thành một kẻ chán ghét, một cái máy vô thức, một con người robot… Và than ôi! Liệu ta có tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình? Lời nói cuối cùng là một sự khuyến khích nhẹ nhàng, chúng ta hãy gìn giữ dấu câu của chính mình, chỉ có như thế, ta mới sống tốt hơn, ta mới được sống trọn vẹn với chính mình. Chúng ta đừng nên đánh mất bản thân và nhấn chìm chính mình như vậy. Chúng ta mất dần sự liên kết mọi thứ, chỉ còn những phần rời rạc nối ghép cơ học, và dẫn đến đánh mất bản thân vì rơi mất những điều vô cùng nhỏ bé nhưng thiết thực. Từ đó ta mới rút ra một bài học, cuộc sống này không thiếu những bạn trẻ như vậy. Bởi vì sao? Ta quá ham vinh và chạy theo tiếng gọi của công việc. Cha mẹ vì lao vào kiếm tiền nên bỏ quên con cái, con cái trở nên vô cảm và làm bạn với game… hoặc chạy theo những vật chất viển vông, tầm thường bên ngoài. Đánh rơi chính mình lúc nào không hay. Suy cho cùng, ta nên học cách sống yêu thương và chan hòa hơn, cởi mở trái tim và học hỏi những điều tích cực. Hãy sống với chính mình và không ngừng vươn lên hoàn thiện những điều còn khiếm khuyết. Cuộc đời này luôn tạo dựng từ những điều nhỏ bé, hãy sống chậm lại và làm những điều nhỏ bé trước.
vanhoc
Khổ giấy theo tiêu chuẩn quốc tế EN ISO 216 xuất phát từ chuẩn DIN 476 do Viện tiêu chuẩn Đức (Deutschen Institut für Normung - DIN) đưa ra năm 1922. Song song với tiêu chuẩn này còn có các hệ thống khác như tại Hoa Kỳ hay Canada. Các tiêu chuẩn Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) Kích thước luôn viết chiều ngắn hơn trước Tất cả các khổ trong các dãy A, B và C đều là các hình chữ nhật với tỷ lệ 2 cạnh là căn bậc 2 của 2, xấp xỉ 1,414 Diện tích của khổ A0 quy định là 1m². Các cạnh của khổ A0 do đó được xác định là 841x1189mm Các khổ trong cùng dãy được theo thứ tự xác định lùi, khổ sau có diện tích bằng 50% diện tích khổ trước (được chia bằng cách cắt khổ trước theo đường cắt song song với cạnh ngắn) Các khổ của dãy B được suy ra bằng cách lấy trung bình nhân các khổ kế tiếp nhau của dãy A Các khổ của dãy C được suy ra bằng cách lấy trung bình nhân các khổ của dãy A và B tương ứng Các khổ của dãy A, B và C được tính toán thành bảng số liệu sau đây: Tiêu chuẩn Bắc Mỹ Khổ rộng Kích thước tiêu chuẩn hiện hành giấy Mỹ dựa trên cơ sở các khổ gốc sau: "Letter" ("Carta"), "Government Legal" ("Oficio"), "Half Letter", "Legal", và "Ledger"/"Tabloid" là các khổ mở rộng cho công việc hàng ngày. Khổ Letter dựa trên đơn vị đo inch (8.5" x 11" = 215.9mm x 279.4mm) Xem thêm Định lượng giấy Tham khảo Liên kết ngoài International standard paper sizes by Markus Kuhn cập nhật 25/4/2014 ISO 216:2007 Writing paper and certain classes of printed matter—Trimmed sizes—A and B series, and indication of machine direction Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 193:1966 về Giấy - Khổ sử dụng Nhà cung cấp giấy A0 tại Việt Nam Hoàn toàn không có nguồn tham khảo Giấy Tiêu chuẩn ISO Văn phòng phẩm Vẽ kỹ thuật
wiki
Kos hay Cos () là một hòn đảo của Hy Lạp thuộc nhóm đảo Dodecanese, bên cạnh vịnh Gökova. Hòn đảo có kích cỡ chiều dài đông tây và chiều rộng hướng bắc nam, và cách bờ biển Bodrum của Thổ Nhĩ Kỳ . Hòn đảo tạo thành một khu tự quản riêng biệt của đơn vị thuộc vùng Kos, một phần của vùng Nam Aegea. Thị trấn chính và thủ phủ của đảo là thị trấn Kos. Hòn đảo có 30.947 cư dân. Trong suốt lịch sử của mình, hòn đảo được biết đến với cái tên Hy Lạp là Kos. Kos được người Ottoman gọi là İstanköy và người Ý gọi là Coo, trong tiếng Anh, đảo cũng được biết đến với cái tên Stanchio. Hòn đảo là một phần của chuỗi các núi và đã tách ra sau các trận động đất và sụt lún vào thời cổ đại. Các ngọn núi này bao gồm Kalymnos và Kappari bị phân cách bởi một vực thẳm sâu 70 m (40 sải), cũng như núi lửa Nisyros và các đảo xung quanh. Có nhiều loại đá tại Kos có liên quan đến sự hình thành địa lý của nó. Nổi bật trong số này là các địa tầng phân đại Đệ tứ trong các hóa thạch còn lại của các loại động vật có vú như ngựa, hippopotami và các loài voi được tìm thấy. Răng hàm hóa thạch của một con voi với kích thước khổng lồ đang có mặt tại Bảo tàng Cổ sinh vật học của Đại học Athens. Đường bờ biển trên đảo dài 112 km và được thiên nhiên ưu ái với những bài biển dài tinh khiết, nên ngành kinh tế chính của đảo là du lịch. Nông nghiệp là ngành nghề chính của nhiều cư dân trên đảo, các cây trồng chính của họ là nho, hạnh nhân, dong chúc, ô liu và cà chua, cùng với lúa mì và ngô. Rau diếp Cos cũng có thể trồng trên đảo, song tên gọi của nó không liên quan tới đảo Các làng chính trên đảo Kos là Kardamena, Kefalos, Tingaki, Antimachia, Mastihari, Marmari và Pyli. Các làng nhỏ hơn là Zia, Zipari, Platani, Lagoudi và Asfendiou. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài photographs castle on Kos. Đảo Hy Lạp Du lịch Hy Lạp Núi lửa Hy Lạp Khu tự quản của Nam Aegea
wiki
Cơn bão mùa đông Bắc Mỹ từ ngày 13–17 tháng 2 năm 2021, còn được gọi không chính thức là Bão mùa đông Uri, là một cơn bão băng lớn gây ảnh hưởng trên diện rộng khắp Hoa Kỳ, Bắc México và một phần Canada từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 2 năm 2021. Uri hình thành ở Tây Bắc Thái Bình Dương rồi nhanh chóng đổ bộ vào miền Nam Hoa Kỳ, sau thì hướng thẳng về phía Trung Tây và Đông Bắc nước này. Cơn bão tuyết khiến hơn 170 triệu người trên toàn nước Mỹ phải sống trong thời tiết mùa đông lạnh giá. Bão còn gây mất điện cho hơn 9,7 triệu người ở Hoa Kỳ (đặc biệt là ở Texas) và México. Đây là vụ mất điện lớn nhất ở Hoa Kỳ kể từ năm 2003. Bão Uri gây thời tiết lạnh giá bất thường ở Đông Nam Hoa Kỳ, thậm chí nơi đây còn ghi nhận một số cơn lốc xoáy. Vào ngày 16 tháng 2, có ít nhất 20 trường hợp tử vong trực tiếp và 13 trường hợp tử vong gián tiếp do cơn bão; tính đến ngày 19 tháng 2, có ít nhất 290 người thiệt mạng, bao gồm 276 người ở Hoa Kỳ và 14 người ở México. Lịch sử khí tượng Vào ngày 13 tháng 2, một cơn bão frông phát triển ngoài khơi bờ biển Tây Bắc Thái Bình Dương, rồi di chuyển theo hướng đông nam. Trong thời gian này, cơn bão đạt áp suất thấp nhất là 992 milibar (29,3 inHg) trên dãy núi Rocky. Cùng ngày, cơn bão được kênh The Weather Channel của Mỹ đặt tên không chính thức là Bão mùa đông Uri; Ủy ban Truyền thông Liên bang ngày 17 tháng 2 cũng thông qua tên này. Vài ngày kế tiếp, cơn bão bắt đầu phát triển khi nó đi vào miền Nam Hoa Kỳ và di chuyển vào Texas. Vào ngày 15 tháng 2, hệ thống đã phát triển một bề mặt mới ở độ cao thấp ngoài khơi bờ biển Florida Panhandle, khi cơn bão chuyển hướng về phía đông bắc và mở rộng về kích thước. Vào ngày 16 tháng 2, cơn bão đã phát triển một trung tâm áp thấp khác về phía bắc khi hệ thống này phát triển có tổ chức hơn, trong khi di chuyển về phía đông bắc. Cuối ngày hôm đó, cơn bão đã chia làm đôi, với cơn bão mới hơn di chuyển theo hướng bắc vào Quebec, trong khi hệ thống ban đầu di chuyển ra khỏi Bờ Đông của Hoa Kỳ. Vào thời điểm cơn bão mùa đông rời khỏi Hoa Kỳ vào cuối ngày 16 tháng 2, lượng tuyết rơi kết hợp từ nhiều cơn bão mùa đông trong tháng qua đã khiến gần 75% Hoa Kỳ lục địa bị tuyết bao phủ. Tham khảo Hoa Kỳ năm 2021
wiki
Bộ Cánh gân (tên khoa học Neuroptera) là một bộ côn trùng. Bộ này có khoảng 6.010 loài. Theo truyền thống nhóm này được gọi là Planipennia, với Neuroptera lúc đó cụng bao gồm Sialidae, Chauliodinae, Corydalinae và Raphidioptera, nhưng hiện nay chúng được xem là các bộ riêng biệt (Megaloptera và Raphidioptera). Đôi khi tên gọi Neuropterida được sử dụng để chỉ ba bộ trong nhóm này. Nó hoặc được xếp thành liên bộ với Endopterygota trở thành nhánh không phân hạng cấp trên nó, hoặc Endopterygota được duy trì là một liên bộ, với Neuropterida không phân hạng trong chúng. Trong endopterygote, các họ hàng còn sống của nhánh neuropterida là bộ cánh cứng. Con trưởng thành trong bộ này có 4 cánh màng, kích thước các cánh trước và sau gần như bằng nhau, và có nhiều gân mạch. Chúng có miệng nhai và trải qua hoàn toàn quá trình biến thái hoàn toàn. Các loài trong bộ Neuroptera xuất hiện đầu tiên trong suốt kỷ Permi, và tiếp tục đa dạng hóa trong suốt Đại Trung sinh. Trong thời gian này một số loài có kích thước lớn khác thường đã tiến hóa, đặc hiệt trong họ Kalligrammatidae, chúng thường được xem là "bướm kỷ Jura" do có cánh lớn. Phân loại học Việc nhận thức phát sinh loài của neuroptera là bước phát triển lớn từ giữa thập niên 1990, ít nhất là nhờ vào sự phát hiện các di chỉ hóa thạch một cách kỷ lục. Ví dụ, năm 1995, người ta hiểu hơn giản rằng Megaloptera và Raphidioptera không thuộc Neuroptera trong điều kiện nghiêm ngặt, và Mantispoidea và một phần của Myrmeleontoidea là những nhóm duy nhất có thể được xác nhận qua phân tích nhánh. Mặc dù các mối quan hệ của một số họ còn lại có thể được hiểu đầy đủ, hầu hết các dòng chính của Neuropterida ngày nay có thể được xếp loại trong bối cảnh tiến hóa. Ngoài một vài nhóm có vị trí tiến hóa khá cơ bản hoặc vị trí không chắc chắn, các côn trùng cánh gân có thể được chia thành 2 phân bộ, Myrmeleontiformia và Hemerobiiformia. Nevrorthidae nguyên thủy là một nhóm cổ nhất của các loài neuroptera còn sống, đôi khi được xem là phân bộ thứ 3 (Nevrorthiformia) hoặc nằm trong Hemerobiiformia và đặc biệt hơn là trong liên họ Osmyloidea. Nhưng thực tế, tốt hơn là chúng được xem là một dòng rất cơ bản. Các dạng cơ bản và chưa xếp Chi Mantispidiptera Grimaldi, 2000 (Creta muộn; New Jersey; trước đây là Mantispidae) Chi Mesohemerobius Ping, 1928(Jura muộn/Creata sớn; Trung Quốc) Họ Permithonidae (hóa thạch, có thể là cận ngành) Họ Prohemerobiidae (hóa thạch, có thể là cận ngành) Họ Nevrorthidae Họ Grammosmylidae (hóa thạch) Phân bộ Hemerobiiformia Incertae sedis Họ Osmylitidae (hóa thạch, có thể cận ngành) Liên họ Ithonioidea Họ Ithonidae: (bao gồm Rapismatidae) Họ Polystoechotidae: (trước đây thuộc Hemerobioidea) Liên họ Osmyloidea Họ Osmylidae: Liên họ Chrysopoidea Họ Ascalochrysidae (hóa thạch) Họ Mesochrysopidae (hóa thạch) Họ Chrysopidae: (trước đây thuộc Hemerobioidea) Liên họ Hemerobioidea Họ Hemerobiidae: Liên họ Coniopterygoidea Họ Coniopterygidae: Họ Sisyridae: (trước đây thuộc Osmyloidea) Liên họ Mantispoidea Họ Dilaridae: Họ Mantispidae: Họ Mesithonidae (hóa thạch, có thể cận ngành) Họ Rhachiberothidae: Họ Berothidae: Phân bộ Myrmeleontiformia Liên họ Nemopteroidea Họ Kalligrammatidae (hóa thạch) Họ Psychopsidae: Họ Nemopteridae: (trước đây thuộc Myrmeleontoidea) Liên họ Myrmeleontoidea Họ Osmylopsychopidae (hóa thạch) Họ Nymphitidae (hóa thạch) Họ Solenoptilidae (hóa thạch, có thể cận ngành) Họ Brogniartiellidae (hóa thạch) Họ Nymphidae: (bao gồm Myiodactylidae) Họ Babinskaiidae (hóa thạch) Họ Myrmeleontidae: Họ Kiến sư tử (bao gồm Palaeoleontidae) Họ Ascalaphidae: Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Illustrated database of Neuroptera (insects) Bibliography of the Neuropterida A database of Neuroptera related scientific literature Brown lacewings of Florida on the University of Florida / Institute of Food and Agricultural Sciences Featured Creatures website Cánh gân
wiki
Trần Huy Thuận Thằng đổ vỏ I. Thiên hạ gọi hắn là “thằng đổ vỏ”. Nhưng đó là cách gọi thưở ban đầu, chứ về sau, có lẽ cho rằng gọi vậy còn xa xôi quá, nên người ta nói toẹt ra: “xưa nay chỉ có chuyện duyên chị tình em, chứ hắn thì lại … duyên con tình bố! Thật loạn luân! Loạn luân quá thể!”. Nhớ ngày hắn vừa kết thúc khóa học chính trị về, chưa biết nếp tẻ thế nào, mẹ hắn đã đưa cho cái phong bì đựng ba trăm đồng bạc (trị giá gần năm tháng lương kĩ sư của hắn!): - Hôm rồi, cơ quan cho người cầm đến số tiền này, nói là tiền tiết kiệm của con, rút ra để cưới vợ. Lại còn cho xe chở đến con lợn bốn chục cân nữa, nói là lợn con tăng gia ở tập thể, cơ quan chia cho con. Cũng là để chuẩn bị việc cưới vợ của con. Gớm, may quá, chứ không thì mẹ chả biết xoay xở thế nào; bố con thì cứ vắng nhà suốt!... Rồi như chợt nhớ ra, bà hỏi hắn: Dưng mà sao con có tiền tiết kiệm nhiều thế mà lâu nay giấu mẹ? Lại cả lợn tăng gia nữa!.. Con không sợ mẹ ăn hoang tiêu phá đấy chứ?... Đấy, tiền con đi du học gửi về hàng năm, mẹ vẫn giữ cả đấy, có dám tiêu pha gì đâu. Ở nhà, mẹ với chị, mớ rau, con tép là qua bữa thôi. Rau thì ngoài vườn khối ra đấy. Tép thì sáng sáng mẹ thả mươi cái vó là đủ ăn cả ngày!... Nghe mẹ nói, ruột gan hắn như có kim châm, lửa đốt. Tiền nào? Mình làm gì có tiền tiết kiệm? Mà có thì mình phải giữ sổ chứ sao lại là cơ quan? Lại cả con lơn bốn chục cân nữa? Mình có “tăng gia, tăng vào” với tập thể cơ quan bao giờ đâu? Thế là nghĩa làm sao?!. “Mẹ ơi! Không phải thế đâu,… người ta…” Hắn định nói toạc ra với mẹ, nhưng cổ họng nghẹn lại, hắn “ức” lên một tiếng đau đớn, rồi nói lảng đi: - Con xin lỗi mẹ! Con … đã không thành thật với mẹ!.. - Thôi, chả có gì đâu. Mẹ buột miệng hỏi con thế thôi, chứ như thế là mẹ rất mừng, vì con sớm biết lo xa. Con biết chuẩn bị cho cuộc sống sau này như thế, là mẹ mừng lắm, yên tâm lắm…Mẹ hắn an ủi hắn. Còn hắn thì nghẹn ngào, muốn khóc, mà đâu dám khóc! II. Thời gian gần đây, ngoài các công việc thông thường như kí duyệt các chương trình kế hoạch, các nghị quyết, báo cáo, đề án,… ông bố hắn còn có thêm trách nhiệm chỉ đạo việc bồi dưỡng một nhân tố mới cho phong trào thi đua của địa phương. Việc này hệ trọng lắm! Phải lựa chọn “đói tượng” chính xác, sao cho vừa tiêu biểu cho phong trào, vừa đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến của địa phương; lại phải vừa có hướng phát triển lâu dài vừa đúng cơ cấu nữa. Mà cơ cấu lần này, thường vụ đã thống nhất phải là nữ, nên càng khó. Ông tự xác định cho mình: phải thật chu đáo, chứ không thể phó mặc cho anh em cấp dưới được. Anh em thì cũng tốt cả đấy, ít nhiều đều đã qua thử thách trong kháng chiến cả rồi. Nhưng dù sao họ cũng còn trẻ; mà đã trẻ thì thể nào cũng thiếu kinh nghiệm, thiếu chín chắn! Việc này mà làm thiếu chín chắn thì hỏng to. Cuối cùng thì ông bố hắn cũng cảm thấy được an ủi, vì đã lựa chọn được “đối tượng” đúng với các tiêu chuẩn mà Thường vụ đề ra. Đó là một nữ công nhân còn rất trẻ, tổ của cô nhiều năm liền là Tổ “Lao động XHCN”. Bản thân cô cũng đang trong diện được đề nghị đưa vào xét tuyển danh hiệu “chiến sỹ thi đua”. Thành phần gia đình cơ bản, ba đời làm công nhân. Hiện đang là “đối tượng phát triển đảng”. Sức khỏe tốt. Hình thức ưa nhìn, có quan hệ tốt với quần chúng, được mọi người quý mến... Khi đưa ra duyệt ở Thường vụ, trăm phần trăm đã biểu quyết nhất trí. Ông phấn khởi nói: - Thế là khâu quan trọng nhất đã xong, bây giờ chúng ta phải có trách nhiệm đào tạo, huấn luyện, nâng cao chất lượng cho đối tượng, kể cả về mặt văn hóa, tư tưởng, tay nghề… để khi trở thành điển hình, thì đây sẽ là điển hình vững chắc nhất cho phong trào của địa phương! Rồi, cao hứng, ông nói tiếp: - Tôi chợt nghĩ, về cái chung thì thế, được rồi. Nhưng còn việc riêng, tôi sẽ nhắm đối tượng này cho thằng con trai tôi, các đồng chí thấy thế có được không? Mọi người ngớ ra một lúc, nhưng khi đã hiểu ý thủ trưởng, thì tất cả đều cười ồ lên, hưởng ứng! - Đúng quá đi rồi. Thủ trưởng rất tinh đời…! - Thật xứng đôi vừa lứa! Sau này thủ trưởng trực tiếp bồi dưỡng lý luận cho thì đối tượng chỉ có … nhất!.. Và còn rất, rất nhiều ý kiến tán thưởng khác, nổ như pháo rang. III.Đêm tân hôn, hắn nhìn cái bụng đã “lùm lùm” của vợ mà ngao ngán. Nàng biết ý, lấy chăn cuốn tròn lại quanh mình: - Tôi đã nói với anh rồi, việc anh lấy tôi là do bố anh sắp xếp. Nói trắng ra là theo yêu cầu của bố anh, của cả cái ban thường vụ, chứ không phải của anh, của tôi. Anh tưởng anh cao giá lắm hử? Anh tưởng chỉ mình anh không muốn cuộc hôn nhân này chăng? Anh nên biết rằng, tôi cũng đâu có muốn lấy anh? Chẳng qua thế phải thế, thì chấp nhận vậy. Ngay bây giờ, nếu anh đồng ý, tôi sẽ cắp quần áo về nhà tôi ngay. Về ngay đêm nay, để xem bố anh và sếp của ông ta nói năng với tôi ra sao. Anh đừng có làm bộ làm tịch! Bị phản đòn, hắn không còn dám mở miệng, thậm chí từ lúc ấy, không cả dám thở dài hoặc thể hiện một cử chỉ chán nản nào nữa. Vì chỉ cần bất cứ một thái độ bất cẩn nào, làm cô vợ không hài lòng, chắc chắc hắn sẽ lại “ăn đòn” đủ! Đây không phải lần đầu cô ta có thái độ như vậy. Ngay cái lần gặp cô đầu tiên ở văn phòng nơi bố hắn làm việc, hắn đã được nghe câu tuyên bố thẳng thừng đó của cô. Cô tỏ ra rất có bản lĩnh, chả hề biết nể ai, sợ ai cả. Một cô gái “bát cần đời”! Khuya lắm và khó khăn lắm, hắn mới mở được cái chăn quấn quanh mình cô ra. Ôi cái thân ngọc ngà kiều diễm thế kia, làm sao một thằng đàn ông trai tơ nằm cạnh, lại có thể nén kìm ham muốn cho được! Cuộc yêu muộn bắt đầu. Nhưng tệ hại cho hắn, là không hiểu sao đang vui vẻ thế, bỗng nhiên hắn lại tương ra một câu hỏi cực kì ngu xuẩn: “Thế đứa bé trong bụng đây là của ai vậy?”. Ba máu sáu cơn nổi lên, nàng hất hắn xuống giường: - Sao hỏi gì hỏi ngu thế? Của ai thì của, nhưng từ giờ, nó là của anh, hiểu chửa? Chấp nhận thì tôi ở, không chấp nhận, tôi về. Hắn lại phải làm lành. Mãi sau, nàng mới nguýt một cái rõ dài: - Dại lắm! Lần sau đừng có hỏi những câu ngớ ngẩn như thế nữa nghe cưng! Muốn hỏi thì sao trước đây, không gặp bố anh, hoặc gặp thường vụ mà hỏi? Đến bây giờ, “ván đã đòng thuyền” rồi, hỏi tôi còn có ích lợi gì?!. Nói rồi, nàng véo hắn một cái rõ là … đau! Hắn đâu có không hỏi bố hắn? Nhưng cả thường vụ, lẫn bố đều không ai chịu nói thật với hắn. Họ cứ thì thì thào thào như bọn buôn lậu. Mãi gần đây, bố hắn mới tiết lộ: “con phải tin bố. Bố với cô ta, vợ sắp cưới của con ấy, chỉ là quan hệ tình cảm… Bố chưa hề đi quá xa. Nhưng bố cần con giúp, bởi đây là trường hợp rất đặc biệt, nó ảnh hưởng đến không chỉ uy tín, danh dự của bố, của thường vụ, mà còn cả của … lãnh đạo cấp trên trực tiếp của bố nữa. Con phải vì bố mà gánh cái trọng trách này thôi. Nếu không cả nhà ta sẽ rất khó khăn, địa phương ta cũng sẽ rất khó khăn… Ôi chuyện đời phức tạp lắm, lớn lên con sẽ hiểu. Trái lại, nếu con vượt qua được ải thử thách này, thì bố sẽ có điều kiện mở mày mở mặt, con lại càng có cơ hội mở mày mở mặt… Rồi thì cả địa phương này… - Thôi, bố đừng nói nữa! Đau lòng lắm. Con đã nói chấp nhận, là con chấp nhận. Nhưng chỉ hỏi bố, hỏi một điều thôi, nhưng bố phải nói thật. Có đúng là nó có thai với lão ấy, cái lão dê cụ thủ trưởng cấp trên của bố ấy, chứ không phải với bố không? Có đúng vậy không, hay là với cả hai các người?!. Bố hắn tím mặt, nhưng vẫn gượng nhỏ nhẹ thanh minh: - Bố thề với con, không có chuyện ấy đâu. Tuy bố có quý mến cô ta thật, nhưng chỉ như tình cảm bố con thôi, bởi ngay từ đầu gặp cô ta, bố đã có ý định kén nó cho con rồi mà. Sau này thì tình cảm phát triển, bố và nó có hơi đi xa hơn một chút, nhưng cũng vẫn chỉ là quan hệ tình cảm mà thôi. Về điểm này thì con nên tin bố. Nếu như không có chuyện cấp trên họ nghi ngờ cái bản khai lý lịch của bố, thì chắc là bố không phải chịu cái cảnh nhục nhã này. Mà con cũng vậy, chẳng qua vì bố, vì cái thanh danh của bố và gia đình ta, nên con đã phải hy sinh… lấy nó. Chứ không thì… Cái lão ấy, bố chả coi là cái cóc khô gì hết!.. Khốn nỗi, cái “đồ chó đẻ” đó lại là kẻ duy nhất còn sống, có đủ tư cách thanh minh cho cái lý lịch cách mạng của bố! Nhưng gần đây có kẻ muốn hại bố, nó tố bố là kẻ xấu, khai man để chui vào đảng, để dễ bề leo cao!... Bố mà mất cái chức này lúc này, thì cả cái gia đình nhà mình ra bã hết, con ơi!... - Thôi! Ông im đi. Chỉ vì ông thôi. Chỉ duy nhất vì cái ghế thủ trưởng của ông thôi, chứ mẹ con tôi trông chờ gì? Bao nhiêu năm mẹ tôi sống một mình vò võ nuôi chúng tôi, có được hưởng gì từ mùi vị cái ghế thủ trưởng của ông đâu? Chẳng qua tôi cũng vì cái trách nhiệm của thằng con, mà chịu cái nhục nhã này. Thế thôi!... Trời ơi là trời!.. Bố ơi là bố!... Rồi hình như hắn vẫn chưa thật an tâm, ngừng một lát, hắn lại hỏi: - Có thật là cái thai trong bụng con đĩ ấy, cái con “nhân tố mới” của bố ấy; chỉ duy nhất của lão khốn nạn, lão dê già sếp trên của bố không? Trả lời cho thành thật. Tôi chỉ cần một điều ấy thôi, để tôi không bị người đời chửi cho là đồ loạn luân, là con lấy vợ thừa của bố!.. - Con ơi, bố nói rồi, thiên hạ họ đặt điều với bố, chứ nếu là của bố, thì mặt mũi nào, bố lại bắt con gánh. Gánh thế thì đúng là loạn luân rồi còn gì! Chỉ của laõ ta thôi. Ấy là cái lần lão dê già đó về địa phương ta duyệt báo cáo điển hình, thường vụ đã bố trí cho cô ta gặp lão. Tưởng lão chỉ vì công việc, ai dè… Bố thề chuyện đúng là như vậy đấy!.. IV.Sáng hôm sau, khi mặt trời bắt đầu hắt những tia nắng đầu tiên, qua cửa sổ, rọi vào cặp mắt him híp của hắn, hắn mới tỉnh dậy, vươn vai, ngáp một cái rõ dài. Cô vợ đang son phấn ngoài bàn trang điểm, khẽ bĩu môi: - Ngủ thế vẫn chưa đã hở? Thôi dậy, còn đưa tôi về nhà, lại mặt các cụ. Hắn định nói: “vác cái bụng ễnh ra thế kia mà về lại mặt? Rõ không biết dơ!”. Nhưng may mà hắn kìm lại được. Không kìm được, thì có ngày lại ăn no những lời chửi bới của cô ta. Khi sự chịu đựng đã thành thói quen, thì hình như nó cũng đỡ nặng nề hơn. Không vậy, hẳn hắn đã không thể sống với người vợ lăng loàn ấy, lâu đến thế. Cái sự lăng loàn của vợ hắn, có vẻ như càng ngày càng gia tăng. Đi đến đâu, cô ta cũng sẵn sàng trình diễn cái thói chả coi ai ra gì của cô ta. Thế mà chả ai dám lên tiếng. Cái người dân quê hương Chí Phèo này, hình như từ thời Nam Cao còn sống, đã lây nhau cái cách bỏ ngoài tai mọi sự chửi rủa, cho dù đó là lời chửi rủa của một mụ đàn bà: “thôi thì tai gần miệng, đứa nào chửi, đứa ấy nghe trước”; hoặc: “nó chửi cả làng thật đấy, nhưng đâu phải hắn chửi mình?”! Hắn tính khác. Cuộc đời đã dậy cho hắn nhiều bài học. Bài học đắt giá nhất, là “cái gì cũng có cái giá của nó, không ai cho không ai cái gì”. Hắn đã trả giá, hắn nhất định phải được một cái gì đó. Cái gì đó thì hắn chưa hình dung ra, nhưng hắn cho rằng sự trả giá của hắn lớn lắm, cả cuộc đời hắn, chứ ít ỏi gì? Vậy thì đừng có hòng chỉ cho hắn một cái chức giám đốc quèn thế này mà xong đâu. Thưa ông bố yêu quý của con, thưa cả thủ trưởng cấp trên của bố nữa, rồi thưa cả cái thường vụ mà bố là thủ trưởng. Tôi! Chính cái thằng tôi đây, sẽ tính sổ sòng phẳng với các người! Ta không chịu “đổ vỏ” không công cho các người đâu! Bất chợt hình ảnh con vợ trắng nuột nà, cùng cái bụng lùm lùm, với cái thai đang ngày một phát triển, làm hắn điên tiết: - Đợi đấy! Hãy đợi đấy!... - Cái nhà anh này, làm cái gì mà gào lên thế? Đợi cái gì vậy? Hắn nói lảng: - Đợi… đợi tôi phấn đấu trở thành sếp lớn của tất cả bọn họ, cho mà xem! Vợ hắn cười như nắc nẻ: - Có thế chứ! Có thế mới xứng là một đấng nam nhi chứ! Rồi nàng nhỏ nhẹ xoa xoa lên đầu hắn: Cố lên, bản lĩnh lên anh yêu, em… đợi!.. Và chúng ta nữa, chúng ta cũng cùng đợi xem cái anh chàng “đổ vỏ” này diến tiếp vai kịch của hắn thế nào – Bởi vì, tấn trò trên đây, mới chỉ là bắt đầu! Mục lục Thằng đổ vỏ Thằng đổ vỏ Trần Huy ThuậnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / Vnthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 12 năm 2008
vanhoc
Thật vui biết bao nhiêu khi cứ cuối tuần thì ba mẹ lại cho em đi chơi đây đó và thích nhất là em được đến vườn bách thú. Vườn bách thú có rất nhiều con vật khác nhau và đều là những con vật quý hiếm mà trong đó em thích nhất là con hổ. Khi đếnnchuồng nuôi hổ, loài chúa sơn lâm uy nghiêm em nhận thấy được cuồng nuôi hổ rất rộng. Khi em quan sát một vòng thì em thấy được chuồng hổ này rất khác với những loài vật khác bởi chiếc lồng chắc chắn lắm, du khách không thể thò tay vào được. Nhìn thấy lạ nên em đã được bố em giải thích vì loài hổ rất nguy hiểm cho nên người ta phải làm chuồng chắc chắn. Ngắm nhìn chú hổ trong chuồng này em vô cùng thích thú, khi đứng từ xa nhìn vào em thì em cũng đã cảm nhận được khí thế và cả sự nguy hiểm ẩn giấu sau ánh mắt lim dim cũng như dáng nằm của nó. Ngắm nhìn phần thân chú hổ này lại được bao bọc bởi chiếc áo màu vàng cam. Mà chiếc áo màu cam này đặc biệt lắm nhé! Chiếc áo cam này lại có những sọc đen dọc khắp cơ thể. Quan sát kỹ em thấy được phần cằm đến bụng lại là màu lông trắng muốt và đây cũng chính là các điểm các sọc đen. Chú hổ này có một bộ lông đẹp nhưng lại có thể dễ dàng ngụy trang trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Khi được quan sát chú hổ này em thấy chú hổ nằm lim dim dưới bóng cây rất nhàn nhã trông vô cùng đẹp và chẳng ai nghĩ chú vốn là một loài thú đáng sợ. Phần dáng nằm của nó thật oai vệ xứng đáng là loài chúa sơn lâm. Nếu để ý thì ở hai chân trước chống lấy phần thân thể, chú như đã đầu ngẩng cao kiêu hãnh. Thêm cả phần người ở ngay phía sau dài đến khoảng 3 mét. Đặc biệt nhất em chú ý đến phần chiếc đuôi thon dài của chú hổ này. Cứ thỉnh thoảng lại động đậy đuổi ruồi muỗi đang làm phiền chú trông nó chẳng khác gì cái chổi nhỏ cả. Nhất là nhìn chú hổ đứng dưới ánh dương rọi xuống qua tán lá cây, lúc đó em cũng đã thấy được bộ lông của hổ ánh lên trơn bóng mềm mượt biết bao nhiêu. Nhìn thì thế đó nhưng chẳng ai dám sờ lên bộ lông của nó cả. Xem thêm: Tả quang cảnh sau cơn mưa Đang mải nhìn chú hổ trong chuồng này đột nhiên đôi mắt ấy mở ra. Em ngắm nhìn đôi mắt màu hổ phách rất đẹp. Thế nhưng đôi mắt này dường như cũng đã lại chứa sự nguy hiểm của loài thú săn mồi bậc nhất rừng xanh này. Em ấn tượng với cặp ria mép hơi vểnh lên rung rinh như đang ngẫm nghĩ một điều gì đó. Con hổ khi nó cứ ngoác miệng muốn ngáp dài thật dài và còn có cae những chiếc răng sắc nhọn trắng nhởn khiến mọi loài phải e sợ khi thấy loài hổ. Em rất ấn tượng với hình ảnh chú hổ – loài thú vô cùng nguy hiểm thế nhưng cũng thật đẹp biết bao nhiêu. Em sẽ học thật tốt để có thể được đi đến sở thú và ngắm nhìn chú hổ trong vườn bách thú kia. Tả con hổ mà em biết Có thể nói vườn bách thú là nơi luôn luôn mang lại sự hấp dẫn khó cưỡng đối với mọi người và nhất là trẻ nhỏ. Cứ mỗi lần em đến vườn bách thú, em lại thích nhất là ngắm nhìn hổ – một loài vật được coi là một vị chúa rừng xanh. Ngắm nhìn chú hổ trong vườn bách thú thật đặt biệt. Bộ lông của chú hổ trong rừng này có màu vàng đất đặc trưng của loài hổ. Đặc biệt trên bộ lông này lại có những chiếc vằn đen trông giống như một con con ngựa vằn. Loài hổ với màu lông như thế thế thì chú cũng có thể ngụy trang vào đồng cỏ để săn mồi dễ dàng hơn. Xem thêm: Bài văn Tả con công trong vườn thú lớp 4 5 ngắn gọn hay nhất Thực sự em cứ mải mê ngắm nhìn chú hổ – một loại chúa sơn lâm dường như cứ bị nó hút mắt với vẻ đẹp của chú hổ. Hình ảnh con hổ thật đẹp và cũng thật oai vệ,, khi con hổ đứng dậy, con hổ đã từng bước đi về ngọn núi giả trong chuồng. Thân con hổ nó phải dài hơn 2 mét, và có chiều cao khoảng 1 mét. Con hổ như cứ bước đi thật uyển chuyển. Nếu để ý em cảm nhận thấy được từng chiếc chân săn chắc trông vô cùng to lớn bước về phía trước làm thân hổ như cứ dập dình như làn sóng vậy. Phần thân hổ có một phần đệm thịt dày ở chân giúp chúng bước đi rất nhẹ nhàng, em như thấy được không hề nghe thấy tiếng động nào. Nhất là hiếc đuôi phía sau phất lên, cong cong nhìn rất đẹp mà giống một chiếc chổi mà mẹ em hay quét nhà bé xinh xinh. Phần đầu của con hổ phải to hơn quả dưa hấu và nhìn hổ cũng giông giống loài mèo thế nhưng nhìn thật đẹp và cũng thật dữ tợn. Nhất là cái ánh mắt hổ to bằng quả chanh lúc nào cũng mở to lến và trông cứ thật sắc lạnh mà lại còn rất đáng sợ nữa. Con hổ sở hữu một cặp ria mép mỏng như cước rung rinh đánh hơi mọi thứ. Khi em đứng từ xa nhìn lại ngắm chú hổ thì nó dường như lại cất tiếng gầm vang dội khiến cho ai ai cũng phải sợ chú. Thực sự nghe tiếng hổ kêu thì em cũng chưa bao giờ em được nghe thứ âm thanh mạnh mẽ đến thế. Xem thêm: Em hãy tả con gấu trúc Em rất thích ngắm nhìn chú hổ vì nhìn nó thật mạnh mẽ, oai phong nữa. Em tự nhủ với bản thân sẽ học thật tốt để bố mẹ lại cho em đi vườn bách thú chơi. Lúc đó em lại được ngắm nhìn thật kỹ chú hổ này.
vanhoc
Câu lạc bộ Bóng chuyền Kinh Bắc Bắc Ninh (hay còn gọi là Kinh Bắc Bắc Ninh) là một câu lạc bộ bóng chuyền nữ chuyên nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh,Việt Nam. Đội mới tham gia 3 lần Giải vô địch bóng chuyền Việt Nam (2019-2021) nhưng đã 2 lần giành huy chương đồng ở giải đấu này. Tại giải VĐQG năm 2021, sau khi thi đấu xong 2 giai đoạn, Kinh Bắc Bắc Ninh thi đấu 7 trận, thắng 3 trận, đạt 10 điểm với tổng số 12 séc thắng và 13 séc thua, xếp thứ 3 bảng đấu. Tại vòng đấu chéo tranh thứ hạng từ 6-9, đội xếp hạng 8 chung cuộc giải VĐQG năm 2021. Lịch sử hình thành Đội nữ Kinh Bắc Bắc Ninh là đội bóng chuyền nữ hiếm hoi vừa thành lập năm 2017 đã vô địch giải hạng A toàn quốc năm 2018 và ở Giải vô địch bóng chuyền Việt Nam 2019, 2020 đã đạt thành tích tốt với việc thắng nhiều đội bóng giàu kinh nghiệm, để xếp vị trí thứ 3 của bảng. Sau 2 năm góp mặt trong làng bóng chuyền nữ Việt Nam, đội nữ Kinh Bắc Bắc Ninh đã tham dự 7 giải đấu nằm trong hệ thống thi đấu của LĐBCVN và giao hữu, họ đã đoạt 2 ngôi vô địch và 3 vị trí á quân, đây là một thành tích đáng phục. Trong mùa giải 2019, đoàn quân của HLV Phạm Văn Long đã bất ngờ vươn lên xếp thứ 3 chung cuộc. HLV Phạm Văn Long là người thành danh với Câu lạc bộ bóng chuyền Thông tin Liên Việt Post Bank với hàng chục chức vô địch lớn nhỏ. Không chỉ có thế, trên cương vị HLV đội tuyển, ông cũng giành những danh hiệu cao quý khác và hàng loạt VĐV tài năng được phát hiện và trưởng thành dưới bàn tay ông cũng mang lại cho bóng chuyền nữ Việt Nam một diện mạo mới trên trường quốc tế. Kinh Bắc - Bắc Ninh là đội bóng non trẻ nhất làng bóng chuyền, mới thành lập được hơn 3 năm, tuy nhiên những thành tích mà Đội Bóng đã đạt được trong thời gian qua rất ấn tượng, đặc biệt tại Giải Bóng chuyền Vô địch Quốc gia năm 2020. Kinh Bắc - Bắc Ninh đang ngày càng phát triển và trở thành đối trọng của các đội bóng lớn khác. Đội hình thi đấu Đội hình hiện tại ''Cập nhật danh sách tháng 2 năm 2023. Huấn luyện viên: Phạm Văn Long Trợ lý: Phạm Thanh Hà, Nguyễn Sỹ Nam Đội hình quá khứ Năm 2021: Huấn luyện viên Phạm Văn Long, Trợ lý: Phạm Thanh Hà, Nguyễn Sỹ Nam, Vận động viên: Đinh Thị Trà Giang (Đội trưởng), Vũ Thị Hoa , Nguyễn Huyền Trang, Nguyễn Thị Nhị, Cao Thị Hồng, Nguyễn Thị Ngà, Nguyễn Thị Thu Hường, Nguyễn Thu Hà, Đồng Thị Bích, Lê Thanh Xuân, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phạm Thị Thúy, Wipawee Srithong, Parichat Intharasit. Tham khảo Câu lạc bộ bóng chuyền Việt Nam Thể thao Bắc Ninh
wiki
Công suất ℘ (chữ P viết hoa - U+2118) (từ tiếng Latinh Potestas) là một đại lượng cho biết công được thực hiện ΔW hay năng lượng biến đổi ΔE trong một khoảng thời gian T = Δt. hay ở dạng vi phân . Công suất trung bình Trong hệ SI, công suất có đơn vị đo là watt (W). Đơn vị đo Trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị đo công suất là Watt (viết tắt là W), lấy tên theo James Watt. 1 Watt = 1 J/s Ngoài ra, các tiền tố cũng được thêm vào đơn vị này để đo các công suất nhỏ hay lớn hơn như mW, MW. Một đơn vị đo công suất hay gặp khác dùng để chỉ công suất động cơ là mã lực (viết tắt là HP). 1 HP = 0,746 kW tại Anh 1 CV = 0,736 kW tại Pháp Trong truyền tải điện, đơn vị đo công suất hay dùng là kVA (kilô Volt Ampe): 1 kVA = 1000 VA Công suất cơ Trong chuyển động đều, thời gian Δt, khoảng cách Δs, chuyển động với vận tốc v dưới tác dụng của lực F thì công suất được tính: hay Trong chuyển động quay, thời gian Δt, góc quay Δφ, vận tốc góc ω dưới tác dụng của mômen M thì công suất là: Công suất điện Công suất điện tức thời với u, i là những giá trị tức thời của hiệu điện thế và cường độ dòng điện. Nếu u và i không đổi theo thời gian (dòng điện không đổi) thì . Trong điện xoay chiều, có ba loại công suất: công suất hiệu dụng ℘, công suất hư kháng Q và công suất biểu kiến S, với S = ℘ + iQ (i: đơn vị số ảo) hay S2 = ℘2 + Q2 Xem thêm Hệ đo lường quốc tế Công suất điện xoay chiều Tham khảo Công suất Năng lượng Thời gian Đại lượng vật lý Đại lượng điện Khái niệm vật lý
wiki
Đề bài: Em hãy tả lại một tiết học Văn Bài làm Hằng ngày em được học nhiều tiết học hay và lý thú. Nhưng tiết học Văn của ngày thứ năm vừa qua đã để lại cho em nhiều điều thích thú hơn cả. Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Chúng em đang ngồi tranh luận với nhau về những hài học cũ, tiếng trống vào lớp vang lên. Các bạn nhanh chóng mở sách chuẩn bị cho bài học mới, cô giáo bước vào lớp với nụ tươi tắn trên môi. Sau khi ổn định tổ chức lớp, cô hỏi: "Các em đã chuẩn bị bài chưa"? Cả lớp đồng thanh đáp: "Thưa cô rồi ạ!" Cô kiểm tra bài cũ, bạn nào cũng trả lời trôi chảy và đạt điểm cao. Cô rất hài lòng, khen cả lớp có tinh thần học tập. Rồi cô nhắc chúng em mở sách học bài mới, lời giới thiệu vào bài mới của cô được bắt đầu thật ấn tượng: "Các em ạ, trong mỗi chúng ta ai cũng có một quê hương. Nơi ấy chính là nơi sinh ra và nuôi lớn tâm hồn mỗi con người. Để tìm được tình yêu thương đất nước được bắt nguồn từ đâu, từ những gì chúng ta sẽ được tìm hiểu trong bài "Lòng yêu nước", cả lớp tôi như trầm xuống và nuốt lấy từng lời cô giảng. Trên nền bảng đen, từng dòng phấn trắng dần dần hiện ra. Sau phần giới thiệu tác giả, tác phẩm, cô hướng dẫn cách đọc và đọc mẫu. Giọng cô đọc nhẹ nhàng, đầm ấm và truyền cảm. Cô gọi bạn Lan đọc bài. Bạn đọc to rõ ràng. Sang phần phân tích tác phẩm, mọi người trở nên linh hoạt hơn. Những cánh tay xinh xắn giơ lên đều tăm tắp trước những câu hỏi của cô. Bạn nào cũng muốn được cô giáo gọi. Tất cả dường như ai cũng bị cuốn hút vào giờ học. Không ai còn lơ đãng và đều quên đi cái không gian âm thanh ngoài cửa lớp, tưởng như chim ngừng hót, cây lá ngừng rung. Mọi vật đều im nghe lời cô giảng. Em được cô giáo gọi. Do chuẩn bị bài tốt nên em đã trả lời đúng. "Lòng yêu nước được bắt nguồn lừ việc yêu những thứ tầm thường nhất, quen thuộc nhất: yôu nhà, yôu quê hương tức là yêu đất nước của mình, yêu người thân". Cô khen em có nhiều tiến bộ. Em sung sướng vô cùng và đã tự hứa với lòng mình sẽ cố gắng nhiều hơn. Qua lời cô giảng, trên khuôn mặt các bạn ai đều có niềm vui tự hào và lòng yêu đất nước. Dường như tất cả đều muốn vươn lên trong học tập. Giờ học diễn ra say sưa sôi nổi. Tiếng trống báo hiệu hết giờ. Giọng cô vẫn vang vọng trong đầu. Bài học đã kết thúc nhưng lời cô còn in đậm trong tâm trí em. Em mong sao lớp em có được nhiều giờ học hay như thế.
vanhoc
Giacôbê Huỳnh Văn Của (1915 – 1995) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam Ông nguyên là Giám mục phó Giáo phận Phú Cường trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1982 trước khi dưỡng bệnh tại Pháp. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: Vua trên các vua, Chúa trên các Chúa. Huỳnh Văn Của sinh tại Long An. Sau quá trình tu học tại các chủng viện Công giáo khác nhau, ông được phong chức linh mục tháng 9 năm 1941. Trong thời kỳ làm linh mục, ông đã đến thực hiện việc mục vụ tại nhiều giáo xứ và giáo họ và đặc biệt thành lập Trung tâm Bác Ái Lái Thiêu và nhà hoàn lương cho phụ nữ tại Long Thành. Linh mục Huỳnh Văn Của được linh mục đoàn Giáo phận Phú Cường bầu chọn và được tấn phong giám mục phó giáo phận này vào tháng 2 năm 1976. Ông mắc bệnh tim và chữa bệnh tại Pháp từ năm 1979 và từ chức vì lý do sức khỏe năm 1982. Ông qua đời năm 1995 và được an táng tại Nice, Pháp. Thân thế và tu tập Giacôbê Huỳnh Văn Của sinh ngày 1 tháng 11 năm 1915 tại Lương Hòa Hạ, Bến Lức, Long An, Hạt Đại diện Tông Tòa Sài Gòn (nay là xã Lương Hòa, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, thuộc Giáo phận Mỹ Tho). Năm 12 tuổi, cậu bé Của bắt đầu con đường tu học của mình bằng cách gia nhập Tiểu chủng viện Sài Gòn vào ngày 1 tháng 3 năm 1927. Sau khi hoàn thành chương trình tiểu chủng viện, cậu tiếp tục con đường tu học của mình bằng cách nhập học Đại chủng viện Sài Gòn vào ngày 29 tháng 2 năm 1934. Linh mục Chủng sinh Huỳnh Văn Của được thụ phong linh mục ngày 20 tháng 9 năm 1941, chịu chức chung có các tiến chức sau: Mátthêu Phan Văn Luật, Laurensô Nguyễn Thái Sơn, Phaolô Hồ Văn Lành và Antôn Lê Quang Thạnh. Thời kỳ là linh mục, linh mục Của đã phục vụ tại nhiều giáo xứ như: Tha La, Gò Dầu, Hiệp Thạnh, Búng, Bến Sắn, Lái Thiêu cũng như giữ chức linh mục Tổng đại diện Giáo phận Phú Cường. Sau khi được phong chức linh mục, linh mục Của được giám mục giáo phận điều về làm linh mục phó giáo xứ Mỹ Tho. Năm 1942, linh mục Của được thuyên chuyển đảm trách vai trò Giáo sư Tiểu chủng viện thánh Giuse Sài Gòn trong vòng một năm trước khi được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ giáo xứ Gia Định. Năm 1947, nhận thấy họ đạo Gia Định có diện tích quá lớn gây bất tiện cho việc sinh hoạt tôn giáo, linh mục Huỳnh Văn Của đệ trình thỉnh nguyện đến Tòa Giám mục Sài Gòn nhằm đề xuất ý kiến mở thêm một nhà thờ giáo họ với địa giới hành chính tại xã Bình Hòa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, Thành phố Sài Gòn. Từ năm 1958, ông sang Pháp tìm hiểu và sống với tu hội Bác ái của Pháp (Foyer de Charité) đến năm 1964 thì về nước, làm linh mục chính xứ giáo xứ Tha La. Một năm sau, giám mục giáo phận thuyên chuyển linh mục Của làm linh mục chính xứ giáo xứ Gò Dầu Hạ (Tây Ninh). Từ năm 1966, Giám mục chính tòa giáo phận là Giuse Phạm Văn Thiên bổ nhiệm linh mục Giacôbê Huỳnh Văn Của làm linh mục Tổng Đại diện giáo phận Phú Cường. Tuy nhiên, không lâu sau đó, giám mục Thiên lại điều linh mục Của về làm linh mục quản nhiệm họ đạo Búng. Từ năm 1967 đến năm 1968, ông là linh mục chánh xứ giáo xứ Lái Thiêu. Thời gian này ông thành lập Trung tâm Bác Ái Lái Thiêu. Tại đây, ông đã đón nhận những người neo đơn túng thiếu, đồng thời là nơi tĩnh tâm linh mục. Linh mục Huỳnh Văn Của luôn hỗ trợ về lương thực, nơi ở và các nhu cầu khác cho mọi người, không phân biệt tôn giáo. Trung tâm này đến năm 1993 trở thành Trung tâm Nghỉ dưỡng linh mục giáo phận Phú Cường và đến tháng 5 năm 2006 trở thành giáo xứ Phú Long. Ngoài ra, ông cũng thành lập Nhà hoàn lương cho Phụ nữ tại Long Thành. Ông thường giúp đỡ người khó khăn đến gặp mình bằng tiền và thường vay mượn để hỗ trợ họ khi không sẵn tiền. Giám mục Giám mục Giuse Phạm Văn Thiên yêu cầu linh mục đoàn chọn lựa vị linh mục xứng đáng để ông tấn phong tân giám mục phó. Thể lệ là một linh mục chọn 2 linh mục mình thấy là xứng đáng. Kết quả có 100% chọn linh mục Huỳnh Văn Của làm giám mục. Ngày 22 tháng 2 năm 1976, linh mục Giacôbê Huỳnh Văn Của được tấn phong giám mục với cương vị giám mục phó giáo phận Phú Cường, hiệu tòa Mizigi. Vị tân giám mục được tấn phong trong âm thầm bởi Chủ phong là Giám mục chính tòa Giáo phận Giuse Phạm Văn Thiên, hai vị phụ phong là Giám mục Giuse Trần Văn Thiện, giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho và Giám mục Đa Minh Nguyễn Văn Lãng, giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc. Trên thực tế, giám mục Huỳnh Văn Của đã ngừng thi hành tác vụ giám mục từ năm 1979. Từ năm 1979 đến năm 1995, giám mục Huỳnh Văn Của điều trị bệnh ở ngoại quốc. với tình trạng sức khỏe suy yếu vì bệnh tim, ông sang Pháp điều trị một thời gian khá dài. Thời gian ở hải ngoại, ông đã đi nhiều nơi, khi thì tạm trú tại Dòng Đồng Công tại Hoa Kỳ, khi thì tạm trú ở Panama, khi tại Pháp. Với tình trạng như vậy, ông đã xin từ chức giám mục phó ngày 8 tháng 6 năm 1982. Ngày 9 tháng 1 năm 1995, ông qua đời tại Nice, Pháp, thọ 80 tuổi, 54 năm Linh mục trong đó có 6 năm ở cương vị Giám mục phó Giáo phận Phú Cường, 17 năm sống ở ngoại quốc. Thi hài ông được an táng tại nơi ông qua đời là Nice, Pháp. Tông truyền Giám mục Giacôbê Huỳnh Văn Của được tấn phong giám mục năm 1976, thời Giáo hoàng Phaolô VI, bởi: Chủ phong: Giuse Phạm Văn Thiên, giám mục chính tòa Giáo phận Phú Cường. Hai vị mục Phụ phong: Giuse Trần Văn Thiện, giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho và Giám mục Đa Minh Nguyễn Văn Lãng, giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc. Tóm tắt chức vụ Chú thích Tham khảo Hội đồng Giám mục Việt Nam Giáo phận Phú Cường Tuần báo "Công giáo và dân tộc" Sách "Dấu ấn 350 năm Giáo hội Công giáo Việt Nam". Xem thêm Danh sách Giám mục người Việt Sinh năm 1915 Mất năm 1995 Giám mục Công giáo người Việt Người Long An Người họ Huỳnh tại Việt Nam
wiki
Tàu Ngôi Sao Phương Đông () là một tàu du lịch sông hoạt động ở khu vực Tam Hiệp của Trung Quốc. Ngày 01 tháng 6 năm 2015, con tàu đã bị một cơn lốc xoáy thổi lật nhào trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, trong khi chở khách đi du lịch trên sông Dương Tử ở tỉnh Hồ Bắc với hơn 450 người trên tàu. Ít nhất 406 thi thể đã được tìm thấy, và chương trình cứu hộ khoảng 36 người mất tích vẫn còn được tiếp tục. Thông tin về tàu bị nạn MV Ngôi sao Phương Đông được đóng tháng 2 năm 1994 với tổng tải trọng là 543 người. Tàu dài với chiều rộng . Con tàu thuộc sở hữu của Chongqing Eastern Shipping Corporation (Công ty tàu thuyền Đông Trùng Khánh) và được vận hành bởi Xiehe Travel, nơi nó được dùng làm tàu du lịch ở khu vực Tam Hiệp của Trung Quốc. Ngôi sao Phương Đông cũng như các tàu du lịch trên sông Dương Tử khác đã được kiểm tra trong những năm gần đây do ngành du lịch tăng trưởng ở Trung Quốc. Năm 2013, tàu Dong Fang Zhi Xing và năm con tàu khác bị Cục hàng hải Nam Kinh phạt do vi phạm an toàn, dù chủ sở hữu con tàu này là Chongqing Eastern Shipping Corporation đã không bình luận gì về những vi phạm này. Phân tích tai nạn Nhà cầm quyền ở Trung Quốc đang tìm hiểu nguyên nhân làm cho tàu bị lật. Đã có những dự đoán về tình hình thời tiết rất xấu cho vùng này, mà đáng lẽ đã phải được gởi tới cho tất cả các chiếc tàu trên sông trong vùng để họ có những biện pháp phòng ngừa cần thiết. Chưa có chứng nhận là tàu Ngôi sao Phương Đông đã được loan báo. Tuy nhiên ít nhất một chiếc tàu hoạt động gần đó đã có những biện pháp đề phòng, thuyền trưởng và máy trưởng, 2 người trong số nạn nhân đã được cứu sống, được lưu giữ để tra hỏi. Chính phủ Trung Quốc đã kiểm duyệt những tin tức và các cuộc thảo luận về tai nạn này. Các phóng viên Trung Quốc được chỉ thị nên tập trung vào phần tích cực của sự việc. Một số phóng viên ngoại quốc bị cản không cho tới khu vực cấp cứu ở vùng Hồ Bắc, nơi một đồn bốt cảnh sát được dựng lên với những trạm kiểm soát. Chú thích Trung Quốc năm 2015 Lịch sử Hồ Bắc
wiki
Vida Henry Xác chết báo hận Dịch giả: Tô Đức Huy Có lẽ ngay cả những ai ít bị gây ấn tượng nhất đôi khi cũng cảm nhận thấy những điều, những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một địa điểm xác định và vào thời điểm xác định, khi các thế lực vô hình nào đấy tồn tại quanh ta.Có phải người chết mãi mãi rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống dương thế của chúng ta ? Lí giải sợi dây liên hệ là không tưởng, nhưng hồn ma người đã chết có đủ sức mạnh lởn vởn quanh ta, và có thể hiện hình làm cho chúng ta cảm thấy như bị bắt quả tang. Họ thường trở về có mục đích rõ ràng, để phù hộ ta hoặc đe doạ ta.Vợ của Arthur Noakes có tính ghen tuông ảo giác. Số là chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên Edith ghen tuông đã phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã và những cơn đau tim hồi còn sống.Trước lúc qua đời cô thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, cô sẽ trở về ám ảnh để cho ông thậm chí không còn dám nhìn mặt bất cứ một người khác giới nào. Những gì chưa làm được trên đời cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.Arthur Noakes không thèm quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng lao vào tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Từ tâm khảm, Arthur nghĩ giờ đây ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó cho cạn nhiệt huyết trong tim mình. Có lẽ ông sẽ cưới vợ nữa kia. Vợ chắc chắn có ích, nhưng còn nhiều thì giờ chán.Là ông chủ cửa hàng vải và đồ tạp phẩm duy nhất ở thị trấn Sussex nhỏ bé, Arthur có khả năng lựa chọn rộng rãi trong số các bà, các cô khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng với người đàn ông đã có vợ. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng có sự lựa chọn thoải mái hơn.Chẳng bao lâu sau, con mắt lang thang của ông chú ý đến một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng mua đăngten và dải lụa, dường như cảnh sống góa bụa không hề làm mất nét đẹp tự nhiên và tình yêu cuộc sống của cô. Dẫu sao, khi Arthur tìm cách lại gần thì cô ta có tỏ ra hơi lưỡng lự, tuy đôi mắt xanh đẹp tuyệt thì biểu lộ lời thúc giục cứ tiếp tục đi.&quot;Ông Noakes, việc ông tìm kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông còn chưa kịp lạnh dưới mồ có vội vã quá không đấy ?&quot;Arthur rùng mình lưỡng lự nhưng sự nóng lòng sở hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Ông cũng nhận ra cô Mabel, vốn sinh ra trong một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là đang đắn đo trước danh tiết của mình.&quot;Thưa cô yêu quý, mọi việc diễn ra như thể tôi đã yêu cô từ lâu lắm rồi và tôi không thể giữ kín tình cảm của tôi đối với cô mà không nói cho cô biết được. Nếu cô ngại đi ngoài phố bên cạnh tôi - và tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai bắt gặp chúng ta được ?&quot;Đôi mắt Mabel lúc này đang ngắm vẻ tao nhã của chính cô, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng của Arthur càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi ông dán mắt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của cô gái.Cô gái ngước mắt nhìn ông. &quot;Thế chúng ta có thể gặp nhau ở nơi nào mà không bị phát hiện ?&quot;. Cô giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.Arthur đã biết chỗ đó. Trước đây ông đã từng đến đấy. Sống giữa một cộng đồng nhỏ bé, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để tiến hàng công việc riêng tư thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ mộng và cô đồng ý gặp ông tối hôm sau.Đấy đúng là một địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những người yêu nhau, bên cạnh một chiếc cầu bắc ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây cả, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình mà không phải lo lắng bị quấy rầy.Một tối Mabel đến muộn, Arthur mỗi lúc một sốt ruột liên tục nhìn lên cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì đã xảy ra nhỉ ? Có lẽ cô cố tình bắt ông chờ để khiến ông hăng hái hơn ? Có lẽ cô không đến được tối nay ? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng cô vội vã băng qua cầu.Chợt nghĩ hay là cho cô một bài học, ông nấp sau một gốc cây chờ đến tận khi cô tới chỗ hẹn hò quen thuộc, ông mới nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của cô gái.Arthur chợt rùng mình. Dường như cô đã tan ra thành hư vô, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng quá - kinh khủng không tài nào tả được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông nhìn thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệch như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông làm ông hoảng hồn sợ hãi. Ông nhảy bật trở lại, thét lên khiếp đảm.Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Ông bỗng nhớ lại lời nguyền bên giường chết của vợ và bỏ chạy thục mạng khỏi chỗ hẹn trên đôi chân run rẩy.Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh khủng nọ mặc quần áo của Mabel ? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức không quen vừa qua, ông chưa bao giờ chạy nhanh như thế trong đời mình, và trong bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.&quot;Anh sốt ruột quá phải không anh yêu ?&quot;. Cô cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông hôn lấy hôn để.Ông thở phào nhẹ cả người bởi cơ thể cô gái có hơi ấm và ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc cuả Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông lại nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của bóng ma vợ cũ.&quot;Có chuyện gì thế, anh Arthur ? Người anh run bắn lên kìa. Anh giận em đến muộn phải không ? Hay cái gì đó nhảy chồm vào anh từ sau bụi rậm ?&quot;.Arthur cố lùi người ra xa và tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của cô gái. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.&quot;Em xin lỗi đã đến muộn, Arthur. Bà mẹ nuôi em tới thăm em nên em không thể nào bỏ bà ở lại được. Nhưng có gì đâu, giờ em đã ở đây rồi. Đến chỗ chúng ta vẫn ngồi đi rồi em sẽ kể cho&quot;.Cử chỉ của cô đầy quyến rũ, cô âu yếm ông mà nếu như ngày thường hẳn đã làm máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay, ông run rẩy sợ hãi với ý nghĩ trở lại nơi đã gặp người vợ quá cố của ông vừa hiện về đe doạ. Ông thích nơi công cộng vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.Nhưng Mabel khăng khăng từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông nhất định không thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu cô nữa. &quot;Nếu anh tới những nơi đó, anh sẽ tìm được bọn đàn bà cũng chỉ chăm chăm tới đó để tìm bạn tình, Arthur Noakes ạ&quot;.Arthur phân bua giải thích rằng ông vẫn yêu cô, nhưng Mabel mặc cảm và cố chấp, cảnh cáo nếu ông bỏ cô đi đến chỗ đó bây giờ thì cô sẽ không thèm gặp ông nữa, bởi như thế có nghĩa là tình yêu và sự âu yếm của cô không còn là nỗi khát khao và cần thiết đối với ông; thế thì quan hệ của họ nên chấm dứt từ đây.Nhưng Arthur vẫn còn run lắm. Mabel tỏ ra nhỏ nhen, vụn vặt và ông không tin là cô sẽ từ chối gặp nhau lần sau nếu được đề nghị. Có một việc ông chắc chắn nhất - ông sẽ không bao giờ dùng địa chỉ trữ tình đó bên bờ sông để làm nơi hò hẹn nữa.Arthur đến phòng hoà nhạc một mình và sau vài cốc rượu, trong không khí sôi động của âm nhạc, ông chỉ còn nghĩ sự việc vừa qua là sự tưởng tượng. Làm sao một người chết có thể hiện về như thế được ?Sáng hôm sau, Arthur gặp Mabel đến cửa hàng nhưng lần này bên cạnh cô là một bạn trai mới và cô phớt lờ ông. Ô, thưa bà quả phụ trẻ, nếu cô làm như thế thì tôi cũng sớm tìm người khác, một người hấp dẫn hơn và không sợ bị nhìn thấy ở nơi công cộng như cô.Sự lựa chọn tiếp theo của ông là một cô chồng còn sống nhưng ở trong hải quân, phải xa nhà quanh năm. Tên cô ấy là Alice. Cô không đẹp nhưng dễ nhìn, có trái tim nồng nàn và cơ thể rất khêu gợi. Cô thường mời ông đến nhà chơi.Alice nấu một bữa ăn ngon, có cả bia và rượu Gin. Cô còn mời ông hút xìgà, có lẽ của chồng cô, Arthur nghĩ thầm, tự tay châm cho ông hút rất ân cần. Ông ngả người xuống ghế, lòng tràn ngập cảm giác dễ chịu, khoan khoái. Alice ngồi bên ông, họ vuốt ve, âu yếm và hôn nhau. Lát sau cô đứng dậy.&quot;Hút nốt điếu xì gà của anh đi, còn em đi thay quần áo đây, Arthur&quot;. Mắt cô nhìn ông khêu gợi, mời mọc. &quot;Lúc nào em gọi thì anh lên nhé&quot;.&quot;Em biết là anh nóng lòng mà,&quot; ông đáp lại, &quot;đừng lâu quá nhé em yêu&quot;.Dường như khoảng một hay hai phút sau, Alice quay xuống, quần áo vẫn mặc trên người, nhưng là bộ quần áo khác, xung quanh cô là luồng không khí lành lạnh ghê ghê. Ông đứng chồm dậy, điều xì gà rơi xuống thảm, không còn tâm trí đâu để thấy nó đã bắt lửa cháy âm ỉ. Một nỗi sợ hãi ập đến, không phải Alice đang đứng trước mặt ông mà là hồn ma của Edith, khuôn mặt người chết trắng mốc nhìn ông lừ lừ. Mới vài phút trước đây ông còn đứng chỗ này lòng tràn ngập hạnh phúc và thèm khát, còn giờ đây hai chân ông chôn chặt xuống sàn, cứng người vì sợ, hai cánh tay khô khốc, xương xẩu và lạnh lẽo ôm lấy cổ ông, hai con mắt nguyền rủa ông, từ hai vành môi xám xịt phun ra luồng hơi thối của cơ thể người chết đang phân hủy.Đúng lúc đó giọng nói nhẹ nhàng từ trên gác vọng xuống : &quot;Anh lên được rồi đấy, Arthur yêu dấu&quot;. Bóng ma lại biến mất. Nhưng cảm giác hai cánh tay toàn xương vẫn đè trên cổ ông, mùi xì gà không át nổi mùi mộ và cơ thể người chết.Ông bị kích động. Ông chạy bổ đi mặc bóng người mời gọi ông đã xuất hiện trên cầu thang. Alice hốt hoảng thấy ông lao vụt ra ngoài không còn kịp đóng cửa lại. Arthur chạy nhanh như bị ma đuổi sau lưng.Cuộc tình ngắn ngủi với Alice chấm dứt ở đấy. Suốt cả tuần sau đó ông chỉ ở rịt trong nhà tự an ủi bằng rượu Scotch. Cửa hàng gặp khó khăn vì ông bỏ bê công việc. Arthur nhận thấy không thể tiếp tục như thế này được nữa. Ông quyết định đóng cửa hàng và chuyển lên London. ở thành phố lớn đó, bóng ma Edith không còn ám ảnh được ông nữa và ông có thể bắt đầu cuộc sống mới. Công việc tiến hành thuận lợi khiến ông cảm thấy hạnh phúc và tinh thần thoải mái hơn.Arthur có hai cô trợ lý và một cô tên là Mary Thompson nhanh chóng hấp dẫn ông. Chẳng bao lâu sau, quan hệ của họ đi xa hơn quan hệ bè bạn.Cũng có khi nỗi ám ảnh ngày xưa trở về đe dọa ông. Như cái hôm ông cùng Mary đi xem vở Vụ án mạng ở kho thóc màu đỏ. Đến cảnh người đàn ông rủ bạn gái vào kho thóc rồi giết hại cô, ông giật nảy người; quyển sách đang cầm trên tay tuột rơi xuống sàn. Mary ngồi cạnh thấy người ông run rẩy. Ông sợ hãi quay sang nhìn cô. Có phải Mary bằng xương bằng thịt không ? Hay Edith trở về thay chỗ bạn tình mới của ông ?Ông nắm chặt bàn tay đang chìa ra, nó ấm và mềm mại. Ông cố gắng trấn tĩnh và an ủi Mary rằng mọi thứ đã ổn, có lẽ vừa rồi là do nhiễm lạnh và hơi mệt. Thế nhưng từ lúc đó ông không thể từ bỏ được ý nghĩ hồn ma đáng ghét vợ ông đã theo ông lên London.Vở kịch kết thúc, Mary khẩn khoản đòi đưa ông về nhà, trên đường cô ghé tiệm rượu mua thêm chai whisky. &quot;Anh cần một cốc sữa nóng và rượu,&quot; cô nói. &quot;Anh phải uống hết em mới về&quot;.Ngày thường Arthur hẳn đã vui vẻ chấp nhận, nhưng hôm nay ông sợ và tìm mọi cách xua đuổi cô.&quot;Anh hứa với em anh sẽ uống sữa nóng và whisky. Em không phải bận tâm quá vậy, em rất tốt với anh, Mary thân yêu&quot;.Nói thế nhưng ông không từ chối mãi được. Arthur mở cửa cho Mary vào, không quên quay lại sau lưng nhìn xem có bóng nào không. Ông bật bếp ga đun sữa. Mary buồn cười khi thấy ông hôm này làm gì cũng nhanh vội, thậm chí ông còn không thèm hôn cô suốt từ khi họ vào trong nhà; hiếm khi ông bỏ lỡ dịp nào chỉ có hai người với nhau.Họ đang hôn nhau thì ông giật mình khi nghe thấy tiếng đập cửa dưới gác. Mary cũng nghe thấy và nói có lẽ ông vẫn để mở cửa ngoài lúc vào nhà.&quot;Anh xuống khoá cửa lại đi,&quot; cô nói. Ông lưỡng lự.Ông thấy ớn lạnh trong lòng. Chắc chắn ông đã khoá cửa cẩn thận lúc họ vào nhà nhưng làm sao đây khi ông không thể nói với Mary rằng ông sợ bóng tối và sẽ chết khiếp nếu ông gặp người đó dưới tầng một.Ông vội vàng chạy xuống, mau mau chóng chóng cho xong việc. Cửa vẫn đóng, ông gạt thêm chiếc then cửa bằng mấy ngón tay run rẩy.Thình lình ông ngửi thấy mùi xác chết, ông hoảng hốt quay lại, khiếp sợ vì biết trước sẽ nhìn thấy gì. Cô ấy đứng kia, đứng ngay giữa đường đi, chặn đường lên gác của ông. Mặt cô đã chuyển sang màu lục, hai gò má chảy rữa kinh tởm, môi bị gặm gần hết khiến hai hàm răng nhô cả ra ngoài. Lúc hai cánh tay chỉ còn xương đưa lên cổ ông buộc ông phải nhìn thẳng vào hai hốc mắt sâu hoắm không còn con ngươi, sức chịu đựng của ông đã hết.Đúng lúc đó Mary gọi ông lên gác, bóng ma biến mất để lại mình ông ớn lạnh đến tận chân tóc, người run rẩy đến mức làm cho các cơ thịt méo xệch đi, lộn mửa vì mùi người chết rữa vừa hít phải. Khi Mary nhìn ông, cô cũng chết khiếp : người ông trắng bệch, run lẩy bẩy không ngớt.Việc duy nhất ông ước ao bây giờ là phải rời xa cô gái này. Nhưng Mary quá sốt sắng, bắt ông phải đến ngồi bên lò sưởi và đưa cho ông sữa nóng cùng rượu whisky. &quot;Chắc anh vừa trải qua một nỗi sợ hãi kinh khủng, Arthur yêu dấu, vì thế em nghĩ anh nên nằm nghỉ cả ngày mai cho khỏe. Bọn em có thể quản lý cửa hàng được, lúc nào rỗi em sẽ lên thăm anh ngay&quot;.Lời đề nghị chân tình của Mary lại khiến Arthur cảnh giác. Edith đời nào chấp nhận chuyện đó ! Bóng ma đó trở về doạ ông lần nữa thì ông chết mất. Thế thì chẳng còn cách nào khác là Mary phải ra đi, nhưng nhất thời ông chưa biết nói với cô thế nào.Cuối cùng Mary cũng ra về, ông lên giường nhưng giấc ngủ mệt mỏi thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng bởi những cơn ác mộng hãi hùng. Người vợ quá cố cùng ngủ trên giường với ông, mùi xác chết không tan khỏi hệ khứu giác của ông. Hai cánh tay xương xẩu nặng nề vắt ngang ngực ông khiến ông thở rất nặng nhọc. Ông không tài nào thức dậy được dù cố bao nhiêu đi nữa. Một sức nặng vô hình đè chặt lên ông không cho ông thoát. Ông vật lộn mãi với nó, cuối cùng thức dậy lúc nào không biết.Sáng hôm sau Mary khóc sướt mướt khi ông viện đủ lý do để chấm dứt mối quan hệ nửa chừng của họ. Ông thấy thương cô gái nhưng có thể làm gì bây giờ. Edith là người thắng cuộc. Lời nguyền của cô ấy trước lúc chết đã trở thành sự thật. Ông không thoát đi đâu được.Dạo này ông hay bỏ bê công việc ở cửa hàng, đến quán rượu thường xuyên, về muộn, say mèm. Mary cảm thấy ái ngại. Cô gái tốt bụng thuê về một tay nhân viên trẻ, nhưng hắn tỏ ra không thích hợp. Arthur cũng không quan tâm. Hồn ma Edith không còn về dọa ông nữa nhưng sức khoẻ Arthur yếu đi trông thấy. Ông ăn ít, uống nhiều.Một buổi sáng chủ nhật, ông đi lang thang rồi thế nào lại bước chân tới nhà thờ. Bóng người chẳng thấy đâu mà chỉ thấy bóng Edith. Một Edith trẻ tuổi như hồi họ mới cưới. Cô đề nghị ông đi theo ra nghĩa địa. Ông sốt sắng đi theo, bước chân xiêu xiêu vẹo vẹo đến bên mộ Edith.Đứng bên cạnh ngôi mộ đá ẩm ướt, Edith giang rộng hai tay chờ đón ông và ông lao vào vòng tay ấy như một đứa trẻ sà vào lòng mẹ. Hai cánh tay chết vừa khép lại thì bộ mặt Edith ông nhìn thấy lần cuối cùng hiện về - vẫn hai gò má chảy rữa, hốc mắt rỗng sâu hoắm. Tim ông đập dữ dội, cổ họng tắc nghẽn không thở được. Giống như cơn ác mộng ông phải chịu đựng bao lâu nay, nhưng không phải giấc mơ, bởi ông cảm thấy rõ ràng những giọt nước mưa - hay nước mắt - ướt nhoà mặt ông.Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác Arthur nằm ngang mộ vợ. Họ không nhận ra ông nếu không tìm thấy chiếc ví ở trong túi. Ông được chôn cất cẩn thận ngay cùng ngôi mộ của vợ. Bạn bè đều nghĩ ông muốn được bên vợ ở thế giới bên kia.Mãi sau này nhiều người đồn ông hiện về tổ chức cuộc họp mặt nói rõ nguyên nhân cái chết năm xưa. Không ai dám chắc thực hư thế nào./. Mục lục Xác chết báo hận Xác chết báo hận Vida HenryChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VietfunĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
vanhoc
thường biết đến với tên Kazu (カズ), là một cầu thủ bóng đá Nhật Bản. Ông chơi cho ĐTQG Nhật Bản và là cầu thủ đầu tiên của Nhật Bản nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á năm 1993, một giải trao thường niên của Liên đoàn bóng đá châu Á. Hiện đang thi đấu cho Yokohama F.C. ở J2 League. Kazu, người tạo nên tên tuổi cùng với sự ra đời của J.League, và được cho là siêu sao bóng đá đầu tiên của Nhật Bản. Miura ghi 4 bàn cho Nhật Bản tại vòng loại FIFA World Cup 1998, cùng với đội tuyển có lần đầu tham dự vòng chung kết FIFA World Cup. Ông thi đấu trận cuối cùng cho ĐTQG năm 2000, là người ghi bàn nhiều thứ hai trong lịch sử bóng đá Nhật Bản với 55 bàn sau 89 trận. Miura hiện đang giữ kỉ lục cầu thủ bóng đá nhiều tuổi nhất và cầu thủ ghi bàn nhiều tuổi nhất tại các giải bóng đá chuyên nghiệp ở tuổi 54. Anh trai của ông Yasutoshi cũng là một cầu thủ bóng đá. Sự nghiệp câu lạc bộ Năm 1982 Miura rời Học viện Shizuoka, và một mình đi tới Brazil năm 15 tuổi để trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Ông ký hợp đồng với Clube Atlético Juventus, một câu lạc bộ trẻ ở São Paulo, năm 1986, Kazu ký bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Santos. Ông còn chơi cho một vài câu lạc bộ Brazil khác như Palmeiras và Coritiba cho đến khi trở về Nhật Bản năm 1990. Thời gian ở Brazil giúp ông trở thành một ngôi sao và trở về Nhật Bản, ông gia nhập câu lạc bộ ở giải Japan Soccer League Yomiuri FC, mà sau này tách ra khỏi công ty mẹ Yomiuri Shinbun và trở thành Verdy Kawasaki khi gia nhập J. League năm 1993. Cùng với Yomiuri/Kawasaki, Kazu giành 4 chức vô địch quốc gia liên tiếp cùng với những đồng đội ở đội tuyển Nhật như Ramos Ruy và Kitazawa Tsuyoshi. Yomiuri giành hai chức vô địch JSL cuối cùng năm 1991 và 1992 còn Verdy Kawasaki giành hai chức vô địch J. League đầu tiên năm 1993 và 1994. Ông là cầu thủ đầu tiên dành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất J.League năm 1993 và giải thưởng không chính thức cuối cùng của Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á năm 1993. Miura sau đó trở thành cầu thủ Nhật Bản đầu tiên thi đấu tại Italy, gia nhập Genoa C.F.C. tại Serie A 1994–1995. Trong thời gian ngắn tại Italy, ông thi đấu 21 trận và chỉ ghi được 1 bàn thắng, trong trận derby Genoa gặp Sampdoria. Ông trở lại Verdy Kawasaki trong mùa giải 1995 và thi đấu cho đến hết mùa 1998. Kazu lại một lần nữa sang châu Âu thi đấu cho Dinamo Zagreb năm 1999. Ông trở lại Nhật Bản sau một thời gian thử việc ngắn ở A.F.C Bournemouth, cùng năm đó, và rồi lần lượt thi đấu cho Kyoto Purple Sanga và Vissel Kobe, trước khi ký hợp đồng với Yokohama F.C. năm 2005. Ông thi đấu cho Sydney FC của A-League trong 2 tháng cho mượn cuối năm 2005, xuất hiện tại giải VĐQG cũng như Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2005 diễn ra tại Nhật Bản. Kazu ghi 2 trong trận đấu thứ hai của mình tại A-League, một trận thua 3-2 trước đội dẫn đầu Adelaide United. Ông còn được biết đến với thương hiệu của mình Kazu Feint và điệu nhảy Kazu nổi tiếng mỗi khi ghi bàn thắng quan trọng hay thi đấu xuất sắc. Năm 2007, Miura Kazuyoshi được chọn vào đội hình đội J-East trong trận đấu J. League All-Star. Tháng Mười một 2015, Miura có bản hợp đồng mới kéo dài thêm một năm với Yokohama F.C. ở tuổi 48. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản Miura Kazuyoshi thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1990 đến 2000. Ngoài ra, ông còn thi đấu trong màu áo đội tuyển futsal quốc gia Nhật Bản tại FIFA Futsal World Cup 2012 tại Thái Lan. Trong 6 trận ra sân của ông, ông ghi được 1 bàn trong chiến thắng 3-1 trước Ukraina trước thềm giải đấu. Thống kê sự nghiệp |- |1990||3||0 |- |1991||2||0 |- |1992||11||2 |- |1993||16||16 |- |1994||8||5 |- |1995||12||6 |- |1996||12||6 |- |1997||19||18 |- |1998||1||0 |- |1999||0||0 |- |2000||5||2 |- !Tổng cộng||89||55 |} Bàn thắng quốc tế Xuất hiện trong phim hoạt hình Năm 2012, ông đã xuất hiện trong phim điện ảnh "Thám tử lừng danh Conan: Cầu thủ thứ 11'. Giống với các cầu thủ khác xuất hiện trong phim, ông đã lồng tiếng cho nhân vật của chính mình. Tham khảo Liên kết ngoài Japan National Football Team Database Profile at Yokohama FC BOA SORTE KAZU! (Official site) Sinh năm 1967 Nhân vật còn sống Nhân vật bóng đá Shizuoka Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản Cầu thủ bóng đá Japan Soccer League Cầu thủ bóng đá J1 League Cầu thủ bóng đá J2 League Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất Croatia Cầu thủ bóng đá Santos FC Cầu thủ bóng đá Sociedade Esportiva Palmeiras Cầu thủ bóng đá Clube de Regatas Brasil Cầu thủ bóng đá Esporte Clube XV de Novembro (Jaú) Cầu thủ bóng đá Coritiba Foot Ball Club Cầu thủ bóng đá Tokyo Verdy Cầu thủ bóng đá Genoa C.F.C. Cầu thủ bóng đá Dinamo Zagreb Cầu thủ bóng đá Kyoto Sanga FC Cầu thủ bóng đá Vissel Kobe Cầu thủ bóng đá Yokohama FC Cầu thủ bóng đá Sydney FC Cầu thủ xuất sắc nhất J.League Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 1992 Cầu thủ Cúp Nhà vua Fahd 1995 Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 1996 Cầu thủ vô địch Cúp bóng đá châu Á Cầu thủ xuất sắc nhất châu Á Cầu thủ bóng đá Đại hội Thể thao châu Á 1990 Cầu thủ bóng đá Đại hội Thể thao châu Á 1994 Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Brasil Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Croatia Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Úc Vận động viên Nhật Bản ở Brasil Vận động viên Nhật Bản ở Ý Vận động viên Nhật Bản ở Croatia Vận động viên Nhật Bản ở Úc Tiền đạo bóng đá Cầu thủ bóng đá trong nhà nam Nhật Bản Vận động viên Đại hội Thể thao châu Á của Nhật Bản
wiki
Emmendingen là một huyện (Landkreis) ở phía tây của Baden-Württemberg, Đức. Huyện có diện tích 679,81 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2020 là 166.862 người. Các huyện giáp ranh (từ phía bắc theo chiều kim đồng hồ): Ortenaukreis, Schwarzwald-Baar, Breisgau-Hochschwarzwald và thành phố không thuộc huyện Freiburg. Về phía tây giáp tỉnh Bas-Rhin. Lịch sử Huyện này có lịch sử từ Bezirksamt Emmendingen, một đơn vị được lập năm 1803 khi khu vực này trở thành lãnh thổ của Baden. Sau nhiều đợt bổ sung lãnh thổ, đơn vị này đã được chuyển thành huyện Emmendingen vào năm 1936, lúc đó đơn vị này được sáp nhập với Amt Waldkirch. Trong cuộc cải cách năm 1973, huyện này được quy hoạch sáp nhập với huyện Lahr, nhưng Lahr lại bị sáp nhập vào huyện Ortenau. Địa lý Phần phía tây của huyện tọa lạc ở thượng lưu thung lũng Rhine, bao gồm cả núi lửa nhỏ không hoạt động Kaiserstuhl. Sườn núi này là nơi trồng nho. Phần phía đông huyện thuộc Rừng Đen. Huy hiệu Xã và thị trấn Tham khảo Liên kết ngoài Trang mạng chính thức (tiếng Đức) Thông tin và hình ảnh Freiburg (vùng) Huyện của bang Baden-Württemberg Emmendingen (huyện)
wiki
Bederkesa hay Bad Bederkesa là một đô thị thuộc huyện Cuxhaven, trong bang Niedersachsen, Đức. Đô thị này có diện tích 43,17 km². Đô thị này có cự ly khoảng 20 km về phía đông bắc của Bremerhaven, và 30 km về phía đông nam của Cuxhaven. Bederkesa là thủ phủ của Samtgemeinde ("đô thị tập thể") Bederkesa. Lịch sử Năm 1807, Vương quốc Westfalen đã thôn tính Lãnh địa, trước khi Đế nhất Đế chế Pháp thôn tính nó vào năm 1810. Năm 1813, lãnh địa này đã được giao lại cho Thái ấp tuyến hầu Hanover, sau đó được nâng thành vương quốc Hanover vào năm 1814 - hợp nhất lãnh địa trong một liên minh thật sự và lãnh thổ Ducal, bao gồm cả Bederkesa, đã trở thành một bộ phận của bang mới được lập năm 1823. Địa lý Vị trí Bad Bederkesa nằm ở phía bắc tam giác Elbe-Weser, cách Bremerhaven khoảng 20 km về phía đông. Xã nằm bên cạnh Hồ Bederkesa, và kênh đào Hadeln cũng như kênh đào Bederkesa-Geeste. Cùng với con sông Geeste, hai kênh đào này tạo nên tuyến vận tải đường thủy nối liền sông Elbe và sông Weser. Các cánh rừng bao gồm Begrabenholz, Brunnenholz, Holzurburg, Spitzackerhol, Zechholz tạo nên điểm nhấn của xã. Phân chia hành chính Ankelohe Bederkesa (Kernort) Fickmühlen Địa danh lân cận Tham khảo Xã và đô thị ở huyện Cuxhaven
wiki
David Kenneth Harbour (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1975) là một diễn viên người Mỹ. Anh được biết đến nhiều nhất với vai diễn Jim Hopper trong Stranger Things - một series phim truyền hình kinh dị, khoa học viễn tưởng của Netflix (2016-nay), đã mang về cho anh một giải thưởng Critics' Choice Television Awards năm 2018. Anh cũng đã nhận được đề cử giải thưởng Emmy Primetime và Giải Quả cầu vàng. Harbour đã có các vai phụ trong các bộ phim như Brokeback Mountain (2005), Quantum of Solace (2008), The Green Hornet (2011), End of Watch (2012), The Equalizer (2014), Black Mass (2015) và Suicide Squad (2016). Ngoài ra anh còn đảm nhận vai chính cùng tên trong bộ phim siêu anh hùng Hellboy (2019). Tiểu sử Harbour được sinh ra ở White Plains, New York, cha mẹ anh là Kenneth và Nancy (nhũ danh Riley) Harbour. Cả bố mẹ anh đều làm trong lĩnh vực bất động sản, mẹ anh làm bất động sản nhà ở và bố anh làm bất động sản thương mại Anh học tại trường trung học Byram Hills ở Armonk, New York, cùng với các diễn viên khác là Sean Maher và Eyal Podell. Harbour tốt nghiệp trường Đại học Dartmouth ở Hanover, New Hampshire năm 1997. Sự nghiệp Harbour bắt đầu diễn xuất chuyên nghiệp trên sân khấu Broadway vào năm 1999, trong vở kịch sự hồi sinh của The Rainmaker. Sau đó, anh ta đã ra mắt trong bộ phim truyền hình cùng năm đó trong một tập của Law & Order, đóng vai một người phục vụ. Anh ta xuất hiện trở lại vào năm 2002 trong một tập của Law & Order: Special Victims Unit, vào vai một kẻ giết trẻ em. Harbour miêu tả đặc vụ MI6 Roger Anderson trong loạt phim Pan Am của ABC. Năm 2005, anh được đề cử giải Tony cho vai diễn trong tác phẩm Who’s Afraid of Virginia Woolf?. Harbour cũng được biết đến với vai diễn đặc vụ CIA - Gregg Beam trong Quantum of Solace, với vai diễn là Campbell Campbell trong Revolutionary Road và Russell Crowe trong State of Play. Anh cũng nhận được lời khen ngợi cho vai diễn sát thủ lừng lẫy Paul Devildis trong một tập phim năm 2009 của Law & Order: Criminal Intent. Anh còn góp mặt trong các bộ phim khác bao gồm Brokeback Mountain, The Green Hornet, End of Watch và Between Us. Năm 2013, anh đóng một vai nhỏ là một bác sĩ trưởng khoa trong loạt phim truyền hình Elementary. Từ năm 2012 đến 2014, anh cũng đóng một số vai định kỳ như Elliot Hirsch trong The Newsroom. Vào năm 2014, Harbour đóng vai Tiến sĩ Reed Akley trong phần đầu tiên của loạt phim truyền hình lịch sử Manhattan. Năm 2015, Harbour được chọn vào vai Jim Hopper trong loạt phim Stranger Things, một series phim truyền hình kinh dị, khoa học viễn tưởng của Netflix. Với vai diễn trong sê-ri, Harbour đã nhận được đề cử cho Giải thưởng Primetime Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc trong một bộ phim truyền hình (2017 và 2018) và Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Sê-ri, Miniseries hoặc Phim truyền hình (2018). Harbour đã giành được một giải thưởng Hiệp hội diễn viên xuất sắc cho màn trình diễn xuất sắc của một nhóm nhạc kịch (2017) cùng với các thành viên còn lại. Harbour thủ vai chính trong bộ phim reboot Hellboy (2019) với nhân vật chính cùng tên. Anh cũng đảm nhận một vai chính mang tên Alexei Shostakov/Red Guardian trong bộ phim Black Widow (2021) - một bộ phim thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Đời sống cá nhân Từ năm 2019, Harbour đã có quan hệ tình cảm với nữ ca sĩ Lily Allen. Họ cùng nhau xuất hiện lần đầu trên thảm đỏ trong Lễ trao giải Screen Actors Guild thường niên lần thứ 26. Một ngày sau khi nhận được giấy đăng ký kết hôn, họ kết hôn vào ngày 7 tháng 9 năm 2020 tại Las Vegas. Harbour đã từng tin vào một số tôn giáo bao gồm Công giáo và Phật giáo;  Tuy nhiên, bây giờ anh không tin vào điều "huyền bí" và tin rằng con người "tạo ra một cuộc sống bằng... ý thức."  Anh từng tin vào ma, nhưng giờ thì không. Harbour đã phải vật lộn với chứng nghiện rượu trong quá khứ của mình, và đã rất tỉnh táo kể từ những năm đầu của tuổi 20. Ở tuổi 25, Harbour được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Các phim đã đóng Phim điện ảnh Phim truyền hình Vở kịch Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài David Harbour tại TV.com Nam diễn viên đến từ New York Nhân vật còn sống Nam diễn viên truyền hình Mỹ Nam diễn viên sân khấu Mỹ Nam diễn viên điện ảnh Mỹ Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20 Sinh năm 1975
wiki
Dương Ngạn Địch (chữ Hán: 楊彥迪, ?-1688), là một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh, tổng binh của nhà Minh Trịnh ở Long Môn (龍門), Khâm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1679, ông cùng tùy tùng đi thuyền sang thần phục chúa Nguyễn và trở thành người có công trong việc phát triển vùng đất Mỹ Tho, Việt Nam. Thân thế Dương Ngạn Địch còn được gọi là Dương Nhị (楊二), người em trai của ông gọi là Dương Tam (楊三). Quê quán của ông chưa rõ, có thể là Lôi Châu, Ngô Xuyên (吳川) hoặc Khâm Châu (欽州). Từ năm 1640-1650, anh em họ Dương làm thổ phỉ, và có quan hệ với thủ lĩnh hải tặc tên Hoàng Chiêm Tam (黃占三), và một hải tặc người Đàng Ngoài tên Hoàng Minh Phiếu (黃明票). Năm 1655, hai anh em họ có đến cướp phá ở Lăng Thủy (陵水) trên đảo Hải Nam. Dương Ngạn Địch sau đó gia nhập lực lượng của Trịnh Thành Công. Theo sách Phòng Thành huyện chí (防城縣志), năm 1661, Dương Ngạn Địch xuất quân chiếm cứ đảo Long Môn ở Khâm Châu và kiểm soát khu vực biển xung quanh Khâm Châu và Phòng Thành, tự xưng hiệu Dương Vương. Sau đó, con trai Trịnh Thành Công là Trịnh Kinh phong cho Ngạn Địch chức Vũ trấn tổng binh (武鎮總兵). Năm 1677, loạn Tam Phiên xảy ra, Dương Ngạn Địch theo lệnh Trịnh Kinh tái chiếm đảo Long Môn, Khâm Châu. Năm 1679, quân Thanh công phá đảo Long Môn, Ngạn Địch nhận thấy không còn hi vọng khôi phục triều Minh, bèn cùng gia quyến lên thuyền đi tị nạn ở Đàng Trong. Người em trai Dương Tam vẫn ở lại làm cướp biển và bị quân Thanh giết năm 1700. Tại Phòng Thành, Dương Ngạn Địch được tưởng nhớ với danh hiệu Dương Nghĩa (楊義) kèm với giai thoại xây dựng đồn thủy binh ở đảo Long Môn của ông. Sự nghiệp ở Việt Nam Cập bến Đàng Trong Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên) chép: Kỷ Mùi (1679), mùa xuân tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến (黃進 - Huỳnh Tấn) cùng Cao Lôi Liêm tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình, đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung (cửa Tư Hiền) và Đà Nẵng, tự trần là bô thần (bề tôi mất nước, trốn ra nước ngoài) nhà Minh, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin để làm tôi tớ. Bấy giờ bàn bạc rằng phong tục, tiếng nói của họ đều khác nhau, khó bề sai đúng, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông phố nước Chân Lạp phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa (Nguyễn Phúc Tần) theo lời bàn, bèn sai đặt yến ủy lạo khen thưởng, trao cho quan chức đến ở đất Đông Phố. Trước đó, năm 1673, ở Chân Lạp đã nổ ra cuộc tranh chấp quyền lực giữa một bên là hai anh em Ang Chea (Nặc Ông Đài)-Ang Sur (Nặc Thu) và bên kia là hai bác cháu Ang Tan (Nặc Tân)-Ang Nan (Nặc Nộn). Phe Ang Tan-Ang Nan cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần. Năm 1674, Ang Tan chết, ba năm sau, Ang Chea bị giết. Chúa Nguyễn giải hòa hai phe bằng cách phong cho Ang Sur làm chính vương (đóng đô ở Oudong) và Ang Nan làm phó vương (đóng đô ở Prei Nokor, nay là Sài Gòn...) Vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới Việt–Champa phía Nam còn dừng lại ở sông Phan Rang, cho nên chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho người đưa thư đến Ang Nan (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Sài Gòn và Ang Nan đã đồng ý. Vậy là, nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên) chép chuyện: Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho; binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hoà)...’’ Mở mang vùng Mỹ Tho Mỹ Tho đại phố được thiết lập ở bên sông Mỹ Tho. Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên) chép:Nhóm Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho cho dựng nhà cửa, họp người Kinh, người Di, kết thành làng xóm. Sau đó dựng 9 trường biệt nạp là Quy Ang, Duy Hoá, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Cạnh, Tân Thạch; cho dân lập ấp khai khẩn ruộng đất cày cấy lại lập thành trang trại, man, nậu, nhân dân đều theo nghề nghiệp của mình làm ăn để nộp thuế. Sách Đại Nam nhất thống chí khen ngợi:Phong tục của Định Tường-Mỹ Tho cũng giống Gia Định, nhưng vật lực có hơn, cho nên cũng ham vui và thích chơi nhiều hơn. Phục sức xa xỉ cũng hơn., phụ nữ nuôi tằm, dệt vải cũng hơn, mà nhà nông cày cấy cũng hơn...Trong bài Đô thị ở Nam Bộ thời cận đại, tác giả Nguyễn Thị Hậu kể:Dương Ngạn Địch sang xin qui phục, chúa Hiền sai Văn Trinh, Văn Chiêu đưa dụ văn sang vua Cao Miên là Nặc Thu, bảo chia đất này cho nhóm Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5 năm 1679, Văn Trinh dẫn cả binh biền và thuyền bè của Dương Ngạn Địch đến đóng ở vùng Mỹ Tho. Dương Ngạn Địch cho xây dựng nhà cửa, qui tụ người Việt, người Thổ (người Khmer) kết thành thôn xóm. Đến đời Nguyễn Phúc Chu lập ra phủ trị ở phía bắc chợ, lệ thuộc vào dinh Phiên Trấn. Đời Nguyễn Phúc Thuần cải đặt làm đạo Trường Đồn có một viên cai cơ hoặc cai đội và một thư ký ở làm việc, sau nầy mới lập dinh trấn...Phía nam lỵ sở là chợ phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo. Tiến sĩ Nguyễn Phúc Nghiệp kể: Do chợ Mỹ Tho đã nổi lên như một trung tâm kinh tế-thương mại sầm uất, nên năm 1781, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho dời lỵ sở của dinh Trấn Định từ giống Kiến Định (nay thuộc Tân Lý-Tân Hiệp, huyện Châu Thành) về thôn Mỹ Chánh-chợ Mỹ Tho. Kể từ đó, Mỹ Tho trở thành trung tâm chính trị của dinh Trấn Định- một trong năm dinh của Nam Bộ lúc đó.. Những tài liệu trên cho thấy, trong khi Trần Thượng Xuyên chỉ chú trọng mở mang thương mại và tiểu công nghệ ở vùng Cù lao Phố, thì Dương Ngạn Địch đến vùng Mỹ Tho, tuy vẫn chú trọng đến thương mại nhưng vẫn cho lập ra những trang trại, phát triển nghề ruộng rẩy và cùng cộng cư với dân Việt, dân bản địa (người Khmer). Bàn về vấn đề này, nhà văn Sơn Nam viết:Cần phải xác định vai trò của các di thần nhà Minh ở miền Nam, lúc họ mới đến. Trừ trường hợp Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, các ông Mạc Cửu và Trần Thắng Tài chỉ chú trọng việc thương mại, tổ chức phố chợ mà thôi. Nhứt là ông Mạc cửu, ông này quá thiên về hoạt động chánh trị. Vì vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy vùng phụ cận chợ Hà Tiên và chợ Biên Hòa còn quá nhiều đất hoang, chưa canh tác...Sau một thời gian, chợ Mỹ Tho nổi lên như một trung tâm kinh tế-thương mại sầm uất; đến năm 1785, quân Xiêm đã tràn sang và biến nơi đây thành bãi chiến trường. Phố xá bị tàn phá, của cải bị cướp bóc nên Mỹ Tho đại phố trở nên tiêu điều. Thương nhân ở đây hầu hết đều chuyển lên làm ăn ở Sài Gòn-Bến Nghé. Năm 1788, mặc dù được khôi phục dần, nhưng không còn nhộn nhịp như trước. Chung số phận như Cù lao Phố, nó chấm dứt thời thịnh đạt của một trong những chợ được xem là thành lập sớm nhất ở Nam Bộ. Bị nội phản Năm Mậu Thìn (1688), tức 9 năm sau kể từ khi Dương Ngạn Địch sang đất Việt, ông bị phó tướng Hoàng Tiến giết chết ở cửa biển Mỹ Tho. Sách Đại Nam thực lục Tiền biên chép: ...Ám hại xong, Hoàng Tiến tự xưng là "Phấn dũng hổ oai tướng quân", dời đồn sang Nan Khê, thủ hiểm đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc tứ tung, người Chân Lạp vô cùng khổ sở. Vua chính nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận (tưởng là chúa Nguyễn ngầm xui để lấy cớ xâm chiếm nước), bèn mưu với bề tôi là Óc Nha Cống Sa bỏ việc triều cống và đắp ba luỹ Bích Đôi, Cầu Nam và Nam Vang, rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ...Vua thứ nhì Chân Lạp là Nặc Nộn (đang đóng ở Sài Gòn), cấp báo đến dinh Trấn Biên. Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) nổi giận, bèn cử tướng Mai Vạn Long ở Dinh Thái Khương giả hiệp quân cùng Tiến đi đánh dẹp Nặc Thu, nhưng kỳ thực cũng để hạ Hoàng Tiến.Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1689), Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Rạch Gầm, sai người đến Nan Khê triệu Hoàng Tiến đem quân sở bộ đến.Vạn Long phải dùng mẹo đánh lừa Tiến đến hội. Quả nhiên Tiến cưỡi thuyền ra sông đến hội. Phục binh vùng dậy, bốn mặt đánh vào, Tiến bỏ thuyền chạy, nhằm lẩn về phía cửa biển Soài Rạp, trốn thoát. Vạn Long vào lũy, bắt được vợ con Tiến đều chém cả, chiêu tập dư chúng quân Long Môn, sai bộ tướng là Trần Thượng Xuyên quản lãnh để làm tiên phong...'' Chú thích Liên kết ngoài Buổi đầu khai phá - xây dựng tên website Bến Tre. Lược sử vùng đất Nam Bộ Đô thị ở Nam Bộ thời cận đại trên website vanchuongviet.org. Vài nét về Mỹ Tho xưa 广西防城港市发现一座被人遗忘的神秘的皇城 http://beihai.gov.cn/11443/2010_4_12/11443_97063_1271041828469.html Zottoli, Brian A, Reconceptualizing Southern Vietnamese History from the 15th to the 18th Centuries: Competition along the Coasts from Guangdong to Cambodia, UNIVERSITY OF MICHIGAN LIBRARY (2011). The junk trade from Southeast Asia: Translations from the Tôsen fusetsu-gaki, 1674-1723 (Data paper series sources for the economic history of Southeast Asia), Research School of Pacific and Asian Studies, Australian National History (January 1, 1998) Võ tướng chúa Nguyễn Người Mỹ Tho Người Đàng Trong Người Minh Hương Mất năm 1688 Người Việt gốc Hoa
wiki
Kidal (tiếng Tuareg: ⴾⴸⵍ, Kidal) là một commune ở vùng hoang mạc miền bắc Mali. Nó nằm cách Gao về phía đông nam và là thủ phủ của vùng Kidal. Commune Kidal có diện tích chừng và bao gồm thị trấn Kidal và 31 điểm dân cư khác. Lịch sử Ngày 30 tháng 3 năm 2012, Kidal và quân đồn tại đây là bị chiếm giữ bởi Phong trào Dân tộc Giải phóng Azaward (MNLA) trong cuộc nổi dậy của người Tuareg giành độc lập cho Azawad. Một phát ngôn viên cho hội đồng quân sự Mali nói rằng "Để bảo toàn mạng sống cho người dân Kidal, chỉ huy quân đội quyết định không kéo dài trận chiến". Gao và Timbuktu cũng bị chiếm trong 48 giờ tiếp theo, vào ngày 6 tháng 4, MNLA tuyên bố sự độc lập của Azawad khỏi Mali. Trong quá trình xung đột, MNLA lại để mất quyền kiểm soát vào tay phiến quân Hồi giáo. Ngày 30 tháng 1 năm 2013, quân Pháp và Mali giành lại được Kidal, đưa nó trở lại dưới sự quản lý của chính phủ. Ngày 14 tháng 12 năm 2013, một bom xe làm thiệt mạng hai quân nhân giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Ảnh Khí hậu Theo hệ thống phân loại khí hậu Köppen, Kidal có khí hậu sa mạc nóng (BWh), với khí hậu rất nóng trong hầu hết cả năm. Chú thích Liên kết ngoài . . Điểm dân cư tại Mali Tuareg
wiki
Fischland-Darß-Zingst hoặc Fischland-Darss-Zingst là bán đảo dài ở huyện ven biển Vorpommern-Rügen, thuộc bang Mecklenburg-Vorpommern của Đức. Ba phần của bán đảo, từ tây sang đông, là Fischland (một phần của Mecklenburg), Darß và Zingst (một phần của Pomerania). Có sáu ngôi làng trên bán đảo - Wustrow, Ahrenshoop, Sinh ra, Wieck, Prerow và Zingst. Giữa bán đảo và đất liền có một đầm rất cạn (tiếng Đức thấp: bodden), Saaler Bodden, một phần của Công viên quốc gia khu vực đầm phá Pomerania phía Tây, cùng với bán đảo. Lịch sử Trong thời kỳ lịch sử, phần chính của Fischland cũng như Darß và Zingst là những hòn đảo. Họ đã vĩnh viễn gia nhập vào đất liền do con người bịt kín các kênh nước lũ giữa thế kỷ 14 và 19. Trong trận lụt ở biển Baltic năm 1872, nơi ngập lụt Prerow trên Darß, Prerower Strom, đã tách biệt hòn đảo Zingst khỏi Darß, im lặng. Năm 1874, Prerow-Strom cuối cùng đã được lấp đầy và bịt kín bằng một con đê; Zingst vì thế trở thành một bán đảo. Phần phía đông của bán đảo Zingst và giữa Darß là một phần của Công viên Quốc gia Khu vực Đầm phá Tây Pomeranian. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Fischland-Darss-Zingst phe Fischland-Darß-Zingst Bán đảo Mecklenburg-Vorpommern Bán đảo biển Baltic
wiki
{{Thông tin mạng lưới phát sóng | name = Fox Broadcasting Company | logo = File:Fox Broadcasting Company logo (2019).svg | logo_size = 200px | type = Broadcast television network | country = Hoa Kỳ | language = Tiếng Anh | available = NationalInternational | founded = | founder = Rupert Murdoch | slogan = We Are FOX’’ (Chúng tôi là FOX) | headquarters = Los Angeles, California | owner = 21st Century Fox | parent = Fox Entertainment Group | key_people = Dana WaldenGary Newman | launch_date = | Picture format = 480i (SDTV) (ngày 9 tháng 10 năm 1986 – ngày 12 tháng 6 năm 2009)720p (HDTV) (ngày 12 tháng 9 năm 2004–nay) | former_names = FBC (1986–1987) | affiliates = Lists:By stateBy market | website = | footnotes = }} Fox Broadcasting Company (tạm dịch: Công ty Truyền thông Fox), thường được gọi là Fox (từ việc công ty này hay tự gọi mình là FOX), là hệ thống truyền hình tại Mỹ được sở hữu bởi Tập đoàn Giải trí Fox, với Rupert Murdoch trong nhóm Quản trị Tin tức. Kể từ khi được phát sóng ngày 9 tháng 10 năm 1986, FOX đã trở thành một trong những hệ thống truyền hình cao nhất thế giới. Năm 2007-2008, Fox trở thành kênh truyền hình gia đình có số lượng người cao nhất nước Mỹ, chiếm ngôi của CBS. FOX đã phát triển thành nhiều kênh truyền hình giải trí tại nhiều quốc gia, kể cả Úc (FOX8), Bulgaria, Đức, Nhật Bản, Ý, Serbia, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha (FOX, Fox Crime, Fox Life, FOX Next), khu vực Nam Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ mỗi giờ chiếu, phát sóng đều khác nhau. Hầu hết người xem ở Canada đều cài thêm một nhánh kênh khác ở Mỹ. Hệ thống truyền hình được đặt tên từ công ty chị em 20th Century Fox, và tên người sản xuất William Fox, một trong những người sáng lập công ty. Lịch sử Năm 1981, News Corporation mua lại một nửa xưởng phim 20th Century Fox và mua tiếp nửa còn lại vào năm 1984. Năm 1985, News Corporation thông báo rằng nó đã mua lại Metromedia'', một công ty chuyên về các trạm thu phát sóng truyền thanh và truyền hình, để chuẩn bị cho giai đoạn khai trương mạng lưới truyền hình thương mại Hoa Kỳ thứ tư. Ngày 4 tháng 9 năm 1985, Rupert Murdoch nhập quốc tịch Mỹ để đáp ứng yêu cầu hợp pháp rằng chỉ có những công dân Mỹ mới có thể sở hữu các trạm thu phát sóng truyền hình tại Mỹ. Năm 1986, Metromedia bị đóng cửa và nó được thành lập. Mạng lưới này, được biết đến với cái tên "Fox", hiện nay đã xuất hiện trong khoảng 96% các hộ gia đình ở Mỹ. Chủ tịch Xem thêm 20th Century Fox MundoMax (defunct; formerly MundoFox) FOX Fox8 Fox cartoons Fox News Channel Fox Business Network Fox Filipino Fox Sports Fox Sports 1 Fox Sports 2 Fox Sports Networks FX FXX FX Movie Channel Foxtel Animation Domination Animation Domination (Australia) Friday night death slot Fox Channel Asia Fox Life Fox (Turkey) Fox (Finland) Fox (Greece) Fox (UK and Ireland) Fox (Norway) Fox (Hungary) Fox Life Greece Fox Life (Netherlands) Lists of United States network television schedules List of United States over-the-air television networks Fox Broadcasting Co. v. Dish Network, LLC Logos Chú thích Đài truyền hình Mỹ Metromedia News Corporation
wiki
Bài viết số 2 lớp 8 hay nhất Hướng dẫn Bài viết số 2 lớp 8 đề 1: Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích. “Meo…meo…meo” hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học là chú mèo lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Đó là chú mèo bà ngoại đã tặng em hồi năm ngoái. Con mèo vừa tròn một tuổi tên là MiMi. Nó là giống mèo cái. MiMi khoác lên mình bộ áo màu vàng điểm thêm vài vết trắng làm cho chiếc áo của cô càng thêm xinh đẹp. Cô rất thích chơi với trái banh ten-nit của em. Cái đầu tròn như trái vú sữa. Đôi mắt long lanh như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi nhỏ xinh màu hồng lúc nào cũng ươn ướt. Miệng cô chúm chím dễ thương. Tuy vẻ bề ngoài là vậy nhưng bên trong có hàm răng nhọn hoắt, lúc nhe răng trông thật đáng sợ. Đôi tai hình tam giác luôn vểnh lên để nghe ngóng. Tai cô mới thính làm sao! Chỉ một tiếng động nhỏ cô đều phát hiện được. Hai bên má có bộ ria mép trắng muốt, trông MiMi thật oai phong. Bốn cái chân thon thon giúp cô đi lại nhẹ nhàng như người mẫu đang trình diễn thời trang. Nhưng lúc cần MiMi chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là tấm nệm êm nhỏ, trong tấm nệm nhỏ ấy cất giấu một bộ vuốt sắt bén, và đó là vũ khí lợi hại nhất của cô ta. Đã có lần những chiếc vuốt ấy đã để lại dấu vết trên tay em khi em nghịch với cô. Ôi! cái đuôi mới dẻo làm sao! Chiếc đuôi như một dấu ngã chẳng giấu vào đâu được. Những ngày mùa hè, buổi sáng thức dậy MiMi thường ra ngoài sân tắm nắng. Lấy chiếc lưỡi của mình liếm bộ lông vàng mượt và chơi đùa giởn với bóng của mình. Còn mùa đông MiMi thường nhảy phóc lên bộ sa lông đánh một giấc ngủ no say. Đặt biệt lúc ngủ MiMi luôn nhịp cái đuôi trông ngộ nghĩnh làm sao! Xinh đẹp là thế nhưng những lúc rình và bắt chuột trông cô như một chiến binh. Một hôm em thấy MiMi nằm sau thùng gạo để rình bắt chuột. Một con chuột nhắt mon men đến bên nồi cơm đang để hớ hênh. Bất chợt, phóc một cái, MiMi đã vồ chú chuột nhắt nằm cứng ngắt trong đôi móng vuốt sắc của cô. Vậy là MiMi có một bửa ăn ngon lành và đầy tự đắc. Em rất yêu quý MiMi và xem cô như người bạn thân thiết. Sau những lúc học hành căng thẳng em hay chơi với cô. Em luôn chia sẻ những buồn vui của mình với MiMi. Nó không chỉ là con vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà còn được em phong là “Dũng sĩ diệt chuột” giỏi nhất mà em từng nuôi. Tham khảo thêm: Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích Bài viết số 2 lớp 8 đề 2: Hãy kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy cô giáo buồn. Câu chuyện đáng buồn ấy xảy ra từ năm học trước, vậy mà mỗi lần nhớ lại, em cảm thấy như vừa mới đây thôi. Giờ kiểm tra Toán hôm đó, em sẽ nhớ suốt đời. Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Thầy giáo dạy Toán lớp 7A là thầy Thảo. Em rất thích môn Toán một phần cũng vì thầy dạy vừa dễ hiểu, vừa hấp dẫn. Từ đầu năm đến giữa học kì I, em liên tục được điểm 9, điểm 10. Bố em cũng là giáo viên dạy Toán trong trường, thường hãnh diện về cậu con trai cưng của mình. Bất ngờ, thầy Thảo bị ốm phải nằm bệnh viện và bất ngờ hơn nữa người được Ban Giám hiệu phân công dạy thay lại chính là… bố em. Mọi rắc rối bắt đầu từ đấy. Mặc dù bố là giáo viên dạy giỏi nhưng học bố, em thấy thế nào ấy. Cứ đến giờ Toán là em ngượng nghịu, mất tự nhiên hẳn. Hồi thầy Thảo còn dạy, em hay xung phong lên bảng giải bài tập và lần nào cũng được thầy khen. Bây giờ khác hẳn, bố giảng bài, em chăm chú nghe nhưng im lặng, chẳng tỏ thái độ gì. Hình như hiểu tâm trạng của em nên bố không vui. Suốt mấy ngày, em hồi hộp và lo sợ. Em không chi lo bị điểm kém mà còn lo cho uy tín của bố nữa. Bố sẽ ăn nói làm sao với học trò và đồng nghiệp khi con trai mình làm bài không tốt. Hôm trả bài, cầm trên tay bài kiểm tra bị điểm 3 to tướng, quả thật là em choáng váng. Em vừa xấu hổ, tủi thân lại vừa giận bố. Bố có thể sửa điểm được mà sao bố nỡ thẳng tay như vậy? Đã thế, sau bữa cơm chiều, trước mặt cả nhà, bố buồn bã bảo rằng vì em chủ quan, bướng bỉnh không nghe lời nên mới ra nông nỗi. Ngẫm nghĩ, em thấy bố nói rất đúng. Em chỉ có thể tự trách mình mà thôi. Điểm 3 đầu tiên và duy nhất ấy như một tời cảnh cáo nghiêm khắc đối với em: Không được kiêu căng, tự mãn trong học tập và phải nghiêm túc, cẩn thận trong mọi công việc, dù là việc nhỏ. Sau đó, em nhanh chóng xoá đi mặc cảm, lại say mê môn Toán và cũng mê “thầy giáo bố” chẳng khác gì thầy Thảo trước đây. Cuối năm lớp 7, em vẫn đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc. Hôm lĩnh phần thưởng và giấy khen, em trịnh trọng đưa cho bố bằng cả hai tay. Bố khen em cố gắng như vậy là tốt, xứng đáng là con trai của bố. Em xúc động không nói nên lời. Chuyện ấy giờ đã thành kỉ niệm, dẫu là kỉ niệm buồn nhưng ý nghĩa của nó thì vô cùng thấm thía, bền lâu. Nó không chỉ là bài học sâu sắc cho em trong quãng đời học sinh mà sẽ là bài học bổ ích suốt cuộc đời. Tham khảo thêm:Hãy kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy cô giáo buồn Bài viết số 2 lớp 8 đề 3: Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng. Bố mẹ đã có côg sinh thành và nuôi dưỡng tôi nên người, vì vậy ơn nghĩa của họ tôi sẽ không thể trả hết được. Nhưng tôi lại có thể làm cho bô mẹ vui,làm tròn bổn phận của một người con. Tôi vẫn nhớ ngày mà nụ cười trên gương mặt đấng sinh thành của tôi rạng rỡ hơn bao giờ hết. Đó chính là khi bố mẹ biết tôi đã nhặt được ví tiền của một người lạ và đem đến nộp chú công an. Khoảnh khắc được nhìn thấy nụ cười ấm áp của bố mẹ thật hạnh phúc biết bao! Tôi còn nhớ hồi đó, tôi mới tám tuổi, cái tuổi còn rất nhỏ. Niềm vui lớn lao nhất mà tôi đã dành cho bố mẹ tôi vào cái tuổi ấy là làm đc một việc tốt: nhặt được của rơi, trả lại người đánh mất. Vào buổi sáng Chủ nhật, trên đường đi học thêm về, qua một cái ngõ hẻm, tôi thấy có một vật gì đó nằm ở giữa đường – một chiếc ví màu đen. Tôi nhặt chiếc ví đó lên rồi vừa đi chầm chậm, vừa nhìn xung quanh xem có ai đó muốn tìm chiếc ví này không. Một lúc sau, tôi vẫn không thấy có ai đến tìm. Tôi nghĩ chắc người đó đã đi xa rồi hoặc không biết mình đánh rơi chiếc ví. Dù có biết chăng nữa, thì người đó cũng chỉ loay hoay tìm kiếm ở gần chỗ họ đứng. Hàng loạt những câu hỏi cứ hiện ra trong đầu tôi: Người ấy là ai? Người đó là công nhân, nông dân hay là một người giàu có? Trong chiếc ví có những gì? Dù rất tò mò nhưng tôi không muốn mở ra xem. Tôi mag chiếc ví đến trụ sở công an phường. Các chú công an nhìn tôi thập thò ở cửa, liền hỏi: – Có việc gì vậy cháu bé? Tôi ngại ngùng đáp: – Dạ! thưa chú trên đường đi học về cháu nhặt đc chiếc ví này. Cháu đem nộp, nhờ các chú trả lại cho người bị đánh mất ạ! Một chú công an cầm lấy chiếc ví rồi đến chỗ tôi, chú cười xoa đầu tôi, nói: – Chái rất ngoan và thật thà không dám lấy cắp của rơi. Nào! Chú cháu mình xem trong này có những gì để ghi vào biên bản nhé! Rồi chú lấy ra từ trong ví: một giầy chừng minh nhân dân, cá giấy tờ quan trọng và hơn 5 triệu đòng tiền mặt. Chú ghi rõ từng thứ vào biên bản rồi yêu cầu tôi ghi tên và địa chỉ xuống phía dưới biên bản. Có tên tuổi, địa chỉ các chú sẽ thuận lợi trong việc trải lại cho người đánh mất. Buổi tối hôm đó, nhà tôi có một người khách lạ đến chơi. Đó chính là chủ nhân của chiếc ví. Bác kể chuyện cho bố mẹ tôi nghe và cảm ơn tôi mãi. Bố mẹ tôi nghe xong đã khen tôi làm đc 1 việc tốt, lúc đó bố mẹ tôi rất vui và hành diện vì có một đứa con ngoan. Bây giờ, mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn không thể nào quên đc ngày hôm đó. Lời khen chân thành của mọi người đói với tôi là phần thưởng quý giá nhất.Tôi sẽ giữ mãi kỷ niệm này trong tâm trí của mình. Tham khảo thêm:Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng Bài viết số 2 lớp 8 đề 4: Nếu là người được chứng kiến cảnh Lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo thì em sẽ ghi lại câu chuyên đó như thế nào. Tôi choàng tỉnh giấc, dậy từ khi mặt trời còn chưa treo ngọn tre. Đó là một thói quen bình thường của người làm nghề nông. Cả cái làng Vũ Đại này, có ai không làm nghề nông chỉ trừ ông Bình giáo ra. Ông ấy là người học rộng lại hiểu sâu, chính vì vậy mà tôi định đến nhà ông giáo để viết một số giấy tờ nhà đất. Con đường làng dài và hẹp. Gió thổi vi vu khiến cho những rặng tre xào xạc, đung đưa. Quanh nhà ông giáo, những hàng râm bụt lá vàng úa vẫn còn tồn tại sau trận bão khủng khiếp. Vừa thấy tôi, ông giáo liền nói: “Chào bác”. Tôi đáp lại: – Vâng, chào anh! Hôm nay tôi sang đây là muốn nhờ anh viết một số giấy tờ đất đai! – Vậy mời bác vào nhà nhà xơi nước cái đã! Ông giáo mời tôi ngồi trước thềm nhà, chúng tôi đang bàn bạc thì bỗng đâu có tiếng nói hớt hải vọng tới: Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ! A! Thì ra là lão Hạc, lão mặc bộ quần áo xộc xệch, đầu tóc rồi bù trông có vẻ kham khổ lắm. Lão là người hàng xóm của tôi. Vợ lão chết, con lão thì đi làm đồn điền cao su không biết khi nào về. Lão cứ sống như vậy cô đơn, thui thủi một mình ngày này qua ngày khác. Nhưng có điều khiến tôi thấy rất lạ. Hôm trước, tôi còn sang xin nhà lão mấy củ gừng về pha nước thì thấy lão cưng nựng con chó lắm kia mà; Một điều “Cậu” này, hai điều “cậu” nọ. Khi ăn thỉnh thoảng lão còn gắp thức ăn cho con chó của lão. Vậy mà giờ lại phải bán nó đi sao? Ông giáo hỏi: – Lúc bấy giờ thì mắt lão Hạc đã ầng ậc nước. Những nếp nhăn sô vào với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, trông lão giờ già đi đến hơn chục tuổi. – Khốn nạn! nó có biết gì đâu ông giáo ơi! Nó thấy tôi gọi thì chạy ra. Cùng lúc đó thì chúng nó tóm gọn con chó rồi lôi đi xềnh xệch. Tôi bắt đầu hiểu ra câu chuyện của lão Hạc và mườn tượng cảnh thằng Mục, thằng Xiên dốc ngược con chó lên, trói chân, trói tay nó lại rồi mang đi. Lão Hạc mếu máo nói: – Lúc đấy thì cu cậu mới biết là cu cậu chết! Mắt nó long sòng sọc rồi dại đi. Nó cứ ăng ẳng nhìn tôi như thể nó nói: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão thế nào mà giờ lão xử tôi như vậy hả. – Cụ cứ khéo tưởng tượng đấy chứ nó có biết gì đâu. Vả lại! Ai nuôi chó mà chẳng để giết thịt. Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy chứ! ông giáo nói. Lão Hạc chua chát bảo: – Ông giáo nói phải! Ta hóa kiếp cho nó để nó được đầu thai thành kiếp khác may ra có là kiếp người. Như ông với tôi chẳng hạn! Tôi nghe mà không kìm được nước mắt. Tôi cảm thấy đau khổ và xót thương cho lão Hạc quá! Lão chỉ có mỗi con chó để bầu bạn hằng đêm. Có con chó đó cũng đỡ buồn và bù đắp được cho sự thiếu thốn tình cảm của lão. Vậy mà giờ lão phải bán nó đi để lấy tiền để dành cho con sao! Lão Hạc quả là một con người tốt và có tình thương yêu con sâu sắc mà hiếm ai có được. Ông giáo nói: – Không có kiếp gì là sướng cả!Để tôi vào nhà pha ấm nước chè rồi ba ông con mình vừa rít thuốc lào vừa uống, thế là sướng! – Ông giáo dạy phải! nhưng giờ tôi có việc gấp phải đi bây giờ ông giáo ạ! – Còn sớm mà, cụ hẵng ở lại chơi với chúng tôi cái đã! – Ông giáo cho tôi xin khất chứ hôm nay thì nhất quyết không được. Vậy là lão Hạc lại lạng chạng ra về trong sự ái ngại của tôi và ông giáo. Thuốc lào đã được vo viên mà không ai thèm đụng đến. Tôi nghĩ đến lão Hạc, một con người đầy tình thương và giàu lòng tự trọng. Một người vì con mà sẵn sàng bán đi thứ yêu quý nhất, kỷ vật của mình. Một người mà đã mếu máo, khóc hu hu như trẻ con vì nỡ lừa một con chó. Một người đáng kính như vậy mà phải sống khổ, sống sở như vậy sao? Cuộc đời thật bất công đối với những con người tốt, chỉ toàn khổ đau, bất hạnh. Tôi từ biệt ông giáo đi về mà lòng đau như cắt. Tôi, ông giáo và lão Hạc, những người nông dân nghèo khổ, bị xã hội dồn đến đường cùng mà vẫn phải sống, vẫn phải tồn tại trên cái thế giới này. Cảm ơn lão Hạc, lão đã cho tôi hiểu được tình thương và lòng tự trọng quý giá của một con người. tôi sẽ mãi khắc sâu bài học này trong tâm can và ý chí của mình đến cuối đời! Tham khảo thêm:Nếu là người được chứng kiến cảnh Lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo thì em sẽ ghi lại câu chuyên đó như thế nào?
vanhoc
Tả loại cây có bóng mát Hướng dẫn Tả loại cây có bóng mát Quê em có rất nhiều loại cây có bóng mát như cây bàng, cây keo, cây xoài,…. Một trong số đó có lẽ phải kể đến dừa. Vì dừa được trồng rất phổ biến. Người ta trồng dừa từ quả dừa khô. Để nửa quả dưới đất, nửa lộ thiên. Qua thời gian ngắn tưới và sưởi nắng dừa sẽ đâm chồi lên. Sau đó, mang quả chồi đó trồng như bình thường là ta đã có cây dừa con. Cây dừa trưởng thành có thân to một người ôm hoặc hai người ôm. Thân dừa có những đường vòng tròn quanh thân. Dừa có những bẹ lá to và dài đến khoảng ba mét được gọi là tàu dừa. Trên tàu dừa là những lá dừa nằm xếp hai bên tàu như một cái lược đôi. Một vụ có đến chục trái dừa được kết từ những bông dừa màu trắng xanh. Dừa có nhiều công dụng. Có thể nói từ đầu đến chân cây dừa đều được sử dụng làm nguyên vật liệu thực phẩm… Rễ dừa để mục làm phân bón. Thân dừa làm ván gỗ xây nhà cửa. Tàu dừa để khô tuốt lá làm chổi, làm đồ đốt. Lá dừa tuốt bỏ lá làm nhẫn đồ chơi, vòng tay đồ chơi, còn cọng dừa làm xiền nướng thịt, hấp bánh. Trái dừa là thức uống mát lịm giải nhiệt mùa hè. Vỏ trái dừa làm chỉ, làm dầu, làm củi đốt. Từ lâu, trái dừa đã là người bạn thân thiết của người dân quê em. Nhìn từ trên cao, dừa gần như bao phủ toàn bộ bề mặt xóm làng. Không thể thấy được mái nhà nào từ trên cao.
vanhoc
Palazzo Natoli là một cung điện Baroque của thế kỷ XVIII ở trung tâm lịch sử của Palermo nằm trên SS Salita. vị cứu tinh, mục bởi các chuyên gia của Vinacontrol Mỹ thuật của Chính phủ Ý, mà nó thuộc về các nguyên tắc lâu đời của gia đình Natoli. Các Palace được xây dựng tại 1765. Trên mặt tiền của tòa nhà là huy hiệu của Natoli: một tháp lỗ châu mai, từ đó một banner mà nằm một con sư tử tràn lan. Đằng sau mặt nạ với một vầng trán băng bó là ngày (MDCCLXV). Các nội thất nhìn thấy một cầu thang đôi thanh lịch, đặc trưng bởi một đại sảnh rất lớn và ngoạn mục và một số nội thất đa dạng về những bức bích họa trang trí với vữa. Trong phòng ăn có giá trị nghệ thuật lớn của chu kỳ của bức bích họa của Gioacchino Martorana và trường học của mình với những cảnh ngụ ngôn khác nhau của gia đình Natoli trong một bức tranh hình bầu dục được miêu tả là một Madonna với cầu nguyện trẻ em St. Vincenzo Ferreri giữa một nhóm thiên thần xuất hiện ở giữa mây trời, Martorana là "Mẹ Lên Trời giữa thiên thần và tổng lãnh thiên thần" bao gồm trần của một hội trường lớn, được xây dựng trên hoa hồng của Hầu tước Vincenzo Natoli, trong bộ nhớ của vợ Maria Sieripepoli,hết hạn trong khi xây dựng cung điện riêng của mình. Tham khảo Xem thêm A. Gerbino, Palazzo Natoli. Un itinerario settecentesco e un pittore contemporaneo, Ed. Sciascia, 1994 Diana Malignaggi: La pitture del Settecento a Palermo. Attività divulgativa e didattica 1978, Soprintendenza ai Beni Artistici e Storici, Palermo 1978 Angela Mazzé: Memoria di Gioacchino Martorana. A cura di Roberto Petricolo. Soprintendenza ai Beni Artistici e Storici, Palermo 1979 Giulia Sommariva, Palazzi nobiliari di Palermo, D. Flaccovio, 2004 Cesare De Seta, Maria Antonietta Spadaro, Sergio Troisi, Palermo città d'arte: guida ai monumenti di Palermo e Monreale, Ed. Ariete, 1998 M. di Natale, La pittura dell'Ottocento in Sicilia: tra committenza, critica d'arte e collezionismo, Flaccovio, 2005 Giovanni Evangelista Di Blasi e Gambacorta, Pompeo Insenga, Storia cronologica de' viceré, luogotenenti e presidenti del Regno di Sicilia, giuramento del 18 settembre 1761 Francesco Maria Emanuele Gaetani, "Appendice alla Sicilia nobile", Tomo I, Stamperia de' Santi Apostoli, Palermo, 1775 Adriana Chirco, Guida di Palermo: visita guidata della città e dei dintorni per itinerari storici, D. Flaccovio, 1997 Alessandro Giuliana Alajmo: Architetti regi in Sicilia. La Chiesa di Santa Ninfa detta dei crociferi in Palermo, sede della Parrocchia di S. Croce. Con documenti inediti. Scuola grafica Don Orione, Palermo 1964 Fedele di San Biagio: Dialoghi familiari sopra pittura. Valenza, Palermo 1781, S. 241 Francesco Martino De Spuches, La Storia dei Feudi e dei titoli nobiliari di Sicilia, 1941, Palermo Liên kết ngoài Palazzo Natoli. hình ảnh Panoramio Una «perla» nel cuore del Cassaro – Palazzo Natoli è inserito nella «Carta del rischio». Patrimonio SOS Guida alla città: Palazzi. balarm.it Natoli
wiki
Chùa Chiang Man (phiên âm là Vát Chiêng Man) là một ngôi chùa tại thành phố Chiang Mai, Thái Lan. Đây là ngôi chùa lâu đời nhất tại Chiang Mai, được xây vào khoảng thế kỷ 13. Nó thậm chí còn nhiều tuổi hơn cả thành phố này. Vua Mengrai đã đến sống tại đây trong khi chờ thủ phủ xây dựng xong. Mô tả Ngôi chùa nổi tiếng với bức tượng Phật pha lê Phra sae Tang Kamani. Trước đây đã có một cuộc chiến tranh tranh giành đức phật bằng pha lê. Vì thế kể từ khi giành lại được bức tượng này vào năm 1380 thì hàng năm, vào ngày 1 tháng 4, người dân Chiang Mai tổ chức một buổi lễ kỷ niệm sự kiện này. Một bức tượng khác cũng làm nên sự nổi tiếng của ngôi chùa này là tượng Phật bằng đá Phra Sila, chạm khắc vào năm 900 tại Ấn Độ. Truyền thuyết cho rằng thành phố nào sở hữu cả hai tượng Phật trên sẽ trở nên thịnh vượng. Tuy nhiên để lời cầu ước trở lên linh nghiệm thì thành phố phải có tượng Phật Phra Sigh. Các tượng Phật này được tin là có khả năng đáp ứng lời cầu mưa của người dân. Vẻ đẹp của ngôi chùa còn được khắc họa ở hình ảnh 15 con voi quay về các hướng, ở tượng Phật đứng cao tuổi nhất vương quốc Lanan Thai (542 năm) và ở bản khắc đá gần cửa phòng lễ thụ chức. Bản khắc đá kể về lịch sử của thành phố, về đế chế Lanna Thai và những người có công đóng góp cho ngôi chùa. Giá trị Ngôi chùa có giá trị về mặt du lịch rất lớn mà ít du khách biết đến, đông nhất vẫn là khách hành hương. Đây còn là nơi các học sinh tiểu học Thái Lan thường đến sinh hoạt ngoại khóa để nghe các vị sư trong chùa nói về lịch sử Phật giáo và lịch sử thành phố Chiang Mai. Tham khảo Ts. Đỗ Quốc Thông, Giáo trình địa lý du lịch thế giới - Trần Vĩnh Bảo – Thái Lan – Một vòng các nước – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Meher Mc Arthur, Phan Quang Định, Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo, Nhà xuất bản Mỹ thuật. G.S Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Đông Nam Á, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Trịnh Huy Hóa (biên dịch), Đối thoại với các nền văn hóa – Thái Lan, Nhà xuất bản Trẻ. Vân Khánh, Hương Giang, Đền vàng Wat Prathat, Cẩm nang ẩm thực và khách sạn. Hoàng Văn Quang (sưu tầm và biên soạn), Hướng dẫn tham quan thủ đô Bangkok – Nhà xuất bản Phương Đông. Đại đức Thích Chân Tính, Lược truyện Đức Phật Thích Ca, Nhà xuất bản Tôn giáo. Thu Thanh, Pattaya – Điểm hẹn lý tưởng, Tiếp thị và gia đình. Nguyễn Chí Thông, Từ điển Thái Lan-Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Ts. Trần Văn Thông, Quy hoạch du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục. Lê Quốc Vinh (chủ biên), Hà Bích Liên, Các nhân vật lịch sử trung đại, Nhà xuất bản Giáo dục. Liên kết ngoài Trên trang du lịch Thái Lan Album ảnh của Wat Chieng Man Web chính thức của chùa Chùa Chiang Mai Chiang Man
wiki
Ước mơ và hoài bão lớn nhất của anh (chị)? Phương châm và hành động để thực hiện điều ấy Gợi ý Gợi ý làm bài I. MỞ BÀI – Vì sao con người sống phải có hoài bão ước mơ? – Ước mơ của bạn? II. THÂN BÀI 1. Ước mơ của bản thân – Ước mơ hoài bão là gì? Là viễn ảnh đẹp về sự thành công ở tương lai. – Ước mơ của bản thân? (Ghi nhận những hoài bão ước mơ đẹp có ý nghĩa đối với bản thân, gia đình và xã hội và ước mơ đó thường xuất phát từ hoàn cảnh, điều kiện sống). – Cũng cần nói rõ ước mơ gần và xa. 2. Phương châm thực hiện – Nỗ lực học tập, trang bị kiến thức văn hoá cơ bản. – Rèn luyện ý chí, tinh thần vượt khó, tinh thần cầu tiến. – Lập kế hoạch, chương trình hành động. – Chống lại thói lười biếng, ỷ lại, gạt bỏ mọi thú vui tầm thường, chọn lối sống lành mạnh, tích cực hoạt động xã hội. – Tổ chức thời gian học tập nghỉ ngơi hợp lí để giữ gìn sức khoẻ. 3. Mở rộng Phải biết nuôi dưỡng những ước mơ lớn lao, nhưng không thể viển vông. – Phải biết tận dụng cơ hội để thực hiện. – Tham khảo kinh nghiệm của người đi trước có cùng ước mơ. – Phê phán những người “nghèo” hoài bão ước mơ.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài ca dao: Rủ nhau lên núi đốt than. Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành. Củi than nhem nhuốc với tình. Ghi lời vàng đá xin mình chớ quênIII. KẾT BÀI – Ước mơ nên phù hợp với hoàn cảnh bản thân và xã hội. – Ước mơ luôn gắn liền với hành động. Vanmau.edu.vn
vanhoc
Roman Dmitriyevich Protasevich hay Raman Dzmitryevich Pratasevich (; ; sinh ngày 5 tháng 5 năm 1995) là một nhà báo và nhà hoạt động đối lập người Belarus. Sự nghiệp Protasevich đã là một nhà hoạt động đối lập từ khi còn trẻ; anh đã tham gia vào các cuộc biểu tình vào đầu thập niên 2010. Anh đồng quản lý một nhóm lớn trong VKontakte, một mạng xã hội, đối lập với Tổng thống Alexander Lukashenko cho đến năm 2012, khi nhóm này bị chính quyền tấn công.. Anh là một giảng viên báo chí tại Đại học Nhà nước Belarus, nhưng bị sa thải ngay sau đó. Vào năm 2017, anh ta bị buộc tội tham gia vào một sự kiện trái phép ở Kurapaty, nhưng anh ta đã cố gắng chứng minh trước tòa rằng anh có bằng chứng ngoại phạm cho ngày hôm đó. Mặc dù không được đào tạo chính quy, anh đã làm việc trong giới truyền thông Belarus với tư cách là một nhà báo. Kể từ tháng 3 năm 2019, anh là nhiếp ảnh gia cho Euroradio.fm và làm việc tại cuộc họp của các thủ tướng Áo (Sebastian Kurz) và Belarus (Sergey Rumas) ở Minsk. Anh cũng làm việc cho ấn bản tiếng Belarus của Radio Free Europe/Radio Liberty. Năm 2019, Protasevich chuyển đến Ba Lan. Vào ngày 22 tháng 1 năm 2020, anh thông báo rằng anh đã xin tị nạn chính trị ở Ba Lan. Tại thời điểm năm 2020, Protasevich quản lý kênh Telegram cùng với người đồng sáng tạo Sciapan Pucila (Stepan Putilo). Vào tháng 8 năm 2020, sau khi chính quyền Belarus cố gắng vô hiệu hóa truy cập internet trong bầu cử tổng thống năm 2020, Nexta trở thành một trong những nguồn thông tin chính về biểu tình phản đối bầu cử gian lận và bắt đầu phối hợp biểu tình. Kênh đã có gần 800.000 người đăng ký mới trong một tuần. Vào tháng 9 năm 2020, Protasevich rời Nexta. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2020, Protasevich và Pucila bị buộc tội tổ chức bạo loạn hàng loạt (điều 293 bộ luật hình sự Belarus), các hành động vi phạm nghiêm trọng trật tự công cộng (điều 342) và kích động thù địch xã hội dựa trên quan hệ nghề nghiệp (điều 130, khoản 3). Vào ngày 19 tháng 11 năm 2020, Belarusian KGB đã đưa họ vào danh sách khủng bố vì "tình trạng bất ổn hàng loạt". Vào ngày 2 tháng 3 năm 2021, Protasevich thông báo rằng anh bắt đầu làm việc cho kênh Telegram "@belamova" trước đây được biên tập bởi một blogger bị giam giữ, Ihar Losik. Chuyến bay 4978 của Ryanair và vụ bắt giữ Vào ngày 23 tháng 5 năm 2021, chuyến bay 4978 của Ryanair (tuyến bay Athens - Vilnius) với Protasevich trên máy bay, đã bị chặn trong không phận Belarus bởi một máy bay máy bay chiến đấu của Belarus và được kiểm soát không lưu Belarus yêu cầu chuyển hướng đến sân bay quốc gia Minsk. Nhân viên sân bay Minsk nói rằng điều này là do có cảnh báo về một quả bom trên máy bay. Các nhà chức trách sân bay Litva tuyên bố rằng họ không được thông báo về mối đe dọa đánh bom, và nguyên nhân dẫn đến việc chuyển hướng thay vào đó là xung đột giữa một hành khách và một thành viên phi hành đoàn. Tại Minsk, Protasevich bị đưa ra khỏi máy bay và bị bắt. Không có quả bom nào được tìm thấy trên tàu bay. Mặc dù thực tế là máy bay đã ở gần Vilnius hơn, nhưng tổng thống Belarus Alexander Lukashenko, theo cơ quan báo chí của mình, đã đích thân ra lệnh cho máy bay chuyển hướng đến Minsk và cử một chiếc máy bay chiến đấu MiG-29 Không quân Belarus hộ tống nó. Theo một đại diện của Ryanair được báo Nga Novaya Gazeta trích dẫn, kiểm soát không lưu Belarus đã thông báo cho phi hành đoàn về mối đe dọa và yêu cầu họ chuyển hướng tới Minsk. Một đoạn video đã được đăng tải trên cộng đồng phát hiện máy bay Belarus, được cho là cho thấy chiếc MiG-29 bị đánh chặn được trang bị tên lửa không đối không. Ngay sau khi hạ cánh xuống Minsk, Protasevich bị cảnh sát Belarus bắt đi. Một hành khách khác được cho là đã nghe Protasevich nói về khả năng phải đối mặt với án tử hình, lãnh đạo phe đối lập lưu vong của Belarus Sviatlana Tsikhanouskaya đã cảnh báo cùng ngày. Các cáo buộc gây bất ổn hàng loạt khiến Protasevich có thể chịu mức án tù lên đến 15 năm. Ông bị bắt khi đang trên đường quay trở về từ Athens để đưa tin về chuyến thăm của Tsikhanouskaya tới Diễn đàn Kinh tế Delphi, một diễn đàn quốc tế ở Hy Lạp. Một ngày sau vụ bắt giữ, truyền hình nhà nước Belarus đã công bố đoạn video Protasevich, với vết đen trên trán, thừa nhận tội tổ chức biểu tình và nói rằng ông không có vấn đề gì về sức khỏe sau những báo cáo chưa được xác nhận về tình trạng bệnh tim. Cha của Protasevich cho biết video có vẻ gượng gạo và mũi của Protasevich dường như đã bị gãy, trong khi các đồng minh của Protasevich bao gồm cả thủ lĩnh phe đối lập lưu vong Sviatlana Tsikhanouskaya cho biết video "cho thấy Roman đã phải chịu áp lực về cả thể chất và đạo đức." Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1995 Nhân vật còn sống Nhân vật bất đồng chính kiến Nhà báo Belarus Nhà báo bị cầm tù Người Minsk
wiki
Gaspar Sanz (1640–1710) là một nhà soạn, nghệ sĩ guitar Aragon, sinh ra trong một gia đình giàu có ở Calanda tại comarca của Bajo Aragón, Tây Ban Nha. Ông học âm nhạc, thần học và triết học tại Đại học Salamanca, nơi ông sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư âm nhạc. Ông đã viết ba bộ công trình sư phạm cho guitar baroque đã hình thành một phần quan trọng của tiết mục guitar cổ điển ngày nay và đã đặt nền móng về kỹ thuật chơi guitar baroque. Tiểu sử Ngày sinh của ông là không rõ nhưng ông được rửa tội tại nhà thờ Calanda de Ebro, Aragon vào ngày 04 Tháng Tư năm 1640. Sau khi đạt được bằng cử nhân Thần học tại Đại học Salamanca, Gaspar Sanz đã đến Naples, Rome và Venice có thể để tiếp tục nền giáo dục âm nhạc của mình. Ông được cho là đã học theo Orazio Benevoli tại Vatican và Cristofaro Caresana tại Royal Chapel Naples. Ông đã trải qua một số năm làm nghệ sĩ đại phong cầm của Phó vương Tây Ban Nha ở Naples. Sanz đã học chơi guitar trong khi nghiên cứu theo Lelio Colista và bị ảnh hưởng bởi âm nhạc của những nghệ sĩ guitar Ý Giovanni Paolo Foscarini, Giovanni Battista Granata và Francesco Corbetta. Khi Sanz trở lại Tây Ban Nha, ông được bổ nhiệm làm giảng viên guitar cho vua John của Áo (Don Juan), con trai ngoài giá thú của vua Philip IV và Maria Calderon. Năm 1674, ông đã viết Instrucción de Música sobre la Guitarra Española xuất bản ở Saragossa và dành riêng cho Don Juan. Cuốn sách thứ hai mang tên Libro Segundo de cifras sobre la guitarra española được in ở Saragossa năm 1675. Một cuốn sách thứ ba, Libro Tercero de Musica de cifras sobre la Guitarra Española đã được thêm vào cuốn sách đầu tiên và thứ hai, và cả ba đã được công bố cùng với tiêu đề của cuốn sách đầu tiên vào năm 1697, cuối cùng đã được công bố trong tám phiên bản. Chín mươi công trình trong kiệt tác này là sự đóng góp của ông duy nhất được biết với các tiết mục biểu diễn guitar.<ref>*[http://www.guitarramagazine.com/GazparSanz Patykula, John. Gaspar Sanz - Master of the Spanish Baroque Guitar] </ref> Ngoài kỹ năng âm nhạc của mình, Gaspar Sanz đã ghi dấu ấn với các tác phẩm văn học như là một nhà thơ, nhà văn, và là tác giả của một số bài thơ và hai cuốn sách bây giờ bị quên lãng. Ông qua đời tại Madrid năm 1710. Ảnh hưởng Sáng tác của ông cung cấp một số ví dụ quan trọng nhất của âm nhạc baroque Tây Ban Nha phổ biến cho guitar và hiện nay là một phần của phương pháp sư phạm guitar cổ điển. Bản thảo của Sanz được viết như khuôn nhạc cho guitar baroque và đã được sao chép thành ký hiệu hiện đại bởi rất nhiều nghệ sĩ guitar và biên tập viên. Chú thích Tham khảo Raymond Burley: Gaspar Sanz - Anthology of Selected Pieces, Schott 1993 Luis García Abrines: Gaspar Sanz - Instrucción de musica sobre la Guitarra Española, Institución Fernando el Catolico, Zaragoza 1966 (facsimile and commentary) Ralf Jarchow: Gaspar Sanz - Instrucción de musica sobre la Guitarra Española, Jarchow, Glinde 2001 (commentary and transcription for guitar; German and English translation of Sanz) Ralf Jarchow: Gaspar Sanz und seine Instrucción - Ein fünfteiliger Artikel, Zupfmusik Nr. 2+4, Hamburg 2002, and Concertino Nr. 1, 3+4, Hamburg 2003 Frank Koonce: Baroque Guitar In Spain And The New World, Mel Bay Publications Robert Strizich: The Complete Guitar Works of Gaspar Sanz, Doberman-Yppan, Québec 1999 (commentary and transcription for guitar; English translation of Sanz) Robert Strizich: Sanz, Gaspar, The New Grove, New York 2001 Rodrigo de Zayas: Gaspar Sanz - Transcripcion, Alpuerto, Madrid 1985 (facsimile, commentary and transcription) Liên kết ngoài Ulrik Gaston Larsen, baroque guitar performer Gaspar Sanz - Guitarra Magazine Gaspar Sanz in El poder de la palabra (Spanish) Rasgueados y punteados: Gaspar Sanz y la guitarra española La Lira de Orfeo (Spanish) En el Tercer Centenario del fallecimiento de Gaspar Sanz Escritos de José Antonio Bielsa'' (Spanish) Instruccion de musica sobre la guitarra española - Biblioteca Nacional de España info Sinh năm 1640 Mất năm 1710
wiki
Gậy thống chế (tiếng Pháp: baton) là một vật dụng nghi lễ có hình dạng một cây gậy ngắn, dày, thường làm bằng gỗ hoặc kim loại, theo truyền thống là dấu hiệu của một thống chế (hoặc nguyên soái) hoặc một sĩ quan quân đội cấp cao tương đương. Gậy thống chế chỉ được sử dụng khi mặc quân phục. Nó thường được phân biệt với gậy chỉ huy ở chỗ dày hơn nhưng lại không mang bất kỳ hiệu quả chức năng thực tế nào. Không giống như quyền trượng, gậy thống chế không thể dùng như một gậy chống trên mặt đất. Không giống như vương trượng hoàng gia, gậy thống chế thường có đầu phẳng, không được trang trí vương miện ở một đầu với biểu tượng đại bàng hoặc quả địa cầu. Thời cổ đại Nguồn gốc của gậy thống chế vẫn còn rất mơ hồ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tại Tây Âu, ban đầu baton được sử dụng cho mục đích tương tự như fasces lictoriae của La Mã: một biểu tượng của quyền uy. Một thanh baton ngắn, nặng, màu trắng là biểu tượng của nhiệm vụ triều đình giao cho một legatus trong quân đội La Mã. Một số học giả khác cho rằng baton có thể xuất phát từ gậy mật mã Spartan, scytale, vốn chỉ được giao cho các chỉ huy quân sự. Loại baton này được cho là ra đời trước baton La Mã, nhưng tài liệu tham khảo chi tiết đầu tiên chỉ được mô tả trong Plutarchus có từ thời La Mã. Thời Trung cổ đến đầu thời hiện đại Một cách thường xuyên hơn, baton đã được trao cho các chỉ huy hàng đầu trong hầu hết các đội quân châu Âu ít nhất là từ thời Phục hưng, như một sự hồi sinh của truyền thống cổ điển. Trong các bức họa, chúng thường được mô tả như một vật dụng bằng gỗ, thường dài hơn và mỏng hơn so với các baton sau này. Chúng cũng thường được các vị vua mang theo khi mặc quân phục. Các vị vua Pháp (bao gồm cả Napoléon Bonaparte) đã trao cho các thống chế Pháp những chiếc baton trang trí công phu, bọc nhung xanh với các biểu tượng bằng kim loại như fleurs-de-lys thời trước Cách mạng Pháp, ong thời Napoleon, hoặc những ngôi sao vào thời kỳ Cộng hòa. Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington, được thừa nhận như là người sở hữu nhiều gậy thống chế nhất. Ông từng giữ cấp bậc thống chế hoặc tương đương trong tám đội quân châu Âu, do đó được trao tặng 8 baton thống chế. Trừ baton của Nga, đã bị đánh cắp vào ngày 9 tháng 12 năm 1965 và chưa được tìm thấy, tất cả baton còn lại được trưng bày tại nhà cũ của ông, Apsley House. Sa hoàng Alexander I (1801-1825) đã trao tặng năm baton, một cho Công tước Wellington và bốn cho các tướng lĩnh Nga. Biểu tượng cặp baton xếp chéo có thể xuất hiện dưới dạng cấp hiệu đặc biệt của các thống chế (hoặc nguyên soái). Cấp hiệu Thống chế (Generalfeldmarschall) của Đức Quốc Xã là một ví dụ. Cấp hiệu của Thống chế Vương quốc Anh cũng tương tự. Thông thường, các thống chế hiện đại thường mang theo baton đơn giản. Loại cầu kỳ chỉ được dùng cho các dịp lễ nghi. Đức Quốc xã Thời Đức Quốc Xã, Thống chế (Generalfeldmarschall) và Đại đô đốc (Großadmirus) sử dụng các baton nghi lễ, được sản xuất đặc biệt bởi các thợ kim hoàn Đức. Bảy kiểu baton được sản xuất và trao tặng cho 25 cá nhân. Riêng Hermann Göring sở hữu hai loại baton cho các cấp bậc Generalfeldmarschall và Reichsmarschall của mình. Tất cả các baton, trừ chiếc của Erich Raeder, được thiết kế tương tự nhau: một gậy ngắn trang trí với biểu tượng Thập tự Sắt và đại bàng Wehrmacht. Các baton của Luftwaffe (không quân) sử dụng biểu tượng Balkenkreuz, trong khi các baton của Kriegsmarine dùng biểu tượng mỏ neo. Các phần đầu của baton được trang trí rất công phu. Bảy kiểu baton thời Đức Quốc xã Chiếc baton đầu tiên được trao cho Thống chế Werner von Blomberg. Baton được bọc chất liệu nhung màu xanh nhạt. Nó hiện được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, DC. Chiếc baton không quân đầu tiên được trao cho Hermann Göring sau khi được thăng cấp thống chế. Mặc dù nó được thiết kế tương tự baton của Blomberg với nhung bọc màu xanh nhạt, nhưng nó được kết hợp với các biểu tượng Balkenkreuz của không quân. Ngoài ra, phần chụp ở đầu baton được khảm nhiều viên kim cương nhỏ. Hiện nó được lưu giữ trong Bảo tàng Bộ binh Quốc gia tại Fort Benning, Columbus, Georgia. Chiếc baton tiếp theo được trao cho Đại đô đốc Erich Raeder. Baton này được bọc lớp nhung màu xanh đậm. Họa tiết trang trí của nó liên kết chuỗi các biểu tượng thánh giá, đại bàng và mỏ neo. Vào cuối cuộc chiến, chiếc baton này đã bị rã ra và bị bán từng mảnh rời. Chín baton lục quân được trao vào mùa hè năm 1940 cho các thống chế mới được thăng cấp. Các baton này được bọc nhung đỏ và chỉ khác nhau trong dòng chữ khắc trên chụp đầu. Chúng được sản xuất với giá 6.000 RM (khoảng 30.000 USD vào năm 2012). Hầu hết các baton này hiện đang ở trong các bảo tàng hoặc bộ sưu tập tư nhân. Ba baton không quân được trao vào mùa hè năm 1940. Chúng được bọc nhung màu xanh và trang trí biểu tượng Balkenkreuz, chỉ khác nhau ở dòng chữ khắc trên chụp đầu. Một chiếc loại này sau đó được trao vào năm 1943. Các baton không quân 1940 đắt hơn một chút so với baton lục quân 1940. Một chiếc baton hải quân khác được trao cho Đại đô đốc Karl Dönitz. Nó được bọc nhung màu xanh và kết hợp với biểu tượng tàu ngầm U-boat trên một bên chụp đầu. Nó hiện đang ở trong Bảo tàng Trung đoàn Shropshire, Shrewsbury, Vương quốc Anh, và được tặng bởi Thiếu tướng JB Churcher, người đã bắt Dönitz khi chiến tranh kết thúc và lấy trộm dùi cui. Chiếc baton Reichsmarschall duy nhất được tặng cho Hermann Gotring vào năm 1940. Mặc dù về hình thức nó tương tự như các baton 1940 khác, nó được làm từ ngà voi trắng, không phải bằng kim loại bọc nhung. Phần chụp đầu được làm bằng bạch kim khắc chữ và được khảm hơn 600 viên kim cương nhỏ. Chiếc baton này được sản xuất với giá 22.750 RM (khoảng 130.000 USD vào năm 2012). Nó hiện đang ở trong Bảo tàng West Point của Quân đội Hoa Kỳ, Thác nước cao nguyên, NY. Xem thêm Sao nguyên soái Gậy chỉ huy Vương trượng Quyền trượng Chú thích Trang phục Phù hiệu quân đội Nguyên soái
wiki
Andrey Olegovich Yeshchenko (; sinh ngày 9 tháng 2 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Nga thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho F.K. Spartak Moskva. Sự nghiệp Yeshchenko trở nên nổi tiếng khi thi đấu thời gian ngắn cho F.K. Dynamo Kyiv năm 2006. Mặc dù được xem là cầu thủ đội một trong suốt thời gian ở Kiev, Yeshchenko phàn nàn về sự khó khăn trong luyện tập thể lực tại Dynamo. Vì vậy, ban quản lý Dynamo trả anh về lại Muscovite. Vào tháng 10 năm 2012 anh được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất tháng của F.K. Lokomotiv Moskva. Ngày 1 tháng 7 năm 2014, Yeshchenko ký hợp đồng với Kuban Krasnodar với bản hợp đồng cho mượn một mùa giải cùng điều khoản mua đứt. Vào ngày 16 tháng 6 năm 2016, anh ký hợp đồng với F.K. Spartak Moskva. Thống kê sự nghiệp Ghi chú Sự nghiệp quốc tế Anh ra mắt cho đội tuyển quốc gia vào ngày 11 tháng 9 năm 2012 trong trận đấu tại vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 trước Israel. Vào ngày 2 tháng 6 năm 2014, anh có tên trong Đội hình của Nga tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Danh hiệu Dynamo Kyiv Cúp bóng đá Ukraina (1): 2005–06 Siêu cúp bóng đá Ukraina (1): 2006 Spartak Moskva Giải bóng đá ngoại hạng Nga (1): 2016–17 Siêu cúp bóng đá Nga (1): 2017 Tham khảo Liên kết ngoài Dynamo Kyiv Player Profile Sinh năm 1984 Nhân vật còn sống Nhân vật thể thao từ Irkutsk Cầu thủ bóng đá Nga Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nga Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 Cầu thủ bóng đá FC Zvezda Irkutsk Cầu thủ bóng đá F.K. Dynamo Kyiv Cầu thủ bóng đá F.K. Dynamo Moskva Cầu thủ bóng đá FC Dnipro Cầu thủ bóng đá F.K. Khimki Cầu thủ bóng đá FC Arsenal Kyiv Cầu thủ bóng đá F.K. Volga Nizhny Novgorod Cầu thủ bóng đá F.K. Lokomotiv Moskva Cầu thủ bóng đá F.K. Anzhi Makhachkala Cầu thủ bóng đá F.K. Kuban Krasnodar Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Ukraina Cầu thủ bóng đá F.K. Spartak Moskva Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá nam Nga ở nước ngoài
wiki
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang bước vào cao điểm của hạn hán và xâm nhập mặn. Mặc dù ngành chức năng dự báo hạn, mặn năm nay diễn biến bất thường nhưng nhờ linh hoạt thích nghi và chủ động ứng phó nên hiện tượng cực đoan của biến đổi khí hậu không còn là nỗi lo của bà con trong vùng. Ngay khi hạn, mặn gay gắt người dân vẫn không lo về nguồn nước ngọt sinh hoạt, từ mảnh vườn đến thửa ruộng đều tràn ngập tiếng cười bởi mùa vàng bội thu. Lúa đông xuân thắng lớn Mấy ngày qua, trên những cánh đồng xuống giống sớm vụ lúa đông xuân ngoài đê bao ngăn mặn Long Mỹ-Vị Thanh thuộc ấp 6, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ ( Hậu Giang ) nhộn nhịp hẳn lên khi nông dân tập trung ra đồng thu hoạch lúa. Vừa cân bán lúa cho thương lái và nhận tiền tại ruộng, ông Đỗ Văn Út phấn khởi cho biết: “Mọi năm, giống lúa lùn Bến Tre chỉ đạt năng suất 800kg/công (1.000m2) thì năm nay tăng lên 900-1.000kg/công. Vui hơn là thương lái thu mua lúa với giá từ 7.100-7.200 đồng/kg, cao hơn so với cùng kỳ năm trước khoảng 300-500 đồng/kg”. Còn tại huyện Long Phú ( Sóc Trăng ) địa phương thường xuyên bị ảnh hưởng bởi hạn, mặn, hình ảnh trước mắt chúng tôi là những nụ cười tươi trên cánh đồng lúa chín vàng bội thu và không khí rộn ràng mùa vụ. Những chiếc máy gặt đập liên hợp đang hoạt động rền vang. Quan sát nhân công thu hoạch lúa gương mặt lão nông Dương Thanh Tùng không giấu được niềm vui bởi vụ đông xuân đạt sản lượng lên tới 8 tấn/ha, giá bán 7.000 đồng/kg lúa tươi tại ruộng, xem như nông dân được mùa “kép”. “Năm nay, nhờ xuống giống né mặn nên giờ này gặt xong, lúa không bị thiệt hại mà vừa tăng năng suất, lại bán được giá”, ông Tùng phấn khởi cho biết. Không riêng Hậu Giang hay Sóc Trăng, ở nhiều địa bàn thường xuyên bị ảnh hưởng bởi hạn, mặn, nếu trước đây nông dân luôn “xé rào” làm lúa vụ 3 dẫn đến thiệt hại thì năm nay hoa màu đã phủ xuống ruộng hoặc phơi đất. Những vùng có thể gieo sạ lúa, nông dân cũng chủ động kiểm tra nguồn nước, tuân thủ lịch thời vụ. Theo ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang cho biết, hai năm nay địa phương không còn phải đau đầu vì chuyện “xé rào” của bà con. “Cùng với tuân thủ lịch thời vụ bà con còn chú trọng chất lượng giống lúa. Trong cơ cấu giống lúa của tỉnh, các loại giống chất lượng cao chiếm hơn 95%. Với những giống lúa mới được đưa vào gieo cấy, ngoài thời gian sinh trưởng ngắn còn có khả năng thích ứng tốt với hạn, mặn. Đến nay, tỉnh đã thu hoạch 7.000ha lúa đông xuân, năng suất bình quân 68-70 tạ/ha, sản lượng đạt khoảng 48.000 tấn lúa”, ông Nam thông tin. Hệ thống lọc nước mặn phục vụ cho sinh hoạt đời sống người dân ở Giồng Trôm (Bến Tre). Không lo thiếu nước Rời đồng lúa chúng tôi tìm về những vườn cây ăn trái ở các tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre và Tiền Giang. Thời điểm này những năm trước, nhiều nông dân vất vả xếp hàng chờ mua từng thùng nước ngọt hay cây ăn trái chết khô, vàng úa vì hạn, mặn thì nay màu xanh đang phủ đầy trên các mảnh vườn; nước ngọt cũng chứa đầy ao, rạch. Dẫn chúng tôi tham quan vườn sầu riêng rộng hơn 1ha, ông Huỳnh Văn Sĩ, ở xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) cho biết, nằm giữa sông Tiền, cù lao Ngũ Hiệp là nơi có gần 100% diện tích đất nông nghiệp trồng cây sầu riêng chuyên canh. Ngoài áp lực nước mặn từ sông Tiền dâng cao, địa phương còn bị đe dọa nguồn nước mặn từ sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên ( tỉnh Bến Tre ) tràn qua. “Sầu riêng là cây trồng rất nhạy cảm với nước mặn, chỉ cần độ mặn 0,5% là cây bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng, thậm chí chết. Rút kinh nghiệm nhiều năm trước, để bảo vệ vườn cây, tôi mạnh dạn để ra hơn 1.000m2 đất trong khu vườn để trữ nước tưới cho mùa khô năm nay. Với 5.000m2 nước mưa, tôi có thể tưới được khoảng 4 tháng trong mùa khô năm nay”, ông Sĩ cho hay. Ngoài đào ao trữ nước, các nhà vườn còn cài đặt app theo dõi độ mặn trên điện thoại thông minh. Thông qua app, ngành chức năng kịp thời vận hành cống ngăn mặn, bà con cũng dễ dàng theo dõi được độ mặn để kịp thời bơm nước vào trữ. Ông Bùi Thanh Liêm, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách (Bến Tre) chia sẻ: “Đợt hạn, mặn năm trước khiến 8.500ha vườn cây ăn trái của huyện bị ảnh hưởng, trong đó có 2.300ha thiệt hại hoàn toàn. Năm nay, mọi việc ứng phó được chủ động rất sớm từ nạo vét kênh, mương, đầu tư tấm bạt, túi nhựa trữ nước ngọt… Ngành nông nghiệp còn cùng người dân chuyển đổi sản xuất phù hợp, như hạn chế cho cây ra trái vào mùa hạn, mặn, sản xuất cây giống loại ngắn ngày… nhằm thích ứng với điều kiện hạn, mặn…”. Phát huy các công trình ngăn mặn Cùng với sự chủ động thích nghi của người dân, việc đưa vào vận hành các công trình, dự án thủy lợi đã góp phần tăng hiệu quả phòng, chống mặn. Điển hình như huyện Vũng Liêm là địa phương ở Vĩnh Long thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn trong mùa khô. Thời điểm trước Tết, mặn bất ngờ xâm nhập với nồng độ 4,7 phần nghìn và độ mặn đo được ngày 3-3 là 5 phần nghìn, tuy nhiên nhờ hệ thống đê bao khép kín khoảng 1.222ha sầu riêng, chưa ghi nhận nhà vườn nào bị ảnh hưởng do mặn xâm nhập… Tại Bến Tre, dự án hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre giai đoạn 1 đưa vào sử dụng giúp kiểm soát được nguồn nước từ sông Tiền và sông Hàm Luông vào sông Ba Lai; sống Sa Kê góp phần ngăn mặn xâm nhập từ sông Hàm Luông phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho người dân xã Tân Hội, huyện Mỏ Cày Nam và xã Khánh Thạnh Tân, huyện Mỏ Cày Bắc; đồng thời cung cấp nguồn nước thô cho nhà máy nước phục vụ hơn 20.000 hộ dân ở hai huyện Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc khi nguồn nước trên sông Mỏ Cày bị nhiễm mặn… Tương tự năm 2022, người dân ĐBSCL nói chung, 5 tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng nói riêng vui mừng khi siêu dự án Cái Bé-Cái Lớn đưa vào vận hành. Qua thực tế hoạt động, dự án đã mang lại hiệu quả rất lớn giúp sản xuất thuận lợi trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang diễn ra ngày càng khốc liệt và giảm chi phí so với trước đây do không phải đắp đập tạm. Là một trong những địa phương hưởng lợi từ siêu cống thủy lợi, ông Trần Thanh Toàn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Hậu Giang chia sẻ: “Vào mùa khô hàng năm, mặn xâm nhập sâu 10-20km từ hướng sông Cái Lớn. Mỗi mùa khô, tỉnh phải đắp gần 100 đập tạm. Tuy nhiên, từ mùa khô năm 2022 đến nay, nhờ hệ thống cống Cái Lớn-Cái Bé vận hành đã giúp kiểm soát nước mặn xâm nhập vào địa bàn. Nhờ đó, hàng nghìn hộ dân trong vùng an tâm sản xuất”. Công trình cống ngăn mặn trữ ngọt ở Giồng Trôm (Bến Tre) vận hành giúp người dân ứng phó với hạn, mặn. Các công trình đưa vào sử dụng còn giúp giải quyết bài toán xung đột mặn-ngọt diễn ra trong vùng ĐBSCL nhiều năm qua. Minh chứng là hai vùng Bạc Liêu và Sóc Trăng, theo ông Nguyễn Kỳ Phong, cán bộ Trung tâm Quản lý Khai thác Công trình thủy lợi Bạc Liêu cho biết, những năm trước đây, ảnh hưởng của xâm nhập mặn đối với vùng giáp ranh hai tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu là rất mạnh, thậm chí có năm, nước mặn còn xâm nhập mặn cả hàng chục cây số vào trong nội đồng của thị xã Ngã Năm (tỉnh Sóc Trăng). “Khi cống ngăn mặn âu thuyền Ninh Quới (xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân ) bắt đầu được vận hành thì độ mặn đã được kiểm soát. Độ mặn không còn xâm nhập sâu và làm ảnh hưởng đến sản xuất của người dân tại vùng giáp ranh của hai tỉnh. Quan trọng hơn là câu chuyện “xung đột” mặn-ngọt giữa Bạc Liêu và Sóc Trăng đã được giải quyết một cách hài hòa, hiệu quả, giúp cư dân ở hai tỉnh đều có hướng đi trong phát triển kinh tế, gắn với thực tế sản xuất của địa phương mình”, ông Phong nói. Bài và ảnh: THÚY AN
vanhoc
Kể lại câu chuyện Giọng quê hương Gợi ý Tôi là Thuyên. Tôi và người bạn tên Đồng rời quê đi làm ăn xa đã mấy năm nay. Một hôm, hai chúng tôi rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng vì không biết đường nên đến trưa thì cả hai bị lạc. Tôi rủ Đông vào một cái quán gần đó hỏi đường nhân tiện ãn một chút cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán có ba thanh niên, họ trò chuyện luôn miệng. Không hiểu sao tôi thấy bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường khiến bữa ăn rất ngon miệng. Đến lúc đứng lên trả tiền, tôi bối rốì khi biết mình để quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng thì anh cũng không mang theo. Đang không biết làm sao thì một trong ba thanh niên bàn bên bước lại gần chúng tôi và xin phép được trả tiền. Tôi bốì rối không biết đó là ai. Lục tìm mãi trong trí nhớ mà vẫn không có chút ấn tượng gì đốì với người thanh niên này. Hỏi ra mới biết không phải tôi đãng trí không nhớ mà anh thanh niên kia tôi chưa hề quen. Nhưng như vậy càng khiến tôi ngạc nhiên bởi vì sao một người lạ lại muốn trả tiền hộ chúng tôi. Như đáp lại suy nghĩ của tôi, anh thanh niên nói: Hai anh đã cho tôi nghe giọng nói của mẹ tôi xưa… Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, chỉ biết ấp úng: Xem thêm: Phải chăng thiên tài là do thiên bẩm– Cảm ơn anh… Anh thanh niên kia xua tay: – Tôi cảm ơn anh mới phải. Nghẹn ngào anh nói tiếp: – Mẹ tôi là người miền Trung… Bà qua đời đã tám năm rồi. Nhìn người trẻ tuổi lặng đi trong cảm xúc, tôi và bạn cũng không khỏi không bùi ngùi nhớ về quê hương mà rớm lệ. Vanmau.edu.vn
vanhoc
Nhà thờ Hồi giáo Jamkaran (tiếng Ba Tư: مسجد جمکران) là một trong những nhà thờ Hồi giáo quan trọnh hàng đầu ở thành phố Qom, Iran. Tổng quan Nhà thờ Hồi giáo, cách Qom sáu km về phía đông, từ lâu đã trở thành một nơi linh thiêng, ít nhất là kể từ 373 AH, ngày 17 tháng Ramadan (ngày 22 tháng 2 năm 984 sau Công nguyên), khi theo trang web của nhà thờ Hồi giáo, một người theo đạo Hồi Hass Hassan ibn Muthlih Jamkarani đã gặp Muhammad al-Mahdi cùng với nhà tiên tri Al-Khidr. Jamkarani được chỉ dẫn rằng vùng đất mà họ đang ở là "cao quý" và chủ sở hữu - Hasan bin Muslim - đã ngừng trồng trọt và tài trợ cho việc xây dựng một nhà thờ Hồi giáo trên đó từ thu nhập mà ông đã tích lũy được từ việc canh tác đất. Một vài thời điểm trong thập niên 1995-2005, danh tiếng của nhà thờ Hồi giáo lan rộng, và nhiều người hành hương, đặc biệt là những người trẻ tuổi, bắt đầu tìm đến nó. Ở phía sau nhà thờ Hồi giáo, có một "giếng thỉnh cầu" nơi người ta tin rằng Imam thứ mười hai đã "trở nên kỳ diệu trong một khoảnh khắc tỏa sáng ngắn ngủi của sự hiệp thông yêu thương với Đấng Tạo Hóa của mình." Người hành hương buộc những sợi dây nhỏ trong một nút thắt quanh lưới bao quanh giếng thánh mà họ hy vọng sẽ được Imam Mahdi tiếp nhận. Mỗi người trông coi buổi sáng đã cắt dây từ ngày hôm trước. Vào ngày 4 tháng 1 năm 2020, một lá cờ đỏ như máu tượng trưng cho sự báo thù được treo trên vòm để đáp lại cuộc không kích sân bay quốc tế Baghdad năm 2020. Tham khảo Nhà thờ Hồi giáo Iran Thánh đường Hồi giáo tại Iran
wiki
Các nhà thiên văn sử dụng dữ liệu từ kính thiên văn không gian Hubble của NASA đã quan sát sự xuất hiện của một cụm vật chất tối sau vụ va chạm của hai thiên hà. Kết quả nghiên cứu có thể thách thức những lý thuyết hiện nay về vật chất tối vốn dự đoán rằng chúng là cố định trong thiên hà ngay cả khi có các chấn động mạnh do va chạm. Abell 520 là sự hợp nhất khổng lồ của hai quần thiên hà cách chúng ta 2,4 tỷ năm ánh sáng. Vật chất tối (dark matter) không thể được nhìn thấy, tuy nhiên sự hiện diện và phân bố của nó có thể được phát hiện thông qua các hiệu ứng nó gây ra. Nó có tác dụng như một thấu kính uốn cong đường đi của tia sáng tới với chúng ta. Các nhà thiên văn gọi hiệu ứng này là thấu kính hấp dẫn, sử dụng nó để phát hiện sự tồn tại của vật chất tối trong các quần thiên hà. Kĩ thuật này cho thấy vật chất tối trong Abell 520 được tập trung trong một cái nhân tối, với số lượng thiên hà ít hơn nhiều so với dự đoán nếu vật chất tối và các thiên hà được níu chặt cùng nhau. Hầu hết các thiên hà đã di chuyển ra xa từ vụ va chạm. James Jee, nhà thiên văn học tại đại học California, trưởng nhóm tác giả của công bố này trên tạo chí Vật lý thiên văn cho biết: "Kết quả này là một câu đố. Vật chất tối không cư xử như dự đoán. Rất khó để có thể giải thích quan sát này của Hubble bằng những lý thuyết hiện đại về sự tạo thành thiên hà và vật chất tối" Phát hiện ban đầu về vật chất tối trong các quần thiên hà được thực hiện vào năm 2007. Tuy vậy các nhà thiên văn đành bỏ qua nó vì lượng dữ liệu khá nghèo nàn. Với quan sát hiện nay, kính Hubble đã xác định được sự tách rời của vật chất tối và thiên hà trong Abell 520. Một cách để nghiên cứu tính chất tổng quát của vật chất tối là phân tích các vụ va chạm giữa các quần thiên hà, cấu trúc lớn nhất trong vũ trụ. Khi các quần thiên hà va chạm, các nhà thiên văn dự đoán rằng các thiên hà vẫn gắn chặt với vật chất tối như một con chó bị buộc vào sợi xích của nó. Các nghiên cứu đối với Abell 520 cho thất hành vi của vật chất tối không đơn giản như vậy. Sử dụng các quan sát ban đầu, các nhà thiên văn thấy rằng trung tâm của hệ chứa đầy vật chất tối và khó nóng, nhưng không có sự tồn tại của các thiên hà sáng, mà theo như lý thuyết là phải luôn có mặt cùng lúc với vật chất tối. Đài quan sát Chandra X-ray của NASA đã được sử dụng để xác định khí nóng. Các nhà thiên văn sử dụng kính thiên văn Canada-Pháp-Hawaii và kính thiên văn Subaru trên đỉnh Mauna Kea để xác định vị trí cụm vật chất tối bằng cách đo ánh sáng qua hiệu ứng thấu kính hấp dẫn từ nhiều thiên hà ở xa. Tiếp đó các nhà thiên văn hướng camera trường rộng của Hubble về phía khối vật chất tối và xác định chi tiết những hiệu ứng của nó qua hình ảnh thu được của các thiên hà ở xa để xây dựng bản đồ vật chất tối. Quan sát này đã xác nhận phát hiện năm 2007 là chính xác. Những quan sát này mở ra nhiều kịch bản cho cách hành xử của vật chất tối mà tới nay các nhà khoa học chưa thể xác minh được chính xác. Kịch bản thứ nhất là khi các quần thiên hà va chạm, vật chất thông thường bị giảm tốc độ lại trong khi vật chất tối thì không, do thế mà mới sinh ra sự khác biệt về vị trí của vật chất tối sau va chạm. Kịch bản này cũng dự đoán rằng chính bản thân vật chất tối có thể tương tác với chính nỏ và dừng lại sau va chạm. Kịch bản thứ hai Abell 520 là vụ va chạm không phải giữa hai quần thiên hà mà nhiều hơn và kịch bản thứ ba là thực tế vẫn có các thiên hà ở cụm vật chất tối trung tâm nhưng chúng quá mờ nhạt để có thể quan sát với kính Hubble hiện nay. Sau khi được xác nhận chi tiết hơn, rất có thể khám phá này sẽ làm thay đổi những hiểu biết chúng ta đã có về vật chất tối. (theo Space Daily)
vanhoc
Hướng dẫn So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” Bài làm “Truyện Kiểu” được coi là kiệt tác số một của đại thi hào Nguyễn Du, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới, mà một tác phẩm kết tinh những gì đặc sắc nhất về cả nội dung và nghệ thuật. Mỗi đoạn trích trong “Truyện Kiều” đều được nhà thơ chăm chút, mỗi nhân vật đều hiện lên một cách hết sức sinh động. “Chị em Thúy Kiều” cũng là một đoạn trích như thế. Mở đầu đoạn trích là phần giới thiệu cả hai chị em Vân – Kiều: “Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” Hai người con gái đẹp ấy, có cốt cách thanh cao như mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Mỗi người có một vẻ đẹp riêng, nhưng đều là vẻ đẹp “mười phân vẹn mười”, vô cùng hoàn hảo, đẹp đẽ. Thúy Vân được xuất hiện trước với vẻ đẹp phúc hậu, cao sang, quý phái: “Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.” Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp trang trọng tuyệt vời, với khuôn mặt đầy đặn như ánh trăng rằm, tiếng nói tiếng cười như hoa như ngọc, tóc mượt như mây, da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp của nàng khiến cho thiên nhiên phải e thẹn cúi mình, phải “thua”, phải “nhường” một cách tình nguyện. Nàng được tạo hóa ban cho một vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, báo hiệu một cuộc sống yên ổn, bình an, không song gió về sau. Tại sao cô em lại được xuất hiện trước cả chị? Có lẽ đó là dụng ý của Nguyễn Du, cô em đã đẹp đẽ như thế, thì cô chị – nhân vật chính của truyện còn có thể đẹp hơn nữa không? Ngay từ khi bắt đầu nói về Kiều, đại thi hào đã nói: “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn” Thúy Vân đã đẹp đến hoa nhường nguyệt thẹn, vậy mà Thúy Kiều lại còn đẹp hơn, cả về tài lẫn sắc. Không chỉ thế, đó còn là một vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà chứ không đoan trang, phúc hậu như Thúy Vân. Đặc biệt, ở Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ đặc tả đôi mắt – cửa sổ tâm hồn của người con gái ấy: “Làn thu thủy nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” Đôi mắt nàng trong như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Trong làn song mắt ấy, là cả một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Kiều có một vẻ đẹp khiến cho hoa “ghen”, liễu “hờn”, Tạo hóa đã cho nàng vẻ đẹp, nhưng cũng mang đến cho nàng cả sự ghen ghét của người đời. Cuộc đời của nàng, sẽ là một đoạn đời không yên ổn. Ở Thúy Vân, người ta chỉ có từ nhan sắc mà suy đoán về tài năng, bởi Nguyễn Du không hề nhắc đến. Nhưng ông lại nói rất kĩ về tài hồ cầm của Thúy Kiều: “Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành họa hai Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ ầm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân” Không chỉ là một người con gái đẹp, Kiều còn là một người thông minh, đa tài. Có thể nói, đến Thúy Kiều, người đọc mới thấm thía được vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của nàng. Tuy nhiên, ẩn trong vẻ đẹp hoàn mỹ ấy, là một tâm hồn đa sầu đa cảm. Có lẽ nàng đã cảm nhận được số phận long đong của mình rồi, nên đã sáng tác cung đàn “Bạc mệnh” khiến ai nghe cũng phải thương cảm. Và đúng như nàng dự đoán, cuộc đời bình an của nàng không kéo dài được bao lâu nữa, bởi “Chữ tài liền với chữ tai” một vần, người con gái ấy sẽ phải sống một cuộc đời gian truân trắc trở. Ở cuối đoạn trích, Nguyễn Du khái quát lại về hai chị em nhà Vân – Kiều và hoàn cảnh sống của họ: “Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
vanhoc
Oliver William Skipp (sinh ngày 16 tháng 9 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur ở Giải Ngoại hạng Anh. Tuổi thơ Skipp sinh ra ở Welwyn Garden City và lớn lên ở Hertford. Từ 2003 đến 2012, anh học trường tiểu học Duncombe và Trường Richard Hale ở Hertford. Sự nghiệp câu lạc bộ Skipp gia nhập Bengeo Tigers FC khi còn nhỏ trước khi gia nhập Tottenham Hotspur vào năm 2013. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2018, Skipp đã ký hợp đồng ba năm với Tottenham Hotspur.  Anh có trận đấu ra mắt đội một Tottenham trong chiến thắng 3-1 ở cup Liên Đoàn Anh trước West Ham United vào ngày 31 tháng 10 năm 2018.  Anh có trận ra mắt Giải Ngoại Hạng Anh trong trận đấu với Southampton, ra sân từ băng ghế dự bị trong trận đấu mà Spurs giành chiến thắng 3-1. Skipp có tên trong đội hình ra sân chính thức đầu tiên cho Spurs trong chiến thắng 1-0 trên sân nhà vào ngày 15 tháng 12 năm 2018 trước Burnley. Trong trận thắng 7-0 của Tottenham trước Tranmere Rovers tại FA Cup, anh đóng góp trực tiếp hai pha kiến ​​tạo. Ngày 17 tháng 7 năm 2020, Skipp ký hợp đồng ba năm mới với tùy chọn gia hạn thêm 1 năm với Tottenham. Trong mùa giải 2020–21, anh gia nhập Norwich City dưới dạng cho mượn.  Skipp ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp của mình trong chiến thắng 3-1 của Norwich trước Birmingham City vào ngày 23 tháng 2 năm 2021.  Skipp góp công lớn giúp Norwich giành chức vô địch Giải Hạng Nhất Anh và được bình chọn vào Đội hình xuất sắc nhất năm 2021 của PFA. Sự nghiệp quốc tế Skipp đã đại diện cho Anh ở cấp độ U16, U17 tuổi và U18. Vào ngày 30 tháng 8 năm 2019, Skipp lần đầu tiên được đưa vào đội hình U21 Anh. Cuối cùng, anh ra mắt U21 vào ngày 11 tháng 10 năm 2019 từ băng ghế dự bị trong trận hòa 2-2 trước Slovenia ở Maribor. Thống kê sự nghiệp Tính đến ngày 1 tháng 5 năm 2021 Danh hiệu Tottenham Hotspur Á quân UEFA Champions League: 2018–19 Norwich City EFL Championship: 2020-21 Danh hiệu cá nhân Đội hình xuất sắc nhất nhất năm PFA: 2020/21 Championship Tham khảo Liên kết ngoài Tottenham Hotspur Profile Sinh năm 2000 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C. Tiền vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
wiki
Axit salicylic được sử dụng như một loại thuốc giúp loại bỏ lớp ngoài của da. Vì vậy, nó được sử dụng để điều trị mụn cóc, vết chai, bệnh vẩy nến, gàu, mụn trứng cá, giun đũa và bệnh ichthyosis. Đối với các điều kiện khác với mụn cóc, nó thường được sử dụng cùng với các loại thuốc khác. Nó được áp dụng trên các khu vực da bị ảnh hưởng. Tác dụng phụ bao gồm kích ứng da và ngộ độc salicylate. Ngộ độc salicylate có xu hướng chỉ xảy ra khi sử dụng cho một vùng da rộng lớn và ở trẻ em. Do đó, việc sử dụng chất này không được khuyến cáo ở trẻ dưới hai tuổi. Nó được sử dụng với một số liều lượng khác nhau. Axit salicylic đã được sử dụng trong y tế kể từ thời Hippocrates. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thống y tế. Ở Vương quốc Anh, 10 ml công thức axit này dạng lỏng 17% có giá cho NHS khoảng 1,71 pound. Nó cũng có sẵn ở dạng trộn với nhựa than đá, oxit kẽm hoặc axit benzoic. Sử dụng trong y tế Axit salicylic được sử dụng như một loại thuốc để giúp loại bỏ lớp ngoài của da. Vì vậy, nó được sử dụng để điều trị mụn cóc, vết chai, bệnh vẩy nến, gàu, mụn trứng cá, giun đũa và bệnh ichthyosis. Do tác dụng loại bỏ đối với tế bào da, axit salicylic được sử dụng trong một số loại dầu gội chuyên trị gàu. Trong y học hiện đại, axit salicylic và các dẫn xuất của nó là thành phần của một số sản phẩm thuốc "làm đỏ da". Tác dụng phụ Các dung dịch đậm đặc của axit salicylic có thể gây tăng sắc tố ở những người có loại da sẫm màu hơn (Fitzpatrick phototypes IV, V, VI), mà không có kem chống nắng phổ rộng. Do nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, cần phải sử dụng kem chống nắng khi sử dụng axit salicylic trên da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Tham khảo RTT Thuốc thiết yếu của WHO
wiki
Audea là một chi bướm đêm thuộc họ Erebidae. Các loài Audea agrotidea (Mabille, 1879) Audea albifasciata Pinhey, 1968 Audea albiforma Kühne, 2005 Audea antennalis Berio, 1954 Audea bipunctata Walker, 1858 (đồng nghĩa Audea hypostigmata Hampson, 1913, Audea fatua (Felder và Rogenhofer, 1874)) Audea blochwitzi Kühne, 2005 Audea delphinensis (Viette, 1966) Audea fatilega (Felder và Rogenhofer, 1874) Audea fumata (Wallengren, 1860) Audea guichardi Wiltshire, 1982 Audea hemihyala Karsch, 1896 (đồng nghĩa Audea endophaea Hampson, 1913) Audea irioleuca (Meyrick, 1897) Audea jonasi Kühne, 2005 Audea kathrina Kühne, 2005 Audea legrandi Berio, 1959 Audea luteoforma Kühne, 2005 Audea melaleuca Walker, 1865 (đồng nghĩa Audea postalbida Berio, 1954) Audea melanoplaga Hampson, 1902 Audea nigrior Kühne, 2005 Audea paulumnodosa Kühne, 2005 Audea pseudocatocala Strand, 1918 Audea stenophaea Hampson, 1913 Audea subligata Distant, 1902 Audea tachosoides Kühne, 2005 Audea tegulata Hampson, 1902 (đồng nghĩa Audea humeralis Hampson, 1902) Audea vadoni (Viette, 1966) Audea watusi Kühne, 2005 Audea zimmeri Berio, 1954 Formerly placed here Audea arabica hiện tại được coi là đồng nghĩa của Ulotrichopus tinctipennis Rebel, 1907. Tham khảo Audea at funet.fi Natural History Museum Lepidoptera genus database Revision und Phylogenie der Gattungsgruppe Crypsotidia Rothschild, 1901, Tachosa Walker, 1869, Hypotacha Hampson, 1913, Audea Walker, 1857 und Ulotrichopus Wallengren, 1860 (Lepidoptera, Noctuidae, Catocalinae) Audeini
wiki
Coteccons (Tên đầy đủ: Công ty Cổ phần Xây dựng Coteccons) - Mã chứng khoán HOSE: CTD - là công ty xây dựng được thành lập ngày 24/08/2004 từ quá trình cổ phần hóa một công ty thành viên thuộc Tổng công ty Fico. Từ số vốn điều lệ ban đầu chỉ 15,2 tỷ đồng, sau hơn 5 năm, khi Coteccons niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (đầu năm 2010), vốn điều lệ đã tăng lên tới 307,5 tỷ đồng, tức gấp 20 lần. Hiện tại, sau nhiều đợt tăng vốn, vốn điều lệ của Coteccons đã đạt 783.5 tỷ đồng. Coteccons là Tổng thầu thi công công trình Landmark 81 - Công trình cao nhất Đông Nam Á và cao thứ 14 trên Thế giới. Quá trình hoạt động 2004: Chuyển đổi mô hình hoạt động thành Công ty Cổ phần Xây dựng (Cotec) theo quyết định số 1242/QĐ-BXD ngày 30/7/2004 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng 2006: Hợp tác xây dựng nhiều dự án lớn: Trường Đại học RMIT, The Manor, Grand View 2007: Thu hút đầu tư từ các quỹ lớn: Dragon Capital, Indochina Capital, Tainan Spinning. Tăng vốn điều lệ lên 120 tỷ đồng. 2008: Chinh phục thị trường bất động sản cao cấp với các dự án tiêu biểu: Hồ Tràm Sanctuary, River Garden, The Centre Point… 2009: Ngày 10/5/2009 khởi công xây dựng trụ sở cao ốc văn phòng Coteccons do Coteccons làm chủ đầu tư 100% vốn. 2010: Ngày 20/01/2010 mở ra một trang mới trong lịch sử hoạt động với việc niêm yết và giao dịch cổ phiếu Coteccons (mã CTD) tại sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE). 2011: Ngày 08/9/2011 ký hợp đồng tổng thầu dự án khu phức hợp Casino - The Grand Hồ Tràm có quy mô lớn và hiện đại nhất khu vực do Asian Coast Development Ltd. (ACDL) làm chủ đầu tư. 2012: Ký kết hợp đồng hợp tác chiến lược với Kustocem Pte. Ltd. (Singapore) phát hành 10.430.000 cổ phiếu (tương đương 25 triệu USD). 2013: Nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của Coteccons tại Unicons lên 51,24% và chính thức hoạt động theo mô hình tập đoàn. 2014: Bước đầu thành công trong mô hình Design & Build (D&B). Nhiều hợp đồng D&B được ký kết với các chủ đầu tư lớn: Masteri Thảo Điền, Regina… 2015: Triển khai nhiều hợp đồng D&B lớn, năm đánh dấu mức tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận cao kỷ lục. 2016: Thi công dự án Landmark 81, một trong những tòa nhà cao nhất thế giới. 2017: Tháng 8/2017, Coteccons khởi công dự án Casino Nam Hội An với tổng giá trị gần 7.000 tỷ đồng. Lĩnh vực hoạt động chính Xây dựng, lắp đặt các công trình dân dụng và công nghiệp; Công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp; Công trình giao thông; Công trình thủy lợi. Hoạt động kiến trúc và tư vấn kỹ thuật có liên quan: Thiết kế tổng mặt bằng xây dựng công trình; Thiết kế kiến trúc công trình dân dụng và công nghiệp; Thiết kế nội ngoại thất công trình; Thiết kế cấp nhiệt, thông hơi, thông gió, điều hòa không khí, công trình dân dụng và công nghiệp; Thiết kế phần cơ điện công trình; Thiết kế xây dựng công trình dân dụng – công nghiệp; Thiết kế xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị. Xây dựng công trình cấp thoát nước, xử lý môi trường. Kinh doanh, môi giới, tư vấn bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu. Lắp đặt hệ thống cơ – điện – lạnh. Chuyên kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu: sắt, thép, kết cấu xây dựng, vật liệu, thiết bị lắp đặt khác trong xây dựng, vật tư – máy móc – thiết bị – phụ tùng thay thế, dây chuyền công nghệ ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng; máy móc thiết bị xây dựng. Hoạt động xã hội Tài trợ học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học. Tài trợ tiền chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo Xây dựng nhà tình thương cho gia đình chính sách. Ủng hộ đồng bào các vùng bị thiên tai bão lụt. Thành tựu Đơn vị thi đua xuất sắc ngành xây dựng Bằng khen của UBND thành phố vì có thành tích xuất sắc trong công tác ATLĐ Chứng nhận 500 doanh nghiệp lớn nhất VN Cúp vàng chất lượng xây dựng Việt Nam Top 50 doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam Top 50 Công ty niêm yết tốt nhất Việt Nam Một trong 100 doanh nghiệp đóng thuế nhiều nhất Việt Nam Top 10 Công ty có báo cáo thường niên tốt nhất. Chú thích Liên kết ngoài Công ty xây dựng Việt Nam
wiki
La Bibliothèque de Madame Dai là nhà hàng kiêm bảo tàng tại địa chỉ 84A Nguyễn Du, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây vốn là thư viện ở Sài Gòn thuộc sở hữu của Bà Nguyễn Phước Đại, cựu luật sư và chính trị gia về hưu thời Việt Nam Cộng hòa, mãi sau này bà mới chuyển đổi thư viện thành nhà hàng của riêng mình vào tháng 4 năm 1975. Tổng thống Pháp François Mitterrand từng ghé qua dùng bữa tại nhà hàng này vào năm 1991. Nhà hàng này còn có cả một bảo tàng chuyên trưng bày "những mảnh gốm sứ Việt Nam, nhiều tác phẩm điêu khắc đền thờ xuất xứ từ Vương quốc Chăm Pa trước thế kỷ 15, một số đồ cổ tinh xảo của Trung Quốc, một ngôi chùa lớn của Campuchia, một bức bình phong Việt Nam và một cái đĩa sứ Imari lớn của Nhật Bản". Người ta tin rằng nhà hàng này đã phải đóng cửa vào giữa thập niên 2000 từ sau cái chết của Bà Nguyễn Phước Đại. Tham khảo Khởi đầu năm 1975 ở Việt Nam Thương hiệu ẩm thực Việt Nam Bảo tàng tại Việt Nam Công trình xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh Quận 1
wiki
Neutrino muon là một hạt cơ bản có ký hiệu () và điện tích bằng không. Cùng với muon, nó tạo thành thế hệ thứ hai của lepton, do đó có tên là neutrino muon. Nó được phát hiện vào năm 1962 bởi Leon Lederman, Melvin Schwartz và Jack Steinberger. Khám phá này đã được trao giải Nobel Vật lý năm 1988. Phát hiện Muon neutrino hay "neutretto" được một số nhà vật lý đưa ra giả thuyết là tồn tại trong những năm 1940. Bài báo đầu tiên về nó có thể là lý thuyết hai meson của Shoichi Sakata và Takesi Inoue năm 1942, cũng liên quan đến hai neutrino. Năm 1962, Leon M. Lederman, Melvin Schwartz và Jack Steinberger đã chứng minh sự tồn tại của hạt muon neutrino trong một thí nghiệm tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven. Điều này đã mang lại cho họ giải thưởng Nobel năm 1988. Tốc độ Vào tháng 9 năm 2011, các nhà nghiên cứu OPERA báo cáo rằng hạt muon neutrino dường như đang di chuyển với tốc độ nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Kết quả này đã được xác nhận một lần nữa trong một thí nghiệm thứ hai vào tháng 11 năm 2011. Những kết quả này đã bị cộng đồng khoa học nói chung xem một cách hoài nghi, và nhiều thí nghiệm điều tra hiện tượng hơn. Vào tháng 3 năm 2012, nhóm ICARUS đã công bố kết quả mâu thuẫn trực tiếp với kết quả của OPERA. Sau đó, vào tháng 7 năm 2012, sự lan truyền siêu sáng bất thường của neutrino được bắt nguồn từ một phần tử bị lỗi của hệ thống thời gian sợi quang ở Gran-Sasso. Sau khi nó được sửa chữa, các neutrino dường như di chuyển với tốc độ ánh sáng trong phạm vi sai số của thí nghiệm. Xem thêm Electron neutrino Dao động neutrino Ma trận PMNS Tau neutrino Chú thích M
wiki
Alcide Charles Victor Marie Dessalines d'Orbigny (sinh 6 tháng 9 năm 1802 - mất 30 tháng 6 năm 1857) là một nhà tự nhiên học người Pháp đã có những đóng góp to lớn trong nhiều lĩnh vực, bao gồm động vật học (bao gồm cả nhuyễn thể học), cổ sinh vật học, địa chất, khảo cổ học và nhân chủng học. D'Orbigny sinh ra ở Couëron (Loire-Atlantique), con trai của một người bác sĩ phục vụ trên tàu thuyền và một nhà tự nhiên học nghiệp dư. Gia đình ông đã chuyển đến La Rochelle vào năm 1820, nơi mà sự quan tâm của ông đối với ngành lịch sử tự nhiên được phát triển trong suốt quá trình nghiên cứu hệ động vật biển và các vi sinh vật mà ông gọi là " foraminiferans ". Tại Paris, ông trở thành học trò của nhà địa chất học Pierre Louis Antoine Cordier (1777-1861) và Georges Cuvier. Suốt cả cuộc đời, ông quyết định sẽ theo đuổi lý thuyết của Cuvier và chống lại Chủ nghĩa Lamarck. Thời gian tại Nam Mỹ D'Orbigny lên đường tới Nam Mỹ trong một nhiệm vụ để phục vụ cho Bảo tàng Paris. Trong khoảng thời gian 1826-1833. Ông đã lần lượt dừng chân tại Venezuela, Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia, Chile, Argentina, Paraguay và Brazil và trở về Pháp với một bộ sưu tập khổng lồ gồm hơn 10.000 mẫu vật thuộc lĩnh vực lịch sử tự nhiên. Ông đã mô tả lại một phần của các phát hiện của mình tại La Relation du Voyage dans l'Amérique Méridionale pendant les Annes 1826 à 1833 (Paris, 1824-1847, trong 90 fascicles). Các mẫu vật khác được mô tả bởi nhiều nhà động vật học khác tại bảo tàng Paris. Người sống cùng thời với ông, Charles Darwin, đã đến Nam Mỹ vào năm 1832, sau khi nghe tin ông đã đi trước, Darwin đã càu nhàu rằng D'Orbigny có lẽ đã thu thập được những thứ quan trọng nhất. Darwin sau này đã gọi Hành trình của D'Orbigny là "hành trình quan trọng nhất". Họ tiếp tục hợp tác với việc D'Orbigny đã mô tả một số mẫu vật của Darwin. D'Orbigny đã được trao huy chương vàng từ Société de Géographie của Paris vào năm 1834. Tên khoa học của loài Podocene pantodont Pidedocignya với hóa thạch được khai quật tại Nam Mỹ đã được đặt theo tên của D'Orbigny để vinh danh cho những đóng góp của ông. Giai đoạn 1840 trở đi Năm 1840, d'Orbigny bắt đầu mô tả các phương pháp xử lý hóa thạch của Pháp và xuất bản cuốn La Paléontologie Française (8 vols). Năm 1849, ông đã cho xuất bản cuốn Prodrom de Paléontologie Stratecraftique có liên hệ chặt chẽ với bản in trước, với nội dung là "Lời nói đầu cho địa tầng học địa lý", trong đó ông mô tả gần 18.000 loài, với các so sánh trong lĩnh vực địa lý đã minh họa lại các tầng địa chất, và các định nghĩa về địa tầng. Năm 1853, ông trở thành giáo sư cổ sinh vật học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Paris, xuất bản cuốn Cours élémentaire với nhiều nội dung trong lĩnh vực cổ sinh vật học và động vật học. Phân ngành cổ sinh vật học được lập ra đặc biệt để vinh danh ông. Bộ sưu tập của d'Orbigny được lưu giữ tại Salle d'Orbigny và thường được nhiều chuyên gia ghé thăm. Ông đã mô tả các mốc thời gian địa chất và xác định nhiều tầng địa chất. Nhiều tài liệu của ông ngày nay vẫn được sử dụng làm tài liệu tham khảo thuộc lĩnh vực nghiên cứu các mốc thời gian của các tầng địa chất như Toarcian, Callovian, Oxfordian, Kimmeridgian, Aptian, Albian và Cenomanian. Ông qua đời tại thị trấn Dockrefitte-sur-Seine, gần Paris. Các loài động thực vật được đặt theo tên d'Orbigny Một số đơn vị phân loại động thực vật đã được đặt theo tên để vinh danh ông, bao gồm các chi và loài sau:. Alcidedorbignya - một chi đã tuyệt chủng của pantodont Alcidia Bourguignat, 1889 - một chi ốc biển Ampullaria dorbignyana Philippi, 1851 - một loài ốc nước ngọt Apostolepis dorbignyi Schlegel, 1837 - một loài rắn đào hang Asthenes dorbignyi Reichenbach, 1853 - một loài chim porariid Bachia dorbignyi AMC Duméril & Bibron, 1839 - một loài thằn lằn Cadomites orbignyi de Grossouvre, 1930 - một loài ammonite từ Bathonia Chaunus dorbignyi (AMC Duméril & Bibron, 1841) - một loài cóc Haminoea orbignyana A. de Férussac, 1822 - một loài ốc biển Hecticoceras (Orbignyceras) C. Gérard & H. Contaut, 1936 - một phân chi của Amonit từ Tầng Callove Liolaemus dorbignyi Koslowsky, 1898 - một loài thằn lằn Lystrop4 dorbignyi AMC Duméril, Bibron & AHA Duméril, 1854 - một loài rắn Nerocila orbignyi (Guérin, 1832) - một loài ký sinh ngoài da isopod Quỹ đạo Mart. cựu Endl. - một chi của cây cọ, bao gồm loài Orbignya speciosa (Mart. Ex Spreng.), Thường được gọi là cây cọ Brazil hoặc babaçu trong tiếng Bồ Đào Nha Pinna dorbignyi Hanley, 1858 - một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ Potamotrygon orbignyi (Castelnau, 1855) - một loài cá đuối nước ngọt Quadracythere orbignyana (Bosquet, 1852) - một loài hải ostracod Rhinodoras dorbignyi (Kner, 1855) - một loài cá da trơn gai Sepia (Rhombosepion) orbignyana A. de Férussac in d'Orbigny, 1826 - một loài mực nang, thường được gọi là mực nang hồng Subdiscosphotypees orbignyi Hantzpergue, 1987 - một loài ammonite từ Kimmeridgian Trạchemys dorbigni - một loài rùa nước ngọt Trong danh sách trên, tên tác giả đặt tên hoặc danh pháp hai phần trong ngoặc đơn biểu thị rằng loài ban đầu được mô tả và được phân loại trong một chi khác với hệ thống phân loại hiện tại. Ấn phẩm Tham khảo La Gazette des Français du Paraguay, Alcide d'Orbigny - Voyageur Naturaliste pour le Muséum d'Histoire Naturelle dans le Cone Sud - Alcide d'Orbigny - Viajero Naturalista para el Museo Nacional de Historia Natural de Francia en el Cono Sur - numéro 7, année 1, Asuncion Paraguay. Đọc thêm Beolens, Bo; Watkins, Michael; Grayson, Michael (2011). Từ điển Eponym của bò sát. Baltimore: Nhà xuất bản Đại học Johns Hopkins. xiii + 296 trang. Mã số   980-1-4214-0135-5. ("D'Orbigny", tr.   74, "Quỹ đạo", tr.   195). "Alcide d'Orbigny" Ở Taylor, W. Thomas; Taylor, Michael L. (2011). Aves: Một cuộc khảo sát về văn học của thuyết bản nguyên học thần kinh. Baton Rouge: Thư viện Đại học bang Louisiana. 156 trang. Mã số   976-0615453637. Liên kết ngoài Works by Alcide d'Orbigny Works by or about Alcide d'Orbigny Phiên bản kỹ thuật số của Gallica của một số tác phẩm d''bbb. Tìm kiếm tại Recherche. Từ điển của đại học Lịch sử Tự Nhiên Mất năm 1857 Sinh năm 1802 Nhà thực vật học với tên viết tắt Nhà động vật học Pháp Nhà động vật học thế kỷ 19
wiki
Chiến dịch "Tu viện" () là một trong những chiến dịch thành công nhất của lực lượng phản gián Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Chiến dịch hoạt động trong bốn năm từ 1941 đến 1944, dựa trên trò chơi radio mà NKVD đã thực hiện nhằm cung cấp các thông tin tình báo sai lạc cho cơ quan tình báo quân đội Đức Abwehr. Khởi đầu Vào đầu cuộc chiến, một ý tưởng nảy sinh khi lực lượng phản gián Liên Xô tiến hành một chiến dịch quy mô lớn chống lại cơ quan tình Abwehr của quân đội Đức. Hoạt động này được giao cho Pavel Sudoplatov, người sau đó đứng đầu Cục 4 của NKVD. Theo hồi ký của Sudoplatov, Viktor Abakumov, người đứng đầu Tổng cục phản gián quân đội Smersh, rất muốn kiểm soát chiến dịch "Tu viện". Ông ta lập luận rằng Smersh có mối quan hệ chặt chẽ với Bộ Tổng tham mưu hơn là NKVD. Và khi không thành công, ông ta thậm chí còn đe dọa Sudoplatov.. Sĩ quan tình báo Liên Xô Aleksandr Demyanov đóng vai trò là diễn viên chính, được đặt bí danh Heine trong các tài liệu của NKVD. Trước đây, Demyanov từng bắt liên lạc được với các đặc vụ Đức và thậm chí còn nhận được bí danh là Maks (phiên bản của Sudoplatov; theo nhà sử học người Đức, Demyanov không phải là Maks và Abwehr gọi nhóm của ông là Flamingo ). Từ đó, ý tưởng đã nảy sinh để sử dụng những liên hệ này, cũng như nguồn gốc quý tộc của Demyanov. Kỹ năng mã hóa và truyền tin của Demyanov được dạy bởi William Fisher, và có sự hỗ trợ đáng kể của Igor Schors. Vào cuối năm 1941, Heine đã vượt qua chiến tuyến, đầu hàng Đức quốc xã. Khi tiếp xúc với các đặc vụ Abwehr, Demyanov đã tuyên bố rằng ông là một đại diện của một nhóm hoạt động ngầm chống Liên Xô có tên gọi là "Prestol" và được các lãnh đạo của nhóm phái đi để liên lạc với bộ chỉ huy Đức. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, thẩm vấn và thậm chí thực hiện một cuộc hành quyết giả, tình báo Đức đã tin tưởng Heine. Ông được đưa đi huấn luyện và đã hoàn thành một khóa học tại trường đào tạo biệt kích của Abwehr. Vào tháng 3 năm 1942, Demyanov được tung trở lại lãnh thổ do quân đội Liên Xô kiểm soát. Hai tuần sau, Maks chuyển thông tin sai lệch đầu tiên cho người Đức. Để củng cố vị trí của Demyanov, NVKD đã tung tin giả cho phía tình báo và bộ chỉ huy Đức là Demyanov đã được bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc dưới quyền của người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu, Nguyên soái Shaposhnikov. Hai sĩ quan NKVD có kinh nghiệm được bổ sung vào biệt đội: Viktor Ilyin và Mikhail Maklyarsky. Cả hai người sau chiến tranh đều gắn bó cuộc sống của mình với văn chương. Ilyin trở thành thành viên của Hội Nhà văn Liên Xô, và từ năm 1956, Thư ký Hội Nhà văn. Maklyarsky trở thành nhà biên kịch. Một số bộ phim đã được quay theo kịch bản của ông. Chiến dịch Tu viện bị dừng hoạt động vào mùa hè năm 1944 khi theo giai thoại, đặc vụ Heine từ Bộ Tổng tham mưu được chuyển đến phục vụ trong quân đội đường sắt ở Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia. Các sự kiện tiếp theo Mặc dù vậy, Demyanov vẫn tiếp tục tham gia vào một chiến dịch khác của NKVD, có tên mã là "Berezino", cũng dựa trên một trò chơi radio và đó là sự tiếp nối hợp lý của chiến dịch "Tu viện". Các trò chơi radio của lực lượng phản gián Liên Xô không hề bị tình báo Đức phát giác cho đến hết chiến tranh. Trong hồi ký được viết sau chiến tranh, Walter Schellenberg đã viết với sự ghen tị rằng tình báo quân sự (Đức) có người của mình trong vị trí thân cận Nguyên soái Shaposhnikov, và do đó, đã nhận được nhiều thông tin có giá trị. Các kết quả Kết quả của chiến dịch, khoảng năm mươi biệt kích phá hoại của Đức đã bị bắt, bảy đồng phạm của người Đức đã bị bắt (bao gồm cả Grigory Zobach, người sau đó được tình báo Liên Xô tuyển mộ lại), vài triệu rúp Liên Xô đã được nhận từ người Đức. Khi số lượng biệt kích được phía Đức chuyển đến tăng lên, chiến dịch được đổi tên thành Chiến dịch "Chuyển phát" (Курьер). Nhưng kết quả chính của chiến dịch là một lượng lớn thông tin sai lệch, đã được chuyển cho bộ chỉ huy Đức. Các sĩ quan của Bộ Tổng tham mưu đã tham gia vào việc chuẩn bị thông tin sai lệch ở cấp cao nhất, trong một số trường hợp, thông tin được phối hợp với Stalin. Thông thường những thông tin như vậy được trả về cho lực lượng phản gián của Liên Xô như một thông tin tình báo từ các nguồn khác, ví dụ, thông qua tình báo Anh. Một ví dụ về thông tin sai lệch như vậy là thông tin mà Heine đã gửi về một cuộc phản công sắp xảy ra gần Rzhev và Bắc Kavkaz. Người Đức tin vào điều này và chuẩn bị cho việc phản kích của họ. Phía Đức, thậm chí cả các chỉ huy cao cấp của Liên Xô, bị lừa hoàn toàn. Chính Nguyên soái Georgy Zhukov, theo lệnh của Tổng hành dinh, được điều động từ Stalingrad đến Rzhev, cũng tin rằng việc điều động này nhằm mục đích chuẩn bị một cuộc phản công lớn vào quân Đức. Ông không biết rằng chính mình cũng bị Stalin sử dụng như một quân cờ để thực hiện một cú lừa ngoạn mục cho phía Đức. Khi biết được sự xuất hiện của Zhukov, người Đức đã tăng cường phòng thủ Rzhev hơn nữa, và vô tình làm suy yếu các hướng khác của mặt trận. Kết quả là quân Đức sau đó đã đẩy lùi cuộc tấn công được phát động gần Rzhev. Nhưng cuộc tấn công chiến lược gần Stalingrad, bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1942, mới thực sự gây bất ngờ cho người Đức. Kết quả thắng lợi hoàn toàn cho phía Liên Xô. Tập đoàn quân số 6 của Đức, một đạo quân hơn 300.000 người do Thống chế Friedrich Paulus chỉ huy, đã bị tiêu diệt. Mũi tấn công chiến lược trên hướng Stalingrad đã hoàn toàn bị bẽ gãy. Quân Đức đã phải nếm trái đắng kinh khủng nhất từ khi phát động chiến tranh. Sau khi chiến dịch thành công, một số sĩ quan NKVD đã được trao thưởng. Người đứng đầu Chiến dịch Tu viện, Trung tướng Pavel Sudoplatov và người phó của ông, Thiếu tướng Nahum Eitingon, đã được trao tặng Huân chương Suvorov. Đây là lần duy nhất mà sĩ quan trong hệ thống an ninh nhà nước được nhận phần thưởng này. Riêng Demyanov nhận được Huân chương Sao đỏ, và vợ ông, Tatyana Georgyevna Berezantseva, và cha bà - huy chương "Quân công". Ghi chú Nguồn Судоплатов Павел Анатольевич. Спецоперации. Лубянка и Кремль 1930—1950 годы. М.: ОЛМА-ПРЕСС, 1997. ISBN 5-94849-202-8 Эдуард Шарапов. Судоплатов против Канариса. Яуза, Эксмо; М.; 2004 ISBN 5-699-05705-6 / официальный сайт Службы Внешней Разведки Российской Федерации Александр Пронин. Победители: операция "Монастырь" // журнал «Братишка», март 2000 Труды Общества изучения истории отечественный спецслужб. 2 том, "Неизвестные страницы легендарной операции "Монастырь". 1941-1945" - М.: Кучково поле, 2006. Лубянка. Из истории отечественной контрразведки. Сборник. Статья "Операция, которая длилась всю войну", М., Издательство Главархива Москвы, 2007, ISBN 978-5-7853-0880-0. Долгополов Н. Абель-Фишер. М.: Молодая гвардия, 2011. ISBN 978-5-235-03448-8. Операция «Монастырь». Сайт регионального ветеранов военной разведки Ленинградского военного округа Тайная битва за Сталинград (статья на сайте Министерства обороны) Mặt trận phía Đông (Thế chiến thứ hai) Tình báo Liên Xô
wiki
Citrus bergamia, Cam Bergamot (phát âm tiếng Anh chuẩn: hay GenAm ), là loại trái cây thơm có kích thước của một trái cam, với một màu vàng tương tự như một trái chanh. Nghiên cứu di truyền về nguồn gốc tổ tiên của các giống cam quýt còn tồn tại phát hiện cam bergamot có thể là một loài lai của Citrus limetta và Citrus aurantium. Cam bergamot được phát triển thương mại ở miền Nam Calabria (tỉnh Reggio), miền nam Ý, nơi có hơn 80% được sản xuất. Nó cũng được trồng ở miền nam nước Pháp và Bờ Biển Ngà cho tinh dầu và Antalya ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ cho mứt của nó. Quả không phát triển để tiêu thụ như một loại ăn quả, vì chúng có vị đắng và chua. Thay vào đó, hàm lượng tinh dầu có trong vỏ quả làm nên giá trị của cam Bergamot. Từ bergamot từ được từ nguyên nguồn gốc từ bergomotta trong tiếng Ý, có nguồn gốc từ Bergamo, một thị trấn ở Italy; trước đó (1610) tài liệu tham khảo tồn tại chỉ ra nguồn gốc từ beg-armudi Thổ Nhĩ Kỳ "hoàng tử của lê". Citrus bergamia cũng đã được phân loại là Citrus aurantium subsp. bergamia (tức là một phân loài của cam đắng). Tham khảo B Thực vật Hy Lạp Thực vật Iran Thực vật Ý
wiki
Hướng dẫn Trong xóm em yêu quý nhất là bác Hà. Nhà bác ở ngay cạnh nhà em. Năm nay bác đã ngoài bốn mươi tuổi. Bác là bạn của mẹ em, cùng công tác với nhau nên nhà em và nhà bác thân nhau lắm. Bác và mẹ em coi nhau như hai chị em gái vậy. Bác có dáng người dong dỏng cao, gương mặt thanh thoát ưa nhìn. Bác có mái tóc dài, den nhánh luôn được bác buộc gọn gàng và vào những ngày hè nóng nắng oi bức bác thường buộc lên cho mát. Bác rất hay cười và rất thân thiện với mọi người xung quanh. Bác luôn giúp đỡ mọi người trong bất kì công việc gì. Điều em yêu nhất ở bác là luôn yêu thương mọi người. Bác rất yêu quý em, có cái gì bác cũng gọi em sang. Bác làm công chức nhà nước nên ngoài giờ đi làm thì bác chăm sóc vườn rau. Bác rất vui tính và thân thiện. Em nhớ hồi nhỏ hay sang nhà bác chơi, bác kể cho em biết bao nhiêu là những câu chuyện hay và dạy cho em rất nhiều điều bổ ích. Bác thường hay nói với em rằng tình làng nghĩa xóm là để chỉ sự gắn kết, đùm bọc, chia sẻ với nhau, không chỉ trong quan hệ họ hàng, dòng tộc, mà cao hơn, là sự gắn kết cộng đồng. Bởi vậy mà không ruột rà máu mủ, không họ hàng thân thích, vậy mà bác Hà chăm sóc, thương yêu em như con gái của bác vậy. Đi đâu xa về, bao giờ bác cũng có quà cho chị em tôi. Lúc thì hộp bánh sô cô la, lúc thì con búp bê tóc văng, mắt xanh, lúc thì con gấu nhồi bông mập ú…Điều đó thật đáng quý. Em rất yêu quý bác.
vanhoc
Cuộc sống ngày càng bận rộn trong guồng quay công việc, trong những lo toan tính toán thường ngày đôi khi khiến chúng ta quên đi mất những người xung quanh. Học cách yêu thương dường như ngày càng trở nên khó khăn với con người ngày nay. Họ quên mất rằng: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Câu nói hay, ý nghĩa trên các bạn sẽ gặp trong bài văn nghị luận. Đây là đề bài nghị luận về một câu nói đề cập đến một lối sống tốt đẹp trong cuộc sống. Khi làm bài, các bạn cần trả lời những câu hỏi: Câu nói muốn nói gì? Điều đó có đúng không, trong cuộc sống hôm nay? Vì sao? Vậy chúng ta cần phải làm gì? Cần có lập luận chặt chẽ, logic, hợp lí kết hợp với hệ thống dẫn chứng xác đáng, tiêu biểu để tăng tính thuyết phục, hấp dẫn và có màu sắc riêng của một bài văn nghị luận. Sau đây sẽ là những bài văn mẫu cho các bạn tham khảo trước khi viết. Chúc các bạn học tập tốt! Nếu có một vị thần xinh đẹp nhất, đó chính là nữ thần mặt trời. Nếu có một gia vị làm gia tăng vị ngọt của cuộc sống, đó là tình yêu thương. Có một hành động có thể kết nối hàng triệu con tim với nhau, đó là sẻ chia. Bởi “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống là không chỉ đơn giản là tồn tại, là có mặt còn là sự khẳng định sự tồn tại và ý nghĩa của bản thân. “Cho” là hành động trao đi một thứ gì đó mà không cần nhận lại, là tình yêu thương, là sự sẻ chia với người khác. Như vậy, con người sống trên đời không chỉ biết nhận lấy những tình cảm, sự yêu thương và giúp đỡ từ người khác mà còn biết trao đi, yêu thương và cống hiến cho cuộc đời. Bản chất của nó là lẽ sống yêu thương, cống hiến. Cuộc sống này của chúng ta, từ lúc sinh ra đã nhận quá nhiều. Sự sống của ta là do cha mẹ ban tặng. Ta nhận bao nhiêu sự săn sóc, yêu thương, chở che của bố mẹ, gia đình từ khi còn chưa nên hình hài trong bụng mẹ, những ngày chập chững biết đi, biết nói và suốt những năm tháng trưởng thành sau này nữa. Rồi cuộc sống hiện tại cũng là bởi bao xương máu của những người không quen biết đổ xuống cho chúng ta. Mỗi hạt gạo, mỗi đồ dùng và phát minh đang dùng trong cuộc sống hiện đại này cũng là những giọt mồ hôi thầm lặng của biết bao nhiêu người xa lạ đã cống hiến ngày đêm. Sự sống này, cuộc đời này hoàn toàn là những gì chúng ta nhận được, một cách miễn phí. Nhưng thật ích kỉ và hẹp hòi nếu chúng ta chỉ biết nhận, nhận vô điều kiện mà không mảy may suy nghĩ và trân trọng. Như những con sông nhận nước từ suối, từ thượng nguồn rồi lại chảy ra bể. Sống còn là sẻ chia, là cho đi. Cuộc sống này là những mảnh ghép chưa hoàn hảo. Ở đây đó trên trái đất, còn có những con người vẫn luôn khao khát bình yên và miếng ăn; những đứa trẻ mong được cắp sách đến trường… Một giọt nước khi tách ra không mất đi mà được nhân đôi. Một ngọn lửa sẻ chia là một ngọn lửa lan tỏa. Bạn có đôi tay không chỉ để cầm nắm đồ mà còn để dang là làm điểm tựa cho người khác. Bạn có một trái tim không chỉ để đập mà còn để sẵn sàng rung cảm trước những số phận bất hạnh và thiếu may mắn trong cuộc sống. Tình yêu thương, đó là một thứ tình cảm kì diệu. Nó không thể dùng khoa học hay tính toán để chứng minh, bởi khi cho đi, nó không mất đi mà chỉ nhân nên. Khi sẻ chia, niềm vui nhân lên gấp đôi, nỗi buồn giảm đi một nửa. Khi con người nhận được càng nhiều, càng luôn có ý thức phải biết cho đi. Đó chính là lí do những người tỉ phú giàu nhất thế giới như Bill Gates, Mark Zuckerberg,… luôn dành phần lớn tài sản của mình để làm từ thiện. Cho đi để những số phận kém may mắn biết ở đâu đó, vẫn còn có niềm tin, để họ tin rằng cuộc đời vẫn còn nhiều điều tốt đẹp và họ vẫn còn được quan tâm. Cho đi khiến cho khoảng cách giữa con người gần nhau hơn, và cho thế giới này tốt đẹp hơn. Cho đi có thế là như những con người kia, khi họ có điều kiện và khả năng. Nhưng cho đi đôi khi chỉ cần là những hành động giản đơn của những con người cùng khổ dành cho nhau, của những người có điều kiện kinh tế khấm khá hơn chút. Ta thấy ấm lòng khi ở những con hẻm nhỏ tại Hồ Chí Minh mang tên hẻm yêu thương với những thùng nước miễn phí để người đi đường giải cơn khát giữa trời nóng, những tủ bánh mì từ thiện, những khu vui chơi không người canh giữ,… Những con người vẫn hằng ngày thầm lặng đổ đầy nước, cấp bánh mì, …, họ chưa một lần được kể tên hay vinh danh, bởi họ muốn người nhận đón nhận mốn quà một cách tự nhiên nhất. Học cách cho đi những gì mình quý trọng chứ không phải làm nhẹ bớt đi những gì mình dư thừa! Đáng quý hơn, có những người không dư nhưng vẫn cho đi. Nơi góc đường Điện Biên Phủ- Hà Huy Tập- TP Đà Nẵng, có những người như ông Hùng vẫn đang ngày ngày sửa xe miễn phí cho những người lao động nghèo và học sinh. Nhà thuộc diện nghèo, nhưng ông chia sẻ rằng : có lấy thêm hai ba ngàn của mấy đứa học sinh hay người nghèo cũng chẳng thể khiến ông giàu nên được. Ở đó, ông lại tìm thấy niềm vui và sự an nhàn trong cuộc sống đang bận rộn ganh đua từng miếng cơm manh áo. Và những người nghèo như ông sẽ lại gần nhau hơn trong cái nghĩa cái tình. Sống là cho đi. Nhưng có những người lại không hiểu được điều đó. Những người không biết cảm thông cho người xung quanh, nhận càng nhiều mà không chịu cho đi. Cũng có những người dẫu có lòng tốt nhưng đặt không đúng chỗ, suy nghĩ chưa thấu đáo. Những số tiền được gửi mà không cần biết họ thấy thế nào, hành động cho những người nghèo những bộ áo đắt tiền, xa xỉ mà cả đời họ không dám mặc,… Yêu thương là tốt nhưng yêu thương cần đặt đúng chỗ. Hãy biết trân trọng những gì mình đang có, cho đi nhiều hơn. Không cần là vật chất, chỉ cần một cái nắm tay, một lời an ủi, động viên đôi khi cũng có sức mạnh hơn ngàn con số. “Tình yêu thương là thứ ngôn ngữ mà người mù có thế nhìn thấy và người điếc có thế nghe được”. Lúc này, những câu hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại vang vọng: Nếu ví cuộc đời này là một trường ca bất tận thì có lẽ lối sống sẻ chia,cho đi và nhận lại còn mãi là một nốt trầm sâu lắng chứa đựng giá trị nhân sinh sâu sắc về cách ứng xử của con người trong cuộc sống. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. “Cho” và “nhận” là hai quá trình quen thuộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sốn của con người. Vậy “cho” và “nhận” là gì? Nó đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc sống của mỗi chúng ta. “Cho” là sự san sẻ, giúp đỡ, yêu thương, xuất phát từ trái tim mỗi con người, là trao tặng đi những giá trị vật chất hay tinh thần mà bản thân có để đem lại cho những người xung quanh. “ Nhận” là đón nhận những món quà vật chất hay tinh thần mà người khác đem đến cho mình. “Đâu chỉ nhận riêng mình” là hành động giúp đỡ, biết san sẻ những khó khăn trong cuộc sống của những người xung quanh. Như vậy, “cho” và “ nhận” là hai khái niệm tưởng như trái ngược mà luôn song hành với nhau trong cuộc sống, bổ sung cho nhau. Nếu bạn muốn cuộc đời này đầy ý nghĩa, hài lòng với bản thân và có được sự thăng hoa trong tâm hồn, bạn phải biết chia se, biết cho đi. Trong cuộc sống thường ngày, sự cho đi cũng xuất hiện rất nhiều, chúng ta có thể cho những người ăn xin một chút thôi nhưng cũng đủ làm cho họ cảm thấy ấm lòng, các anh chị sinh viên tình nguyện luôn nhiệt huyết hết mình vì cộng đồng, hay có những người hiến máu nhân đạo đã cứu sống được bao nhiêu tâm hồn qua khỏi cơn nguy. Cho đi làm cho chúng ta hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, làm cho chính bản thân hoàn hiện hơn,và có ý nghĩa rất to lớn trong cuộc đời. Không chỉ vậy cuộc sống là một ngọn núi, có lúc dốc, có lúc bằng phẳng khác nhau, bởi vậy luôn cần đến những người biết chia sẻ, biết cho đi mà không nghĩ đến nhận lại. Cuộc đời này, còn rất nhiều những mảnh đời bất hạnh, họ cần lắm một ánh lửa sẻ chia từ chúng ta, đôi khi là một cái nắm tay thật chặt để có thể xua đi cái lạnh giá trong đêm như một lời độg viên, an ủi. Sự cho đi có thể là vật chất hay tinh thần, cho đi để thấy cuộc đời mình không cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt. Cuộc sống này là do chính chúng ta tạo nên, nó có nhiều mảng màu khác nhau, hãy cho đi nhiều hơn để nhận lại cũng nhiều hơn. Bác Hồ của chúng ta là một tấm gương sáng về sự cho đi. Cả cuộc đời Bác luôn yêu thương, quan tâm đến mọi người đặc biệt là trẻ em và những người già ốm.
vanhoc
Tủ quần áo hay tủ đồ (tiếng Anh: wardrobe) là một loại tủ đứng hoặc nằm có thể chứa quần áo được sử dụng để cất giữ trang phục. Tủ quần áo sơ khai nhất chỉ là cái rương đựng quần áo, và chỉ đến khi con người vươn tới mức sống xa hoa nhất định thì quần áo của giới quý tộc mới được cất giữ riêng tại những căn phòng đặt trong những lâu đài, cung điện vương giả. Bên trong căn phòng này có đầy những tủ khóa chứa quần áo. Dần dần theo thời gian tủ quần áo phát triển thành những không gian treo quần áo với nhiều ngăn kéo và hộc tủ. Lịch sử Ở Mỹ, tủ quần áo ban đầu chỉ ở dạng "tủ chè" kích cỡ khiêm tốn, làm bằng gỗ sồi hồi đầu thế kỷ 16. Đây là mặt hàng xuất khẩu từ thuộc địa Bắc Mỹ sang Anh Quốc, bởi vì rừng ở Anh bị chặt phá quá mức hoặc phải để dành cho hải quân. Về sau người ta chế tác những loại tủ cồng kềnh nhưng có mặt trước được chạm trổ tinh xảo. Dần dà thợ mộc chuyển từ gỗ sồi sang gỗ cây óc chó. Loại gỗ này dồi dào hơn và hay dùng làm tủ ngăn kéo để xếp quần áo vào thay vì làm tủ đứng để treo quần áo. Tham khảo Vật dụng nội thất
wiki
OTR-23 Oka (; đặt tên theo con sông Oka) là một tổ hợp tên lửa đường đạn chiến dịch chiến thuật cơ động (), do Liên Xô chế tạo vào cuối Chiến tranh Lạnh để thay thế tổ hợp SS-1C 'Scud B'. Mã định danh GRAU của tổ hợp này là 9K714, tên định danh NATO là SS-23 Spider. Việc đưa tổ hợp Oka vào trang bị đã tăng đáng kể sức mạnh hạt nhân chiến dịch chiến thuật của Liên Xô, do tầm bắn và độ chính xác của nó cho phép tổ hợp Oka không chỉ tấn công các mục tiêu cố định của NATO như sân bay, hệ thống hạt nhân và trung tâm chỉ huy mà còn tiêu diệt cả các mục tiêu cơ động. Thời gian phản ứng của tổ hợp Oka nhanh, từ trạng thái bình thường chuyển sang sẵn sàng bắn trong khoảng 5 phút, và tên lửa gần như không thể bị đánh chặn, do đó cho phép tên lửa xuyên thủng mọi lá chắn phòng thủ của đối phương. Các thành phần chính của tổ hợp 9K714 là: Xe mang phóng tự hành PU 9P71 (), dựa trên khung gầm xe BAZ-6944. Xe mang đạn – nạp đạn TZM 9T230 () với một tên lửa dự phòng và có một cần cẩu thủy lực. Xe hậu cần TM 9T240 (), một xe ZIL-131 để vận chuyển một tên lửa (trong thùng vận chuyển 9Ya249) và một đầu đạn (trong thùng vận chuyển 9Ya251). Quân đội Liên Xô khẳng định Oka chỉ có tầm bắn tối đa 250 dặm (400 km). Nhưng người Mỹ lại nói nó có tầm bắn lớn hơn nhiều. Năm 1987, Mikhail Gorbachev đề nghị với George Schultz rằng Liên Xô sẽ đơn phương loại bỏ tất cả các tổ hợp Oka, nếu Mỹ ngừng xây dựng lực lượng hạt nhân tầm gần ở châu Âu, mặc dù các tướng lĩnh quân đội Liên Xô rất ủng hộ Oka. Tuy nhiên Schultz không có thẩm quyền trong đề nghị này. Đã nổ ra các cuộc tranh cái ngoại giao về tổ hợp vũ khí này vào tháng 4/1990 khi Liên Xô thông báo cho Mỹ biết, họ đã bí mật chuyển giao ít nhất 120 tên lửa cho các đồng minh trong khối Vác-xa-va là Tiệp Khắc, Đông Đức và Bulgaria trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Hiệp ước lực lượng hạt nhân tầm trung. Người Nga chỉ chuyển giao các tên lửa với đầu đạn thông thường. Biến thể tên lửa Tên lửa 9M714B trang bị đầu đạn hạt nhân AA-60 (9N63) và tầm bắn tối đa đạt 500 km. Tên lửa 9M714F trang bị đầu đạn nổ mạnh-phá mảnh nặng 450 kg và tầm bắn tối đa đạt 450 km. Tên lửa 9M714K trang bị đầu đạn cỡ nhỏ 9N74K nặng 715 kg và tầm bắn tối đa đạt 300 km. Ngoài các đầu đạn trên, theo các báo cáo Oka còn có thể mạng đầu đạn hóa học. Quốc gia sử dụng Ghi chú Liên kết ngoài 9К714 "Ока" (Russian Global Security: SS-23 Spider Komplex 9K714 Oka (Czech) 9K714 "Oka" (German) Tên lửa đường đạn chiến dịch chiến thuật Tên lửa chống tăng Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh
wiki
Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Úc (), thường gọi là Đại sứ quán Nam Việt Nam tại Úc, là cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam) tại thủ đô Canberra của Úc. Sau khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại sứ quán buộc phải đóng cửa vào ngày 5 tháng 5 cùng năm. Lịch sử Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Úc thành lập vào tháng 8 năm 1961, cho đến ngày 5 tháng 5 năm 1975 thì bị buộc phải đóng cửa. Danh sách Đại sứ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Úc (1961–1975) Tháng 8 năm 1959, Úc thăng chức đặc phái viên thường trú của mình từ công sứ lên đại sứ. Tháng 8 năm 1961, Việt Nam Cộng hòa cho mở Đại sứ quán tại Úc. Xem thêm Quan hệ Úc – Việt Nam Đại sứ quán Việt Nam tại Canberra Đại sứ quán Úc tại Việt Nam Cộng hòa Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao ở Úc Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa ở nước ngoài Tham khảo Canberra Quan hệ Úc – Việt Nam Khởi đầu năm 1961 ở Việt Nam Chấm dứt năm 1975 ở Việt Nam Cơ quan chính phủ thành lập năm 1961 Cơ quan chính phủ chấm dứt năm 1975 Cơ quan đại diện ngoại giao tại Canberra Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại nước ngoài
wiki
Fukyūgata (kanji: 普及型) là tên gọi chung cho hai bài Fukyūgata Ichi (普及型ー) và Fukyūgata Ni (普及型二) là những bài kata dùng để huấn luyện môn sinh mới nhập môn của một số lưu phái Karate. Nhận thấy các bài kata cổ truyền rất khó đối với môn sinh mới, năm 1940, một đại hội Karate Okinawa đã đề xuất việc cần biên soạn một vài bài kata rất cơ bản. Năm 1941, Nagamine Shoshin, người sáng lập lưu phái Matsubayashi-ryū đã sáng tác bài Fukyūgata Ichi. Miyagi Chojun, người sáng lập lưu phái Gōju-ryū, là người sáng tác ra bài Fukyūgata Ni (phái Gōju-ryū gọi bài này bằng tên Gekisai Daiichi) vào khoảng năm 1940. Việc đặt tên hai bài lần lượt là Ichi (một) và Ni (hai) là dựa vào mức độ dễ luyện của chúng. Bài Fukyūgata Ichi có 21 động tác, còn bài Fukyūgata Ni có 19 động tác. Sau khi đã thành thục các bài Fukyūgata, môn sinh có thể chuyển sang luyện các bài kata cơ bản khác khó hơn như Naifanchi, Sanchin hay Pin'an. Tham khảo Liên kết ngoài Website chính thức của Câu lạc bộ Suzucho KarateDo Đại Học Đà Nẵng Mô tả các động tác của Fukyugata Ichi Mô tả các động tác của Fukyugata Ni Video bài Fukyugata Ichi Video bài Fukyugata Ni Kata trong Karate
wiki
RER là hệ thống giao thông công cộng đường sắt nối Paris với vùng ngoại ô. Trong tiếng Pháp, RER được viết tắt của « Réseau express régional », có nghĩa Mạng lưới tốc hành vùng. « Réseau express régional » có ở nhiều thành phố khác như Lyon, Brussel, nhưng cách viết tắt RER thường được dùng để nói về hệ thống của Paris. RER là một phương tiện giao thông gộp giữa các tuyến ngoại ô đã có trước đó với một hệ thống đường ngầm, kích thước lớn hơn và cũng thường hiện đại hơn, chạy ngang qua trung tâm thành phố. Vào giờ thấp điểm, các RER có 10 đến 15 phút một chuyến tại các vùng cách Paris 15 tới 20 km. Ở các vùng xa hơn, 40 tới 50 km, khoảng thời gian giữa hai chuyến từ 20 đến 30 phút. Vào giờ cao điểm, số chuyến thường được tăng gấp đôi. Trong nội ô Paris, RER như một hệ thống bên cạnh, kết hợp với métro. Xuất hiện sau, các ga của RER thường nằm sâu và rộng hơn so với ga métro. Năm 2008, hệ thống RER gồm 5 tuyến: A, B, C, D và E. Khác với métro, trong 587 km đường của RER chỉ có 76,5 km chạy ngầm dưới đất, chủ yếu trong nội ô thành phố. Toàn bộ hệ thống có 256 điểm đỗ với 33 nhà ga nằm trong Paris. Tuyến mới nhất của RER, đường E, được hoàn thành năm 1999 và hiện nay, hệ thống vẫn tiếp tục được mở rộng. RER của Paris được cả hai công ty RATP và SNCF chia sẻ quản lý, trong đó SNCF chiếm giữ phần lớn. Các điểm tàu chuyển từ khu vực của công ty này sang khu vực của công ty khác được gọi là « interconnexion ». Điều này chỉ có ý nghĩa về mặt quản lý. Đối với hành khách, RER và các hệ thống giao thông công cộng khác của Paris đều được dùng chung vé và giá cả chỉ phụ thuộc vào vùng (zone) đi lại. Lịch sử Nguồn gốc của RER có thể thấy ở đồ án của Ruhlmann-Langewin, thuộc Công ty Đường sắt Paris (Compagnie du chemin de fer métropolitain de Paris - MP), vào năm 1936 cho một hệ thống tàu điện ngầm khổ đường rộng. Tuyến Sceaux, ngày nay là RER B về hướng Robinson, được Công ty Đường sắt Paris-Orléans nhượng lại cho Công ty Đường sắt Paris vào năm 1938, sau khi đã hiện đại hóa. Xây dựng Sau Thế chiến thứ hai, đồ án này được RATP, công ty nối tiếp của CMP, tiếp tục vào thập niên 1950. Năm 1960, một ủy ban liên bộ đưa ra ý tưởng xây dựng tuyến đường sắt Đông-Tây với khổ rộng hơn. Ngày 6 tháng 7 năm 1961, tuyến đường bắt đầu được xây dựng ở Neuilly-sur-Seine. Nhưng phải đợi tới năm 1965, theo Đồ án cải tạo lại vùng đô thị Paris - SDAURP, hệ thống đường sắt này mới thực sự được định hình. Đồ án SDAURP dự kiến ba tuyến chính, tổng cộng 260 km: Tuyến nối Nanterre với Vincennes, ngang qua khu vực La Défense, bến Auber, Châtelet và Gare de Lyon. Tuyến nối từ giữa hai đô thị vệ tinh Saint-Denis và Stains ở phía Bắc với Évry, Corbeil ở phía Nam. Trong Paris, tuyến đường này sẽ đi qua Gare du Nord, Gare de l'Est và khu vực Gare de Lyon, ga Austerlitz. Tuyến thứ hai nối Val-d'Oise với Massy, ngang qua các ga Saint-Lazare, Invalides và Montparnasse trong Paris. Ngày 12 tháng 12 năm 1969, bến đầu tiên sử dụng tên RER được khách thành tại trạm Nation - vốn đã có các đường tàu điện ngầm trước đó - và mở cửa ngày 14. Vài tuần sau đó, các đường RER tiếp tục được mở cửa ở Étoile và La Défense. Việc nối giữa hai tuyến Đông và Tây được thực hiện vào 9 tháng 12 năm 1977 với trạm trung tâm Châtelet-les-Halles. Bên tả ngạn, tuyến Sceaux cũng được nối dài tới Luxembourg. Hai tuyến RER được mang tên A và B và sau đó, 6 trạm tiếp tục được mở, nằm hoàn toàn dưới lòng đất, rộng hơn so với các bến métro. Mở rộng Trong giai đoạn 1977 tới 1983, hệ thống RER tiếp tục được mở rộng. Công ty SNCF giành được quyền mở ra các tuyến C, D và E ngày nay. Các nhà ga Invalides và Orsay vốn là đường cụt, ngắt quãng một đoạn 814 mét. Từ những năm 1930 đã có những ý định nối hai ga này bằng đường hầm, nhưng Thế chiến thứ hai khiến dự án không được thực hiện. Đến cuối năm 1964, bộ trưởng Bộ Giao thông quay lại với dự án, cho xây dựng một hầm ngầm bên bờ trái sông Seine, phía trước Palais Bourbon và trụ sở Bộ Ngoại giao. Việc nối được thực hiện vào ngày 26 tháng 9 năm 1979, tuyến Versailles được nâng cấp, hiện đại hóa thành tuyến RER C. Tiếp sau đó, tháng 5 năm 1980, tuyến còn kéo dài tới xã mới Saint-Quentin-en-Yvelines. Tham khảo Giao thông Paris Giao thông Île-de-France
wiki
Nguyễn Văn Chánh (1945 – 26 tháng 9 năm 2020) là một sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tá, nguyên Phó chỉ huy trưởng động viên Ban chỉ huy quân sự quận Thủ Đức, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 23 tháng 11 năm 1969. Cuộc đời Nguyễn Văn Chánh sinh năm 1945 tại xã Ninh Quới, huyện Hồng Dân, tỉnh Minh Hải. Ông nhập ngũ từ tháng 9 năm 1964 và không lâu sau thì được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi nhập ngũ, dù chiến đấu ở nhiều nơi có hoàn cảnh khó khăn thì ông vẫn lập được nhiều thành tích như diệt được nhiều quân nhân Mỹ, bắn cháy 8 xe tăng, xe bọc thép và thu được 2 súng. Ngày 21 tháng 7 năm 1967, trong một trận đánh với đoàn xe cơ giới trên đường số 2, ông đã chỉ huy trung đội mình tiêu diệt 5 xe, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị tiến lên tiêu diệt 26 xe khác. Trong trận tấn công vào Sân bay Biên Hòa ngày 31 tháng 1 năm 1968, ông tiếp tục diệt được 1 xe quân sự của Mỹ. Đến trận Chà Là vào ngày 21 tháng 8 cùng năm, ông đã chỉ huy trung đội diệt được 12 xe quân sự, riêng ông là 4 chiếc. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân lúc đang là Đại đội phó Đại đội 6 bộ binh thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5, Sư đoàn 5. Ngày 26 tháng 9 năm 2020, ông qua đời, thọ 75 tuổi. Khen thưởng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Huân chương Chiến công hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng. Tham khảo Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam
wiki
Sanandaj ( Sine; ) là thủ phủ của tỉnh Kurdistan ở Iran. Với dân số 414,069, Sanandaj là thành phố lớn thứ hai mươi ba ở Iran và là thành phố lớn nhất thứ hai của người Kurd. Sự thành lập của Sanandaj khá gần đây, (khoảng 400 năm trước), nhưng dưới sự tồn tại ngắn ngủi của nó, nó đã phát triển để trở thành một trung tâm của văn hóa người Kurd. Ngôn ngữ nói trong thành phố là Kurdish, nhưng ngôn ngữ được sử dụng trong trường học và văn phòng là Ba Tư, là ngôn ngữ chính thức trong Iran trong đó hầu hết mọi người trong thành phố là thông thạo. Thành phố Sanandaj ban đầu được gọi là Saneh, và vì nó nằm gần một lâu đài quan trọng nên sau này được gọi là Sanehdaj , nghĩa là lâu đài dưới chân núi. Điều này có lẽ đã biến thành Sanandaj theo thời gian. Con số 46 được người dân Sanandaji coi là một con số rất xấu và không may mắn vì nó đã trở thành một vấn đề nan giải ở Sanandaj Tham khảo Liên kết ngoài Populated places in Sanandaj County Iranian provincial capitals Cities in Kurdistan Province
wiki
Skarn hay skacnơ là những silicat có chứa calci. Skarn chủ yếu được hình thành trong đới tiếp xúc giữa các xâm nhập mácma granit vào các đá trầm tích cacbonat như đá vôi và doloston. Nước mang nhiệt từ mácma granit chứa nhiều silica, sắt, nhôm, và magnesi. Dung dịch này hòa trộn trong đới tiếp xúc làm hòa tan các đá cacbonat giàu calci, và biến đá cacbonat ban đầu thành các tích tụ skarn. Đá biến chất được hình thành có thể bao gồm nhiều tập hợp khoáng vật khác nhau phụ thuộc phần lớn vào thành phần ban đầu của dung dịch mácma và độ tinh khiết của các đá trầm tích cacbonat. Hình thành Skarn thuộc nhóm đá silicat calci và liêu quan đến sự xâm nhập của granit thường là granit kiểu S (nguồn góc biến chất từ vỏ hay trầm tích). Skarn hiếm thấy trong các loại đá granit kiểu khác, do đặc điểm hóa của dung dịch và ứng xử kết tinh của kiểu M (nguồn từ manti) và kiểu I (nguồn gốc biến chất xâm nhập mácma). Granit kiểu S có khả năng tạo ra chất lỏng ở pha cuối giàu silica, các nguyên tốc không tương thích và halide do chúng thường chứa nhiều kali, bị oxy hóa và ngậm nước. Exoskarn được hình thành khi chất lỏng còn lại từ quá trình kết tinh của granit tách khỏi khối đá ở giai đoạn cuối của sự thay thế. Khi các chất lỏng này tiếp xúc với đá phản ứng, thường là các đá cacbonat, như limestone hay dolostone, các chất lỏng phản ứng với chúng tạo ra các đá biến chất trao đổi. Do các chất lỏng này mang các chất ở dạng hòa tan của silica, sắt, kim loại, halide. lưu huỳnh nên đá được thành tạo thường có sự kết hợp phức tạp của các khoáng vật giàu calci, magnesi và cacbonat. Tích tụ quặng Skarn thường là đá chứa các quặng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, molypdem, thiếc, và wolfram. Các ví dụ về các mỏ skarn nổi tiếng: Mỏ Pine Creek (tungsten), Quận Inyo, California, USA Mỏ Ok Tedi (vàng và đồng), Western Province (Papua New Guinea) Mỏ Avebury (Nickel), Zeehan, Tasmania, (Australia) Tham khảo Đá biến chất
wiki
Hồng Vân là một xã thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Địa lý Xã Hồng Vân nằm ở phía đông của huyện Thường Tín, cách trung tâm thành phố Hà Nội 18 km về phía nam, với chiều dài hơn 4,5 km, chiều rộng khoảng 2 km, có vị trí địa lý: Phía bắc giáp xã Ninh Sở Phía nam giáp xã Thư Phú Phía tây giáp xã Vân Tảo Phía đông giáp sông Hồng Phía đông nam giáp xã Tự Nhiên. Địa hình Là một xã đồng bằng, địa hình của xã phân bố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, thuận lợi cho việc tưới tiêu chủ động. Địa hình nhìn chung bằng phẳng, độ cao giữa các phần lãnh thổ chênh lệch không đáng kể. Khí hậu Xã Hồng Vân cũng như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm 23,80C Nhiệt độ trung bình cao nhất 35 °C - 370C (tháng 6 - tháng 8), thường kèm theo mưa to. Nhiệt độ trung bình thấp nhất có năm xuống dưới 100C (tháng 12 đến tháng 1), có khi kèm theo sương muối. Gió: Hướng gió chủ đạo: gió Đông Nam về mùa hè, gió Đông Bắc về mùa đông. Vận tốc gió trung bình 2 m/s. Bão: Xã ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, chủ yếu ảnh hưởng gây mưa lớn, hàng năm thường có 5-7 cơn bão gây mưa lớn. Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm thường từ 1.600– 1.800 mm. Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí trung bình năm là 83%, thấp nhất trung bình là 80%(tháng 1), cao nhất trung bình là 88% (tháng 3). Nắng: Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.600 - 1.800 giờ/năm. Dân số Quy mô dân số: tại thời điểm 31/12/2011 có 1.244 hộ bằng 5.364 người. Lao động Tổng lao động toàn xã: 3.210 người trong độ tuổi, chiếm 60% dân số. Dân trí: không có nạn mù chữ, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt 100%. Đất đai: Quy mô đất: 421,56.ha. Hành chính Xã Hồng Vân được chia thành 6 thôn: Xâm Thị, Xâm Xuyên, Cơ Giáo, Cẩm Cơ, La Thượng, Vân La. Một số địa chỉ Đền Xâm Thị Lữ đoàn công binh vượt sông 239 - Bộ tư lệnh Công binh (Lữ đoàn trưởng: Đại tá Phùng Quang Nam, 2011: Thượng tá Phùng Ngọc Sơn) Cảng Hồng Vân Trạm bơm Hồng Vân Bến đò Mễ Sở sang Văn Giang - Hưng Yên Làng nghề sinh vật cảnh Xâm Xuyên Những nét độc đáo riêng của xã Hồng Vân: Tên gọi: Hồng Vân có nghĩa là mây hồng. Truyền thuyết kể rằng khi xưa, Tiên Dung và Chử Đồng Tử đi khắp nơi để cứu giúp người nghèo.Đến địa phận xã thấy cảnh đẹp và xuất hiện một đám mây, bèn hạ xuống nghỉ và dân chúng bèn ra cảm tạ. Hai người đã đặt tên cho xã như vậy. Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử: Hồng Vân có nhiều di tích lich sử được xếp hạng như chua và đình Xâm Xuyên, Xâm Thị. Bếm phà 2- Nơi ghi dấu chân của Bác Hồ và nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của nhà nước về thăm vào năm 1966 Chợ mới ông già - Theo truyền thuyết được coi là chợ mà khi xưa cha của Chử Đồng Tử đã ngổi dưới gốc đa để bán cá và người dân cũng theo đó mà đem các thứ ra bán theo, lâu ngày thành chợ.Tên chợ được người dân đặt cho là để nhớ ơn người đã tạo ra chợ. Ngày nay chợ đã được xây mới, song người dân của thôn Vân La vẫn Tự hào về truyền thuyết về sự ra đời của chợ vì nếu đúng như vậy thì đây sẽ là Chợ cổ nhất Việt Nam. Cơ cấu kinh tế Năm 2011 tổng thu nhập xã Hồng Vân đạt 80 tỷ đồng (Nông nghiệp 17,5 tỷ đồng; CN-TTCN-XD 24,5 tỷ đồng; Thương mại-Dịch vụ đạt 38 tỷ đồng). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ nhưng giảm chậm. Cụ thể: Nông nghiệp 21,88%; CN-TTCN-XD 30,63%; Thương mại, dịch vụ 47,5%. Tình hình phát triển các ngành kinh tế * Nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp hàng hóa đang từng bước phát triển. Trong ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo xu thế giảm tỷ trọng ngành thủy sản từ 31,55% năm 2005 xuống còn 25,71% năm 2011. Chăn nuôi tăng từ 41,26% năm 2005 lên 45,71% năm 2011, tỷ trọng của ngành trồng trọt có tăng nhưng không đáng kể.. * Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng Giá trị sản xuất CN – TTCN – XD giảm nhưng không đáng kể. Tỷ trọng ngành  CN – TTCN – XD năm 2011 đóng góp 30,63% thu nhập trên địa bàn. Các ngành nghề chủ yếu: Nghề trồng cây cảnh, xây dựng, gò hàn, xay xát, chế biến thực phẩm.... * Thương mại, dịch vụ, du lịch Thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế địa phương. Năm 2011 tỷ trọng ngành thương mại dịch vụ là 47,5%. Thu nhập ngành thương mại dịch vụ đạt 38 tỷ đồng.  Năm 2014, Hồng Vân đã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí NTM, được UBND Thành phố Hà Nội công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 Tham khảo
wiki
Stepan Ivanovich Lyubarsky (; 27 tháng 12 năm 1896, Peski, tỉnh Grodno - 16 tháng 4 năm 1945, gần thành phố Forst, Đức) là một chỉ huy quân sự Hồng quân Liên Xô, hàm Trung tướng, hy sinh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Trong những năm chiến tranh, ông đã tham gia trận chiến gần Moskva, các chiến dịch Bolkhov, Spas-Demensk, Smolensk, Rogachev-Zhlobin, Carpathian-Uzhgorod, Thượng và Hạ Silesia. Tiểu sử Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông làm việc ở vùng nông thôn, tại một nhà máy vải ở Białystok. Năm 1915, theo lệnh động viên, ông bị bắt vào quân đội Nga hoàng. Tháng 2 năm 1918, ông tình nguyện gia nhập Hồng quân. Trong những năm nội chiến, ông đã thăng tiến từ một đại đội trưởng lên chỉ huy Trung đoàn súng trường số 9 Turkestan. Năm 1929, ông vào Học viện Quân sự Frunze, từ năm 1936, ông học tại Học viện Bộ Tổng tham mưu. Ông là tác giả của một số sách giáo khoa và một trong những chuyên khảo quân sự đầu tiên của Liên Xô tổng kết kinh nghiệm của Nội chiến Tây Ban Nha. Năm 1939, ông được điều động chiến đấu trong Chiến dịch Khalkhyn Gol. Từ năm 1940, ông là phó trưởng phòng, trưởng phòng Tổng cục huấn luyện chiến đấu của Hồng quân, cấp bậc Lữ đoàn trưởng (kombrig). Năm 1941, Trưởng phòng tác chiến Bộ chỉ huy Quân khu. Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại nổ ra, ông được bổ nhiệm làm phó tham mưu trưởng Cụm quân dự bị của Bộ Tổng tư lệnh, từ tháng 7 năm 1941 - Trưởng phòng Tác chiến của Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây. Từ ngày 13 tháng 12 năm 1941 đến ngày 23 tháng 4 năm 1944, ông là Tham mưu trưởng Tập đoàn quân 10. Ngày 2 tháng 1 năm 1942, ông được phong quân hàm Thiếu tướng, ngày 22 tháng 2 năm 1944, thăng Trung tướng. Từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 5 tháng 5 năm 1944, ông là Tham mưu trưởng Phương diện quân Belorussia 2. Tuy nhiên, do thất bại chiến trường cùng với sự dèm pha của Mehlis, ông bị cách chức cùng với Tư lệnh phương diện quân Petrov. Từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 20 tháng 11 năm 1944, ông là Tham mưu trưởng Tập đoàn quân độc lập Duyên hải Ngày 7 tháng 12 năm 1944 đến ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân cận vệ 3, dưới quyền Tư lệnh của Thượng tướng Vasily Gordov. Tập đoàn quân tác chiến trên hướng tấn công chính của Phương diện quân Ukraina 1, dưới quyền của Tư lệnh phương diện quân, Nguyên soái Liên Xô Ivan Konev, trong chiến dịch Berlin. Ông hy sinh ngày 16 tháng 4 năm 1945 khi băng qua sông Neisse gần thành phố Forst (Đức). Lễ tang của Lyubarsky diễn ra tại nghĩa trang Lychakiv với tất cả danh dự quân đội. Tro cốt di hài được chuyển đến thành phố Lvov, an táng trên Đồi Vinh quang. Giải thưởng quân sự Huân chương Cờ đỏ (20/02/1928) Huân chương Lenin 3 Huân chương Cờ đỏ Huân chương Sao đỏ Huân chương Suvorov hạng 2 Huân chương Kutuzov hạng 1. Khảo luận Любарский С. И. Некоторые оперативно-тактические выводы из опыта войны в Испании. — М.: Воениздат, 1939. — 72 с. (электронные каталоги РНБ ) Tưởng niệm Theo quyết định của Ủy ban điều hành Hội đồng thành phố Berezovsky vào tháng 12 năm 1967, phố Severnaya được đổi tên thành phố Lyubarsky thuộc thị trấn Bereza. Tại quê hương của vị tướng ở làng Peski, một tượng đài đã được khánh thành về ông. Chú thích Liên kết ngoài Lyubarsky S.I. Nhiếp ảnh và tiểu sử http://will-remember.ru/familii_na_l/lyubarskii_stepan_ivanovich.htm Huân chương Cờ đỏ Trung tướng Liên Xô Huân chương Lenin Huân chương Sao đỏ Huân chương Suvorov Huân chương Kutuzov
wiki
Krzyżowa (, cho đến năm 1930: Creisau) là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina widnica, thuộc hạt Świdnica, Lower Silesian Voivodeship, ở phía tây nam Ba Lan. Nó nằm trong khu vực Lower Silesia lịch sử, khoảng 10 km về phía đông nam của Świdnica và 51 km về phía tây nam thủ đô khu vực Wrocław. Ngôi làng có dân số xấp xỉ 220. Ngôi làng này là nơi đặt Trung tâm Hội nghị Thanh niên Quốc tế, nơi chủ yếu đưa thanh niên Ba Lan và Đức đến với nhau để đối thoại và các chương trình giáo dục. Lịch sử Việc giải quyết trong Silesian Duchy of Jawor -Świdnica được đề cập lần đầu tiên trong chứng thư 1335. Giống như hầu hết Silesia, khu vực Krzyżowa đã bị vua Phổ Frederick Đại đế sáp nhập sau Chiến tranh Silesian đầu tiên năm 1742. Trang viên được mua bởi nguyên soái người Phổ Helmuth von Moltke the Elder sau Chiến tranh Austro-Prussian năm 1866, và từ đó, tài sản rộng lớn này là cơ ngơi của gia đình quý tộc Moltke cho đến năm 1945. Các thành viên của nhóm kháng chiến chống phát xít Kreisau Circle đã gặp nhau tại khách sạn, do ông cố của Helmuth von Moltke, ông Helmuth James Graf von Moltke, người bị xử tử vì tội phản quốc Đức vào tháng 1/1945. Sau Thế chiến II, tài sản được sử dụng làm trang trại và ngày nay, những ngôi nhà đơn lẻ mang những cái tên như chuồng bò hoặc chuồng. Vào ngày 12 tháng 11 năm 1989, Thủ tướng Ba Lan Tadeusz Mazowiecki và Thủ tướng Liên bang Đức Helmut Kohl đã tổ chức một cuộc họp hòa giải ở đó và quyết định tái phát triển tài sản thành Trung tâm Hội nghị Thanh niên Quốc tế. Việc cải tạo chủ yếu được tài trợ bởi "Tài trợ cho sự hiểu biết Đức-Ba Lan". Năm 1998, Trung tâm chính thức được khai trương. Những người tham dự lễ khai mạc bao gồm góa phụ của Helmuth James Graf von Moltke, Freya von Moltke, và người khởi xướng Helmut Kohl. Trung tâm được biết đến với cái tên Międzynarodowe Centrum Spotkań Młodzieży trong tiếng Ba Lan và là Quốc tế Jugendbegegungungststttttt Kreisau trong tiếng Đức. Khách sạn có một vài hecta đất, nhiều phòng thoải mái cho các nhóm thanh niên cũng như cho khách riêng, một phòng ăn (trong một chuồng bò cũ), một quán cà phê, phòng thể thao và sân thể thao, phòng hội nghị (với sự sắp xếp dịch thuật đồng thời) như phòng tiệc (với bóng bàn và hồ bơi). Một lâu đài được khôi phục có chứa một tác phẩm triển lãm trên Vòng tròn Kreisau cũng nằm ở đó. Xem thêm Quốc tế Jugendbegegnungsstätte Kreisau (bài viết của Đức về Trung tâm). Trung tâm Hội nghị Thanh niên Quốc tế tại Oświęcim / Auschwitz (một trung tâm hội nghị giới trẻ thứ hai ở Ba Lan). Międzynarodowe Centrum Spotkań Młodzieży (bài viết của Ba Lan về Trung tâm). Tham khảo Đọc thêm Liliana Sadowska & Izabela Taraszczuk: Genius loci als guter Geist. Trinationales Studentenkolloquium zum Widerstand ở Kreisau, bài viết về một hội nghị sinh viên về phong trào kháng chiến ở Pháp, Đức và Ba Lan trong thế kỷ 20 (3-8 tháng 11 năm 2007 tại Krzyżowa), "Kulturpolitische Korronymousenz", ấn bản nr 1253, 10.03.2008, St Ostdeutscher Kulturrat, Bon (Đức). Liliana Sadowska & Izabela Taraszczuk: Arlingtonko-niemiecko-francuskie spotkanie studentów - Krzyżowa - 3-8 listopada 2007 r., bài viết từ "Uniwersytet Zielonogórski", ấn bản tháng 2 năm 2008, tr. 26-27 (Ba Lan). Liên kết ngoài Tổ chức từ thiện được thành lập bởi Freya von Moltke, một thành viên của Vòng tròn Kreisau và là góa phụ của Helmuth James Graf von Moltke. Toàn cảnh Cung điện Moltke 360 °
wiki
"Survivor" (Tạm dịch: "Sống sót") là một ca khúc được trình diễn bởi nhóm nhạc R&B người Mỹ Destiny's Child, được viết và sáng tác bởi thành viên Beyoncé Knowles, Anthony Dent, và Mathew Knowles, trích từ album phòng thu thứ ba của nhóm là Survivor (2001). Ca khúc này đã giúp nhóm nhận được giải "Trình diễn Song ca hoặc Nhóm nhạc R&B Xuất sắc nhất" tại lễ trao giải Giải Grammy năm 2002. Video ca nhạc của bài hát cũng dành khá nhiều thành công khi thắng giải MTV Video Music Award 2001 cho Video R&B Xuất sắc nhất, cùng một giải Soul Train Lady of Soul Award cho "Đĩa đơn R&B/Soul Xuất sắc của một Nhóm, Ban nhạc hay Song ca". Ca khúc còn được thu âm lại bởi ca sĩ-nhạc sĩ Jill Sobule và bài hát này nằm trong album của cô là The Folk Years 2003-2003 (2004). Sau đó, nghệ sĩ nhạc rap Vanilla Ice cũng đã trình diễn một phiên bản rap của ca khúc trong album năm 2005 của mình là Platinum Underground. Bối cảnh Vào năm 1999, hai thành viên của Destiny's Child là LaTavia Roberson và LeToya Luckett đã rời khỏi nhóm, hai thành viên còn lại là Beyoncé Knowles và Kelly Rowland đã thay thế hai thành viên mới là Michelle Williams và Farrah Franklin. Nhưng sau đó, Franklin cũng đã rời khỏi nhóm nhạc. Theo Knowles, nhóm đã lấy ý tưởng từ chương trình Survivor, và giúp cô "viết về những sự tranh cãi của chúng tôi." Ngoài ra, ca khúc cũng được kênh Black Entertainment Television chọn là ca khúc hay nhất thập niên 2000 với vị trí #10. Video ca nhạc Video của bài hát được trình chiếu trên chương trình "MTV - Making the Video". Nội dung của video được thể hiện rõ ở khúc dạo đầu khi các cô gái bị đắm tàu và bị trôi vào bờ, sau nhóm đã thức dậy lạc vào một hòn đảo kì bí. Video này đồng thời cũng nằm trong bộ đĩa #1's, và nằm trong phiên bản quốc tế của album Survivor và trong DVD độc quyền tại Wal-Mart mang tên Bộ đĩa dành cho Người hâm mộ. Video phối lại sau đó cũng đã phát hành với sự xuất hiện của Da Brat nhưng không được xuất hiện trong bất cứ tuyển tập video nào. Diễn biến trên bảng xếp hạng "Survivor" lần đầu xuất hiện tại vị trí #43 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành vị trí xuất hiện cao nhất của nhóm hiện tại, chỉ sau "Lose My Breath" với vị trí #30, và đã nhanh chóng tăng hạng với vị trí á quân chưa đầy một tháng. Nhưng đây vẫn chưa đánh bại kỷ lục của đĩa đơn thành công "All For You" trình bày bởi Janet Jackson. Ca khúc đồng thời cũng đứng đầu bảng Billboard Hot Dance Music Maxi-Singles Sales đến tám tuần liền nhưng chỉ vươn lên vị trí số năm trên Hot R&B/Hip-Hop Singles & Tracks. Sau đó, ca khúc cũng đã giành lấy vị trí quán quân trên bảng Hot 100 Airplay đến năm tuần liền và vị trí thứ 3 trên Hot 100 Singles Sales. Tại Anh, "Survivor" cũng vươn lên vị trí đầu bảng cùng 290,000 bản được tiêu thụ. Ca khúc cũng đứng đầu tại Ireland, Hà Lan, và Nhật Bản. Ngoài ra, ca khúc cũng đứng đầu bảng United World Tracks đến năm tuần liền cùng vị trí thứ nhất tại Canada, vị trí thứ nhì tại New Zealand, trong top 5 ở Úc, Đức, và vị tri #12 tại Pháp. Tranh cãi Hai thành viên cũ của nhóm là LeToya Luckett và LaTavia Roberson đã kiện Knowles, Rowland, và người quản lý cũ Mathew Knowles vì tội ám chỉ họ trong ca khúc này khi có những lời nhạc như "You thought I wouldn't sell without you/sold nine million" (Tạm dịch: "Mấy người tưởng tôi sẽ không bán đĩa được nếu không có các người ư/bán chín triệu đĩa"), họ cho rằng nhóm đã vi phạm thỏa thuận giữa hai bên khi xâm phạm đến họ trong ca khúc này. Phiên bản cover Một bản thu lại với tốc độc nhanh của ca khúc do nhóm Nancy And The Boys trình bày đã xuất hiện trong Dancemania Speed 7, phát hành tại Nhật cuối năm 2001. Nhóm nhạc alternative rock người Đức, Die Happy đã thu âm lại ca khúc này trong album 2003 của họ là Red Box. Ban nhạc deathcore Betraying The Martyrs cũng đã phát hành đĩa đơn hát lại của "Survivor" và trở thành đĩa đơn duy nhất của nhóm năm 2010. Zebrahead sau đó đã trình diễn ca khúc trong album Panty Raid. Bản gốc của ca khúc còn xuất hiện trong video game "Elite Beat Agents". Những người thực hiện Giọng chính: Beyoncé Knowles, Kelly Rowland, và Michelle Williams (hát bè 2 lời, 1 điệp khúc) Sản xuất thanh nhạc: Kelly Rowland và Mathew Knowles Xếp hạng Định dạng và các bản phối lại Đĩa đơn Maxi tại Úc 670780 2 "Survivor" (Phiên bản của Album) "So Good" (Maurice's Soul Remix)1 "So Good" (Digital Black-N-Groove Club Mix)1 "Independent Women Part I" (Joe Smooth 200 Proof 2 Step Mix) Bản phối nhạc Dance tại Mỹ 44K 79566 "Survivor" (Remix/Bản mới cùng Da Brat) "Survivor" (Calderone Club Mix) [hay có tên "Victor Calderone Club Mix"] "Survivor" (Calderone Drum Dub Mix) "Survivor" (CB200 Club Anthem Mix) "Survivor" (Azza'z Soul Remix) Đĩa đơn Maxi tại châu Âu COL 670749 2 "Survivor" (Phiên bản của Album) "Survivor" (Azza'z Soul Remix Radio Edit) "Survivor" (Digital Black-N-Groove Radio Mix) "Survivor" (CB200 Club Anthem Mix) Đĩa đơn tại Anh Phần I COL 671173 2 "Survivor" (Phiên bản của Album) - 4:14 "Survivor" (Azza'z Soul Remix Radio Edit) - 3:56 "Survivor" (Victor Calderone Club Mix) - 9:26 Đĩa đơn tại Anh Phần II COL 671173 5 "Survivor" (Jameson Full Vocal Remix) - 6:19 "Independent Women Part 1" (Trực tiếp tại giải Brits 2001) - 3:52 "So Good" (Maurice's Soul Remix)1 - 7:35 Video nhóm trình diễn Independent Women Part 1 tại The Brits 2001 Ghi chú 1 Những bản phối của "So Good" gồm những bản thu mới, khác hoàn toàn với Phiên bản của Album. Phiên bản chính thức "Survivor" (A cappella) "Survivor" (Nhạc nền) "Survivor" (Azza'z Soul Remix) "Survivor" (Azza'z Soul Remix/Phiên bản chỉnh của Đài phát thanh) "Survivor" (CB2000 Club Anthem Mix) * hay có tên (Josh Charlie Main Remix) "Survivor" (Digital Black-N-Groove Remix) * hay có tên (Josh Hard Main Remix) "Survivor" (Josh Hard Radio Remix) * "Survivor" (Jameson Full Vocal Remix) "Survivor" (Maurice's Soul Mix) * hay có tên (Josh Soul Main Remix) "Survivor" (Josh Soul Radio Remix) "Survivor" (Remix/Bản mới) (cùng Da Brat) "Survivor" (Richard Vission's V-Quest Remix) "Survivor" (Victor Calderone Mix) "Survivor" (Victor Calderone Drum Dub Mix) -* Những bản phối này gồm giọng thu lại của Michelle và Kelly, chịu trách nhiệm bởi Maurice Joshua. Chú thích Liên kết ngoài DestinysChild.com — Trang chính thức Đĩa đơn năm 2001 Bài hát của Destiny's Child Đĩa đơn quán quân Billboard Rhythmic Airplay Đĩa đơn quán quân tại Ireland Video âm nhạc do Darren Grant đạo diễn Bài hát về chủ nghĩa nữ giới Đĩa đơn quán quân tại Vương quốc Liên hiệp Anh Đĩa đơn quán quân tại Na Uy Bài hát năm 2000 Đĩa đơn của Columbia Records Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
wiki
Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt Bài làm Nông thôn và nông dân vốn là đề tài quen thuộc của thể loại truyện ngắn tưf xưa và nay. Dù ta phân loại dòng văn học tiểu thuyết theo phương diện nào cũng không thể bỏ qua dòng tiểu thuyết về nông thôn. Với đề tài đó, nhiều nhà văn đã trở nên nổi tiếng và học cũng đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Chẳng hạn trước Cách mạng tháng Tám có tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, rồi tác phẩm Con trâu của Trần Tiêu…Những tác phẩm này đã được viết với nội dung đơn giản nhưng mang tư tưởng khá sâu sắc. Trong số những nhà văn viết về nông thôn đó, có một người tuy viết sau và viết ít, nhưng khi tác phẩm vừa ra đời thì đã cho mọi người ưa thích và hoan nghênh. Đó chính là truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã viết rất chân thật và hết sức sắc sảo và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Thông thường một tác phẩm chỉ có thể đứng vững khi nhà văn có nội dung mới, cách nói mới. Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân cũng vậy. Trước hết, mới qua cái tựa đề Vợ Nhặt thôi mà nó cũng đã mang lớp ý nghĩa, nó gây cho độc giả một sự chú ý hết sức đặc biệt trước khi thưởng thức tác phẩm. Bởi xưa nay trên thế gian người ta nói là nhặt được cái này, cái nọ chớ có ai nói là nhặt được vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ vốn là một trong ba vịêc khó nhất đời của người đàn ông: “tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. Bởi vì việc dựng vợ, dựng chồng phần nhiều được tổ chức thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt đựơc cô vợ thì quả thật là việc bất ngờ, lý thú. Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái nhan đề Vợ nhặt mói nói đúng và sát với diễn biến câu chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó mà Kim Lân đã nói lên được thân phận con người lao động nông dân trong những năm bốn mươi lăm đói kém đến nỗi vợ mà người ta có thể nhặt được một cách dễ dàng như nhặt một cọng rơm, cọng cỏ vậy. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm đó chính là nghệ thuật dựng truyện. Đọc qua những trang truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân một sự tưởng tượng hết sức phong phú cứ gợi và diễn ra trong tâm trí của chúng ta. Một bức tranh nông dân trong những năm bị cái đói hoành hành của một phần tư đất nước, cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng kiến cái cảnh “ Cái đói đã tràn về” trẻ con vì đói khát mà “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích”. Trẻ em vì thế, người lớn phải trôi dạt nay đây mai đó. Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm hạt thóc… bởi thế nhữn góc tường, phố chợ người đói nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh tởm và đớn đâu khi có “cái mùi gây gây của xác người chết”. Kim Lân đã dân truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy nhưng về phương diện khác cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý nhân vật lại càng độc đáo hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang văn với đầy đủ những gì chân thật nhất của người nông dân – người nông dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt trên vai, dường như mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn”. Ôi tiếng “hắn” cái tiếng xưng gọi mà ta đã quen thuọc ở Chí Phèo của Nam Cao nay lại hiện lên trước mắt: “Hắn ngồi khóc, khóc rồi chửi, hắn chửi ai? Hắn chửi đời, chửi giời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những thằng cha mẹ nào đẻ ra hắn….” Tiếng hắn vẻn vẹn vậy thôi, ghê tởm ư? Thù ghét ư? Khinh bạc ư? Không! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên tiếng hắn với tất cả niềm đau xót, thương cảm,trân trọng. Ai đã một lần đọc Vợ nhặt,làm sao không xúc động và có thể quên đựơc một nhân vật – bà cụ Tứ – mẹ anh Tràng. Không biết được chuyện con mình – Tràng – nhặt đựơc vợ mang về tâm trạng của cụ diễn biến thật phong phú, phức tạp. Trong những ngày tháng bị cái đói bất hạnh, bà thấu hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vơ, dựng chồng cho con mình “phải làm thế này, thế nọ”. Nhưng trời ơi “ cái khó bó cái khôn”. Con người ta có thấu hiểu cái lo lắng đến đâu thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy, cụ Tứ chỉ biết nghĩ “tủi thân, tủi phận” mà thôi. Bà thương con mình rồi thương con dâu. Cun nhìn người đaà bà lòng đầy thương xót. Hỡi ơi! Có ai thấu hiểu cho cụ không? Tình thương yêu, sự đồng cảm, chịu đựng hoàn cảnh không chỉ riêng ai – cái đói cái khát – đã khiến lòng cụ không nghĩ gì khác, lờn nói đầy xúc động của cụ “Chúng mày lấy nhau lúc này”…thương quá! Sao nó mặn mà, sâu đậm đến vậy.Hoàn cảnh đói khát đến chết người vậy mà nổi lên cái nền ấy một khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền thống ngàn đời của dân tộc “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” đựơc Kim Lân gửi gắm qua những trang văn xúc động này. Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà cụ Tứ. Có cha mẹ nào không sung sướng, hạnh phúc khi con cái của mình đủ lông đủ cánh trải qua thời niên thiếu nay trưởng thành đã có vợ có chồng….Còn lo là lo vì hoàn cảnh hiện tại từ trước đến giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói hoành hành vốn đã khó đủ ăn nay thêm một miệng ăn lại càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui vẫn là phần nhiều “khuôn mặt bủng beo của bà rạng rỡ hẳn lên”, “bà cụ nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai sau này”, bà cố giấu nỗi lo để cho con dâu được vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn “nghẹn” lời. Bà vẫn tin tưởng ở con, ở tương lai rạng rỡ hơn. Một câu nói đầy tự tin cảu cụ “Tụi mày ráng bảo nahu mà làm ăn may ra trời cho khá hơn không…có ai giàu ba họ có ai khó ba đời đâu”. Quả là một sự tin tưởng hoàn toàn khách quan, có căn cứ, khó khăn rồi nhất định sung sướng, hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong Trời hửng thì cũng chẳng khác nào: Hết mưa là hửng nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế là như vậy, hình ảnh lá cờ đỏ tung bay cùng với đám người cướp kho thóc ở cuối truyện cũng hiện lên trong tâm trí Tràng đã mở ra một số phận nhân vật một khung trời mới đi làm cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như Cách mạng tháng Tám, Điện Biên Phủ sau này. Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự chuyển biến tâm lí, tinh tế Kim Lân đã thành công đáng kể với truyện ngắn Vợ Nhặt. Có thể với nhân vật, tình tiết câu chuyện đi qua số phận nhân vật là sự mở đầu cho ý thức đấu truanh, giác ngộ cách mạng. Dù chỉ thông qua một vài câu nói đến “lá cờ đỏ’, “Việt Minh” nhưng Kim Lân đã thành công được và không để cho số phận nhân vật mình tối tăm bế tắc như chị Dậu – anh Pha như Chí Phèo, anh kép Tư Bền…trước đó. Tóm lại, đồng cảm với Kim Lân, xót thương,c ảm thông cho những con người trong Vợ nhặt, ta hãy hát cùng Tố Hữu ca khúc vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam ngàn đời: Có gì đen trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau. Bài làm 2 Kim Lân đã có lần tâm sự “Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng” (Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học – NXB Tác phẩm mới, 1985) Với một ý đồ như thế, Kim Lân chọn nạn đói khủng khiếp năm Ất DẬu làm bối cảnh cho truyện thì quả là đắc địa. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện nói về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói tràn đến…” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người dân xứ Việt về một thảm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước ta. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối” nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc. Cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mất mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cung với “mùi gây gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống đến mức kinh khủng. Trong một bối cảnh như thế, Kim Lân đặt vào đó một mối tình thì quả thật là táo bao. Cứ như thủ thuật “trêu tức” của điện ảnh, Kim Lân tạo ra một “xen” thật bi hài. Khi cái dạ dày còn chưa đựơc đầy đủ thì ngay cái sản phẩm tinh thần kì diệu nhất của loài người là tình yêu cũng làm sao tránh được sự méo mó. Chao ôi, toàn chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh đúc ngày đoó mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày đói đủ làm cỗ tân hôn…Ngòi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn đuổi hiện thực đến đáy, tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu nát, ảm đạm, tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã. Nhưng quan tâm chính của nhà văn không phải là dựng nên một bản cáo trạng trong Vợ nhặt, mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân muốn toả sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về tình người toả ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết cảm động. Trong văn chương, người ta nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái tài không đại đến một mức độ nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được. Vợ nhặt cũng thế: tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện. Tài dựng truyện ở đây là tài bạo nên tình huống truyện độc đáo. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài phóng vấn, Kim Lân đã hào hứng giải thích: “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng, ngươờ ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc bán ngoài chợ – đúng là “nhặt đựoc vợ như tôi nói trong truyện “ (Báo văn nghệ số 19, ngày 8 -5- 1993 –tr5). Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: cái chủ thể của hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy đựoc vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho xóm làng, bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa: “cho đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải như thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.Tình huống tren gợi ra mọt trạng thái tinh tế của lòng người: trạng thán chông chênh khó nói – cái gì cũng chập chờn, như có như không. Đây là niềm vui hay nỗi buồn? Nụ cười hay nước mắt?…Cái thế đặc biệt của tâm trạng này đã khiến ngòi bút truyện ngắn của Kim Lân mang dáng dấp của thơ ca. Dựng truyện hay chưa đủ. Tài dựng truyện giống như tài của anh châm ngòi pháo. Có lửa đốt, châm đúng ngòi nhưng pháo có nhiều quả điếc thì vẫn cứ xịt như thường. Cho nên tài dựng truyện phải gắn với tài dẫn truyện nữa mới tạo sự sâu sắc, hấp dẫn. Tài dẫn truyện của Kim Lân thể hiện qua lối sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công, qua lời văn áp sát vào tận cái lõi của đời thực khiến mỗi câu chữ như được “bứng” ra từ chính cái ngồn ngộn của cuộc sống. Song quan trọng nhất vẫn là ở bút pháp hiện thực tâm lý. Phải nói, tình huống truyện trên kia thật đắc địa cho Kim Lân trong việc khơi ra mạch chảy tâm lý cực kỳ tinh tế ở mỗi nhân vật. Rất đáng chú ý là hai trường hợp: bà cụ Tứ và Tràng. Đây là hai kiểu phản ứng tâm lý trước một tình thế như nhau, song không ai giống ai. Trước hết là Tràng, một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể có thể coi là hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực bao giờ cũng gây một chấn động tâm lí lớn. Chấn động ở Tràng tạo một mạch tâm lí ba chặng. Khởi đầu là ngỡ ngàng. Hạnh phúc gây men ở Tràng thành cảm giác mới mẻ kì diệu. Cảm giác ấy hút lấy toàn bộ con người hắn: vừa lặn vào tâm linh (Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra) vừa tỏa ra, vật chất hóa thành cảm giác da thịt (Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng). Với cây bút hiện thực, những đoạn văn như thế đã đạt đến “thần bút”, vì trạng thái người viết như nhập vào làm một với trạng thái nhân vật (còn gọi là năng lực “hóa thân” trong văn xuôi, năng lực “nhập thần” trong thơ ca). Rồi cái ngỡ ngàng hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu tình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chẳng thế mà một người nổi tiếng như Tsecnưepxki từng mơ ước: “Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong một căn phòng nhỏ ấm áp nào đó, có một người đàn bà đang ngóng đợi tôi về ăn bữa tối”. Chàng thanh niên nghèo hèn của Kim Lân đã thực sự đạt được một niềm vui như thế: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng với vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn giấc mơ. Điều này thì anh Tràng của Kim Lân còn may mắn hơn Chí Phèo của Nam Cao: hạnh phúc đã nằm gọn tay Tràng, còn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối cướp mất. Có một chi tiết rất đắt của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng đã thực sự “phục sinh tâm hồn” – đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô Kiều xưa “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì táo bạo đấy mà vẫn cứ chênh vênh, đơn độc thế nào. Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin làm sao! Bình luận truyện Vợ nhặt, không hiểu sao có một câu rất quan trọng của Kim Lân mà mọi người cứ bỏ qua. Đó là câu kết truyện: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói lả và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930 – 1945 để bước tới phạm trù của nền văn học mới. Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại mà một số phận mới vẫn tiếp tục được mở ra. Cái “lá cờ đỏ” kia như tín hiệu của một sự đổi đời. Nhân vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. “Lá cờ đỏ” như gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo… Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống. Quá trình tâm lí của cụ Tứ có phần còn phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động theo kiểu gấp khúc, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu. Cũng như con trai, khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng. Anh con trai ngỡ ngàng trước một cái dường như không hiểu được. Cái cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu như một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? Rồi lại: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ”. Trái tim người mẹ có con trai lớn vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong ngòi bút Kim Lân? Không, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau của người viết: Chính sự cùng quẩn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đó. Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lí phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão “cúi đầu im lặng”. Cái thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó”, người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ “cúi đầu”, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần phơi phới. Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời mình, nghĩ đến tương lai của con… để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Trên đống buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên: Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kì diệu đó tỏa ra từ …nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất (xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: trong bất kì hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt. Con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng cay và nghẹn bùi”. Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái khá tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm. Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Ôxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những kẻ nghèo khổ, đã “biết sống” cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt. Thông điệp của Kim Lân đã được chuyển hóa thành một thiêng truyện ngắn xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là bút pháp miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
vanhoc
Trong hình học, đặc biệt là với các tam giác, điểm Vecten (tiếng Anh: Vecten points) là hai điểm đặc biệt với tam giác bất kì. Điểm Vecten ngoài cho ABC là một tam giác, dựng trên các cạnh tam giác BC, CA, AB ra phía ngoài ba hình vuông với tâm của chúng lần lượt là , thì các đường thẳng và đồng quy. Điểm đồng quy này được gọi là điểm Vecten ngoài của tam giác ABC. Trong từ điển từ điển bách khoa toàn thư về trung tâm tam giác điểm Vecten ngoài được ký hiệu là X(485). Điểm Vecten trong cho ABC là một tam giác, dựng trên các cạnh tam giác BC, CA, AB vào phía trong ba hình vuông với tâm của chúng lần lượt là , thì các đường thẳng và đồng quy. Điểm đồng quy này được gọi là điểm Vecten trong của tam giác ABC. Trong bách khoa toàn thư về các tâm của tam giác, điểm Vecten trong được ký hiệu là X(486). Tính chất Hai điểm Vecten và tâm của đường tròn Euler thẳng hàng. Hai điểm Vecten nằm trên hyperbol Kiepert Xem thêm Điểm Napoleon Điểm Fermat Hyperbol Kiepert Chú thích Liên kết ngoài Điểm Vecten tại MathWorld (bằng tiếng Anh) Tâm tam giác Hình học Hình học Euclid Hình học sơ cấp V
wiki
Em hãy miêu tả hình ảnh một người thân vào một ngày vui (ngày Tết, ngày mừng thọ, ngày cưới,…) Hướng dẫn làm bài – Đề bài yêu cầu tả lại hình, ảnh người thân vào một ngày vui (ngày Tết, ngày mừng thọ, ngày cưới,…). – Miêu tả qua sự quan sát từ thực tế và qua tưởng tượng. – Bài văn cần đủ những ý chính saụ: Mở bài: + Giới thiệu về hình ảnh một người thân trong ngày vui (anh trai trong ngày cưới). Thân bài: + Niềm vui của anh trai khi ngày vui sắp đến.. + Hình ảnh anh trai trong buổi tối trước ngày lễ chính thức. + Hình ảnh anh trong ngày cưới. Kết bài: + Khẳng.định tình cảm đôi với anh. Bài văn mẫu Đám cưới càng đến gần anh tôi lại càng hồi hộp và xen chút lo lắng. Nhưng trong lòng anh thì đang ngập tràn hạnh phúc, niềm vui. Chưa bao giờ tôi thấy anh vui như thế. Nhìn khuôn mặt, ánh mắt anh tôi biết điều đó. Anh cả là người tôi yêu và khâm phục nhất. Trong nhà, tôi cũng là người anh rất cưng chiều. Hai anh em rất hợp nhau nên bố mẹ vẫn trêu tôi, khi nào anh lấy vợ không được “giành” anh với chị dâu đâu nhé. Lúc đó tôi tự tin rằng: “Con không sợ. Anh cả yêu con nhất mà”. Câu ấy tôi cảm giác như mới nói hôm nào thế mà anh tôi đã sắp cưới. Tôi hơi tủi thân nhưng cũng rất vui. Nhưng người vui nhất là ông anh tôi. Anh vui hơn cả ngày nhận được tin báo đỗ hai trường đại học nữa. Buổi tôi trước ngày lễ chính thức, anh tôi đi đi lại lại rất nhiều để lo công việc. Anh tỏ ra là một người đàn ông:chín chắn và trưởng thành. Mọi công việc anh sắp xếp rất chu đáo. Dù mệt nhưng khuôn mặt anh vẫn sáng lên sự vui mừng. Anh vẫn hài hước, hóm hỉnh như mọi khi, những câu chuyện cười của anh làm mọi người cười rộ nên mọi công việc bỗng trở nên nhẹ tênh. Đêm hôm đó, anh không ngủ được, cứ chập chờn mong đợi… Cuối cùng, trời cũng sáng. Hôm đó, thời tiết rất ủng hộ lễ cưới của anh tôi. Nắng vàng dịu nhẹ, gió thổi mơn-man… Từ sáng sớm đã không thấy anh đâu. Thì ra anh đi lo công việc ở bên nhà cùng các bác. Đến giờ khách đến, anh gọn gàng trong bộ com lê xanh sẫm với áo sơ mi trắng thật lịch sự nhưng cũng rất khỏe khoắn. Chiếc nơ cài ở cố áo khiến anh thêm nổi bật. Là tâm điểm nên anh – tôi được mọi người chú ý. Ai cũng trầm trồ khen “chú rể” đẹp trai khiến anh xấu hổ. Nhưng anh tôi.cũng vốn là một chàng trai rất bảnh. Dáng người cao ráo, nước da ngăm ngăm khỏe mạnh, khuôn mặt thông minh toát lên vẻ khảng khái, ngay thật. Nhất là đôi mắt, đôi mắt đen và rất đẹp. Chàng trai ấy hôm nay làm chú rể nên càng bảnh hơn. Anh cười rất tươi khi trò chuyện và tiếp khách. Anh đi mời rượu từng bàn, nhận lời chúc mừng của họ hàng, làng xóm. Hơi men-cùng ngất ngây hạnh phúc nên anh hơi đỏ mặt. Bữa tiệc kéo dài đến gần trưa… Tôi rất yêu anh trai mình nhưng sẽ không bao giờ “giành” với chị dâu như bố mẹ vẫn trêu. Tôi sẽ chúc phúc cho hai anh chị vì anh là người tôi yêu nhất. Nhìn anh hạnh phúc cả nhà tôi rất vui mừng.
vanhoc
Bài viết về chủ đề Những chủ nhân tương lai BÀI LÀM 1 (Chuyện kể: “Út Vịnh”) Những thanh thiếu niên của hôm nay chính là chủ nhân tương lai của Tổquốc. Các em là lực lượng to lớn do gia đình, xã hội nuôi dưỡng và đào tạo. Đa phần thế hệ trẻ đều ý thức điều đó. Chuyện kể về Út Vịnh giúp em hiểu biết thêm về hành động, việc làm mà những công dân nhỏ tuổi đã thực hiện. Nhà Út Vịnh ở ngay bên đường sắt. Mấy năm nay, đoạn đường này thường có sự cố. Lúc thì tảng đá nằm chềnh ềnh trên đường tàu chạy, lúc thì ai đó tháo cả ốc gắn các thanh ray. Lắm khi trẻ chăn trâu còn ném đá lên tàu. Tháng trước, trường của Út Vịnh đã phát động phong trào “Em yêu đường sắt quê em”. Học sinh cam kết không chơi trên đường tàu, không ném đá lên tàu, học sinh cùng nhau bảo vệ an toàn cho những chuyến tàu đi qua. Vịnh nhận việc khó nhất là thuyết phục Sơn, một học sinh rất nghịch, thường chạy thả diều trên đường tàu. Vịnh thuyết phục mãi, Sơn mới hiểu ra và hứa không chơi trên đường tàu nữa. Một buổi chiều đẹp trời, gió thổi từ sông Cái vào mát rượi. Vinh đang ngồi học bài, bỗng nghe tiếng còi tàu vang lên từng hồi dài như giục giã. Chưa bao giờ tiếng còi lại kéo dài như vậy. Thấy lạ, Vịnh nhìn ra đường tàu. Thì ra hai cô bé Hoa và Lan đang ngồi chơi chuyền thẻ trên đó. Vịnh lao ra như tên bắn, la lớn: – Hoa, Lan, tàu hoẳ đến! Nghe tiếng la, bé Hoa giật mình, ngã làn ra khỏi đường tàu còn bé Lan đứng ngây người, khóc thét lên. Đoàn tàu vừa réo còi, vừa ầm ầm lao tới. Không chút do dự, Vịnh nhào tới ôm lăn lăn xuống mép ruộng, cứu sống cô bé trong đường li, kẽ tóc. Biết tin, ba mẹ Lan chạy đến. Cả hai cô chú ôm chầm lấy Vịnh, xúc động nói không nên lời. Chuyện kể Út Vịnh cho em biết về lòng can đảm, việc làm cần kíp của Út Vịnh. Cũng như em, Út Vịnh là học sinh, là những công dân tương lai của đất nước. Chúng em cần phải học tập giỏi, nhanh nhẹn và can đảm và cần thiết nhất là phải hiểu biết để đừng làm sai trái như Hoa và Lan. BÀI LÀM 2 (Chuyện kể “Lớp học trên đường”) Trẻ em ở khắp mọi nơi trên thế giới đều là những công dân mai sau. Trong bất kì hoàn cảnh nào, trẻ em cũng cần phải được học tập, rèn luyện. Có những trẻ em được đến trường trong vòng tay nâng niu của bố mẹ và cô giáo. Có những em phải lưu lạc, cơ nhỡ, mồ côi… Tất cả dù trong hoàn cảnh nào cũng cần phải học tập. Câu chuyện “Lớp học trên đường” giúp em hiểu rõ hơn về điều đó. Cụ Vi-ta-li nhặt trên đường một mảnh gỗ mỏng, dính đầy bụi.Cắt mảnh gỗ thành nhiều miếng nhỏ, cụ bảo: – Ta sẽ khắc trên mỗi miếng gỗ một chữ cái. Con sẽ học nhận mặt từng chữ, rồi ghép các chữ ấy lại thành từng tiếng. Từ hôm đó, trong túi của Rê-mi lúc nào cũng đầy những mảnh gỗ dẹt. Không bao lâu, Rê-mi đã thuộc tất cả các chữ cái. Nhưng biết đọc lại là chuyện khác, không phải ngày một, ngày hai mà đọc được. Khi dạy Rê-mi, cụ Vi-ta-li nghĩ rằng cùng lúc có thể dạy cả chú chó Ca-pi làm xiếc. Dĩ nhiên, Ca-pi không thể đọc lên những chữ nó thấy vì nó không biết nói, nhưng nó biết lấy ra những chữ mà thầy Vi-ta-li đọc lên. Buổi đầu, Rê-mi học tấn tới hơn Ca-pi nhiều. Những nếu Rê- mi thông minh thì Ca-pi có trí nhớ rất tốt. Cái gì đã vào đầu nó rồi thì nó không baogiờ quên. Một hôm, Rê-mi đọc sai, thầy Vi-ta-li nói: – Ca-pi sẽ biết đọc trước Rê-mi. Con chó có lẽ hiểu nên đắc chí vẫy vẫy cái đuôi. Từ đó, Rê-mi không dám sao nhãng một phút nào. ít lâu sau, Rê-mi đã biết đọc trong khi con Ca-pi đáng thương chỉ biết “viết” tên nó bằng cách rút những chữ gỗ trong bảng chữ cái. Cụ Vi-ta-li hỏi Rê-mi: – Bây giờ con có muốn học nhạc không? Rê-mi trả lời thầy Vi-ta-li: – Đấy là điều conthích nhất. Nghe thầy hát, có lúc con muốn cười, lúc lại muốn khóc. Có lúc tự nhiên con nhớ đến mẹ con và tưởng như đang trông thấy mẹ con ở nhà. Bằng một giọng cảm động, thầy Vi-ta-li bảo Rê-mi: – Con thật là một đứa trẻ có tâm hồn. Lưu lạc, cơ nhỡ nhưng Rê-mi là một đứa trẻ hiếu học. So với chúng em, Rê-mi thiếu mọi phương tiện. Nhân vật Rê-mi trong tác phẩm “Không gia đìnli” rất đáng, khâm phục. Nhà cách mạng lỗi lạc người Nga Vla-đi-mia I.lích Lê-nin đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi”. Bể học mênh mông, kiến thức của nhân loại là vô tận, gần như là không có giới hạn. Thế nên, thế hệ của chúng em phải biết tự chủ chọn lựa ngành học phù hợp khả năng của mình thì mới có thể phát triển, tự nuôi sống mình, giúp đỡ bố mẹ và cống hiến cho xã hội. Nguồn:
vanhoc
Bùi Văn Cường (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1965) là một chính trị gia người Việt Nam, hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Không chỉ là đại biểu Quốc hội ba khóa liên tiếp XIII, XIV và XV, ông còn từng là Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới kiêm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Cuộc đời Đầu đời và Thành đoàn Hải Phòng Bùi Văn Cường sinh ngày 18 tháng 6 năm 1965, tại xã Thăng Long, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Sau khi hoàn thành bằng Kỹ sư chuyên ngành Điều khiển tàu biển, ông tiếp tục học Thạc sĩ ngành Kỹ thuật An toàn Hàng hải. Năm 1990, ông trở thành giảng viên tại Trường Đại học Hàng hải và lần lượt trải qua các chức vụ như Bí thư Đoàn trường, Thường trực Đảng ủy rồi Phó Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ và Giám đốc Trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm. Trong khoảng thời gian này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 14 tháng 6 năm 1993 và chính thức trở thành Đảng viên vào 1 năm sau đó. Từ tháng 10 năm 1997, ông Phó Bí thư Thành đoàn Hải Phòng và bắt đầu đảm nhiệm các chức vụ thuộc khối Đảng ủy của thành phố, trong đó có Chủ tịch Hội đồng đội, Chủ tịch Công đoàn khối cơ quan và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan thuộc Thành đoàn Hải Phòng. Từ năm 1999 đến 2006, ông liên tiếp đảm nhận nhiều chức vụ trong Trung ương Đoàn và Hội Sinh viên Việt Nam trong đó có Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đoàn và Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. Đến ngày 20 tháng 10 năm 2006, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh khóa 8 lần thứ 10 bầu thêm 3 Bí thư Trung ương đoàn, trong đó có Bùi Văn Cường và Võ Văn Thưởng – người về sau trở thành Chủ tịch nước trẻ tuổi nhất trong lịch sử Việt Nam. Thời gian sau, ông trở thành một thành viên của Ban Chỉ đạo Quốc gia. Đến ngày 14 tháng 5 năm 2008, ông được điều về Tỉnh ủy Gia Lai giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa 13. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 vào tháng 1 năm 2011, Bùi Văn Cường trở thành một trong những Ủy viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại đại hội này, ông được để cử để bầu làm Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội nhưng chỉ đạt được 47% số phiếu thuận nên đề cử này không được thông qua. Tháng 8 năm đó, ông trở thành Đại biểu Quốc hội khóa 13 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Gia Lai, và được bổ nhiệm vào Ban Dân vận Trung ương giữ chức Phó Trưởng ban. Tỉnh ủy Gia Lai và Đắk Lắk Đến ngày 26 tháng 6 năm 2012, Bùi Văn Cường giữ chức vụ tại Ban Dân vận để tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương nhiệm kỳ 2010 – 2015. Đến ngày 15 tháng 10 năm 2015, ông tái đắc Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương. Tại Đại hội Đảng lần thứ 12 vào tháng 1 năm 2016, ông chính thức trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 4 năm 2016, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vào ngày 12, và trở thành Chủ tịch Tổng liên đoàn chỉ hai ngày sau đó. Sau khi hết nhiệm kỳ khóa 11, ông tiếp tục tái đắc cử vị trí Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vào tháng 9 năm 2018. Cũng trong khoảng thời gian này, ông tiếp tục nghiên cứu và bảo vệ thành công luận văn tiến sĩ Khoa học hàng hải vào năm 2018 với đề tài "Nghiên cứu tác động của tổ hợp chân vịt-bánh lái đến điều khiển hướng đi tàu thủy trên tuyến luồng Hải Phòng." Chiều ngày 19 tháng 7 năm 2019, Bùi Văn Cường được bổ nhiệm giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2015 – 2020 thay cho ông Ê Ban Y Phu vừa về hưu không lâu trước đó. Đến tháng 10 năm 2020, ông tái đắc cử vị trí này tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17. Đầu năm 2021, ông tiếp tục trở thành Ủy viên Ban Chá hành Trung ương Đảng khóa 13. Đến tháng 4 cùng năm, ông được Quốc hội Việt Nam bầu làm Tổng thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Vị trí Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2020 – 2025 do ông Nguyễn Đình Trung, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, đảm nhiệm. Tổng thư ký Quốc hội Chiều ngày 19 tháng 4 năm 2021, lễ trao quyết định chỉ định Bí thư Đảng ủy Văn phòng Quốc hội và bàn giao công tác Đảng của Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội đã được diễn ra tại tòa nhà Quốc hội. Trong buổi lễ này, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Huỳnh Tấn Việt đã trao Quyết định chỉ định Ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Bí thư Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội nhiệm kỳ 2020 – 2025 cho Tổng Thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường. Tháng 3 năm 2023, Hội nghị Hiệp hội các Tổng thư ký Nghị viện Thế giới ASGP diễn ra tại Manama, thủ đô Bahrain. Bùi Văn Cường với tư cách là Tổng thư ký Quốc hội đã dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự hội nghị này. Bị vu khống đạo văn Vào khoảng tháng 3 năm 2020, một giáo viên thể dục Trường Tiểu học dân lập Nguyễn Khuyến, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk là Hoàng Minh Tuấn đã gửi đơn tố cáo lên Ban tổ chức Trung ương cùng nhiều lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk và Trung ương, cáo buộc ông Bùi Văn Cường đạo luận án tiến sĩ. Đến ngày 14 tháng 5, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã ra văn bản chính thức kết luận việc tố cáo luận văn tiến sĩ của Bùi Văn Cường đạo văn là hoàn toàn không có cơ sở. Mặc dù đã nhận được kết luận về việc thẩm tra cũng như viết cam kết không tiếp tục vu khống nhưng ông Hoàng Minh Tuấn tiếp tục gửi đơn về nhiều đơn vị, ông Tuấn đã bị bắt vì tội vu khống. Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi mở rộng điều tra, một giảng viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng là Phạm Đình Qúy cũng đã bị bắt vào tháng 9 vì "xúi dục, bàn bạc và thuê tiền để ông Tuấn vu khống". Trước đó vào tháng 8 cùng năm, tạp chí Môi trường và Xã hội đã đăng tải một bài viết của ông Phạm Đình Quý cáo buộc ông Bùi Văn Cường "đạo luận án Tiến sĩ, gian dối học thuật để trèo cao nhằm mục đích không trong sáng, gây bất bình trong nhân dân". Đến ngày 30 tháng 9, tạp chí này đã bị Cục Báo chí thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông phạt 50 triệu đồng và thu hồi giấy phép 2 tháng vì có hành vi vi phạm thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Tạp chí này cũng bị yêu cầu phải cải chính, xin lỗi theo quy định. Đến ngày 2 tháng 10 năm 2020, công an tỉnh Đắk Lắk ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam Phạm Đình Quý để điều tra về hành vi vu khống được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Một tuần sau, Tiểu ban Bảo vệ Chính trị nội bộ thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra kết luận chính thức rằng Bùi Văn Cường không có hành vi đạo văn trong luận án tiến sĩ như nội dung tố cáo trước đó. Trong suốt thời gian sự việc diễn ra, liên tiếp có nhiều thông tin trái chiều được đăng tải bởi các báo Việt Nam và báo nước ngoài như BBC, RFA, VOA, được cho là có liên quan đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII sẽ diễn ra sau đó vào đầu năm 2021. Ngày 17 tháng 1 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với Hoàng Minh Tuấn và Phạm Đình Quý. Cả hai lần lượt nhận mức án 2 năm 6 tháng tù và 9 tháng tù vì tội vu khống. Chú thích Liên kết ngoài Danh sách Đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai Người Hải Dương Sống tại Hà Nội Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII Gia Lai Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV do Trung ương giới thiệu Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV Đắk Lắk Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Bí thư Tỉnh ủy Việt Nam nhiệm kì 2015–2020 Bí thư Tỉnh ủy Việt Nam nhiệm kì 2020–2025 Tổng thư ký Quốc hội Việt Nam
wiki
Tả ngôi trường lớp 2 Hướng dẫn Tả ngôi trường lớp 2, đoạn văn miêu tả trường học của em Tuổi thơ còn điều gì vui hơn là được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha và hằng ngày được cắp sách đến trường. Mái trường mến yêu chính là ngôi nhà thứ hai của chúng ta vì ở đó, ta không chỉ được trang bị những tri thức để chuẩn bị hành trang bước vào tương lai mà còn được học cách sống, cách làm người. Và mái trường ấy luôn được xây dựng thật khang trang, đẹp đẽ. Những bài văn mẫu dưới đây sẽ giúp các bạn tả ngôi trường của mình, để qua những bài văn này, các bạn sẽ có thể viết những đoạn văn, những bài văn tả ngôi trường mình đang học theo cảm nhận của riêng mình, đồng thời bộc lộ những cảm xúc, tình cảm của người viết. Chúc các bạn thành công! Bài làm văn số 1: Tả ngôi trường của ưm lớp 2 Ngôi trường Tiểu học mà bố mẹ hiện đang cho em học là một ngôi trường thật đẹp và khang trang. Ngôi trường ấy cách nhà em khoảng một cây số. Ngay phía trên cánh cổng trường là dòng chưa màu đot nỗi bật: “Trường Tiểu học Võ Thị Sáu”. Cánh cổng trường to, rộng màu trắng xám. Vào bên trong trường, ngay giữa sân trường là ao súng. Vào mỗi đợt nở hoa, cái ao ấy trông giống như một lãng hoa. Trên sân trường là những cây xanh lâu năm mà nhìn chúng thật giống những chiếc ô mùa hè che nắng cho chúng em. Các dãy nhà để học thì được xây theo hình chứ U, đó là các dãy nhà A, nhà B, nhà C. Mỗi dãy có hai tầng, riêng nhà C, đó là khu nhà đa năng. Các lớp học rất khang trang, đẹp đẽ, bàn ghế gỗ được kê ngay ngắn, thẳng tắp. Không chỉ vậy, các trang thiết bị khác cũng được nhà trường đầu tư cho chúng em rất đầy đủ như máy tính phục vụ cho giờ tin học hay tranh, ảnh phục vụ cho nhiều bộ môn,… Nhờ vậy mà chất lượng học tập của trường em luôn khá cao. Em mãi yêu ngôi trường của mình vì nơi ấy đã ươm mầm những giấc mơ cho chúng em! Bài làm văn số 2: Tả ngôi trường của ưm lớp 2 Trường Tiểu học em đang theo học nằm ở ngay mặt đường lớn tấp nập người lại qua. Cổng trường rộng, bằng sắt dày, được sơn màu xanh lam. Trên đó nổi bật dòng chữ “Trường Tiểu học Võ Thị Sáu”. Bước qua cánh cổng vững chãi như người từng trải ấy là tới sân trường cũng rất rộng lớn. Sân trường đổ bê tông phẳng lì với những bóng cây bàng, cây phượng to lớn rợp bóng che mát. Dưới mỗi tán phượng, tán bàng là những hàng ghế đá để chúng em ngồi nghỉ ngơi, thư giãn. Trường được xây ba tầng, quét vôi màu vàng tươi như màu nắng mới. Trường có mười hai lớp học với đầy đủ các trang thiết bị dạy và học. Khu phía tay phải tầng một là dành cho phòng Hội đồng và Ban giám hiệu. Đứng từ lan can nhìn xuống, khuôn viên trường đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Hòn non bộ nước róc rách chảy trong khe đá. Vườn hoa trường đa dạng các loài hoa đang tỏa hương thơm ngát. Lũ ong chăm chỉ ngày ngày tìm hoa hút mật. Xa xa là một sân cỏ nhỏ để các bạn nam chơi đá bóng, bóng bàn. Nếu đứng từ trước sân nhìn thẳng lên các lớp học, em dễ dàng thấy lá cờ Tổ quốc bay phấp phới trong gió. Ở cạnh đó gắn các khẩu hiệu “Tiên học lễ – Hậu học văn” hay “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” như tiếp thêm động lực cho chúng em cắp sách tới trường. Em rất yêu quý trường em. Sau này dù như cánh chim bay đi khắp nẻo, em vẫn mãi nhớ về trường Tiểu học của em – nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi học trò tuyệt đẹp.
vanhoc
Dân số có thể đạt đỉnh sớm hơn và thấp hơn so với mức dự kiến theo hướng có lợi. Tuy nhiên, theo dự báo của một nghiên cứu mới từ tổ chức nghiên cứu các vấn đề toàn cầu The Club of Rome, ‘bom dân số’ vốn gây lo sợ lâu nay có thể không phát nổ. Nếu các chính phủ theo đuổi những chính sách xã hội tiến bộ, dân số thế giới có thể giảm xuống còn khoảng 6 tỷ người vào năm 2100. Ảnh: Getty Images. Nhóm tác giả đã dự đoán rằng theo xu hướng hiện tại, dân số thế giới sẽ đạt mức 8,8 tỷ người trước giữa thế kỷ này, sau đó sẽ giảm nhanh chóng. Dấu mốc đỉnh điểm vẫn có thể đến sớm hơn nếu các chính phủ thực hiện các bước đổi mới để nâng cao thu nhập trung bình và trình độ học vấn. Và dự báo mới trên là tin tốt cho môi trường toàn cầu. Khi tình trạng nhân khẩu học “phình to” được khắc phục, áp lực lên thiên nhiên và khí hậu sẽ bắt đầu giảm bớt, cùng với những căng thẳng chính trị và xã hội kèm theo đó. Dù vậy, các tác giả cảnh báo rằng chỉ riêng tỷ lệ sinh giảm sẽ không giải quyết được các vấn đề môi trường của hành tinh chúng ta, vốn đã nghiêm trọng ở mức 8 tỷ người và chủ yếu là do việc một bộ phận thiểu số giàu có tiêu thụ quá mức. Dân số giảm cũng có thể tạo ra những vấn đề mới, chẳng hạn như lực lượng lao động bị thu hẹp và gây sức ép lớn hơn cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, liên quan đến một xã hội già hóa như Nhật Bản và Hàn Quốc đang nhận thấy. Trẻ sơ sinh tại một bệnh viện ở Seoul, Hàn Quốc. Ảnh: AFP/TTXVN. Một trong những tác giả của báo cáo, ông Ben Callegari cho biết những phát hiện này đem đến tia hy vọng lạc quan, song vẫn có nhược điểm. “Điều này cho chúng tôi bằng chứng để tin rằng quả bom dân số sẽ không nổ, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với những thách thức đáng kể từ góc độ môi trường. Chúng ta cần rất nhiều nỗ lực để giải quyết mô hình phát triển hiện tại về tiêu thụ quá mức và sản xuất thừa, vốn là những vấn đề lớn hơn dân số”, ông nói. Các nghiên cứu trước đây đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm hơn. Năm ngoái, Liên hợp quốc ước tính dân số thế giới sẽ đạt 9,7 tỷ người vào giữa thế kỷ này và tiếp tục tăng trong vài thập kỷ sau đó. Dự báo mới, vừa được công bố ngày 27/3, được thực hiện bởi tập thể Earth4All gồm các tổ chức kinh tế và khoa học môi trường hàng đầu, bao gồm Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam, Trung tâm Khả năng phục hồi Stockholm và Trường Kinh doanh BI Na Uy. Họ được The Club of Rome ủy quyền để theo dõi nghiên cứu về Giới hạn đối với tăng trưởng từ cách đây hơn 50 năm. Báo cáo được dựa trên một phương pháp mới kết hợp các yếu tố xã hội và kinh tế có tác động đến tỷ lệ sinh đã được chứng minh, chẳng hạn như nâng cao trình độ học vấn, đặc biệt là đối với phụ nữ và cải thiện thu nhập. Nó phác thảo hai kịch bản tùy thuộc vào mức độ mà các chính sách như vậy được theo đuổi. Trong trường hợp thông thường, nó dự đoán các chính sách hiện tại đủ để hạn chế mức tăng dân số toàn cầu xuống dưới 9 tỷ vào năm 2046 và sau đó giảm xuống còn 7,3 tỷ vào năm 2100. Họ cảnh báo rằng điều này là quá muộn: “Mặc dù kịch bản không dẫn đến sự sụp đổ toàn diện về sinh thái hoặc khí hậu, tuy nhiên, khả năng xảy ra sự sụp đổ xã hội khu vực sẽ tăng lên trong suốt các thập kỷ cho đến năm 2050, do hậu quả của sự chia rẽ xã hội ngày càng sâu sắc cả trong nội bộ và giữa các xã hội. Rủi ro đặc biệt nghiêm trọng ở những nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất, được quản lý kém và dễ bị tổn thương về mặt sinh thái”. Trong kịch bản thứ hai, lạc quan hơn – với việc các chính phủ trên khắp thế giới tăng thuế đối với người giàu để đầu tư vào giáo dục, dịch vụ xã hội và cải thiện bình đẳng – ước tính dân số có thể đạt mức cao 8,5 tỷ vào đầu năm 2040 và sau đó giảm khoảng 1/3 còn khoảng 6 tỷ vào năm 2100. Theo con đường này, họ thấy trước những lợi ích đáng kể vào giữa thế kỷ này đối với xã hội loài người và môi trường tự nhiên. “Đến năm 2050, lượng phát thải khí nhà kính thấp hơn khoảng 90% so với năm 2020 và vẫn đang tiếp tục giảm”, theo báo cáo. Lượng khí thải nhà kính còn lại trong khí quyển từ các quy trình công nghiệp đang được loại bỏ ngày càng hiệu quả thông qua thu hồi và lưu trữ carbon. Khi thế kỷ này trôi qua, sẽ có nhiều carbon được thu hồi hơn là được lưu trữ, giữ cho nhiệt độ toàn cầu tăng dưới 2 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp. Động vật hoang dã đang dần hồi phục và bắt đầu phát triển mạnh trở lại ở nhiều nơi.
vanhoc
nhỏ|450x450px|Hội đường Do Thái Phố Páva Hội đường Do Thái Phố Páva là một trong những nhà thờ nổi tiếng có quy mô lớn ở Hungary. Phố Páva do Lipót Baumhorn thiết kế và xây dựng vào nửa đầu thế kỷ 20. Ngày nay hội đường thuộc quản lí của Trung tâm Tưởng niệm Holocaust và hội đường Do Thái Budapest. Lịch sử Năm 1910, những người Do Thái ở Budapest đã họp bàn và cùng nhau lên kế hoạch xây dựng một hội đường Do Thái với quy mô lớn. Họ quyết định mua lại lô đất ở góc phố Páva và phố Tűzoltó (thuộc sở hữu bởi nhà máy Belatini Braun Géza) để xây dựng hội đường. Kiến trúc của công trình do kiến trúc sư Miklós Román đảm nhiệm thiết kế. Mặc dù mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất, nhưng do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ từ năm 1914 đến 1918 nên kết hoạch này không thành hiện thực. Tuy nhiên đến năm 1923, Lipót Baumhorn - một người cao tuổi của một hội đường Do Thái ở Hungary đã đưa ra một kế hoạch mới trong chương trình nghị sự. Kế hoạch này nhanh chóng được phê duyệt và hội đường Do Thái chính thức xây dựng vào tháng 1 năm 1924. Theo quy mô thiết kế của kiến trúc sư Baumhorn, sau khi hoàn thành, sức chứa của hội đường Phố Páva có thể lên tới 1.700 người và được quản lý bởi Cộng đồng Do Thái Pest. Ngày 17 tháng 4 năm 1926, Tạp chí Equality đã viết bài khen ngợi nội thất của hội đường Phố Páva nhằm giới thiệu hội đường tới nhiều khán giả hơn. Cụ thể, tạp chí đã mô tả: "Bên lớp mạ vàng sang trọng, ba màu truyền thống của người Do Thái là xanh lam, trắng, vàng cũng được kết hợp hài hòa, khéo léo trong các chi tiết nội thất của hội đường. Phong cách vẽ mới lạ, đặc biệt là họa tiết rèm treo thường được sử dụng trong hội họa thời trung cổ. Trên lan can của phòng trưng bày là bức tranh những cánh đồng điểm xuyết với hoa loa kèn maccabe. Ngoài ra còn có hai trụ màu xanh lam bên cạnh điện thờ tượng trưng cho hai cột của Đền thờ Solomon. Trong vòng cung lớn của hội đường, nổi bật nhất là khẩu hiệu của đạo Do Thái: "Hãy yêu người xung quanh như yêu chính mình" bằng tiếng Do Thái và tiếng Hungary. Tất cả các họa tiết trên đều do kiến trúc sư Lipót Baumhorn thiết kế và vẽ từng chi tiết nhỏ nhất." Vào những năm 1980, hội đường Phố Páva được sử dụng làm văn phòng và phòng văn hóa của khu tôn giáo địa phương Israel. Tuy nhiên, sảnh cầu nguyện vẫn phục vụ cho các nghi lễ tôn giáo. Các toà nhà hiện đại của Trung tâm Tư liệu và Đài tưởng niệm Holocaust cũng xây dựng xung quanh hội đường trong thời gian này. Một số hình ảnh Nguồn (szerk.) Gerő László: Magyarországi zsinagógák, Műszaki Könyvkiadó, Budapest, 1989,, 214–215. o. Video Video về Hội đường Tham khảo Hội đường Do Thái ở Budapest Hội đường Do Thái hoàn thành năm 1924 1924 ở Hungary Tòa nhà Lipót Baumhorn
wiki
Cầu Bến Lức tên chung của 2 cây cầu bắc qua sông Vàm Cỏ Đông. Nằm trên tuyến QL.1 đi qua địa phận 2 xã: Thạnh Đức, Nhựt Chánh và thị trấn Bến Lức huyện Bến Lức, tỉnh Long An, cách Thành phố Tân An 12 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 35 km. Cầu Bến Lức và Cầu Tân An nằm trên tuyến đường huyết mạch nối Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long với lưu lượng xe rất lớn, ước tính khoảng 40 ngàn lượt ôtô/ngày. Cầu Bến Lức cũ Khởi công: 1969 Thông xe: 1973 Chiều dài: 530m. Chiều rộng: 10m (phần xe chạy 8.9m, lề mỗi bên 0.3m). Cầu Bến Lức cũ nằm ở km1934+314 QL.1. Cấu trúc theo kiểu giá dầm thưa không liên tục bằng bê tông cốt thép, gồm 9 nhịp (nhịp giữa cầu trước tháng 12/2018 được làm bằng vỉ sắt), 8 trụ. Chân cầu từng bị xà lan đâm làm sập nhịp giữa vào ngày 16 tháng 01 năm 2000. Từ ngày 30/10 - 14/12/2018, tạm ngừng lưu thông để tiến hành sửa chữa phần lan can cầu, dạ cầu, cắt bỏ thu hẹp phần hành lang dành cho người đi bộ, mỗi bên 0,7m, gỡ bỏ phần nhịp sắt lắp dầm đổ bê tông nhựa toàn bộ mặt cầu. Dự án do Ban Quản lý dự án 5, thuộc Tổng cục đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư. Nhà thầu liên danh Công ty Cổ phần Thương mại, tư vấn và xây dựng Vĩnh Hưng và Công ty Cổ phần Xây dựng công trình 510 thi công, tổng mức đầu tư khoảng 40 tỷ đồng. Cầu Bến Lức mới Khởi công: 22/12/2001 Thông xe: 22/7/2003. Chiều dài: 549.75m. Chiều rộng: 11,5m (phần xe chạy 11m, không có phần lề dành cho người đi bộ). Tổng vốn: 131,16 tỉ đồng. Cầu Bến Lức mới được xây dựng bên cạnh Cầu Bến Lức cũ bằng bê tông cốt thép dự ứng lực, gồm 9 nhịp, mỗi nhịp dài 33m, 3 nhịp chính dầm hộp có chiều dài 66+110+66m, là một trong những khẩu độ dầm hộp bê tông cốt thép dự ứng lực dài nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Công trình do Ban Quản lý dự án 18, Bộ GTVT làm chủ đầu tư, với kinh phí trên 131,16 tỉ đồng. Theo thiết kế, cầu Bến Lức mới xây dựng vĩnh cửu bằng bê tông cốt thép dự ứng lực, chiều dài cầu 549,75m, rộng 11,5m, trọng tải 30 tấn... Cầu Bến Lức mới là cây cầu bổ sung thêm trong tổng số 19 cầu của tuyến TPHCM - Cần Thơ và là cây cầu thứ 47 - cây cầu cuối cùng của dự án khôi phục cầu trên Quốc lộ 1 giai đoạn 1 của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC). Hiện nay, cả hai cây cầu trên được gọi chung 1 tên là Cầu Bến Lức. Tham khảo Liên kết ngoài Sụp vỉ sắt cầu Bến Lức Bến Lức Cầu tại Long An Bến Lức Quốc lộ 1
wiki
, gọi tắt là , là một phim anime điện ảnh năm 2018 được viết và đạo diễn bởi Okada Mari và được P.A.Works sản xuất. Ishii Yuriko phụ trách phần thiết kế nhân vật được lấy hình dáng của hình mẫu cũ do Yoshida Akihiko thiết kế và phần âm thanh bởi Kawai Kenji. Bộ phim là tác phẩm đầu tay của tác giả Okada và được sản xuất độc lập bởi P.A.Works. Bộ phim được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 24 tháng 2 năm 2018 dưới dạng phát hành chung và được công chiếu bên ngoài Nhật Bản vào ngày 4 tháng 3 năm 2018 tại Liên hoan phim Glasgow. Tại Việt Nam, phim được công chiếu từ ngày 7 tháng 9 năm 2018, tựa đề tiếng Việt là Maquia: Chờ Ngày Lời Hứa Nở Hoa dựa theo tựa đề bản tiếng Anh là Maquia: When the Promised Flower Blooms. Bộ phim được phát hành tại các rạp ở Úc và New Zealand vào ngày 7 tháng 6 năm 2018 bởi Madman Entertainment; nước Anh và Ireland vào ngày 27 tháng 6 năm 2018 bởi Anime Limited; vào ngày 20 tháng 7 năm 2018 tại Hoa Kỳ và Canada do ElBhành. Bản lồng tiếng Anh của bộ phim được công chiếu vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại Hoa Kỳ. Bộ phim được phát hành trên DVD và Blu-Ray vào ngày 5 tháng 2 năm 2019. DVD chỉ có một bản tiếng Anh; trong khi Blu-ray có cả bản tiếng Anh và tiếng Nhật. Cốt truyện Người Iorph là một thị tộc có khả năng sống đến hàng trăm năm, cư ngụ ở nơi xa cách với thế giới của con người. Họ sống bình yên qua từng ngày và dệt Hibiol, một loại vải đặc biệt đóng vai trò một biên niên sử ghi lại dòng chảy của thời gian. Con người coi họ là một huyền thoại, và gọi họ là "Thị tộc biệt lập". Maquia là một cô gái mồ côi trẻ, làm phụ tá cho tộc trưởng của thị tộc Iorph là Racine. Tộc trưởng đã cảnh báo cô không nên nảy sinh tình cảm gắn bó yêu thương với người ngoài, vì rồi sẽ có một ngày điều đó sẽ làm cho Maquia cô đơn. Tối hôm đó, Vương quốc Mezarte đã gửi một đội quân cưỡi rồng Renato đến tấn công làng Iorph. Họ giết gần hết tộc lorph và bắt đi Leilia - một người bạn của Maquia đi. Một trong số những con rồng Renato đã bị bệnh "Mắt đỏ" nên đã trở nên điên cuồng và bắt đầu tấn công; nó bị vướng vào những mảnh vải Hibiol và rồi bay khỏi ngôi làng, kéo theo Maquia đang nắm chặt lấy một mảnh vải. Cô rơi xuống khu rừng và bị bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy, Maquia gặp một lữ đoàn bị phục kích và một thương gia mang nửa dòng máu Iorph đang uống rượu. Tại đây cô ấy tìm thấy một đứa trẻ mới sinh, được giữ chặt trong bàn tay người mẹ đã mất. Không muốn đứa trẻ phải chết, Maquia gỡ từng ngón tay của người mẹ ra, ôm lấy đứa bé và nhận làm con của mình. Sáng hôm sau cô cùng đứa con đi đến làng Helm và gặp được một người phụ nữ tốt bụng tên Mido. Mido đã cho họ sống cùng và nuôi họ cùng với hai đứa con trai của mình là Lang và Deol. Maquia đặt tên cho con mình là Ariel. Thời gian trôi qua và Ariel đã trưởng thành từ một đứa trẻ thành một cậu bé. Vương quốc Mezarte xây dựng sức mạnh và tiếng tăm của mình bằng quyền sở hữu Renato cổ đại, nhưng loài rồng Renato đã bị hội chứng "Mắt đỏ" và chết dần từng con một. Lo sợ mất đi sức mạnh, nhà vua Mezarte đã quyết định sử dụng Leilia để duy trì dòng máu hoàng gia, bởi người Iorph có khả năng sống rất lâu. Thông qua tin nhắn được dệt ẩn trong một mảnh Hibiol mà Maquia nhận được từ cửa hàng nơi mình đang làm việc, cô phát hiện ra rằng Leilia đã bị ép buộc vào một cuộc hôn nhân sắp đặt với hoàng tử Hazel. Maquia cùng với Ariel đi đến Vương quốc Mezarte bằng tàu để đến giải thoát Leilia. Trên tàu, cô gặp Krim, một người bạn cũ của cô ở Iorph và là người yêu của Leilia. Krim cũng đang tìm cách giải cứu Leilia ra khỏi lâu đài. Ở thủ đô của Mezarte, cả hai phối hợp cùng với một số người Iorph khác phục kích cuộc diễu hành hoàng gia cho đám cưới của hoàng tử Hazel và Leilia. Maquia đã giải thoát cho Leilia, nhưng Leilia không thể cùng cô chạy trốn nữa vì Leilia đang mang thai đứa con của hoàng tử. Thương gia bán Iorph đã giúp Maquia chạy trốn trước khi bị những cận vệ hoàng gia bắt. Krim thì không hề nản lòng, quyết tâm tiếp tục cố gắng giải thoát Leilia. Nhiều năm trôi qua, Maquia và Ariel chuyển đến thành phố Dorail, nơi Maquia làm nhân viên phục vụ bàn trong một nhà hàng. Ariel ngày càng xa lánh Maquia vì biết mình không phải con ruột của cô. Còn Leilia vẫn bị giam giữ bên trong cung điện. Cô không được phép gặp con gái của Medmel của mình kể từ lúc cô bé được sinh ra. Và điều kì lạ là Medmel không có những đặc điểm ngoại hình giống như người Iorph. Một ngày nọ, Ariel và Maquia tình cờ đoàn tụ với Lang. Anh giờ là một người lính trong quân đội của Mezarte. Ariel sau đó đã quyết định cùng với Lang gia nhập quân đội. Chỉ một lúc sau khi Ariel rời đi, Maquia bị Krim bắt cóc đến cung điện. Khoảng 10 năm sau, Ariel đã quay trở lại thủ đô và kết hôn với Dita, người bạn thuở nhỏ của anh ở Helm. Cô đang mang thai đứa con đầu lòng. Trong khi đó, Krim đã tập hợp sự hỗ trợ của các quốc gia láng giềng để xâm chiếm và lật đổ Mezarte. Cuộc chiến nổ ra không lâu sau đó, Krim và Maquia cưỡi ngựa cố gắng tiếp cận cung điện để tìm Leilia. Họ bị tách ra trong một khu rừng bên ngoài thủ đô và sau đó Maquia có cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Ariel. Khi đang chạy trốn, Maquia tình cờ đi đến nhà của Ariel và Dita và thấy Dita sắp chuyển dạ. Cô giúp Dita sinh con trong khi Ariel đang ở trên chiến trường. Maquia tìm kiếm Ariel để nói lời tạm biệt rồi đi đến cung điện. Tại cung điện, Krim đã tìm được Leilia. Leilia muốn được gặp con gái Medmel của mình nhưng vì trải qua quá nhiều thứ nên Krim đã dần trở nên ích kỉ và không muốn điều đó xảy ra. Anh đã cố đốt cháy cung điện để được chết với người mình yêu, nhưng người lính hầu cận Izor bắn Krim chết để bảo vệ Leilia. Khi trận chiến kết thúc và vương quốc Mezarte sụp đổ, Ariel trở về nhà để gặp cô con gái mới sinh. Leilia đã có được một khoảnh khắc ngắn ngủi bên con gái Medmel của mình. Maquia lấy con Renato còn sống cuối cùng và bay về quê hương Iorph cùng Leilia. Nhiều năm sau, Maquia trở lại làng Helm để tìm lại Ariel, giờ đã thành một ông lão đang nằm trên giường bệnh. Cô nắm tay Ariel cho tới khi nghe được tiếng Ariel thì thào "Mừng mẹ về", và rồi Ariel nhắm mắt. Rời khỏi nhà với nỗi đau mất mát con trai, cô vừa khóc vừa nhớ lại những kỉ niệm buồn vui bên Ariel và xin lỗi vì đã phá vỡ lời hứa "sẽ không khóc" với Ariel. Dẫu nỗi đau ấy vô cùng to lớn, nhưng việc được yêu thương con trai đã mang lại hạnh phúc cho cô. Hình ảnh cuối cùng của bộ phim cho thấy ngôi làng được tái định cư một lần nữa bởi người những Iorph còn sống cùng con cháu của họ, bao gồm Maquia, Leilia và con rồng Renato cuối cùng. Lồng tiếng Đón nhận Doanh thu Maquia: Chờ ngày lời hứa nở hoa được phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2018 và được khởi chiếu tại 74 rạp trong Nhật Bản với lượng khán giả là 31,768 người. Bộ phim thu về 47 triệu yên sau 2 ngày công chiếu, đứng thứ năm trong bảng xếp hạng tuần đó. Với lượng phán giả đông đảo, nhà phân phối phim quyết định tăng số rạp lên 93. Đến tháng 6 năm 2018, phim thu về 350 triệu yên với tổng khán giả là 245.000 người. , Maquia: Chờ ngày lời hứa nở hoa đã cán vạch 160.988 đô la ở Hoa Kỳ và Canada. Đến tháng 2 năm 2019, bộ phim đã thu về 3,4 triệu đô la trên toàn thế giới, bao gồm 1,2 triệu đô la ở Nhật Bản và 1,6 triệu đô la ở Trung Quốc. Đánh giá Trong bản đánh giá Rotten Tomatoes, phim được đánh giá 100% chỉ với 24 lượt bình luận, với chỉ số trung bình là 7.7/10. Theo sự đồng thuận của khán giả, "Maquia: Chờ Ngày Lời Hứa Nở Hoa thả neo bối cảnh tưởng tượng đầy màu sắc của nó trong các chủ đề phổ quát - và sâu sắc - trong thế giới thực ". Metacritic công bố điểm là 72/100, chỉ dựa trên 8 lượt bình luận, nhưng được coi là "những bình luận yêu thích nhất". Đạo diễn của bộ phim từng có doanh thu cao nhất Nhật Bản Your Name – Tên cậu là gì?, Shinkai Makoto, nhận xét về bộ phim trên Twitter: "Đó là một bộ phim tuyệt vời làm rung chuyển những kỷ niệm đã quên trong tôi. Đạo diễn Mari Okada, tiếp tục thể hiện sự mới lạ của anime với tư cách là nhà biên kịch..." Tham khảo Liên kết ngoài trên trang của nhà phân phối phim tại Úc và New Zealand trên trang của nhà phân phối phim tại Vương quốc Anh và Ireland trên trang của nhà phân phối phim tại Hoa Kỳ và Canada Phim anime P.A. Works
wiki
Thử thách thần chết: Giữa hai thế giới (, ) là một bộ phim ra mắt vào năm 2017 của Hàn Quốc thuộc thể loại giả tưởng do Kim Yong-hwa làm đạo diễn và dựa trên một webcomic của Joo Ho-min. Bộ phim sẽ được phát hành trong hai phần, với các ngôi sao Ha Jung-woo, Cha Tae-hyun, Ju Ji-hoon và Kim Hyang-gi. Phần đầu của bộ phim được ra mắt vào 20 tháng 12 năm 2017. Nội dung Lưu ý: Nội dung dưới đây có thể sẽ tiết lộ gần hết cốt truyện. Theo Kinh Phật, địa ngục được chia làm 7 tầng, tượng trưng cho 7 tội lỗi cơ bản của con người: lừa dối, lười nhác, bất công, phản bội, bạo lực, sát sinh và bất hiếu. Khi một người tới Hậu kiếp, họ sẽ bị phán xử 7 lần ở 7 tầng trong vòng 49 ngày. Chỉ những người vượt qua hết tất cả thử thách mới có thể được đầu thai hóa kiếp. Kim Ja-hong (Cha Tae-hyun) là một người lính cứu hỏa mẫu mực, tận tụy, hết lòng yêu thương gia đình của mình và mọi người xung quanh. Thế nhưng, trong một nhiệm vụ giải cứu một đứa bé khỏi một vụ hỏa hoạn, Kim không may gặp tai nạn. Dù đứa bé đã an toàn, nhưng Kim thì đã qua đời. Tại đây anh gặp hai Vệ thần Hewonmak (Joo Ji-hoon) và Lee Deok-choon (Kim Hyang-gi). Deok-choon cho biết anh là 1 Linh hồn Thuần Khiết (linh hồn của những người không gây ra bất kì tội lỗi nào ở Dương thế) hàng trăm năm mới có một. Anh vô cùng sốc khi biết mình đã chết nhưng chưa kịp gặp mẹ lần cuối thì anh đã bị hút vào con đường dẫn tới cổng Hậu thế. Gang-lim (Ha Jung-woo) - đội trưởng đội Vệ thần cũng tham gia bảo vệ anh với tư cách là Luật sư bào chữa. Tưởng chừng sẽ dễ dàng, nhưng hành trình đầu thai chuyển kiếp của anh lại vô cùng chông gai: trừ bất công và phản bội, những tầng địa ngục còn lại luôn cố gắng kết tội và trừng phạt anh. Vì những việc làm sai trái trong quá khứ của mình giúp cuộc sống của tất cả mọi người xung quanh anh trở nên tốt đẹp hơn nên các vị thần cai quản từng tầng đều không tuyên án anh. Cảnh phim chỉ thực sự cao trào khi anh bước vào 2 tầng cuối: Địa ngục Bạo lực và Địa ngục Bất hiếu. Kể từ đây, quá khứ đầy đau buồn và u ám của anh hiện ra từng chút một: anh có một người mẹ bị câm và một người em trai bị suy dinh dưỡng tên Kim Su-hong. Tuy có một gia đình hạnh phúc nhưng vì quá khổ cực, anh đã cố giết mẹ của mình và tự tử cùng người em trai nhưng không thành. Quá mặc cảm, anh đã bỏ nhà ra đi suốt 15 năm và làm nhiều công việc khác nhau với ước muốn có thể bù đắp cho sự túng thiếu của gia đình... Hành trình của Kim Ja-hong càng khó khăn hơn khi người em trai Kim Su-hong trở thành một Linh hồn Hận thù do Won Dong-yeon (Do Kyung-soo) - một binh nhì bị bệnh trầm cảm vô tình bắn trúng bụng Su-hong và Trung úy Park Moo-shin (Lee Joon-hyuk) chôn sống. Gang-lim buộc phải lên Dương thế để ngăn cản Su-hong lúc này vừa hận Ja-hong vừa hận Moo-shin đến mức có ý định làm đảo lộn cuộc sống Dương thế. Hewonmak - thực ra là Chúa tể Yeomra (Lee Jung-jae) cảnh báo Gang-lim đang phá luật Âm giới vì hành động của mình nhưng Gang-lim bỏ ngoài tai. Sau một hồi đuổi bắt, Gang-lim cuối cùng cũng bắt được Su-hong, nhưng khi Su-hong nói lý do tại sao mình chết thực sự thì Gang-lim mới sực tỉnh nhớ lại kiếp trước của mình một cách mơ hồ. Su-hong trốn thoát, nhưng khi phát hiện Gang-lim đang chứng kiến Dong-yeon treo cổ tự sát, Su-hong đã cầu xin Gang-lim cho phép được nói những lời cuối cùng trước khi từ biệt Dương thế. Tham khảo Liên kết ngoài NAVER電影 - 與神同行 Daum電影 - 與神同行 Movist - 與神同行 韓國電影數據庫 - 與神同行 NAVER原著線上漫畫 原作漫畫LINE WEBTOON台灣繁體中文版 Phim chính kịch thập niên 2010 Phim kỳ ảo thập niên 2010 Phim năm 2017 Phim về tòa án Phim tiếng Triều Tiên Phim Hàn Quốc
wiki
"Ditto" là một bài hát được thu âm bởi nhóm nhạc nữ Hàn Quốc NewJeans cho album đĩa đơn đầu tiên của họ OMG. Trong khi album đĩa đơn dự kiến phát hành bởi ADOR, một công ty con của Hybe Corporation, vào ngày 2 tháng 1 năm 2023, "Ditto" được tung ra dưới dạng ca khúc phát hành trước vào ngày 19 tháng 12 năm 2022. Phát hành và quảng bá Ngày 10 tháng 11 năm 2022 trong cuộc họp báo cộng đồng thường niên của Hybe Corporation trên YouTube, Giám đốc điều hành Park Jiwon đã thông báo rằng NewJeans sẽ trở lại vào ngày 2 tháng 1 năm 2023 với album đơn đầu tiên OMG. Cùng ngày, có thông tin tiết lộ rằng album đĩa đơn sẽ bao gồm ca khúc chủ đề cùng tên, cũng như một đĩa đơn phát hành trước, được phát hành vào ngày 19 tháng 12 năm 2022. Teaser đầu tiên, lấy cảm hứng từ hình ảnh Giáng sinh thập niên 90, được phát hành vào ngày 12 tháng 12. Cùng ngày, tựa đề của bản phát hành trước đã được tiết lộ. NewJeans chuẩn bị hai video âm nhạc cho "Ditto", cả hai đều do Shin Woo-seok làm đạo diễn. Sáng tác Bài hát được viết lời bởi Minji của NewJeans, Oohyo, The Black Skirts và Ylva Dimberg, người cũng tham gia sáng tác với 250. "Ditto" được viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Hàn và được sáng tác ở điệu tính F♯ thứ, với nhịp độ 134 nhịp mỗi phút. Trong một tuyên bố ngắn với các truyền thông Hàn Quốc, Giám đốc điều hành ADOR Min Hee-jin nói rằng ca khúc thể hiện âm hưởng mùa đông của NewJeans và bài hát diễn giải lại thể loại khiêu vũ của câu lạc bộ Baltimore với "phong cách riêng". Video âm nhạc Video âm nhạc gồm hai phần được đạo diễn bởi Shin Woo-seok, người điều hành Dolphiners Films, một công ty sản xuất phim và thương mại. Kể một câu chuyện "như phim" của NewJeans và Bunnies (tên fandom của nhóm). Đoạn video bắt đầu tương tự như một cuốn phim gia đình, năm thành viên trong bộ đồng phục học sinh. Đoạn video mang cảm giác hoài cổ và bí ẩn có sự xuất hiện của khách mời Park Ji-hu và Choi Hyun-wook Danh sách người thực hiện Các credit được điều chỉnh từ Melon. Ylva Dimberg – soạn nhạc, viết lời The Black Skirts – viết lời Oohyo – viết lời Minji (NewJeans) – viết lời 250 – soạn nhạc, hòa tấu Lịch sử phát hành Chú thích Bài hát năm 2022 Bài hát tiếng Triều Tiên
wiki
a) Chứng minh rằng tích của bốn số nguyên liên tiếp cộng với $1$ là bình phương của một số nguyên. b) Tìm các cặp số nguyên $(x ; y)$ là nghiệm của hệ phương trình $$\begin{cases} 2 x y-x &=10 \\ x+y+x y &=11 \end{cases}$$ a) Cho $a$, $b$ là các số thực không âm, $c$ là số thực dương thỏa mãn đẳng thức Chứng minh rằng b) Tim các số nguyên dương $a$ và $b$ sao cho là số hữu tỉ. Cho tam giác $A B C$. Đường tròn $(I)$ nội tiếp tam giác $A B C$ lần lượt tiếp xúc với các cạnh $B C$, $C A$, $A B$ tại các điểm $D$, $E$, $G$. Hai đường thẳng $D E$, $D G$ lần lượt cắt đường phân giác ngoài của góc $B A C$ tại $M$, $N$. Hai dường thẳng $M G$, $N E$ cắt nhau tại điểm $P$. Chứng minh a) $E G$ song song với $M N$. b) Điểm $P$ thuộc đường tròn $(I)$. Bảy lục giác đều được sắp xếp và tô màu bằng hai màu trắng, đen như ở Hình $1$. Mỗi lần cho phép chọn ra một lục giác đều, đồi màu của lục giác đó và của tất cả các lục giác đều có chung cạnh với lục giác đó (trắng thành đen hoặc đen thành trắng). Chứng minh rằng dù có thực hiện cách làm trên bao nhiêu lần đi nữa, cũng không thể nhận được các lục giác đều được tô màu như ở Hình $2$. Chứng minh rằng tồn tại số nguyên dương $n>10^{2023}$ sao cho tổng tất cả các số nguyên tố nhỏ hơn $n$ là một sô nguyên tố cùng nhau với $n$.
vanhoc
Vườn quốc gia Pieniny () là một khu vực được bảo vệ nằm ở trung tâm của dãy núi Pieniny ở cực nam của Ba Lan. Về mặt hành chính, Công viên nằm trong Voivodeship Lesser Ba Lan ở biên giới với Slovakia. Trụ sở chính của công ty đặt tại Krościenko nad Dunajcem. Dãy núi Pieniny được chia thành ba dãy: Pieniny Spiskie, Małe Pieniny và dãy Pieniny Właściwe (nơi đặt vườn quốc gia Pieniny). Diện tích của vườn là 23.46 km2, trong đó 13.11   km² là rừng. Một phần ba (7,5   km²) được bảo vệ nghiêm ngặt. Về phía Slovakia của dãy núi có một vườn quốc gia song song được gọi là vườn Pieninský národný. Lịch sử Ý tưởng cho việc tạo ra Vườn Quốc gia ở Pieniny đến từ GS. Władysław Szafer, thành viên của Ủy ban bảo tồn thiên nhiên quốc gia () vào năm 1921. Trong cùng năm đó, một khu bảo tồn tư nhân trên diện tích 75.000 mét vuông đã được Stanisław Drohojowski mở ra xung quanh tàn tích của lâu đài Czorsztyn. Năm 1928, chính phủ Ba Lan đã thực hiện các giao dịch mua đất đầu tiên và vào ngày 23 tháng 5 năm 1932, Bộ Nông nghiệp đã tạo ra một Vườn Quốc gia tại thành phố Pieniny, trên khu vực 7.36   km². Sau Thế chiến II, quyết định được xác nhận bởi dự luật ngày 30 tháng 10 năm 1954, chính thức tạo ra Vườn quốc gia Pieniny. Đặc điểm Các ngọn núi Pieniny chủ yếu được hình thành từ đá vôi và chúng tạo ra những bức tường gần như thẳng đứng đẹp như tranh vẽ và rất ấn tượng, đổ xuống phía sông Dunajec. Đỉnh núi cao và nổi tiếng nhất - Trzy Korony (Ba vương miện) cao 982 mét so với mực nước biển, tuy nhiên ngọn núi cao nhất của Pieniny - Wysokie Skałki - cao hơn mực nước biển 1050 mét và không nằm trong khu vực của Công viên. Vườn quốc gia Pieniny nằm trong lưu vực sông Dunajec và dòng sông chiếm vị trí quan trọng trong số các yếu tố ảnh hưởng đến diện mạo của Pieniny. Mặc dù Công viên có kích thước nhỏ, nhưng trên khu vực của nó phát triển mạnh hàng trăm loài thực vật, bao gồm 640 loại nấm. Đôi khi, trên cùng một loại đá, phát triển cây cối với các cách thức sinh tồn trái ngược nhau. Đồng cỏ của công viên, là kết quả của hoạt động của con người, là một trong những hệ sinh thái thực vật phong phú nhất của Ba Lan (30 đến 40 loài hoa cho mỗi mét vuông). Cho đến nay, khoảng 6500 loài động vật đã được chứng minh là sống ở Pieniny. Người ta cho rằng khu vực này thậm chí còn phong phú hơn - với tới 15 000 loài. Có rất nhiều loài chim, cá, bò sát và lưỡng cư cũng như động vật có vú. Động vật ăn thịt quan trọng nhất là loài linh miêu. Trên bờ biển Dunajec rái cá phát triển mạnh. Các khu định cư lâu dài đầu tiên của con người ở vùng núi Pieniny có từ năm 1257, khi công chúa Ba Lan Kinga được trao cho những vùng đất gần đó. Năm 1280, công chúa thành lập một tu viện tại Stary Sącz, sau đó lâu đài Czorsztyn được xây dựng. Lâu đài này thuộc về Ba Lan, ở phía nam thung lũng Dunajec, người Hung đã tự xây dựng, sau đó gọi là Dunajec (ngày nay nó thuộc về Ba Lan và tên là Niedzica). Thung lũng Dunajec vào năm 1997 đã bị ngập trong nước, là kết quả của việc xây dựng một con đập sông. Có 34 km đường mòn đi bộ trong vườn dành cho du khách, từ những đỉnh núi như Sokolica và Trzy Korony, người ta có thể có tầm nhìn tuyệt vời về Pieniny và dãy núi Tatra cũng như Dunajec. Điểm thu hút chính của Vườn quốc gia này là một chuyến đi trên sông trên những chiếc bè gỗ, rất phổ biến đối với tất cả khách du lịch. Xem thêm Vườn quốc gia Ba Lan Hẻm núi sông Dunajec Lâu đài sông Dunajec Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Park Thông tin thêm về Công viên Ban công viên quốc gia Ba Lan Trang cổng thông tin vườn quốc gia Pieniny Vườn quốc gia Ba Lan IUCN Loại II
wiki
Bài làm Bún riêu cua là một trong hàng trăm món ăn dân dã được người Việt Nam từ nông thôn đến thành thị ưa chuộng bởi nó vừa hội tụ đủ ba yếu tố: ngon – bổ – rẻ, vừa có hương vị đậm đà và hình thức vô cùng hấp dẫn. Nguyên liệu chính của món riêu cua là cua đồng. Để chuẩn bị một bữa bún riêu cua cho 5 người ăn, cần 1 kg cua đồng tươi sống, chọn cua cái thịt chắc và ngọt hơn cua đực. Cua mua về đổ vào thùng ngâm nước rồi xóc cho hết bùn. Xé cua ra, bỏ mai, yếm và nắp miệng. Rửa nhiều lần cho sạch, để thật ráo nước rồi mới cho vào cối giã nhuyễn. Lấy khoảng hai lít nước, cho vào chỗ cua vừa giã nhuyễn, dùng tay bóp cho thịt cua rã ra hết, vớt bỏ bã, gạn lấy nước đổ vào nồi. Nêm một chút mắm muối, dùng đũa khuấy đều theo vòng tròn, sau đó để lắng chừng năm, mười phút mới bắc lên bếp, đun nhỏ lửa. Gạch cua khêu từ mai cua để trong chén nhỏ, rửa sạch rồi cho vào một thìa nước mắm ngon. Bắc chảo lên bếp, chảo nóng cho mỡ nước vào, đợi mỡ nóng già bỏ hành khô phi cho vàng rồi đổ dầu hạt điều và gạch cua vào quấy nhẹ, tạo thành một chất sền sệt màu vàng đỏ, óng ánh và thơm phức, múc ra bát để riêng. Đổ cà chua xắt dọc vào chảo vừa chưng màu, xào cho mềm. Các gia vị dùng để nấu riêu cua là cà chua chín, quả dọc tươi hoặc me xanh, me chín, quả tai chua… Nếu dùng quả dọc thì phải nướng cháy sém cho ra hết nhựa, ngâm vào nước lạnh để bóc vỏ và đợi khi nồi canh bắt đầu sôi, thịt cua đóng thành tảng mới bỏ quả dọc vào. Khi trái dọc chín thì vớt ra, dầm nát phần cùi, bỏ hột rồi trút cả dọc và cà chua vào nồi canh cua đang sôi lăn tăn. Đợi khi thịt cua đã đóng thành từng mảng thì lấy thìa múc gạch, rưới nhẹ lên trên và rắc hành hoa thái nhỏ. Có thể nêm chút bột ngọt cho nước canh thêm ngon.
vanhoc
Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī) là tên dịch theo âm, thường được gọi tắt là Văn-thù, dịch nghĩa là Diệu Đức (zh. 妙德), Diệu Cát Tường (zh. 妙吉祥), cũng có lúc được gọi là Diệu Âm (zh. 妙音), dịch từ tên tiếng Phạn là Mañjughoṣa, là một vị Bồ Tát tượng trưng cho trí huệ, một trong những vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo. Lần đầu tiên người ta nhắc đến Văn-thù trong tác phẩm Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ (sa. ārya-mañjuśrī-mūlakalpa) ở thế kỉ thứ 4. Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa, được vẽ khoảng ngang đầu. Người ta xem đó là biểu tượng trí huệ phá đêm tối của Vô minh. Về sau chúng ta thường thấy Văn-thù cưỡi trên một con sư tử. Lịch sử Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư xuất sắc như Tông-khách-ba thường được xem là hiện thân của Văn-thù (Châu-cô). Dưới tên Diệu Âm (zh. 妙音),"Người với tiếng nói êm dịu", Văn-thù Bồ Tát thường được tán tụng trước khi hành giả nghiên cứu kinh điển, nhất là kinh điển thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa và học thuyết của Trung quán tông. Văn-thù là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ, đạt được bằng phương tiện tri thức. Văn-thù cũng xuất hiện dưới dạng một Thần thể (sa. iṣṭadevatā, sādhita, bo. yidam) phẫn nộ, có tên gọi là Diêm-mạn-đức-ca –"Người chiến thắng tử thần"(sa. yamāntaka), có dạng vị thần mang đầu bò. Dạng này là Thần thể quan trọng của phái Cách-lỗ tại Tây Tạng. Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, Văn-thù được Phật Thích-ca đích thân giao phó việc truyền bá Phật pháp tại đây và Ngũ Đài sơn chính là nơi Bồ Tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là trụ xứ của Văn-thù (xem Tứ đại danh sơn). Một thuyết khác bảo rằng, Bồ Tát đã từng xuất hiện tại Trung Quốc trong thế kỉ 1, đời Hán Minh Đế. Câu niệm danh hiệu của vị bồ tát này là:"Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát". Hình ảnh Tham khảo Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986. Liên kết ngoài Kinh Phật thuyết Văn Thù Văn Thù nói về cảnh giới Bất tư nghị Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Nhân vật Phong thần diễn nghĩa Nhân vật Tây du ký Đại thừa
wiki
là một game đối kháng dựa trên visual novel Fate/stay night, phát hành cho hệ máy PlayStation Portable của Capcom và Cavia hợp tác với Type-Moon. Tất cả các nhân vật đều được kết xuất đồ họa theo một phong cách siêu biến dạng. Phần tiếp theo có tựa đề Fate/tiger colosseum Upper được phát hành vào ngày 28 tháng 8 năm 2008. Nhân vật Các nhân vật chơi được trong game bao gồm Archer, Rin Tōsaka, Shirō Emiya, Sakura Matō, Saber và Taiga Fujimura. Tất cả các nhân vật từ dòng Fate/stay night cũng như các nhân vật chính trong Fate/hollow ataraxia, Bazett Fraga McRemitz và Caren Ortensia đều xuất hiện trong vai trò là nhân vật điều khiển được. Nhân vật thưởng thêm cũng được xem như là một sự bổ sung mới vào danh sách các nhân vật. Nhân vật được tiết lộ có nét giống Saber đang mặc một bộ trang phục sư tử (đại diện cho con vật yêu thích của cô) cầm một miếng thịt. Trong những đoạn trailer mọi lời mà cô nói chỉ là "Gao Gao Gao!" giống với âm thanh phát ra từ một con sư tử. tiger colosseum Taiga Fujimura Saber Shirō Emiya Archer Rin Tōsaka Sakura Matō Dark Sakura Lancer Rider Caster Berserker Assassin Illyasviel von Einzbern Shinji Matō Sōichirō Kuzuki True Assassin Saber Alter Gilgamesh Kirei Kotomine Bazett Fraga Mcremitz (đến từ hollow ataraxia) Caren Ortensia (đến từ hollow ataraxia) Saber Lion Saber trong trang phục sư tử. tiger colosseum Upper Kiritsugu Emiya Irisviel von Einzbern Avenger (đến từ hollow ataraxia) Neco-Arc (đến từ Tsukihime) Nhân vật chính thứ hai của tiger colosseum Upper. Phantas-Moon Ruby-chan/Magical-Amber Magical-Caren Caren dưới dạng cô gái phép thuật đầu trùm bao giấy và là nhân vật đối kháng trong tiger colosseum Upper. Kaleido-Ruby (đến từ hollow ataraxia) Rin dưới dạng cô gái phép thuật. Đón nhận Fate/tiger colosseum là tựa game thứ tư bán chạy nhất trong tuần lễ ra mắt tại Nhật Bản theo nguồn tin từ Media Create Weekly Ranking, với 54.880 bản được bày bán ngay sau khi phát hành. Sau đó nó tăng lên vị trí thứ 3 với 64.530 bản được bán ra. Game nhận được số điểm 70/70/70/60 từ Dengeki và 25/40 (7/6/6/6) từ Famitsu. Tham khảo Trò chơi điện tử năm 2007 Trò chơi Capcom Trò chơi hãng Cavia (công ty) Fate/stay night Trò chơi điện tử đối kháng Trò chơi điện tử độc quyền cho Nhật Bản Trò chơi PlayStation Portable Trò chơi dành cho PlayStation Portable Type-Moon Trò chơi điện tử dựa trên anime và manga
wiki
Qua chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự La Tinh, văn học Pháp thâm nhập vào văn học Việt Nam trên hai mặt : – Ðem lại những thể loại mới vào văn học Việt Nam như thơ ngụ ngôn, tiểu thuyết văn xuôi. – Cách tân hình thức, thay đổi diễn xuất, phong cách, tạo ra nguồn cảm hứng mới, thoả mãn những thị hiếu mới, đề xuất những tư tưởng mới. 1. Dịch thơ Pháp Sự thâm nhập sớm nhất của văn học Pháp qua đường dịch thuật được thực hiện từ năm 1884 qua cuốn sách của Trương Minh Ký, Chuyện Phang-sa diễn ra quốc ngữ (16 chuyện ngụ ngôn của La Fontaine), Sài-gòn, 1884 (xem Trần Văn Giáp và đtg, 1972, 82). Còn có một cuốn khác cùng đề Chuyện Phang-sa diễn ra quốc ngữ gồm 150 chuyện ngụ ngôn của La Fontaine dịch ra dưới thể văn xuôi và thơ lục bát (18 bài) . Sách này được xuất bản năm 1886 và được tài trợ của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ thuộc Pháp (Conseil Colonial de la Cochinchine Française). Xem qua cơ quan tài trợ này đủ biết việc áp dụng chữ quốc ngữ có đi đôi với chủ trương phổ biến văn học Pháp ở những vùng Pháp mới chiếm đóng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng bộ ba Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký, những nhà nho miền Nam tiên phong trong việc dùng chữ quốc ngữ và có hấp thụ được văn hoá Âu Tây không phải là những tác nhân tích cực cho việc truyền bá văn chương Pháp. Vai trò này về sau dành cho Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh và nhất là nhóm Nam Phong từ nhị thập niên thế kỷ 20 trở đi. Trái lại một người như Huình Tịnh Paulus Của quả xứng đáng là một nhà Việt Nam học có công trong sự nghiệp giữ gìn, làm giàu, tăng niềm tin tưởng vào tiếng Việt và chữ quốc ngữ qua cuốn Ðại Nam Quấc Âm tự vị, Saigon, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1895, 596 trang. Thật ra ý ban đầu của tác giả là muốn làm một cuốn từ điển song ngữ Việt-Pháp nhưng vì gặp nhiều trở ngại đành bỏ phần tiếng Pháp nên Huình Tịnh Của trở nên tác giả của cuốn từ điển Việt-Việt đầu tiên. Tác giả đã có lời phân bày ( Ðại Nam Quấc Âm tự vị , tr. IV) : ” Làm tự vị này, sơ tâm ta muốn cho có tiếng Langsa. Hồi mới khởi công, có nhiều quan Tây giùm giúp, sau các ông ấy có việc phải thuyên đi Bắc-kỳ, bỏ có một mình ta, lúng túng, phải bỏ phần dịch tiếng Langsa. Nhưng vậy nhơn khi rỗi rảnh, ta cứ làm theo tiếng ta, chữ ta, viết đi chép lại, ngày đêm khó nhọc, hơn bốn năm trời mới thành công việc… “ Trong một bài nghiên cứu đăng trong Cahiers d’Etudes Vietnamiennes (Tập San Việt Học), 10, 1989-90, Phạm Ðán Bình đã lập một bản kê rất công phu theo niên đại xuất hiện những bản dịch ra Việt ngữ các bài thơ Pháp. Bản kê bắt đầu với bài dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine của Trương Minh Ký năm 1884 như đã lược bày ở trên và kết thúc với bài dịch của Tường Vân đăng trong Tao Ðàn số 13, 16.10.1939, có đề là Từ giã tổ quốc (Tiếng hát của kẻ vượt bể khơi đi) mà nguyên bản tiếng Pháp là của Victor Hugo, Le chant de ceux qui s’en vont sur mer (Les Châtiments). Cũng trong bài này, Phạm Ðán Bình đã đưa ra một số nhận xét đáng lưu ý khi nói về ảnh hưởng của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Nếu không kể nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine, các thi sĩ Pháp khác có thơ dịch ra tiếng Việt thì Victor Hugo dẫn đầu với 27 bài ; Lamartine 16 bài ; Musset 11 ; Verlaine 10 ; Ronsard và Sully Prudhomme, mỗi người 6 bài. Năm thi sĩ Pháp, Lamartine, Hugo, Musset, Ronsard và Verlaine hầu hết thuộc truờng phái lãng mạng, đã chiếm gần phân nửa tổng số các bài thơ dịch (tức là 139/300) ; số còn lại dành cho khoảng 60 tác giả khác. Các người dịch dường như nghiêng về các đề tài buồn như sự trôi đi của thời gian, tính mỏng manh của đời người, cái lạnh lùng của số mệnh. Nếu tính theo ngày xuất hiện bản dịch thì La Fontaine được dịch sớm nhất, lần đầu tiên năm 1884 do Trương Minh Ký ; Beaudelaire năm 1917 do Phạm Quỳnh dịch ra văn xuôi ba bài thơ trong tập Fleurs du Mal là Spleen (U uất), La Rançon (Chuộc mình) và Recueillement (Bình tĩnh), đăng trong Nam Phong số 5, 1917. Chateaubriand, một nhà thơ lãng mạng nổi tiếng được dịch năm 1921 qua bài Nuit chez les sauvages de l’Amérique (Ðêm vắng ở khoảng giã bên Tân Thế Giới) do một học sinh năm thứ 3 Quốc Tử Giám, đăng ở Nam Phong số 47. Cùng năm 1921, Lamartine đuợc dịch ra 5 lần, bốn lần với bài Le lac (Cái hồ) , một lần với bài L’Automne (Mùa thu), tất cả đều xuất hiện trên Nam Phong số 48, 49 và 51. Ronsard, một tác giả ở thế kỷ 16, phải chờ đến 1923 với bài Sonnet (sur la mort de Marie) (Một người con gái từ trần); Sully Prudhomme năm 1923 với bài Le vase brisé (Cái bình vỡ); Musset năm 1924 với bài L’étoile du soir (Hỏi sao hôm), bài Lorsque le laboureur… (Nhà sét đánh cháy) đều đăng trong Nam Phong số 88 và sau cùng là Victor Hugo, năm 1925, với bài Hymne [Mort pour la patrie] (Vị quốc vong thân), Nam Phong số 91, và bài Oceano Nox (Những kẻ đắm tàu), Nam Phong số 93. 2. Dịch truyện và tiểu thuyết Pháp Về truyện và tiểu thuyết Pháp dịch ra tiếng Việt thì dịch giả đầu tiên cũng là Trương Minh Ký với cuốn Tê-lê-mạc phiêu lưu ký, Sài-gòn, 1887; nguyên bản Pháp văn là của Fenelon, Les aventures de Télémaque (1699). Sách này được Trương Minh Ký diễn ra bằng tiếng Việt theo thể thơ lục bát và khởi đăng ở Gia Ðịnh báo, kể từ 20.6.1885. Thứ đến phải kể đến Trần Chánh Chiếu (1867-1919) còn gọi là Gilbert Chiếu, người gốc quận Châu Thành, Rạch Giá. Ông theo học ở Collège d”Adran Sài Gòn, sau được bổ dụng làm giáo học rồi làm thông ngôn cho Tham biện Chủ tỉnh Rạch Giá. Theo Bùi Ðức Tịnh (1972: 46-47) thì trong hai năm 1906, 1907, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút tờ Nông Cổ Mín Ðàm (số 1, 1901, Saigon) và nổi tiếng trong cuộc vận động Duy Tân nên được mệnh danh là ông Phủ Minh Tân. Ðồng thời Gilbert Chiếu cũng kiêm luôn chủ bút tờ Lục Tỉnh Tân Văn (số 1, 1907, Saigon) dưới tên Trần Nhựt Thăng, hiệu là Ðông Sơ. Trần Chánh Chiếu có cho in cuốn Tiền căn báo hậu, bản dịch cuốn tiểu thuyết của Alexandre Dumas, Le Comte de Monte-Cristo (1846) do nhà Imprimerie de l’Union, Saigon, ấn hành năm 1914. Sau bản dịch Tê-lê-mạc phiêu lưu ký, Sài-gòn, 1887, của Trương Minh Ký, đây là bản dịch tiểu thuyết Pháp thứ hai, cách nhau 27 năm. Về việc dịch tiểu thuyết Pháp, một người thứ ba đáng nói đến là Nguyễn Văn Vĩnh. Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1896, mới 14 tuổi đã tốt nghiệp trường Thông ngôn. Có thể nói Nguyễn Văn Vĩnh là người đã dịch tiểu thuyết Pháp ra tiếng Việt nhiều nhất. Một số tác phẩm Pháp do Nguyễn Văn Vĩnh dịch được liệt kê như sau (Trần Văn Giáp và đtg, 1972, II, 103) : – 1927 A. Dumas, Les trois mousquetaires (1844) (Truyện ba chàng ngự lâm pháo thủ) – 1927 Fenelon, Les aventures de Télémaque (1699) (Tê-lê-mặc phiêu lưu ký) – 1932 Abbé Prévost , Histoire du chevalier des Grieux et de Manon Lescault (1731) (Mai-nương Lệ-cốt) – 1928 V. Hugo, Les misérables (1862) (Những kẻ khốn nạn) – 1928 Ch. Perrault, Les contes (1697) (Truyện trẻ con) – 1928 H. De Balzac, La peau de chagrin (1831) (Truyện miếng da lừa) Ngoài ra nội trong năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch ra bốn bản kịch nổi tiếng của soạn giả Pháp Molière ở thế kỷ 17. Ðó là Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire), Người biển lận (L’avare), Giả đạo đức (Le misanthrope) và Trưởng giả học làm sang (Le bourgeois gentilhomme). 3. Ảnh hưởng thơ Pháp vào thơ mới Việt Nam Qua phần trình bày trên, ta nhận thấy rằng ở mặt chữ viết, chữ quốc ngữ được chính thức dùng để viết tiếng Việt là vào giữa thế kỷ 19 do nhà cầm quyền Pháp quyết định và chỉ áp dụng cho phần đất Pháp mới chiếm ở Sài Gòn-Lục Tỉnh. Dần dần với cuộc chinh phục quân sự Việt Nam của Pháp càng ngày càng mở rộng ra phía bắc và miền trung Việt Nam thì việc dùng chữ quốc ngữ cũng được lan ra theo với lực lượng chiếm đóng của Pháp. Có thể nói việc áp dụng chữ quốc ngữ xuất phát từ trong Nam đã làm một cuộc Bắc tiến, lần hồi lấn át chữ nôm và chữ Hán, và đã thắng lợi hoàn toàn với quyết định năm 1918 của Triều đình Huế bãi bỏ các cuộc thi kiểu xưa của các triều vua chúa Việt Nam mà trong đó chữ viết chính là chữ khối vuông (Hán và nôm). Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng danh từ chữ quốc ngữ ở đây là để chỉ chữ viết, thứ chữ viết tiếng Việt dùng mẫu tự La Tinh ; chữ quốc ngữ đối lập với chữ nôm thuộc loại chữ khối vuông dùng “hình tượng” tuy cả hai cùng sử dụng để viết tiếng Việt. Không thể và không nên hiểu chữ quốc ngữ như là tiếng quốc ngữ được La Mã hoá như qua từ ngữ “langue nationale romanisée” (xem Bùi-Xuân Bào, 1985, tr. 4). Hiểu như thế này sẽ dẫn độc giả, nhất là độc giả ngoại quốc, đến sự lẫn lộn tai hại là tiếng Việt đã bị La Mã hoá. Ðồng thời với hướng tiến từ Nam ra Bắc của chữ quốc ngữ thì việc du nhập văn chương Pháp qua những bản dịch các bài thơ hoặc truyện và tiểu thuyết cũng phát triển theo hướng Sài Gòn-Hà Nội. Như vậy trong lĩnh vực thi thơ, sự gặp gỡ với các thi sĩ Pháp đã đem tới cho tác gia Việt Nam nguồn cảm hứng mới và những hình thức biểu đạt mới. Sự chuyển tiếp bắt đầu từ cuối thập niên thứ hai của thế kỷ 20 được thể hiện qua sự phê bình, hoặc sự lảng quên luật thơ Ðường mà tiền nhân xem như một kiểu mẫu hoàn chỉnh của thi thơ. Trong lúc xã hội khám phá ra cá nhân, cái tôi, thì văn thơ hồ hởi thoát ra khỏi những niêm luật khắc khe đã định ra ở Trung Quốc từ mười thế kỷ trước về việc gieo vần, thuận thanh, đối ngẫu. Với sự lui dần vào hậu trường của Hán tự, các bài thơ làm theo Ðường luật càng ngày càng hiếm. Cảnh mờ dần của thơ Ðường kéo theo sự mai một của một nhãn quan nào đó về vũ trụ, của một thứ nhuệ cảm nào đó, của một quan niệm về nghệ thuật nào đó. Trong khi ấy, các môn đồ và những người khởi xướng thơ mới khai trương từ năm 1932 Ố với bài Tình già của Phan Khôi đăng trong Phụ Nữ tân văn, số 122, ngày 10.3.32 Ố hầu hết còn đang ở độ thanh xuân; một số trong bọn họ đã nổi tiếng lúc mới 16 tuổi, ngay ở bài thơ đầu và giành được cảm tình của thế hệ trẻ ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Âu Tây. Rất đông các tác giả thơ mới đã hút nhụy từ thơ Pháp và không đọc được chữ Hán. Ðối với họ, sự thay thế chữ Hán hay chữ nôm bằng chữ quốc ngữ không phải chỉ là một sự thay đổi chữ viết, mà còn là một cuộc giả từ đối với một di sản trĩu nặng những ràng buộc nó bóp nghẹt cá nhân và làm cản trở cảm hứng của thi sĩ. Theo Xuân Diệu* , con người ở Việt Nam tính theo diện một cá nhân ” trong những năm 30 (của thế kỷ 20) chối bỏ những tấm tã lót của xã hội phong kiến, đã ra đời lần đầu tiên. Có một lòng cảm thán, một sự phát minh say sưa ; đó là một thứ tình đầu… Chúng tôi muốn giải phóng cả nội dung lẫn hình thức của thơ. “ Giải phóng nội dung ? Tức là làm ra những bài thơ cá biệt. ” Không còn là cái vui, cái buồn, cái tuyệt vọng phi cá thể, đã lắng xuống, có thể nói là đã cô đọng lại, được tìm thấy trong thi thơ truyền thống, nhưng mà là một sự rung cảm thầm kín của một con người bằng xương bằng thịt, sự phơi bày ra những góc chốn u tối của một cá thể đau buồn hoặc sung sướng, thấy và cảm thấy sự vật và hoàn cảnh đã sống qua với một cảm giác rung động, dâng cao gần đến mức bệnh tật. ” (Nguyễn Khắc Viện và ctv, 1975: 47). Ðể thực hiện công việc này thì người mẫu có đó, ở trong văn học Pháp sẵn sàng cho ta mô phỏng. Trên mặt từ ngữ, đôi khi là một sự vay mượn, thường là một sự cải tác, nhưng hay gặp hơn là một sự pha trộn thành công của cảm hứng và công sức, một thứ luyện đan có kết quả của sáng tạo và vay mượn. Như Xuân Diệu đã lấy một câu thơ của Edmond Haraucourt: Partir, c’est mourir un peu (Ði là chết đi một ít), và thay đổi khúc đầu : Yêu là chết ở trong lòng một ít. Một hôm, Alfred de Musset nói với George Sand: Dépêche-toi, George, notre amour est vieux (Nhanh lên em, George, mối tình chúng ta đã già rồi). Câu này làm nguồn cảm hứng cho bài Giục giã của Xuân Diệu : Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi, tình non đã già rồi… Tình non đã già rồi thời đó là một kết hợp từ ngữ khá bạo. Theo lời thú nhận của Xuân Diệu, ” Một số đông độc giả quen thuộc với thơ cổ điển, đã bất bình trước lời văn quá Âu hoá của Xuân Diệu, không còn đặc tính dân tộc, thi vị kín đáo của phương Ðông ; một số người xấu miệng còn cho rằng một số câu thơ của Xuân Diệu làm người ta phải đỏ mặt vì tính suồng sã của nó. “ Những câu dịch sát chữ từ câu thơ Pháp : Hơn một loài hoa đã rụng cành Plus d”une espèce de fleurs a quitté les branches (X.D. “Ðây mùa thu tới”, Thơ thơ, 1938) Nhưng ta cũng có thể tìm ra những cái đổi mới, hay cả những phát minh nằm ở mép giới hạn chấp thuận của ngữ nghĩa, tư duy Việt Nam thời bấy giờ : Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút trước sang tôi phút này (X.D. “Ði thuyền”, Thơ thơ, 1938) (Cái) bay, (cái) trôi, những động từ được biến thành danh từ ; đó chứng tỏ cách dùng từ rất bạo dạn của Xuân Diệu trong câu văn tiếng Việt kể từ những năm 30 của thế kỷ 20. Hơn nữa ta còn có (cái) tôi dùng để chỉ bản ngã, một khái niệm thời thượng lúc bấy giờ, trong trào lưu muốn nâng cao cá nhân, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng. Nói về cú pháp của câu thơ thì các nhà thơ mới không ngại ngùng từ bỏ luật đối ngẫu của thơ truyền thống mà áp dụng phương thức bắc cầu kiểu thơ Pháp : Thức dậy nắng vàng ngang mái nhạt Buồn gieo theo bóng lá đong đưa -> Bên thềm. Ố Ai nấn lòng tôi rộng Cho trải mênh mông buồn xế trưa. Bắc cầu không những chỉ là phương tiện nối liền một yếu tố của một câu thơ với một câu kế tiếp, câu trước trên mặt ý nghĩa chưa được trọn vẹn, còn treo lơ lửng, mà đối với Xuân Diệu còn là một cách thức để ” chuyển tải cái tràn đầy của vế thơ trước qua vế thơ sau theo tinh thần tự do lồng lộng trong thơ Pháp. “: Ố Một tối bầu trời đắm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống đám hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ -> Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy -> Những lời huyền bí toả lên trăng, Những ý bao la rủ xuống trần… (X.D. “Với bàn tay ấy”, Thơ thơ, 1938) Trên đây là những nét phác hoạ về ảnh hưởng thơ Pháp vào thơ Việt, nhất là qua Xuân Diệu, một nhà thơ có tú tài tây. Hoài Thanh và Hoài Chân (1985: 115) đã có nhận xét: ” Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá tây của Xuân-Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng-dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt-nam đã quyến dũ ta. “ N.P.P
vanhoc
Đỗ Thành Mùa chim én trên đảo 1.- Ra đảo gặp đúng mùa biển động, tôi cảm thấy thất vọng. Mới chiều qua theo tàu ra đi, tôi còn thấy bầu trời xanh ngắt một màu, mây dát vàng bóng nắng như vành khăn cô dâu ngày cưới. Vậy mà sau một đêm ngủ dậy, trời đã xám xịt, mây kéo đùng đùng, biển cuồn cuộn sóng. Từ doi đất bé tẹo như cái vũng, tôi nhìn ra biển chẳng thấy gì, cả một phía xa xa như khói, như hơi dầy đặc và đe dọa. Những tàu đánh cá đều neo lại, chiếc nọ buộc rịt lấy chiếc kia, để tránh bị cơn bão bứt xô nghiêng xô ngả. Sóng giập ào ào, đánh chòng chành, lắc lư những chiếc tàu như say rượu. Tôi bước những bước nặng nề trên cát lổn nhổn đầy vỏ ốc, nghe nhoi nhói dưới gan bàn chân. Tôi men ra sát biển, nước vỗ đục ngầu, rào rào như tiếng mọt gặm, hàng dừa xõa tóc, khô khan đứng chờ, mà chả biết chờ gì. Tôi chợt thở dài, một giọng nói nào đó thoang thoảng : ông buồn lắm hả vì mới ra đảo đã gặp ngày biển động. Tôi gật đầu, giọng cô gái nghe rất nhẹ, thì thào : tôi không hiểu sao ông lại bỏ thành phố đến đây, có gì tha thiết đâu mà ông háo hức. Chẳng hiểu sao tôi đem suy nghĩ ra bộc bạch hết trơn : nghe nói mùa chim én trên đảo rất rộn ràng, nên muốn đi xem một lần cho biết. Cô gái cười rinh rích có vẻ trêu chọc : thì ra vậy, người thành phố có lắm mơ tưởng lãng mạn. Tôi lảng sang một việc khác : vậy không ai đi biển hôm nay ? Cô gái giảng giải : phải, mấy năm trước còn có người phiêu lưu dám lặn lội ra đi, nhưng giờ không ai chọn cách đó nữa. Tôi có vẻ chưa hiểu, cô gái nói thêm : bởi người chết nhiều quá, có gia đình liên tiếp 3 năm có 3 người bỏ cuộc và vĩnh viến xa nghề, từ đời cha lan đến đời con lại sang cả đời cháu. Ông vừa đến nên chưa kịp nhìn thấy những mảnh khăn tang héo hắt quẩn quanh. Cả đảo chẳng còn nhà nào không có người hiến mình cho biển. Lời cô gái ngưng ngang như bị chặt bởi một nhát dao ngọt xớt, nhưng dư âm thì lãng đãng rất lâu. Tôi dè dặt cất một lời hỏi hết sức ngớ ngẩn : sao không kiếm nghề khác mà làm. Cô gái cười bù trất, nhưng kìm lại ngay, hỏi ngược gay gắt : ông bảo đổi nghề khác, vậy ông hiến cho một kế đi. Tôi sượng ngắc như nhai phải hạt sạn trong bát cơm bốc khói. Tôi nghẹn ngào lí nhí thưa : tôi xin lỗi. Cô gái quay ngoắt nhìn tôi, bây giờ tôi mới nhận ra một vẻ đẹp kín đáo. Tôi gật đầu chào, cô cũng gật chào lại. Mây giăng kín trên trời bôi nhọ nhờ nhờ cả khuôn mặt, dù là giữa ban ngày. Cô gái có vẻ bẽn lẽn. Tôi định quay gót trở về, nhưng cô gái giữ chân lại. Cô hỏi cho có hỏi : ông biết gì về chim én mà lại cố ra tìm ra đảo để xem. Tôi lúng túng hết sức kể : tôi thích loại chim be bé, khi bay hai cánh xòe ra mỏng manh, nhưng tiếng kêu chít chit thật vui tai. Tôi nghĩ buổi sáng sớm vừa thức dậy, lao xao ngoài khung cửa bầy chim én bu đậu đen đầy trên dây điện che kín một khoảng trời. Tôi nghĩ đến một rặng hòn chênh vênh giữa biển bám đầy những tổ cheo leo để mỗi sáng én bay túa ra chào những đoàn tàu ra khơi, cô có thấy đó là hạnh phúc chứ. Cô gái im lặng hơi lâu, song chỉ nói rất ngắn : ông thật lãng mạn. 2.- Cơn bão đến với đảo quá đột ngột. Mưa vừa rơi lắc rắc thì đã vội thành con thuồng luồng quẫy dọc quẫy ngang. Gió thổi long hàng dừa như muốn lôi bật rễ ném loạn xạ lên bầu trời mù mịt. Biển bị xóa nhòa, tàu bè cọ vào nhau tựa nghiến răng, các dây đỏi bựt tưng tưng dường sắp đứt. Tiếng í ới của vạn chài gọi nhau xem chừng xem đỗi dây buộc thuyền, nghe loáng thoáng chen lẫn trong mưa.Những căn nhà nằm nép quanh mép vũng co ro và ướt sũng, lem nhem chẳng khác người bị xối nước vuốt mặt không kịp. Niềm im lặng bên trong thi nhau cùng sự chộn rộn bên ngoài làm cho lòng ai cũng chùng xuống, nghe rất nặng.Tin tức từ chiếc máy thu thanh bị nhiễu sóng, nghe lúc được lúc mất, loan báo sức gió, sức bão còn dài. Tôi muốn nẫu cả người. Bà chủ nhà cảm thấy tội nghiệp nên chốc chốc lại đi ra đi vào an ủi : không sao đâu, bão ở đảo hung hăng nhưng chóng hết. Sau cơn mưa trời lại sáng.Lòng tôi càng nặng hơn khi thấy ông chồng của bà lúc này không có nhà. Tôi đem câu ấy ra hỏi, bà chủ thở dài mà nói : ông ấy bận rộn lắm vì cảnh “ trồng trầu thì phải khai mương…” Tôi xót xa cả dạ khi thấy cái đoạn sau được bà buông lửng, bỏ buông như chính cuộc đời chông chênh của bà.Tôi nói một câu lấy lòng : đàn ông nào chẳng vậy. Họ như chiếc gậy trong tay người ăn mày, bạ đâu cũng chọc, nhưng sớm muộn rồi cũng phải quay về. Không ngờ lời tôi chẳng những đã chẳng được hưởng ứng mà còn làm bà chủ tỏ ra đanh đá hơn : tôi cũng từng hi vọng thế.Tôi nghĩ về cô gái ngoài bãi. Chợt thấy cuộc sống của mỗi người nữ trên đảo như cụm xương rồng khẳng khiu mọc trơ vơ nơi bãi cát. Gió thổi vùi lên lấp xuống, quay quắt với cát, mưa, khô rang khoe những cạnh xù xì, đưa lên trời như bàn tay cầu xin ân sủng.Tôi muốn hỏi bà chủ lý do chịu đựng của các cô gái trên đảo, nhưng cổ cứ tắc nghẹn. Tôi trằn trọc, hết trở mình lại bò dậy. Tôi ra đứng cạnh ô cửa sổ nhìn mưa gió vằng vật ngoài kia, trời xám ngoe xám ngoắt, oặn mình nôn thốc nôn tháo những luồng quét thô bạo. Bão mạnh quá, như xé rách đất trời ra thành những sợi lưa tưa. Tôi gạn hỏi bà chủ : những ngày bão, đảo lấy gì sống. Bà chủ không đáp thẳng vào câu hỏi : người làm biển chỉ dựa vào biển. Mùa êm thì con tôm, con mực, mùa động thì nhặt nhạnh ba mớ phơi khô mà nhá qua ngày. Ốc cũng biết tìm đường lánh khi bão đến vì bản năng tồn tại. Kẻ này chạy trốn thì kẻ khác lại đôn đáo đi lùa, có lẽ vậy mà oán ân càng lưu cữu, muôn đời khó gỡ được. Bão rớt suốt ngày, càng lúc càng to. Đêm yên tĩnh nghe còn dễ khiếp hơn. Chỉ qua một ngày mà đảo xơ xác hẳn, nhiều tàu dừa bị lốc bứt nằm lăn lóc trên cát nhão, trông thật thảm thương. Sang đến ngày thứ hai, bão có ngớt, nhưng sóng lại bủa dữ, từng ngọn nước như chiếc lưới rộng phủ úp lên những thân tàu, đua nhau muốn lật úp hay bẻ gãy chúng ra. Vạn chài càng gọi nhau chống trả để giữ lấy tài sản. Tin tức khí tượng cho biết cơn bão như đứa bé trai tinh nghịch quậy phá lung tung lang tàng. Tôi thú vị khi nghĩ tuổi nhỏ của mình cũng vậy, chẳng có cây nào quên trèo, chẳng có quả nào quên vặt dù còn xanh, chẳng có trò nào không phá dù có bị rầy la mắng chửi. Bây giờ bão là tuổi trẻ của tôi, của một đứa trai chẳng hề biết sợ. Ví thử có ai tinh nghịch đặt một quả ngon đè dưới chân cọp thì cách này cách khác đứa bé cũngcố lật bàn chân ấy ra mà lấy quả.Bão tới tấp, gió xoay chiều rất lẹ, mưa té tát vuốt mày vuốt mặt không kịp, cứ tưởng đất trời sắp vỡ bung ra. Những cơn gió rít réo quặn mình trông giuống hai gọng kìm ê tô càng lúc càng nghiến đứ đừ da thịt. Mùi muối rất mặn bay xồng xộc khắp trời, chắc hẳn mái tôn cũng muốn rỉ hoen rời rã vì hơi nước từ khơi thổi ập vào. 3.- Bước sang ngày thứ ba thì bão mới ngưng. Đảo thê thảm sau những ngày bị tàn phá. Những ghềnh đá như bị giũa vẹt, sóng đập những cột nước làm méo mó hình dạng chúng đi, song đám coòng vẫn cố bò ngoi lên giữa những vạt sóng dội té tát để rồi bị lột văng ra rơi tõm xuống nước.Tôi ra bãi, gặp lại cô gái hôm nao. Cô hỏi tôi : ông sợ chứ. Tôi gật đầu. Cô nói nữa : chúng tôi thì quen rồi, năm nào chẳng vậy. Tiếng thở dài nghe mông mênh. Tôi hỏi cô : sao chưa thấy chim én bay.Cô gái tủm tỉm : ông muốn nói loại én nào. Tôi ngây ngô nói về bầy én thành phố đã từng kể với cô. Lần này thì cô ngửa hẳn cổ ra mà cười, tiếng cười the thé như trêu chọc. Tôi cảm thấy hổ thẹn. Một lúc sau, tiếng cô thoang thoảng trổi lên.Tôi nghe đều đều như một lời ru ngủ : loại én mà ông nói không hề làm tổ ở các ghềnh đá ngoài khơi đâu. Có lẽ ông nhầm với loài chim yến mới có công dụng tốt. Người nào đó nói với ông về mùa chim én ngoài đảo có lẽ là nói về giống chim này. Dãi của nó mới làm ra tiền ra bạc. Còn thứ chim én ông nói chỉ là một loại trang trí cho thành phố vui tai thích mắt mà thôi.Tôi như vừa bị xối một gáo nước đá trong đêm giá buốt. Ngượng ngùng nói lí nhí : xin lỗi, tôi không rành. Cô gái lại châm chọc : tôi có bắt bẻ ông đâu mà lúc nào cũng xin lỗi. Tự dưng tôi thấy thích cô gái. Tôi đưa lời ướm : hôm nào cô có thể đưa tôi đi thăm chỗ chim yến làm tổ được chăng ?Cô gái có vẻ không tin tôi ngây ngô đến vậy : ông nói nghe dễ quá. Người khai thác phải đóng thuế rất lớn để độc quyền thu nguồn lợi. Họ xem nơi đó là lãnh địa riêng của họ, tuyệt không cho ai vào. Ta có đến cũng chỉ chạy vòng vòng bên ngoai mà nhìn thôi, còn muốn xem tận tổ phải dám trèo lên những giàn giáo, mà việc đó thì chắc là chẳng ai cho.Cô gái lại giảng giải thêm : từ đây đến đó tuy xa mà gần, tuy gần mà xa. Phải dùng tàu vượt ra biển và rành đường mới có thể tìm tới. Về khoản này, tôi mù tịt vì vừa không có dịp đến lần nào vả cũng không có tàu thì đưa ông đi thế nào được.Tôi cười khan để che lấp nỗi quê kệch đang dâng. Cô gái cũng góp cười theo và nói : ông vui thật. Song để khỏa lấp chỗ trống vắng chông chênh của hai người, cô đề nghị : hay là tôi đưa ông đi thăm ngôi chùa trên đảo, biết đâu ông cũng tìm thấy một điều gì khi xa thành phố.Tôi phấn khởi liền. Cô gái loong toong đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau, như một anh chàng đi xem mặt vợ. Cô gái men theo con đường mòn, len lách vào những bệ đá sứt mẻ đi lần ra mút tận cuối bãi. Hàng dừa đã được thay bằng rặng phi lao phát tiếng u u. Cát ở đây rất mịn, êm, nhuyễn, bước chân trần nghe lún sâu như đang bước trên lớp đường xốp.Chùa lộ ra ở khúc quanh cuối đảo, mái cong vút lên trời. Một cổng tam quan nho nhỏ không xứng với ngôi chùa nằm hiền hòa ngăn khoảng sân sau với thế tục bên ngoài. Cửa chính ở giữa bị đóng, chỉ chừa cánh cửa con con một bên còn mở ngỏ. Cô gái dẫn tôi vào. Hai bức tượng ông Thiện, ông Ác trấn dềnh dang trước chánh điện, cửa cũng chỉ mở hé cánh một bên.Tôi vào chùa, rũ sạch bụi trần gian trước khi nhập chánh điện. Một quả chuông treo nặng trĩu bên tả và một mặt trống treo đối diện bên hữu, cả hai im lìm vì thiện nam tín nữ không có. Cô gái đi song song bên tôi, theo đúng vị thế nam tả, nữ hữu của chùa. Không bảo nhau, cả hai cùng sì sụp lễ Phật, sau khi cô gái đã cáng đáng đốt hộ luôn nắm hương chia cho cả hai.Chánh điện rất cao, mùi hơi nước thoang thoảng, tôi nghĩ giá không có cơn bão thì chùa vẫn mát lạnh cả năm. Tôi lẩm nhẩm khấn dù chẳng biện bạch gẫy gọn lòng mộ đạo của mình. Cô gái thành tâm hơn và lễ lạy trông thật nghiêm trang, sùng bái.Sau đó, cô gái dẫn tôi ra liêu sau chào sư cụ. Vị đạo trưởng hiền từ với lớp áo nâu sồng mời nước. Cô gái nhanh nhảu giới thiệu tôi, nhưng không nhắc về lý do ra đảo của tôi. Thầy nghe xong cũng nói : đệ tử ra đảo nhằm ngày giông bão chắc là buồn. Tôi i a cho xong. Thầy mời ở lại thời ngọ, nhưng cả hai đều từ chối.Tôi lại đi sau cô gái trên đường về, im lặng lắng nghe nỗi u trầm vừa mang từ tự viện vào tâm. Cô gái cũng không nói gì, chắc đang xôn xao về một điều nào đó. Trên đường ra khỏi cổng tam quan, tôi mới chợt để ý mớ rêu xanh bám dọc theo gờ tường chùa, những vết thời gian như dấu chân chim đè nơi mắt tục.Cô gái đến lúc này mới thoát lời hỏi tôi : ông định bao giờ trở lại thành phố. Câu nói như biển mặn đổ xô vào, tôi lấp lửng : tôi còn chờ mùa chim én đã cô. Tôi được để buông thả lửng lơ vì cô gái biết cái mùa chim én đó chẳng bao giờ ghé đảo vì trùng dương bao la không để chim yến dám bay tạt về. Vả chăng những người canh đảo yến cũng không muốn bầy chim vẫy cánh quá xa để thất thoát dọc đường.Nhưng cô gái để mặc tôi trôi nổi theo dòng hi vọng. Có lẽ cô nghĩ hi vọng có khi làm con người lớn dậy thêm chăng. 4.- Tôi ở lại đảo một thời gian. Sau ngày bão, tàu lại lao ra khơi mỗi ngày và quay về khi nắng bắt đầu dịu lần và sắp tắt. Đảo rộn lên vì những chuyến đánh bắt xôn xao. Đêm túy lúy càn khôn bên mùi mực nướng và rổn rảng với những cuộc rượu say mèm. Những người đàn ông khật khưỡng, những trai tráng lè nhè và những bà, những cô lao chao vì cảnh chồng con hay cô độc. Con nít cứ bỏ học dài dài, trường vắng hoe vì chẳng thầy cô nào tình nguyện ra nơi đảo. Chỉ có khoản ngày càng đông dân là tích cực và sung túc nhất. Đầu ghềnh cuối bãi, các bà, các mẹ thay phiên làm mụ đỡ cho nhau. Những mảnh chai hơ lửa được xem là lưỡi dao y tế cắt cuống rún và đem chôn ngay hông nhà khi trẻ ra đời. Những lườm nguýt vẫn xảy ra khi ông này lẹo tẹo với bà kia khiến ghè tương lăn kềnh loảng xoảng. Có những chuyến đánh bắt dài ngày, tàu rủ nhau vào tận sâu xa để chuyển địa bàn thu gom của biển. Những đợi chờ chập choạng trong đêm, những rạo rực vùi chen giấc ngủ. Đảo vẫn dửng dưng, thủy triều vẫn duềnh lên hụp xuống hoặc vỗ uỳnh oàng vào ghềnh đá rung rinh. Nhưng mùa chim én trên đảo chờ hoài không thấy đến. Cô gái lâu lâu lại hỏi tôi : khi nào về. Tôi lấn cấn vì cánh chim én lẻ loi chập chờn trong giấc ngủ trằn trọc. Cánh chim én mường tượng như mang dáng hình người, trầm mặc, âm u, e dè và câm nín. Ngày tôi lên tàu chỉ còn đem theo riêng một cánh chim én nhỏ nhoi không chịu rời đảo, tôi đã mời cô gái, nhưng cô không nhận lời. Cô bảo : ông cứ về thành phố, bữa nào lại trở ra đảo, biết đâu ngày đó mùa chim én sẽ về rộ với ông ?Có thật vậy hay không ? Đỗ Thành Mục lục Mùa chim én trên đảo Mùa chim én trên đảo Đỗ ThànhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 18 tháng 2 năm 2009
vanhoc
"Bongo Bong" và "Je Ne T'Aime Plus" là hai bài hát nhạc pop, nguyên gốc được sáng tác và biểu diễn bởi nam ca sĩ người Pháp Manu Chao. Năm 2006, hai bài này đã được kết hợp vào một bài hát và hát lại bởi ca sĩ người Anh Robbie Williams. Bài hát được sản xuất bởi Mark Ronson, phát hành làm đĩa đơn thứ ba từ album hát đơn thứ 10 của Williams, Rudebox, phát hành ở México và các quốc gia Tây Âu vào đầu năm 2007. Bài hát có sự góp giọng của nữ nghệ sĩ người Anh Lily Allen. Không có video âm nhạc nào đã được thực hiện cho bài hát này. Danh sách bài hát và định dạng Một CD quảng cáo đã được gửi đến EMI Music Mexico và ca khúc cũng đã cho phép tải về từ đầu tháng 2. Tuy nhiên ngoài Mexico và các nước châu Âu, ca khúc này đều không được phát hành chính thức trên bất kì quốc gia nào khác. Tại thời điểm phát hành, đây là ca khúc được tải về nhiều thứ hai từ album Rudebox trên iTunes, chỉ sau bài hát "Rudebox". CD México Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Radio Edit) Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Fedde Le Grand Remix) CD châu Âu Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Radio Edit) Lovelight (Dark Horse Mix) CD phối lại Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Fedde Le Grand Remix) Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Noisia Vocal Remix) Bongo Bong and Je Ne T'Aime Plus (Noisia Trashdance Dub) Danh sách thực hiện Hát chính: Robbie Williams Hát phụ: Lily Allen Ghita thường và ghita điện: Tiggers Moog synthesiser: Vaughan Merrick Trumpet: Dave Guy Saxophone tenor: Neil Sugarman Sexophone baritone: Ian Hendrickson-Smith Fender Rhodes, Juno Bass: Raymond Angry Juno 106, ghita điện, ghita bass, phách: Mark Ronson Hòa âm: Serban Ghenea Xếp hạng Chú thích Bài hát năm 2006 Đĩa đơn năm 2007 Bài hát của Lily Allen Bài hát của Robbie Williams Bài hát sản xuất bởi Mark Ronson
wiki
Ivan Mikhailovich Sidorenko (; 1919-1987) là một trong những xạ thủ bắn tỉa nổi tiếng của Liên Xô. Trong chiến tranh, ông đã bắn hạ khoảng 500 quân đối phương (trong đó có 91 sĩ quan), 1 xe tăng và 3 xe kéo (bằng cách bắn vào thùng nhiên liệu làm xe bốc cháy). Cuộc đời và sự nghiệp Sidorenko sinh ngày 12 tháng 9 năm 1919 trong một gia đình trung lưu tại một nông trang nhỏ tại thị trấn Chatsovo (ngày nay là thành phố Glinkovsky, thủ phủ của bang Smolensk, Nga). Sidorenko có năng khiếu vẽ bẩm sinh với những bức tranh rất đẹp, ông từng được họa sĩ lừng danh Nikolay Baskakov nhận làm học trò. Năm 18 tuổi, Sidorenko được tuyển thẳng vào Học viện mỹ thuật quốc gia Penza và nhanh chóng trở thành một trong những họa sĩ nổi tiếng. Tuy nhiên, năm 1939, khi bước qua năm thứ hai thì ông bỏ ngang con đường nghệ thuật. Bấy giờ, bóng ma chiến tranh bắt đầu hiện rõ khi Đức Quốc xã nhanh chóng khơi mào chiến tranh và mở rộng kiểm soát ở châu Âu. Sidorenko gia nhập Hồng quân và được gửi vào trường bộ binh Simferopol ở Krym. Tháng 6 năm 1941, quân Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Tháng 11 năm 1941, Sidorenko ra mặt trận, làm sĩ quan chỉ huy một đại đội súng cối trong biên chế của Tập đoàn quân xung kích 4 thuộc Phương diện quân Kalinin, tham chiến trong giai đoạn những nỗ lực của Hồng quân nhằm chặn đứng đà tiến mãnh liệt của quân Đức ngay trước cửa ngõ Moskva. Trong những cuộc phản công mùa đông năm 1942, đại đội súng cối của Trung úy Sidorenko đã chiến đấu từ đầu cầu Ostashkovsky đến thành phố Velizh, vùng Smolensk. Chính trong những trận chiến này, Sidorenko đã nhận ra khả năng thiện xạ của chính mình. Kết quả của những chuyến đi săn kẻ thù của ông rất thành công, đến mức các chỉ huy của Sidorenko đã ra lệnh ông huấn luyện lại cho những người khác. Sidorenko đã nhanh chóng tuyển lựa cho đội của mình những binh sĩ đạt những yêu cầu cao về thị lực, kiến ​​thức về vũ khí, cũng như khả năng chiến đấu trong môi trường khắc nghiệt nhất. Phương pháp của Sidorenko rất bài bản, khởi đầu với những bài học lý thuyết, sau đó là những chuyến đi săn trên thực địa. Người Đức sớm phải thực hiện các biện pháp đề phòng cho những tay súng bắn tỉa Đức trước mối nguy hiểm từ Sidorenko và đội của ông. Sidorenko sau đó rút về làm công tác huấn luyện trên cương vị trợ lý chỉ huy với cấp bậc Đại úy tại Trung đoàn súng trường 1122 (Sư đoàn Bộ binh 334, Tập đoàn quân Xung kích 4, Phương diện quân Pribaltic 1). Mặc dù ông chủ yếu làm công tác huấn luyện, thỉnh thoảng ông vẫn thực hiện các chuyến đi săn cùng với một trong những học viên của mình. Trong một chuyến đi săn như thế, ông đã phá hủy một chiếc xe tăng và ba xe thiết giáp bằng cách sử dụng đạn gây cháy. Trong các trận chiến với quân Đức, Sidorenko từng 3 lần bị thương nặng. Tuy nhiên, mỗi lần hồi phục, ông lại trở lại nhiệm vụ. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, Sidorenko bị trúng đạn pháo của quân Đức khi chiến đấu trên mặt trận Estonia. Ông bị thương nghiêm trọng, phải nhập viện cho đến khi kết thúc chiến tranh. Trong thời gian nằm điều trị tại bệnh viện dã chiến ở Estonia, Sidorenko đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô vào ngày 4 tháng 6 năm 1944 và được thăng cấp Thiếu tá. Cấp trên cũng cấm Sidorenko tham gia chiến đấu lần nữa, vì ông được nhìn nhận như là một xạ thủ và huấn luyện viên bắn tỉa có giá trị. Tính đến năm 1944, Sidorenko được tính là đã tiêu diệt hơn 500 quân Đức chỉ bằng khẩu súng trường Mosin gắn kính ngắm. Ông được xem là xạ thủ bắn tỉa thành công nhất của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Ông cũng đào tạo cho Hồng quân hơn 250 tay súng bắn tỉa. Hầu hết trong số họ về sau đã được trao tặng danh hiệu và huân chương. Sau khi chiến tranh kết thúc, Sidorenko giải ngũ và về định cư tại thành phố Korkino, Chelyabinsk Oblast, thuộc dãy núi Ural, nơi ông làm quản đốc của một mỏ than. Năm 1974, ông chuyển đến sống ở thành phố Kizlyar, Cộng hòa Dagestan, Kavkaz. Ivan Mikhailovich Sidorenko qua đời vào ngày 19 tháng 2 năm 1994 tại Kizlyar, Dagestan. Giải thưởng Anh hùng Liên Xô Huân chương Lenin; Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng 1; Huân chương Sao đỏ; Chú thích Tham khảo Sidorenko, Ivan Mikhailovich Xạ thủ bắn tỉa Anh hùng Liên Xô Sĩ quan Liên Xô Huân chương Lenin Huân chương Chiến tranh vệ quốc Huân chương Sao đỏ
wiki
Constantin Wilhelm Lambert Gloger (17 tháng 9 năm 1803 gần Grottkau, Silesia, Vương quốc Phổ – 30 tháng 12 năm 1863, Berlin) là một nhà động vật học và nhà điểu học người Đức. Gloger là người đầu tiên nhận ra những cấu trúc khác biệt giữa én và yến, và cũng là người đầu tiên tạo ra hộp dơi (một dạng nơi ở nhân tạo cho dơi). Ông cũng là người đề xuất một quy tắc trong sinh thái học mà bây giờ được gọi là quy tắc Gloger, phát biểu rằng sắc tố đen gia tăng trong các chủng loại động vật (chim là ví dụ mà nhờ đó ông phát hiện quy tắc này) sống trong môi trường ấm và ẩm. Ông đưa ra giả thuyết này trong cuốn Das Abändern der Vögel durch Einfluss des Klimas (1833) của mình. Cách giải thích chính xác của quy tắc này vẫn chưa rõ, nhưng ở loài chim, người ta cho rằng sắc tố làm lông chim tối hơn cung cấp sự bảo vệ chống lại vi khuẩn làm rụng lông tốt hơn, trong điều kiện hoạt động mạnh của các vi khuẩn này ở các vùng ấm và ẩm. Một tác phẩm nổi tiếng khác của ông là Gemeinnütziges Hand-und Hilfsbuch der Naturgeschichte (1841). Chú thích Liên kết ngoài Das Abändern der Vögel durch Einfluss des Klimas (1833) Interspecific variation in primate coat colour supports Gloger’s rule, Kamilar and Bradley, J Biogeography, 2011 Sinh năm 1803 Mất năm 1863 Nhà sinh học Đức
wiki
Lý thuyết quyền biến (tiếng Anh: Contingency theory) là một lý thuyết về tổ chức tuyên bố rằng không có cách tốt nhất để tổ chức, lãnh đạo một công ty hoặc đưa ra quyết định. Thay vào đó, quá trình hành động tối ưu tùy thuộc vào tình hình bên trong và bên ngoài công ty. Một nhà lãnh đạo đội ngũ áp dụng hiệu quả phong cách lãnh đạo của riêng họ vào các tình huống phù hợp. Lịch sử Cách tiếp cận “các tình huống ngẫu nhiên” trong lãnh đạo bị ảnh hưởng bởi hai chương trình nghiên cứu trước đó với nỗ lực xác định hành vi lãnh đạo hiệu quả. Trong những năm 1950, các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Ohio đã đưa ra các bảng câu hỏi rộng rãi đo lường một loạt các hành vi lãnh đạo có thể có trong các bối cảnh tổ chức khác nhau. Mặc dù ban đầu, nhiều nhóm hành vi lãnh đạo được xác định dựa trên các bảng câu hỏi này, hai loại nhóm hành vi được chứng minh là đặc biệt điển hình của các nhà lãnh đạo hiệu quả: Nhóm hành vi quan tâm đến con người, bao gồm tạo thiện cảm tốt, mối quan hệ giữa các cá nhân và thể hiện sự ủng hộ, quan tâm đối với cấp dưới. Nhóm hành vi quan tâm đến công việc, như phân công vai trò, lập kế hoạch nhằm đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục tiêu. Đồng thời, các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Khảo sát của Đại học Michigan đã tiến hành phỏng vấn và phân tích bảng câu hỏi trong các tổ chức và thu thập các phương pháp đo lường năng suất của nhóm để đánh giá các hành vi lãnh đạo hiệu quả. Các nhóm hành vi lãnh đạo xuất hiện ở đại học Chicago như việc quan tâm đến công việc và quan tâm đến con người cũng tương tự như các nghiên cứu của đại học bang Ohio. Tuy nhiên, các nhà điều tra của đại học Michigan đã gọi những hành vi lãnh đạo này là hành vi hướng đến mối quan hệ và hành vi hướng đến nhiệm vụ. Loại nghiên cứu này sau đó đã được Robert Blake và Jane Mouton mở rộng vào năm 1964 để đề xuất rằng các nhà lãnh đạo hiệu quả đạt điểm cao trong cả hai hành vi này. Họ cho rằng các lý thuyết trước đây như lý thuyết quản lý quan liêu của Weber và lý thuyết quản lý theo khoa học của Taylor đã thất bại vì không chú ý đến việc phong cách quản lý và cấu trúc tổ chức bị ảnh hưởng bởi các khía cạnh khác nhau của môi trường: các tình huống ngẫu nhiên. Không thể có "một cách tốt nhất" cho lãnh đạo hoặc tổ chức. Trong lịch sử, Lý thuyết quyền biến đã tìm cách hình thành những khái quát rộng về các cấu trúc chính thức thường được kết hợp hoặc phù hợp nhất với việc sử dụng các công nghệ khác nhau. Viễn cảnh bắt nguồn từ công trình của Joan Woodward (1958), người lập luận rằng các công nghệ xác định một cách trực tiếp sự khác biệt trong các thuộc tính tổ chức như khoảng kiểm soát, tập trung quyền lực và chính thức hóa các quy tắc và thủ tục. Cách tiếp cận các tình huống ngẫu nhiên Gareth Morgan trong cuốn sách Images of Organization (tạm dịch: Hình ảnh của tổ chức) đã tóm tắt những ý tưởng chính ẩn dưới những tình huống ngẫu nhiên: Các tổ chức là các hệ thống mở cần quản lý cẩn thận để đáp ứng và cân bằng các nhu cầu nội bộ cũng như thích ứng với hoàn cảnh môi trường Không có cách tổ chức nào là tốt nhất. Hình thức tổ chức phù hợp phụ thuộc vào loại công việc hoặc môi trường mà tổ chức đang giải quyết Quản lý phải được quan tâm trên hết, với việc đạt được sự liên kết và hòa hợp Các loại môi trường khác nhau cần các loại tổ chức khác nhau Mô hình “ứng phó các tình huống ngẫu nhiên” của Fred Fiedler tập trung vào mô hình lãnh đạo theo tình huống trong các tổ chức. Mô hình này bao hàm mối quan hệ giữa phong cách lãnh đạo và mức độ thuận lợi của tình huống. Fielder đã phát triển một thước đo để đo lường phong cách của một nhà lãnh đạo được gọi là Least Preferred Co-worker (tạm dịch: Thước đo đồng nghiệp kém được ưa thích nhất, viết tắt: LPC Scale). Bài kiểm tra bao gồm 16-22 mục để họ đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 8 khi họ nghĩ về một người đồng nghiệp mà họ gặp khó khăn nhất khi làm việc. Điểm cao cho thấy người thực hiện bài kiểm tra có lối làm việc quan tâm đến các mối quan hệ và điểm thấp cho thấy người thực hiện bài kiểm tra có lối làm việc quan tâm đến công việc. Mức độ thuận lợi theo tình huống được Fiedler mô tả theo ba khía cạnh xuất phát theo kinh nghiệm: Quan hệ giữa người lãnh đạo và người dưới quyền. Quan hệ này được xác định bởi những đặc tính như sự thân thiện, sự hài lòng, bầu không khí làm việc của nhóm. Cấu trúc nhiệm vụ được xác định bằng bốn biến số của cấu trúc nhiệm vụ: Mục tiêu có rõ ràng hay không? Những cách thức để đạt đến mục tiêu rõ ràng và cụ thể hay không? Quyết định có rõ ràng và chính xác hay không? Quyết định có cụ thể và có nét riêng hay không? Quyền lực chính thức của người lãnh đạo được xác định bằng khả năng của người lãnh đạo trong việc đưa ra phần thưởng, khả năng giao nhiệm vụ cho người dưới quyền, khả năng kiểm soát thông tin. Các tình huống đều có lợi cho người lãnh đạo nếu cả ba khía cạnh này đều đạt mức cao. William Richard Scott mô tả Lý thuyết quyền biến theo cách sau: "Cách tổ chức tốt nhất phụ thuộc vào bản chất của môi trường liên quan tới tổ chức". Các bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác bao gồm Paul R. Lawrence, Jay Lorsch và James D. Thompson đã bổ sung cho tuyên bố này. Họ quan tâm nhiều hơn đến tác động của các tình huống ngẫu nhiên đối với cơ cấu tổ chức. Lý thuyết quyền biến theo cấu trúc là mô hình chi phối các lý thuyết cấu trúc tổ chức trong những năm 1970. Johannes M Pennings, người đã kiểm tra sự tương tác giữa sự bất ổn của môi trường, cấu trúc tổ chức và các khía cạnh khác nhau của hiệu suất, đã thực hiện một thử nghiệm thực nghiệm quan trọng. Pennings đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm trên mẫu của các văn phòng môi giới bán lẻ, trong đó các khía cạnh của môi trường thị trường như sự cạnh tranh, những thay đổi và các nguồn lực với các thỏa thuận về tổ chức như các khuôn mẫu ra quyết định, phân bổ quyền lực được đặt cạnh nhau để xem xét về mặt hiệu suất. Trong khi các thuộc tính cấu trúc của các văn phòng ảnh hưởng mạnh đến hiệu suất, bằng chứng cho sự ảnh hưởng của "các tình huống ngẫu nhiên" lại ít rõ ràng hơn. Có thể kết luận rằng không có cách nào là tốt nhất để quản lý hoặc thực hiện mọi thứ. Tình huống khác nhau đòi hỏi cách tiếp cận khác nhau để xử lý, quản lý và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan. Quản lý và tổ chức là một “Hệ thống mở”, trong đó luôn luôn phải đối mặt với những bất thường hoặc thách thức, đòi hỏi phải có giải pháp phù hợp theo từng tình huống để khắc phục hoặc giải quyết một vấn đề hoặc các sự cố liên quan. Các yếu tố thuộc về tình huống hoặc mang tính ngẫu nhiên khác là “sự thay đổi nhu cầu của khách hàng đối với hàng hóa và dịch vụ, thay đổi chính sách hoặc luật pháp của chính phủ, thay đổi môi trường hoặc biến đổi khí hậu, v.v.” Tham khảo Burns, T., Stalker, G. M., (1961): The Management of Innovation. London: Tavistock. Chandler, Jr., A.D., (1962): Strategy and structure: Chapters in the history of the American industrial enterprise. Cambridge, Massachusetts: MIT Press Crozier, M., Friedberg, E., (1980): Actors and Systems: The Politics of Collective Action. Chicago: University of Chicago Press Jeong, Chun Hai @Ibrahim, & Nor Fadzlina, Nawi (2012) Principles of Public Administration: Malaysian Perspectives, Kuala Lumpur: Pearson Publishers. Lawrence, P.R., Lorsch, J.W., (1967): Organization and Environment: Managing Differentiation and Integration. Boston, Massachusetts: Harvard University Luthans, F., (2011) Twelfth Edition, Organisational Behavior, Tata McGraw Hill Mintzberg, H., (1979): The Structuring of Organizations. Englewood Cliffs, New Jersey, USA: Prentice-Hall Morgan, G. (2007) Images of organization, Thousand Oaks: Sage Perrow, C., (1967) "A Framework for the Comparative Analysis of Organizations". In: American Sociological Review, 32 No 2, 194–208 Seyranian, Viviane. "Contingency Theories of Leadership", Encyclopedia of Group Processes & Intergroup Relations edited by John M. Levine and Michael A. Hogg. Thousand Oaks, California: SAGE, 2009. 152–56. SAGE Reference Online. Web. 30 Jan. 2012. Thompson, J. D., (1967): Organizations in Action. New York: McGraw-Hill Woodward, J., (1958): Management and Technology. London: Her Majesty's Stationery Office Woodward, J., (1965): Industrial organization: Theory and practice. New York: Oxford University Press Lý thuyết tổ chức Bài sinh viên đóng góp cho Wikipedia
wiki
Caius Licinius Macer (k. 107 TCN – 66 TCN) là chính trị gia, nhà hùng biện và nhà sử học La Mã, được xếp vào thế hệ nhà chép biên niên sử trẻ. Ông là người tích cực ủng hộ phái Đại chúng bình dân (Populare) và bảo vệ tư pháp. Sau khi giữ chức quan tổng đốc tỉnh, ông bị buộc tội đã cưỡng đoạt tiền bạc, chịu án lưu đày. Bất ngờ trước phán quyết này, ông chết trong một hoàn cảnh không rõ ràng. Ngoại trừ những mảnh rời rạc thì hiện không tác phẩm lịch sử nguyên vẹn nào của Macer còn tồn tại đến nay. Ông viết về lịch sử La Mã từ lúc khai sinh cho đến một giai đoạn nào đó chưa rõ. Trong số thế hệ nhà biên niên sử trẻ, Licinius Macer dường như nổi bật vì sự tin cậy và ưa khám phá về lịch sử, bất chấp những thiên vị về công trạng và thành tích chính gia tộc mình. Cicero không ưa và chỉ trích tác phẩm của Macer, nhưng là về phong cách chứ không phải về độ khả tín. Dionysius thành Halicarnassus và Titus Livius đã sử dụng tác phẩm của ông làm nguồn tư liệu viết về sự khởi đầu của La Mã. Cuộc đời Caius Licinius Macer sinh khoảng năm 107 TCN thuộc giới bình dân danh giá. Ông theo học Marcus Licinius Crassus và được cho là làm bạn với Lucius Cornelius Sisenna. Macer ủng hộ và tham gia phái Đại chúng bình dân. Năm 73 TCN, ông giữ chức quan án pleb. Sau đó, ông chống lại luật của Sulla yêu sách khôi phục quyền lực cho hội đồng pleb. Pompey đã bàn thảo với Macer về vấn đề này. Để làm suy yếu phái quý tộc (optimate), Licinius Macer kêu gọi dân thường không đăng lính. Năm 68 TCN, Macer giữ chức pháp quan (praetor) và nắm quyền điều hành một tỉnh (nhưng không rõ tỉnh nào). Năm 66 TCN, khi trở lại Roma, ông bị buộc tội lạm quyền cưỡng đoạt tài sản khi còn đương chức tổng đốc. Macer hy vọng nhờ Crassus che chở để được trắng ắn nhưng tòa án de repetundis do Marcus Tulius Cicero chủ trì đã kết án Macer có tội và phải chịu án lưu đày. Án này khiến Macer kinh ngạc và tử vong ngay khi nghe phán quyết. Cái chết này là không rõ ràng, tư liệu cổ thì đưa ra hai cách lý giải. Plutarchus chép rằng ông đột ngột qua đời do đau tim, còn Valerius Maximus cho rằng đó là hành vi tự sát. Con trai ông là Caius Licinius Macer Calvus (Macer Trẻ). Ngoài hoạt động chính trị, Macer Già còn là một luật sư bào chữa tại tòa án. Theo Cicero trong Brutus, Macer rất tích cực trong việc này, cẩn thận thu thập chứng cứ và sử dụng có phương pháp. Tuy vậy, xuất phát từ khác biệt quan điểm chính trị, Cicero phê phán tính cách và lối sống của Macer. Hầu như không còn tư liệu gì xác chứng tài hùng biện của Macer. Một số phỏng đoán về hình thức trên cơ sở những ghi chép của Sallust. Chỉ một mẩu câu được tìm thấy còn lại trong bản Pro Tuscis mà ông đứng ra bảo vệ cho các thành Etruria bị thiệt hại do Sulla thuộc địa hóa. Tác phẩm Licinius Macer được coi là một trong những nhà biên niên sử lớp trẻ, đa phần tác phẩm của lớp này đều không còn nguyên vẹn đến ngày nay. Chỉ có 25 mảnh còn lại đã được tập hợp xuất bản trong Historicorum Romanorum reliquiae (Dấu tích lịch sử La Mã) của Hermann Peter. Hiện chưa rõ tiêu đề tác phẩm này, Priscian có đề cập đến Annales, Macrobius nhắc đến Historiae, còn Nonius dùng cả hai tên này khi nói về tác phẩm của Macer. Tác phẩm chép lịch sử La Mã theo phong cách biên niên, bắt đầu với truyền thuyết sói cái nhưng không rõ thời điểm kết thúc. Có thể tác phẩm kết thúc ở thời Jugurtha hoặc do qua đời đột ngột nên Macer không kịp hoàn bổ sung các diễn biến mới nhất để hoàn thành tác phẩm. Toàn văn tác phẩm gồm ít nhất 14 hoặc 16 cuốn, có thể lên đến 21 cuốn. Do số mảnh rời của tác phẩm chỉ còn lại ít mà đều bắt nguồn từ hai tác giả trên nên không thể nào đánh giá nội dung hay phục chế lại tài liệu. Có vẻ như Macer đã dành nhiều nội dung cho lịch sử vua chúa La Mã. Với các mảnh thông tin còn lại cho phép xác định Romulus và Remus và lịch triều đại đầu tiên. Ông cũng cố gắng xác định thời điểm Tarquin Già đến Roma. Các mảnh nội dung còn lại chép đến thời kỳ cộng hòa, trong đó có trận chiến với người Latinh tại Hồ Regillus (496 TCN), thất bại tại Kremera ở Etruria (477 TCN), nguồn gốc quan chấp chính và chế độ độc tài. Dấu vết trong Historiae dành để nói về chiến tranh với Pyrros, có thể do Macrobius chỉ coi phần sơ sử La Mã như là đoạn giới thiệu. Rất khó xác định nguồn tư liệu Macer tham khảo để viết, có thể là từ tác phẩm của Gnaeus Gellius. Không thể nói thêm về phong cách và giá trị văn chương ngoài ý kiến Cicero đánh giá thấp Macer. Ông phê phán lối trần thuật, sự phi lý trong các diễn ngôn của nhân vật lịch sử và việc phóng đại quá mức. Về sau, tác phẩm của Licinius Macer đã được vài người khác sử dụng ở một mức độ nào đó như Quintus Aelius Tubero, Sallust, Dionysius thành Halicarnassus và Titus Livius. Dionysius và Livius nhắc đến tác phẩm ấy trong các đoạn liên quan đến lịch sử La Mã cổ đại. Livius coi đây là nguồn tư liệu cơ bản khi mô tả sự khai sinh của thành phố truyền thuyết Sói Cái. Cả vào giai đoạn cuối của đế quốc La Mã, khoảng thế kỷ 4, tác giả của Orgio gentis Romanae (Nguồn gốc người La Mã) cũng đã dùng lại tác phẩm của Macer trong phần Corpus Aurelianum. Về độ khả tín của Macer hiện có hai nhận định. Các nhà nghiên cứu theo trường phái Theodor Mommsen chỉ trích Macer coi là kẻ giả mạo sử liệu. Hầu như lớp các nhà biên niên sử trẻ đều bị mang tiếng như vậy. Tuy nhiên, theo thời gian, đã xuất hiện những đánh giá tích cực hơn về tác phẩm của Macer, trong số đó có Friedrich Münzer, Martin Schanz và Carl Hosius Những ý kiến này đều bắt nguồn từ ghi chép cổ, vì ngay cả Cicero dù không ưa nhưng cũng không hề hạ thấp giá trị Macer, còn Livius thì lại đánh giá cao. Livius cũng cung cấp thêm thông tin để nhận định rằng Macer tỉ mỉ hơn những người khác, luôn sẵn lòng kiểm tra lại các nguồn tư liệu cổ thời ấy. Theo Livius, Macer đã tìm kiếm tư liệu cũ, như libri lintei từ đền thờ Juno được chép trên cuộn vải lanh có chứa thư từ các quan chức mà không nơi nào khác còn lưu giữ được. Ngoài ra, ông còn khám phá và thuật lại hiệp ước liên minh giữa La Mã và Ardea từ năm 444 TCN. Độ sắc sảo của Macer thể hiện ở chỗ săn tìm nguồn gốc chế độ độc tài theo truyền thống Latinh, đảm bảo độ chính xác về niên đại (như cố gắng xác định ngày diễn ra các sự kiện). Ông cũng không phóng đại số lượng kẻ thù chết trận giống như Valerius Antias đã làm. Tuy nhiên, Macer không tránh khỏi những sai sót điển hình của các sử gia đương thời. Livius chỉ rõ ông đã đề cao qua mức dòng họ mình, nhấn mạnh đến công trạng những vị trong gia tộc, đặc biệt như Caius Licinius Stolon thế kỷ 4 TCN, đôi lúc quá đà mà trở thành ca tụng quá thực tế. Trong số các nhà biên niên sử trẻ, ông là người duy nhất tích cực tham gia chính trị và chính điều này ảnh hưởng đến tác phẩm. Ông viết về những tranh chấp xung đột giữa giới quý tộc và giới bình dân thời trước trên quan điểm như thể chính bản thân cũng can dự vào. Là người có chỗ đứng trong xã hội có thể ông đang muốn thay thế lịch sử do phe quý tộc tạo ra. Điều này có thể thấy được qua các phân đoạn còn lại có sự nhấn mạnh vào công lý và luật lệ của Romulus, điều này trái ngược với Titus Tatius, hoặc thể hiện mong muốn thay đổi quan điểm về quan thị chính bình dân của Gnaeus Flavius từ năm 304 TCN. Nếu viết về thời Sulla, chắc chắn ông sẽ lên án các hành động thời đó. Quan điểm Macer gần gũi nhưng cấp tiến hơn Gaius Fannius, nên có sự bóp méo lịch sử ở mức độ nhất định. Ghi chú Chú thích Thư mục Mất năm 66 TCN Người La Mã thế kỷ 1 TCN Sử gia cổ đại Nhà văn tiếng Latinh Người Cộng hòa La Mã
wiki
Đại học Claremont McKenna (tiếng anh: Claremont McKenna College, viết tắt là CMC) là một trường Đại học Giáo dục Khai phóng tư nhân phi lợi nhuận nằm tại Claremont, Los Angeles, California. Trường đặt trọng tâm về giảng dạy kinh tế, tài chính, quan hệ quốc tế, chính phủ và các vấn đề công chúng. Trường là thành viên của Liên minh Đại học Claremont cùng với Đại học Pomona, Viện Scripps, Đại học Harvey Mudd và Đại học Pitzer. Vào năm 2020, CMC là trường có tỉ lệ trúng tuyển thấp nhất trong số các trường Đại học theo mô hình giáo dục khai phóng và thấp thứ 10 tổng thể trong số tất cả các trường tại Mỹ trong kỳ tuyển sinh. Tuy nhiên, đến kỳ tuyển sinh 2022, CMC đã tụt xuống vị trí số 30 tại Mỹ. Được thành lập vào năm 1946, trường tập trung chủ yếu vào giáo dục đại học. Tuy nhiên vào năm 2007, trường đã thành lập Trường Kinh tế và Tài chính Robert Day, nơi cung cấp các chương trình thạc sĩ tài chính và quản trị. Khác với các trường Đại học giáo dục khai phóng thường thiên về cánh tả, CMC vẫn có các giảng viên với định hướng chính trị cánh hữu. , trường có 1.344 sinh viên đại học và sau đại học. Học thuật Báo cáo mới nhất năm 2020 của US News & World Report đánh giá Claremont McKenna là trường Đại học Giáo dục Khai phóng tốt thứ 7 ở Mỹ. Năm 2019, Forbes xếp Claremont McKenna là trường Đại học Giáo dục Khai phóng tốt thứ 8. Tạp chí Phố Wall và Thời đại Giáo dục vào năm 2019 đã xếp Claremont Mckenna là trường Đại học Giáo dục Khai phóng tốt thứ 6 toàn quốc. Bảng xếp hạng 2020 của Parchment xếp CMC đứng thứ 6 trong số tất cả các Đại học trên toàn Hoa Kỳ và thứ 2 trong số các Đại học Khai phóng mà sinh viên muốn vào học nhất. Claremont McKenna là trường đại học khó vào thứ 10 trên toàn nước Mỹ theo CollegeSimply. CMC cũng được US News & World Report xếp loại là "cạnh tranh cao nhất" trong việc tuyển sinh. Đối với lớp năm 2022, CMC chỉ chấp nhận 9.3% trong số 6272 ứng viên nộp đơn vào trường. Trường hoạt động theo hệ thống học kỳ và có 12 khoa học thuật, 11 viện nghiên cứu và 33 chuyên ngành, phổ biến nhất là kinh tế, chính trị, tâm lý học, kế toán và quan hệ quốc tế. Với tư cách là thành viên của Liên minh Đại học Claremont, sinh viên tại CMC cũng có thể chọn học bất kỳ chuyên ngành nào không được cung cấp tại CMC tại một trong những trường đại học khác có chuyên ngành như vậy, chẳng hạn như học ngành khoa học máy tính tại Đại học Harvey Mudd và Đại học Pomona. Trường cũng cho phép sinh viên trong chương trình Kinh tế-Kỹ thuật được lấy 2 văn bằngː Cử nhân Kinh tế tại CMC và Cử nhân ngành Kỹ thuật (Khoa học máy tính, Quản lý thông tin, Vận trù học, Kỹ thuật cơ khí) tại những trường có liên kết đào tạo như Đại học Columbia, Đại học Cornell, Đại học Brown, Đại học Nam California. Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên tại CMC là 8:1 với quy mô lớp học trung bình là 18. Trên 85% số lớp học có ít hơn 19 sinh viên. Tỷ lệ tốt nghiệp sau sáu năm là 93,3%, và tỷ lệ duy trì sinh viên là 92,7%. Trường được xếp hạng thứ 30 trên toàn quốc về mức lương sinh viên tốt nghiệp theo Payscale. Nhiều sinh viên CMC chọn đi du học hoặc tham gia một trong hai chương trình thực tập tại Washington, D.C. và Thung lũng Silicon. Trong cả hai chương trình này, sinh viên hoàn thành chương trình thực tập toàn thời gian với bộ phận kinh doanh của các tập đoàn như Google, Apple, Tesla hoặc các văn phòng chính phủ như Nhà Trắng, và được giảng dạy vào ban đêm bởi các giáo sư của CMC đóng tại hai địa điểm trên. Cựu sinh viên và giảng viên nổi bật Các cựu sinh viên đáng chú ý bao gồm: Cựu Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Tập đoàn TCW, Robert Day (1965) Đối tác sáng lập của Quỹ Đầu tư KKR, George Roberts (1966) Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Abercrombie & Fitch Co., Michael S. Jeffries (1966) Đối tác sáng lập của Quỹ Đầu tư KKR, Henry Kravis (1967) Giám đốc điều hành của Accenture Julie Sweet Người sáng lập Perella Weinberg Partners và cựu Giám đốc thị trường châu Âu của Goldman Sachs, Peter Weinberg (1979) Giám đốc đầu tư của Cascade Investment và Quỹ Bill & Melinda Gates, Michael Larson (1980) Chủ tịch và Giám đốc điều hành của S&P Global, Douglas Peterson (1980) Tuyên úy thứ 60 của Hạ viện Hoa Kỳ, Patrick J. Conroy (1972) Thống đốc tiểu bang Montana, Steve Bullock (1988) Diễn viên Robin Williams (không tốt nghiệp) Nhà tư vấn chính trị Thomas B. Hofeller Nhà báo và nhà lý luận thuyết âm mưu Charles C. Johnson (2011) Chủ tịch Ủy ban House Rules David Dreier (1975) Giảng viên đáng chú ý bao gồm: Chuyên gia kinh tế cao cấp trong Hội đồng cố vấn kinh tế cho Tổng thống Hoa Kỳ, Eric Helland Người viết bài phát biểu cho Tổng thống Hoa Kỳ và diễn viên hài Mort Sahl Nhà khoa học chính trị Bùi Mẫn Hân Học giả cánh hữu Charles Kesler Học giả Ả Rập Bassam Frangieh Tác giả Jamaica Kincaid Nhà khoa học chính trị Ken Miller Chú thích __CHỈ_MỤC__ Trường học được công nhận bởi Western Association of Schools and Colleges Trường đại học và cao đẳng ở quận Los Angeles, California Trường đại học và cao đẳng tư thục ở California Trường đại học và cao đẳng ở Los Angeles Trường đại học và cao đẳng tại California Khởi đầu năm 1946 ở Hoa Kỳ
wiki